trang nhà trang sách l bản tin l thiền học l tiểu sử trang thơ l h́nh ảnh l bài vở 

 

 

PHÁP  MÔN  JNANA   YOGA

 

trích trong
Ba Con Đường Hợp Nhất Dẫn Đến Sự Hợp Nhất


 

PHÁP  MÔN  MINH  TRIẾT  RẤT  KHÓ  KHĂN

 

Hôm qua, chúng ta tìm hiểu cách thức tìm Chơn Ngã bằng hành động. Học pháp môn nầy, chúng ta đã thấy hành giả tiến như thế nào từ sự say đắm đến sự xả ly, thực hành sự xả ly như thế nào trong đời sống và phải hiến dâng như thế nào trong đời sống để tiến đến Đấng Tối Cao. Chiều hôm nay, chúng ta học một pháp môn khác mà người ta gọi là Jnana Yoga hay con đường Minh Triết. Con đường nầy chỉ dành cho một số ít người chứ không phải cho quảng đại quần chúng, vì nó có những nguy hiểm không thấy ở các pháp môn khác nhất là cho những kẻ sơ cơ. Ở pháp môn hành động” hay pháp môn tôn sùng không có sự hiểu lầm tai hại, sự lẫn lộn đáng tiếc; sự lạc lối hoàn toàn thường xảy ra ở các giai đoạn cuối cùng của con đường minh triết nếu hành giả không được chuẩn bị cẩn thận. Chúng ta sẽ lần lượt miêu tả con đường ấy từ giai đoạn đầu đến giai đoạn cuối. Chúng ta sẽ tìm xem nó dẫn dắt chúng ta như thế nào từ cuộc đời thế tục đến Đấng Tối Cao. Chúng ta đi từ bước như vậy để hiểu nó kỹ càng, để đừng sa vào những cạm bẫy đang đợi chờ những kẻ tu hành bất cẩn.
 

   PHÁP MÔN MINH TRIẾT LÀ CON ĐƯỜNG TRÍ TUỆ

Tôi đã nói con đường nầy không phải dành cho đa số. Nó khởi đầu từ trí tuệ thuần túy (mà nó sẽ vượt xa ở giai đoạn cuối cùng) và bắt buộc hành giả phải có một trí tuệ tế nhị, quảng bác và sâu sắc. Giác quan cần được chế ngự, trí tuệ cần được trau dồi. Sự tinh luyện nầy không nhằm mưu cầu lợi lộc mà để hưởng sự an lạc của trí tuệ thuần túy về sau. Trí tuệ không được ô nhiễm bởi những ham muốn phát sinh do sự hiểu biết và nhằm thỏa mãn các dục vọng đê hèn. Cũng như tôi đã nói một hôm, hiện nay trí tuệ thường được sử dụng để tìm các thú vui vật chất; khoa học cũng chỉ được khai thác để gia tăng tài nguyên và tiện nghi vật chất. Những ai chuẩn bị theo con đường Minh Triết, phải vươn lên khỏi các dục vọng, phải lánh xa các cám dỗ của giác quan và phải tìm trong sự hiểu biết và về sau, trong sự minh triết, một phần thưởng tự nó rất đầy đủ mà không cần sự lợi ích nào thêm. Sự lười biếng phải được diệt trừ, nếu không hành giả sẽ sa lầy và không sao tiến được. Khi bước sang giai đoạn hoạt động thì tất cả sinh lực phải tập trung vào sự thu thập kiến thức.
 

       THU  THẬP  KIẾN  THỨC  LÀ  MỘT  NGUỒN  VUI. 

Trong các giai đoạn đầu của con đường Minh Triết kiến thức được thu thập cho chính nó. Khuynh hướng của những người Jnani2 là thu thập kiến thức để hưởng sự sung sướng được tìm một ý mới, được đa văn quảng kiến, được tăng gia trí lực. Đó là hoài bão duy nhất của họ. Những người đó ít nhưng có rải rác khắp nơi, họ không màng danh lợi, không tìm sự khen tặng của bạn bè hay sự thỏa mãn của dục vọng. Họ quí mến kiến thức vì kiến thức là một nguồn vui. Họ tìm được phần thưởng ngay trong sự sưu tầm. Cho đến lúc chết, họ say mê kiến thức. Họ muốn biết bản chất của vũ trụ và con người, muốn hiểu tận gốc lẫn ngọn đời sống của nhân sinh, muốn tiến sâu vào các bí ẩn của tạo vật, muốn đồng hóa tất cả các kiến thức thu nhập được ở ngoại hình.
 

THẾ NÀO LÀ KIẾN  THỨC ?

Nhưng kiến thức không phải là minh triết, như tôi nói. Kiến thức phát sinh từ sự quan sát các hiện tượng, sự tập trung và sắp xếp các điều quan sát, tự tìm kiếm một qui tắc nhằm tập hợp, sắp xếp và liên kết các hiện tượng riêng rẽ rồi rút ra một giả thuyết chung có thể áp dụng cho tất cả. Đoạn, sinh viên mới áp dụng giả thuyết đó cho các hiện tượng khác, và thí nghiệm nó đủ cách để xem nó có đúng không. Sau đó anh mới nói: “Tôi đã thí nghiệm nhiều lần và kết quả vẫn đúng theo giả thuyết của tôi.” Chừng đó kết quả mới được xem là một luật thiên nhiên có thể đem ra áp dụng một cách chắc chắn. Một nhà bác học luôn luôn làm việc như thế: ông dò xét cẩn thận, quan sát tỉ mỉ với một sự kiên nhẫn vô biên, dọ hỏi tạo vật từ tháng nầy đến tháng kia, từ năm nầy sang năm nọ cho đến khi nào câu trả lời luôn luôn giống nhau và trở thành một sự thật vững chắc như tảng đá. Chừng ấy khoa học mới căn cứ trên đó để tiến đến những sự phát minh mới. Nếu quí vị muốn hiểu rõ phương cách thu thập kiến thức, quí vị hãy xem gương nhà bác vật Anh trứ danh Darwin mà người đồng thời ông và các thế hệ sau đều thán phục. Ông cẩn thận vô cùng; khi thí nghiệm về một thứ thảo mộc, ông đổi chất đất, điều chỉnh ánh sáng, xem xét các điều kiện xung quanh, cho cây nầy nhiều hơn, cây kia ít hơn, thay đổi đủ cách và mỗi lần ông ghi rành mạch kết quả. Và ông thí nghiệm như thế cả trăm lần, để đừng kết luận vội vàng, để đừng xem một lần là toàn thể, để đừng lẫn lộn các nguyên nhân hay đừng xem hiện tượng xảy ra ngẫu nhiên như là một trật tự bất di, bất dịch. Sự tận tụy tìm chân lý và sự chân thành của nhà bác học thật là đáng kính vì nó đòi hỏi biết bao khổ nhọc. Đó là sự tôn kính Thần Chơn Lý biểu lộ trong các luật thiên nhiên.
 

TÌM  HIỂU CÁI  LỚN CẢ CÁI  NHỎ

Đối với một người tìm tòi như thế, không có cái gì là lớn hay nhỏ trong tạo hóa. Tất cả hiện tượng đều được quan sát một cách chính xác như nhau, dù là quỹ đạo của Thái dương hay sinh vật trong giọt nước. Có ai biết được chân lý ẩn nơi nào, có ai đoán được phải hướng về đâu để đi đến một phát minh ? Rất có thể sự lưu chuyển của một nguyên tử quan sát trong kính hiển vi còn giúp chúng ta hiểu công trình của Hóa Công hơn là sự vận chuyển của ngôi sao chổi hiện ra trong một lúc rồi biến hút trong không gian vô tận. Không có chi là lớn, không có chi là nhỏ, tất cả chỉ đều là biểu lộ của Hóa Công và có thể che giấu bí quyết của Tạo Vật. Khi một người nghiên cứu như thế, anh sẽ thấy Đấng Hóa Công hành động tỉ mỉ, khéo léo, chính xác, tuyệt diệu trong việc sáng tạo một nguyên tử cũng như trong sự thiết lập một Hệ thái dương. Anh đinh ninh tất cả những cái trong Thái dương đều đáng học hỏi và không bỏ qua một kẹt xó tối tăm nào. Đó là đường lối của các nhà bác học quyết chí học hỏi, tìm tòi. Tôi kể quí vị nghe một ngụ ngôn nêu rõ đặc điểm nầy mà quí vị sẽ gặp ở các giai đoạn đầu của con đường Minh Triết. Một văn sĩ trứ danh Nga tác giả nhiều truyện ngắn mà chắc quí vị có đọc, tôi muốn nói ông Tourgueieff, có viết một truyện chỉ rõ Tạo Hóa rất tỉ mỉ trong công việc nhỏ mọn, ti tiện cũng như trong công trình vĩ đại, nguy nga. Ông thuật lại rằng ông có đến một cái miếu đặt trong một động đá. Miếu rất trang nghiêm và lớn đến đỗi không ai thấy ranh giới nơi nào mà chỉ thấy bóng tối mênh mông. Tất cả bằng đá: nóc, nền, cột, vách. Đi sâu vào miếu, ông thấy một bà tiên vóc vạc to lớn, hình dáng đẹp đẽ, gương mặt uy nghiêm. Bà quả là hiện thân của quyền năng, tình thương và trí tuệ. Trong động đá bao la, bà ngồi yên, chú hết tâm trí vào công việc của bà, trong lúc mấy ngón tay của bà nắn nót không ngừng. Chung quanh bà, một sự yên lặng hoàn toàn. Ông nghĩ chắc bà đang tạo khối óc của một vị anh hùng hay một vị triết gia, một công việc khó khăn đòi hỏi một cố gắng lớn lao. Ông tiến đến vừa run sợ vừa kính cẩn và hỏi bà đang làm gì. Bà ngước đầu lên và trả lời với giọng dịu dàng nhưng sang sảng trong sự im lặng: “Ta đang nặn chân sau của con bò chét .”

Đó là bài ngụ ngôn. Ý nghĩa của nó khá rõ. Nó nói lên cách thức làm việc của bà tiên mà những đệ tử của sự hiểu biết cần nhận định rõ : theo bà, mọi việc đều phải được làm cho hoàn hảo. Việc nhỏ cũng như việc lớn, việc yếu hèn cũng như việc dũng mãnh đều chứa đựng tinh hoa của Tạo Vật và hành giả phải nghiên cứu tất cả chúng nó một cách kiên trì và kính cẩn để soi sáng các bí ẩn thiên nhiên. Có thế,  kiến thức mới phát triển, khoa học mới xương minh.
 

                                         KIẾN THỨC VÔ BIÊN 

Kính hiển vi phát minh thế giới mênh mông của các vật vô cùng nhỏ bé, còn kính viễn vọng thám hiểm thế giới vô biên của các vật vô cùng lớn. Ở trên, ở dưới, khắp sáu phương, chúng ta có thể khảo cứu trong một cõi bao la hứa hẹn biết bao phát minh mới lạ. Tiếng nói của sự hiểu biết trổi lên khắp nơi. Thế giới nầy đến thế giới của Thái Dương Hệ cần được nghiên cứu và chinh phục. Và đến một ngày kia, con người thoát khỏi các giới hạn do thể xác tạo ra để sang các cõi khác của Hệ Thái Dương. Từ cõi hữu hình, anh tiến sang cõi Trung Giới mà mắt phàm không nhìn thấy. Ở đó, anh phải thu thập những kiến thức thuộc các sự vật mới. Trí tuệ anh càng mở rộng, những sự kiện chưa biết, những bí ẩn lạ lùng sẽ lần lượt hiện ra trước đôi mắt say mê. Khi anh chinh phục được cõi Trung Giới, thì cõi Trung Giới sẽ lộ dạng với vô số sự vật cần quan sát, vô số kinh nghiệm cần thu hoạch. Giả sử anh chinh phục xong ba cõi Hồng trần, Trung giới và Thượng giới, anh cũng chỉ biết được ba cõi nhỏ mà thôi trong khi phần vũ trụ vô biên chưa khám phá lan rộng tít mù xa. Ví dụ anh chinh phục hành tinh nầy xong đến hành tinh khác cho đến khi anh quen thuộc với tất cả như chúng ta quen thuộc với thành phố chúng ta đang ở bây giờ. Sau đó, anh sẽ tiến đến các Thái dương hệ khác trong vũ trụ mênh mông. Như thế, chừng nào anh mới đạt được ranh giới của sự hiểu biết ? Chừng nào trí thức con người tự nhận là kiệt sức để dừng chân ? Kiến thức nầy thêm vào kiến thức nọ, thế giới nầy chồng vào thế giới kia, hệ thống nầy chất lên hệ thống khác, nhưng cõi chưa hiểu biết vẫn còn mênh mông, giới chưa khám phá vẫn còn bát ngát và sự khao khát hiểu biết vẫn còn thúc giục tâm hồn. Người ta thuật xưa kia có một cây trụ lửa cao ngất, trong đó Thần Mahadeva 3 hiện diện khắp nơi. Thần Brahma bay lên ngọn trụ lửa vẫn còn lan rộng tít mù sâu phía dưới. Chuyện nầy có thể xem là một bức tranh miêu tả Thượng Đế vô biên, Ngài biểu lộ trong tất cả thế giới, ở mỗi thế giới một ít với một phần quyền năng của Ngài. Sự hiểu biết không có giới hạn, sự khảo sát cũng thế. Linh hồn chơi vơi trong vực thẳm vô biên và sau cùng, cái trí mệt mỏi, chán nản phải ngưng đôi cánh tìm tòi.

 

       ĐẠI  NGà TRONG  VẠN  VẬT 

Tuy nhiên, trong lúc tìm hiểu ấy, trong lúc thu nhập kiến thức ấy, tâm con người lắng nghe được tiếng nói của Linh Hồn. Linh Hồn ẩn dưới màn hư ảo (maya) nói rằng các hình hài không có thật, rằng vĩnh cửu và vô biên là một, và con người không cần hoạch đắc sự hiểu biết toàn vẹn mà phải nhận thức được cái Đại Ngã thiêng liêng dưới màn hư ảo. Có thế, anh mới có thể đạt được sự minh triết, vì anh có thể bước từ sự hiểu biết sang sự minh triết bất cứ lúc nào trên con đường tìm học, lý do là Đại Ngã ẩn ở khắp nơi “Không có cái chi dù lay động hay đứng yên mà có thể ở ngoài Đại Ngã.” Con người hiện nay chưa hiểu rõ câu nhất thể tán vạn thù, chưa ý thức được rõ ràng sự hiện diện của Đại Ngã thiêng liêng trong vạn vật. Trong sự tìm tòi diệu vợi vì sự vật nhiều vô số, trên con đường tìm học mênh mông vì sự khảo sát rộng bao la, đến một lúc nào con người không sao không chán nản. Anh cảm thấy tuy không rõ ràng nhưng chắc chắn rằng anh phải ngưng tìm hiểu sự vật, thôi quan sát ngoại cảnh để quay mắt vào nội tâm. Anh cần ngắm trung tâm bên trong thay vì nhìn vòng tròn bên ngoài, vì ở bên ngoài, dù anh lục soát khắp vũ trụ, anh cũng không tìm ra Đại Ngã. Nhưng nếu anh hướng mắt vào trong, Đại Ngã hiện ra cùng khắp.
 

    SỰ PHÂN BIỆN VÀ XẢ LY 

Chừng đó, ở lòng anh, một tia sáng rọi vào từ từ nhưng mỗi lúc một thêm sáng tỏ : ấy là viveka hay là sự phân biện. Ánh sáng đó giúp anh phân biệt sự trường tồn trong các điều tạm bợ, cái Đại Ngã trong sự vật, Đấng Duy Nhất trong vạn thù, và mục đích của mọi sự tìm tòi là Đấng vô thủy vô chung, trường tồn bất diệt. Anh bắt đầu phân biệt dáng ngoài và bản thể, điều chơn với lẽ giả, đó là bước đầu của anh từ sự hiểu biết đơn giản đến sự hiểu biết toàn chân. Đến khi anh ý thức rõ ràng Đấng trường tồn trong sự vật vô thường, anh mới bước chân vào giai đoạn cao của con đường Đạo. Kết quả của sự phân biện nầy là Vairagya: anh sợ bóng dáng bên ngoài, muốn lánh xa và ẩn trốn vào nơi nào cách biệt người đời để sống yên lặng, cô liêu, xa gia đình trong sự an tĩnh của thiên nhiên. Tuy nhiên, đến mức tiến nầy, ảo ảnh vẫn chưa tan, vẫn còn che lấp Chơn Ngã. Hiện tượng hào nháng của phỉnh lừa và như trẻ con, chúng ta tưởng các đồ chơi của chúng ta đang nói, đang cười và con búp bê của chúng ta biết trò chuyện, biết vui buồn. Ngoại cảnh tiếp tục trói buộc chúng ta bằng những sợi dây chắc dường như dây sắt, nhưng kỳ thật các sợi dây ấy mong manh như tơ nhện vì nó chỉ là hư ảo.
 

               SÁU  HẠNH

Tuy nhiên, nhờ biết phân biện, con người lần lần xả ly ảo ảnh và tin chắc rằng con người có thể tiến lên. Anh còn nhận thức rằng có sáu đức tánh cần tập luyện ít nhiều trước khi tiến đến Đại Ngã. Nên biết rằng trên con đường tiến hóa khó khăn, kẻ thù độc hại nhất của chúng ta chính là con người mình, nghĩa là bản thể thấp hèn của xác và vía nó ghìm chúng ta vào ô trược. Thế nên con người phải chiến đấu không ngừng để đạt sự bình thản hầu khai mở những quyền năng rất cần trong các đoạn  chót của con Đường.

 

Trong sáu đức tánh nói trên, hai đức tánh đầu là sự kiểm soát cái trí và sự kiểm soát xác thân để chúng nó không còn có thể quấy rầy anh và không khi nào hoạt động để đáp ứng với các kích thích bên ngoài. Anh phải có một thái độ cởi mở để thông cảm với vạn vật, và khoan dung đối với mọi người để nhận thấy chỉ có một mục đích duy nhất dưới mọi phương pháp khác nhau, và biết rõ các con đường đều dẫn đến một mục tiêu duy nhất. Anh phải tập bền chí, nếu không thể tìm Đại Ngã vì có bền lòng, linh hồn mới trở nên mạnh mẽ. Một linh hồn yếu đuối không sao tiến đến Đại Ngã thiêng liêng bằng con đường Minh Triết. Hạnh thứ năm là lòng tin; anh phải ý thức nguồn gốc thiêng liêng của anh và tin rằng không có gì mà anh không thể thực hiện. Sau cùng anh phải đạt được sự quân bình khiến lòng anh không bao giờ bị dao động. Vì khi lòng dao động, con người không sáng suốt và Đại Ngã không thể hiện ra.

 

Khi con người đạt được các hạnh nầy, người ta nói anh đã được chuẩn bị để tiến đến sự giải thoát và sẵn sàng trình diện để bước vào con đường Minh Triết nhờ các kinh nghiệm đã thu thập, nhờ trí tuệ sắc bén, nhờ lý luận tinh vi cũng như các đức tánh quí báu khác. Tiến đến mức nầy, anh được gọi là adhikari, nghĩa là người đã được chuẩn bị hoàn toàn để nhận giáo lý tối hậu : sự minh triết của Đại Ngã.
 

                                          SỰ MINH TRIẾT

 

Thế nào là Minh Triết ? Minh Triết là hiểu biết trực tiếp Đại Ngã, là sự nhận thức Duy Nhất Vô Biên và Trường Tồn, là quan năng thấy Đại Ngã khắp nơi và phận biệt nó dưới các màn ảo ảnh, Đức Krishna đã giải thích nó trong câu sau đây: “Hỡi Goudaresha, Ta là linh hồn ngự trong vạn vật. Ta là bước đầu, quãng giữa và đoạn chót của vạn vật.” Kế đó, Ngài giải thích thêm: “Khiêm tốn, tự hạ, hiền lành, khoan dung, ngay thật, phụng sự Chơn Sư, thanh khiết, kiên gan, tự chủ, bình thản trước các cám dỗ của giác quan, vị tha, hiểu biết tường tận các nỗi đau khổ của sự sinh tử, của già nua, bệnh tật; xả ly đối với gia đình, nhà cửa, giữ tâm trí quân bình trước các biến cố xảy ra, một lòng tôn sùng Ta và không hợp nhất với kẻ khác; tới lui những nơi vắng vẻ, lạnh nhạt trước đám đông; vững lòng trong minh triết Adhyama; nhận thức mục đích của minh triết. Những điều trái với các hạnh trên là vô minh. Đó là Ánh Sáng của các ánh sáng. Minh Triết, mục tiêu của Minh Triết, bước cùng của Minh Triết ngự ở lòng mọi người” (Bhagavad Gita, XIII).

Theo lời giải thích của chính Đức Krishna thì Minh Triết là thế. Khi Ngài đề cập sự quyết tâm của người chí nguyện trên con Đường Minh Triết, Ngài nhớ đến Adhikari và giải thích sự Minh Triết như là sự hiểu biết Bản Chất của Đấng Tối Cao. Ngoài điều nầy, tất cả là vô minh. Kiến thức là vô minh nếu nó hạn chế ở ngoại cảnh. Khoa học là vô minh nếu nó chỉ nghiên cứu hiện tượng hư ảo. Minh triết chỉ có trong sự tìm hiểu Đại Ngã, trong bản chất Nó và trong sự hiện diện của nó ở khắp nơi
      

                         ĐẠI NGÃ DUY NHẤT VÀ BẤT ĐỘNG

 

Chúng ta hãy tìm hiểu phần nào sự Minh Triết đó. Đại Ngã là duy nhất. Sự dị đồng thuộc ngoại cảnh, đó là màn hư ảo che giấu sự Duy Nhất trong đời sống duy nhất, sự sống duy nhất, Thượng Đế duy nhất. Ngoài sự duy nhất ấy, không có gì nữa cả. Đại Ngã vô vi. Hoạt động thuộc Prakriti. Cái màn bao giấu Đại Ngã là sự diễn tiến của các gounas. Sự dị đồng và các hoạt động của Tạo Hóa chỉ liên hệ đến hình dáng bên ngoài, hình dáng hữu hình của sự Duy Nhất. Sự biến chuyển vật nầy thành vật khác, sự sinh tử, già nua, sự thay đổi thường xuyên trong các sinh vật, đó chẳng qua là bánh xe hoạt động của các gounas, còn Đại Ngã thì bất động. Toàn thể là Đấng Tối Cao bị bao phủ trong hư ảo, là Vishnou và trò chơi của Người, là cuộc diễn tiến thông thường của Vũ Trụ. Đó là tưởng tượng của Đấng Tối Cao. Các sắc tướng thay đổi theo người và do đó mà hư ảo. Sự sống chính là Ngài và Ngài là tất cả. “Kẻ nào biết được chính Prakriti hoạt động, còn Đại Ngã vốn bất động, người ấy biết đúng” (Bhagavad Gita, XIII). Đó là kết quả của sự phân biện, của cái thấy sáng suốt giữa Đại Ngã và các màn hư ảo của Tạo Vật nó bao bọc và che giấu. Đại Ngã vốn vô vi. Những hoạt động gán cho Nó chỉ thuộc Tạo Vật bên ngoài. Chơn Ngã ở khắp nơi, ẩn trong tất cả, vượt qua vạn vật. Một lần nữa, lời của Minh Triết đến với chúng ta: “Thật sự, Ishvara ngự đồng đều khắp nơi .” (Bhagavad Gita,XIII).
 

         ĐẠI NGÃ NGỰ ĐỀU TRONG VẠN VẬT

 

Bài học khó khăn làm sao ? Đồng ngự khắp nơi trong các vật thấp kém, xấu xa cũng như trong các thể huy hoàng, cao cả, trong nguyên tử của hạt bụi cũng như ở Thái Dương của Vũ Trụ; thế là cái Ngã của kẻ trụy lạc cũng là cái Ngã của bậc thánh nhân. Bài học nầy cao quí làm sao ! Ý nghĩa nầy tốt đẹp làm sao ? Ý nghĩa đó là Đấng Tối Cao vẫn hệt nhau trong vạn vật vì toàn thể Vũ Trụ là biểu hiện của Ngài. Ngài há không nói: “Ta là sự gian lận của con bạc và là sự huy hoàng của những vật nguy nga !” Bạn hiểu bài học đó không ? Bạn hiểu ý nghĩa của nó đối với Vũ Trụ không ? Nó nói lên rằng muốn được minh triết hoàn toàn,  con người phải trải qua tất cả kinh nghiệm. Bạn đã thấy Đại Ngã trong các điều đẹp đẽ, cao sang, quyền quí nhưng bạn có thấy nó ở các việc xấu xa, ti tiện, hèn hạ không ? Nếu bạn thấy được như vậy, thì không cái gì tốt, cái gì xấu vì tất cả đều là thành phần của Ngài, vì tất cả đều cần thiết cho sự tiến hóa. Mỗi món đều có một chỗ trong cơ trời, mỗi vật đều có một vị trí trong toàn thể. Vì các bạn lưu ý thấy các sự dị đồng nên các bạn thấy sự bất toàn. Bạn chỉ thấy một phần chứ không phải toàn thể. Ấy cũng như bạn xem một tấm thảm phía bề trái, với những đầu dây, gút chỉ nên không thấy mẫu hình dệt trên thảm. Bạn hãy xem bề mặt, trên đó màu đen cũng gần như những màu rực rỡ khác, mỗi màu có một vai trò riêng. Đại Ngã thiêng liêng ấy là một trong vạn vật và không có vật nào ở ngoài Nó. Không có vật nào ở ngoài toàn thể. Mắt phàm của chúng ta chỉ thấy sự bất toàn mà không thấy cái Ngã đang tinh luyện để đến chỗ hoàn toàn. Toàn thể đều tiến đến sự hoàn toàn: cái xấu hướng về cái đẹp, cái dại khờ hướng về cái thông minh. Vì vậy, bạn hãy cố thấy Đại Ngã ở khắp nơi, ẩn đều trong vạn vật rồi sự phân biện sáng suốt sẽ đến với bạn và Đại Ngã sẽ hiện ra huy hoàng.
 

    ĐẠI  NGà HẤP DẪN :  TA  LÀ  NGÀI

 

Sau đây là một bài học khác : tất cả những gì hiện có và quyến rủ, tất cả những chi đẹp đẽ và hấp dẫn đều nhờ Đại Ngã bên trong mới được thế. Nếu yếu tố thiêng liêng nầy vắng bóng thì sự hấp dẫn không còn. Bạn có nhớ chăng khi bà Maitreyi cầu xin chồng dạy mình bài học về sự trường tồn thì ông nói: “Hãy xem kỹ: người chồng đáng yêu không phải chính vì ông mà nhờ Đại Ngã ông mới đáng yêu. Hãy xem, người vợ đáng yêu không phải chính vì bà, mà nhờ Đại Ngã bà mới đáng yêu. Hãy xem: đứa con đáng yêu không phải vì nó mà nhờ Đại Ngã nó mới đáng yêu. Hãy xem, tài sản đáng yêu không phải chính ví nó, mà nhờ Đại Ngã nó mới đáng yêu. Phải, cho đến thần thánh đáng yêu không phải vì thần thánh, mà nhờ Đại Ngã thần thánh mới đáng yêu.” Vị thánh giải thích như vậy cho người vợ ngồi nghe chăm chỉ thế nào là Đại Ngã huyền bí, thế nào là tình thương nhiệm mầu nó phát xuất từ mỗi sinh vật riêng rẽ đến các sinh vật khác. Tình yêu là sự Đại Ngã tìm chính mình trong kẻ khác. Ngài còn kể nhiều ví dụ khác để chứng tỏ rằng sự vật đáng mến vì Chơn Ngã bên trong chứ không phải do ảo ảnh bao bọc nó “Ta phải thấy, phải nghe Đại Ngã và suy ngẫm Nó.” Đó là bí quyết của sự trường tồn. Đó là lời dạy của vị Thánh cho vợ yêu thương của Ngài; đó là lời của vị Chưởng  Giáo dạy môn đệ về minh triết thâm diệu. Khi bài học nầy học xong thì “Bạn là cái Đó.” Khi bài học nầy được hiểu rõ thì “Ta là Ngài” và sự dị đồng sẽ không còn. Đó là tâm trạng của người Jnani[2]. Tâm trạng ấy vươn trên mọi biến chuyển của các gounas và thoát hẳn khỏi bánh xe luân chuyển của Tạo Vật. Chỉ có một Đấng Duy Nhất, ngoài ra, không còn chi nữa. Bài học nầy, cắt dứt các dây liên hệ và giải thoát con người. Ở con người ấy, mọi dục vọng đều tiêu tan, mọi hoạt động tri thức đều lắng dịu. Người không làm gì cả vì các gounas vận chuyển xuyên qua anh. Thật ra, phàm ngã hoạt động với xác thân và trí óc, còn anh thì thản nhiên bất động. Đó là thuyết vô vi. Đó là bí quyết của sự Minh Triết.

 

                             MINH TRIẾT VÀ HIỆN TƯỢNG

 

Như vậy, ta phải sống như thế nào ? Trước khi giải đáp, tôi xin quí bạn nghe một chuyện lạ để giúp quí bạn phân biệt thế nào là Minh triết thật, thế nào là Minh triết giả. Một quyển kinh có thuật chuyện Đức Krishna, các Gopis [3] và vị Thánh Durvasa. Vị Thánh nầy một năm chỉ ăn có một lần và mỗi lần ăn, ông ăn rất nhiều. Các nàng Gopis có phận sự đem thức ăn cho Ngài. Họ mua sắm thức ăn ngon, đựng trong một chồng dĩa rồi mang dâng lên Ngài. Khi họ đến gần động Ngài thì gặp một dòng sông chảy ngang qua rất mạnh. Họ không qua được mới quay về bạch với Đức Krishna : Chúng tôi phải làm sao ? Nếu chúng tôi không vượt qua được dòng nước ồ ạt, Đức Durvasa sẽ giận và khi Ngài giận thì vũ trụ sẽ cháy tan tành. Đức Krishna mỉm cười bảo : Hãy trở lại con sông và nói nhân danh Ta: “Hỡi sông ! Nếu Krishna là Bramachari[4], ngươi hãy quay dòng lại .” Các nàng Gopis nói với nhau : chung quanh Ngài toàn là Gopis mà sao lại nói Ngài độc thân ? Nhưng họ tin ở sự minh triết của Ngài nên trở lại dòng sông và nói lên lời Ngài. Khi nghe xong lời nầy, con sông quay dòng và các nàng Gopis đi ngang qua bên một vách nước. Khi các nàng dâng thức ăn lên, vị Đại Hiền ăn dĩa nầy qua dĩa nọ và ăn hết thức ăn. Khi đến giờ về, họ cũng không qua được sông. Họ nói “Làm sao mình qua sông ?” Họ bèn nhờ Ngài giúp đỡ. Ngài nói: Các con hãy đến con sông và nói : “ Hỡi sông ! Nếu Đại Đức Durvasa chỉ ăn không khí thôi, thì sông hãy quay dòng để chúng tôi qua.” Các nàng Gopis tự nhủ : “Coi, Ngài ăn hết đồ ăn mình mang lại không còn một miếng thừa, vậy mà nói Ngài chỉ sống với không khí !” Nhưng họ không biết làm gì khác hơn  nên họ tiến đến con sông và nói : “Hỡi sông, Nếu Đại Đức Durvasa chỉ ăn không khí mà thôi thì sông hãy quay dòng để chúng tôi qua .” Một lần nữa, khi nghe lời nầy thì con sông quay dòng để cho các nàng qua. Các nàng mới thuật chuyện lại cho Đức Krishna và cầu xin Ngài giải thích. Ngài mới dạy rằng một khi con người đã được sự minh triết, thì lòng không còn liên hệ đến hành động, không còn vương vấn với sự vật xung quanh. Người Jnani chân chính vượt cao khỏi hành động và không xúc động với hiện tượng bên ngoài.
  

           MINH  TRIẾT  THẬT,  MINH  TRIẾT  GIẢ

 

Đến đây, hành giả còn gặp một lầm lạc khác. Nhiều người nói là minh triết nhưng chỉ minh triết ở đầu môi chớ thật sự không phát triển được nội tâm; họ nói : “Tôi là Đấng Tối Cao” nhưng lòng dao động với mọi sự vật : ở người dục vọng còn nhiều, kỷ luật chưa có, ngày ngày chạy theo sở thích của giác quan nhưng nói: “chỉ có thể xác tôi cảm xúc còn tôi thì bất động”; người ấy lầm đường và không thành thật. Là vì người Jnani chân chính sử dụng các gounas chứ không bị gounas sử dụng. Người dùng chúng nó để đạt mục đích đặt để cho vũ trụ chúng ta nhưng không để tâm xao xuyến vì chúng. Những ai không chống nổi với các cám dỗ của thể xác mà nói : “chỉ thể xác tôi hành động, còn tôi là Đấng Tối Cao”, người ấy nói để mà nói chứ không minh triết chút nào, y sẽ trở nên hư hỏng và sa đọa. Người minh triết có thể đảm trách bất kỳ hoạt động nào để tiến lên Đấng Tối Cao, nhưng lúc nào anh cũng chỉ là một vận hà bảo trì thế giới. Anh nhận cảm hứng từ bên trong chứ không phải từ bên ngoài. Anh dùng các dụng cụ của anh như một chủ nhân chứ không dấn thân vào việc như một kẻ tôi đòi. Anh được tự do chứ không bị trói buộc. Trên con đường đạo, khi con người chỉ thỏa mãn xác thân mà miệng thì thốt những lời minh triết, anh sẽ là miếng mồi của ảo vọng và ngăn trở bước tiến của linh hồn. Vì lẽ đó, công việc của các Chưởng Giáo bị xoay chiều theo các dục vọng riêng tư và kinh Vệ Đà được dùng để chữa lỗi cho những tâm hồn hèn hạ. Người ta nói đã giữ được lòng bình thản nhưng thật sự thì không. Để tránh nguy hại nầy, ngày xưa bài học nói trên chỉ dạy cho những ai có những đức hạnh cần thiết. Người nào mà ham muốn không c̣n, dục vọng đã tắt, người nào đã chán chê thế cuộc, người ấy mới đáng trở thành đệ tử, mới được Chơn Sư ban truyền bí giáo.

Con đường Minh Triết là thế; những khó khăn của nó là thế. Ai theo nó một cách sáng suốt sẽ thoát trần và sống một đời sống tự do.
 

                                  MINH TRIẾT VÀ TÔN SÙNG 

 

Tuy nhiên, bạn đừng quên rằng sự giải thoát nầy chỉ nhằm mục đích cá nhân chứ không phải để phụng sự Thiên cơ. Dù sự giải thoát ấy có dài đến cả triệu năm thì bạn cũng cần bước thêm một bước nữa mới tiến đến sự toàn thiện. Kinh Upanishad dạy rằng Chơn Ngã không thể tìm bằng sự hiểu biết suông mà bằng sự hiểu biết hợp với sự tôn sùng. Người ta có thể đạt được sự giải thoát bằng minh triết và tiến lên Janaloka dành cho các vị thánh để thoát khỏi bánh xe luân hồi sinh tử. Nhưng một đời toàn thiện là một đời sống không đòi hỏi chi cả và luôn luôn an lạc ngay trong cảnh tôi đòi bao giờ Đấng Chí Tôn còn biểu hiện, bao giờ Đức Ishvara còn hoạt động. Đời sống toàn thiện ấy là kết quả của sự kết hợp của Minh Triết và Tôn Sùng. 
 

[3] Các cô chăn cừu, bạn đồng chơi với Krishna.

[4] Người độc thân tạm.


 trang nhà trang sách l bản tin l thiền học l tiểu sử trang thơ l h́nh ảnh l bài vở