Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS

 

Tủ sách Adyar                             Tập sách số 139

 THƯỢNG ĐẾ BÊN NGOÀI VÀ THƯỢNG ĐẾ BÊN TRONG

(The God Without and The God Within)

Tác giả C. Jinarajadasa

Bản Dịch của www.thongthienhoc.com

Xuất bản năm 1930

Nhà Xuất bản Thông Thiên Học, Adyar, Chennai [Madras] Ấn Độ.

 

Trong khi học thuyết Tiến hóa nhận được sự kích thích từ công tŕnh của Darwin th́ người ta rút ra hai điều suy diễn lớn lao ảnh hưởng sâu đậm tới nhân sinh quan của ta. Điều suy diễn thứ nhất là học thuyết về sự sống sót của kẻ thích nghi nhất. Nó giả định rằng trong thiên nhiên có sự đấu tranh sinh tồn và v́ sự đấu tranh ấy hiển nhiên đối với tất cả, cho nên ta dễ dàng chấp nhận học thuyết sống sót. Luật cạnh tranh có vẻ tuyệt đối ở khắp mọi nơi trong thiên nhiên; nơi loài thực vật và động vật, cho nên cá thể nào thích ứng nhất với môi trường xung quanh ắt sẽ sống sót. V́ vậy, dường như là hợp lư khi chỉ cá thể nào phân đấu mọi lúc để thích ứng được với môi trường xung quanh th́ mới sống sót, và như vậy tỏ ra là thích ứng nhất.

Nhưng ư tưởng cá thể phải dành hết mọi năng lượng của ḿnh triền miên cảnh giác để đè bẹp những kẻ cạnh tranh đă được biến đổi do một suy luận thứ nh́ rút ra từ cùng những sự kiện liên quan tới tiến hóa. Herbert Spencer có nêu rơ rằng Thiên nhiên không dồn hết mọi năng lượng chỉ để cạnh tranh quyết liệt sống sót; Thiên nhiên dành một số năng lượng của ḿnh cho những phương thức có vẻ chẳng liên quan ǵ tới sự sống sót. Hai bản năng kiếm ăn và thỏa măn sự thèm khát t́nh dục rất nổi bật nơi mọi động vật, và chắc chắn chúng là những hoạt động sơ phát trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Nhưng c̣n có một bản năng thứ ba không kém phần nổi bật đó là bản năng chơi đùa. Khi ḷng thèm khát đồ ăn và t́nh dục đă được thỏa măn th́ Thiên nhiên vẫn c̣n dư năng lượng, và nó biểu hiện điều này qua việc chơi đùa.

Vậy là có ba bản năng - theo đuổi thức ăn, t́nh dục và chơi đùa - vốn là đặc trưng cho loài động vật. Chúng cũng đặc trưng cho loài người nữa, mặc dù biểu lộ của chúng cũng chịu sự biến đổi một cách tinh tế. Khi xă hội loài người được tổ chức lại để sống cộng đồng th́ những sự tàn bạo của việc triền miên đấu tranh sinh tồn cũng từ từ dịu bớt đi; không cần phải dành hết mọi giờ trong ngày để kiếm ăn bởi v́ bằng cách hợp sức lao động người ta tiết kiệm được năng lượng và v́ thế có dư thời giờ dành cho những mục đích khác. Cũng giống như vậy, khi văn minh, các h́nh thức bạo lực của bản năng t́nh dục đă được kiềm chế và ư thức về sự đúng mực làm thay đổi những bản năng tự nhiên của con thú.

Khi cộng đồng được tổ chức ở mức cao, nghĩa là khi càng ngày người ta càng dùng ít năng lượng để kiếm ăn và khi người ta đều đều làm thanh nhă những biểu hiện của bản năng t́nh dục th́ càng ngày càng có nhiều năng lượng để dành cho việc chơi đùa.

Việc chơi đùa này cũng phải chịu sự thay đổi. Hai đứa trẻ chơi đùa cũng chẳng khác ǵ hai con búp bê chơi đùa, cùng một năng lượng của Thiên nhiên được biểu lộ thông qua chúng. Nhưng năng lượng này đă chịu sự biến đổi khi có một người quan sát nh́n vào tṛ chơi. Tṛ chơi trí tuệ của y đă thay thế tṛ chơi bằng cơ bắp và tay chân; nhưng về căn bản th́ đó vẫn là cũng cái bản năng chơi đùa trong Thiên nhiên. Như vậy, mọi thứ trong nền văn minh mà có tính sáng tạo, chẳng hạn như thi ca, âm nhạc, điêu khắc, khiêu vũ, đều chẳng qua chỉ là sự thanh nhă hóa bản năng chơi đùa nguyên thủy.

Đôi khi bản năng chơi đùa này lại chịu sự thoái hóa, chẳng hạn biến thành đánh bạc, cho dù chơi đánh bài hay chơi xúc xắc, hoặc cổ phần và cổ phiếu, th́ đó cũng là bản năng chơi đùa biểu lộ qua những dạng thoái hóa khi xă hội nói chuyện ba hoa và ngồi lê đôi mách gây thù oán. Có lẽ nói cho đúng hơn th́ không phải bản năng chơi đùa biểu lộ thành sự chỉ trích hay ngồi lê đôi mách, mà đúng hơn là bản năng tiêu diệt kẻ cạnh tranh; Kipling có nhận xét rằng giữa con người thời Đá mới và con người thời nay chẳng khác nhau là mấy. Người thời Đá mới giết nhau bằng gươm giáo, c̣n người thời nay ra sức đâm thọc bằng miệng lưỡi hoặc cây bút.

Tôi đă dẫn dắt quư vị vào địa hạt Sinh học để cho quư vị chú ư tới ba phương thức căn bản của năng lượng thiên nhiên hoạt động nơi con người nhằm thỏa măn ḷng thèm khát đồ ăn, khao khát biểu hiện t́nh dục và thèm thuồng được chơi đùa. Nhưng c̣n một phương thức biểu hiện thứ tư mà khoa học tiến hóa cho đến nay chưa kể tới, mặc dù phương thức ấy vốn là căn bản để hiểu được con người cả nơi Ấn giáo lẫn nơi Phật giáo. Đó là việc con người khao khát muốn hiểu biết. Chính cái bản năng căn bản này nơi con người muốn t́m hiểu chính ḿnh và môi trường xung quanh ḿnh được hàm ư trong thuật ngữ Giải thoát (Moksha). Các bạn đều thừa biết Moksha đứng hàng thứ ba trong bộ ba Artha, Rāga và Moksha. Artha là ḷng ham muốn chiếm hữu, kẻ nào chiếm hữu được tài sản th́ chẳng bao giờ bị chết đói; Rāga là ham muốn ở mọi dạng, từ việc kịch liệt ham muốn t́nh dục cho tới chỉ ham muốn hư danh thôi. Moksha nghĩa là Giải thoát và cả Ấn giáo lẫn Phật giáo đều nêu định đề ham muốn bẩm sinh nơi con người là Giải thoát, nó là gốc rễ của bản chất con người.

Do một quan niệm như vậy - con người không chỉ là con thú, mà sự dă man dần dần được tổ chức xă hội làm cho thanh nhă; con người ấy c̣n là thiên thần, một Điểm Linh Quang được cài đặt và giam hăm trong vật chất, nhưng bao giờ cũng t́m cách giải thoát - quan niệm ấy hoàn toàn xa lạ với thuyết tiến hóa của Darwin. Tuy nhiên tôi hi vọng rằng ḿnh sẽ tŕnh bày quan niệm ấy là hoàn toàn cần thiết nếu chúng ta muốn tuyên dương một thuyết về sự sống chẳng những phù hợp với những sự kiện của Thiên nhiên mà c̣n đầy sự linh hứng cho cuộc sống hằng ngày của ta.

Hiển nhiên là mọi người đâu hề động năo để t́m hiểu xem sự sống là ǵ, đại đa số coi như sự sống là đương nhiên, chỉ một số nhỏ người mới thắc mắc. Thế nhưng sự thật là ḷng ham muốn t́m hiểu vẫn thâm căn cố đế nơi chúng ta, bằng chứng là có sự tồn tại của các tôn giáo. Ngay cả người dă man cũng có một tôn giáo. Ngày nay, ta có thể chứng tỏ rằng tôn giáo của y vốn dựa vào việc không biết các sự kiện và định luật của Thiên nhiên. Nhưng điều này không phủ nhận sự kiện kẻ dă man cùng với tôn giáo của y vẫn ra sức t́m hiểu và bằng cách đó đă nêu ra một giải pháp. Chắc chắn là khi nh́n xung quanh ḿnh ta thấy nhiều người không cảm nhận rằng xung quanh họ toàn là những câu đố và những điều bí nhiệm, một số ít chúng ta hiện diện ở đây ngày nay quả thật chỉ là thiểu số. Nhưng tại sao chúng ta chỉ là thiểu số?

Có lẽ lư do là v́ đại đa số nhân loại vẫn c̣n bị đưa đẩy đi đây đi đó như những con tốt trên một bàn cờ do các lực sơ phát Thiên nhiên ẩn đằng sau các bản năng sống sót và chơi đùa. Chỉ có một số ít người mới có lúc vứt bỏ sự nô lệ cho hai bản năng ấy, lúc bấy giờ bản năng thứ ba ấy, bản năng Giải thoát mới bắt đầu ảnh hưởng tới họ. Đôi khi phải cần có một loại tai họa nào đó mới khiến cho ta bén nhạy với tiếng nói trong nội tâm ra lệnh cho ta điều tra và t́m hiểu; đôi khi tri giác của ta chỉ bắt đầu khi đến lúc tuổi già và những khao khát lồng lộn của thể xác đă dịu đi. Chắc chắn là chỉ một số ít người đáp ứng với lời hiệu triệu, “Hăy đứng lên, hăy tỉnh dậy, hăy đi t́m các Đấng Cao Cả để có sự hiểu biết”, nhưng số ít người này giống như  “những thành quả đầu tiên của lớp người đang say ngủ”. Một ngày kia, khi sự tiến hóa đă vững bước th́ nhiều người ắt cũng sẽ đứng lên, thức dậy và t́m hiểu giống như một số ít người ngày này.

Khi người ta muốn t́m hiểu bản thân và môi trường xung quanh mà dáo dác nh́n quanh để có được lời giải thích th́ y t́m được những giải pháp mà tôn giáo, triết học và khoa học đă cống hiến cho y. Những điều mà tôn giáo cống hiến cho y là những sự khai thị; chúng mang tính thẩm quyền và mỗi tôn giáo đều tuyên bố rằng giải pháp của ḿnh là tối hậu. Các triết gia cũng quả quyết rằng giải pháp của ḿnh là tối hậu, mặc dù họ không dám cho chúng sự phê chuẩn của Thượng Đế giống như các tôn giáo rêu rao. Khoa học cũng đưa ra các giải pháp, nhưng nhà khoa học biết phê phán ắt biết rằng mọi giải pháp mà khoa học đưa ra chỉ có tính cách tạm bợ. Từ những giải pháp mâu thuẫn nhau này, người ta phải t́m ra sự thật và vấn đề này chẳng dễ dàng chút nào.

Ở đây, Thông Thiên Học bước vào diễn trường để giúp cho người điều tra. Trên thế giới luôn luôn đă có – nếu không phải là công khai th́ cũng là trong những buổi họp bí mật - một truyền thống về chân lư. Tách rời và riêng biệt với sự khai thị chính thống của tôn giáo, vào một lúc nào đó mọi tôn giáo đều có một truyền thống  bí mật toan tính tŕnh bày những chân lư khác hơn điều được tuyên cáo cho quần chúng. Thông Thiên Học là bộ sưu tập những chân lư ẩn tàng này và việc nghiên cứu chúng khiến cho nhiều người hiểu rơ hơn những vấn đề của cuộc sống, và v́ vậy thực chứng mật thiết hơn th́ người ta phải t́m giải pháp tối hậu ở đâu.

Khi ta phân tích đủ thứ giải pháp được nêu ra, nhất là các tôn giáo th́ những giải pháp này được chia làm hai nhóm. Một nhóm khắng định rằng mấu chốt của toàn bộ vấn đề chính là Thượng Đế tồn tại, là Tác giả của mọi thứ và là Trú sở tối hậu của mọi thứ. Ấn giáo, Bái hỏa giáo, Kitô giáo và Hồi giáo công truyền đều tuyên cáo sự tồn tại của một Đấng Tạo Hóa; họ khẳng định rằng mọi vấn đề của loài người chỉ có thể được giải quyết bằng việc công nhận con người lệ thuộc vào Thượng Đế. Chừng nào linh hồn c̣n chưa phát hiện ra rằng ḿnh lệ thuộc vào Thượng Đế, chừng nào y chưa quay sang Đấng Tạo Hóa với ḷng khiêm tốn và sự tôn sùng th́ chừng đó chẳng thể có được sự an b́nh mà cũng chẳng có sự hiểu biết thật sự. Kitô giáo bảo rằng “E sợ Chúa là khởi đầu của Minh triết”, cũng tư tưởng này dưới dạng này hay dạng khác xuất hiện trong mọi tôn giáo hữu thần. Trong một số tôn giáo th́ t́nh yêu Thiên Chúa mạnh hơn sự e sợ Chúa; nhưng tất cả đều đoan chắc rằng ta không thể hiểu được bất cứ vấn đề nào của con người nếu con người không bắt đầu công nhận ḿnh lệ thuộc vào Thượng Đế bên ngoài, phải thờ phụng và phụng sự ngài. “Mưu t́m Thượng Đế bên ngoài” là thông điệp của những tôn giáo giảng dạy sự tồn tại của một Đấng Tạo Hóa.

Nhưng c̣n có một nhóm giải pháp khác cũng được đưa ra để dạy cho con người con đường chân chính duy nhất dẫn tới sự b́nh an và hiểu biết. Ta thấy những giải pháp này trong Ấn giáo bí truyền, Phật giáo, Khổng Giáo và Lăo giáo. Trong Áo nghĩa thư, nhất là những bộ cổ thư th́ giáo lư chính yếu về Atman tuyên cáo Thượng Đế tồn tại, nhưng Ngài không phải là Thượng Đế Hữu ngă có bản chất hơi khác với bản chất con người. Chân lư có tầm quan trọng sống c̣n nhất trong Ấn giáo bí truyền, đó là Thượng Đế và con người là một chứ không phải là hai. “CÁI ĐÓ” chính là ngươi, hỡi Shvetaketu”, bao giờ cũng là giáo huấn được Áo nghĩa thư khăng khăng giảng dạy. Chỉ khi ta phát hiện ra được Thượng Đế bên trong th́ ta mới t́m ra được con đường giúp giải quyết mọi vấn đề; đó là những giáo huấn minh bạch của Ấn giáo bí truyền.

Khi ta đề cập tới Phật giáo th́ một lần nữa, đặc trưng của nó là con đường dẫn tới Thượng Đế bên trong, mặc dù Đức Phật chưa bao giờ tuyên cáo sự tồn tại của Thượng Đế. Ngài cũng chẳng chối bỏ sự tồn tại của Thượng Đế; bởi v́ đối với Phật tử, th́ vấn đề liệu Thượng Đế có tồn tại hay chăng chẳng dính dáng ǵ tới vấn đề đau khổ của con người. Con đường bên trong là phát hiện duy nhất, cần thiết để giải quyết mọi vấn đề và v́ vậy thông điệp của Đức Phật dành cho mọi người là “Hăy chuyên cần triển khai sự cứu rỗi của ḿnh”.

Cũng giống như vậy, Khổng giáo xây dựng một hệ thống luân lư không đếm xỉa ǵ tới Thượng Đế. Chỉ khi con người phấn đấu được toàn bích, trở thành “quân tử” bằng cách thể hiện nơi bản thân mọi điều tốt đẹp nhất trong bộ luật đạo đức của tổ tiên th́ con người mới thành tựu được mục tiêu của ḿnh là an b́nh và tự do hoàn toàn.

Ngày nay một lần nữa, Krishnamurti cũng lại tuyên cáo chính cái giáo lư về Thượng Đế bên trong ấy. Ông không bao giờ dùng từ Thượng Đế và quan niệm về một Thượng Đế Hữu ngă, một Thượng Đế bên ngoài vũ trụ, một Thượng Đế khác với con người về một phương diện nào đấy, quan niệm đó hoàn toàn xa lạ với tư tưởng của ông. Ông tuyên cáo sự tồn tại của một sự toàn bích tuyệt đối, nhưng ông gọi nó là “Đấng Thân Thương” và cứ khăng khăng cho rằng Giải thoát có nghĩa là hiệp nhất với “Đấng Thân Thương”. “Thấy được mục tiêu”, “hiệp nhất với Sự Sống”, “nhập vào Vương quốc Hạnh phúc”, đó là những cụm từ mà ông dùng để mô tả điều chí thiện đối với mọi người; và những người quen thuộc với Áo nghĩa thư ắt ngộ ra được rằng giáo huấn cổ truyền về Atman mà các bậc Thánh hiền thời xưa tuyên cáo cho một số ít người như một “Rahasya”, vốn là một điều “Bí mật”, th́ ngày nay Krishnamurti lại đang tuyên cáo cho toàn thể thế giới.

Phải chăng hai nhóm giải pháp này, một nhóm tuyên cáo Thượng Đế bên ngoài c̣n nhóm kia tuyên cáo Thượng Đế bên trong, th́ chúng mâu thuẫn với nhau? Chắc chắn là có vẻ như vậy. Nếu Thượng Đế Toàn bích tồn tại ngay cả bây giờ với sự toàn bích của ḿnh nơi con người và nơi mọi người như Áo nghĩa thư giảng dạy th́ quy tŕnh tiến hóa sinh tử luân hồi liệu có dính dáng ǵ tới sự giải thoát của linh hồn? Liệu có ích ǵ khi thu thập kinh nghiệm, tu tâm sửa tính, hoàn thành bổn phận và hoài băo các lư tưởng, nếu mục tiêu của những điều đó - nghĩa là hiệp nhất với Thượng Đế - đă được hoàn thành rồi?

Triết lư Sankhya mạnh dạn khẳng định như vậy là quy tŕnh của thế giới chẳng có ích lợi ǵ, và phái Bất nhị tức Vedanta Thuần túy cũng trả lời y hệt như thế. Ṿng sinh tử luân hồi, việc leo lên từ bất toàn tới mức toàn bích đều là Māyā, hăo huyền vây bũa chúng ta. Ta chỉ cần xé toạc bức màn hăo huyền bóp nghẹt đang vây bũa ta, th́ ta ắt nhanh chóng thấy ḿnh lần nữa lại là chân ngă Atman, Thượng Đế chưa bao giờ từ địa vị thanh thản và hạnh phúc thuần túy toàn bích giáng xuống một thế giới tiến hóa bất toàn. Áo nghĩa thư khắng định rằng Thượng Đế duy nhất chỉ tồn tại nơi chính con người, Áo nghĩa thư c̣n đi xa đến mức quả quyết rằng Bản chất Thượng Đế chính là vạn vật, chứ không chỉ ngự trong vạn vật. Thượng Đế không ngự trong tảng đá trên cương vị là Thượng Đế Nội Tại, mà chính là tảng đá - đây là giáo lư bí truyền của Ấn giáo.

Theo sự minh giải của những giáo huấn này - chúng tuyên cáo vạn vật đều là Māyā, ngoại trừ tinh thần vĩnh hằng bất di bất dịch - trong quy tŕnh tiến hóa không có một giá trị thực tiễn nào cho linh hồn. Tại sao linh hồn lại để cho ḿnh bị vướng mắc vào một điều bí nhiệm chưa hề được giải thích; điều ǵ bắt buộc mọi linh hồn phải khoác lấy lớp vỏ vật chất, đó là một vấn đề mà phái Vedanta chưa bao giờ đưa ra giải pháp. Khi người ta đi đến những kết luận hợp lư xuất phát từ những tiên đề của Ấn giáo bí truyền th́ hoàn toàn rơ ràng là chẳng có điều ǵ tiến hóa hay tiến bộ, ít ra là xét về mặt linh hồn. Linh hồn luôn luôn là Atman và chỉ cần thoát ra ngoài điều hăo huyền thôi miên nó tin rằng nó tuyệt nhiên không phải là Atman. Chính cái quyền năng của hăo huyền Māyā đă làm cho linh hồn si mê - linh hồn vốn dĩ là tinh thần thanh thản, Sat, Chit và Ananda thuần khiết – si mê đến nỗi tự coi ḿnh là linh hồn đang tiến hóa, phấn đấu để trả nợ cho Nghiệp báo.

Krishnamurti khăng khăng cho rằng Giải thoát tức toàn bích có thể được cho mọi cá thể ngay bây giờ, cho dù cá thể ấy có vô minh, sơ khai và chất phác đến đâu đi chăng nữa. Điều này hầu như khiến cho người ta tưởng tượng rằng cũng giống như Áo nghĩa thư và phái Vedanta, ông đă lờ đi những sự ràng buộc về sự hữu dụng và ḷng từ bi vốn ràng buộc mọi người trong một số phận chung theo quan điểm của kẻ nhân đạo. Theo giáo lư thuần túy của phái Vedanta th́ con người có nhiệm vụ duy nhất đối với chính ḿnh, y chỉ có một công việc duy nhất là xé toang bức màn hăo huyền. So sánh với nhiệm vụ tối thượng ấy của mỗi linh hồn Giải thoát th́ những lư tưởng như T́nh Huynh Đệ và việc Phụng sự Xă hội chỉ là sự đa cảm.

Quả thật người ta yêu cầu con người phải đối xử nhân từ với vạn vật, nhưng những giáo huấn như thế chỉ là một sự thỏa hiệp được đưa ra cho bản chất hạn hẹp của con người. Con người đau khổ - và v́ thế cần ḷng từ thiện - chỉ v́ y khăng khăng tự trói buộc ḿnh vào ṿng sinh tử luân hồi; nhỏ nước mắt khóc thương cho một linh hồn chỉ thích ngụp lặn trong ṿng sinh tử luân hồi ắt là sự đa cảm thuần túy. Y đâu có cần sự đồng cảm ấy mà chỉ cần được dẫn dắt đi tới sự giác ngộ sao cho y phát hiện ra rằng ḿnh không bị ràng buộc trong ṿng sinh tử luân hồi.

Cũng giống như vậy, trong Phật giáo mà nhiệm vụ duy nhất là thoát “ṿng sinh tử luân hồi” th́ giáo lư về ḷng từ bi có lẽ là vô lư. Chính Vô minh (Avidya) đă thúc đẩy linh hồn cắm đầu cấm cổ uống nước giếng cảm giác; và mặc dù người ta nhồi sọ tín đồ ḷng từ bi kịch liệt là một đức hạnh, nhưng người ta không đưa ra một manh mối nào làm sao ḷng từ bi lại giúp cho ta có được minh triết. Trong danh sách những đức hạnh mà người ta dùng mô tả Đức Phật thuộc một trong những câu thơ nổi tiếng nhất của Phật giáo, th́ người ta không đề cập tới ḷng từ bi. Ngài được gọi là “Đấng được Ban phước”, Đấng Cao Cả, Đấng Toàn giác, Đấng được Phú cho tri thức và đức hạnh”, Đấng có được May mắn”, Đấng Biết hết mọi thế giới, Đấng Dẫn dắt vô song giúp rèn luyện chúng sinh, Thầy của Chư thiên và loài người, Đấng Giác ngộ và Thánh thiện”. Nhưng không một lời mô tả nào về Ngài là đầy ḷng thương xót cho toàn thể nhân loại. Thế nhưng truyền thống Phật giáo quả quyết rằng ḷng từ bi của Ngài lớn đến nỗi ngay cả rất lâu vào thời Đức Phật Nhiên Đăng (Dipankara) khai pháp hội - Đức Phật Nhiên Đăng đứng hàng thứ tư trong danh sách 28 vị Phật cận kề về mặt thời gian so với pháp hội của Phật Thích Ca - th́ Ngài đă quyết tâm bước trên con đường dài và đau khổ dẫn tới quả vị Phật để giúp cho mọi người được Giải thoát. Tuy nhiên Phật giáo vẫn khăng khăng cho rằng ḷng từ bi là cần thiết v́ trong một phương cách nào đó, nó làm dịu đi ḷng khao khát sống vốn là gốc rễ của sự khốn khổ. Nhưng cả trong phái Vedanta vẫn trong Phật giáo người ta nhấn mạnh là cần phải hiểu biết, chiêm nghiệm và xả bỏ th́ mới Giải thoát được - đây là việc quá chú trọng tới giải thoát cá nhân - đến mức quả thật đôi khi nó đưa tới việc lờ đi phúc lợi tập thể của nhân loại.

Thoạt nh́n giáo huấn của Krishnamurti cũng có vẻ lờ đi sự giải thoát của tập thể bởi v́ ông cứ khăng khăng nói tới cái gọi là “con đường trực tiếp”. Ông khăng khăng cho rằng không cần bất cứ tổ chức nào về mặt tinh tấn tinh thần có thứ bậc giữa vị thầy và một học tṛ - người th́ giảng dạy c̣n người th́ học hỏi - có một khoa học giảng dạy đó là “Thánh đạo”. V́ bên trong mỗi người đều có khả năng thấy được “Mục tiêu”, cho nên không cần có sự giúp đỡ từ bên ngoài, miễn là người t́m đạo tin rằng ḿnh có thể đạt được Mục tiêu mà không cần có tha lực. Nhất là việc ông khăng khăng tuyên bố rằng “vấn đề cá nhân cũng chính là vấn đề thế giới” th́ điều này được coi như là lời cảnh báo chống lại những hoạt động che giấu bản chất can thiệp và lăng phí năng lượng của ḿnh dưới chiêu bài thương người và phụng sự. Tuy nhiên, mặc dù Krishnamurti kêu gọi chúng ta đi con đường trực tiếp và không mưu t́m Thượng Đế nào khác hơn Thượng Đế bên trong, song thật rành rành là trong tâm trí ông tư tưởng về sự Giải thoát của linh hồn không thể tách rời khỏi việc phụng sự mọi người. Trong khi có câu ông nghiêm khắc thách đố: “Với những lời lẽ của ḿnh, những nhăn hiệu của ḿnh, những sách vở của ḿnh, liệu quư vị đă thành tựu được ǵ?” th́ trong những câu ngay sau đó ông lại cho ta biết ta nên làm ǵ:

 

“Liệu quư vị đă làm cho được bao nhiêu người hạnh phúc, không phải qua những chuyện phù du mà qua những con đường dẫn tới Vĩnh hằng?”

“ Liệu quư vị có ban ra Hạnh phúc lâu bền, Hạnh phúc không bao giờ ṃn mỏi, Hạnh phúc không thể bị mờ đi bởi một đám mây thoáng qua?”

“Bằng cách nào mà bạn tạo ra được một bức vách bảo vệ sao cho thiên hạ không lọt vào hố bẫy?”

“Liệu các bạn đă xây dựng được đến đâu một hàng rào dọc theo con sông sâu thẳm mà mọi người có thể bị rớt xuống đó?”

“Liệu các bạn đă giúp được đến đâu cho những người muốn leo lên?”

“Liệu bạn có tham vọng xa đến mức dẫn dắt ai đó đi tới Vương quốc Hạnh phúc này, đó là vườn địa đàng nơi ánh sáng bất di bất dịch và vẻ đẹp cũng bất biến?”

“Nhưng, nếu bạn là tất cả mọi thứ ấy th́ liệu bạn có cứu giúp được người ta thoát khỏi phiền năo hay chăng?”

“Liệu có bất cứ ai trong các bạn mang lại hạnh phúc cho tôi chăng – ‘tôi’ đây chỉ là kẻ phàm phu thôi?”

“Liệu có bất cứ ai trong các bạn cung cấp cho tôi thức ăn thiên đường và tôi đang đói khát?”

“ Liệu có bất cứ ai trong các bạn cảm nhận sâu sắc đến nỗi có thể đặt ḿnh vào địa vị kẻ đang đau khổ chăng?”

“Điều mà bạn đă tạo ra, liệu bạn có làm ǵ được chăng?”

“Bằng cách nào mà bạn tạo ra được viên ngọc quư ấy, sao cho nó chiếu sáng và dẫn dắt được toàn thể thế giới?”

 

Những lời lẽ này của Krishnamurti chứng tỏ rằng phúc âm của ông không phải là phúc âm biệt lập. Trong khi ông thách đố chúng ta về đường lối phụng sự của ḿnh, th́ ông cũng nhấn mạnh rằng người nào thật sự đau đáu với Giải Thoát th́ người ấy cũng có khuynh hướng phụng sự. Ông bảo chúng ta rằng khi ta nhập vào Vương quốc Hạnh phúc th́ lúc bấy giờ “ta ắt mất đi thân phận của một biệt ngă; để rồi sáng tạo ra những thế giới mới, những Vương quốc mới, những chỗ ở mới cho người khác”. Và ông lại khăng khăng cho rằng:

 

Và bởi v́ tôi thực sự yêu thương,

Cho nên tôi muốn các bạn cũng yêu thương;

Bởi v́ tôi thật sự cảm nhận,

Cho nên tôi muốn các bạn cảm nhận;

Bởi v́ tôi coi mọi thứ đều thân thương,

Cho nên tôi muốn các bạn coi mọi thứ cũng là thân thương;

Bởi v́ tôi muốn che chở,

Cho nên bạn hăy che chở.

Và đây là cuộc sống duy nhất đáng sống,

Và hạnh phúc duy nhất đáng sở hữu.

 

Trong một bài diễn văn khác, khi ông yêu cầu chúng ta mở rộng cánh cổng tâm hồn để cho có thể bước vào Giải thoát, th́ ông cũng minh định rằng cá thể nào giải thoát được bản thân cũng đều chỉ có một động cơ thúc đẩy duy nhất, đó là “tự thân ḿnh trở thành người thực sự cứu chuộc nhân loại, sao cho người ta đi ra ngoài và chứng minh cho thiên hạ thấy rằng sự cứu chuộc của họ vốn ở nơi phiền năo và đau khổ, c̣n hạnh phúc và sự Giải thoát của họ ở nơi chính bản thân họ”.

Chính sự không thể tách rời giữa Giải thoát và Phụng sự đă luôn luôn là đề tài của Thông Thiên Học với vai tṛ là bộ luật luân lư. Thông Thiên Học hiện đại ít dùng từ “Giải thoát” và dùng từ “Toàn bích” nhiều hơn, nhưng tư tưởng th́ cũng thế thôi. Giá trị của việc nghiên cứu Thông Thiên Học cốt ở chỗ mỗi học viên đều có thể xây dựng cho chính ḿnh một khuôn khổ công tác bao gồm những diễn biến trên thế giới trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Y có thể đưa vào khuôn khổ ấy một bối cảnh thích hợp bất cứ khi nào y khảo sát những diễn biến trong địa hạt tôn giáo và khoa học, triết học và nghệ thuật, ḷng thương người và sự phát triển của thế giới. Vậy là nhờ có Thông Thiên Học, ta có thể tổng hợp được hết sự thật này tới sự thật kia, từ những điều mâu thuẫn giữa các tôn giáo và giáo phái rao giảng Thượng Đế ở bên ngoài cùng với các triết lư và khoa học tuyên cáo Thượng Đế ở bên trong. Và đường lối của sự tổng hợp ấy là như sau:

Sự thật lớn lao đầu tiên mà không một lúc nào ta được bỏ qua hay quên lăng, đó là Bản chất Thượng Đế vốn ở nơi con người. Cho dù ta gọi Bản chất Thượng Đế ấy bằng bất cứ danh xưng nào mà ta muốn – Thượng Đế, Atman, đấng Kitô, Sammâsambodhi, Minh triết Toàn bích - th́ toàn bộ nó vẫn ở nơi con người. Trong kẻ tội lỗi độc ác nhất th́ Thượng Đế vẫn ngự trong tâm khảm sâu kín nhất của y cũng hoàn hảo và viên măn như Thượng Đế trong tâm bậc thánh vĩ đại nhất. Giai cấp Bà la môn và giai cấp cùng đ́nh đều thiêng liêng như nhau; người Bà la môn nào khinh thường kẻ cùng đinh chẳng qua là khinh thường Thượng Đế ngự trong chính bản ngă của ḿnh. Đây là chân lư tối cao của Thông Thiên Học mà nếu được áp dụng vào cách ứng xử hàng ngày th́ đó chính là cái thần và cốt lơi của T́nh Huynh Đệ. T́m thấy Thượng Đế trong tâm hồn là nhiệm vụ duy nhất của cuộc sống v́ khi ta thấy Thượng Đế ấy trong ḥn đá cũng như trong cái cây, trong kẻ tội lỗi cũng như trong vị thánh, th́ mọi quy tŕnh của cuộc đời được liên kết lại thành một ư nghĩ duy nhất bao giờ cũng dẫn dắt ta tới hạnh phúc và b́nh an.

Nhưng có một sự thật thứ nh́ vốn không dễ hiểu; đó là Bản chất Thượng Đế dường như bị giam hăm nơi con người chứ không hoàn toàn tự do biểu lộ mọi sự toàn bích của ḿnh. Bản chất Thượng Đế thấy ngự nơi kẻ phạm tội cũng giống như nơi vị thánh. Thế nhưng có một sự khác nhau khi Bản chất Thượng Đế cấp năng lượng hoặc hoạt động trong cái khuôn duy tŕ nó. Khi tu sĩ Ấn giáo mến mộ Thượng Đế thấy binh sĩ người Anh đến chỉa lưỡi lê vào ḿnh và tu sĩ ấy bảo rằng, “Ngay cả bạn cũng là Ngài” th́ y thật sự thấy được Bản chất Thượng Đế trong vạn vật, ngay cả trong kẻ ám sát ḿnh. Nhưng liệu có chắc là có sự khác nhau hay chăng giữa Bản chất Thượng Đế cấp năng lượng trong tâm hồn vị tu sĩ và trong tâm hồn người binh sĩ. Nếu muốn, ta có thể nói theo kinh Áo nghĩa thư: “Nếu kẻ giết người nghĩ rằng y đang giết, nếu kẻ bị giết nghĩ rằng ḿnh đang bị giết th́ cả hai chẳng biết ǵ hết; CÁI NÀY không giết cũng chẳng bị giết”; nhưng lương tâm đạo đức của ta cũng bắt buộc ta phải nói rằng vị tu sĩ hành thiện, c̣n người binh sĩ hành ác. Nhưng v́ trong bản thể sâu kín nhất, cả v́ tu sĩ lẫn người binh sĩ đều là Thượng Đế, cho nên làm thế nào mà một Bản thể Thượng Đế duy nhất không thể phân chia được lại cùng một lúc vừa thiện vừa ác?

Nếu ta không chọn giải pháp là có một Māyā hăo huyền khiến Bản chất Thượng Đế tŕnh hiện khác hơn nó thật sự như vậy, thi theo chỗ tôi biết, chỉ c̣n một đường lối giải pháp khác. Giải pháp ấy chính là điều mà Thông Thiên Học đă đề ra - đó là: cho dù chấp nhận có hăo huyền Māyā, quy tŕnh thế giới vẫn có ích lợi cho Bản chất Thượng Đế bằng cách giúp cho nó giải thoát ḿnh ra khỏi ngục tù.

Kỳ lạ thay quan niệm này - cho rằng quy tŕnh thế giới là việc sự toàn bích được giải thoát khỏi ngục tù lại được Sinh học hiện đại gợi ư. Khi thuyết di truyền của Mendel đă chiếm lĩnh diễn trường th́ trong một buổi họp của Hiệp hội Anh Quốc năm 1914, một trong những thủ lĩnh của thuyết di truyền là Bateson có nói rằng, Shakespeare sống trong một mẩu nguyên sinh chất bằng đầu kim gút. Mọi điều mà ta biết về thiên tài Shakespeare tồn tại trong đốm nhỏ nguyên sinh chất đầu tiên, nhưng nó tồn tại ở đó dường như bị giam hăm. Thế mà nếu không có sự sắp xếp đặc biệt những yếu tố Mendel trong tế bào đầu tiên vốn là phôi thai của Shakespeare th́ khả năng sáng tạo không thể biểu lộ ra được; v́ thế cho nên mới có hết sự tái bố trí này tới sự tái bố trí khác của những “yếu tố” Mendel trong hằng hà sa số tế bào vốn là tổ tiên liên tiếp của cái hợp tử hoặc tế bào phôi thai này, vốn nó cuối cùng trở thành Shakespeare.

Cần có một quy tŕnh tiến hóa trải dài qua hàng triệu năm để cho những “yếu tố” Mendel này được liên tục tái bố trí cần để tạo ra chỉ một tổ hợp các yếu tố Mendel vốn có thể tạo ra Shakespeare. Nhưng lúc nào cũng vậy, trong đốm nhỏ nguyên sinh chất đầu tiên mà bằng một cách nào đó t́nh cờ xuất lộ do sự sắp xếp cạnh nhau một vài chất keo nào đấy, Shakespeare vẫn thiu thiu ngủ chờ cho đến khi đánh thức dậy. Thượng Đế bên trong là Shakespeare ở trong nguyên sinh chất, nhưng cũng cần có Thượng Đế bên ngoài nghĩa là mọi quy tŕnh Thiên nhiên mà ta gọi là tiến hóa, th́ mới khiến cho Shakespeare năng động và sáng tạo được.

Chính quan niệm mà Thông Thiên Học đề ra - cho rằng có một Thượng Đế bên ngoài tức là một quy tŕnh tiến hóa trong một Thiên cơ tiền định hiệu triệu Thượng Đế bên trong là Bản chất Thượng Đế của linh hồn - khiến cho ta có thể hài ḥa hóa mọi thuyết mâu thuẫn của tôn giáo cùng với khoa học hiện đại vốn chống đối lại mọi tôn giáo. Từ lúc mà ta chấp nhận rằng Bản chất Thượng Đế nơi con người tức là Thượng Đế bên trong bị giam hăm ngay từ đầu th́ vấn đề tiếp theo của ta chính là phải hiểu đâu là quy tŕnh giải thoát Thượng Đế bên trong. Đáp án có thể được tổng kết trong một từ duy nhất: Sự Sống. Đó là Sự Sống dưới mọi dạng trong mọi giới hữu h́nh và vô h́nh, Sự Sống biểu lộ từ chu kỳ vĩnh hằng này sang chu kỳ vĩnh hằng khác; chính Sự Sống ấy phấn đấu sáng tạo rồi hủy diệt để tái tạo, đó là công cụ để giải thoát Thượng Đế bị giam hăm.

Quy tŕnh lâu dài Sự Sống giải thoát Thiên tính chính là đề tài của mọi công tŕnh nghiên cứu Thông Thiên Học. Việc nghiên cứu ấy mô tả những chi tiết của quy tŕnh, sử dụng những thuật ngữ đặc biệt - nếu muốn ta có thể gọi đó là một loại “tiếng lóng” - chẳng hạn như H́nh tướng và Sự Sống, Nhân quả, Luân hồi, Căn chủng và Phân chủng, các Nguyên khí, các Cơi, các Cung, làm Đệ tử, Điểm đạo, quả vị Chân sư và những thuật ngữ khác nữa. Nhưng mọi thuật ngữ như thế đều giống như những thuật ngữ của bất kỳ ngành học nào khác, chẳng hạn như Hóa học hoặc Thực vật học. Người ta dùng chúng để sắp xếp thành các phạm trù bao gồm những sự kiện phải được khảo sát để đạt một sự lĩnh hội bao quát về đề tài này.

Thật ra những hoạt động của Sự Sống có thể được quan sát bằng đôi mắt của thi sĩ hoặc nghệ sĩ, chứ không phải bằng đôi mắt của người quan sát phân tích giống như nhà Thông Thiên Học. Lúc bấy giờ không cần có loại “tiếng lóng” gồm những thuật ngữ chuyên môn; lúc bấy giờ có sự mô tả Sự Sống mà Krishnamurti tŕnh bày qua bài thơ T́m Kiếm, từ trang 9 tới 12 của ông.

 

Tôi đă từng là một kẻ lang thang lâu dài,

Trong cái thế giới gồm những sự vật phù du này.

Tôi đă từng biết những khoái lạc thoáng qua trong đó.

Giống như cầu vồng thật là đẹp,

Nhưng chẳng bao lâu lại biến mất tiêu.

Do đó tôi cũng đă biết từ chính cái nền tảng của thế giới này,

Mọi sự vật đều qua đi,

Cho dù nó đẹp đẽ, vui vẻ và dễ chịu.

 

Để đi t́m điều vĩnh hằng,

Tôi đắm ḿnh trong cái phù du.

Tôi đă nếm trải mọi sự vật khi mưu t́m Sự Thật.

 

Trong những thời đại đă qua,

Tôi đă biết rơ những khoái lạc của thế giới phù du.

Bà mẹ âu yếm cùng với lũ con,

Kẻ ngạo mạn và kẻ tự do,

Kẻ ăn xin đi lang thang trên mặt đất,

Sự hài ḷng của kẻ giàu sang.

Người phụ nữ với đầy cám dỗ,

Người đẹp và người xấu,

Kẻ có thẩm quyền, người có quyền lực,

Yếu nhân, người ban phát và kẻ canh giữ,

Kẻ bị áp bức và kẻ đàn áp,

Người giải thoát và tên bạo chúa,

Người sở hữu nhiều thứ,

Kẻ xả bỏ ẩn tu,

Người hoạt động và kẻ mơ mộng,

Tu sĩ ngă mạn chưng diện pháp phục rực rỡ và tín đồ khiêm nhường,

 

Thi sĩ, nghệ sĩ và người sáng tạo.

Trên mỗi bàn thờ thế gian mà tôi đă tôn sùng,

Tôi đă biết mọi tôn giáo,

Tôi đă cử hành nhiều nghi lễ,

Trong sự lộng lẫy huy hoàng của thế gian mà tôi lấy làm vui.

Tôi đă chiến đấu trong những cuộc chiến bị bại trận rồi thắng trận.

Kẻ khinh bỉ và người bị khinh thường,

Kẻ làm quen với phiền năo,

Và những cơn oằn oại của nhiều sự sầu khổ.

Kẻ đầy khoái lạc và sung túc,

 

Tôi đă nhảy múa trong những ngóc ngách thầm kín của tâm hồn,

Tôi đă từng biết nhiều cuộc sinh ra rồi chết đi,

Tôi đă lăng du trong mọi cơi phù du ấy.

Trong những sự xuất thần ngây ngất thoáng qua, một vài cái kéo dài;

Và thế nhưng tôi chưa bao giờ t́m thấy cái Vương quốc Hạnh phúc vĩnh hằng đó.

 

Nhưng tại sao linh hồn phải đi lang thang từ hết kiếp này sang kiếp khác, bị thôi thúc cái bản năng Trời cho muốn được Giải thoát, thế nhưng lúc nào cũng bỏ lơ cơ hội nhập vào con đường chân chính? Quả thật có một số triết lư, chẳng hạn của Kitô giáo, Bái hỏa giáo và Hồi giáo vốn khăng khăng cho rằng linh hồn không đi lang thang như thế và chuyển đổi trong một thời gian ngắn là một kiếp thôi, nó có thể thành tựu được mục tiêu tối hậu là Giải thoát hoặc Cứu chuộc. Đối với các triết lư này th́ chỉ cần hoàn toàn tuân phục ư chí Thượng Đế, một kiếp sống toàn bích tuân phục Thượng Đế như vậy có được phần thưởng là thiên đàng đời đời. Nhưng một giải pháp như thế vốn chối bỏ việc Sự Sống lập đi lập lại sự biến hóa qua sự Luân hồi, ắt kéo theo hàng loạt những vấn đề nan giải. Thuyết người ta phải đạt được toàn bích chỉ trong một kiếp thôi nhanh chóng nêu ra hết thắc mắc này tới thắc mắc khác, chẳng hạn như tại sao Thượng Đế lại cho phép điều ác tồn tại, tại sao nếu Thượng Đế toàn thiện mà một số linh hồn lại bị kết án đọa lạc đời đời, tại sao nếu Thượng Đế toàn năng mà Ngài lại không sắp xếp để cho vạn vật được sinh ra trong một môi trường thuận lợi cho việc tu tâm sửa tính hướng về sự toàn bích.

Bản thân tôi không thể nghĩ tới bất kỳ cách sắp xếp sự việc nào công b́nh - ở đây tôi có thể nói cho mọi nhà Thông Thiên Học - nếu Luân hồi không phải là một bộ phận của cách sắp xếp đó. Tôi dễ tin quả thật có t́nh thương và ḷng từ bi của Thượng Đế chỉ v́ sự thật là có Luân hồi; chứ tôi không tin rằng không có Luân hồi thế mà Thượng Đế lại trông mong chỉ nội trong một kiếp tất cả đều hiểu được ư chí của Ngài và hợp tác với nó.

Cách đây một lúc, tôi có nêu thắc mắc, tại sao linh hồn phải đi lang thang hết kiếp này tới kiếp khác và bỏ qua cơ hội nhập vào con đường chân chính? Nhưng thực ra thắc mắc đó của tôi không dựa trên sự thật. Đó là v́, cái lúc mà ta ngộ ra được rằng Sự Sống là một quy tŕnh kép, trong đó Thượng Đế bên ngoài gơ cửa Thượng Đế bên trong th́ mọi trải nghiệm đều là việc nhập vào con đường. Chính đây là điều mà Thông Thiên Học minh giải.

Cái kế hoạch nhiêu khê miêu tả sự tiến hóa của linh hồn rồi được phát triển mà ta thấy trong các sách giáo khoa Thông Thiên Học có thể dễ dàng bị dẹp qua một bên bằng cách bảo rằng để được thánh thiện và cao cả, th́ không nhất thiết phải trải qua hết kinh nghiệm này tới kinh nghiệm khác. Đó là v́ sự thánh thiện vốn bẩm sinh nơi con người, v́ Thượng Đế bên trong ngự nơi con người. Thế th́ việc ǵ mà cần phải phấn đấu để thánh thiện khi tánh thánh thiện là chính bản chất của linh hồn?

Ở đây mỗi người trong chúng ta phải xác định xem ḿnh sẽ đi theo đường lối tư tưởng nào; không ai - chứ đừng nói là nhà Thông Thiên Học - muốn áp đặt một tín điều đặc thù coi đó là giải pháp duy nhất. Tôi chỉ có thể nói cho hầu hết các nhà Thông Thiên Học là nếu sự tiến hóa được coi là không cần thiết, th́ mọi mảnh vụn của lư trí ắt biến mất khỏi vũ trụ. Một đằng ta thấy rơ trong quy tŕnh thế giới có một sự hợp lư dịu dàng gợi hứng khi ta thừa nhận rằng tiến hóa qua trải nghiệm là con đường Giải thoát. William James đă từng một lần định nghĩa trải nghiệm là “trở thành chuyên gia qua việc thực nghiệm”. Nếu ta chấp nhận Sự Sống là pḥng thí nghiệm cho linh hồn thực nghiệm để được giải thoát, th́ môi trường xung quanh vây bũa linh hồn trong nhiều kiếp di trú bắt đầu có ư nghĩa.

Cũng giống như viên kim cương thô ráp được đào lên từ trong ḷng đất, cũng giống như vậy trước khi được trải nghiệm uốn nắn th́ Thượng Đế bên trong cũng thô thiển như vậy, nhưng cũng giống như viên kim cương đă được mài giũa chiếu lấp lánh mọi màu sắc của cầu vồng, cũng vậy khi trải nghiệm hết kinh nghiệm này sang kinh nghiệm khác do Thượng Đế bên ngoài bố trí th́ Thượng Đế bên trong cũng tinh tế như vậy. Đây chính là Sự Sống sâu thẳm hiệu triệu sâu thẳm. Bên trong bản chất sâu kín nhất của ta chính là “Con Đường, Sự Thật và Sự Sống”; bên trong chúng ta có mọi loại Vương quốc: Vương quốc Hạnh phúc của Krishnamurti, Thiên quốc của đấng Kitô và Quốc độ Pháp giới của Đức Phật. Nhưng chỉ khi Đức Phật, đấng Kitô hoặc Krishnamurti đă khai thị Vương quốc mà ḿnh ngự trong đó th́ bấy giờ ta mới biết rằng ḿnh cũng là Thượng Đế và mọi Vương quốc khả hữu cũng ở bên trong ta.

Điều sâu thẳm hiệu triệu điều sâu thẳm, Thượng Đế hiệu triệu Thượng Đế, đó là giải pháp cho điều bí nhiệm khi khốn khổ theo bén gót sự hân hoan, c̣n sự chết bao giờ cũng là cái bóng của sự sống. Nhưng sống và chết, hoan hỷ và khốn khổ, bạn và thù không phải là những điều đối lập mâu thuẫn nhau; mà là cùng một Thượng Đế duy nhất, cả hai đều thiêng liêng như nhau khi ta hiểu rơ được chúng.

Như vậy trải nghiệm xuất hiện thành thông điệp của Thượng Đế bên ngoài gơ cửa Thượng Đế bên trong, tức là linh hồn. Khi linh hồn ở trong kẻ dă man th́ trải nghiệm mang lại sự hận thù và đấu tranh để hiệu triệu Thượng Đế bên trong hiển lộ những thuộc tính ẩn tàng can đảm và quyết đoán. Khi linh hồn ngự trong kẻ văn minh th́ trải nghiệm gơ cửa để phóng thích những đức tính cần cù và hữu hiệu, hiếu học và biết phán đoán, thân thiện và xả thân. Với vai tṛ là con nít, là thiếu niên, là thanh niên, là người trưởng thành, là phụ nữ, là chồng và cha, là vợ và mẹ, cứ mỗi giai đoạn th́ khả năng ẩn tàng nào đó trong linh hồn lại được phóng thích theo sự kích thích của môi trường xung quanh và những trải nghiệm mà nó mang lại.

Như vậy trong cuộc hành hương lâu dài để cho linh hồn phát hiện ḿnh là Thượng Đế th́ mọi tôn giáo lần lượt đến với y để dạy cho y một linh từ trong châm ngôn mà Thượng Đế bên ngoài dùng để sáng tạo ra thế giới. Khoa học khai thị khuôn khổ của sự sáng tạo đó, Nghệ thuật khai thị niềm vui mà nó che giấu, c̣n Triết học khai thị sự linh hứng mà nó mang lại. Không một sự kiện nào trong cuộc sống, không một diễn biến nào ở bất cứ nơi đâu trên thế giới mà lại không có một ư nghĩa đối với linh hồn, ư nghĩa đó chính là: Thượng Đế bên ngoài luôn luôn hiệu triệu Thượng Đế bên trong để được hiệp nhất.

Đây chính là bài học mà tất cả chúng ta đều phải học. Và bài học này thật khó học, bởi v́ suy nghĩ và cảm nhận của ta thường có khuynh hướng nhị nguyên, đối lập bản ngă với phi ngă. Thật dễ hơn nhiều khi phân chia thế giới ra thành điều mà “ta thích” và điều mà “ta không thích” so với việc chấp nhận một điều ǵ đó vượt ngoài tầm cả thích lẫn không thích, chiêm nghiệm thế giới đúng như thật, bất chấp quan hệ của nó với chính ta. Thật dễ hơn nhiều khi phân chia cuộc đời ra thành thiện và ác so với khi nh́n thấy cuộc đời đúng như thực và không gán một nhăn hiệu nào cho nó. Chỉ khi ta “dẹp bỏ bản ngă” và thấy các sự vật “như thực”, do đó chuyển sang việc thấy “thực tướng của các sự vật”, tức là các Nguyên mẫu của Plato th́ lần đầu tiên ta mới thoáng thấy được chân ngă của ḿnh.

Chính việc thoáng thấy sự thật đó, tiết lộ cho con người thấy rằng sự đau khổ đè bẹp y chỉ là chính y đang làm việc, tẩy trược bản thân. Lúc mà ta bước vào thế giới nhị nguyên và khi ta đau khổ mà lại bảo rằng Chính Thượng Đế khiến cho ta đau khổ th́ đau khổ ấy không chấm dứt. Đó là v́ khi đau khổ tuôn đổ thần lực của ḿnh nó cũng tạo ra lực mới mà sau này lại gây ra đau khổ mới. Nhưng khi ta từ chối không chấp nhận bất cứ nhị nguyên tính nào và bảo rằng “Chính Sự Sống đang giải thoát Sự Sống” hoặc “Chính Thượng Đế bên ngoài của tôi đang giải thoát Thượng Đế bên trong của tôi” th́ lúc bấy giờ lần đầu tiên tâm hồn ta mới có sự b́nh an.

Lúc bấy giờ ta ắt biết rằng Giải thoát không phải là một diễn biến vào lúc chung cuộc, mà liên tục xảy ra đều đều đưa Thượng Đế bên ngoài càng ngày càng tiếp cận với Thượng Đế bên trong. Một khi mà hai cực Tự tại này bắt đầu tiếp cận với nhau th́ bắt đầu có Giải thoát. Từ đó trở đi yếu tố thời gian ở bên trong linh hồn và là tác nhân của linh hồn chứ không làm chủ linh hồn nữa. Việc khi nào linh hồn được Giải thoát (Mukti) hoặc Niết Bàn không c̣n quan trọng nữa, mà quan trọng hơn là sự thật, linh hồn ắt biết và không ngừng hoan hỷ khi bộ đôi đang hiệp nhất. Đây là con đường trực tiếp nhất trong mọi con đường và không ai có thể ngăn cản sự hiệp nhất nhanh chóng này ngoại trừ chính linh hồn. Sự thật này là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mê lộ cuộc đời của ta. Và ta ắt học được sự thật này qua vô vàn phương thức miễn là ta không bưng tai bịt mắt. Ánh Sáng Trên Đường Đạo có nói như sau:     

 

Con hăy điều tra đất, gió và nước để t́m hiểu những bí mật chúng nắm giữ cho con.

Con hăy điều tra những Đấng Thiêng Liêng của đất, để t́m hiểu những bí mật mà họ nắm giữ cho con.

Con hăy điều tra Đấng Nhất Như trong sâu kín nhất, để t́m hiểu về điều bí mật tối hậu mà nó nắm giữ cho con trải qua bao nhiêu thời đại.

 

Và khi toan tỉnh t́m hiểu ư nghĩa của nó th́ không ai có thể giúp đỡ hoặc hướng dẫn ta. Khi Krishnamurti bảo rằng linh hồn nào đang đau đáu Giải thoát th́ không cần có Thầy, ông chỉ đang một lần nữa phát biểu điều mà các đạo sư khác đă nói trước ông. “Ngươi là CÁI ĐÓ”, chính là công lư tiên đề của Ấn giáo bí truyền và Áo nghĩa thư vốn tuyên cáo giáo huấn này không hề khăng khăng cho rằng cần phải có Thầy để thành tựu được sự Đơn nhất này. Bạn hắn biết truyền thống ngàn xưa ở Ấn Độ - trước hết là đi học, rồi tới làm chủ gia đ́nh, rồi tới ở ẩn, cuối cùng là tu sĩ, “xả bỏ’ mọi nghi thức và tín điều, một thân một ḿnh nhập thế, không có Thầy dẫn dắt để trực tiếp t́m ra tính Đơn nhất ấy cho bản thân. Cũng vậy, trong 45 năm mà Đức Phật Thích Ca phụng sự thế gian, không một lần nào Ngài tự coi ḿnh là bậc Thầy mà người ta cần có được sự trợ giúp để nhập vào Thánh Đạo. Huấn lệnh của Ngài lần cuối cùng dành cho tăng đoàn, nhấn mạnh tới “tính độc nhất vô nhị cá thể của mỗi người bước trên Thánh đạo. Khi Ngài nằm xuống sắp nhập Niết bàn Ngài dạy rằng: “Hỡi Anan, có thể một số các con ắt nghĩ rằng lời của Thầy là chuyện đă qua rồi; giờ đây chúng ta không có Thầy. Nhưng hỡi Anan, quan điểm đó không đúng. Hỡi Anan, khi ta đă nhập diệt th́ giáo lư và giới luật mà ta đă giảng dạy và ra lệnh cho các con tuân thủ ắt chính là Thầy của các con”. Và lời cuối cùng của Ngài như sau: “Hỡi các tỳ kheo, giờ đây ta tạm biệt các ngươi; mọi thành tố tồn tại đều chỉ là vô thường; các con hăy tinh tấn tiến hành giải thoát.”

Chẳng bao giờ Đạo sư bảo rằng, “Thầy là Brahma, Thầy là Vishnu, Thầy là Maheshvara”; đó là cụm từ mà đệ tử sáng tạo ra. Không một bậc Thầy nào tuyên cáo điều mà đệ tử khẳng định về Thầy của ḿnh v́ biết ơn người.

 

Ngươi chính thật là mẹ của ta, ngươi quả thật là cha của ta, ngươi cũng là bạn của ta và là người đồng hành với ta. Ngươi quả thật là học thức và sở hữu của ta. Hỡi Đấng Thần linh Tối cao, ngươi là tất cả của ta.

 

Mọi điều nêu trên là do đệ tử nói về Thầy của ḿnh chứ không phải bậc đạo sư nói về bản thân. Thế th́ bậc đạo sư nói ǵ? Thầy của H. P. Blavatsky, H. S. Olcott và Annie Besant đă từng một lần nói về Bản thân, và ta có sau đây lời lẽ của Ngài: “Tôi vẫn cứ là tôi và măi măi như thế để cho tôi rất có thể luôn luôn như vậy - nô lệ cho bổn phận của tôi đối với Quần Tiên Hội và nhân loại; tôi không chỉ dạy dỗ mà c̣n muốn cho mọi cá thể đều ưa thích việc yêu thương nhân loại”. Việc ngay cả chính bậc Thầy khi đă giải thoát rồi vẫn c̣n phấn đấu v́ một t́nh thương rộng lớn hơn đối với nhân loại được chứng tỏ qua lời lẽ cũng của Chơn sư đó: “Dấu ấn của Chơn sư được giữ ở Shamballa chứ không phải ở Simla và ta cố gắng tuân thủ nó”. Chính huynhn đệ của ngài là Chơn sư K. H. đă miêu tả Ngài là người rất nghiêm khắc với bản thân, càng nghiêm khắc với những khuyết điểm của ḿnh bao nhiêu th́ lại càng khoan dung đối với những khiếm khuyết của người khác bấy nhiêu, không phải trên đầu môi chót lưỡi mà ngay tận trong tâm khảm.

Và ở đây tôi muốn chứng nhận rằng Chơn sư mà tôi đă đi theo trong suốt 41 năm trời vừa qua của kiếp sống này, chưa bao giờ là “cái nạng” mà tôi có thể dựa dẫm vào đó trong bất kỳ lúc nào tôi yếu đuối. Cũng chưa một lần nào Ngài giúp cho đường đạo của tôi dễ dàng hơn, hoặc giúp tôi leo qua những bậc thang và chướng ngại, chưa một lần nào Ngài ngăn cản tôi không phạm phải những lỗi lầm do ngu đần hoặc ích kỳ. Nhưng Ngài đă luôn luôn là một ngọn hải đăng đối với con tàu của tôi trong khi biển động, một chùm tia sáng chói ḷa vạch rơ trong đêm đen của băo tố bập bùng để cho thấy bến đậu không ở xa và do đó đừng thất vọng mà hăy can đảm lên. Nếu tôi dâng lên Ngài mọi t́nh thương và việc phụng sự của ḿnh th́ đó chỉ v́ Ngài là biểu tượng sống động của điều mà tôi hi vọng một ngày kia ḿnh sẽ thành tựu. Nếu tôi quỳ gối trước mặt Ngài với ḷng tôn kính và biết ơn sâu sắc th́ đó chỉ là v́ đối với tôi Ngài là sự hứa hẹn vinh diệu một ngày kia tôi sẽ yêu thương nhân loại với mức độ kịch liệt kỳ diệu mà ngài yêu thương toàn thể nhân loại ngày nay. Ngài là Thượng Đế bên ngoài khơi dậy Thượng Đế bên trong tôi để biết được số phận của ḿnh, đó là phấn đấu trải qua mọi thời đại để lập nên một Vương quốc Cực lạc cho mọi người.

Tôi xin chấm dứt bài tham luận ở đây về đề tài Thượng Đế bên ngoài và Thượng Đế bên trong bằng cách đọc cho bạn hai đoạn trích dẫn từ Áo nghĩa thư, một đoạn mô tả Thượng Đế bên ngoài, c̣n một đoạn mô tả Thượng Đế bên trong.

 

 

 

THƯỢNG ĐẾ BÊN NGOÀI

(Trích từ Shvestâshvatara Upanishad. Bản dịch của Mead)

 

Thượng Đế này an ủi trong mọi khu phố đă từ lâu rồi, quả thật ngài đă sinh ra và giờ đây ở trong mầm mống. Ngài đă được sinh ra, ngài sẽ được sinh ra, ngài đứng đằng sau mọi người sinh ra có mặt ở mọi phía.

 

Ngài có đôi mắt ở mọi phía, chắc chắn ngài có mặt ở mọi phía, có đôi tay ở mọi phía, đôi chân ở mọi phía. Ngài tô điểm chúng bằng đôi tay, bằng đôi cánh để tạo ra trời và đất, Ngài là Thượng Đế Duy nhất.

 

Ngài là Đấng Chúa tể có khuôn mặt, cái đầu và cổ, cũng của tất cả mọi người, Ngài ngự trong nơi chốn sâu thẳm bí mật của mọi linh hồn, bàng bạc trong vũ trụ. V́ thế trên cương vị là Đấng thấm nhuần vạn vật, Ngài thật lương hảo.

 

Ngài là con ruồi màu xanh lơ, con chim màu xanh lục và con thú có mắt đỏ, Ngài là đám mây ôm trong ḷng sấm chớp, Ngài là các mùa tiết và biển cả. Ngài ngự trong quyền năng hiện diện khắp nơi, mọi thế giới đều sinh ra từ đó.

 

Ngài là Đấng vĩnh hằng hơn hết, Ngài là tâm thức mà mọi tâm thức của vạn vật đều bao hàm, Ngài là đấng mà nhiều ham muốn đều ban phát ra, v́ biết được nguyên nhân đó cho nên khoa học linh thiêng và nghệ thuật thánh thiện đă tiếp cận với Thượng Đế, kẻ phàm phu đă được giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc.

 

Tôi biết Con người đại hùng này giống như mặt trời, vượt ngoài tầm bóng đêm; Ngài và chỉ có Ngài mới biết việc băng ngang qua sự chết, tuyệt nhiên không có con đường nào khác để cho người ta đi.

 

 

 

THƯỢNG ĐẾ BÊN TRONG

(Trích từ Kenn, Taittirya, Mundaka và Mândukya Upanishad)

 

Điều mà không một lời lẽ nào khai thị được nhưng lại khai thị được lời lẽ ấy, điều đó quả thật được biết là Brahman chứ không phải là điều này mà người ta tôn thờ bên dưới.

 

Điều không nghĩ bằng cái trí mà chính nó lại nghĩ ra cái trí, điều đó biết ngươi quả thật là Brahman chứ không phải là điều này mà ngươi tôn thờ ở bên dưới.

 

Điều mà không ai tận mắt thấy được, nhờ đó mà ta thấy được điều cần thấy, điều đó biết ngươi quả thật là Brahman chứ không phải là điều này mà ngươi tôn thờ ở bên dưới.

 

Thế th́ quả thật ai biết điều này ắt hết tội lỗi và an trụ vào cơi trời vô biên, bất biến.

 

Trọn cả thế giới bắt nguồn từ Ngài, quả thật nó cũng lại đi về Ngài, nhờ có Ngài mà chắc chắn điều này cũng được nâng đỡ, đó là Tự ngă viên giác đáng được tôn thờ!

 

Sự thật, Minh triết, Brahma vô tận,

Là cội nguồn của mọi cực lạc, bất tử, rạng ngời,

B́nh an, lương hảo và độc nhất vô nhị!

 

Om! B́nh an, B́nh an, B́nh an! Om!


-----------------------------

 

 

 

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS