Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS

Ramana Maharshi và Sức Mạnh Của Sự Im Lặng Phần 1

Theosophist Tập 146 Số 11 tháng 8 2025

Clemice Peter

Bản dịch: www,thongthienhoc.com

Ramana Maharshi và Sức Mạnh Của Sự Im Lặng Phần 1

Bà Clemice Petter, thành viên Hội Thông Thiên Học Adyar, và là diễn giả quốc tế, sống dưới chân núi Arunachala, Tiruvannamalai, Ấn Độ. Bà cũng là tác giả của cuốn sách Pathless Land (Vùng Đất Vô Định) được xuất bản tại Ấn Độ và Brazil.

Ramana Maharshi (30/12/1879-14/04/1950) là một bậc giác ngộ sinh ra ở miền Nam Ấn Độ, gần Tiruvanna-malai. Ngài là một đứa trẻ b́nh thường, không có ǵ nổi bật, không có ǵ báo hiệu rằng ngài sẽ trở thành ánh sáng soi đường cho cuộc đời của nhiều người. Tuy nhiên, vào khoảng năm mười ba tuổi, một sự kiện trọng đại đă thay đổi cuộc đời ngài. Cái chết của cha ngài đă khơi mào cho hàng loạt câu hỏi khiến ngài rời bỏ nhà mẹ đẻ để đáp lại tiếng gọi nội tâm, như một thỏi nam châm thu hút ngài đến Tiruvannamalai, nơi ngài đầu hàng trước sức mạnh của ngọn đồi Arunachala.

Tiruvannamalai, lúc bấy giờ chỉ là một ngôi làng, là vùng đất linh thiêng, nơi mà theo truyền thống Ấn Độ giáo, Thần Shiva đă ngự trị trên Trái Đất. "Aruna" nghĩa là "đỏ", "rực rỡ như lửa", hay "ngọn lửa minh triết (jñānāgni)". "Achala" nghĩa là "ngọn đồi". Do đó, Arunachala được dịch là "ngọn núi đỏ", hay sâu xa hơn là "ngọn đồi minh triết" hay "núi lửa". "Ngọn lửa" này không phải là hơi ấm thông thường, mà là ngọn lửa thanh khiết của tri thức thiêng liêng. Theo thần thoại Ấn Độ giáo (Purana-s), Arunachala được coi là hiện thân của chính Thần Shiva.

Huyền thoại đáng chú ư nhất kể về cuộc tranh căi giữa Brahma (đấng sáng tạo) và Vishnu (đấng bảo tồn) về việc ai là người vượt trội hơn. Để giải quyết cuộc tranh căi, Shiva hiện thân thành một cột ánh sáng vô tận, thách thức họ t́m ra điểm khởi đầu hay kết thúc của ngài. Cả hai đều không thành công, thừa nhận quyền lực tối cao của Shiva. Cột ánh sáng rực rỡ này sau đó đă h́nh thành nên ngọn đồi Arunachala. Nhiều vị thánh và hiền triết, bao gồm cả Sri Ramana Maharshi, coi Arunachala là Trái tim tâm linh của thế giới, một biểu hiện trực tiếp của thực tại tối thượng.

Một câu nói cổ xưa liên quan đến Arunachala như sau: "Nh́n thấy Chidambaram, sinh ra ở Tiruvarur, chết ở Banaras, hay thậm chí chỉ nghĩ đến Arunachala là chắc chắn được Giải thoát." Điều này làm nổi bật sức mạnh độc nhất được gán cho tư tưởng về Arunachala. Đây cũng là một trong năm thánh địa chính ở miền Nam Ấn Độ, mỗi thánh địa đại diện cho một trong năm nguyên tố vũ trụ. Arunachala đặc biệt đại diện cho nguyên tố lửa (agni). Về cơ bản, Arunachala không chỉ là một vị trí địa lư; nó được coi là một biểu hiện sống động của thần lực, một nguồn minh triết và là nam châm tinh thần sâu sắc cho những ai t́m kiếm sự giải thoát.

Khi chàng trai trẻ Venkataraman, sau này được biết đến với cái tên Sri Ramana Maharshi, nh́n thấy thi hài bất động của cha ḿnh, nghe mọi người nói rằng cha đă ra đi và chỉ c̣n lại một thân xác trơ trọi như một cái vỏ rỗng không, vô hồn, cậu bé không ngừng suy nghĩ về điều bí ẩn bao trùm sự tồn tại của muôn loài trên hành tinh này. Làm sao giải thích được sự thật rằng những ǵ đă từng nói, từng cười, từng là nguồn yêu thương và tôn kính giờ đây chỉ là một thi hài bất động sắp bị vứt bỏ? Bản thể đích thực mà cậu gọi là "cha" đă thoát đi đâu?

Nếu thân xác là thứ bỏ đi, vậy th́ sức mạnh nào đă làm cho nó sống động, ban cho nó sự duyên dáng và sức sống? Sức mạnh này đến từ đâu? Cái ngă đích thực là ǵ, khi rơ ràng nó không phải là thân xác? Vô số câu hỏi cứ lởn vởn trong tâm trí ông, và sau vài tháng, gia đ́nh chuyển đến nhà chú ruột, nơi chàng trai trẻ Venkataraman đă có một trải nghiệm thần bí, trong đó anh cảm thấy chắc chắn rằng cái chết sắp đến.

Hoảng sợ và chắc chắn ḿnh sắp chết, cậu nằm xuống đất, bất động, và tưởng tượng toàn bộ cảnh tượng: thi thể bất động của ḿnh được khiêng đi làm lễ tang, gia đ́nh tiễn biệt, và hoàn toàn từ bỏ mọi ràng buộc với cái mà cậu gọi là "cuộc đời ḿnh". Sau ngày hôm đó, cuộc sống vẫn diễn ra b́nh thường, nhưng bên trong có điều ǵ đó đă thay đổi; và một ngày nọ, khi ông đang làm bài tập về nhà, một việc mà cậu không có năng khiếu, anh trai cậu đă hỏi cậu đang làm ǵ.

Khi anh nói rằng ḿnh đang làm bài tập tiếng Anh, anh trai anh đă nói với anh bằng giọng chế giễu: "Anh không hiểu tại sao em vẫn c̣n lăng phí thời gian vào việc học; em chẳng học được ǵ cả." Nghĩ đến lời nhận xét của anh trai, anh thấy điều đó có lư, và v́ vậy, anh quyết định rời khỏi nhà để t́m đến Arunachala.

Dùng số tiền mẹ đưa để đóng học phí cho em trai, Venkataraman đă mua được một vé tàu, để lại một tờ giấy ghi rằng anh cần lấy một phần tiền và đă để lại số tiền c̣n lại ở một nơi được ghi trong giấy. Anh nói rằng mọi người không nên t́m anh v́ anh đang đi t́m Cha. Anh ám chỉ đến Cha Trên Trời, cha của muôn loài.

Khi đến thành phố, ngài đến chùa, nhưng trước khi vào, ngài vứt bỏ số tiền c̣n lại, đôi khuyên tai vàng ngài đeo, và sợi chỉ thiêng liêng mà những người thuộc đẳng cấp Bà-la-môn mà ngài thuộc về. Khi bước vào, ngài nói: "Các người đă gọi tôi, tôi ở đây." Ngài sống ở Tiruvannamalai, dưới chân núi Arunachala, không bao giờ rời khỏi vùng lân cận ngọn núi cho đến cuối đời. Samādhi của ngài được xây dựng bên cạnh Samādhi của mẹ ngài và vẫn là một địa điểm hành hương cho đến ngày nay. (Samādhi nơi an táng thi hài của một vị thánh theo phong tục địa phương)

Gia đ́nh không biết tung tích của chàng trai trẻ trong gần hai năm, cho đến một ngày một người dân làng nhận ra anh ta ở Tiruvannamalai. Biết con trai ḿnh đang sống trong một hang động ở Arunachala, mẹ anh đă nhờ anh rể đi đón anh ấy về nhà. Chú của Venkataraman không thể đưa ông về, nên mẹ anh quyết định tự ḿnh đi và sẽ không quay lại cho đến khi bà thuyết phục được ông đi cùng. Suốt ba ngày, lời cầu xin của bà không được đáp lại, cho đến khi một đệ tử của Ramana Maharshi trẻ tuổi yêu cầu ông nói đôi lời với người mẹ tội nghiệp.

Điều quan trọng cần lưu ư là Ramana Maharshi đă không nói một lời nào trong suốt mười năm. Mọi người đều nghĩ rằng ông đă phát nguyện giữ im lặng. Vào thời điểm đó, ông được biết đến với cái tên Mouna Swami, trong đó "mouna" có nghĩa là im lặng. Khi về già, Ramana giải thích rằng do cường độ của một số trải nghiệm huyền bí mà ông đă trải qua, ông đă mất khả năng nói, và rằng ông chưa bao giờ phát nguyện dưới bất kỳ h́nh thức nào. Ramana không khuyến khích những người t́m đến ông để xin lời khuyên hay đồng hành t́m kiếm những trải nghiệm siêu nhiên; ngược lại, ông nói rằng những hiện tượng như vậy không quan trọng và điều duy nhất đáng t́m kiếm là sự giải thoát tâm trí khỏi mọi hạn chế do chính tâm trí tạo ra.

Thấy mẹ cần câu trả lời, chàng viết lên vách hang động nơi ḿnh sống: "Điều ǵ không được định sẵn sẽ không xảy ra, dù có cố gắng thế nào. Điều ǵ được định sẵn sẽ xảy ra, hăy làm mọi cách để ngăn chặn nó. Đó là điều chắc chắn. Vậy nên, cách tốt nhất là im lặng." Hiểu được ư sâu xa trong lời con trai, nàng trở về nhà. Vài năm sau, khi tất cả các con đă lập gia đ́nh và nàng chỉ c̣n một ḿnh, nàng trở về Tiruvannamalai và sống trong hang động với con trai Ramana cho đến cuối đời.

Sau khi hồi phục khả năng nói, Ramana không nói nhiều; giáo lư của ngài được truyền đạt trong im lặng. Sau khi mẹ qua đời, Ramana rời khỏi hang động, và một đạo tràng được xây dựng xung quanh chổ an táng của bà. Ramana ở lại trong một hành lang chỉ có một chiếc ghế sofa, nơi ngài dành cả ngày lẫn đêm, với cánh cửa luôn mở rộng cho công chúng. Mọi người tụ tập quanh chiếc ghế sofa, nơi Ramana ngồi im lặng hầu hết thời gian, trả lời vài câu hỏi thỉnh thoảng. Theo ngài, h́nh thức giáo lư tâm linh cao nhất được truyền đạt trong im lặng.

Trên thực tế, giáo lư của Ramana Maharshi là hướng sự chú ư của chúng ta vào bên trong. Điều đó có nghĩa là ǵ? Phần lớn con người đều hướng sự chú ư ra bên ngoài, hướng đến các giác quan: thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác và vị giác. Chúng ta dành phần lớn cuộc đời để tập trung vào những ǵ xảy ra xung quanh. Chúng ta tương tác với thế giới thông qua năm giác quan của ḿnh, hoàn toàn không biết điều ǵ ẩn sau những giác quan đó. Giáo lư của Ramana hướng sự chú ư của chúng ta đến sự thật này và cho chúng ta thấy rằng, để sống một cuộc sống hài ḥa, chúng ta phải chấm dứt sự chi phối của các giác quan của ḿnh và thiết lập một mối quan hệ mật thiết với những ǵ kích thích các giác quan đó. Giáo lư của ông không nói về việc ḱm nén, trấn áp hay sống theo cách dễ dăi, cho phép, mà đúng hơn là về việc nhận biết sâu sắc điều ǵ thúc đẩy chúng ta.

Theo lời dạy của Ramana, sự hiểu biết sâu sắc này có khả năng mang lại sự thay đổi, từ một cuộc sống vô minh đến một cuộc sống ḥa hợp và minh triết. Chính sự hiểu biết này thúc đẩy chúng ta, không phải một cách hời hợt, mà theo một nghĩa sâu xa hơn, để thấu hiểu được các cơ chế dẫn đến cảm giác tức giận, ghen tị, đố kỵ, phấn khích, v.v. Thông thường, chúng ta không mấy chú ư; chúng ta phớt lờ những lư do thực sự cho thái độ và hành vi của ḿnh. Chúng ta thường biện minh cho hành vi của ḿnh bằng cách viện dẫn đến hành động của người khác hoặc một sự kiện nào đó. Ví dụ, khi cảm thấy tức giận, chúng ta thường cho rằng cơn giận này là do ai đó đă làm điều ǵ đó, và bằng cách đó, chúng ta đang thể hiện sự tức giận ra bên ngoài.

Khi sự chú ư của chúng ta bị hướng vào bên trong, chúng ta t́m kiếm nguyên nhân gây ra sự khó chịu bên trong chính ḿnh. Chúng ta đi đến sự hiểu biết rằng hành vi của người khác chỉ là một tác nhân kích hoạt, chạm đến điều ǵ đó bên trong chưa được hiểu, điều ǵ đó đang bị bỏ quên, điều ǵ đó mà chúng ta không muốn thừa nhận. Giống như thể chúng ta có một thùng rác bên trong ḿnh, một nơi để chúng ta đổ tất cả những thứ rác rưởi mà chúng ta không biết cách tái chế. Chúng ta sống như thể thùng rác này không tồn tại, như thể bằng cách phớt lờ nó, nó sẽ không c̣n tồn tại. Nhưng sự thật là rác thải chưa được tái chế này vẫn ở đó, và khi ai đó đưa nó lên bề mặt thông qua một ánh mắt, hành vi hoặc lời nói, chúng ta đổ lỗi cho tác nhân kích hoạt đă phơi bày những ǵ chúng ta đang cố gắng che giấu.

Khi hướng nội, chúng ta sẵn sàng đối mặt với thùng rác và t́m cách tái chế, tái hiện những sự kiện trong cuộc sống. Chúng ta không cần phải xem xét lại những thứ cũ kỹ, mà chỉ cần chú ư đến cách thức rác thải được tạo ra; sự hiểu biết này mang tính chuyển hóa và sẽ xử lư tất cả rác thải tích tụ. Sự chuyển hóa này đ̣i hỏi rất nhiều năng lượng và sức mạnh nội tâm. Nó không phải là tṛ chơi trẻ con.

Ngày xưa, vị yogi nổi tiếng, Paramahansa Yogananda (1893-1952), cùng với một số các đệ tử của ḿnh, có một người đă đến thăm Ngài Ramana Maharshi. Trong chuyến viếng thăm, Ngài hỏi Ramana tại sao Thượng Đế, là Đấng toàn năng và toàn tri, lại không chấm dứt đau khổ của con người. Ramana trả lời rằng chỉ qua đau khổ, con người mới có thể t́m thấy Thượng Đế. Để sống trong ḥa b́nh, trước hết chúng ta cần hiểu điều ǵ dẫn đến xung đột.

Ramana nói rằng cần phải t́m ra gốc rễ của mọi suy nghĩ, rằng suy nghĩ là nguyên nhân của mọi đau khổ của con người. Ông nói: "Hăy buông bỏ mọi suy nghĩ; bạn không cần phải từ bỏ bất cứ điều ǵ khác." Theo ông, mục đích của cuộc sống con người là làm cho tâm trí lắng dịu, tĩnh lặng. Nhiều truyền thống cũng chỉ ra điều tương tự; ví dụ, trong Thi Thiên 46:10, Chúa Giê-su phán với chúng ta: "Hăy yên lặng và biết rằng Ta là Đức Chúa Trời." Sự tĩnh lặng là cần thiết để nhận biết Đức Chúa Trời và sống trong sự Hiện Diện của Ngài.

Ramana nói với chúng ta rằng trạng thái tự nhiên của con người là niềm vui, hạnh phúc. Và trạng thái này luôn hiện hữu, nhưng chúng ta không thể sống trong trạng thái hạnh phúc và vui vẻ này bởi v́ chúng ta chạy theo mọi suy nghĩ nảy sinh trong tâm trí. Chúng ta lạc lối trong vô số câu chuyện do tâm trí tạo ra; và theo ông, chúng ta phải cố gắng làm im lặng người kể chuyện được gọi là tâm trí. Ông cũng nói rằng vai tṛ của tâm trí không phải là kể chuyện hay tạo ra giải pháp cho những vấn đề do chính tâm trí tạo ra, mà là giữ im lặng. Khi tâm trí im lặng, thực tại hay chân lư sẽ được phản chiếu trong đó, và chúng ta có thể sống một cuộc sống hoàn toàn khác với cuộc sống mà chúng ta thường quen, hướng tới một cuộc sống b́nh yên và ḥa hợp.

Ramana tuyên bố rằng tâm trí chỉ là một bó những suy nghĩ, và những suy nghĩ này bắt nguồn từ ư niệm về bản ngă. Khi chúng ta hướng tâm trí vào bên trong, Thượng Đế sẽ biểu hiện thành ư thức bên trong. Tâm trí là một sức mạnh độc nhất nơi những suy nghĩ xuất hiện, và bản thân những suy nghĩ chính là tâm trí.

Bản chất thực sự của chúng ta là b́nh an và tĩnh lặng, v́ vậy mọi xáo trộn trong thế giới chúng ta đang sống, bao gồm những lo lắng và vấn đề, niềm vui và mong muốn, đều xuất phát từ ư niệm rằng chúng ta tách biệt với nhau. Ảo tưởng về sự tách biệt này chính là cái mà chúng ta gọi là bản ngă, ảo tưởng nguyên thủy, mẹ đẻ của mọi đau khổ của con người. Giáo lư cốt lơi của Ramana là tự hỏi: "Tôi là ai?". Và theo ông, khi được thực hiện một cách nghiêm túc và tinh tấn, sự tự vấn này sẽ dẫn đến sự hủy diệt cái "tôi" giả tạo này, hay cảm giác tách biệt, bản ngă.

Ngày xưa, có một người đàn ông sống cách Tiruvannamalai hàng dặm đă đi nhiều ngày để gặp Ramana Maharshi. Người đàn ông này đang gặp khó khăn trong mối quan hệ với những người xung quanh. Mệt mỏi với cuộc sống đầy mâu thuẫn, anh ta hỏi Ramana: "Cách cư xử đúng đắn với người khác là ǵ?" Trong ba ngày, anh ta không nhận được câu trả lời. Đến ngày thứ tư, khi chuẩn bị rời đi, anh ta nài nỉ, nói rằng anh ta không thể chịu đựng được nữa và anh ta đă đi hai ngày chỉ để hỏi câu hỏi này, v́ cuộc sống đă trở nên quá sức chịu đựng. Ramana, nh́n chằm chằm vào đường chân trời, chỉ nói: "Không c̣n ai khác nữa."

Câu trả lời của ông thường ngắn gọn và súc tích; ông không giải thích hay tŕnh bày chi tiết những ǵ ông nói. Mặc dù lời dạy của ông đến từ kinh nghiệm trực tiếp của ông, chúng thường được so sánh với Advaita Vedanta, một trong những trường phái triết học Ấn Độ giáo nổi bật và có ảnh hưởng nhất, với giáo lư cốt lơi là phi nhị nguyên, advaita nghĩa là "không hai"). Ramana khẳng định rằng chỉ có một, và mọi sự đa dạng mà chúng ta thấy đều bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết về bản chất thực sự của ḿnh, xuất phát từ sự phân chia do tâm trí tạo ra.

Lời khuyên của ông là việc t́m hiểu "tôi là ai" nên được thực hiện mà không cần t́m kiếm câu trả lời. Đó là một câu hỏi cần được đặt ra với cường độ cao nhưng vẫn phải để ngỏ. Đây không phải là loại câu hỏi chỉ cần một kết luận chắc chắn. Ví dụ, kết luận rằng chúng ta là thần thánh. Bởi v́, ngay khi chúng ta kết luận và đặt tên, chúng ta đang giới hạn và tách biệt phần đó trong một thuật ngữ. Tâm trí không thể đo lường được chúng ta là ai, và do đó không thể đặt tên.

Nhu cầu định nghĩa xuất phát từ tâm trí, thứ đă tạo ra ư niệm về sự chia cắt. Nhưng khi chúng ta để câu hỏi này mở ngỏ, tâm trí hiểu rằng câu trả lời này nằm ngoài phạm vi của nó, nên nó lắng xuống và trở nên im lặng. V́ vậy, khi Ramana nói về sự im lặng, ông không nói về sự im lặng đến từ việc không nói hay không nói. Ông đang chỉ đến một sự im lặng sâu sắc hơn nhiều, sự tĩnh lặng của chính tâm trí. Đó là sự im lặng của mọi ham muốn, khát khao, mong muốn, và khát vọng. Ông nói rằng chỉ khi tất cả những điều này im lặng, cuộc sống tâm linh mới thực sự bắt đầu. Giáo lư của ông rất sâu sắc; đó không phải là loại giáo lư sẽ dẫn dắt chúng ta đến việc đạt được ngày càng nhiều hơn.

 


 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS