|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
(THE SEVEN VEILS OVER CONSCOIUSNESS)
Tác giả C.
JINARĀJADĀSA-
1969
|
|
NHÀ XUẤT BẢN
THÔNG THIÊN HOC
ADYAR, MADRAS 20,
INDIA
Ấn bản lần thứ
nhất 1952
Ấn bản lần thứ
nhì 1969
KÍNH
DÂNG VỊ CHƠN SƯ
đã linh
hứng cho H.P.B. khi viết bộ Nữ
Thần Isis lộ diện và lúc kết luận tác phẩm này trong đoạn thứ
nhì trước khi kết thúc có viết:
“Chỉ cần nhận thức đúng đắn về những sự vật nơi ngoại giới thì cuối cùng cũng phát hiện được rằng thế giới thực tại duy nhất chính là nội giới.”
Luận đề
này bao hàm nhiều phát biểu mà do chính bản chất của chúng không
thể chứng minh được. Tuy nhiên, tôi coi đây là sự đóng góp tân kỳ
nhất của mình cho kiến thức Thông Thiên Học. Tôi nhận thức được
rằng rất ít người hiểu được nó, nhưng tôi muốn ghi lại nó đúng như
tôi đã suy nghĩ và sinh hoạt hơn 40 năm vừa qua.
Trong vòng
bốn thập niên vừa qua, các quan niệm Thông Thiên Học của chúng ta đã
phát triển mạnh mẽ do người ta nhấn mạnh tới ý niệm về Chơn
thần. Trong Giáo Lư Bí Truyền
có nhiều chỗ đề cập tới Chơn thần. Nhưng việc Tiến sĩ Besant nhấn
mạnh tới Chơn thần trong tác phẩm
Nghiên cứu về Tâm thức ắt là
một trong những đóng góp giá trị nhất cho kiến thức Thông Thiên Học.
Vậy là trong khi nghiên cứu, càng ngày ta càng xét vấn đề tiến hóa
của một cá thể theo quan điểm của Chơn thần nhiều hơn là theo quan
điểm của Chơn ngã ở trong thể nguyên nhân.
Khi ta coi
cá thể là Chơn thần thì bước tất yếu kế tiếp phải công nhận Chơn
thần là một mảnh vụn của Tâm thức Thượng Đế và xét về Tâm thức của
Thượng Đế Thái dương hệ th́ chúng ta sinh hoạt một cách thần bí nơi
Ngài và là một bộ phận của Ngài. Điều này không có nghĩa là có
thể nơi chúng ta không có con đường trực tiếp dẫn tới Thượng Đế Vũ
trụ. Nhưng khi dẹp qua một bên cái điều bí nhiệm là Thượng Đế Vũ
trụ thì có một điều thật rõ rệt; đó là trong trình độ tiến hóa
như hiện nay chúng ta tăng trưởng nhờ vào các năng lượng của Thái
dương Thượng Đế. Ta có thể coi qui trình tiến hóa này là một vở
tuồng mà Thượng Đế tạo ra cho Chơn thần; chính nhờ hiểu được vở
tuồng mà Thượng Đế đã tạo ra như vậy cho nên ta mới bộc lộ được
Thiên tính bên trong ḿnh.
Làm thế
nào mà Thượng Đế lại tạo ra cho ta một vở tuồng trong đó ta phải
là diễn viên và khi trình diễn vở tuồng ấy, chúng ta phải tăng
trưởng để trở thành hình ảnh của chính Thượng Đế? Thượng Đế thực
hiện điều này bằng cách tạo ra các hình tướng. V́ thế cho nên vũ
trụ hoạt động mới bước vào biểu lộ mà đối với chúng ta đó là
Thái dương hệ. Thượng Đế tạo ra trong Thái dương hệ hết cõi này tới
cõi khác; chúng ta miêu tả hành động ấy là sự lưu xuất của Thượng
Đế Ngôi Ba và Thượng Đế Ngôi Hai.
Thế mà xét
theo một quan điểm nào đấy th́ việc Thượng Đế sáng tạo ra đủ mọi
cõi chính là sự bộc lộ tâm thức của Ngài, bởi vì xét về bản
thể thì Thượng Đế là Tâm thức Tối cao. Do đó khi Ngài tạo ra một
cõi, cho dù là cõi Adi (Tối Đại Biết Bàn) hoặc cõi thấp hơn thì
cõi ấy vẫn là một biểu hiện tâm thức của Ngài mặc dù
bị che khuất. Nếu ta nghiên
cứu điều được mô tả trong quyển
Hóa học Huyền bí liên
quan tới việc tạo ra các cõi th́ ta ắt nhận thấy rằng mỗi cõi
trường tồn vì tâm thức của Thượng Đế duy trì nó như vậy: “Các bọt
trong Hỗn nguyên khí” (Koilon) được tâm thức của Thượng Đế duy trì ở
cách định hình đó; nhưng nếu Thượng Đế thư giản không chú ý nữa th́
mọi cõi ắt không còn tồn tại. Nhân tiện tôi xin nói thêm – mặc dù
điều này rất quan trọng – là chính bọt trong Hỗn nguyên khí ấy
bản thân nó lại là biểu lộ tâm thức của Thượng Đế Vũ trụ. V́ vậy
bảy cõi trong phạm vi Thái dương hệ căn bản là những khía cạnh
hoặc sự bộc lộ tâm thức của Thái dương Thượng Đế.
Bắt đầu
bằng cõi cao nhất là cõi Adi, ta thấy đó là một khía cạnh tâm thức
của Thượng Đế; nhưng đây là tâm thức của Ngài
đã bị che khuất. Khi có một
bức màn phủ lên tâm thức của Ngài th́ ta gọi thành quả ấy là cõi
Adi (Tối Đại Niết Bàn). Tương tự như vậy, mỗi cõi ngụ ý là có
thêm một bức màn nữa phủ lên trên tâm thức Ngài; sao cho chẳng hạn
như khi ta xuống tới cõi trí tuệ th́ đã có bốn bức màn – Adi (Tối
Đại Niết Bàn), Anūpadaka
(Đại Niết Bàn), Nirvana (Niết Bàn), Buddhi (Bồ Đề) – đã được che
phủ lên tâm thức Ngài và cõi trí tuệ là bức màn thứ năm che phủ
thêm tâm thức ấy. Cõi Trung giới là bức màn thứ sáu, còn cõi Hồng
trần là bức màn thứ bảy.
Theo khoa
học ta đã biết rằng khi bàn tới vật chất thì xét cho cùng vật
chất ấy chỉ là một bức màn che phủ lên lực. Mọi hạt vật chất
thật ra là một chuỗi các lực; vật chất trên cương vị là thực
chất không hề tồn tại. Vật chất là một bức màn che phủ lên lực.
Cũng giống hệt như vậy, trong tương lai khoa học ắt đi tới mức phát
hiện ra rằng cái gọi là lực th́ chính nó làm một phương thức của
tâm thức, một bức màn che phủ lên tâm thức.
Chúng ta
nên bắt đầu Thông Thiên Học bằng sự thật này thì mới hiểu cho đúng
được vạn vật. Khi quan niệm về Thượng Đế và mối quan hệ của Ngài
với bảy cõi, ta phải bắt đầu bằng công lý tiên đề theo đó mọi
vật chất đều biểu hiện tâm thức của Ngài. Nhưng bởi vì có các
cấp độ vật chất từ cõi này sang cõi kia và mọi cõi đều là biến
thái của tâm thức; điều này nghĩa là một trong bảy bức màn che phủ
lên tâm thức nguyên thủy ấy. Vì vậy, khi bảy cõi đã được tạo ra
th́ xét theo một góc cạnh ta có bảy loại hình vật chất, còn xét
theo một góc cạnh khác th́ ta có bảy bức màn che phủ lên tâm thức
Ngài.
Thế mà
Thượng Đế lại biệt phái Chơn thần gia nhập hàng loạt bảy thế giới
này để đóng vai trò trong vở tuồng vĩ đại và vở tuồng cốt ở
việc có sự vận động của
các hình tướng do Thượng Đế tạo ra. Thật ra, một cõi chỉ là một
hình tư tưởng của Thượng Đế và mọi vật trong mỗi cõi tương tự như
vậy đều là hình tư tưởng của Thượng Đế. Cái ghế mà tôi đang ngồi
trên đó chỉ trường tồn bởi vì Thượng Đế duy trì nó dưới dạng một
hình tư tưởng.
Thế mà mọi
trải nghiệm ta thu hoạch được trong khi tiến hóa đều là những cuộc
phiêu lưu trong nội bộ các hình tư tưởng của Thượng Đế. Khi ta tiếp
xúc với cõi trần và thấy nó có vẻ có thực chất thì thật ra ta
đang tiếp xúc với hình tư tưởng của Thượng Đế; nhưng đó là hình tư
tưởng của Ngài bị bao bọc trong bảy lớp màn mà vật chất cõi trần
là bức màn cuối cùng. Thế thì, ta đóng tuồng trong cái thế giới
hoành tráng là tâm thức của Thượng Đế, nhưng tâm thức ấy bị che
khuất ở đủ mọi giai đoạn.
Xét theo
quan điểm mỗi cõi là một bức màn che lên tâm thức Thượng Đế thì
mỗi cõi cao hơn đều có ý nghĩa là có bớt đi một bức màn che. Nếu
khi ở trên cõi trần ta có bảy bức màn che phủ lên tâm thức Thượng
Đế thì khi ta bắt đầu hoạt động trong cõi trung giới ta tiếp xúc
với tâm thức Thượng Đế mà bớt đi một bức màn che. Điều tôi đặc
biệt muốn nhấn mạnh đó là: mỗi thế giới mà chúng ta vươn lên trong
tâm thức ngụ ý rằng ta thấy được bản chất của Thượng Đế và phương
thức hoạt động của Ngài nhưng bớt đi một bức màn che nữa.
Với tư
cách là các Chơn thần muốn trải nghiệm các kinh nghiệm, ta đã gia
nhập vào cái hệ thống thế giới các bức màn che ấy. Hành động của
ta trong vở tuồng diễn ra trên đủ mọi cõi mà ta có thể hoạt động
được. Trên cõi Chơn thần, ta hoạt động với cương vị là Chơn thần
theo một cách thức mà hiện nay ta không thể lĩnh hội trọn vẹn trong
óc phàm; tuy nhiên ta vẫn cứ hoạt động. Trên cõi Chơn thần ấy, ta
quan sát thấy các Chơn thần Huynh đệ của mình. Cùng một vở tuồng
đang ảnh hưởng tới họ cũng như với ta.
Nhưng có
nhiều cách để quan sát các Chơn thần Huynh đệ của mình. Chẳng hạn
như ta có thể quan sát chúng khi chúng hoạt động trong các thể
nguyên nhân trên cõi tri tuệ; nhưng muốn được như vậy, bản thân ta
phải giáng xuống cõi trí tuệ. Khi ta đã giáng xuống cõi trí tuệ
rồi th́ ta đã tham dự vào những bức màn che phủ lên tâm thức Thượng
Đế. Khi xuống tới cõi trí tuệ thì chính tâm thức ta cũng bị che
phủ và chính thông qua những bức màn che này mà ta quan sát các
Chơn thần Huynh đệ mình vốn cũng đang bị che khuất tương tự. Khi ta
giáng xuống cõi trung giới thì chủ thể quan sát và khách thể
được quan sát đều có thêm một bức màn che nữa phủ lên bản chất
chân thực của mình; và trên cõi trần thì mỗi chúng ta dều có bảy
bức màn che. Ta nhìn nhau “qua một lớp kính tối thui” (theo cách
diễn tả của Thánh Phao lô).
Thế thì
mỗi hiện thể mà chúng ta khoác lấy trên cương vị Chơn thần đều ngụ
ý mất đi một chiều đo (tạm dùng một thuật ngữ toán học). Cũng
giống như một hình khối vuông có ba chiều đo, nếu ta bắt buộc nó
chỉ hoạt động trên một mặt phẳng có hai chiều đo thôi thì có thể
nói nó đă mất đi phẩm chất ba chiều đo của ḿnh để chỉ còn lại là
một hình vuông; cũng tương tự như vậy, Chơn ngã trong thể nguyên nhân
khi giáng xuống cõi trung giới đã mất đi một âm giai hoặc bát độ
biểu lộ tư tưởng và xúc cảm của mình. Và khi nó giáng xuống cõi
trần để nhập thể th́ nó lại còn mất đi một bát độ nữa. Vậy là
hiện thể của cõi trần thuộc Chơn thần tương đối nhỏ so với sự
hoành tráng của nó khi còn nguyên ở trên các cõi cao.
Khi bước
vào nhập thể, ta bị che phủ bảy lần, điều này có nghĩa là ta
phải quan sát hình tư tưởng của Thượng Đế
- vốn là cõi trần – thông qua bảy bức màn che này. Việc ta
khám phá ra Thực tại, được giải thoát, được tiến hóa (ta muốn
gọi đó là ǵ cũng được) cốt ở việc xuyên thấu qua bảy bức màn che
này để nhìn thấy Thực tại như thể không có các bức màn che.
Sự bộc lộ
này chủ yếu diễn ra đối với chúng ta từ dưới đi lên. Tôi nói “chủ
yếu”, bởi vì ắt cũng phải có một sự bộc lộ song hành của Chơn
thần từ trên đi xuống; nhưng ta biết rất ít về điều đó. Thế là
sự tiến hóa của ta chủ yếu cốt ở việc giáng xuống nhập vào vật
chất rồi qua việc tiếp xúc với nó từ từ gỡ bỏ hết bức màn che
này tới bức màn che khác.
Bây giờ ta
hãy xem xét công trình mà ta đang thực hiện theo quan điểm này. Ta
đang ở đây trên cõi trần và đối với ta ở đây, mọi vật – con người,
thú vật, cây cối, các rặng núi và biển cả, mọi sự vật này đều
dường như có thực chất nghĩa là cấu tạo bằng vật chất. Nhưng thật
ra, đó là tâm thức của Thượng Đế bị các bức màn che phủ. Ta nhìn
thấy một người trên cõi trần khi ta nhìn vào mặt y hoặc lắng nghe
tiếng nói của y, đó là ta nhìn thấy một Đấng Thiêng Liêng vốn là
biệt ngã của Linh hồn vượt ngoài tầm các bức màn che. Khi ta nhìn
thấy một người cho dù đó là một kẻ hoàn toàn xa lạ hoặc một
người bạn nối khố th́ ta đang nhìn vào một điều bí nhiệm. Nơi
người mà ta gọi là bạn, ta có thể nhìn xuyên thấu qua một vài bức
màn che phủ lên y và nhìn thấy một điều gì đó trong bản chất của
y trên cương vị là Chơn thần. Nơi một người mà ta coi là kẻ xa lạ
th́ ta chưa phát hiện được cách thức để xuyên thủng qua những bức
màn che y lên tới tận Chơn thần. Vậy là trên cõi trần lúc nào ta
cũng dính dáng tới những sự vật cho dù đó là cá thể hay vật
thể vốn đều bị che phủ bảy lần.
Ban đêm, khi
chuyển sang cõi trung giới th́ tâm thức ta hoạt động trong cõi giới
này mà một trong bảy bức màn che đã bị dẹp đi. Vì vậy, tâm thức
trên cõi trung giới đưa ta tới gần thực tại hơn một trình độ; ta
nhìn vào bất cứ sự vật nào cho dù đó là nguyên tử nhỏ nhất hoặc
là các sinh linh huy hoàng nhất
th́ ta vẫn đang nhìn vào tâm thức của Thượng Đế với ít hơn
một bức màn che so với trên cõi trần. Chẳng những như vậy mà bản
thân ta khi sinh hoạt trên cõi trung giới cũng bớt đi một bức màn
che. Cho dù ta quan sát đối tượng nào thì việc ta quan sát nó do
đó cũng đưa ta tiến một bước tới gần Thực tại hơn.
Chẳng hạn
như ta hãy xét một cá thể đang sinh hoạt trên cõi trung giới và từ
đó nhìn xuống cõi trần. Y không thể nhìn thấy cõi trần theo kiểu
các lượng tử ánh sáng đang gây ảnh hưởng lên võng mô của ta. Y chỉ
nhìn thấy cõi trần qua những điều tương ứng trên cõi trung giới với
ánh sáng trên cõi trần. Ta bảo rằng y nhìn thấy âm bản trên cõi
trung giới của sự vật cõi trần. Thế mà âm bản cõi trung giới và sự
vật trên cõi trần đều là các hình tư tưởng của Thượng Đế. Nhưng âm
bản cõi trung giới có một ưu thế so với sự vật trên cõi trần, đó
là nó được đặc trưng bởi việc có ít bức màn che của Thượng Đế hơn
bao phủ nó. Vì vậy, cứ theo cái đường lối lý thuyết mà giờ đây
tôi đang dấn thân vào đấy thì chỉ nội sự kiện một cá thể sinh
hoạt trên cõi trung giới cũng đã khiến y tiến gần hơn tới Thực
tại được một trình độ. Cho dù y đang lặng ngắm một rặng núi hoặc
cảnh hoàng hôn hoặc một người khác th́ y thấy mỗi sự vật – vốn có
bản thể là hình tư tưởng của Thượng Đế - thuần túy hơn và rõ rệt
hơn bởi v́ trên cõi đó mọi hình tư tưởng của Thượng Đế đều có ít
hơn một bức màn che so với khi nó ở trên cõi trần.
Ta hãy
tiếp tục cách thức suy nghĩ này thêm một giai đoạn nữa. Khi ta
tiến hành sinh hoạt trên cõi trí tuệ th́ ta đang bàn tới tâm thức
của Thượng Đế trừ bớt đi hai bức màn che; mọi thứ mà ta quán tưởng
ở đó đều bộc lộ một phẩm tính mới bởi vì bản thân ta với vai
trò là người quan sát có ít hơn hai bức màn che, và tương tự như
vậy, mỗi hình tư tưởng của Thượng Đế mà ta quan sát được cũng có
ít bớt đi hai bức màn che. Tôi xin minh họa điều này bằng một ví
dụ đơn giản. Trong lúc này tôi đang đeo mắt kính không có màu bởi
vì trời đă về chiều. Tôi nhìn thấy mọi thứ như một người bình
thường. Nhưng tôi là nạn nhân của chứng say nắng và có thể bị say
nắng do mắt tôi nhạy cảm bất bình thường. V́ vậy, ban ngày tôi
không đeo mắt kính có các lăng kính không màu mà kính tôi thường
dùng là thấu kính A của Crookes. Người ta giả định kính này làm
giảm cường độ ánh sáng mặt trời được 17%. Nếu không biết, bạn ắt
chẳng để ý thấy rằng đó không phải là thấu kính bình thường. Tuy
nhiên, chúng cũng làm giảm được độ sáng; vì vậy bất cứ khi nào
tôi muốn chụp hình, tôi phải gỡ chúng ra và đeo mắt kính có thấu
kính không màu bằng không thì hình chụp bị sẫm hơn quanh mắt tôi.
Khi ánh sáng mặt trời rất mạnh chẳng hạn vào lúc giữa trưa ở
vùng nhiệt đới thì để tránh bị say nắng tôi phải dùng thấu kính
B2 của Crookes. Chúng làm giảm bớt 35% ánh sáng, chúng hầu như là
thấu kính màu đen. Khi đeo các thấu kính đặc biệt cho dù đó là
loại A hay B2 th́ mọi màu sắc đều bị giàm độ sáng. Thế nhưng tôi
vẫn có thể phân biệt được màu đỏ với màu xanh lục và tôi không
nhận thấy rằng thế giới có gì khác. Tôi nhanh chóng làm quen với
tình trạng bị bớt đi 17% hoặc 35% ánh sáng; tôi hoàn toàn thoải
mái trong cái thế giới tối đen hơn của mình. Nhưng lúc tôi gỡ thấu
kính B2 rồi đeo thấu kính A th́ tôi ngay tức khắc nhận thấy có sự
khác nhau. Độ sáng nhiều hơn mặc dù màu sắc vẫn như vậy. Điều
quan trọng mà ta cần để ý đó là mặc dù kính rất sẫm màu nhưng
tỉ lệ ánh sáng và bóng râm cũng như cấp độ và biến thiên màu
sắc đều không bị xáo trộn. Nhưng có vấn đề khỏi cần phải nghi ngờ
đó là nếu không có kính thì ánh sáng ắt sáng hơn. Khi tôi gỡ thấu
kính B2 của Crookes rồi đeo kính A của Crookes th́ tôi tiến gần hơn
với việc nhìn thấy chân thực trong thiên nhiên. Tương tự như vậy, khi
tôi bỏ kính A của Crookes và đeo một
cặp thấu kính bình thường th́ tôi còn có một quan niệm chính
xác hơn nữa về việc đâu là ánh sáng và đâu là bóng râm cùng với
cường độ chân thực của màu sắc.
Cũng giống
hệt như vậy, chỉ nội sự kiện sau khi chết, ta bắt đầu hoạt động
trên cõi Thiên đường cũng có nghĩa là ta đạt tới mức gần Thực tại
nhiều hơn hai giai đoạn và Thực tại mới là bản chất chân thực của
Thượng Đế. Chính v́ ta đã tiến gần hơn tới bản chất chân thực của
Thượng Đế cho nên ta mới trải nghiệm phẩm tính đặc trưng của cõi
Thiên đường. Phẩm tính này đă được miêu tả rất sống động trong
quyển Cẩm nag về cõi Thiên đường, đó là quyển
Cõi Devachan. Khi tôi trích
dẫn cho các bạn những đặc trưng của cõi trí tuệ, tôi muốn các
bạn lưu ý rằng chúng ta đang bàn tới Thực tại, nhưng Thực tại này
đã bớt đi được hai bức màn che là cõi trung giới và cõi trần.
CỰC LẠC CỦA CÕI THIÊN ĐƯỜNG
‘Cường độ
cực lạc này là ý niệm vĩ đại đầu tiên ắt phải tạo thành một
bối cảnh cho mọi quan niệm của ta về sinh hoạt trên thiên đường.
Chẳng những ta đang bàn tới một thế giới mà do chính cấu tạo của
nó không thể có điều ác và sự phiền não; chẳng những đó là một
thế giới mà mọi sinh linh đều hạnh phúc ở đó; những sự thật
trong trường hợp này còn vượt xa hơn những mức đó. Do chính sự
kiện hiện diện ở đây, mọi sinh linh ở nơi thế giới này đều được
hưởng cực lạc tinh thần cao nhất mà mình có thể đạt được; đây là
một thế giới mà khả năng đáp ứng với hoài bão chỉ bị giới hạn
bởi năng lực hoài bão của mình.
Ở đây lần
đầu tiên ta bắt đầu lĩnh hội được một điều gì đó về bản chất
chân thực của Nguồn Sống Vĩ Đại; ở đây ta lần đầu tiên thoáng
thấy được một cách xa xăm mơ hồ
thượng ĐẾ ắt phải ra sao và Ngài có ý nghĩa như thế nào
đối với ta. Và khi các thực tại ghê gớm ấy bùng vỡ trước tầm
nhìn ngơ ngác của ta thì ta ắt không thể không cảm nhận được rằng
khi đã biết sự thật như vậy thì chẳng bao giờ còn nhìn lại cuộc
đời giống như trước nữa. Ta cảm thấy khâm phục trước sự bất cập
tuyệt vọng của mọi ý niệm về hạnh phúc của kẻ trần tục; thật
vậy ta không thể không thấy rằng hầu hết những ý niệm ấy đều bị
đảo ngược một cách phi lý và không thể thực hiện được; hầu như
kẻ trần tục đã thật sự quay lưng lại với chính cái mục tiêu mà
mình đang mưu tìm. Nhưng ở đây cuối cùng vẫn có sự thật và vẻ
đẹp vượt xa mọi điều mà các thi sĩ đã từng mơ mộng; và dưới ánh
sáng của sự vinh quang vượt hết mọi thứ khác thì mọi niềm vui
khác dường như đều mờ nhạt, không thực và không thỏa mãn.
Sau này ta
ắt cố gắng minh giải hơn một số chi tiết của mọi điều ấy; trong
lúc này điều mà ta cần nhấn mạnh đó là cái ý nghĩa huy hoàng
chẳng những đáng hoan nghênh vì không có mọi điều ác và bất hòa
mà chỉ có sự hiện diện dai dẳng, áp đảo của niềm vui phổ quát
vũ trụ; đó là cảm giác đầu tiên và nổi bật nhất mà kẻ nào
nhập thiên đường đều trải nghiệm. Và nó chẳng bao giờ rời bỏ y
chừng nào y còn ở đó, bất cứ công trình nào mà y thực hiện, bất
cứ khả năng cao siêu nào về sự phấn khởi tinh thần có thể xuất
lộ trước mắt y khi y có học biết nhiều hơn về những năng lực cái
thế giới mới này mà mình đang ở trong đó, thì ẩn đằng sau tất
cả những thứ đó đều có một cảm xúc kỳ diệu khôn tả, hoan lạc
không thể diễn tả được khi chỉ cần tồn tại nơi cõi giới ấy – cái
sự vui hưởng niềm hoan lạc phong phú ấy của mọi người khác bao
giờ cũng hiện diện nơi y. Không có một điều gì trên trần thế
giống với nó; không một điều gì có thể hình dung được nó; nếu
người ta không thể giả định cái sự sống sung mãn thời niên thiếu
được đưa lên tới tận trải nghiệm tinh thần để rồi được tăng cường
thêm nhiều ngàn lần thì có lẽ nó có thể gợi ý một hình bóng
mờ nhạt nào đấy về ý niệm này; thế nhưng ngay cả một ví dụ
tương tự như vậy cũng thất bại thảm hại vì thiếu điều thuộc loại
ý tại ngôn ngoại – sức sống tinh thần ghê gớm của cái thế giới
thiên đường này’. (C.W.L.)
Như
vậy, khi ta sống nơi cõi Thiên đường, ta nhìn thấy Thực tại bớt đi
hai bức màn che. Nếu ta có nơi cõi Thiên đường một người ban mà ta
yêu mến thì ta thấy y bớt đi hai bức màn che. Theo như tôi biết bạn
tôi ở dưới đây thì cả bạn lẫn tôi đều đã bị che phủ. Tôi yêu mến
y khi còn trên trần thế, nhưng sau này chết đi rồi mà nhập Thiên
đường thì tôi thấy y bớt đi hai bức màn che và y sẽ bộc lộ cho tôi
một vài thuộc tính của bản thân mà do chính bản thân của cõi
trần, y không thể bộc lộ được ra hết.
Thế
mà có một vấn đề gây thắc mắc khi nghiên cứu Thông Thiên Học là
liệu khi ta nhập Thiên đường ta có căn bản là đang dính dáng tới
một sự hão huyền hay chăng; liệu cõi Thiên đường có phẩm tính hão
huyền chăng. Thế mà ý thức thực tại
của ta không tùy thuộc vào cõi ta hoạt động trên đó mà tùy
thuộc vào phản ứng của ta đối với cõi đó. Chiều nay có một buổi
hoàng hôn tuyệt vời nhất [[1]]
. Nhưng trong đám người băng qua cầu liệu có bao nhiêu người
cảm nhận được sự linh hứng đầy đủ của buổi hoàng hôn? Khi tôi
nhìn đăm đăm vào buổi hoàng hôn từ bao lơn ở bên trên thì nó khơi
dậy nơi tôi một sự thực chứng tâm linh sâu sắc. Liệu nó có khơi
dậy một sự thực chứng tương tự nơi những người đang băng qua cầu
chăng? Có lẽ là không. Cảnh hoàng hôn đều như nhau đối với mọi
người, nhưng phản ứng của mỗi người đối với nó lại khác nhau. Có
lẽ những người đang băng qua cầu đều cuộn mình trong đủ thứ lớp
vỏ kén tư tưởng và đang đắm chìm vào chuyện riêng của mình. Xét
về buổi hoàng hôn thì không có buổi hoàng hôn đối với họ mà chỉ
có màn đêm đang buông xuống.
Thế
thì khi ta xét một cá thể tiến gần tới Thực tại được bao nhiêu
thì ta ắt thấy rằng nếu y có một người bạn nơi cõi Thiên đường,
nhưng bắt đầu sinh hoạt ở đó mà chưa phát triển được năng lực
xuyên thấu qua mọi bức màn che bao quanh người bạn thì y ắt chỉ
thấy bạn mình qua một khía cạnh riêng phần. Nhưng nếu cá thể này
là một Linh hồn đã phát triển thì khi y bắt đầu sinh hoạt trên
cõi Thiên đường, y bắt đầu khám phá ra nơi những người quây quần
xung quanh mình một cường độ điều tốt và vẻ đẹp mà y chỉ lờ mờ
cảm nhận nơi họ khi họ sinh hoạt trên trần thế. Lý do là vì y
nhìn thấy họ bớt đi hai bức màn che; y thấy họ có những thuộc
tính mà khi còn trên cõi trần y có thể trân trọng đầy đủ cho dù y
có thể sâu sắc về triết lý, yêu thương và nhiều hoài bão đến đâu
đi nữa. Đó là vì chừng nào ta còn đang sinh hoạt bị che phủ bởi
một bức màn vật chất cõi trần thì một vài khía cạnh của Thực
tại vẫn còn trốn tránh được ta, giống như các sắc thái tế nhị
của màu sắc trốn tránh được tôi khi tôi
đeo thấu kính B2 của Crookes. Vậy là tôi rõ rệt có ý niệm
khác đối với ý niệm thường được chấp nhận theo đó lên Thiên đường
là cuộn mình trong một ‘vỏ kén’ như một số nhà Thông Thiên Học
gợi ý. Nhiều nhà Thông Thiên Học nghĩ rằng mọi người nên xả bỏ
cõi Thiên đường vì những nhà Thông Thiên Học ấy có quan niệm sai
lầm là sinh hoạt nơi cõi Thiên đường chỉ là một thứ si mê hão
huyền do chính mình tạo ra. Họ muốn trốn tránh cõi Thiên đường vì
đối với họ sinh hoạt nơi đây chỉ làm mất thời giờ. Nhưng sự thật
là cho dù khi còn trong thể xác ta hiểu biết về Thực tại có hạn
hẹp đến đâu đi chăng nữa thì ngay lúc ta bước vào sinh hoạt nơi cõi
Thiên đường, ta vẫn gần với Thực tại nhiều hơn hai trình độ do
chính cái bản chất của thế giới ấy.
Điều
này đưa ta tới một vấn đề quan trọng là liệu khi lý tưởng hóa
một người, ta có thật sự quan niệm về y một cách hão huyền hay
chăng. Nhiều người tưởng tượng rằng lý tưởng hóa người khác là
tin vào một điều gì đó về người ấy, thật ra không đúng. Ta thường
bảo rằng khi bà mẹ lý tưởng hóa đứa con của mình thì bà cực là
điên rồ và đang cuộn mình trong một sự si mê hão huyền. Nhưng thế
nào là thuyết lý tưởng chứ ?
Theo
điều mà tôi coi là quan điểm chân chính thì thuyết lý tưởng là
khả năng xuyên thấu qua các bức màn che để nhìn thấy một điều gì
đó trước hết là của Chơn ngã, rồi nhiên hậu là của Chơn thần. Cho
dù về sau này ta có thể mất đi tầm nhìn lý tưởng của mình đến
đâu đi nữa vì có đủ thứ diễn biến vốn là đặc trưng của cõi
trần. Nhưng sự kiện khi ta đã từng
một lần nhìn thấy lý tưởng
có nghĩa là ta đang nhờ vậy mà tiến gần hơn tới tâm thức của
Thượng Đế. Trong trường hợp bà mẹ, Thượng Đế cũng suy nghĩ về
đứa trẻ y như bà mẹ nhìn thấy con mình vậy. Đó là lý tưởng hóa
có nghĩa là suy nghĩ cùng với
Thượng Đế. Chắc chắn Thượng Đế cũng thấy đứa trẻ là một đứa
con hư giống như những đứa trẻ ưa làm mất uy tín thấy đứa trẻ
vậy; nhưng Ngài cũng thấy đứa trẻ ấy cũng là một đứa con toàn
bích đang bộc lộ Chơn thần ra. Bà mẹ nào đang thần tượng hóa con
mình đều tiến gần tới tầm nhìn của Thượng Đế hơn những kẻ làm
mất uy tín đứa trẻ bởi vì bà đang nhìn thấy nó
y như nó không có một vài
bức màn che.
Chính
cái sự kiện này – lý tưởng hóa nghĩa là có một thoáng nhìn đầy
đủ hơn về Thực tại, áp dụng được cho mọi thứ. Ta hãy nhớ lại
những dòng sau đây trong thánh vịnh:
‘Những hi
vọng cao siêu nhất mà ta ấp ủ dưới đây.
Chúng bị
mòn mõi và mong manh đến chừng nào.
Một vết
lấm làm dơ cái áo dài biết bao nhiêu
Khi một
vị thánh trên cõi trần khoác lấy nó’.
Nếu thiếu hiểu biết thì
quả thật những hi vọng của ta ắt ‘mòn mõi đi và mong manh’, và ta
nghĩ về vị thánh tệ hơn bởi vì sau khi đã phát hiện ra ngài là
vị thánh thì về sau này ta lại khám phá ra được áo dài ngài mặc
‘bị dơ’. Điều này thường xuyên xảy ra đối với ta khi ta thần tượng
hóa người khác mà ngôn ngữ bảo là tâng bốc người ta lên tận mậy
xanh. Khi ta phát hiện rằng pho tượng ấy có đôi chân bằng đất sét
thì ta bị sốc và không còn lý tưởng hóa người khác nữa.
Thế
nhưng nếu ta hiểu cho rõ thì không nhất thiết ta phải lý tưởng bớt
đi. Đó là vì ta đặt người khác lên bệ thờ thì đó là ta đang nhìn
người ấy bớt đi những bức màn che. Còn khi ta nhìn thấy đôi chân
bằng đất sét của y thì ta đang nhìn y với những bức màn che. Nếu
ta yêu thương y chân thật, nếu đó là yêu để mà yêu chứ không phải
yêu để được một điều gì đó mà mình đang trông chờ nơi người khác
thì ta ắt thấy Thiên đường của y nhiều hơn nhân tính của y. Việc
phát hiện ra ‘những vết dơ’ trên chiếc áo dài trần tục của y đâu
có làm bớt đi Thiên tính của y. Nhưng ta cần phải là các bậc siêu
nhân thì mới không bao giờ quên được cái Tầm nhìn ấy của Tinh thần
khi vật chất cứ khăng khăng réo gọi là chăm chăm chú ý tới nó.
Cũng
cái sự đấu tranh ấy giữa ánh sáng và bóng tối còn được đề cập
trong một thánh vịnh khác nữa.
‘Những
sắc thái ửng hồng của buổi bình minh,
Vẻ sáng
đẹp của ban ngày,
Nét tươi
thắm hồng hào của bầu trời buổi hoàng hôn,
Sao mà
chúng mờ nhạt đi nhanh đến thế’.
Thế
nhưng sự thật là nếu ta hiểu rõ hoàng hôn và bình minh thật sự
nghĩa là gì khi ta thoáng thấy được vẻ đẹp và sự hoan hỉ của
Thực tại thì khi buổi hoàng hôn và bình minh trên trần thế mờ
nhạt đi, ta mới không cảm nhận được bất cứ sự u ám nào bao quanh
mình. Đó là vì ta đã chứng kiến buổi hoàng hôn và bình minh chân
thật đúng như Thượng Đế luôn luôn nhìn thấy chúng. Chắc chắn mọi
chuyện đều mờ nhạt đi và ‘đời là bể khổ’, trong mọi chuyện ‘đều
đầy nước mắt’. Nhưng nếu trước khi chúng mờ nhạt đi mà ta đã kịp
xuyên thấu qua những bức màn vây quanh chúng thì tầm nhìn Thực tại
– vốn là thực chất của chúng – không bao giờ ngừng ban cho ta cái
thông điệp về vẻ đẹp vĩnh hằng.
Tôi xin
được trình bày toàn bộ vấn đề này theo một góc cạnh khác, theo
quan điểm của Chơn ngã trong thể nguyên nhân trường tồn, theo luật
Tái sinh Luân hồi, Chơn ngã phải định kỳ giáng xuống vật chất để
tạo ra một phàm ngã. Tạo ra phàm ngã có nghĩa là trước hết phải
giáng xuống cõi hạ trí, rồi tới cõi trung giới, rồi tới cõi
hồng trần. Mỗi sự giáng xuống như vậy là một sự hạn chế bản
chất viên mãn và những năng lực tròn đầy của Chơn ngã trường tồn.
Tôi xin
gợi ý điều xảy ra bằng một sự minh họa thô thiển cho thấy bốn
bản sao bàn tay của mình. Trong kính ảnh minh họa thứ nhất có bàn
tay phải trần trụi của tôi,
kính
ảnh minh họa thứ nhì là bàn tay đeo một cái găng mỏng bằng vải
bông; kính ảnh minh họa thứ ba là bản tay đeo thêm một cái găng
bằng len phủ lên cái găng hồi nảy; còn kính ảnh thứ tư là bàn tay
đeo một cái găng bằng da phủ trên cả cái găng bằng vải bông lẫn
găng bằng len. Găng bằng da được lót bằng len thiên nhiên của cừu và
người ta đeo găng này khi thời tiết ‘dưới không độ’ nghĩa là hơn 320
F dưới điểm bị đông giá. (Đối với người nào có tuần hoàn
máu không tốt lắm và ngón tay dễ bị nhiễm lạnh bất chấp một cái
găng dày cộm bằng len thì một găng bằng da thuộc loại này là
phương tiện duy nhất để bảo vệ chống lại lạnh cóng).
Nếu
tôi là nghệ sĩ dương cầm thì tôi ắt chơi đàn dễ dàng bằng bàn tay
trần. Tôi có thể chơi đàn hơi khó khăn một chút khi bàn tay đeo một
cái găng mỏng bằng vải bông, nhưng chắc chắn tôi không thể trình
diễn hết sự tế nhị của nhạc khúc mà tôi trình diễn nếu tay tôi
đeo găng. Nhưng khi tay tôi lại phủ thêm một găng bằng len nữa thì
khó khăn ắt còn lớn hơn nữa. Và nếu bàn tay lại bị găng bằng da
che phủ thì tôi hoàn toàn không thể chơi được nốt nhạc riêng rẽ
hoặc tạo ra bất cứ thứ gì giống như âm nhạc. Sự minh họa sống
động nhưng thô thiển này đã truyền đạt được ngụ ý của tôi đó là
khi Chơn ngã giáng xuống lần lượt mỗi cõi thì năng lực của nó
càng ngày càng bị hạn chế.
Ở giai
kỳ ngược lại, sau khi chết thì Chơn ngã bỏ thể xác cũng giống như
bàn tay bỏ được cái găng da nặng nề (theo đúng ví dụ tương tự của
tôi). Tương tự như vậy, khi thể vía tức cái găng bằng len bị vứt
bỏ thì bàn tay còn tự do hơn nữa và cuối cùng khi thể trí tức
cái găng bằng bông bị vứt bỏ thì bàn tay một lần nữa được hoàn
toàn tự do. Rõ rệt là bàn tay trần trụi có khả năng bộc lộ âm
nhạc hoặc hội họa hoặc bất kỳ nghệ thuật nào khác mà một bàn
tay ‘ bị che khuất bưng bít’ không thể bộc lộ được.
Cứ
tiếp tục ví dụ tương tự của mình, tôi thấy khi một người bạn nơi
cõi Devachan kiến tạo một hình tư tưởng về bạn của mình theo mô
hình phàm ngã của Chơn ngã ấy, thì Chơn ngã ấy của người bạn kia
giáng xuống sinh hoạt trong hình tư tưởng đó để biểu lộ mình thông
qua nó. Người bạn bộc lộ được nhiều thuộc tính của mình hơn và
đáp ứng được với tình thương dành cho mình một cách lớn lao hơn
bao giờ hết so với khi y hoạt động thông qua các hiện thể trên cõi
trần hoặc cõi trung giới.
Do bản
chất cực kỳ không thể hiểu được của Chơn ngã lại còn có một
điều bí nhiệm thêm nữa. Đó là việc cho dẫu một ngàn người bạn
của một Chơn ngã đã tạo ra một ngàn hình tư tưởng về phàm ngã
của y thì Chơn ngã ấy vẫn giáng xuống mỗi một trong một ngàn
hình tư tưởng đó, sinh hoạt trong đó và ban cho mỗi người ‘nhập
Devachan’ mọi điều hạnh phúc của kẻ nhập Devachan đã hoạch định.
Ta ắt thắc mắc làm thế nào mà một Chơn ngã trường tồn cá thể
lại cùng một lúc cư trú được nơi một ngàn hình tư tưởng? Điều
này là do bản chất bí nhiệm của Chơn ngã. Để giải thích bản
chất này tôi lại xin xét một ví dụ tương tự khác là hình khối
vuông. Bề mặt của mỗi một trong sáu mặt của hình khối vuông là
một hình vuông có bốn cạnh bằng nhau. Thế mà ta có thể tưởng
tượng nếu ta có một máy cắt vi mô thì nó có thể xắt một ngàn
hình vuông ra khỏi cái khối vuông ấy. Mỗi hình vuông ắt chứa đựng
một phần ngàn chất của hình vuông và giữa một ngàn hình vuông ấy
không có sự phân biệt nào về bản chất và cấp độ vì tất cả đều
là bộ phận của hình khối vuông.
Tương
tự như vậy, bản chất bí nhiệm của Chơn ngã – nó vốn tham dự vào
Bản chất của Thượng Đế và là một bộ phận không thể tách rời
khỏi ngài – Bản chất của Thượng Đế có thể biểu lộ qua hằng hà
sa số hình tướng bao nhiêu (trong một cọng cỏ, một đóa hoa, một
cái cây, một rặng núi, nơi kẻ phạm tội cũng như vị thánh) thì
Chơn ngã cũng có thể được ‘tuôn đổ xuống được bấy nhiêu’ vào
nhiều hình tư tưởng mà các bạn của nó tạo ra nơi cõi Devachan.
Nếu
luận đề mà tôi đã ra sức minh giải cho đến nay là đúng – nghĩa là
Linh hồn con người hoạt động trong thể xác phải chịu ba bức màn
che, một là bức màn che thể trí, thêm vào đó là bức màn che thể
vía rồi che lên trên cả hai là bức màn che thể xác – thì ta có
thể suy diễn hợp lý rằng toàn bộ đề tài sự chết theo như người
ta thường quan niệm ắt phải thay đổi căn bản. Đó là vì chết chẳng
qua chỉ là vứt bỏ đi cái bức màn che thấp nhất tức là thể xác.
Vậy thì cá thể vẫn còn ở trong các bức màn che thể vía và thể
trí. Theo giả thuyết của Thông Thiên Học thì bức màn che thể vía
cũng bị loại bỏ hoặc là trong một thời gian ngắn hay là trong một
thời kỳ 20 năm hoặc dài hơn nữa. Lúc bấy giờ Linh hồn vẫn còn
hoạt động trong thể trí và cùng với bức màn che thể trí phủ lên
tâm thức, nó sinh hoạt nơi cõi Thiên đường ở Devachan trong một thời
kỳ có thể là vài thế kỷ hoặc 15 – 20 thế kỷ tùy theo phẩm chất
và số lượng hoài bão mà nó đã phát triển trong khi hoạt động qua
bức màn che thể xác cũng như qua bức màn che thể vía sau khi chết.
Trong
số những tôn giáo trên thế giới, có một số có được điều mà tôi
gọi là một thái độ đầy ý nghĩa đối với sự chết. Tôn giáo có
nhiều ý nghĩa nhất là Bái Hỏa giáo. Tôn giáo này lúc nào cũng
nhấn mạnh tới giáo lý vĩ đại về sự tẩy trược và cách ứng xử
trong thực tế chỉ được dẫn dắt bởi ba đức tính Tư tưởng Trong
sạch, Lời nói Trong sạch và Hành động Trong sạch. Quan niệm cá
thể là một Linh hồn sinh hoạt trong một thể xác thâm thúy đến nỗi
khi cuối cùng bắt đầu có dấu hiệu chết thì người ta nhận ra rằng
những dấu hiệu chết này biểu thị việc bắt đầu ô trược. Vì vậy
mọi người đang quây quần quanh người hấp hối đều rời bỏ y, bàn
giao việc chăm sóc cho một giai cấp đặc biệt tín đồ Bái Hỏa giáo
có nhiệm vụ trông coi các xác vào giai đoạn cuối cùng khi chết.
Hoàn toàn không thể quan niệm được việc hôn vào mặt người chết hay
chạm tay vào xác của người đang hấp hối khi sự ô trược đã xuất
hiện rồi. Dĩ nhiên là vẫn có sự đau buồn như thông lệ tự nhiên,
nhưng tuyệt nhiên không có ý niệm rằng cá thể ấy đã bị loại ra
bởi vì y đã bước qua bên kia cửa tử.
Thật
vậy, có một truyền thuyết cho rằng Linh hồn cá thể vẫn lẩn quẩn
quanh xác chết ba ngày, và sau thời kỳ ấy thì bắt đầu chuyến
viễn du băng qua cầu Nại Hà (Chinvadpool). Ở ngay giữa cầu thì y
gặp một trong hai nhân vật. Y có thể gặp một cô trinh nữ tuyệt vời
dễ thương đến nỗi khi y hỏi cô này là ai thì cô trả lời: ‘Thiếp
là những Tư tưởng Tốt, Lời nói Tốt, Hành động Tốt của chàng’.
Thế là y cặp tay nàng băng qua cầu để sinh hoạt trong một trạng
thái cực lạc. Nhưng có thể người mà y gặp trên cầu lại là một
mụ phù thủy xấu xí và khi y hỏi mụ này cũng câu hỏi trên thì mụ
bèn trả lời: ‘Ta là những Tư tưởng gian tà, Lời nói gian tà và
Hành động gian tà của ngươi’. Thế rồi y bị quẳng từ trên cầu
xuống địa ngục ngay phía dưới, không còn là Linh hồn nữa. Khỏi
cần phải nói thì tín đồ Bái Hỏa giáo chẳng bao giờ tưởng tượng
được rằng bất cứ ai ngoan đạo cho dù tuân theo nghi lễ một cách
hời hợt đến đâu đi chăng nữa mà lại độc ác đến nỗi không băng qua
cầu được.
Ở
Trung quốc mãi đến tận ngày nay người ta vẫn còn công nhận rõ rệt
rằng bất cứ ai chết rồi, nhất là vị gia trưởng vẫn còn ở lại
với gia đình để giám sát quyền lợi của nó. Trong căn phòng chính
yếu của một ngôi nhà Trung hoa có dựng bàn thờ trên đó có ‘bài
vị’ của tổ tiên ghi danh tánh cửu huyền thất tổ, nhất là danh
tánh của tổ tiên cha mẹ đời cuối cùng. Thời nay còn có cả hình
di ảnh nữa. Hằng ngày người ta thắp nhang cắm trên bàn thờ. Hơn
nữa, ý tưởng tổ tiên vẫn còn tiếp xúc với gia đình mạnh đến nỗi
khi gặp trường hợp hết sức khốn khổ mà không một giải pháp nhân
loại nào xuất hiện thì người ta có tục lệ dùng một nghi thức
nào đó để triệu thỉnh sự trợ giúp của tổ tiên soi sáng phần nào
cho tình thế. Điều này được thực hiện thông qua bất kỳ dạng Thần
linh học hiện đại nào. Vả lại nhiều năm trước khi chết thì đặt
làm trước quan tài rồi kê nó ngay trong buồng mình. Theo tục lệ,
cũng vào những năm cuối đời, con gái và cháu gái của gia chủ khâu
bộ áo dài bằng lụa mà người chết sẽ mặc sau khi từ trần. Mọi
chuyện đều được coi là ‘đương nhiên’ và trong khi dĩ nhiên sự chết
vẫn được coi là một diễn biến mất mát, thế nhưng không có điều
gì là đau buồn và cô quạnh vốn đặc trưng cho một số tín ngưỡng,
nhất là Ki Tô giáo.
Có lẽ
tôn giáo cổ truyền của Ai Cập cho ta thấy những ý niệm phi thường
nhất – phi thường đối với Ki Tô hữu – liên quan tới sự chết. Mọi
tín đồ Ai Cập giáo đều tin chắc về sinh hoạt của mình bên kia cửa
tử đến nỗi nhiều năm dài trước khi y trông mong rằng mình sẽ chết,
y đã chuẩn bị sẵn mồ mả của mình và nếu có phương tiện y sẽ ghi
khắc lên trên vách của mồ mả bản sao chép lại những diễn biến
chính trong cuộc đời mình. Người Ai Cập nào có giáo dục nhiều ắt
được điểm đạo khai tâm vào một số nghi lễ để cho họ có được
những ý niệm về tình huống bên kia cửa tử. Dường như có một số
giáo huấn thần bí tương cận với một số giáo huấn thuộc một cấp
đặc biệt nào đó trong Hội Tam Điểm được ghi lại trong cái gọi là
Tử thư Ai Cập. Đối với mọi
người Ai Cập được ướp xác dù là nam hay nữ thì ta đều thấy có
một vài chương trong Tử Thư .
Có một cuộn giấy rất dài về quyển
Tử Thư này mà nhiều tiết và
nhiều phong cảnh tồn tại song hành với xác ướp của Ani ở Viện
Bảo tàng Anh quốc. Trong quyển sách cuộn này, người ta trình bày
những phong cảnh diễn ra sau khi chết chỗ cá thể được thần Ambis
dẫn tới trước nơi phán xử của thần Osiris; phía trước thần Osiris
có đặt một cái cân, còn thần Thoth đứng kè kè bên cạnh tay cầm
một phiến mỏng để ghi chép phán xử của Osiris. Trên một trong
những đĩa cân của cái cân có đặt một cái lọ nhỏ tượng trưng cho
trái tim của cá thể, còn ở đĩa cân bên kia có một lông vũ tượng
trưng cho lông vũ Chân lý. Nếu cái cân vẫn nằm ngang thì cá thể
được phán xét là thích hợp để sinh hoạt giữa những người chết
có phước. Bấy giờ y thêm danh tính của mình vào danh tính của
thần Osiris sao cho sau khi được phán xử, cá thể Ani được gọi là
Osiris Ani. Trước khi bị phán xử, y đã kể lể cái gọi là ‘lời thú
tội phủ định’ trong đó y lặp đi lặp lại ‘Tôi không làm, tôi chẳng
làm’, nêu tên những sự việc mà y không làm, chẳng hạn như lừa gạt
đàn bà góa, con côi, lấn chiếm đất đai của người khác và một danh
sách dài dằng dặc những hành vi khác bị người Ai Cập coi là không
chính trực. Nhưng nếu vào lúc phán xét sợi lông vũ Chân lý bốc
lên, còn trái tim cá thể chìm xuống trên bàn cân thì y bị kết tội
và bị quẳng vào miệng một con quái vật được cảnh tượng miêu tả
sao cho y hoàn toàn bị tiêu diệt.
Theo
Ấn Độ giáo thì quan niệm tối cao liên quan tới Linh hồn thì Linh
hồn chính là Đấng Brahman Tuyệt đối Vô hạn hoặc có liên quan theo
một cách nào đó với Đấng Brahman. Vì Ấn Độ giáo khẳng định qui
trình luân hồi là cơ chế Linh hồn được giải thoát để được hạnh
phúc tuyệt đối, cho nên tự nhiên là không hề có quan niệm việc thể
xác bị chết lại ảnh hưởng chút nào tới tâm thức của cá thể trên
cương vị là Linh hồn. Người ta đem thiêu xác kèm theo một vài nghi
thức tôn giáo rồi đem tro rắc xuống biển hoặc xuống một dòng sông
thiêng. Thế rồi bởi vì cá thể vẫn còn sinh hoạt nhưng có thể bị
cản trở về một vài phương diện, cho nên người ta cử hành những
nghi lễ tên là Shrāddha để
giúp cho cá thể an bình chuyển tiếp sang sinh hoạt cao hơn. Trong khi
tự nhiên là vẫn có sự đau buồn khi một thành viên trong gia đình
chết, nhưng không có ý thức tuyệt vọng mà ta ắt lưu ý thấy đối
với những ý niệm về sự chết của Ki Tô giáo.
Giống
như Ấn Độ giáo, Phật giáo có những ý niệm về sự chết như vậy,
vì cũng giảng dạy về Luân hồi. Tôn giáo này đề cập tới một vài
cõi vô hình được gọi là cõi trời (Devalokas) hoặc Thiên giới.
Người ta có kể lại một số trường hợp người đã chết rồi đang sinh
hoạt nơi các cõi trời. Mọi vị Bồ Tát trước khi thành Phật đều
đang sinh hoạt chờ thành Phật nơi cõi trời Đâu Suất, có một diễn
biến nổi tiếng liên quan tới đứa trẻ Chatta Mānavaka [[2]],
khi mới được 12 hoặc 13 tuổi; nó đã được Đức Phật truyền thụ cho
một vài câu kệ để tưởng niệm Tam bảo và Ngũ giới. Nghiệp của
đứa bé ấy có phần nào là sau khi nghỉ lễ, nó mang theo một túi
vàng trở lại dâng lên vị thầy của mình, vị thầy sống ở đó hơi
cách xa một chút cho nên nó ắt bị bọn cướp bắt giết chết. Rồi
chuyện kể rằng khi cha mẹ và người thân của nó được tin đứa bé
đã chết thì họ đều tụ tập lại ở nơi xảy ra thảm kịch đó và
bày tỏ lòng thương tiếc trước thảm họa ấy. Bấy giờ Đức Phật
xuất hiện nơi cảnh tượng đó để từ Cõi Trời triệu hồi Chatta trở
lại. Vì khi bị giết, đứa trẻ lòng tràn ngập niềm vui bởi đã thọ
Tam qui Ngũ giới cho nên nó không ý thức về sự chết và ngay tức
khắc được sinh lên Cõi Trời. Theo lời hiệu triệu của Đức Phật,
Chatta xuất hiện trở lại trên cõi trần với một bầu hào quang kỳ
diệu mà ai cũng đều thấy rõ. Đức Phật hỏi nó điều gì đã xảy ra
thì đứa trẻ ngâm vài câu kệ tường thuật lại việc nó chết rồi
sinh lên cõi Trời. Mọi chuyện này giúp cho Đức Thế Tôn có cơ hội
thuyết pháp cho cha mẹ và người thân của nó, sau đó Chatta được
phép trở lại cõi Trời. Vì vậy ta thấy rằng trong Ấn Độ giáo lẫn
Phật giáo, người ta đều có một thái độ đối với sự chết ngược
hẳn lại với thái độ mà ta thấy trong Ki Tô giáo.
Đó là
vì trong Ki Tô giáo, những ý niệm liên quan tới việc xảy ra bên kia
cửa tử chẳng những mơ hồ mà còn hết sức duy vật. Sau khi chết,
người ta giả định rằng có một điều gì đó huyền bí xảy ra cho tâm
thức của cá thể sao cho mọi quan năng của y nhất thời biến mất
chìm vào sự lơ mơ để rồi xuất hiện trở lại vào Ngày Phục Sinh.
Trong khi đó người ta coi như cá thể chỉ là
cái xác nằm
trong mồ chẳng biết gì hết. Trong một bài thánh vịnh nổi
tiếng thường được ngâm lên trong tang lễ ta thấy có hai dòng sau đây:
‘Lạy Cha,
xin ngài quan phòng mở lượng hải hà,
Để cho
chúng con là người phụng sự ngài bây giờ được ngủ đi’
Chính
cái ý niệm ‘ngủ đi’ này ở bên dưới lòng đất đã nổi bật xuyên
suốt Ki Tô giáo, và các thi sĩ cứ trở đi trở lại quanh đề tài
này bao giờ cũng với ý niệm là ‘ngủ đi’. Vậy là theo nữ thi sĩ
thánh Edna Vincent Millay ta có:
‘Vì có
một âm thanh thân thiện cho mưa
Đối với
kẻ nào đã bị chôn vùi 6 bộ dưới mặt đất;
Và hiếm
khi có được giọng nói hoặc khuôn mặt thân thiện;
Một ngôi
mộ ắt là một nơi chốn cô quạnh như thế?’
Walter
Savage Landor cũng diễn tả sống động như vậy:
‘Mặc dù
có thể xảy ra trong hai mươi năm nữa
Tôi sẽ bị
trời gọi để đánh một giấc ngủ thiu thiu.
Trong một
buồng kín lạnh lẽo nơi mà chẳng hề nghe thấy tiếng sấm,
Ở đó
chẳng có mái vòm bằng cỏ của tôi thở phì phò bên trên
Và tiếc
thay thật quá buồn khi chẳng thấy gì
Và trước
khi bạn có thể bước qua thì tôi ắt lĩnh hội được cái lời nói bay
bổng ấy’.
Có lẽ
sự bộc lộ ma quái nhất về những ý niệm thô thiển này ắt xuất
hiện qua bài thánh vịnh 5 khổ đã từng một lần được
lũ trẻ ngâm lên trong Trường
Chủ Nhật:
‘Bên trong
nghĩa trang nằm kề cận nhau,
Là nhiều
ngôi mộ dài thấp lè tè;
Và một
số ngôi mộ có dựng bia bên trên,
Còn trên
một vài ngôi mộ chỉ có đám cỏ xanh dập dờn;
‘Biết bao
nhiêu chú bé Ki Tô hữu,
Nam và nữ
đều nằm ở đó;
Và chúng
ta đều băng ngang đi qua gần chúng luôn luôn
Khi chúng
ta đi cầu nguyện.
‘Chúng
không thể nghe được bước chân chúng ta đi tới
Chúng
không thể nhìn thấy chúng ta đi ngang qua;
Chúng
không thể cảm nhận được ánh sáng mặt trời ấm cúng
Soi chiếu
cho bãi cỏ.
‘Chúng
cũng không nghe được khi tiếng chuông nhà thờ
Ngân lên
trên đầu;
Chúng
không thể ngồi dậy để đi nhà thờ
Cùng với
chúng ta, bởi vì chúng đã chết rồi.
‘Vậy là
khi những người ban mà chúng ta yêu mến nhất
Nằm trên
chiếc giường vốn là nghĩa trang
Thì chúng
ta không được khóc thương quá cay đắng
Đối với
người chết đang hạnh phúc ấy’.
Thật
là một ý niệm ma quái khi đem trình bày giữa đám trẻ thơ cái ý
tưởng ngôi mộ và nghĩa trang với lũ bạn của chúng ‘không nghe được
bước chân cùa chúng ta đi tới, không nhìn thấy được chúng ta đi băng
qua, không cảm nhận được ánh sáng mặt trời ấm cúng soi chiếu trên
bãi cỏ’.
Một
buổi chiều thứ bảy sau ngày thứ sáu trước lễ Phục Sinh, khi tôi
đang lắng nghe một chương trình của đài BBC Luân đôn, trong thời Đại
chiến thứ hai, tôi nghe thấy có một bài thơ được ngâm lên về sự
hành hình trên Thập tự giá với dòng chữ đáng ngạc nhiên như sau:
‘Giờ đây Chúa đã ngủ im trên cái giường bằng đá của Ngài’. Đối
với tôi điều này dường như và vẫn còn dường như là một quan niệm
hoàn toàn không thể tưởng tượng nổi. Giê su Ki Tô là Con của Thiên
Chúa và theo Tín điều Athanasia thì Ngài bình đẳng với Chúa Cha.
Thế nhưng Ngài vẫn khoác lấy hình dạng Giê su và khi đến đúng lúc
thì Ngài bắt đầu sứ mệnh thừa sai của mình. Ngài ắt hẳn biết
được mối quan hệ của mình với Thiên Chúa vì Ngài từng bảo ‘Ta và
Cha ta là một’ cũng như ‘Cha ta đã làm việc cho tới nay và ta cũng
làm việc ấy’.
Đối
với tôi nói trắng ra thì thật là phạm thượng khi tưởng tượng rằng
sau khi bị hành hình trên Thập tự giá, mọi quyền năng vĩ đại của
Ngài đã chìm vào một loại lơ mơ nào đấy trong vòng 36 tiếng đồng
hồ khi Ngài nằm vô tri vô giác ‘trên cái giường bằng đá’.
Ở đây
thật là thú vị khi để ý rằng Hồi giáo luôn luôn hết sức kính
trọng Giê su Ki Tô, họ gọi Ngài là ‘Issa, con của Miriam’ tức thánh
mẫu Mary, nhưng không bao giờ gọi Ngài là Con Thượng Đế. Người ta
hoàn toàn công nhận Ngài là Đạo sư của Thượng Đế cùng một truyền
thừa với các đạo sư khác như Abraham, Moses và David, sau Ngài còn
có vị đạo sư của Thượng Đế là Muhammad. Đầu óc của tín đồ Hồi
giáo hoàn toàn không thể quan niệm được việc thánh Allah, Thượng
Đế của cả Vũ trụ, đã tạo ra toàn thể càn khôn mà lại đã từng
có một đứa con trai. Hơn nữa, huyền thoại trong Hồi giáo luôn luôn
cho rằng Đạo sư Issa không hề bị đóng đinh trên Thập tự giá. Tín
đồ Hồi giáo không thể quan niệm được cái sự tưởng tượng cho rằng
một Đạo sư của Thượng Đế mà lại phải chịu những sự ô nhục để
kết liễu cuộc đời qua việc đóng đinh trên Thập tự giá theo như câu
chuyện trong kinh thánh tường thuật. Huyền thoại của Hồi giáo bảo
rằng chỉ có một sự giả vờ, một diễn viên đóng thay đã bị hành
hình trên Thập tự giá chứ Đạo sư của Thượng Đế, Issa, con của
thánh mẫu Mariam chẳng bao giờ bị như vậy. Bất cứ khi nào một tín
đồ Hồi giáo ngoan đạo nhắc tới Đạo sư Issa thì y đều nói thêm theo
truyền thống rằng ‘an bình đã đến với Ngài’.
Tất
cả những ý niệm này đều của Do Thái giáo truyền sang Ki Tô giáo,
vì tín đồ Do Thái giáo không có ý niệm rõ rệt về bất cứ sự
sống sót nào sau khi chết. Trong ba năm Chúa Ki Tô thi hành sứ mệnh
của mình, Ngài đã không nói dông dài về đề tài này vì sứ mệnh
của Ngài có nhiệm vụ khẩn cấp hơn là tố cáo hình thức cứng
ngắt của Do Thái giáo, trong đó các lãnh tụ của tôn giáo chỉ lo
‘buôn bán hương bạc hà, hương hồi và hương liệu làm cà ri chứ lờ
đi những vấn đề quan trọng hơn về luật lệ, phán xử, lòng từ bi
và đức tin’.
Vậy
là ở các xứ theo Ki Tô giáo khi có người chết thì người ta có
một quan niệm ma quái cho rằng người được thương yêu không thể biết
được việc ta tiếp tục yêu thương người ấy. Chúng ta có thể cứ
tiếp tục thương tiếc sự ra đi của y, nhưng nếu ta gửi tình thương
cho y thì có ý niệm là y không thể biết được tình thương của ta
vì y đang ‘ngủ’. Việc tin chắc rằng người mà ta yêu thương đã nhập
vào một loại tạm thời bị tịch diệt nào đấy và mọi thứ còn lại
của y chỉ ở trong nấm mồ, đó chính là nguyên nhân của biết bao
nhiêu phiền não mà không nhất thiết phải vậy. Hơn nữa, nếu mà Ki
Tô hữu ngộ ra được sự phiền não của ‘người quá cố’ khi y đụng
phải bức màn sắt tin chắc rằng mình đang ‘ngủ’ sao cho khi người
ấy cố gắng tuôn ra sự an ủi của mình và tái xác nhận tình thương
bất diệt của mình thì người ấy ắt bối rối và chỉ còn biết âm
thầm chịu đau khổ.
Ngày
nay có biết bao nhiêu bằng chứng sẵn có cho bất cứ ai khảo cứu
Thần linh học hiện đại; khiến cho người ta có thể tin chắc rằng
sự chết không kết liễu tâm thức của một người. Hoàn toàn đúng là
trong Thần linh học có một vài điều bất tiện bởi vì tuyệt nhiên
không có gì chắc chắn là thực thể giao tiếp với ta quả thật là
người được rêu rao như vậy, mặc dù thực thể này cung cấp nhiều
chứng cứ về những diễn biến trước khi mình chết. Tuy nhiên, ý
niệm khi chết thì cá thể chỉ ‘ngủ’ có thể bị vứt bỏ rất nhanh
chóng để cho một ý niệm lành mạnh hơn thế chỗ cho nó.
Trong
khi điều tôi phát biểu liên quan tới tính duy vật rõ rệt của Ki Tô
giáo, thật đúng vì Ki Tô giáo đồng nhất hóa thể xác với Linh hồn
rất mật thiết và chủ trương rằng khi thể xác chết thì phần Hồn
nằm trong ngôi mộ ở một dạng tạm thời bị tịch diệt nào đấy; song
le cũng có một giai đoạn khác trong Ki Tô giáo được biểu hiện qua
nhiều bài thánh ca. Trong những bài thánh ca như thế, bản chất
sùng tín tận hiến cho Thiên Chúa hoặc Giê su Ki Tô lớn đến mức
nhiều Ki Tô hữu sống với tư tưởng đời đời hiệp thông với Ngài trên
Trời. Dưới nhiều dạng khác nhau chủ đề này là ‘mãi mãi sống với
Chúa’. Khi từ trần nhiều vị thánh nam cũng như nữ hoàn toàn có ý
thức về việc mình mãi mãi sống với Chúa đến nỗi họ rất ít khi
nghĩ tới chuyện nằm trong một ngôi mộ dưới đất. Sự ngây ngất mãnh
liệt của lòng sùng tín đã nâng tâm thức vượt ra khỏi bức màn che
thể xác, thậm chí thể vía nữa để sinh hoạt trong một trạng thái
tâm thức cao hơn.
Theo
truyền thống ở Anh tại những vùng xa xôi thuộc các quận ở miền
trung, người ta đã thường nói về người quá cố là ‘người ấy đã
về nhà rồi’. Tôi thấy chính những dòng chữ ‘người đã về nhà’
trên bia mộ ở miềm Bắc Luân đôn đang chờ được gắn vào ngôi mộ. Sau
đây là một quan niệm cao quí về sự chết mà tôi đã sao chép lại
từ một bia mộ ở vùng ngoại ô Luân đôn: ‘Thiên Chúa đã đưa người về
nhà với một tâm trí thanh khiết như tấm bảng mỏng ở dưới đó thi
hài của người vẫn còn yên nghỉ’.
Ví dụ
nổi bật nhất về trạng thái tâm thức cao siêu này là một diễn
biến được tường thuật trong quyển sách mỏng của Richard Hilary tựa
đề là Kẻ thù Cuối cùng. Câu
này được trích ra từ Kinh thánh: ‘Kẻ thù cuối cùng ắt bị tiêu
diệt chính là sự chết’. Hilary đã tường thuật bằng uy tín của
mình là một phi công, người này đã từng bắn hạ nhiều máy bay của
kẻ thù. Vào một đêm, chính người ấy bị bắn rớt và máy bay của y
bốc cháy rơi xuống kênh đào nước Anh. Y được cứu sống nhưng mặt bị
phỏng nặng và y phải nằm bệnh viện mất một năm trời để cho bác
sĩ giải phẫu hầu như tạo cho y một khuôn mặt mới. Ngoại trừ đôi
mắt thì dáng vẻ của y thay đổi rất nhiều. Sau khi xuất viện y lại
trở về phục vụ không quân. Y tiếp tục những cuộc phi hành để rồi
cuối cùng lại bị bắn hạ và mất mạng.
Trong
quyển sách Kẻ thù Cuối cùng
ấy, Hilary có đề cập tới diễn biến của một phi công bạn đồng liêu
của mình bị bắn hạ và mất mạng. Người phi công kia đã hứa hôn khi
mất mạng. Hôn thê của người ấy đang làm việc để phục vụ chiến
tranh. Dĩ nhiên cái chết của người yêu khiến cho cô bị sốc rất
nặng, nhưng điều đáng chú ý là thái độ của cô đối với người yêu
sau khi chết. Cô ngộ ra rằng người yêu vẫn còn sống lẩn quẩn quanh
cô, nó mạnh mẽ và là một đức tin sống động đến nỗi Hilary vốn
thừa biết cô cũng phải chế nhạo cô về sự si mê ảo vọng ấy. Nhưng
cô trả lời như sau:
‘Tôi
biết rằng mọi chuyện đều
chưa chấm dứt đối với Peter và tôi. Tôi biết như vậy với hết cả
đức tin mà bạn coi thường. Chúng tôi
sẽ lại cùng sống bên nhau và
bây giờ chúng tôi đã sống bên nhau rồi. Lúc nào tôi cũng cảm thấy
anh ấy gần kề tôi và đó chính là sự đáp trả của tôi đối với câu
chuyện rẻ tiền của bạn về các giác quan. Peter sống bên trong tôi.
Anh ấy chẳng đến mả cũng chẳng đi vì anh ấy là mãi mãi hiện
diện. Ngay cả khi anh còn sống cũng chưa bao giờ hoàn toàn có được
sự âu yếm và thân mật giữa chúng tôi như bây giờ.
‘Tôi tin
rằng trên đời này chúng ta sống dường như thể trong một căn phòng
phủ những bức màn che rồi bật đèn lên. Có lẽ là chỉ một hai
dịp là chúng ta có cơ hội tắt đèn đi và kéo bức màn che lên. Lúc
bấy giờ nhất thời bóng tối bên ngoài trở thành ánh sáng và
chúng ta thoáng thấy được điều nằm vượt ngoài tầm kiếp sống này.
Chẳng những tôi tin sau khi chết vẫn còn sống mà trước khi chết
cũng vẫn còn sống nữa. Đối với tôi cuộc đời này chỉ là một
thời khoảng trung gian sinh hoạt trong bóng tối tâm linh. Trên đời
này chúng ta chỉ sinh hoạt biến dịch vô thường chứ không tự tại.
‘Peter và
tôi đời đời gắn bó cùng nhau, số phận của chúng tôi là như nhau’
[[3]]
Lời
lẽ của một mệnh phụ có trình độ tâm linh cao chứng tỏ rằng ngay
cả trong khi bị bức màn trên cõi trần che phủ, cô vẫn có thể xuyên
thấu qua bức màn che phủ ấy và cảm nhận được sinh hoạt mãnh liệt
của việc người yêu mình hiện diện trong cõi trung giới. Đây là ví
dụ duy nhất mà tôi biết được về sự xuyên thấu kỳ diệu qua những
bức màn che.
Tuy
nhiên thường thường thì thái độ đối với sự chết được phản ánh
rất nhiều trong thói quen ở các gia đình nước Anh, ‘kéo những bức
màn che’ xuống mọi cửa sổ. Có một bài thơ rất hay của Wifrid Owen,
một thi sĩ trẻ tuổi tử trận trong Thế chiến thứ Nhất khi mới vừa
25 tuổi. Trong bài Quốc ca dành cho Thanh niên vắn số có hai dòng
đầu tiên như sau:
‘Chuông
gọi hồn nào dành cho những kẻ chết như lũ trâu bò?
Chỉ có
tiếng gầm thét quái gở giận dữ của những cỗ súng’.
Ông
kết thúc bài thơ này bằng ba dòng miêu tả điều xảy ra khi nhận
được tin người lính tử trận:
‘Cặp lông
mày tái mét của các cô gái ắt là khăn phủ quan tài của họ;
Những đóa
hoa của họ ắt là sự dịu dàng của những tâm trí kiên nhẫn,
Và mỗi
tang lễ chậm chạp ấy là việc kéo những bức màn che xuống’.
Ngày
nay, hầu như chúng ta không thể nhận ra được sự ma quái của bầu
không khí bao quanh nước Anh tại những gia đình nào cách đây sáu,
bảy mươi năm có người thân chết. Xác chết được giữ trong nhà
khoảng một tuần, trong khi người ta cử hành mọi thủ tục tang lễ.
Căn nhà lặng ngắt như tờ, mọi người di chuyển trong đó càng ít gây
tiếng động càng tốt, nói năng thì thào và một bầu không khí chung
ảm đạm lúc nào cũng tràn ngập ngôi nhà. Người ta có thể tưởng
tượng được cái bầu không khí khủng khiếp ấy gây một ảnh hưởng
làm ngã lòng sâu sắc đối với lũ trẻ. Hết thời kỳ này thì tang
gia tụ tập trong một căn phòng. Mọi người đều mặc đồ đen, người
tổ chức tang lễ phân phát những găng tay màu đen, thi hài được
khiêng xuống những bậc thang để đặt vào trong cỗ xe tang. Chính cỗ
xe tang cũng màu đen và thời đó nó có ở bốn góc và ở giữa dựng
một cái lông lớn của con chim đà điểu nhuộm màu đen. Thế rồi đoàn
người và xe diễu hành chầm chập sau cỗ xe tang.
Trong
khi bầu không khí thật nghiêm trang thì tất nhiên nó là hoàn toàn u
ám bởi vì lúc nào người ta cũng nghĩ rằng: ‘Lạy Cha, giờ đây
chúng con xin trao phó lại người phục vụ Cha đang nằm ngủ trong
hồng ân của Cha quan phòng’. Nghi thức này vô cùng long trọng khi vị
linh mục tới thăm xác chết ở cổng phòng quàn tại giáo đường, rồi
di chuyển về phía ngôi mộ và lặp đi lặp lại những lời lẽ long
trọng: ‘Chúa dạy, Ta là sự Phục Sinh và Sự Sống. Kẻ nào chết
rồi mà tin Ta thì sẽ sống; còn bất cứ ai đang sống mà tin vào Ta
thì sẽ chẳng bao giờ chết’. Thế rồi người ta long trọng ném đất
xuống quan tài vùi sâu 6 bộ dưới mặt đất, miệng lẩm bẩm: ‘Đất
trở về với đất, tro trở về với tro, cát bụi trở về với cát
bụi’. Sau phần nghi lễ này thân bằng quyến thuộc trở về nhà để ăn
bữa ăn nhẹ.
Có
một điều gì đó trong sự u ám này đã bớt đi vì ngày nay nhiều Ki
Tô hữu (ngoại trừ tín đồ Công giáo La Mã) chỉ nội trong ba ngày
là xác quàn trong quan tài được đưa tới lò thiêu, ở đó có một
tang lễ ngắn ngủi và long trọng. Người ta lẩm bẩm câu: ‘Đất bụi
trở về với đất bụi’ khi quan tài rời xa khuất mắt chuyển sang một
căn phòng khác, ở đó nó được đưa ngay đi thiêu bằng lửa hoặc bằng
điện.
Vấn
đề Linh hồn Bất tử không giải quyết được qua những bằng chứng mà
Thần linh học có thể cung cấp cho ta về việc cá thể còn tồn tại
sau khi chết. Cho dẫu có những bằng chứng không thể thách đố được
là thực thể giao tiếp qua một đồng cốt quả thật là người ‘đã
chết’, thì vẫn không có bằng chứng thật sự nào là sinh hoạt bên
kia cửa tử mang tính vĩnh hằng, nghĩa là Thời gian vô tận. Ai mà
biết được liệu sau một thế kỷ hoặc vài thế kỷ nữa, phần Hồn có
ngừng tồn tại hay chăng? Vì vậy vấn đề Bất tử là chuyện khác
hẳn.
Sự
khác nhau này được minh họa qua trường hợp Socrates. Chúng ta được
miêu tả tỉ mỉ về tháng cuối cùng của ông trong nhà tù và đó
thật sự là miêu tả cảnh ngộ cuối cùng. Khi giáp mặt với lời
buộc tội mình báng bổ chư Thần linh và lung lạc thanh niên, Socrates
biết rằng mình sẽ bị bồi thẩm đoàn thù nghịch kết án tử. Thế
mà một yếu tố kỳ diệu trong cuộc đời Socrates là có một yếu tố
khôn tả du nhập vào đời ông được ông gọi là ‘tiếng nói nội tâm’
và các tác giả sau này gọi là ‘thần minh’ của ông. Tiếng nói nội
tâm này chẳng bao giờ mách bảo cho Socrates mình
phải làm gì, nhưng bất cứ
khi nào ông làm một điều gì đó mà lẽ ra
không nên làm thì tiếng nói
nội tâm này ngăn cản ông không hành động như vậy.
Socrates có tường thuật nhiều ví dụ về việc ‘tiếng nói nội tâm’
can thiệp vào đời ông. Trong khi ngỏ lời với bồi thẩm đoàn sau khi
bị kết án tử, ông bảo rằng mình bị kết án như vậy là đúng, vì
ông chết như vậy là tốt chứ không xấu. Ông đề cập tới việc khi ông
lên đường đi tới Tòa án thì ‘thần minh’ của ông – vốn ngăn cản ông
đừng làm điều gì lẽ ra không nên làm – lại không nhân cơ hội này
mà lên tiếng. Vì vậy, khi ông lên đường đi tới nơi buộc tội, ông
biết rằng mình đang làm một điều gì đó cốt yếu là tốt. Sau khi
bị kết án, vì một vài lý do nào đấy, ông không thể được uống
thuốc độc ngay tức khắc mà còn phải chờ một tháng mới tới ngày
định mệnh đó.
Sáng
sớm hôm định mệnh, như thông lệ, bạn bè ông tụ tập lại ở cổng
nhà tù rồi vào phòng ông. Hơn một tháng qua, họ vẫn làm như vậy
vì trong thời kỳ đó, Socrates vẫn tiếp tục thuyết trình như thông
lệ về nhiều đề tài liên quan tới bản chất của các Nguyên mẫu và
mối quan hệ của Linh hồn với các Nguyên mẫu. Khi đến ngày định
mệnh, ông vẫn còn đang trò chuyện với một nhóm ban bè thì người
cai ngục bước vào tay cầm chén thuốc độc. Người cai ngục nhận xét
rằng mọi người khác mà bị kết án uống thuốc độc đều nổi giận
đối với y và thường nguyền rủa y. Trong thời kỳ bị tạm giam và
nhất là vào buổi sáng định mệnh; nhưng đối với Socrates thì khác
xiết bao, lúc nào Socrates cũng không oán hận ông mà thật ra còn
thân hữu nữa. Socrates đón nhận chén thuốc độc dường như thể đó
là một tách rượu vang. Ông hỏi người cai ngục xem sau khi ông uống
vào thì triệu chứng ra sao; người này báo cho ông biết là ông không
được đi bộ trong phòng nữa cho đến khi cảm thấy chân nặng nề thì
phải nằm xuống. Chuyện xảy ra như vậy, Socrates nằm xuống và bình
tĩnh chờ chết. Người cai ngục cảm nhận được điều đó và thấy tay
chân ông đã mất cảm giác từ bàn chân trở lên bèn báo cho ông biết
rằng khi sự mất cảm giác lên tới vùng bụng dưới thì ông sẽ mất
mạng rất nhanh. Socrates đã che mặt lại, nhưng đột nhiên lại gỡ bức
màn che ra rồi quay sang một người ban bảo rằng: ‘Crito, tôi còn
thiếu nợ Aesculapius một con công. Bạn có nhớ trả nợ giùm tôi
chăng? Crito hứa trả nợ thay. Thế rồi Socrates che mặt trở lại và
chẳng bao lâu sau người cai ngục gỡ bức màn che mặt ra và loan báo
là Socrates đã chết. Tự nhiên là ban bè ông vô cùng thương tiếc.
Trước
khi ông chết, ban bè đã gợi ý với Socrates đủ thứ mưu đồ giúp ông
thoát chết, chẳng hạn tự nguyện xin đi lưu đày hoặc chấp nhận bị
phạt tiền trên danh nghĩa; Socrates không đồng ý bất cứ chuyện gì
ngụ ý là mình thoát chết bởi vì ông biết rằng chết là bắt đầu
Bất tử.
Thái
độ của Socrates đối với sự chết là do sự thật ông đã biết tới
sự Bất tử nhiều năm trước khi kết liễu cuộc đời qua những suy lý
triết học chủ yếu mang tính tri thức chứ không phải là trải
nghiệm tâm linh, ngoại trừ thỉnh thoảng trải nghiệm về ‘thần minh’
của mình. Socrates đã đắm mình trong sự thực chứng về Thực tại
Tối hậu, Chân, Thiện, Mỹ vốn là chính bản thể của mọi sự sống
hữu hình và vô hình đến nỗi mả lúc nào ông dường như thể cũng
sống cuộc đời Bất tử. Vì vậy, khi đến lúc chết, mặc dù ông không
có được thông tin tỉ mỉ về bên kia cửa tử nhiều hơn mức ý niệm
tổng quát của người Hi Lạp là ông ắt sinh hoạt nơi các Cánh đồng
Elysia cùng với những người ‘đã chết trong hạnh phúc’ nhưng ông vẫn
biết cảm nhận và sinh hoạt với các sự thật là ông ắt đi đến ‘chư
Thần minh’ để tham dự vào tính Bất tử, nghĩa là Thời gian bất
diệt.
Có
một diễn biến nổi tiếng trong cuộc đời của Socrates là giáo huấn
mà ông nhận được khi còn trẻ do Diotima, nữ đạo sư ở đền Delphi
giảng dạy về Chiếc thang Tình ái. Bà giải thích cho ông biết rằng
muốn khám phá ra Tự tại Tối hậu vốn là Chân Thiện Mỹ Tuyệt đối
thì người ta cần phải yêu thương. Bà dạy Socrates rằng cá thể
trước hết phải yêu thương một người và chỉ một mà thôi với một ý
thức hoàn toàn hiến dâng. Một đặc trưng của tình yêu thương này ắt
là chủ thể yêu thương phải tạo ra những đối tượng đẹp đẽ của tư
tưởng, lời nói và hành động vốn là kết quả của năng lực yêu
thương mà y đã phát triển được. Thế rồi Diotima nói tiếp rằng,
mặc dù tình yêu bắt đầu bằng việc yêu vẻ đẹp bên ngoài của đối
tượng được yêu thương nhưng sẽ đến lúc chủ thể yêu thương ắt yêu
thương một đối tượng yêu thương mà dáng vẻ bên ngoài tuyệt nhiên
không có phẩm tính đẹp đẽ. Nhưng y sẽ tiếp tục yêu thương rộng lớn
để tạo ra những tặng vật tốt đẹp ban cho thế gian.
Thế
rồi giống như việc leo lên cầu thang, Diotima giải thích rằng khám
phá kế tiếp ắt là: Nếu chủ thể yêu thương thấy đối tượng được
yêu thương có điều gì dễ thương thì chủ thể yêu thương ắt phải
nhận thấy phẩm tính dễ thương ấy cũng có nơi những người khác,
và vì vậy ắt cũng bắt đầu yêu thương những người khác nữa.
Diotima dạy rằng tiếp tục leo lên Chiếc thang Tình ái, tiếp đó chủ
thể yêu thương sẽ bắt đầu yêu thương vẻ đẹp của Khoa học và Luật
lệ, và rốt cuộc ở đầu mút cuối của Chiếc thang chủ thể yêu
thương ắt giáp mặt với Vẻ đẹp Tuyệt đối vốn đã từng là nguyên
thể dẫn dắt mọi trải nghiệm lâu bền của y về tình thương yêu.
Ta
không thể mô tả Vẻ đẹp Tuyệt đối này bằng bất cứ thuật ngữ nào
trong trải nghiệm của loài người hoặc dùng bất cứ ví dụ tương tự
nào mô tả cho bất cứ sinh linh hoặc sự vật nào đang có trên trần
thế. Nhưng chủ thể yêu thương biết rằng chính nguyên thể Vẻ đẹp
Tuyệt đối này lúc nào cũng đang dẫn dắt mình leo lên Chiếc thang
Tình ái để cuối cùng đạt tới mức thành tựu là phát hiện được
Vẻ đẹp Tuyệt đối. Khỏi cần phải nói rằng nhìn thấy Vẻ đẹp
Tuyệt đối ‘tận mắt’ có thể nói là hiệp nhất với sự Bất tử và
vì vậy mọi ý thức về sự chết đều biến mất khỏi cuộc đời của
chủ thể yêu thương.
Từ
ngữ ‘yêu thương’ có rất nhiều nghĩa. Khi đấng Christ bảo rằng Điều
răn Đầu tiên là hãy yêu thương Thượng Đế thì Ngài có nói thêm Điều
răn thứ Nhì cũng giống như vậy, ‘Con hãy yêu thương đồng loại của
mình như chính bản thân mình’. Hiển nhiên là ta không thể ‘yêu
thương’ người lân cận với cùng một cường độ tận tụy và xả thân
như một bà mẹ yêu thương con mình hoặc chủ thể yêu thương yêu thương
đối tượng được yêu thương của mình. Trong lời nói của đấng Giê su
Ki Tô, từ ngữ ‘yêu thương’ có nhiều ý nghĩa hơn hẳn so với lòng Từ
thiện toàn bích vốn chẳng bao giờ phạm phải sự bất công nào đối
với người lân cận và ắt chia xẻ với y bất cứ điều gì tốt đẹp
mà mình đã phát hiện ra được.
Có
một loại tình yêu quả thật rất hi hữu, tuy nhiên nó đã diễn ra
đối với một vài người nam hoặc nữ. Điều này là khi đối tượng
được yêu thương được coi là một linh ảnh về Đấng Thiêng liêng, là
con đường dẫn tới Thượng Đế. Vậy là ta có câu chuyện tuyệt vời
về tình yêu của Dante đối với Beatrice. Vào cuối tác phẩm
Cuộc sống mới của mình (Vita
Nuova) qua một trong nhiều bài thơ, ông có nói tới Mona Bice, vốn là
phu nhân Beatrice. Khi kết luận tác phẩm
Cuộc sống mới Dante có viết
rằng: ‘Nếu đời tôi mà tiếp tục thêm được vài năm nữa thì tôi hi
vọng sẽ nói với nàng cái điều mà tôi chưa bao giờ nói với bất
cứ người phụ nữ nào khác’. Phần cuối cùng trong tác phẩm
Hài kịch Thiêng liêng tức
phần Thiên đường vốn không
tách rời khỏi sinh hoạt trên cõi trời của Beatrice.
Trong
sáng tác vĩ đại của Dante là vở
Hài kịch Thiêng liêng có hai
cá thể dẫn dắt ông đi hành hương. Thông qua tác phẩm
Luyện ngục thi sĩ Virgil đã
đi đến chỗ gặp được Dante, ông bảo rằng được một thông điệp của
một phu nhân ở trên cõi trời biệt phái ông dẫn dắt Dante trong cuộc
du hành xuống âm phủ. Virgil là biểu tượng minh triết toàn bích nơi
con người. Nhưng có lúc trong cuộc hành hương của Dante khi ông
chuyển từ Luyện ngục sang
Thiên đường thì có một nhân
vật thứ nhì xuất hiện để dẫn dắt ông. Đó chính là người yêu
Beatrice của ông vốn là biểu tượng của Minh triết Thiêng liêng.
Chính bà dẫn dắt ông từ cõi trời này sang cõi trời khác. Một khi
ông đã hoàn toàn đắm chìm vào vẻ đẹp tuyệt vời của Beatrice thì
ông ở trong trạng thái ngây ngất. Chính lúc bấy giờ bằng một ‘nụ
cười hớp hồn’ bà ngỏ lời với ông bằng những lời lẽ âu yếm:
‘Chàng hãy quay lại lắng nghe, vì Thiên đường không chỉ ở trong đôi
mắt của thiếp’. Thật vậy chỉ khi ông chăm chú theo dõi tầm nhìn
của Beatrice thì ông mới phát hiện ra rằng mình đã chuyển từ một
cõi trời này sang một cõi trời khác kế tiếp cao hơn.
Trong
huyền thoại Ba Tư, ta cũng thấy cái cường độ yêu thương ấy của một
chủ thể yêu thương đối với một đối tượng được yêu thương khi người
phụ nữ Zuleykā nói với người yêu của mình là Yusūf:
‘Thiếp sẽ
cuộn tròn tấm thảm sự sống khi thiếp nhìn thấy
Gương mặt
thân yêu của chàng một lần nữa và thiếp ắt không còn hiện hữu;
Vì trong
sự ngây ngất ấy bản ngã và mọi thứ đều bị mất đi
Những sợi
tơ hồng trong tư tưởng của thiếp ắt vuột khỏi tay thiếp;
Chàng ắt
là linh hồn của thiếp để thay thế cho linh hồn của chính thiếp;
Mọi tư
tưởng về Bản ngã đều bị quét sạch khỏi tâm trí thiếp,
Và ắt
chỉ thấy chàng thay thế cho thiếp;
Quí giá
hơn cả cõi trời, thân thương hơn cả trần thế,
Bản thân
thiếp cũng bị quên đi nếu chàng ở gần bên thiếp’.
Tình
yêu của người nữ tu Heloise đối với nam tu sĩ Abelard là chồng của
mình cũng được giải bày tương tự:
‘Tâm hồn
của em không còn thuộc về em nữa mà thuộc về chàng. Nhưng giờ đây,
hơn bao giờ hết, nếu nó không ở cùng chàng thì nó chẳng ở đâu
hết. Đó là vì nếu không có chàng thì nó không thể tồn tại ở
bất cứ nơi đâu.
. . . Em đã tự cấm mình không
hưởng thụ mọi khoái lạc để tuân theo ý muốn của chàng. Em đã
không dành một chút gì cho bản thân, ngoại trừ cái lòng son sắt
này giờ đây hoàn toàn thuộc về chàng’.
Trong
diễn biến được tường thuật
ở quyển sách của
Richard Hilary về người thiếu phụ Anh quốc, bà đã siêu việt được
biên giới của sự chết vì người yêu lúc nào cũng gần kề bên bà.
Nhất thời bà đã đạt được cái ý thức về sự
bất tử. Nhưng bởi vì bản chất của con người ta được cấu
tạo sao cho ký ức dần dần phai nhạt đi cho nên rất có thể là trong
trường hợp của bà, cường độ thực chứng của sự đơn nhất với
người yêu có thể dần dần giảm bớt đi. Nhưng điều này không có
nghĩa là hoàn toàn biến mất khỏi cuộc đời bà. Nó chịu một sự
biến đổi giống như Ruskin đã mô tả. Ngay từ thời còn niên thiếu,
Ruskin luôn chú ý tới vẻ đẹp, màu sắc và hình dạng của các đám
mây. Ý thức về vẻ đẹp này tăng lên khi ông trưởng thành và trong
các tác phẩm của mình ông thường viết về các đám mây. Đến lúc
về già, khi viết văn Ruskin vẫn nhận xét rằng phản ứng xúc động
của mình về vẻ đẹp của các đám mây tất nhiên đã giảm đi theo
tuổi tác. Mặt khác, ông lại bảo rằng thay vào chỗ sự đáp ứng
xúc động đó, ông lại có một ý thức
tâm linh sắc sảo hơn về vẻ
đẹp của các đám mây. Nói cách khác, trong phần đầu của cuộc đời,
ông nhìn thấy các đám mây xuyên qua bức màn che là cõi trần và
bức màn che là cõi trung giới; rồi đến một lúc mà ông siêu việt
được ngay cả bức màn che tâm thức cõi trung giới ấy để ‘nhìn
thấy’ các đám mây qua bức màn che tinh vi hơn là thể trí.
Xét
về vấn đề hai linh hồn hoàn toàn tận tụy với nhau trong tình yêu
qua tinh thần hi sinh, ta có một phát biểu rất đáng chú ý vào năm
1875 của vị Chơn sư thuộc Chi bộ Ai Cập trong Quần Tiên Hội, ngài
ký tên là ‘Chơn sư Serapis’.
‘Hỡi huynh
đệ, nên biết rằng ở đâu có một tình thương tâm linh chân chính tìm
cách tự củng cố để tăng lên gấp đôi qua sự hiệp nhất thuần túy,
thường tồn của cả hai, theo ý nghĩa trần tục thì dưới mắt Ain
Soph vĩ đại; điều này không phạm phải tội lỗi nào hoặc tội ác
nào vì đó chẳng qua chỉ là sự lặp lại thiêng liêng các Nguyên thể
Âm và Dương vốn là sự phản chiếu xuống tiểu vũ trụ của tình
huống ban sơ trong Cơ sáng tạo. Các Thiên thần có thể mỉm cười
trước sự hiệp nhất ấy ! Nhưng huynh đệ ơi, chuyện đó rất hiếm có
và chỉ có thể được sáng tạo ra căn cứ trên sự giám sát minh
triết và yêu thương của Quần Tiên Hội để cho những đứa con trai và
con gái bằng đất sét không thể bị bại hoại hoàn toàn và lặp lại
được Tình yêu Thiêng liêng của những Cư dân Cõi cao (Thiên thần) đối
với các con cái của Adam. Nhưng ngay cả như vậy cũng phải chịu
nhiều đau khổ trước khi được tưởng thưởng. Atma của con người
có thể
vẫn còn thanh khiết và đạt mức
tâm linh cao siêu trong khi nó hiệp nhất với xác thịt vật chất; tại
sao hai linh hồn trong hai thể xác lại không thể vẫn còn trong sạch
và không ô nhiễm bất cứ sự hiệp nhất phù du trần tục của hai thể
xác nêu trên. SERAPIS. [[4]]
Ta ắt
để ý thấy rằng Chơn sư không nói tới hai người yêu nhau bình thường
cho dù họ có tận tụy với nhau đến đâu đi nữa, mà nói tới hai
người được đặc trưng bởi ‘một tình yêu tâm linh đích thực’. Điều
này có nghĩa là cả hai đều cam kết làm việc tận tụy để cứu
chuộc nhân loại theo sự chỉ đạo của Quần Tiên Hội. Nói cách khác,
cả hai đều là đệ tử của các Chơn sư Minh triết mặc dù không nhất
thiết có cùng một Sư phụ bởi vì rất có thể họ thuộc hai Cung
khác nhau.
Khi ta
có hai Linh hồn như thế thì một hành vi đặc biệt của Quần Tiên
Hội có thể diễn ra khiến cho hai Linh hồn này ‘tuy hai mà một’.
Nhưng tác động đặc bệt này chỉ có mục đích để cho cả hai có thể
trở thành một kênh dẫn lớn hơn đối với các thần lực từ bên trên.
Nếu mỗi một người được biểu thị bằng con số một, thì trong
trường hợp bình thường, hai người tận tụy với nhau có thể được
biểu thị là 1+1=2. Nhưng khi diễn ra tác động đặc biệt của các
Chơn sư thì không còn là 1+1=2 nữa mà là 22 , nghĩa là
2x2=4. Nói cách khác, kênh dẫn để cho thần lực từ trên cao tuôn đổ
xuống không phải là hai kênh dẫn, mỗi kênh có trị số bằng 1, mà
là một kênh dẫn lớn hiệp nhất có trị số bằng 4.
Hơn
nữa, khi hai Linh hồn tận hiến cho Công trình Vĩ đại mà do Tình yêu
Thương lẫn nhau càng ngày càng tăng, càng ngày càng phát hiện thêm
Ánh sáng Ẩn tàng, thì cứ mỗi kiếp sống trôi qua, phẩm tình của
chúng dưới một kênh dẫn hiệp nhất cho Công trình và Ánh sáng ấy
lại tăng theo cấp số nhân. Trong khi kiếp đầu tiên bắt đầu là 4,
thì kiếp kế tiếp là 2x4=8, kiếp sau nữa là 2x2x2x2=16, v.v. . .
với vẻ huy hoàng và hữu ích càng ngày càng tăng.
Nhưng
Chơn sư có bảo rằng trong khi sự hiệp nhất này ‘chỉ có thể được
sáng tạo ra qua sự giám sát minh triết và yêu thương của Quần Tiên
Hội’ thì ‘ngay cả được như thế cũng phải chịu nhiều đau khổ trước
khi được tưởng thưởng’. Tại sao lại phải chịu đau khổ vốn là yếu
tố không thể tránh khỏi trong cái qui trình hiệp nhất cấp cao này?
Tôi chỉ có thể gợi ý lời giải đáp qua một ví dụ tương tự. Ngày
nay, các chuyến bay đều vượt qua những khoảng cách dài và lúc nào
người phi công cũng phải mặc đồng phục ngay cả trong một vài ngày
khi y chờ đợi ở nơi đến trước cuộc hành trình trở về. Y ắt chỉ
mang theo hành lý tối thiểu thôi, thậm chí có lẽ chỉ mang theo
quần áo lót. Việc vứt bỏ các túi xách, rương v.v. . . thường
thường thì là chuyện cần thiết vì điều kiện của chuyến bay. Cũng
giống như vậy, hai Linh hồn đã cam kết tận hiến cho Công trình Vĩ
đại ắt phải giải thoát khỏi nhiều loại hình Nghiệp quả vốn ngăn
cản họ phục vụ hữu hiệu cho Công trình Vĩ đại. Việc ‘trả quả’
này tất nhiên gây nhiều đau khổ sắc sảo, có lẽ trải dài qua nhiều
năm. Nhưng khi thảm kịch hành hình trên ‘thập tự giá’ này đã qua
rồi đối với mỗi người trong kiếp đó thì tác động của Quần Tiên
Hội mới có thể diễn ra được. Từ lúc đó trở đi, hai Linh hồn ‘tuy
hai mà một’.
Có
một sự kiện thú vị là từ lúc hai Linh hồn trở nên ‘tuy hai mà
một’ do tác động của các Chơn sư thì nghiệp quả của họ hòa lẫn
vào nhau. Điều này dường như thể hai Nghiệp quả ấy là hai bình
thông nhau bằng một ống chung. Nếu mức nước ở bình này dâng lên
thì mức nước ở bình kia cũng dâng theo cho đến khi cả hai mức nước
ngang nhau. Nếu mức nước ở một bình này giảm đi thì sự bình đẳng
hóa tương tự cũng xảy ra như thế. Đau khổ của người này đồng thời
được người kia chia xẻ; cũng vậy niềm vui của người này góp thêm
vào niềm vui của người khác. Thế là xuyên suốt qua bao nhiêu thời
đại, cả hai đề huề sánh bước bên nhau.
Chiếc
thang của Tình yêu cao cả và toàn bích không phải là Chiếc thang
duy nhất mà các Linh hồn có thể theo đó bước lên Cõi giới Bất
tử. Còn có những phương tiện đáp ứng khác nữa. Một phương tiện
như vậy là đáp ứng với thông điệp do Thiên nhiên ban ra. Trong số
mọi nhà thơ nước Anh, Wordsworth cảm nhận được thông điệp này một
cách sâu sắc nhất. Ông cần phải cô đơn để trải nghiệm vĩ đại như
vậy mà ông đã miêu tả qua những lời lẽ sau đây:
. . . ‘Cái
tâm trạng được ban phước ấy,
Trong đó
gánh nặng của điều bí nhiệm,
Trong đó
sức nặng gây mệt mỏi
Của toàn
thể cái thế giới chẳng ai hiểu nổi này,
Được giảm
nhẹ đi; cái tâm trạng thanh thản được ban phước ấy,
Trong đó
tình luyến ái âu yếm dắt ta đi,
Cho đến
khi hơi thở của cái bộ khung xác thịt này,
Và ngay
cả chuyển động của dòng máu con người,
Hầu như
tạm ngưng lại và ta đang thiu thiu
Trong cơ
thể để biến thành một linh hồn sống động;
Trong khi
con mắt của ta đâm ra tịch lặng do quyền năng
Của sự
hài hòa và công năng sâu kín của hoan hỉ,
Mà ta
nhìn xuyên suốt được sinh hoạt của vạn vật’.
Ông đã
mô tả rất minh bạch về cái trải nghiệm: ‘Chúng ta thiu thiu trong
xác thịt để biến thành một linh
hồn sống động, vào cái lúc mà ông biết thốt lên được thế nào
là Bất tử, mặc dù ông khó lòng thực chứng được nó theo cái
nghĩa mà tôi đang sử dụng hiện nay về ‘sự Bất tử ’.
Còn
có những phương thức thực nghiệm khác nữa. Mỗi Linh hồn có con
đường riêng của mình dẫn tới Đỉnh cao nhất. Một số Linh hồn hưởng
ứng với thông điệp của Thiên nhiên khi nó xuất phát từ một rặng
núi hùng vĩ; Linh hồn khác lại đáp ứng với thông điệp xuất phát
từ biển cả; Linh hồn khác lại đáp ứng với thông điệp xuất phát
từ núi đồi, thung lũng hoặc hồ nước; có Linh hồn lại thấy nó
trong một đóa hoa đẹp tuyệt vời như hoa sen hoặc hoa hồng; nhưng nếu
ta có một tâm trạng đáp ứng đúng đắn thì thông điệp về Bất tử
ấy cũng có thể tìm được nơi đóa hoa dại nhỏ nhất trên cánh đồng.
Cũng
vậy, một số người đáp ứng thông điệp của âm nhạc. Ắt có một vài
khoảnh khắc đáp ứng cao hứng khi thính giả quả thực ‘ngủ thiu thiu
trong thể xác để biến thành một linh hồn sống động’. Không thể
trải nghiệm điều này trong những phòng hòa nhạc thời nay vì ngay
sau khi buổi trình diễn âm nhạc kết thúc thì người ta vỗ tay hoan
hô nhặn xị lên làm cắt đứt hoàn toàn tâm trạng cao hứng ấy. Nhưng
tôi đã nghe ở Luân Đôn trong phòng riêng của mình các loại âm nhạc
vĩ đại mà dàn nhạc của đài BBC Luân Đôn trình diễn. Dĩ nhiên ngay
sau khi buổi trình diễn âm nhạc kết thúc, tôi phải đứng phắc lên
và tắt radio để cho tâm trạng cao hứng của tôi không bị khựng lại
vì tiếng vỗ tay dễ sợ. Nhưng vào lúc kết thúc một bản sonate
trình diễn bằng vĩ cầm nào đấy, khi nhạc sĩ vĩ cầm kết thúc
bằng một nốt nhạc nào đó tắt dần đi thì tôi đã cảm nhận được
mình tiếp xúc với sự Bất tử.
Tất
cả ai lắng nghe khúc dạo đầu tác phẩm
Lohengrin của Wagner cũng đều
có được ý thức về tính Bất tử ấy trong một chừng mực nào đó.
Tác phẩm này miêu tả Chén Thánh khi nó còn ở trên Trời mà các
thiên thần sùng bái vây quanh, họ từ từ đưa nó xuống trần thế để
rồi lại thu hồi nó. Trong khúc dạo đầu mô tả Chén Thánh trên
Trời, nhạc sĩ vĩ cầm chơi đàn rất nhuyễn với một nốt nhạc rất
cao và tiếp tục trong mấy chục nhịp. Các nhạc cụ khác cũng dần
dần gia nhập vào đội ngũ vĩ cầm, mọi thứ đều rất tinh vi để bộc
lộ qua âm nhạc việc Chén Thánh từ từ giáng xuống. Rồi tới lúc
Chén Thánh giáng trần do các thiên thần mang giữ và toàn thể dàn
nhạc họp nhau lại vang khúc khải hoàn qua âm lượng tưng bừng của âm
thanh nối tiếp trong một thời gian. Âm lượng lớn này từ từ giảm
bớt khi các thiên thần trở về Trời mang theo Chén Thánh và cuối
cùng giống như khúc dạo đầu, âm nhạc xuất phát từ đàn vĩ cầm
với một nốt nhạc cao từ từ tắt dần.
Thật
kỳ diệu khi đôi lúc trong âm nhạc việc cuối cùng thực chứng được
thông điệp vĩ đại do âm nhạc chuyển tải lại có thể được trải
nghiệm từ chỉ một cú vỗ lên trống cơm. Có một ví dụ trong tác
phẩm Vành đai Nibelungen của
Wagner, trong đó khi âm nhạc từ từ kết thúc thì có một cú gõ nhẹ
cuối cùng trên trống giống như chìa khóa mở toang cánh cửa bí
nhiệm.
Chúng
ta quả thật có trải nghiệm những khoảnh khắc thực chứng đứt
quãng. Điều này dường như thể khi ta leo lên tới đỉnh một ngọn núi
rồi từ đó nhìn ra ngoài thấy một viễn cảnh vĩ đại. Nhưng sau đó
chúng ta lại xuống thung lũng. Carlyle đã từng một lần miêu tả tác
dụng của âm nhạc như sau: ‘Âm nhạc là một thứ ngôn ngữ khôn dò,
không thốt nên lời, nó đưa ta tới tận biên giới của điều vô hạn,
rồi để cho ta nhìn đăm đăm vào đó trong một lúc’. Tương tự như vậy,
tùy theo tính khí của mỗi người mà ai ai cũng có những tia chớp
lóe thoáng thấy điều vượt ngoài tầm sự sống phù du và ở tận
cõi Bất tử.
Vấn
đề là liệu có thể nào thực chứng được tính Bất tử, tức sinh
hoạt trong cõi Phi Thời gian, lúc nào cũng vậy mà không bị ngắt
quãng chăng? Điều này cần có một
loại hình Yoga mới mẻ và cao cấp. Tôi chỉ có thể miêu tả
nó bằng một ví dụ tương tự. Trước hết ta thật sai lầm khi nghĩ
rằng quá khứ là quá khứ. Trong cụm từ ‘Hiện tại Vĩnh hằng’ có
một sự thật tuyệt vời. Ta có thể khiến cho quá khứ cũng sống
động như hiện tại, miễn là ta biết được phương tiện thiện xảo.
Yếu tố trước hết là ta phải nhớ kỹ điều mà mình trải nghiệm khi
ở trên đỉnh núi, thế rồi sống
trở lại với cường độ trải nghiệm của mình cho dẫu một điều
gì đó trong cường độ ấy đã phai mờ đi trong ý thức của ta. Thế
rồi mọi khoảnh khắc cao độ ấy – không chỉ là trên Chiếc thang Tình
ái mà còn trên mọi Chiếc thang khác nữa – đều phải được
sống trở lại. Có thể nói ta
phải khiến cho mỗi trải nghiệm trong quá khứ giống như một chuỗi
ngọc trai được xuyên xỏ trên một sợi dây bằng bạc (ở Ấn Độ là
một chuỗi hạt gồm 108 hạt) và biến chuỗi ấy thành một tràng
hạt.
Khi
sùng tín tay cầm tràng hạt, cứ mỗi một bài cầu nguyện ngắn lặp
đi lặp lại thì lần một hạt. Người ta làm như vậy hết tiếng đồng
hồ này sang tiếng đồng hồ khác, ngoại trừ thời gian cầu nguyện
chính thức lâu dài hơn. Tương tự như vậy, ta phải biến những khoảnh
khắc cao hứng trong quá khứ thành một tràng hạt sao cho khi ta sống
trở lại những khoảnh khắc ấy một lần nữa thì toàn thể quá khứ
trở thành một Hiện tại sống động đối với ta. Mỗi khoảnh khắc
quá khứ khi ta ở trên đỉnh núi rồi nhìn về xa xăm thấy một linh
ảnh thật sự ngụ ý ta đang nhất thời sinh hoạt hiệp thông với sự
Bất tử. Do đó, khi ta rèn luyện mình bằng tràng hạt thì Thời gian
không còn yếu tố chết chóc nữa, bởi vì ta luôn luôn sống trong Phi
Thời gian vốn hiệp nhất với tính Bất tử.
Nếu
theo luận đề của tôi và của Socrates, người ta có thể ngày nào
trong cuộc đời mình cũng ý thức được tính Bất tử và vì mọi
kiếp sống đều là một nhà tù cho nên người ta có thể thắc mắc,
Tại sao không tự tử để ra khỏi nhà tù ấy?
Người
La Mã coi mình là chủ sinh mệnh của chính mình và khi họ thấy
trên đời này chẳng còn gì nữa dành cho mình thì họ bèn tự tử
xét vì họ hoàn toàn có quyền làm như vậy. Người ta thường tự tử
bằng cách đi vào nhà tắm hơi rồi cắt đứt tĩnh mạch của mình,
chẳng hạn như chàng thanh niên nổi tiếng Cato ở Utica. Cato bị Caesar
đánh bại nhưng không giết chết trên chiến trường; ông không muốn
mình bị Caesar bắt làm tù binh vì ông coi như Caesar sẽ tự phong
mình làm hoàng đế, rồi dẹp bỏ quyền tự do ở La Mã. Thế rồi Cato
đọc lời đàm thoại Phaedo của
Socrates về tính Bất tử, ông bèn xúi một người nô lệ cầm một cây
gươm để ở một góc cố định trên mặt đất rồi ông ngã người vào
đó.
Ở
nước Nhật khi hai người yêu nhau mà có thể một người đã bị buộc
kết hôn rồi, khi họ thấy Số phận không cho phép hoàn thành tình
yêu của mình thì họ bèn rủ nhau đi trốn hết nơi này sang nơi khác.
Nhưng cuối cùng khi thấy cảnh sát sắp bắt được mình họ bèn quyết
định tự tử bằng cách trầm mình. Với vai trò là Phật tử họ ắt
tin rằng sau khi chết mình vẫn còn tiếp tục sinh hoạt. Vậy là
trong vở tuồng Tự tử vì Tình ở
Imajima của Chickamatsu, hai người yêu nhau tự tử cũng thề
thốt: ‘Mong sao hai chúng ta lại cùng nhau tái sinh bên trong hoa sen’;
điều này có nghĩa là Mong sao chúng ta đời đời hưởng cực lạc bên
nhau ở cõi Thiên đường.
Không
ai chê trách họ mà chỉ thương xót cho họ. Thật vậy, một thi sĩ
Nhật bản còn đi xa đến mức bảo rằng hai người khộng được nổi
loạn chống lại số phận và tốt hơn là họ nên viết một bài thơ,
không tỏ ra thất vọng mà suy nghĩ khác về cuộc đời, để lại trên
bờ sông rồi cùng nhau nhảy ùm xuống nước.
Socrates đáp lại vấn đề tự tử theo một hướng khác. Ông bảo rằng
chúng ta không làm chủ được mình mà là ‘tôi tớ của Thượng Đế’,
cho nên ta phải chờ cho Ngài ra sắc lệnh quyết định xem khi nào
chúng ta được giải thoát khỏi nhà tù cuộc đời.
Công
trình hiệp nhất với Bất tử không thể được hoàn tất chỉ nội trong
những trải nghiệm của một kiếp sống cho dù chúng mang tính tâm
linh đến đâu đi nữa. Thực chứng được Bất tử khi còn ở trong xác
phàm có nghĩa là phải có được năng lực nhìn thấu xuống qua cả
bảy bức màn che phủ lên tâm thức. Nói cách khác, nó có nghĩa là
sinh hoạt trong thể xác với vai trò là phàm nhân nhưng đồng thời
cũng trên cương vị là chơn thần vốn đời đời hiệp nhất với Thượng
Đế, ‘là Con trong lòng Cha’. Cần phải có nhiều kiếp trải nghiệm
và trong mỗi kiếp ắt phải có một đồi Calvary và một sự hành
hình trên Thập giá. Đó là vì mọi cặn bã phải được tẩy sạch
khỏi mọi hiện thể của Linh hồn và mọi Nghiệp xấu, tức Nghiệp
chướng phải tiêu tan hết thì người ta mới nhìn chăm chú vào Hồn
Vạn Vật với một tầm nhìn không bị mờ ám để cảm nhận được một
cách cực kỳ thanh khiết nhịp tâm thu và nhịp tâm trương của Hồn
Thế giới.
Có
bảy tính khí căn bản trong các Linh hồn và người ta cần bước trên
Thánh đạo trải qua cả bảy. Tôi đã dùng ví dụ về Chiếc thang. Có
một Nấc thang Tình ái, Nấc thang Minh triết và Nấc thang nữa là
lòng Sùng tín. Cũng còn có bốn Nấc thang khác nữa. Trong mỗi
kiếp người ta ắt tiến lên một hoặc nhiều nấc. Số phận của mỗi
Linh hồn có phần nào là leo lên mọi nấc của Chiếc thang. Chính ở
đây mà ta không thể tránh được đau khổ. Đó là vì chừng nào ta chưa
đạt tới nấc cuối cùng của Chiếc thang thì cuộc đời của ta vẫn
giống như một mẩu vải được dệt theo một khổ mà sợi chỉ dọc và
sợi chỉ ngang chính là đau khổ và hoan hỉ. Ắt sẽ có ngày mà
‘không còn mọi sự chết chóc’ nữa và Linh hồn hiệp nhất với Ánh
quang huy Vĩnh hằng, còn đau khổ chỉ giống như một giấc mơ ban đêm
sáng ra đã hết rồi.
Nhiệm
vụ, Thiên chức của tôi trên cương vị một mảnh vụn của Thượng Đế
là bước trên Chiếc thang Tình ái. Tôi phải bước trên nó không vì
bất cứ tình yêu nào tôi nhắm mang lại hoan lạc cho mình – mặc dù
tình yêu ấy là không thể tránh được – mà là vì Công trình Vĩ
đại. Chủ đề của cuộc đời mà ta phải sinh hoạt được Đức Phật ban
ra khi Ngài tuyên cáo những thông điệp đầu tiên với các sứ giả
‘đánh trống Bất tử ’ (nước cam lồ) sao cho người ta có thể nghe
thấy được về Thánh đạo: ‘Vì phúc lợi của nhiều người, vì hạnh
phúc của nhiều người, vì thương xót cho thế gian, vì hạnh phúc
của chư Thiên và loài người’. Nhưng bước trên Chiếc thang Tình ái
cũng có nghĩa là vác Thánh giá dọc theo con đường dẫn tới đồi
Calvary để chịu Thập giá hình ở đó.
Cách
đây 38 năm, khi tôi một mình đi trên một toa xe lửa thì một linh ảnh
về Thánh đạo xuất hiện phía trước tôi. Tôi nhanh chóng viết linh
ảnh ấy ra thành những câu thơ sau đây. Tôi thiết tưởng việc làm thơ
dễ dàng và nhanh chóng như vậy là do một hồi ức ẩn sâu bên trong
tôi về những trải nghiệm mà tôi có được trong nhiều kiếp quá khứ
khi tôi leo hết nấc này tới nấc khác trên Chiếc thang Tình ái.
Thành tựu
cao siêu của tình yêu
Chẳng qua
chỉ là sự bơ vơ,
Hỡi tâm hồn đừng quên
điều này;
Mỗi khoái
lạc dễ thương
Chẳng qua
chỉ là việc đo lường
Một
sự thông minh mới mẻ.
Tình yêu
càng ngọt ngào bao nhiêu,
Thì nó
càng nhanh chóng chứng tỏ bấy nhiêu,
Hoan
lạc cũng chính là đau khổ;
Mặc dù
mặt trời bị những đám mây che khuất,
Nhưng cứ
nghỉ bên vệ đường,
Mà chẳng bao giờ
trở lại.
Những nụ
cười và những tiếng reo của tình yêu,
Sau đó là
sự xả bỏ,
Nếu muốn cho Tình yêu được
thăng hoa;
Cho đến
khi trong ánh nắng gay gắt chói lòa
Mắt không
thể nhìn đăm đăm mà lòng không sợ hãi,
Thế nhưng
vẫn còn sống sót.
Bước lên
Chiếc thang Tình ái này,
Chẳng có
mà cũng chẳng không,
Giờ đây ban
ắt phải leo lên;
Tâm hồn
héo úa song vẫn phải tươi cười như hoa nở,
Bị chối
bỏ song vẫn phải dâng hiến –
Ôi số phận
ấy cao thượng làm sao!
Lúc
bấy giờ tôi không hề biết rằng linh ảnh đó tiên tri những gì đang
chờ đón tôi trong các năm vị lai. Đối với mỗi nấc trên Chiếc thang
này, quả thật là ‘giờ đây bạn ắt phải leo lên, chẳng có chẳng
không gì hết’. Một khi đã nhập lưu Thánh đạo thì đã bất thối
chuyển. Thật vậy không cả ngưng nghỉ ngoại trừ một thời gian ngắn
để phục hồi sức lực và thu hết sức bình sinh để leo lên những
nấc kế tiếp. Vả lại, một khi Linh hồn đã có được linh ảnh chói
lòa về ánh sáng thì cho
‘đến khi mặt trời chói lòa, nó vẫn không thể nhìn đăm đăm mà không
sợ hãi, thế nhưng nó vẫn sống
sót ’. Linh hồn hầu như bị khủng khiếp ắt thích từ chối hơn,
nhưng nó không thể từ chối được. Nó phải học cái phương tiện
thiện xảo bộc lộ Ánh sáng ấy cho mọi người, làm mờ bớt cái sự
vinh quang chói lòa ấy đi để thích ứng với mắt thiên hạ. Khi nó
đang trả Quả thì cuộc đời cứ ‘chối bỏ’ nó đi ‘chối bỏ’ nó lại.
Mặc dù mọi nỗi quằn quại đau khổ, nó vẫn phải tiếp tục ‘dâng
hiến’ cho mọi người khác những tặng phẩm của Tinh thần. Số phận
mà nó đã tự nguyện chọn lựa quả thật là ‘một số phận cao quí’.
Nó chỉ biết nỗi đau quằn quại trên Thập tự giá còn sự Phục Sinh
và Thăng Thiên chưa được khải huyền cho nó. Thế nhưng ‘Chúa Cha’ vốn
rèn luyện nó để cho nó tham dự vào công trình của mình ắt thấy
nó tất yếu sẽ Phục Sinh để được vinh danh khi Thăng Thiên. ‘Vòng tay
trìu mến đời đời’ ôm lấy nó của Thủ lĩnh là ‘Chúa Cha’ vốn hiệp
nhất với nó trong Tình Huynh Đệ và tương lân vốn dõi theo nó và
phù hộ nó trong những thử thách gay gắt nhất. Mặc dù nó cảm
thấy hoàn toàn cô đơn và cô lập, và nhiệm vụ có vẻ lực bất tòng
tâm đối với nó, nhưng nó không được mất niềm tin mà thậm chí trong
những giây phút chìm sâu nhất xuống địa ngục nó còn phải thốt
lên: ‘Cha biết, Cha biết’.
ĐOẠN KẾT
Khi
tác phẩm nhỏ nhặt Bảy Bức Màn
Che Tâm Thức được xuất bản thì tôi đã vừa tròn 77 tuổi. Giờ
đây tôi có thể nhìn lại để xem công trình của tôi được ghi lại như
thế nào. Nó được chia thành hai phần; một là hoạt động cho Thông
Thiên Học và hai là đời tư của tôi với vai trò một cá thể mưu tìm
hạnh phúc.
Nghiệp
tốt của tôi trong những kiếp quá khứ đã tạo cho tôi
lợi thế được sinh ra trong một môi
trường Phật giáo. Đây là ưu điểm xét về hai mặt. Một là tôi nhanh
chóng được tiếp xúc với ảnh hưởng của Phật, Pháp và Tăng. Tự
nhiên là khi còn nhỏ tôi đã biết được những ý niệm về Luân hồi,
Nghiệp quả; hơn nữa tôi còn làm quen với ý niệm về các Đấng Cao
cả được gọi là La Hán. Ưu điểm thứ nhì là vì sinh trưởng trong
một gia đình Phật giáo, tôi đã hoàn toàn thoát khỏi bất cứ yếu
tố nào có thiên kiến về giai cấp vốn ắt xâm nhập vào tính tình
của tôi ngay từ khi còn nhỏ nếu tôi sinh ra trong một gia đình Ấn
giáo. Ngày nay nhiều nhà Thông Thiên Học hoạt động ở Ấn Độ, mặc
dù sinh ra trong giai cấp Bà la môn và đã chủ yếu dẹp bỏ được
những xiềng xích của giai cấp, song le một điều gì đó về thiên
kiến nguyên thủy vẫn còn tồn tại.
Một
người anh trong kiếp vừa qua của tôi là C.W.Leadbeater được biệt
phái tới Tích lan vào năm 1886 liên quan tới công trình giáo dục về
Phật giáo. Trước khi đi ông được Chơn sư nói bóng gió rằng một em
nhỏ của ông đã bị giết chết khi cả hai còn trẻ nay đã tái sinh ở
Tích lan [[5]]
. Thế rồi ông đã làm việc để tìm kiếm người em ấy và sau
vài năm quan sát đủ thứ bé trai, cuối cùng ông phát hiện được em
của mình chính là tôi. Sau đó ông kể cho tôi về hai vị Chơn sư
chính yếu có liên quan tới phong trào Thông Thiên Học và hỏi xem tôi
muốn theo ai. Tôi không do dự quyết định đó là Chơn sư Koot Hoomi mà
tôi giả định vì có những mối liên hệ trong quá khứ với ‘Chúa Cha
của tôi’.
Từ
lúc tôi quyết định như vậy, Nghiệp quả mới ngay tức khắc bắt đầu
vận hành bởi vì muốn trở thành ứng viên làm việc để phụng sự
Chơn sư thì tôi cần được đưa sang nước Anh và huấn luyện ở đó về
nhiều phương diện. Nhưng khó khăn ở chỗ khi tôi rụt rè gợi ý với
cha mẹ xin rời bỏ Tích lan thì họ hùng hổ gạt phắc đi bởi vì
đối với họ nước Anh vào năm 1889 là một loại phương Tây dã man và
rối rắm. Họ bảo họ sẽ dàn xếp gửi tôi đi học ở Colombo. Vậy thì
biết làm sao bây giờ? Dĩ nhiên chỉ có một lời giải đáp là tôi
phải thoát ly gia đình. Anh kết nghĩa của tôi cẩn thận dàn xếp,
tiếp xúc với thuyền phó của một tàu buồm đang neo ở cảng Colombo,
nơi mà người ấy và một số những đứa trẻ chúng tôi thỉnh thoảng
thường bơi ở đó. Người ta dàn xếp để cho vị thuyền phó tiếp nhận
tôi rồi giấu tôi cho đến khi tàu rời cảng Colombo đi Anh qua ngã mũi
Hão vọng. Anh kết nghĩa của tôi sau đó sẽ hội ngộ với tôi ở đâu
đó tại eo biển Manche. Mọi chuyện đều phải làm bí mật kín đáo
sao cho tôi không để lại vết tích nào.
Tôi
sắm một cái túi đi du lịch, nhét vào đó một vài bộ quần áo và
một quyển sách Hai mươi ngàn dặm
dưới đáy biển của Jules Verne. Vào một buổi trưa nào đấy, tôi
vác cái túi du lịch đến một trạm ở ngoại ô và nơi đó dọc theo
đường ray tôi gặp một thuyền viên mà tôi trao lại túi du lịch. Đêm
hôm ấy là tôi phải cao chạy xa bay rồi. Chuyện xảy ra là đến chiều
tối là mẹ tôi đi thăm một vài người bạn và dắt tôi đi theo. Khi bà
gặp bạn rồi thì tôi len lén chuồn đi và theo như kế hoạch, tôi gặp
anh kết nghĩa của mình trên bãi biển. Đang mùa gió chướng và gió
lồng lộng thổi, sóng nhấp nhô trên mặt biển. Anh kết nghĩa bảo tôi
rằng có một chiếc thuyền ở không xa và tôi phải bơi ra đó. Tôi chỉ
mặc có mỗi một cái áo khoác và một chiếc khố, bèn cởi phăng đưa
cho ông, rồi trần truồng như nhộng giống như vừa mới lọt lòng mẹ,
tôi nhảy ùm lặn xuống biển. May thay tôi không phải bơi đi thật xa.
Chẳng mấy chốc tôi đã tìm ra chiếc thuyền, rồi được vớt lên mạn
thuyền. Tôi vẫn còn nhớ rõ như in rằng khi tôi nằm trần truồng trên
thuyền thì mới cảm thấy gió mùa lạnh cóng xiết bao. Người ta
chèo thuyền đưa tôi ra tàu buồm, ở đó vị thuyền phó đón tiếp tôi
đưa vào ca bin của thuyền trưởng vốn đang lên bờ trong vài ngày cho
đến khi tàu buồm nhổ neo. Người ta khóa chặt tôi trong ca bin ấy,
có một cái xô đựng những nhu cầu thiết yếu cho thể xác. Cái túi
du lịch của tôi cũng ở trong ca bin và người ta mang thức ăn vào
phòng cho tôi. Tôi ở trong phòng kín đó hết 36 tiếng đồng hồ.
Trong
thời gin ấy dĩ nhiên gia đạo tôi xáo trộn rất nhiều vì không thấy
tôi trở về. Gia đình lùng tìm tôi khắp nơi rồi đến ngày hôm sau
thì cha tôi nảy ra ý kiến là anh kết nghĩa của tôi, C.W.Leadbeater,
ắt phải biết tôi đang ở đâu. Ông đi tìm và tay lăm lăm cầm cây súng
đe dọa anh, nhưng dĩ nhiên anh kết nghĩa của tôi không hé răng nói
một lời về chỗ ở của tôi. Hết 36 tiếng đồng hồ thì gia đình tôi
đã thích ứng với tình hình mới và bắn tin rằng nếu tôi chịu trở
về trình diện thì sau đó họ
sẽ chính thức cho phép tôi rời Tích lan đi với anh kết nghĩa
của mình. Thật ra thì cái tàu lẽ ra phải nhổ neo rời bến vào
một ngày đặc thù thì lại lỡ tàu phải hoãn mất mấy ngày. Thế
là tôi theo anh kết nghĩa trở về trình diện cha mẹ. Tôi tiếc rất
nhiều vì lỡ cơ hội trở thành một thuyền viên.
Trong
diễn biến này có một yếu tố kỳ lạ là suốt thời gian đó tôi
tuyệt nhiên không có ý thức sợ sệt hoặc bất kỳ xúc cảm nào hồi
hộp trước một chuyến phiêu lưu. Dường như thể vở tuồng này được
viết ra cho tôi trong đó tôi chỉ là diễn viên tuyệt nhiên không có
cảm xúc cá nhân về vấn đề đó. Tôi chỉ làm điều mà mình phải
làm.
Trải
qua nhiều năm tháng, tôi đã tốt nghiệp Đại học và kiến thức về
Minh triết của tôi cứ tăng trưởng đều đều. . . Tôi có một năng
khiếu tự nhiên là nhìn xa trông rộng sao cho mọi bộ môn tri thức như
Tôn giáo, Khoa học và Nghệ thuật đều được hòa quyện lại thành
triết lý Thông Thiên Học duy nhất. Mọi điều đó là một phần trong
cuộc đời của tôi với vai trò là người làm việc cho Thông Thiên
Học.
Bây
giờ tôi muốn tiết lộ lần đầu tiên một điều gì đó trong sinh hoạt
nội tâm của mình, hi vọng rằng những người khác khi đọc được
những gì đã là số phận của tôi, ắt có thể vững vàng khi tận
hiến cho công trình được phó thác cho mình bất chấp Nghiệp quả có
thể đưa mình đi tới đâu.
Cuộc
thập giá hình đầu tiên của tôi diễn ra vào đêm chiếc tàu buồm nhổ
neo rời cảng Colombo. Tôi đã trải qua cái vở tuồng kỳ quặc như kể
trên là thoát ly gia đình mà chẳng có ý thức gì về sự mới lạ
trong điều tôi đang thực hiện. Nhưng cái đêm đầu tiên ấy thì tôi mới
ngộ ra được mình đã mất cái gì. Đó là vì tôi đã yêu sâu sắc một
người anh em họ, một cậu bé nhỏ hơn tôi một tuổi. Tôi chưa bao giờ
thố lộ tình yêu của mình với nó. Nhưng cái đêm lênh đênh trên mặt
biển, tôi mới biết rằng mình đang đi xa, rời xa nó, và tôi khóc
nức nở. Anh kết nghĩa của tôi ngồi trong ca bin ngay sát bên tôi
nhưng chẳng nói lời nào. Biết nói sao đây? Cuối cùng thì tôi khóc
sướt mướt đến lúc ngủ thiếp đi.
Đêm hôm
đó, ‘Chúa Cha’ gọi tôi đến tiếp kiến và nhận tôi làm Đệ tử Dự
bị. Trong trường hợp của tôi thì điều được nói trong
Ánh Sáng Trên Đường Đạo đã
tỏ ra thật đúng. ‘Trước khi Linh hồn có thể đứng trước mặt Chơn sư
thì chân nó phải được rửa sạch trong máu của con tim’. Đêm hôm đó,
đôi chân của linh hồn tôi đã được rửa sạch trong máu của con tim
tôi. Tôi lúc bấy giờ mới có 13 tuổi và đó chỉ là cuộc thập giá
hình đầu tiên trong nhiều cuộc thập giá hình mà Nghiệp quả đã
dành cho tôi, vừa để tẩy trược cho tôi vừa để khiến cho tôi làm
việc hữu hiệu hơn trong Công trình Vĩ đại.
Những
năm tháng từ tuổi niên thiếu cho tới lúc trưởng thành đã trôi qua
và mỗi năm cuộc sống nội tâm của tôi đều ghi đấu sự căng thẳng.
Năm thì mười họa cũng có những lúc hạnh phúc ngắn ngủi. Nhưng
cũng có những cuộc thập giá hình. Thế rồi tới ngày mà tôi phải
vác cái thánh giá nặng nhất trong mọi kiếp sống quá khứ của
mình và đi trong cuộc hành hương dài hơn tới đồi Sọ (Golgotha) để
chịu ở đó cuộc Thập giá hình khốc liệt nhất. Nó kéo dài tới 22
năm trường và không một giờ, một ngày hoặc đêm nào mà tôi lại
không biết tới nỗi đau quằn quại của nó. Nhưng không có một thứ
gì trong số đó đã lộ ra trên khuôn mặt của tôi khi tôi tham dự vào
nhiều công trình vất vả của mình. Niềm an ủi duy nhất là qua khuôn
mặt của lũ trẻ thơ. Ngoại trừ Chúa Cha của tôi thì nào ai biết
được. Ngài chẳng những giám sát mà trước lâu rồi Ngài đã nói:
‘Kẻ nào chạy nhanh thì phải trả giá cho sự nhanh nhẩu ấy’. Nhưng
cuối cùng thì cuộc thập giá hình ấy cũng kết thúc và có một
thời kỳ an bình ngắn ngủi, một đôi lúc hân hoan. Nhưng những món
nợ Nghiệp quả vẫn phải trả, thế là một cuộc thập giá hình khác
lại bắt đầu.
Trong
những kiếp vị lai còn nhiều cuộc thập giá hình khác đang chờ đợi
tôi nhưng ít quằn quại hơn và diễn ra trong thời gian ngắn ngủi hơn
vì Nghiệp xấu đã bớt đi nhiều rồi. Chỉ sau khi đã siêu việt được
Bảy Bức Màn Che thì tôi mới ở trên ngưỡng cửa của Thiên tính và
không còn chịu thập giá hình nữa. Lúc bấy giờ tôi sẽ bước vào
Ánh sáng mặc dù tôi sẽ chẳng bao giờ đụng tới được Ngọn lửa
[[6]]
.
Chúa
Cha của tôi, để đem lại cho tôi một tầm nhìn và sức mạnh làm việc
lớn lao hơn đã hai lần khải huyền cho tôi một số thoáng thấy về
tương lai. Tôi sẽ không giải thích mình có thể thấy tương lai bằng
cách nào. Linh ảnh đầu tiên là về một tương lai xa vời liên quan
tới công trình mà tôi ắt phải thực hiện khi làn sóng sinh hoạt
trên bầu hành tinh Trái đất này sẽ được chuyển dời sang bầu hành
tinh kế tiếp. Tôi dần dần diễn tả một điều gì đó về linh ảnh ấy
bằng cách vận dụng năng khiếu viết lách mà tôi vốn có. Nó xuất
hiện trong quyển sách nhỏ của tôi có tựa đề
Hoa và Vườn. Trong những tập
sách sau đó, Đứa trẻ Kỳ diệu
và Giải thoát, tôi ra sức
diễn tả những khía cạnh khác của tương lai ấy.
Linh
ảnh thứ nhì về tương lai được ban cho tôi ngay khi bắt đầu cuộc
thập giá hình dài dằng dặc 22 năm trường. Tôi nhanh chóng viết ra
tương lai ấy trong một tập sách khác là
Hiến Dâng. Đó là vì Chúa Cha
khải huyền cho tôi linh ảnh ấy sao cho mặc dù tôi phải chịu đau khổ
cay đắng nhất, thế nhưng vẫn có một ngày đại hội khi đau khổ không
còn nữa và công trình mà tôi thực hiện trong Thời gian Vĩnh hằng
ắt không còn bóng dáng nào nữa của đau khổ mà tràn ngập niềm vui
cao cả.
Cách
đây 41 năm, ở Chicago, trong một tâm trạng cao hứng hoang tưởng, tôi
đã vẽ trên giấy kế hoạch về Devachan, cõi Thiên đường Lý tưởng
của mình rồi viết ra ba câu thơ bên dưới. Tôi xin trình bày kế
hoạch ấy cho mọi người xem xét. ‘Ji’ là bạn của tôi, một con mèo
đã biệt lập ngã tính thành một Linh hồn sơ sinh. ‘Jack’ là một con
chó phóc, còn ‘Nick’ là một con chó đen lớn chưa xác định được
chủng loại và được xếp vào dòng dõi con Jack. Cả hai con chó đều
là thuộc quyền sở hữu của các bạn tôi là ông bà W. H. Kirby ở Ý
mà tôi thường là khách đến thăm nhà họ. Mọi người ắt lưu ý rằng
trên cõi Thiên đường của tôi không có chỗ nào dành cho việc thuyết
trình về Thông Thiên Học hoặc viết sách. Thế nhưng trong mọi kiếp
vị lai, tôi ắt xiển dương Minh triết qua những bài thuyết trình,
sách vở và thơ ca. Nhưng trước khi có thể
cho ra thêm nữa hơn mức mà tôi
đã cho ra đến nay thì tôi ắt phải
nhận vào thêm nữa. Chúng ta
phải ngộ ra được rằng Minh triết chẳng những có trong sách vở
hoặc Sư phụ mà còn được bộc lộ ra ở bất cứ nơi đâu có sự sống
hoặc hình tướng. Mọi ‘cánh cửa sổ’ trong kế hoạch của tôi đều mở
ra trước Ánh sáng của Thượng Đế. Chính từ Ánh sáng ấy mà những
sự khải huyền mới về Minh triết sẽ tuôn đổ lên tôi. Tôi sẽ tiếp
nhận ở đó, trực tiếp từ Thượng Đế, những linh ảnh và thực chứng
về các chiều đo mới, hết phương thức này tới phương thức kia của
việc Ngài hiến dâng mình cho chúng ta về Chí Thiện, Chí Mỹ và
Chí Chân.
« Không
có con đường nào khác nữa để mà đi »
*
*
* *
Hỡi Đấng Thân Thương, xin
Ngài hãy để cho chúng con đi tới Ngài, đi tới đó.
NHỮNG
CÂU THƠ ĐƯỢC VIẾT NĂM 1911
KÈM THEO
‘KẾ
HOẠCH VỀ DEVACHAN’
Tôi đã
hoạch định và mơ mộng suốt ngày sinh hoạt như thế
Về khu
vườn Hoa hồng của mình bên dòng sông Thames trên trời;
Tại
sao GIỜ ĐÂY lại khốn khổ cấm đoán tôi không được chơi
Trong
sự vui vẻ LÚC BẤY GIỜ mà tôi nhìn thấy qua giấc mơ?
Tôi đi
lang thang ở đó cùng với ý trung nhân tức Nửa khác của Mình
Chúng
tôi cặp tay nhau như hai đứa trẻ ngây thơ;
Chúng
tôi đưa mỗi ý định thân thương của mình qua tới tận đó
Mà Số
phận không mang được xuống tới tận trần thế.
Ôi
Cuộc đời đầy tình và Tình yêu trong cuộc sống, hãy ra lệnh
Để cho
chẳng bao lâu nữa cái đêm dài mệt mỏi này chấm dứt đối với tôi;
Để cho
tôi và ý trung nhân của mình có thể
Mãi
mãi ở với Ngài trong Căn nhà Ánh sáng của chúng tôi.
Ngày 1 tháng 12 năm 1952.
********************
[[1]] Lúc này ta đang ở Adyar. Người ta đang đứng ở hàng hiên trên nóc tòa nhà Tổng Hành Dinh để nhìn về phương Tây.
[[5]] Câu chuyện tôi chết yểu một cách vinh quang ở Ba Tây được tường thuật trong chuyện “Được ma cứu” trong tác phẩm “Mùi hương Ai Cập” của tác giả C.W.Leadbeater. Hình Chúa bị đóng đinh trên Thập tự giá làm bằng ngà và bạc gắn vào một sơi dây chuyền mà câu chuyện có đề cập tới được ông tặng cho người bảo trợ của mình là J.W.Matley; đến khi từ trần ông Matley lại dàn xếp để gửi cho tôi hình Chúa bị đóng đinh ấy.
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS