|
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES
|
CON NGƯỜI LÀ AI?
Quyển
thứ ba
CÁI VÍA CON NGƯỜI
Đánh Máy: Điểm Dung |
|
Cái Vía bản
scan Cái
Vía bản đánh máy
CÁI VÍA CON NGƯỜI
Lời Tựa
Để tưởng nhớ
đến vị huynh trưởng Bạch Liên Phạm Ngọc Đa, người đầu tiên có công mang ánh
sáng TTH vào Việt Nam. Với tinh thần tưởng niệm người xưa cũng như nhớ lại
thời kỳ phôi thai của TTH Việt Nam, chúng tôi chụp lại nguyên bản một số tác
phẩm thời kỳ đầu của Huynh trưởng.
Tiếng Việt tuy phát triển từ tiền thế kỷ 20, nhưng
phải mất nửa bán thế kỷ, tiếng Việt mới có tiêu chuẩn ổn định. Tác phẩm Xác,
Phách, Vía, Trí được viết vào năm 1949 v́ lẽ đó văn phong của nó không dễ
đọc như ngày nay nhất là nó lại được viết tại Châu Đốc, nên mang một sắc
thái âm hưởng của tiếng Nam thuần túy. Bởi thế, kính xin quư vị thưởng thức
tác phẩm trong tinh thần hoài niệm và trong bối cảnh tiếng Việt của miền Nam
thời tiền bán thế kỷ 20.
Tuy thế, nội dung tác phẩm lại chứa đầy tư tưởng mới lạ, chẳng những mới lạ ở những năm 1949 mà ngay cả bây giờ cũng c̣n mới lạ.
Ở bản chụp, chúng tôi vẫn giữ nguyên gốc không sửa chữa, nhưng để tiện cho
việc đọc, chúng tôi cũng có thêm bản đánh máy kèm theo và
hầu để người đọc cảm thấy dễ chịu hơn, chúng tôi xin mạn
phép sửa lại một số nhỏ lỗi chính tả (không sửa chữa văn phong và từ ngữ).
MỤC-LỤC
CHƯƠNG THỨ NHỨT
H́nh dạng cái vía
Cái vía của các hạng người - Cái vía cũng hao ṃn như xác thịt
Màu sắc của cái vía
Những Luân-xa của cái vía
Làm sao mở mấy Luân-xa
Tấm chảng dừng
CHƯƠNG THỨ HAI
Phận-sự của cái vía
Giúp cho xác-thịt biết cảm-động Những sự thí-nghiệm của H. Durville
1. Sự đau-đớn hay là sự động-dạng
2. Sự thấy
3. Sự nghe
4. Sự ngưĩ
5. Sự nếm
Bàn qua những sự thí-nghiệm
Tại sao ngủ mơ
Cái vía bắt cầu cho linh-hồn thông-thương với cơi Trần
Cái vía làm một thể riêng để hành-động trên cơi Trung-Giới
Ba cách xuất vía
CHƯƠNG THỨ BA
a. Xuất vía tự-nhiên
b. Nhờ ông thầy làm cho xuất vía
c. Tự ḿnh xuất vía
Sáu chuyện xuất vía
Xuất vía đi chơi bị vợ thiêu xác
Xuất vía đi cứu người
Chuyện một đứa nhỏ khỏi bị thiêu
Chuyện một bà già đi xe lửa khỏi bị giựt đồ
Chuyện đứa nhỏ té xuống gành
Chuyện một đám hỏa hoạn
V́ sao đánh cái vía mà xác thịt không bị bịnh
Chuyện bà thánh Lidwine
Phái bàn-môn xuất vía nhát người bị chém.
Chuyện bà phù-thủy Jane Brooks
Chuyện bà Juliane Cox
Xuất vía đi hội phù-thủy
Những chuyện quái lạ :
a) Ma-lai rút ruột
b) Người ta hóa h́nh chó sói
Chuyện người xay bột tên Bigot
Những chuyện đời nay
Nhập vô ḿnh cá sấu trả thù bị giết
Chuyện thư da trâu và thư gạo
Những người không học phép xuất vía mà xuất vía được
CHƯƠNG THỨ TƯ
Chiêm-bao
Nguyên nhân sanh ra chiêm-bao
Chiêm-bao xác thịt
Chiêm-bao cái Phách
Vấn-đề thời gian trong chiêm-bao
Chiêm-bao cái vía
Chiêm-bao báo tin trước và chiêm-bao bóng-dáng
Chuyện một người thợ rèn bị cưa chân
Đi săn ngoài biển bị chết ch́m
Hồn ma đáp ơn
Điềm chiêm-bao của ông Đốc-tơ Sermyn
Điềm chiêm-bao của Sir Noèl Platon
Chiêm-bao thấy cá
Sách bàn chiêm-bao
Phải biết lợi dụng giấc ngủ
CHƯƠNG THỨ NĂM
Tại sao thần-thánh biết ư ḿnh muốn cái chi ?
Nhiều hạng thần nhăn
Hai thứ thần nhăn
Chuyện những người có thần nhăn
Chuyện ông Đại-tá Custodis uống cây Yagé
Những vị mở được chỗ bí-yếu giữa hai chơn mày
Chuyện ông cố-đạo (Curé) d’Ars
Có nên dùng thần nhăn xem lén việc riêng của thiên-hạ chăng ?
CHƯƠNG THỨ SÁU
Tánh nết cái vía
Cái chi ảnh-hưởng tới cái vía
CHƯƠNG THỨ NHỨT
H̀NH DẠNG.
Cái vía làm
bằng bảy chất khí cơi Trung-giới, trong đó phần nhiều tinh chất thứ ba hay
là tinh chất dục vọng (3* essence élémental ou élémental du désir) v́ vậy
con người có thể kinh nghiệm tất cả các thứ t́nh cảm từ thứ hết sức cao
thượng cho tới thứ hết sức đê hèn.
Hầu hết 99
phần trăm chất khí làm cái vía rút vô trong xác thịt, thấu qua các tạng phủ,
bởi vậy cái vía giống hệt con người, có đủ mặt mủi tay chơn.
Một phần trăm ló ra ngoài làm ra hào quang cái vía (aura astrale)
CÁI VÍA CỦA CÁC HẠNG NGƯỜI
Cái vía của
con người vẫn khác nhau tùy theo tánh t́nh và bực tấn-hóa cao thấp.
a) CÁI VÍA CỦA NGƯỜI CHƯA TẤN-HÓ
Người chưa
tấn-hóa th́ cái vía như mây mù chứa đầy những chất-khí xấu, màu sắc tối thui
; v́ người như thế chỉ lo cho toại t́nh-dục (thoả măn t́nh dục) mà thôi.
Cái vía của họ ló ra ngoài xác thịt từ hai tấc rưỡi tới ba tấc trở
lại.
b) CÁI VÍA CỦA NGƯỜI BỰC TRUNG
Người bực
trung, tánh t́nh khá khá, học thức vừa vừa th́ cái vía đă lớn và lộ ra ngoài
xác thịt lối bốn tấc rưỡi tây.
Cái vía của hạng người nầy chứa nhiều chất tốt, nó chiếu ra nhiều màu đẹp và
châu-vi nó đều đặn
c) CÁI VÍA CỦA NGƯỜI HỌC-THỨC RỘNG
Thường thường
cái vía của những người học-thức rộng th́ rất đẹp-đẽ song không phải mỗi
người học-thức cao mà cái vía đều đẹp-đẽ hết đâu.
Nếu không lo sửa tánh-t́nh th́ cái vía cũng xấu xa vậy.
d) CÁI VÍA CỦA NGƯỜI TẤN-HÓA RẤT CAO VỀ
ĐƯỜNG TINH-THẦN
Cái vía của
con người tấn-hóa rất cao về đường tinh-thần th́ lớn lắm.
Nó chiếu ra nhiều màu tốt đẹp v́ nó chứa toàn là những chất-khí tốt
mà thôi.
e) CÁI VÍA CỦA TRẺ EM
Cái vía của
trẻ em mới sanh không có màu sắc, gọi nó trắng phao cũng được.
Nó đẹp lắm v́ nó chưa nhiểm những tánh xấu của người đời, dẩu rằng
trong vía đó có những mầm các tánh tốt, và tánh xấu của kiếp trước nó.
Nếu biết cách dạy dổ th́ mầm các tánh xấu sẽ bị tiêu-diệt ngay lúc
đầu lớn lên đứa trẻ tâm-tính sẽ tốt lắm, và nó sẽ thành người hữu ích cho
đời. (1)
[(1) Khoa giáo-dục nhi đồng rất tốt song phải thông khoa Pháp-môn làm
đúng với luật trời, cái hiệu quả mới chắc chắn].
CÁI VÍA CŨNG HAO M̉N NHƯ XÁC-THỊT
Cái vía cũng
hao ṃn như xác-thịt. Khi những
chất làm cái vía bay đi th́ có những chất mới khác một loại với nó bay vô
thế.
Mỗi ngày có
sự thay đổi nhiều lần như vậy luôn luôn.
Nó thanh bai hay trược tùy đồ ăn, t́nh cảm và tư tưởng của con người.
MÀU SẮC CỦA CÁI VÍA
Theo lời của
những vị có huệ-nhăn th́ những tánh-t́nh của con người đều hiện ra những màu
sắc trong cái vía. Song viết ra
là miễn-cưỡng v́ có nhiều màu không thể vẽ được mà ở cơi trần cũng không có.
Xin nói sơ lược ra sau đây mà thôi. Tỷ như:
Màu đen
như một đám mây dày mịt là oán-ghét hiểm-độc.
Những lằn đỏ, nhọn như cây giáo ở trong đám mây đen mịt là giận dữ.
Đám
mây đỏ hồng là hay giận-dử.
Đỏ
hồng sáng rở (écarlate brillant) là : bất-b́nh cao thượng.
Đỏ
như máu và đỏ bầm là ham-mê vật dục.
Xám
nâu là tánh ích-kỷ, một trong những màu thường có trong cái vía.
Đỏ nâu
tối mường-tượng như màu sét thường thường có những lằn sổ-song nằm ngang cái
vía là : hà-tiện rít-rong.
Nâu
lục dợt có pha lộn những lằn đỏ sậm hay là đỏ hồng là “ghen-tương, ganh-gổ”.
Người thường, có tánh đa t́nh th́ trong vía có nhiều màu nầy lắm.
Màu
xám như ch́ cũng có lằn sổ-song là tinh-thần và sức-lực suy kém, tiều tụy
Xám
xanh dợt : sợ sệt.
Đỏ
sậm : yêu ích-kỷ.
Hường
: yêu thương mà không có xen tánh ích-kỷ.
Màu
hường sáng rở mà có xen nửa hồng, nửa lam (hoa cà) là ḷng từ bi bác-ái.
Màu
lá-cam : kiêu-căng hay là tham lam.
Nó thường hiện ra một lượt với sự giận-dữ.
Màu
vàng : khôn-ngoan, trí-độ.
Như
đất vàng và sậm là dùng trí-khôn mà làm những việc ích-kỷ.
Vàng
tươi của xứ Cao-miên (Jaune clair du Cambodge) trí độ cao-sâu.
Màu
vàng như bông cây ngọc-trâm-hoa (primevère): dùng trí-khôn vào những
mục-đích tinh-thần.
Màu
hoàng kim là trí-khôn áp-dụng vào sự học hỏi khoa triết-học hay là toán-học.
Màu
lục, nhiều nghĩa, phải học cho kỹ mới nói trúng, nhưng thường thường là :
đồng-hóa, thích hợp.
Xám lục
mà trên mặt nổi bọt: là xảo-quyệt hay gạt gẩm.
Màu lục
xanh dợt và chói sáng: ḷng dạ thương đời và cảm-t́nh nặng triệu với mọi
người.
Màu lục
tươi như ngọc-bích: nhậm lẹ, khéo léo áp dụng vào sự giúp đời v́ có ḷng
bác-ái.
Màu lục
như da trái bôm: trong ḿnh khỏe mạnh lắm.
Màu xanh
dợt hay đậm: mến đạo-đức, thường pha màu khác nó có thể thay đổi từ màu chàm
hay là màu tím rất đẹp cho tới màu xám xanh tối thui tùy theo tánh ưa
dị-đoan hay chịu theo chơn-lư.
Màu xanh
sáng rở, xanh như nước biển hay là chất bạch-kim ḷng tín-ngưỡng đạo-đức
cao-thượng, nếu có xen màu tím là ḷng yêu thương lẫn với sự tín-ngưỡng.
Màu xanh
hoa cà sáng rở; thường thường có những ngôi-sao sáng chói : là đạo-đức
cao-thượng, và những nguyện vọng hết sức thanh-cao.
Màu tử
ngoại-tuyến (ultra violet): tài phép hết sức cao-cường thuộc về chánh-đạo.
Màu
xích-ngoại-tuyến (ultra rouge): phép tắc rất thấp thỏi, ích-kỷ và thuộc về
phái bàn-môn.
Sự vui
vẻ làm cho cái trí và cái vía chói sáng, trên bề mặt có hơi rung rung như
gợn sống.
Sự
kinh-ngạc hay là bị giựt ḿnh làm cho cái trí cái vía và xác thịt bị bóp
chặt th́nh ĺnh. Nếu là sự vui
vẻ th́ màu hường hiện ra nhiều.
Nếu là sự hoảng-sợ, màu nâu và màu xám tăng thêm.
Có khi nó cảm tới đơn-điền sanh ra yếu đuối, mang bịnh hoạn, hay là
cảm tới trái tim, nhẹ, th́ sanh ra hồi hộp, c̣n như nặng quá th́ có khi chết
tức tốc.
Không
nên quên rằng những t́nh cảm của con người thường thường không được trong
sạch cho nên những màu mới kể trên đây cũng không được trong trẻo và pha lẫn
với nhau. Nhiều màu đẹp lại bị
màu xám nâu của tánh ích-kỷ hay là màu lá cam của sự kiêu căng làm cho nó mờ
đi.
Cũng xin nhớ rằng :
Trên đây
là những màu chánh, c̣n biết bao nhiêu màu khác nữa.
Hể con người có mấy tánh th́ trong vía có mấy màu.
Ḿnh có thể dấu tánh nết ḿnh với người thường, chớ người có
thần-nhăn ḍm ḿnh th́ biết ḿnh ưa ghét cái chi hay muốn làm cái chi rồi.
Nhưng
không phải dễ mà coi đâu: muốn thật hiểu ư-nghĩa của những màu th́ phải xem
trọn cái vía; từ hào-quang cho tới châu-vi và mấy Luân-xa của nó rồi mới
định được. Những màu sắc tốt
như màu vàng, màu hường, màu xanh đều ở phía trên cái vía; c̣n những màu của
các tánh tật-đố, hà-tiện, bỏn-sẻn, xảo-quyệt, gian trá đều ở dưới.
C̣n những cảm-t́nh về vật-dục th́ ở
chính giữa.
Bởi vậy
cho nên nếu dùng thần-nhăn coi một người chưa tấn-hóa th́ thấy cái vía họ
giống như cái trứng gà, đầu lớn ở dưới đầu nhỏ ở trên.
Trái lại người đă tấn-hoá th́ cái vía đầu lớn ở trên, đầu nhỏ ở dưới.
Những chất-khí làm cái vía xây vần măi và đổi chỗ liền liền.
Chúng nó chạy từ đầu xuống chơn, rồi từ chơn trở lại đầu qua các
Luân-xa không nghỉ không ngừng.
Người đă
tấn-hoá th́ trong vía có chừng năm cách rung-động, người thường th́ có chừng
chín, mười cách. Nhiều người có
bốn năm chục cách, có người sáu bảy chục, có người tới trút trăm.
Cái vía của họ giống như nước sôi, trên mặt chia ra những đốm nhỏ xay
vần, cái nầy đụng cái kia, nghịch lẫn nhau.
Cái vía nào rung động năm chục cách một lượt th́ chẳng những xấu-xa,
mà c̣n gieo sự hồi-hộp cho kẻ khác.
Nó giống
như xác thịt đau bại, mấy sớ thịt trong ḿnh dựt liền liền hoài.
Nó lại nhiểm tới những người khuất mặt ở cơi Trung-giới nữa.
NHỮNG LUÂN-XA HAY LÀ NHỮNG TRUNG TÂM LỰC
CỦA CÁI VÍA.
Trong vía có
mười Luân-xa cũng ở một chỗ với mười Luân-xa của cái phách.
Song mười
Luân-xa của cái phách ở ngoài da c̣n mười Luân-xa của cái vía ở trong thịt.
Luân-xa của cái phách có ba bề, c̣n Luân-xa của cái vía có bốn bề.
Luân-xa thứ
nhứt ở xương mông.
Luân-xa thứ
nh́ ở tại trái-thăng.
Luân-xa thứ
ba ở tại rún.
Luân-xa thứ
tư ở tại trái tim.
Luân-xa thứ
năm ở tại yết-hầu.
Luân-xa thứ
sáu, ở tại chính giữa 2 chơn mày.
Luân-xa thứ
bảy ở trên đỉnh đầu.
C̣n 3 Luân-xa
nữa ở tại bộ sanh-dục, không nên nói tới.
1* Luân-xa ở
xương mong, là chỗ chứa luồng hỏa-xà (Kondalini ou Feu-serpent).
2* Luân-xa
tại trái thăng mở ra th́ xuất vía đi nhưng hiểu biết một cách mơ-màng những
đều đă gặp dọc đường.
3* Luân-xa
tại rún khi mở ra rồi th́ con người cảm biết đủ các thứ ảnh-hưởng song không
giống như sự hiểu biết do con mắt hay là lỗ tai đem lại.
4* Luân-xa
tại trái tim mở ra th́ con người có linh tánh, hiểu được những t́nh cảm của
những dân sự ở cơi Trung-Giới.
5*
Luân-xa tại yết-hầu đối với cái vía cũng như là lỗ tai ở cơi trần.
Mở chỗ bí-yết nầy th́ có thần-nhĩ.
6* Luân-xa ở
chính giữa chơn-mày mở ra th́ thấy được người và vật ở cơi Trung-Giới, ấy là
có thần-nhăn.
7* Luân-xa ở
đỉnh đầu mở ra th́ các năng-lực của cái vía đầy đủ,
đêm như ngày, ngày như đêm,
cái tâm của con người không c̣n gián đoạn nữa.
LÀM SAO MỞ MẤY LUÂN-XA
Mấy Luân-xa
giống như bông sen những cánh úp xuống.
Phải nhờ luồng hỏa-xà đi vô mấy chỗ đó dưỡng chúng nó, tức th́ những
cánh lật trở lại, chúng nó chói sáng rỡ như những ngôi mặt trời.
Tùy theo hạng người phải dẫn luồng hỏa-xà vô Luân-xa nào trước, không
phải mọi người đều dẫn một cách với nhau.
Trong cuốn Cái Phách tôi đă có nói rồi.
Xin nhắc lại vài lời mà thôi.
Hễ kiếp nầy mở được luồng hỏa rồi th́ kiếp sau mở lại dễ dàng.
NHỮNG TRUNG-TÂM CỦA CÁI VÍA
Trong cái vía
có những trung-tâm sanh trước những Luân-xa và khác hơn những Luân-xa.
Có mười cái trung-tâm sanh ra mười cơ-quan của xác-thịt.
Năm cơ-quan
để thâu-lănh những sự kích-thích ở ngoại-giới, tiếng Bắc-phạn là
Jnàuendriyas, nghĩa từ chữ là những quan của sự hiểu biết (sens de la
connaissance) ấy là trung-tâm những cơ-quan ở trong óc: con mắt, lổ-tai,
lổ-mũi, lưỡi, và da ; và năm quan để truyền những mạng lịnh của tâm hồn ra
ngoại-giới. Ấy là những quan
của sự hành động (Karmendriyas ou sens de l’action): tay, chơn,
đóc-giọng, cơ-quan sanh-dục
và cơ-quan bài-tiết.
Khoa Pháp-môn
dạy rằng: xác thịt của chúng ta vốn ở trong cái trí và cái vía mà ra và cắt
nghĩa như vầy “ từ trung-tâm của cái vía những sự rung động truyền qua cái
Phách rồi sanh ra những sự xây tṛn của chất tinh-khí trong cái Phách.
Những sự xây tṛn nầy mới rút những chất khí hồng-trần làm ra ban đầu
một tế-bào của bộ giao cảm thần-kinh ( cellade nerveuse sympathique) rồi lần
lần một khóm tế-bào sau rốt mới thành bộ giao-cảm thần-kinh”.
Cho nên bộ “
giao-cảm thần kinh-hệ” vẫn c̣n liên-lạc trực-tiếp với những trung-tâm của
cái vía luôn luôn.
C̣n bộ “ năo
tủy thần-kinh-hệ” sanh sau: nó do sự kích-thích ở cơi Thượng-Giới đưa lại,
bởi cái trí. V́ thế cục
hạch-trán (glande pinéle : tùng quả tuyến) làm môi-giới cho cái xác và cái
trí.
Đọc đoạn nầy
chắc có người hoài-nghi, nhưng các bạn nên nhớ kỹ lại đều nầy: Một là :
khoa-học ngày nay công nhận rằng : “ Sự tác-dụng sanh ra cơ-quan” (La
fonction crée L’organe).
Hai là: một
khi con người thác rồi, xác-thịt sẽ ră ra các chất khí như cũ.
Thế th́ đầu tiên các chất khí kết hợp lại làm ra xác-thịt ta đây, mà
đều nầy Trời làm chớ con người chưa làm đặng.
Con người có thể lấy các chất hóa-học làm một trứng gà giả in hệt
trứng già thiệt song đem ấp th́ không nở, v́ chưng nó không có phần hồn hay
là tinh-thần của nó.
Vậy mấy lời
nói ở trên, đâu phải là vô lư.
TẤM CHẮNG DỪNG
Mười Luân-xa
của cái Phách và mười Luân-xa của cái vía đều có t́nh liên-lạc với nhau ; ở
chính giữa có một lớp làm bằng những nguyên-tử của chất khí Hồng-Trần và
thấm một sự thứ sanh-lực riêng.
Tôi xin gọi
lớp đó là tấm chắng dừng. Ngày
thường th́ sanh-lực và tinh-thần ở mấy cơi trên đi từ cơi Thượng-Giới qua
cái vía và tấm chắng dừng rồi vô cái phách rất dễ dàng.
Trái lại
những lực nào đi ngang qua chất thanh-khí thứ nhứt cơi Trung-Giới và chất
tinh-khí thứ nhứt ở cơi Trần không được th́ vô trong ḿnh con người cũng
không được. Tấm chắng dừng nầy
rất hữu-ích cho ta v́ nó không cho con người thông thương với cơi Trung-Giới
sớm quá, nghĩa là khi chưa được tấn-hóa cao bởi v́ con người chưa sáng-suốt,
chưa hiểu được đạo mà thấy những sự lạ lùng trên cơi Trung-Giới th́ sợ-hăi,
loạn-trí, hoá ra điên-khùng.
Nếu không có
lớp nầy th́ hồn ma và các tinh-quái ở cơi Trung-Giới nhập vô xác khuấy rối
con người chừng nào cũng được.
Cũng bị nó mà chừng thức dậy con người không nhớ chính chắn những điều của
ḿnh đă thấy và đă làm trên cơi Trung-Giới trong lúc ngủ.
NHỮNG SỰ HẠI CHO TÂM CHẮNG DỪNG
Có nhiều cách
làm hư tấm chắng dừng đó. Một
là th́nh ĺnh phát lên hoảng-hốt, giựt ḿnh kêu la bài-hăi : th́ tấm dừng có
khi rách tét ra, người ta hoá ra điên-khùng, nói bậy bạ.
Giận quá nư, hay cảm xúc quá lẽ cũng hại như thế.
Hai là : uống
rượu, hút thuốc điếu, hút á-phiện.
Mấy thứ sau
nầy vô ḿnh th́ hóa ra hơi bay lên cơi Trung-Giới làm hư tấm chắng dừng,
nhiều cách.
Có một hạng
người th́ bị mấy chất đó đốt tấm chắng dừng, mở cửa cho cơi Trung-Giới thông
thương với cơi Trần, bọn tà-ma muốn nhập vô ḿnh chừng nào th́ nhập, muốn
xuất ra chừng nào th́ xuất. Sau
rốt con người hóa ra điên-khùng.
C̣n một hạng người nữa th́ mấy chất đó làm cho những hột nguyên-tử
của tấm chắng dừng cứng ngắt ; thứ sanh-lực riêng vô nuôi chúng nó không
được nữa.
Mấy tánh tốt
bị ngưng-trệ, mấy tánh xấu nổi lên dữ-dội con người hóa ra thô-lổ cộc-cằn,
cứ lo toại ḷng-dục không c̣n biết nhân-nghiă hay là liêm-sỉ ǵ nữa.
Ba là : cách
tập luyện đồng-tử, làm rách tấm chắng dừng.
Hễ hiến-thân cho các vị ở cơi Trung-Giới rồi th́ người đồng-tử mất
nghị-lực nhiều lắm, không c̣n tự chủ nữa; sự tấn-hóa bị ngưng trệ, phần
nhiều những người đồng-tử sau phải uống rượu bởi mất sanh-lực cho nên trong
ḿnh thường lạnh.
CHƯƠNG THỨ HAI
PHẬN SỰ CỦA CÁI VÍA
Cái vía có ba
phận sự. Một là : giúp cho
xác-thịt biết cảm động. Hai là:
bắt cầu cho linh-hồn thông thương với cơi Trần.
Ba là: làm một thể riêng hiểu biết và hành-động trên cơi Trung-Giới
như xác-thịt ở cỡi Trần.
I
GIÚP CHO XÁC-THỊT BIẾT CẢM-ĐỘNG
Ḿnh cảm-động
là nhờ cái vía. Không có cái
vía th́ ḿnh không biết đau đớn, vui vẻ, sung-sướng, buồn, giận, ghen-ghét,
ham muốn, vân vân…
Những h́nh
dạng tiếng tăm nhờ sanh-lực, truyền vô xác-thịt bằng những cách rung-động,
nếu không có cái vía đổi những cách rung-động đó ra sự cảm-giác th́ ta không
biết xúc-động là sao.
Tôi xin đem
những cách thí-nghiệm của ông Hector Durville ra đây để chứng chắc.
NHỮNG SỰ THÍ NGHIỆM CỦA ÔNG HECTOR
DURVILLE
1---SỰ ĐAU ĐỚN HAY LÀ SỰ ĐỘNG DẠ
a)
Ông Hector Durville thâu thần một
người đồng-tử làm cho va (ông ấy) ngủ mê rồi cái vía xuất ra (1)
[(1) Xin nhớ lúc nầy cái vía đặc lại].
Ngài lấy một cái h́nh-nhơn bằng sáp để trong cái vía, chất khí
làm cái vía người đồng-tử bay qua dính trong h́nh nhơn một chút đỉnh.
Nếu đem h́nh-nhơn ra chích ở
cánh tay th́ đồng-tử đau ở cánh tay, đâm ở chơn th́ đồng-tử nhức ở chơn ;
nói tóm lại, bắm ngắt trong ḿnh h́nh-nhơn chỗ nào th́ đồng-tử đau nhức
trong ḿnh chỗ nấy.
Ví như đem
cất h́nh-nhơn trong tủ kín có hơi ấm th́ trong 20, 25 ngày, đem ra
châm-chích đồng tử c̣n biết đau ; c̣n để ra ngoài gió, thanh-khí bay đi lần
lần trong 6, 7 ngày hết dùng được nữa.
Nếu trong lúc
cái vía xuất ra mà châm-chích trong ḿnh người đồng-tử th́ va không biết
đau. Cũng như lúc chụp thuốc mê
cái phách ra ngoài lôi cái vía đi theo cho nên người ta mổ xẻ người bịnh mà
xác-thịt có đau ở đâu. Nếu đau
th́ nó vùng-vẩy dữ-dội rồi.
C̣n nhiều
cách thí-nghiệm khác nữa.
b)
Có một lần ông Hector Durville mời
vài người bạn tới cắt nghĩa cách xuất vía và sự thử h́nh-nhơn.
Xong rồi người thơ-kư của Ngài lấy h́nh-nhơn bỏ vô, túi tính đem về
nhà học. Chẳng dè về nhà rồi va
đem để ngoài cửa sổ, một hồi quên phứt, đem đóng cửa đi ngủ.
Lúc ấy nhằm tiết đông-thiên, người đồng-tử ở trong nhà va, nửa đêm
vùng phát lạnh, rung-rẩy lập-cập.
Uống rượu mạnh, hơ lửa và đấp ba bốn cái mền mà cũng không ấm ; trong
năm ngày va nằm liền trên giường rên siết.
Qua ngày thứ sáu bớt bớt, va mới hỏi ông Hector Durville v́ cớ nào
vậy ?. Người thơ-kư mới sực nhớ
lại việc va bỏ quên h́nh-nhơn ngoài cửa sổ, nên nói ông H. Durville hay.
Ông hối va về lấy lập tức.
Khi người thơ-kư đem h́nh-nhơn lại rồi đồng-tử hai tay ôm lấy
h́nh-nhơn để trên ngực. Trong
10 phút hết lạnh. Trong ḿnh va
ấm-ấp như cũ v́ va rút hết thanh-khí trong h́nh-nhơn lại rồi.
Tuy vậy mà va c̣n mệt mỏi v́ trong 6 ngày va mất sức rất nhiều.
c)
Một lần kia ông H. Durville cầm cái h́nh nhơn trong tay, để cho vài
đứa học tṛ thử, đứa th́ bấm-ngắt, đứa th́ quàu-quấu, hết đứa nầy tới đứa
kia. Đồng-tử ở trong pḥng khít
một bên đau đớn quá, chịu không nổi mới tông cửa sổ vẹt mấy người coi, chụp
lấy h́nh-nhơn. Giựt ḿnh, ông
H. Durville tŕ lại, đồng-tử vựt ngắt phứt cái đầu đi.
Tức th́ va nhào lăn xuống đất hai tay ôm cổ rên la thảm thiết.
Ông H. Durville bỏ h́nh-nhơn vô túi, lại cứu-cấp tức-tốc.
Tới nữa giờ đồng-tử mới tỉnh lại, coi lại cổ va bầm-tím và sưng-vù
lên. Ông H. Durville làm cho va
bớt đau một chút mà thôi. Chừng
va ra về thấy bộ thảm-thương lắm.
Từ đó về sau va không hề chịu cho ai làm cái vía của va xuất ra nữa.
Tại sao ngắt
h́nh-nhơn mà đồng-tử đau ?
Ấy là tại
trong h́nh-nhơn có một chất-khí làm ra cái vía người đồng-tử.
Hễ cái vía xuất ra rồi và đặc lại, bi bịnh chỗ nào th́ xác-thịt bị
bịnh chỗ nấy.
( Xin xem tới
chỗ v́ sao đánh cái vía mà xác-thịt không bị bịnh ).
d)
Trong tháng Octobre 1907, một ngày kia ông H. Durville (1)
[(1) Xin xem quyển Le Fantôme des
Vivants của Ông Hector Durville từ trương 249 tới 309].
Làm cho cô đồng Marthe xuất vía
trong pḥng làm việc của ông.
Từ thuở giờ cô đồng không biết cảm hay sổ-mũi là sao.
Ông H. Durville sai cái vía cô đi tới Nénette và M. André qua cái
pḥng lạnh-lẻo. Tức th́
xác-thịt cô đồng phát lạnh, rung rẩy lập-câp.
Ông H. Durville kêu cái vía cô về mà cô cũng không được ấm chút nào.
Ông bèn làm cho cô tỉnh dậy, trong vài phút sau cô Marthe nhảy mủi,
ớn lạnh có ṃi bị cảm. Quả-thật
qua ngày sau cô Marthe ho, ăn không biết ngon, ngẹt mủi và nặng đầu : cổ bị
cảm thật.
2---SỰ THẤY
A)
Cuối tháng Octobre năm 1907 từ 5 giờ tới 6 giờ chiều, trong tối, có
mặt bà Stahl, ông Bonnet, Grand Jean và con tôi Gaston, tôi (2)
[(2) Tôi là ông Hector Durville] thí-nghiệm 2 cách sau nầy.
1)
Tôi đưa hồng-hồ tôi cho Gaston ở cách xa cô đồng Edmée lối ba thước,
cổ đă xuất vía. Tôi biểu nó
đứng dậy tôi sai vía cô đồng lại gần nó.
Nó nắm chặt đồng-hồ trong tay rồi giơ cánh tay mặt sau ót cái vía cô
đồng. Cô đồng dùng ḿnh rồi nói
: “ Tôi thấy một vật trắng và tṛn.
Nó chạy như cái máy, nó làm ra tiếng.
Ấy là tiếng lắc-cắc như một cái đồng-hồ lớn.
2)
Tôi bèn móc trong túi 1 cái bao thơ dán kín, tôi đưa cho Gaston, tôi
không có nói cho nó hay là ai biết trong đó có cái chi.
Tôi biểu Gaston đưa sau ót cái vía cô đồng.
Cô đồng nói : “Tôi thấy hai vật tṛn như đồng xu”. Tôi bèn hỏi : “
Phải tiền không”. Cô đồng trả
lời : “Phải”. ---Màu ǵ ?---Màu vàng nhưng không phải, ấy là màu vàng đỏ.---Có
phải là đồng xu mới không ?---Không, không phải xu, ấy là vàng.
Ở trong bao thơ c̣n ǵ nữa ?---C̣n bạc, ấy là những giấy bạc.
Măn cuộc rồi
người ta mới xé bao thơ trước mặt mấy người chứng: người ta thấy trong đó có
2 tắm giấy bạc và hai đồng 20 quan.
B)
Ngày 2 Janvier 1908, lúc 5 giờ rưỡi chiều; những người chứng là M.M.
Ed Dubois, Dubet và J. Brien. Ở
trong pḥng thí-nghiệm của ông Hector Durville không thắp đèn, tối thui.
Cô đồng tên
Léontine. Những người chứng ở cách cô đồng lối 4 thước.
Ông Hector Durville sai vía cô đồng lại gần ông Dubet rồi Ngài xin
ông nầy đứng dậy lấy một vật ǵ đưa cho cái vía cô đồng.
Ông Dubet móc trong túi ra một cái dao xếp nắm chặt trong tay mặt rồi
mới đưa cho cái vía hỏi thấy cái chi không.
Cô đồng nói : “ Tôi thấy một vật nhỏ, ấy là một cây viết ch́ hay là
cái dao xếp”. Ông Dubet lấy đèn
bin rọi trên bàn viết của ông Durville lấy một cây viết máy rồi đưa cho cái
vía cô đồng coi. Cô đồng nói :
“Ấy là cây viết nhưng không giống cây viết thường, cái ống có mực”.
Ông Dubet lấy một tờ giấy viết thơ trên bàn viết, cầm trong tay, cô
đồng nói : “Ấy là một tờ giấy trắng để viết thơ.”
Ông Hector
Durville xin ông Brieu đứng dậy và cho cái vía cô đồng coi một vật ǵ tự ư.
Ông Brieu đưa phía sau đồng-hồ cho cái vía cô đồng coi.
Cô đồng nói: “ Tôi thấy một vật cầm trong tay, nó đen, nó tṛn, ấy là
cái đồng-hồ.”
Ông Brieu lại
đưa bề mặt đồng-hồ, cô đồng nói: “ Cũng cái đồng-hồ hồi nảy mà chuyến nầy là
bề mặt. Tôi thấy mấy cây kim
nhưng tôi không biết mấy giờ.”
Hỏi tại sao vậy th́ cô đồng trả lời: “ Tại cái vía rung-động mạnh lắm.
Hai con mắt xao-xuyến đổi chỗ hoài.
Trọn cái ḿnh của cái vía rung-động luôn luôn không ngớt : tại sự
rung-động đó mà tôi không thấy cho đúng cây kim nằm chỗ nào.”
3---SỰ NGHE
a)
Có mặt ông André với ông Hector Durville.
Cô Marthe xuất vía ra, vía của cô lại ngồi trên ghế dựa, cách cái xác
lối một thước.
Tôi (ông
Hector Durville) để cái đồng-hồ phía lỗ tai trái cái vía, th́ cô đồng nghe
rơ ràng tiếng tít-tắc. Tôi để
đồng-hồ sau ót, phía trên bụng và dưới cẳng cái vía.
Cô đồng cũng nghe tiếng đồng-hồ chạy.
Tôi bèn đem đồng-hồ để khít hai lỗ tai, phía sau ót, phía trên bụng
và dưới chơn cái xác th́ cô đồng không nghe ǵ hết.
Tôi lập sự thí-nghiệm nầy nhiều lần với những điều-kiện khác th́ cái
kết quả cũng như ở trên; cái vía nghe mà cái xác không nghe.
b)
Thí-nghiệm lần thứ nh́. ---Tôi làm cho cô Edmée xuất vía th́ cái vía
của cô nầy cũng nghe tiếng đồng-hồ như cái vía cô Marthe.
Vía cô cũng nghe tiếng của người ta làm tờ giấy bào-nhào nữa.
c)
Thí-nghiệm lần thứ ba.---Cái vía cô Léontine nghe rơ ràng tiếng
đồng-hồ. C̣n xác thịt cô không
nghe chi hết. Tôi biểu xác thịt
cô nghe, mà nó cũng không nghe.
Tôi đưa đồng-hồ cho ông Đốc-tơ Pau de Saint Martin và dặn ông đừng cho cô
đồng biết: nhờ ông thí-nghiệm coi xác thịt nghe hay là cái vía nghe.
Không nói chi hết, ông Đốc-tơ đi nhẹ nhẹ lại gần cái xác cô đồng, rồi
ông để đồng hồ khít bên lổ tay mặt, rồi lổ tay trái.
Xác cô đồng không nói chi cả.
Ông Đơc-tơ úp đồng hồ vô lỗ tai bên nầy rồi lỗ tay bên kia, xác cô
cũng làm thinh. Ông Đốc-tơ biểu xác
cô chú-ư vào đồng-hồ, và nói rằng “ Phải nghe”. Xác cô nói : “ Tôi không
nghe ǵ hết”. Ông Đốc-tơ lập
lại một lần nữa, ngài nói : “ Tiếng tít-tắc đồng-hồ lớn lắm, cô phải nghe”.
Cô đồng đáp lại cách nóng nảy : “ Tôi không nghe ǵ hết”.
Vài khút sau
ông Đốc-tơ đi nhẹ nhẹ lại gần cái vía cô đồng ngồi trên ghế bành phía tay
trái cái xác rồi để đồng-hồ phía trên đầu.
Cô đồng liền nói : “ Tôi nghe tiếng đồng-hồ chạy”.
Ông Đốc-tơ để đồng-hồ trên ghế bành rồi dưới gạch hơi xa xa chơn cái
vía. Cô đồng nói, cô biết đem
đồng-hồ đi và cô cũng nghe tiếng tít-tắt nữa.
Ông Durville
biết rằng, dầu người điếc mà ngậm đồng-hồ trong miệng cũng nghe tiếng
đồng-hồ chạy. Ông mới nói với
ông Đốc-tơ trao đồng-hồ lại cho ông.
Ông biểu cô đồng hả miệng, ông để khoen đồng-hồ trong miệng cô rồi
xin cô cắn răng lại, ông bảo cô chú ư vào tiếng đồng-hồ chạy; xong rồi ông
xin cô hả miệng, ông lấy đồng-hồ ra.
Cô đồng biết ḿnh có ngậm một vật nhưng mà không có nghe tiếng ǵ ráo.
4---SỰ NGỬI
a)
Cô đồng Edmée xuất vía trong pḥng làm việc của tôi (Hector Durville).
Cái vía cô ra ngồi trên ghế dựa bên cái xác cách chừng 1 thước tây.
Trong pḥng ánh sáng mờ-mờ.
Không cho cô đồng hay biết chi cả, ông Đốc-tơ Pau de Saint Martin lén
kê vào lổ mũi cái xác một ve ammoniaque, tục gọi “ nước đái-quỉ” gần một
phút đồng-hồ, cô đồng không ngưĩ mùi ǵ cả.
Một chập sau ông Đốc-tơ làm thinh, đi nhẹ nhẹ lại gần cái vía rồi đưa
ve dưới lổ mũi. Cô đồng day mặt
chỗ khác lấy tay bịt mũi rồi nói : “Ôi! ấy là một ve, nó hôi quá”.
Ông Đốc-tơ lấy ve đó đi, ông thay cái ve khác.
Ông cho cái vía ngưĩ chai dầu chanh (bergamote).
Cô đồng nói cái mùi nầy thơm.
Ông Đốc-tơ kê ve dầu chanh vào lỗ mũi cái xác cô đồng th́ cổ không
cảm biết mùi ǵ. Ông Đốc-tơ nói
: “ Tôi cho cô ngữi mùi thơm, cô ngữi mà”.
Cô đồng cũng trả lời: “ Tôi không có ngữi ǵ cả”.
b)
Chuyến nầy tới phiên cô Léontine.
Cũng xuất vía như cô Edmée và cũng ngồi một chỗ.
Ông Đớc-tơ Pau de Saint Martin để ve nước đái-quỉ vô lổ mũi cái vía,
tức th́ cô đồng lấy tay mặt bịt lỗ mũi và day chỗ khác nhăn mặt : “ A! Hôi
quá, ấy là thuốc để làm cho bớt đau nhứt (eau sedative)”.
Rồi cô tiếp: “ Mà không ấy là nước đái-quỉ.”
Năm sáu phút
sau, ông Đốc-tơ không để cho cô đồng nghi ngờ cái chi cả, ông mới kê vô lỗ
mũi xác-thịt ve nước đái-quỉ mở nút ra.
Cô đồng dường như không ngưĩ mùi chi cả nên làm thinh.
Ông Đốc-tơ hỏi : “ Cô ngưĩ mùi chi không ?” Cô đáp: “Không”.
Ông Đốc-tơ mới nói : “ Tôi để dưới
lỗ mũi cô ve nước đái-quỉ, chẳng những cô phải ngưĩ mà thôi mà mùi đó lại
hôi lắm. Cô ngưĩ tôi thấy cô
nhăn mặt”. Cô thấy người ta
không tin cô, cô có ư phiền nên trả lời mạnh bạo: “ Tôi nói với ông tôi
không ngưĩ mùi ǵ hết. Nếu ông
không tin tôi th́ cũng mặc t́nh.”
Ve nước đái quỉ để dưới lỗ mũi cô đồng ít nữa là hai phút đồng hồ,
chẳng những cô không ngưĩ mùi chi mà chừng cô tỉnh lại cô cũng không có chi
là khó chịu.
Ông Đốc-tơ
trở về chỗ ngồi.
Lối 8 hay 10
phút sau, ông đi nhẹ nhẹ lại cái vía ông để chai dầu chanh (bergamote) phía
trên đầu. Cô đồng liền nói : “
Tôi thấy ông để cái ve phía lỗ tai tôi, ông muốn cho ngưĩ cái ǵ đó”, rồi cô
đồng cười với giọng chế-nhạo rằng : “ Tôi không ngưĩ bằng lỗ tai đâu”.
Ông Đốc-tơ mới để ve dầu dưới lỗ mũi, cô đồng liền nói : “ Mùi nầy
thơm, ấy là dầu chanh (bergamote), tôi ưa nó hơn nước đái-quỉ”.
c)
Lần thứ ba. Cô đồng là
Madame Vix, xuất vía trong pḥng làm việc của tôi trước mặt những ông Adatto,
E. Dubois, Robert, Hildebrand, Bernard và Porterat.
Chúng tôi ở trong chỗ tốí mờ-mờ.
Tôi (ông
Hector Durville) lần lượt để dưới mũi cái xác cô đồng nước đái-quỉ, long-năo,
lá thơm bỏ trong đồ ăn đặng trừ các thứ sâu (pathchouli), dầu bông-tím (violette)
và dầu chanh (bergamote); cô đồng không ngưĩ mùi ǵ cả.
C̣n đưa mấy thứ nầy dưới lỗ mũi cái vía th́ cô đồng ngưĩ biết mấy mùi
đó liền.
5---SỰ NẾM
Ngày 12
Décembre 1907, có mặt những ông Combe E. Dubois và Gaston Durville (con ông
H. Durville) dưới ánh sáng mờ mờ.
a)
Cô đồng là Léontine. Cái
vía cô xuất ra rồi, ông H. Durville để trong tay cái xác của cô một miếng
lư-hội (aloès) biểu cô để vô miệng nhai rồi cho mấy ông biết nó ngon không.
Cô đồng nhai rồi trả lời : “ Miếng nầy không có mùi vị ǵ cả”. Ông
H.Durville biểu cô nhả ra đặng nữa cô khỏi bị đau bụng.
b)
Ông H. Durville để trong tay cái xác một cục đường và biểu cô đồng
nhai rồi nói cho biết nó có ngon không. Cô
đồng trả lời : “ Không có vị ǵ cả”.
c)
Ông H. Durville dùng kềm lấy một miếng thuốc vị đắng tên Quassia.
Ông biểu cái vía hả miệng ông đút miếng thuốc đó vô rồi biểu nó ngậm
lại. Ông mới hỏi : “ Vị cô ngậm
ra sao?” Cô đồng đáp : “ Nó không ngon, đắng quá”. Ông lấy kềm ra rồi để
miếng thuốc đó trong tay xác thịt cô đồng biểu cô đút vô miệng nếm coi có vị
ǵ không. Cô đồng làm in như
vậy rồi nói : “ Nó không có vị ǵ hết”.
d)
Ông H. Durville lấy kềm gấp một cục lư-hội để vô miệng cái vía th́ cô
đồng nói : “ Tôi biết rồi nó không ngon, nó đắng lắm”.
Ông lấy cục lư-hội ra rồi ông mới đem để vô miệng cái xác cô đồng
biểu cổ nếm coi. Cô đồng nếm và
nói như trước : “ không có vị ǵ cả”.
Ông lấy vài giọt quí-ninh nước (sulfate de quinine) để trong muổng
đưa vô miệng cái vía th́ cô đồng nói: “ Không ngon, đắng thiệt”.
e)
Ông dùng kềm lấy một múi cam để vô miệng cái vía, cô đồng nói: “ Ngon
thật, ấy là mùi cam”. Ông lấy
múi cam ra đem đút vô miệng xác-thịt cô đồng biểu cô nói coi cái ǵ đó.
Cô đáp: “ Tôi
không biết ǵ ráo. Hồi năy ông
cho tôi ăn cam bây giờ tôi không biết cái nầy là cái ǵ”.
f)
Ông lấy một nhúm mă-tiền (noix vomique) bỏ vô muổng chế vài giọt nước
rồi kê trong miệng cái vía. Tức
th́ cô đồng nói : “ Hôi quá, đắng lắm, nó làm cho khô cái lưỡi”.
g)
Ông lấy một nhúm muối bỏ vô muổng đưa vô miệng cái vía th́ cô đồng
nói: “Ấy là muối”.
h)
Ông lấy cái kềm gấp một cục đường đưa vô miệng cái vía th́ cô đồng
nói ấy là đường. Ông lấy cục
đường trên bàn, một chập sau, ông lấy cục đường để trong miệng cái xác cô
đồng đặng cho cô nhai và ông nói quả quyết với cô : “Ấy là cục lư-hôi.
Nó hôi lắm, chắc là cô cũng chịu mùi ấy không nổi rồi.”
Ông nói mặc
ông. Cô đồng cứ đáp: “ Nó hôi
mặc nó, tôi không có nếm mùi ǵ hết”.
Ông H. Durville thí-nghiệm 4,5 người khác th́ kết quả cũng in như vậy.
BÀN QUA NHỮNG SỰ THÍ-NGHIỆM
Bây giờ đây
ḿnh lấy công-tâm xem xét mấy cách thí-nghiệm nầy coi.
Khoa-học dạy
rằng ḿnh thấy một vật ǵ là nhờ vật đó dọi ánh sáng vô mắt ḿnh; hễ vật nào
không dọi ánh sáng th́ ḿnh không thấy nó.
Cái h́nh vô mắt ḿnh th́ ngược đầu nó nhờ sợ gân đưa vô óc, thành ra
cảm-giác. Cái h́nh vô óc th́
trở đầu lại ngay thẳng như vật bên ngoài.
Khoa-học không nói đến cái phách vía hay là linh-hồn chi cả, hoặc là
nhận có linh-hồn mà lại cho rằng sau khi con người thác rồi th́ linh-hồn
cũng tan mất.
Theo những
cách thí-nghiệm của ông Hector Durville th́ ḿnh thấy rỏ ràng sự cảm-giác ở
trong cái vía chớ không phải ở trong xác-thịt.
Không có sự
giả-dối v́ có nhiều người chứng.
Không phải thí-nghiệm một người một cách, mà có khi một người nhiều
cách; cái kết-quả in nhau. Có
chụp h́nh được cái vía th́ ḿnh có thể quả-quyết rằng con người không phải
chỉ có xác-thịt nầy mà thôi đâu.
Nếu cái vía có th́ suy ra mấy thể kia cũng có vậy.
Về sự
thí-nghiệm sự thấy, cô đồng Léontine thấy rơ cái dao xếp, cây viết máy, tờ
giấy viết thơ và đồng hồ. Cô
lại nói rất đúng với sự thật là cái vía rung-động lẹ-làng lắm; con mắt của
cái vía đổi liền liền.
Thật
vậy. Những chất-khí làm cái vía
chạy cùng thân thể từ chơn lên mặt, qua bụng tới hai tay rồi trở xưống chơn
như cũ.
Người nào mở
được mấy luân-xa của cái phách và vía rồi th́ ngồi một chỗ mà thấy được cái
chi xảy ra ở trên đầu, trước mặt, sau lưng, hai bên hông và dưới chơn, nghĩa
là chỗ nào thấy cũng được, thấy đủ bốn phương tám hướng.
Nếu nói theo
khoa-học chỉ nhờ có một ḿnh con mắt xác-thịt mà thấy th́ làm sao cắt nghĩa
mấy “ca” của cô Edmée và cô Léontine : CÁI VÍA THẤY MÀ CÁI MIỆNG CÔ ĐỒNG
NÓI.
C̣n mấy sự
thí-nghiệm về sự động-dạn, sự nghe, ngưĩ, nếm chứng chắc rằng mấy cảm-giác
đó ở trong cái vía, chớ không phải ở trong xác-thịt.
TẠI LÀM SAO NGỦ MỚ
Ngủ mớ là tại
ḿnh nằm chiêm-bao cái vía thấy chi đó.
Có khi cái
vía kinh-sợ: hoảng-hốt kêu lên th́ cái xác-thịt đập tay đập chơn nói ra
tiếng ḿnh nghe rơ ràng.
Khi nào cái
vía bị đè th́ nghe ú-ớ.
II
CÁI VÍA BẮT CẦU CHO LINH-HỒN THÔNG THƯƠNG
VỚI CƠI TRẦN
Những lằn
rung-động của sự nghe, sự thấy và sự đụng chạm, vân vân, truyền vô cái óc
xác-thịt, qua cái phách, tới cái vía.
Cái vía làm ra cảm-giác đưa cho cái trí phân-tích cái nào hạp với cái
nào không hạp, cái nào tốt, cái nào xấu, vân vân.
Xong rồi mới dưng cho ḿnh kinh-nghiệm.
C̣n mỗi khi
con người muốn làm cái chi th́ lịnh đó truyền qua cái trí, cái vía, cái
phách tới cái óc rồi xác-thịt mới hành-động.
Nói ra coi bộ
lâu lắm, nhưng sự thật th́ lẹ như chớp-nhoáng v́ tư tưởng đi hơn 300 ngàn
cây số trong một giây đồng hồ mau, hơn điễn-khí.
CHƯƠNG THỨ BA
CÁI VÍA LÀM MỘT CÁI THỂ RIÊNG ĐỂ HÀNH-ĐỘNG
TRÊN CƠI TRUNG-GIớI
Phận sự thứ
ba của cái vía là làm một cái thể riêng để hành-động trên cơi Trung-Giới,
cũng như xác thịt để đi đứng nói năng ở cơi Trần.
Bất câu ban
ngày hay ban đêm mỗi lần ḿnh cảm xúc th́ ḿnh dùng cái vía, song dùng cái
vía để hoạt-động trên cơi Trung-Giới là một chuyện khác nữa.
Điều sau nầy người ta gọi là xuất vía tỉnh-táo (dedoublement
conscient).
BA CÁCH XUẤT VÍA
Có ba cách
xuất vía:
Một
là xuất vía tự nhiên.
Hai là nhờ
ông thầy làm cho xuất vía
Ba là tự ḿnh
biết xuất vía chừng nào cũng được.
a)
XUẤT VÍA TỰ NHIÊN
Lúc ngủ, là
sự xuất vía tự nhiên, xác thịt nằm trên giường với cái phách.
C̣n con người ở trong cái vía qua cơi Trung-Giới.
Có một sợi từ-khí buộc cái vía với xác.
Hễ cái vía đi xa chừng nào th́ sợi từ-khí kéo ra dài chừng nấy.
Đối với người
chưa tấn-hóa th́ lúc ngủ cái vía bay qua bay lại trên ḿnh chớ không đi xa.
C̣n những
người trí-hóa mở rộng và tâm tánh tốt th́ cái vía đi chơi chỗ nầy chỗ kia.
b)
NHỜ ÔNG THẦY LÀM CHO XUẤT VÍA
Có hai cách:
Một là dùng phép thâu-thần, hai là dùng cây gậy phép.
I.
PHÉP THÂU-THẦN
Ấy là trường
hợp của mấy cô Marthe, Léontine, Edmée, Madame Vix và mấy vị kia nhờ ông
Hector Durville làm cho xuất vía.
Trong mấy
trường hợp nầy thường thường th́ chất-khí làm cho cái vía xuất ra hai bên
ḿnh, bên tay mặt và bên tay trái, chất-khí ở bên tay mặt qua bên tay trái
nhập chung lại mới thành ra h́nh.
Chừng trở vô nhập xác th́ nó vô phía tay mặt.
Sợi dây từ-khí buộc cái vía với cái xác th́ cảm-động dữ lắm.
Động tới nó th́ xác-thịt rất đau đớn.
Thường thường th́ nó lớn bằng ngón tay út.
Có người th́ nó ở rún xẹt ra, có người th́ ở phía trên trái thăng, có
người th́ ở trên đầu, song hạng người sau nầy th́ ít lắm. Trong sợi dây
từ-khí có hai luồng đi nghịch nhau, và kế nhau : Một luồng từ xác-thịt đến
cái vía ở phía dưới, một luồng từ cái vía qua xác-thịt ở phía trên.
Luồng sau nầy đem sự cảm giác và sanh-lực qua xác-thịt.
Luồng trước đem chất-khí cho cái vía đặng nó hành-động.
II.
DÙNG CÂY GẬY PHÉP
Cây gập phép
trên đầu th́ tṛn, nó chứa đầy từ điễn.
Nó mạnh lắm, duy có mấy vị luyện-đạo mới biết dùng nó mà thôi.
Để nó sau lưng ngay theo xương sống th́ cái vía xuất ra liền.
Người đệ-tử nhờ vậy lên Trung-Giới học hỏi thêm nữa.
Trong cuốn “Thích-nghĩa
về Dân-Quốc của Platon (Commentaire à la République de Platon) ông Proclus (thế
kỷ thứ 5) thuộc về phái Tân-triết-học Platon (Néo Platonicien) có thuật một
chuyện sau nầy chứng chắc sự xuất hồn có thật.
“Hồn xuất ra
khỏi xác và nhập vô chừng nào cũng được, đó là câu chuyện mà thí-nghiệm
trước mắt Cléarque với cây gậy phép chứng chắc như vậy và làm cho ông
Aristote phải tin ngay.
Người
đứng thí-nghiệm lấy cây gậy phép đánh nhẹ nhẹ trên ḿnh một đứa nhỏ tức th́
hồn nó xuất ra.
Ông ấy chỉ
cho người ta coi xác đứa nhỏ nằm trơ trơ và không biết cảm-động chi nữa.
Người ta lấy cây đánh nó nặng nề mà nó chẳng có rên la.
Trong lúc đó, hồn nó đi chơi chỗ nầy chỗ kia, xa cái xác-thịt lắm.
Rồi ông đó
cũng dùng cây gậy đem hồn nó nhập vô xác lại.
Nó tỉnh lại mới thuật những đều nó thấy cho mọi người nghe.
Hết thảy những người có mặt tại đó đều tin chắc sự ấy có thật.”
Trong cuốn
sách của ông Cléarque nói về giấc ngủ ông có thuật sự thí-nghiệm nầy; ông
nói về linh-hồn con người “cách nó xuất ra khỏi xác, cách nó nhập vô và cách
nó dùng xác-thịt đặng ở trong đó một ít lâu.”
III. TỰ M̀NH XUẤT VÍA
Tự ḿnh xuất
vía là một khoa-học, biết luật th́ làm đặng: Bất câu kẻ tà, người chánh, hễ
có người chỉ dạy chịu khó ra công luyện-tập th́ thành-công.
Tự ḿnh xuất vía cũng có hai cách: Một là : xuất vía được mà
hiện-h́nh chưa được. Hai là
xuất vía được mà hiện-h́nh được.
Dưới đây là
chuyện những vị xuất-vía.
BÊN CHÁNH ĐẠO
1
Ông cố-đạo
Huc (le Père Huc) qua viếng Tây-Tạng lần đầu tiên ; ông nhờ có thế-lực người
gởi gấm nên mới được vào ở một cái chùa kia.
Một bữa ông đi chơi với
một ông săi trong chùa, hai người nói chuyện với nhau về những phép-tắc
nhiệm-mầu. Ông cố-đạo Huc trong
ḷng vẫn hoài-nghi măi. Bổng
chút ông săi ngưng lại dường lóng tai nghe rồi nói: “Tôi được lịnh đổi lại
chùa X…”
Ông Huc nói:
“Từ đây lại chùa X…xa lắm ; tôi rất tiếc v́ phải dứt câu chuyện của tôi và
ông đương bàn luận, trong vài ngày.”
Ông săi nói:
“Không đâu. Tôi tưởng trước khi
mặt trời lặn th́ tôi về tới.
Ông không
biết rằng chúng tôi có cách đi mà bên Âu-châu chưa hiểu sao? Không phải tôi
đi bằng xác-thịt lại chỗ người ta kêu tôi đó, tôi đi bằng cái vía mau như
chớp-nhoáng.” Sau khi hết giựt
ḿnh, ông cố-đạo mới hỏi: “Ông nghe tiếng đàng xa nói lại th́ ông trả lời
được, sao ông phải đi?
Ông săi đáp:
“Tôi phải có mặt tại đó đặng làm lể và tôi có một phận sự phải thi-hành.”
Sau khi trở
vô lều, ông săi rửa mặt và nằm xuống đọc kinh rồi ḿnh mẩy cứng đơ, trong
lúc ông đọc kinh nữa chừng, cái vía ông xuất ra đi.
Không đầy hai giờ sau ông trở về rồi đi nói chuyện với ông cố-đạo như
trước. Ông nói cho ông cố-đạo
nghe những chuyện mà bên Thái-Tây cho là chiêm bao mộng mị.
2
Một vị văn-sĩ
người nước Mỹ danh tiếng lẫy lừng tên Marion Grawlord có thuật trong cuốn
sách đầu tiên cũa ông viết tựa là: “M. Issacs” rằng : có một vị đạo-sĩ Fakia
(Fakir) tên Kam-Lai, thường xuất vía đến thăm ông.
Ông thấy cái vía cũa đạo-sĩ nữa, nó màu xám, cái mặt đạo-sĩ một màu
với cái áo của đạo-sĩ mặc.
3
Đức
Giáo-Hoàng Saint-Clément đương làm lễ tại thành Rome.
Bỗng chút Ngài nằm xuống ngủ mê mang trong ba giờ đồng-hồ.
Chừng Ngài thức dậy, Ngài nói với các tính-đồ rằng: Trong lúc ngủ,
Ngài vâng lịnh ông thánh Pierre qua thành Pise làm lễ.
Cũng trong
ngày đó, giờ đó, các tín-đồ tại thành Pise đều thấy đức Giáo-Hoàng
Saint-Clement làm lễ trong nhà thờ.
4
Ông Saint
Alphonse de Liguori ở tại Arienzo, một thành nhỏ trong địa-phận của Ngài
cai-quản. Bỗng chút Ngài nằm
xuống trên ghế dài ngủ mê-mang trọn hai ngày.
Chừng Ngài thức dậy Ngài nói với mấy đứa tôi-tớ đương sợ-sệt như vầy
: “ Các người tưởng ta ngủ sao ? Các người đâu biết ta tới giúp đở đức
Giáo-Hoàng, Ngài mới từ trần đây.
Chẳng bao lâu người ta hay tin đức Giáo-Hoàng Clément XIV tắc hơi lúc
ông Saint Alphonse tỉnh dậy.
5
Năm 1571 ông
Saint Francois Xavier ở trên 1 chiếc tàu đi từ Nhựt-Bổn qua Tàu.
Giữa đường bảo-tố dữ-dội.
Mười lăm người xuống chiếc xà-lúp nhỏ bị sóng đùa trôi và mất dạng
trong đêm tăm tối. Khi cơn
dông tàn rồi, người ta lo tới số
phận của mười lăm người kia.
Nhưng ông Francois de Xavier cứ lo cầu-nguyện.
Ngài bảo cả thảy an ḷng, trong 3 ngày nữa sẽ gặp mấy người đó.
Tới ngày thứ
ba, chiếc xà-lúp tấp vào tàu, 15 người kia leo lên, và họ thuật lại rằng :
“Trong cơn bảo-tố dữ-dội họ không có chút chi sợ hăi v́ có ông Saint
Francois de Xavier cầm bánh chiếc xà-lúp; họ rất tin cậy nơi ông.
Mấy người trên tàu căi lại rằng ông Saint Francois de Xavier không có
rời chiếc tàu, làm sao mà cầm bánh chiếc xà-lúp được.
V́ họ đâu có ngờ rằng ông Francois biết xuất-vía.
6
Bà Marie de
Jésus d’Agréda người Tây-ban-nha (Espagnole) nhập-định hơn cả trăm lần.
Mỗi lần bà đều thấy vượt biển qua giảng đạo cho người da đỏ ở xứ Tân
Mễ-Tây-Cơ (Nouveau Mexique).
Trong lúc đó bà thuyết-pháp bằng tiếng bổn-xứ, bà có gặp những vị tín đồ của
ông thánh Saint Francois và hầu chuyện với mấy vị ấy nữa.
Chừng mấy vị Franciscains (những vị tu về ḍng thánh Francois
d’Assise) đi lần lần vô trong xứ Mễ-Tây-Cơ, th́ thấy nhiều người da đỏ tới
xin rửa tội. Hỏi ra th́ họ đă
thạo những giáo-lư chánh rồi.
Họ quả quyết rằng : có một bà lâu lâu th́ tới dậy dổ họ một lần.
Năm 1630, ông Bénavidès cũng thuộc về ḍng Franciscain ở Tân
Mễ-Tây-Cơ trở về Y-Pha-Nho có mở cuộc điều tra, th́ bà Marie de Jésus đă
rành rẻ xứ của bà đă viếng và dân chúng ở xứ đó, không khác nào bà đă ở tại
đó nhiều năm.
Bà Marie
thuật với ông Bénavidès rằng bà cũng gặp Ngài đi với những vị tín-đồ khác.
Bà kể tên mấy vị đó và nói ngày giờ cùng là gặp tại chỗ nào nữa.
Bènavidès cũng phải công nhận thật quả có như vậy.
XUẤT VÍA ĐI CHƠI BỊ VỢ PHẢN-PHÚC THIÊU XÁC
Ông Hermotime
de Clazomène ở vào thế-kỷ thứ năm trước Chúa giáng-sinh, vốn theo phái đệ tử
Pythagore. Ngài thường nhập
định và mỗi lần ra khỏi xác rồi th́ Ngài đi viếng mấy chỗ danh-sơn
thắng-cảnh và lên tới cơi Thiên-đường nữa.
Chừng về nhập
xác th́ Ngài thuật những điều Ngài thấy và những lời tiên-tri đều trúng cả.
Có khi Ngài
xuất hồn ba bốn ngày. Trong lúc
đó xác Ngài trơ-trơ trên giường không c̣n biết cảm-động ǵ cả.
Than ôi! Một
lần kia vợ Ngài lừa dịp Ngài xuất hồn đi chơi cho rằng Ngài từ trần rồi bèn
đem thiêu xác đi. Chừng Ngài về
không có xác nhập vào, Ngài lấy làm sầu-thảm lắm.
(Pline
VII, 53, Lucien : Hermotimus).
Ông Diogène
Laerce và nhiều nhà văn-sĩ Hi-Lạp khác đều nói rằng ông Aristée de Proconèse
và Epiménide muốn xuất hồn chừng nào th́ xuất, nhập chừng nào th́ nhập, mà
hạng nhứt là ông Epiménide có làm nhiều việc phi thường không khác nào các
vị thánh bên đạo Thiên-chúa hồi mấy thế-kỷ đầu.
Heinrich :
Epiménides (Leipzig 1801)
XUẤT VÍA ĐI CỨU NGƯỜI
CHUYỆN NHỮNG NGƯỜI BẢO-HỘ KHUẤT MẶT (Les
aides invisibles)
Có nhiều
vị đệ-tử Chơn-Tiên, ngoài phận-sự thi-hành mỗi ngày, c̣n lănh trách-nghiệm
đi hộ-trợ những kẻ bị tai nạn hay chỉ đường đi nước bước trên cơi Trung-Giới
cho những người mới chết.
Dưới đây là
những chuyện tôi rút trong cuốn “Những người bảo-hộ khuất mặt” “Les aides
invisibles” của ông Leadbeater.
Tôi dịnh tóm tắc lại song không cho sái ư-nghĩa.
a)
CHUYỆN MỘT ĐỨA NHỎ KHỎI BỊ THIÊU
Chuyện
nầy xảy ra tại thành Luân-đốn (Londres) kinh-đô nước Anh cách vài chục năm
nay.
Một đêm
kia lửa cháy tiêu hai cái nhà trong một cái đường ở gần Holborn.
Lửa cháy
lẹ lắm, chừng lính chữa lửa tới th́ chỉ lấy mắt ngó.
Nhưng người ta cứu được những người ở trong nhà trừ ra một bà già kia
bị khói chết ngột và một đứa nhỏ lối 5 tuổi mà lúc lộn xộn và hăi hùng người
ta quên phứt đi.
In như
mẹ nó là bạn thân thiết hay là bà con với chủ nhà, nên gởi nó đêm đó, v́ bà
có chuyện phải đi Colchester.
Chừng người chủ nhà nhớ tới nó th́ đă trễ, làm sao leo lên gác đặng đem nó
xuống trong lúc lửa đương cháy phừng-phừng.
Nhưng có
một anh lính chữa lửa nghe vậy sẵn sàng hy-sanh cứu nó.
Người ta chỉ rành rẽ chỗ nó nằm.
Anh nầy chạy vào đám khói lửa leo tuốt lên gác đem đứa nhỏ ra được.
Nhưng anh lại thuật chuyện lạ lùng nầy cho người ta nghe: “Khi tôi
tới pḥng th́ thấy lửa cháy đỏ, một phần ván lầu đă sập.
Nhưng mà lửa lại làm một ṿng tṛn đi theo vách tường ra cửa sổ.
Cái đó không phải là tự nhiên, không biết sao mà cắt nghĩa được, hồi
đó đến giờ tôi không thấy chuyện lạ như vậy.
Chỗ đứa nhỏ ngủ y nguyên dầu rằng mấy cây đă bị cháy hết phân nữa.
Đứa nhỏ hoảng hốt, song khi tôi đi cẩn thận lại nó th́ thấy cái chi
như Thiên-thần, ḿnh mẩy trắng bạc, tốt lắm, cúi xuống giường và cầm cái mền
đắp chơn kéo qua kéo lại. Tôi
không lầm lộn đâu. Tôi thấy
h́nh đó rơ ràng trong một chập, nhờ ánh lửa cháy sáng ḷa và tôi đi tới c̣n
cách h́nh đó chừng một thước rưỡi th́ nó biến mất.”
Cũng trong
đêm đó, mẹ đứa nhỏ ở Colchester nằm ngủ không được, dường như tâm-linh báo
trước rằng có chuyện chẳng lành xảy ra cho nó.
Bà bèn ngồi dậy cầu nguyện cho nó thoát khỏi tai nạn.
b)
CHUYỆN HAI ĐỨA NHƠ ĐI LẠC TRONG RỪNG
Chuyện
nầy xảy ra tại địa phận Buckingham gần Burnham Beeches.
Hai đứa
nhỏ, con của một vị nông-gia, trong lúc cha mẹ nó và người làm công đi vô
ruộng gặt lúa, th́ chúng kéo nhau đi chơi trong rừng.
Chúng nó đi xa nhà quá rồi lạc đường…Chừng tối cha mẹ chúng nó trở về
nhà không thấy chúng nó th́ hoảng kinh, chạy đi kiếm táo-tác và sai gia-đinh
đi cùng xóm. Nhưng nhọc công,
chúng nó biệt tâm dạng. Hai vợ
chồng trở về nhà trong ḷng đă thất vọng nhiều lắm, bỗng chốc thấy một ánh
sáng lạ lùng đi chậm chậm ngang qua miếng đồng giáp ranh đường cái.
Ấy là một yến sáng tṛn vo rất lớn chiếu màu vàng mà không giống ngọn
đèn thường chút nào. Khi ánh
sáng đó đi gần đến th́ người ta thấy hai đứa nhỏ đi ở chính giữa.
Cha chúng nó và vài người chạy tới phía ánh sáng đó. Khi họ nắm tay
hai đứa nhỏ đó rồi th́ ánh sáng vụt tắt phức để mấy người đó trong chỗ tối
thui.
Hai đứa nhỏ
thuật lại rằng lúc trời sắp tối th́ chúng nó đi thơ-thẩn trong rừng và đi và
khóc. Một chập th́ nằm xuống
gốc cây ngủ hết. Bổng chút có
một người đàn bà rất đẹp, tay xách một cái đèn, lại kêu chúng nó dậy, nắm
tay chúng nó dắc về nhà. Khi
chúng nó hỏi cổ th́ cổ chỉ cười và làm thinh chớ không trả lời.
Trong chuyện
nầy có một đều lạ là cha mẹ hai đứa nhỏ và mấy người lối xóm chỉ thấy ánh
sáng đó chiếu sáng cây cối và hàng rào như ánh sáng thường, chỉ có hai đứa
nhỏ lại thấy h́nh cô đó mà thôi.
c)
CHUYỆN MỘT BÀ ĐI XE LỬA KHỎI BỊ GIỰT ĐỒ
Môt bà
kia có việc phải đi xa, lên xe lửa ngồi một ḿnh.
Bà đề pḥng trước nên trả tiền một toa riêng.
Lúc xe
khởi sự chạy bỗng có một người mặt mày hung bạo lật-đật bước lên toa của bà,
rồi ngồi ngay phía đàng đầu băng kia. Bà
sợ hăi muốn la lên cầu cứu song trể rồi.
Bà phải
ngồi yên, trong ḷng van vái Thầy của bà phồ-hộ bà.
Bỗng chút bà càng khiếp sợ hơn nữa, v́ tên cướp đó đứng dậy và ngó bà
cười chúm chím dường như đắc ư lắm vậy.
Nhưng nó mới bước tới một bước th́ bỗng chút thối lui lại coi bộ
hoảng-hốt. Bà ḍm theo chỗ nó
ngó th́ thấy có 1 người đàn ông ngồi ngay trước mặt bà.
Người nầy chăm chỉ ngó tên cướp.
Vị hành-khách nầy vô trong toa xe cách nào, và hồi nào không biết,
nhưng dám chắc là không phải như cách người thường.
Hơn nữa giờ như vậy con mắt bà cũng không rời người hành-khách lạ nầy.
Ông nầy không mở miệng nói tiếng chi, cứ ngó ngay tên cướp làm cho nó
rung rẩy lập-cập thụt lui vào góc xe, co rút ḿnh lại không dám hó-hé chi cả.
Khi xe lửa tới trạm kế đó chưa kịp ngừng th́ tên cướp nhảy phóc ra
ngoài chạy trốn. Bà muốn mở
miệng cám ơn ông khách quí nầy th́ ông cũng biến đâu mất rồi.
Môt người thường có xác-thịt như ḿnh không thể nào đi ra toa mau như
vậy được.
d)
CHUYỆN ĐỨA NHỎ TÉ XUỐNG GÀNH
Một vị
đệ-tử viết bức thơ nầy cho ông thuật chuyện đă mới xảy ra như vầy :
Tôi và
Cyril đương lo chuyện khác bỗng chút Cyril la lên: “Cái ǵ vậy!” bởi v́
chúng tôi mới nghe tiếng kêu thê thảm, một tiếng kêu la rất đau-đớn hay là
sợ-hăi ; chúng tôi bèn đi t́m chỗ có tiếng kêu la, th́ gặp một đứa nhỏ lối
11, 12 tuổi té từ mé gành xuống đống đá dưới biển và bị thương nặng.
Đứa nhỏ vô phước nầy bị gảy một tay và một chơn, mà hại hơn nữa là
bắp vế nó bị đứt một vít sâu máu ra cuồn-cuộn.
Cyril lật đật nói: “Chúng ta hăy cứu nó cho mau không th́ nó chết mất.”
Trong mấy lúc tai nạn như vậy, phải suy nghĩ cho lẹ. Có hai đều: Cầm máu lại
và băng bó. Như thế th́ hoặc là
tôi hiện h́nh người hay là làm cho Cyril hiện h́nh mới có tay đặng cột vít
thương và trong lúc đau đớn đứa nhỏ vững bụng v́ thấy có người ở một bên nó.
Tôi nghĩ : “Nó ở với
Cyril dễ hơn, c̣n phần tôi đi cầu cứu tiện hơn Cyril nhiều.”
Tôi bèn
làm cho Cyril hiện h́nh liền
bởi v́ nó c̣n nhỏ chưa biết cách hiện h́nh, tôi dặn nó mở cái cà-ra-hoách
của đứa nhỏ buộc bắp vế và lấy cây vặn cái cà ra-hoách cho chặt. Cyril nói:
“Làm như vậy nó đau chết.” Nhưng mà nó làm in theo lời tôi dặn, máu hết chảy.
Đứa nhỏ gần ngất ngư, nó ngước mặt ngó Cyril và nói nho nhỏ rằng: “Ngài
có phải là thiên thần không?” Cyril đáp “Không! Tôi là một đứa con nít nhỏ
như em nhưng mà tôi tới cứu em.”
Tôi để Cyril an ủi đứa nhỏ; tôi đi kiếm mẹ nó ở cách đó lối một dậm
Anh.
Sư huynh
không khi nào rơ được sự khó nhọc của tôi sai tư-tưởng vô trí người mẹ nó
đặng cho bà hay rằng có một việc xảy ra biểu bà phải đi kiếm coi cái ǵ.
Thét quá bà mới chịu buông cái cách-son (Casserole) của bà đương chùi
và nói lớn : “Tôi không biết tôi có ǵ, mà tôi phải đi kiếm thằng con trai
tôi mới được”. Khi bà đi rồi
th́ tôi dẩn bà rất dễ. Song tôi
dùng nghị lực giữ h́nh giả của Cyril luôn v́ sợ e vị thiên-thần của đứa nhỏ
vô phước ấy biến mất đi chăng.
Tôi phải
nói với Sư-huynh rơ khi nào làm một cái h́nh giả th́ phải lấy chất nầy đổi
ra chất kia. Người ta ngăn cản
trong một lúc luật thiên-nhiên.
Nếu ta để lảng trí trong nữa giây đồng-hồ th́ chất ta biến đổi đó trở lại
nguyên-bổn như trước.
Tôi chỉ
chú-ư tới mẹ nó có một phần, nhưng mà tôi có cách làm cho bà đi tới.
Khi bà qua khúc quẹo mé gành th́ tôi để cho Cyril biến mất.
Tai nạn xảy ra buổi sớm mai, chiều lại tôi xuất vía đi tới thăm đứa
nhỏ. Thấy tay và chơn đă sắp
lại và vít thương đă băng bó.
Nó nằm trên giường xanh lắm và yếu lắm, nhưng đă bắt đầu lành mạnh.
Lúc ấy có hai người đờn bà ở gần đó lại thăm, mẹ nó thuật cho hai bà
đó nghe không biết tại sao bà tại nghe bên tai có tiếng nói với bà rằng :
“Con bà bị tai nạn phải đi kiếm nó.” Ban đầu bà cho là tư-tưởng bậy bạ, bà
muốn xua đuổi nó đi. Nhưng rốt
cuộc phải đi. Không biết sao bà
lại đi theo đường mé gành chớ không đi đường khác.
Khi qua khỏi khúc quẹo th́ bà thấy thằng con bà đứng dựa tấm đá, và
có một đứa trẻ hết sức đẹp, mặc đồ trắng, má hường, con mắt nâu, ḿnh mẩy
chói hào-quang sáng rỡ, qú gần một bên.
Nó ngó bà chúm chím cười rồi th́nh ĺnh biết mất, làm bà sững-sờ
không biết nghĩ làm sao bây giờ.
Nhưng bà sực nhớ lại biết nên bà qú xuống cảm ơn đức Thượng-Đế sai
một vị Thiên-Thần xuống cứu con bà.
Khi bà
dắc nó đem về nhà, bà muốn mở cái cà-ra-hoách ra v́ nó ăn sâu vô thịt.
Nhưng thằng con bà không cho, nói rằng Thiên-Thần khi làm một cái
ṿng dặn nó đừng động đến. Bà
thuật ư muốn bà muốn cho ông thầy thuốc nghe th́ ông đáp rằng : Nếu mà mở
cái cà ra-hoách ra ngay lúc đó th́ thằng nhỏ ắt phải chết không phương ǵ
cứu được. Bà lặp lại những lời
của thằng nhỏ thuật lại với bà : “Sau khi nó té th́ có vị thiên-thần rất
đẹp-đẽ lại cứu nó liền. Nó chắc
là vị thiên-thần bởi v́ hồi chưa té, nó đứng trên mé gánh ḍm khắp chung
quanh không thấy tâm dạng người nào cả.
Nhưng không hiểu sao vị thiên-thần nầy không có cánh và lại xưng ḿnh
là đứa con nít. Vị thiên-thần
để nó đứng dựa tấm đá và băng cái cẳng nó lại rồi biểu nó đừng sợ, v́ người
ta đă kêu mẹ nó đến. Ngài ôm nó
hun và sắp đặt cho nó ngồi yên và nắm tay nó để trong tay Ngài rất mềm-mại
và ấm-áp. Ngài thuật lại những
chuyện vui-vẻ và lạ-lùng cho nó nghe; bây giờ nó nhớ không hết, song lúc đó
làm cho nó quên hết những sự đau đớn khi bả tới.
Trong lúc đó Ngài nói với nó, nó sẽ mau mạnh.
Ngài nắm tay từ-giă nó rồi biến mất…”
Ông viết
bức thơ nầy là một vị đệ-tử lớn tuổi hơn Cyril.
Trong một kiếp kia ông và Cyril có đầu thai bên xứ Ai-cập (Egypte)
làm hai anh em ruột. Kiếp nầy
tuy sanh vào hai nhà khác nhau, bên Âu-Châu, song hai vị vẫn thương yêu nhau,
giúp đỡ nhau luôn luôn và cũng đồng học một Thầy.
Cyril
c̣n cứu một đứa trẻ khỏi bị chết thiêu như sau đây.
CHUYỆN MỘT ĐÁM HỎA HOẠN
Ông X và
Cyril xuất-vía đi trên không, bỗng chút thấy phía dưới lửa cháy sáng ḷa.
Cả hai đều hạ xưống coi có giúp ích được đều ǵ chăng ? Ấy là một nhà
hàng lớn ở mé hồ bị lửa thiêu.
Nó có nhiều từng, bao bọc một cái vườn lớn và làm ra ba cạnh của h́nh chữ
nhựt, mà cái hồ là cạnh thứ tư.
Hai mái nó gie ra tới hồ, những cửa ở trên mé nước, chỉ để chừa mỗi phía một
lối đi rất chật hẹp. Lửa phát
cháy rất lẹ-làng những từng lầu ở chính giữa ba dăy đều cháy hết. Những
người ở trong nhà hàng đều thoát ra ngoài được, nhiều người bị thương nặng
và bị phỏng ; trừ ra một đứa nhỏ ở trên từng chót dăy phía tay trái mà người
ta quên phứt đi. Cha mẹ nó mắc
đi dạ-yến, đâu có dè xảy ra việc hỏa-hoạn th́nh-ĺnh như thế.
Trong lúc xộn xộn, hoảng-hốt ai cũng chạy. Chừng nhớ tới nó th́ đă
trễ rồi. Và dầu có tưởng tới nó,
cũng không làm ǵ được, v́ lửa cháy những pḥng ở từng lầu giữa : c̣n có chỗ
nào lên bây giờ.
Đứa nhỏ
cũng không dè tai nạn v́ nó đương ngũ và bị khói bao phủ pḥng nó hóa ra
mê-mang, Cyril giục cho mấy người ở trong nhà hàng nhớ tới đứa nhỏ, song vô
ích, lúc đó tư-tưởng ở ngoài vô trí họ không được, họ lo thoát thân mà thôi.
Ông X mới làm cho Cyril hiện h́nh ra, dặn Cyril đánh thức đứa nhỏ dậy.
Cyril
lúc lắc nó hồi lâu, nó mới mở mắt, mà nó như khờ phải xô nó, kéo nó đi và
dắc nó và giúp đở nó mỗi lần đổi phương hướng.
Không
thế nào cầm cây viết tả nổi sự khó nhọc của Cyril lúc nó đem nó ra khỏi chốn
hiểm-nghèo nầy.
Bốn bề
đều bao bọc khói lửa, phải chạy cho lẹ, đứa nhỏ bị ngột ngất ngư, Cyril rán
t́m đủ phương thế mới đem nó xuống ca-nốt được.
Cyril mở dây chèo đi. Cyril muốn đem nó qua phía không cháy đặng đưa
lên bờ. Nhưng mới ra một đổi
th́ gặp một chiếc tàu khói chạy đưa hành khách trong hồ.
Người ta thấy chiếc ca-nốt th́ cho tàu cặp lại rước hai đứa nhỏ v́
lúc đó lửa cháy sáng như ban ngày.
Nhưng người ta lấy làm lạ thấy trong ca-nốt c̣n có một đứa nhỏ, người
ta t́m kiếm đứa kia song không gặp.
Họ định chừng trong lúc tàu cặp, một đứa té xuống sông chết trôi đi.
Chớ nào ngờ trong khi ấy ông X làm cho h́nh của Cyril tan ra tinh-khí
như củ.
Đứa nhỏ
lên tàu rồi th́ bất tỉnh nhơn sự.
Chừng nó tỉnh lại hỏi nó th́ nó nói hồi tàu cặp vào ca-nốt th́ c̣n
thấy đứa anh em bạn nó rồi từ đó về sau nó không biết ǵ cả.
Tàu chạy hai ngày mới tới bến.
Chừng trở về đậu tại nhà hàng trả đứa nhỏ lại cho cha mẹ nó th́ đă
gần một tuần lễ rồi. Hai ông bà
nầy mừng rỡ vô-hạn v́ ngở nó đă chết thiêu rồi.
Ông X và Cyril có giục cho ổng bả tưởng rằng: “Thằng nhỏ đă có người
cứu sống, mà vô hiệu quả…!!”
Ông X và
Cyril c̣n cứu biết bao nhiêu người khác.
Tôi dám chắc bên ḿnh đă có nhiều người bị tai nạn được những vị
bảo-hộ khuất mặt giúp đở song mấy nạn nhơn không dè và cũng không để ư tới.
Trong
các vị bảo-hộ khuất mặt có những người c̣n sống như ḿnh nhưng biết xuất vía
và cũng có vị đă bỏ xác rồi.
Làm sao
mà vào hạng bảo-hộ khuất mặt được?
Câu nầy
người ta thường hỏi đức ông Leadbeater, Ngài vẫn trả lời: “ Trước hết phải
trau tria tánh nết cho thật tốt, bỏ tuyệt tánh ích-kỷ hại nhơn.
Phải lo bổn phận cứu người ở cơi trần cho xong, th́ chừng xuất vía
lên cơi Trung-Giới mới làm những việc hữu-ích được.”
V̀ SAO ĐÁNH CÁI VÍA MÀ XÁC THỊT KHÔNG BỊ
BỊN
Cái vía bị
bịnh chỗ nào, xác thịt bị bịnh chỗ nấy, Cyril hiện h́nh ra mà khi vô lửa hay
vô nước, cái xác ở nhà không bị phỏng hay là bị ngột hay sao? Không .
Nên hiểu có
ba cách hiện h́nh.
Một là: rờ
được mà không thấy. Trường hợp
nầy có khi xảy ra trong lúc cầu đàng.
Ḿnh biết có bàn tay rờ mặt ḿnh hay là nắm cánh tay ḿnh mà ḿnh
không thấy.
Hai là: Ḿnh
thấy mà rờ không đụng chạm chi cả.
H́nh nầy giống như sương mù, ḿnh cũng thấy mặt mũi, tay chơn, vậy mà
lấy tay nắm th́ cũng như nắm lấy luồng gió.
Hai trường hợp nầy đánh cái vía cũng như đánh mây gió.
Xác thịt không hề bị bịnh.
Ba là : Hiện
h́nh ra, h́nh thấy và rờ rẫm được cũng như xác-thịt ḿnh vậy.
Trong trường hợp thứ ba nầy nếu cái vía đặc lại, th́ đánh cái vía chỗ
nào, xác-thịt bị bịnh chỗ nấy, bởi v́ hai thể có t́nh liên lạc do những sự
rung-động đồng bộ với nhau (Vibration synchrones).
Cũng như 2 cây đờn lên giây đồng bực với nhau, hễ khảy cây đờn nầy
th́ mấy sợi dây của cây đờn kia cũng rung-động vậy.
C̣n trường hợp của Cyril và các đệ-tử Chơn-Sư không phải như vậy.
Mấy vị nầy có học khoa triết-học và vật-lư học bí-truyền, cho nên
không hề khi nào làm cho cái vía đặc lại.
Các Ngài lấy 4 chất tinh-khí ở cơi Trần làm cái xác giả, cũng đi đứng
chuyện văn như thường. Nhưng mà
đánh đập, đâm chém cái xác giả nầy cũng như đánh đập đâm chém cục đá.
Xác-thịt nằm ở nhà không hề bị thương tích chi cả: v́ nó không có
t́nh liên lạc với cái xác giả.
Trái lại có
nhiều người biết xuất vía mà không biết làm cái h́nh giả nhứt là mấy vị
phù-thủy. Khi muốn hiện ra th́
họ làm cho cái vía đặc lại. V́
thế nếu cái vía bị thương chỗ nào th́ xác-thịt họ bị thương chỗ nấy.
Như mấy chuyện sau nầy.
CHUYỆN BÀ SAINTE LIDWINE
Bà Ste
Lidwine thường xuất vía dạo cảnh.
Những sự
cảm-động của cái vía đều ghi dấu-dích vô xác-thịt của bà.
Một ngày kia cái vía bà trặc chơn, chừng nhập xác cái chơn bà đau,
hết mấy ngày đi không được. Lần
khác vía bà lật đật đi ngang qua những bụi gai, nó bị gai đâm nơi tay.
Chừng bà nhập xác cái gai c̣n dính trong tay bà.
Người không
biết đạo cho là sự dị-đoan song đó là sự thật một trăm phần trăm.
Bên Âu-châu,
khi cái vía (1) [(1) Có khi cái phách, chớ không phải cái vía, tùy theo
trường-hợp] cô Đồng xuất ra rồi, hiện h́nh cho người ta thấy và rờ được.
Người ta lấy phấn gạch chử thập trong tay cái vía, chừng cái vía nhập
vô xác th́ trong ḷng bàn tay cô đồng có chử thập gạch bằng phấn.
Gặp mấy
trường hợp nầy chớ khá gọi là lên giả trái lại nên nói là đồng-tử xuất vía
thiệt.
PHÁI BÀN-MÔN - XUẤT VÍA NHÁT NGƯỜI BỊ CHÉM
Hai chuyện
sau đây rút trong cuốn “Những hiện tượng cao-siêu của Phù-Pháp” “Hauts
Phénomènes de la Magie” trương 162 vốn của ông Gougenot des Mousseaux dịch
lại của nhà hiền-triết và giáo-sỉ Glanvit, người nước Anh, hồi thế-kỷ thứ
18, ông Hector Durville có đem vô trong cuốn Le Fantôme des vivants của ông.
I
a) CHUYỆN
BÀ PHÙ-THỦY JANE BROOKS
Một đứa con
trai nhỏ của ông Henri Jones tên Richard bị một bà già tên Jane Brooks rớ
vào ḿnh. Bà nầy lấy mấy ngón
tay vuốt một bên hông đứa nhỏ từ trên tới dưới, và sau khi nắm tay từ giả nó
một cách thân mật rồi, bà cho nó một trái bôm.
Đứa nhỏ
lật-đật đem nấu ăn. Nuốt vô vừa
khỏi cổ th́ nó phát đau dữ-dội.
Một bữa chúa-nhựt lối 12 giờ trưa đương lúc cha nó và một người tên Gibson
ngồi giữ nó th́ bỗng chút nó la lên: “ Ḱa ! Bà Jane Brooks” cha nó mới hỏi:
“Bả ở đâu?” Nó lấy tay chỉ trên vách tường nói: “Bả đứng đó! Cha không thấy
sao? Ở đầu ngón tay tôi.” Dường như bà phù-thủy nầy đi ngang vách tường đặng
vô nhà hay là đi ra nên không ai thấy bả.
Người ta nói “Nó làm cữ, nó mơ đó”. Nhưng chú Gibson xách dao chạy
lại chém chỗ đứa nhỏ chỉ. Nó bèn la lên : “Ba ơi! Chú Gibson chém bà Jane
Brooks đứt tay chảy máu đầy.” Phải tin hay không? Phải làm sao bây giờ?
Nhưng trong nháy mắt người cha đứa nhỏ và Gibson ra khỏi cửa đi lại nhà quan
Cảnh-sát thuật đầu đuôi gốc ngọn chuyện đó cho ông nầy nghe.
Ông quan nầy chăm-chỉ nghe rồi đồng đi với hai người lại nhà bà
phù-thủy. Mấy người nầy vô nhà
th́nh ĺnh. Bà phù-thủy đương
ngồi trên ghế nhỏ, bàn tay nầy úp lên bàn tay kia.
Quan Cảnh-sát liền hỏi : “Bà lúc nầy mạnh giỏi như thể nào? “Bà liền
đáp:” “ Thưa ông lúc nầy không khá.”
---Tại sao bà
lấy tay nầy che tay kia?
---Thưa ông:
Tại cách tôi hay ngồi như vậy.
---Có khi bàn
tay kia của bà đau hay sao?
---Thưa: “Không
có chi hết.”
---Bà đau
thiệt, hăy để cho tôi coi thử.
---Bà
phù-thủy không cho. Ông quan
Cảnh-sát mới nắm tay bả kéo ra th́ thấy bàn tay kia của bà chảy máu đỏ ḷm
như lời thằng nhỏ Richard nói.
Bà bèn la lên: “Tôi bị một cây kim gâm lớn đâm rách tay tôi nặng lắm.” Nhưng
người ta làm chứng rằng bà thuờng hại nhiều nguời lắm rồi.
Bả bị lôi ra
giữa ṭa đại-h́nh ở Charde và ngày 26 Mars 1658, bà bị xử tù.
Từ đó về sau thằng nhơ Richard lành mạnh như thường. Các quan ṭa tạp
tụng Rob, Hunt và Jhon quả quyết rằng mấy ổng thấy tận mặt một phần những
hiện-tượng để làm nền cho bản cáo trạng.
b)
CHUYỆN BÀ JULIANE COX
Một bà già
kia tên Juliane Cox được 70 tuổi.
Ngày kia bà tới trước cửa nhà nọ xin ăn, bị một đứa tớ gái xua đuổi.
Bà bèn nó : “Được lắm! tới chạn-vạn con sẽ ăn năng.”
Trời vừa tối
th́ đứa tớ gái đó nhào lăn rên-la thảm-thiết.
Chừng bớt đau, nó mới cầu cứu với những người ở trong nhà : “Ḱa ḱa,
bà ăn-mày h́-hợm bả rượt tôi đó.” Nó vừa nói vừa lấy tay chỉ.
Nhưng chẳng một ai thấy bà già đó cả.
Người nhà bèn nói : “Nó thấy tầm-bậy tầm-bạ, thôi hăy để cho chúng ta
yên-ổn, đừng la nữa” Một buổi sớm mai kia, nó biết chắc thế nào bà già cũng
trở lại, nó bèn lấy cái dao-phay để giữ ḿnh.
Chuyến nầy vía bà già đi với thằng mọi, cả hai lại ép nó uống môt thứ
thuốc ǵ của họ đưa cho nó đó.
Nó dùng-dằng không chịu uống ; nó chờ bà già ơ-hờ nó xách dao chém bả.
Mọi người đều thấy cái dao sáng rỡ và máu rơi trên giường nó; liền đó
nó mới la lên : “Bà già bị tôi chém trúng bắp-vế.
Hăy đi cho mau lại nhà bả coi” Lập tức người ta mới đi với nó lại nhà
bà Juliane Cox. Người ta gỏ cửa,
bà không mở. Người ta phải phá
cửa vô đại trong nhà. Quả thiệt
bắp vế bà bị thương mới băng bó ràng-ràng : Cái miệng vít thương đọ với với
lưởi dao th́ bằng nhau.
Cô tớ chém
cái vía bà già mà thấu tới thân thể bả.
Bà già
Juliane Cox bị bắt bỏ tù. Từ đó
về sau cô tớ mới hết bị bả phá nữa.
c)
XUẤT VÍA ĐI “HỘI PHÙ-THỦY”
Chuyện nầy
vốn của ông cố-đạo Trilles thuật lại trong cuốn “Hoa đen, ḷng trắng” (Fleurs
noires, âmes blanches) của ông xuất bàn lối năm 1907-1908 ; ông làm chứng
chắc sự nầy có thật và xảy ra tại Phi-châu, chớ không phải bịa đặt.
“Một người
Tù-tưởng bộ-lạc Jabikou tên Ngéma Nzago có tài dùng phép trị lành bịnh người
và chỉ cách cho người ta làm giàu có nữa. Tù-trưởng lại là bạn thiết của ông
cố-đạo Trilles. Môt ngày kia
Tù-trưởng nói với ông Trilles : “Mai nầy có lễ lớn, hết thảy các vị phù-thủy
trong miền nầy phải hội tại Cao-nguyên Yemvi, trong một cái làng đă bỏ hoang.”
Ông Trilles
tỏ ư ngạc nhiên v́ từ đó đến Cao-nguyên Yemvi phải mất bốn ngày đường.
Ngéma Nzago bèn nói : “Ông không tin tôi, vậy chiều nầy ông lại cḥi
tôi, ông sẽ thấy.” Ông Trilles y như lời hứa, chiều đến th́ thấy Tù-trưởng
sửa soạn đi. Muốn thí-nghiệm chắc-chắn, ông mới nói với Tù-trưởng : “Tôi xin
cậy Ngài một việc. Ngài sẽ đi
ngang qua làng Nshong, ở dưới chơn Cao-nguyên.
Ngài biết tín-đồ của tôi là Esaba, nó ở đó.
Khi Ngài đi ngang qua nhà nó, Ngài làm ơn nói với nó rằng : “Tôi muốn
gặp nó lắm, nó phải lại đây cho gấp và nhớ đem những b́-súng của tôi đă giao
cho nó giữ dùm.”
---“Được.
Chiều nay nó sẽ được tin ông, và mai nó sẽ lên đường.”
Sau khi thoa
cùng ḿnh với một thứ thuốc đỏ hôi mùi tỏi, và ca hát ra bộ tịch th́ một
chặp có một con rắn trên mái nhà ḅ xuống quấn cùng ḿnh va.
Va liền nằm ngủ mê-mang như chết ḿnh mẩy cứng đơ.
Ông Trilles lấy cây kim gâm vô thịt th́ không thấy nhúc-nhích.
Trên môi của Tù-trưởng th́ có một chút bọt trắng.
C̣n con rắn đâu mất. Ông
Trilles sợ có sự giả-dối nên ở đó sáng đêm đặng giữ cái xác của Tù-trưởng.
Tới sáng bét bữa sau.
Tù-trưởng lần lần tỉnh-thức. Va
mỡ mắt ra ḍm chung quanh ḿnh coi bộ lơ-láo. Khi va thấy ông Trilles th́ va
nói : “Tôi đă thi hành chuyện của ông đă cậy tôi rồi.” Va thuật lại chuyện
rất lâu về “Hội phù-thủy.”
Ba ngày sau,
chiều lại th́ tên Esaba tới, đem những b́ súng cho ông Trilles.
Ông hỏi nó : “Con có thấy Tù-trưởng không?---Thưa không, mà tôi nghe
tiếng nó ở ngoài cḥi tôi.
Nó nói : “Cha
biểu tôi đem gắp những b́ súng lại cho cha.”
Trong khi
diển-thuyết tại hội Địa-dư thương-măi tại thành Nantes ngày 23 Novembre
1906, ông Trilles có nhắc chuyện nầy nữa.
Năm 1921 ông Paul le Cour có viết cho ông C. de Vesme một bức thơ như
vầy : “Tôi hỏi ông Trilles” : “Có con rắn xuống quấn ḿnh Tù-trưởng không?
Hay là ông thêm vô cho có vị?”
Ông Trilles
trả lời : “Việc đó có thật như vậy.”
NHỮNG CHUYỆN QUÁI LẠ
a)
MA-LAI RÚT RUỘT
Bây giờ ít ai
nói tới chuyện Ma-lai rút ruột chớ mấy chục năm trước tôi vẫn thường nghe.
Người ta nói rằng : Bọn Ma-lai ban đêm để thân ḿnh nằm trên giường
rồi chúng nó đi bằng cái đầu kéo ruột-gan ḷng-tḥng theo.
Chúng nó t́m phẩn người ta ăn, tới sáng th́ về nhà.
Ai bị chúng nó ăn-phẩn th́ ốm o gầy ṃn rồi chết.
Bởi vậy ở Lèo
hay Cao-miên người ta đào lồ đặng sông? Sông rồi th́ lắp đất và lắp chà gai
lại.
Có người hỏi
: “Việc ấy theo ư Ngài có thiệt hay không?”.
Xin đáp : Nói
rằng đi bằng cái đầu kéo ruột gan theo th́ tôi không tin được.
Chuyện ăn
phẩn th́ có lẽ có, bởi v́ có một hạng tinh-quái thấp-thỏi hết sức, người ta
gọi là tà Á-rặc. Mỗi lần chúng
nó về nhập-xác chúng nó ăn một bát phẩn : chúng nó trây-trết tùm-lùm cái
miệng người xác. Trước khi cầu
chúng nó th́ phải kiếm đồ đó cho sẵn trước; không có chúng nó rầy lắm.
Có lẽ bọn Ma-lai thuộc về hạng nầy.
Ban đêm nó xuất vía đi kiếm đồ đó ăn. Nó sợ chà gai là v́ nếu bị chà
gai đâm cái vía th́ cái xác nó bị bịnh.
Gẫm lại cũng
có một phần chơn-lư trong lời người ta nói.
Tại làm sao
nó ăn phẩn ḿnh mà ḿnh bị bịnh ?
Trong những
đồ đạt ḿnh dùng : quần, áo, nón, giày cho đến tóc tai, móng tay móng chơn,
nước tiểu và phẩn của ḿnh đều có dính từ-điễn của ḿnh.
Mấy vị
bàn-môn ghét ḿnh mà lấy được một món đồ dùng của ḿnh th́ hại ḿnh dễ như
trở tay.
b)
NGƯỜI TA HÓA H̀NH CHÓ SÓI
Sách tây có
nói chuyện người ta hóa h́nh chó sói, chuyện ấy có thật hay không ?
Bên Âu-châu
từ đời Trung-cổ (Moyen age) cho tới thế-kỷ thứ mười chín người ta c̣n tin
chuyện “Người ta hóa ra chó sói”, nên đặt chữ Lycanthropie và Loupgarou.
Lycanthropie vốn hai chữ Hi-lạp (Grec) nghĩa là chó sói và người (Loup et
home). Những “người chó sói”
ban đêm chạy trong rừng và trong đồng cắn phá loài vật và luôn tới người ta
nữa.
Tại sao người
ta hoá h́nh chó sói được ?
Không phải
xác-thân họ hoá chó sói mà chính là cái vía họ bị bọn bàn-môn hay tinh-quái
làm cho quá ra h́nh thú vật, thường thưởng là chó sói.
Mấy người như vậy ngày thường tánh t́nh hung ác lắm.
Họ nhờ bọn bàn-môn giúp họ lần đầu rồi từ đó về sau tự nhiên khi xuất
vía họ hóa h́nh thú vật được.
Dưới đây là
những chuyện lạ lùng ấy
CHUYỆN NGƯỜI XAY BỘT TÊN BIGOT
Ông A.
d’Assier thuật chuyện sau nầy xảy ra bên Pháp-quốc tại Sérirols (Ariège) lối
năm 1850
Một người xay
bột tên Bigot nổi tiếng là biết phù-phép.
Một ngày kia vợ va thức dậy sớm lắm đặng đi giặt đồ ở gần nhà.
Va kiếm thế ngăn cản không cho đi.
Va nói với vợ va nhiều lần : “Ḿnh đừng đi, ḿnh sẽ sợ lắm”.
Vợ va hỏi : “Tại làm sao tôi sợ?”.
Va đáp : “Tôi nói ḿnh sẽ sợ mà.” Vợ va không đếm xỉa tới mấy lời hăm
dọa đó, nên ra đi. Tới bến cổ
mới ngồi xuống th́ thấy một con thú đi qua đi lại trước mặt cổ.
Lúc đó trời chưa thiệt sáng, cổ không thấy rơ con thú chi nhưng cổ
tưởng là một loài chó. Nó đi
qua đi lại làm cho cô khó chịu, cô đuổi , nó không đi, cô mới lấy cây giặt
đồ phan vô mặt nó, trúng nhằm con mắt.
Con chó liền biến mất.
Ngay trong
lúc đó, mấy đứa con của Bigot nghe cha chúng nó nằm trên giường la lên rằng
: “Ôi! con khốn nạn! nó đập bể tṛng con mắt của tôi rồi.” Từ đó về sau va
thành người một mắt.
Nhiều người
thuật chuyện nầy cho tôi nghe; chính là họ quả quyết rằng vốn của mấy con
của Bigot học lại.
(Rút trong
cuốn Essal sur L’humanité posthume trương 284).
NHỮNG CHUYỆN ĐỜI NAY
Đó là chuyện
đời xưa, bây giờ xin nói chuyện đời nay.
Ông Richard Bagot có đăg trong báo “Cornhill magazine” Londres, tháng
Octobre 1918, một bài tựa là The hyenas of Pirra, nói về những đều của ông
quan hai (Trung úy) F. đă thấy khi Ngài c̣n cai quản một toán lính tập
bổn-xứ, từ tháng Juillet cho tới tháng Octobre 1915 tại xứ Nigérie du Nord
bên Phi-châu.
Tóm lại như
vầy :
1.---
Ông quan hai (Trung úy) F.
đang đóng binh gần một làng kia, thổ dân thuộc về hạng thấp thỏi.
Có một bầy chó chóc (hyènes) phá-hại súc-vật quá.
Đêm kia, Ngài mới xách súng ngồi ŕnh gần một con dê làm mồi bị trói
lại. Một con chó chóc chạy tới
chưa kịp nhảy chụp con mồi, th́ Ngài bắn nó hai phát trúng đầu, nó mang bịnh
nặng, nhưng nó rán chạy trốn được, 25 phút sau th́ Ngài nghe trong làng có
tiếng trống, báo tin một người chết.
Tới sáng Ngài
theo dấu chơn con thú, thấy nó đi vô làng tới một đống đất của loài kiến-đen
vung lên th́ mất. Từ đó đi tới
đầu làng th́ toàn là dấu-chơn người thay thế dấu chơn thú.
Vài giờ sau người ta cho hay rằng :
‘Một vị hương-chức trong làng mới thác đêm hôm, trên đầu bị một
vết-thương nặng của đạn súng bắn nhằm.
Không ai biết
tại sao nhưng mà họ không cho Ngài tới xem cái thây.”
2.---
Ông Richard Bagot c̣n tiếp
theo chuyện nầy nữa do ông quan ba (Đại-úy) H.H. Shott cũng đóng-binh tại xứ
Nigérie Septentrionale thuật lại.
Ngài có bắn trúng một con chó chóc lớn lắm.
Nó bị thương
nơi đầu liền chạy ngang qua đồng đặng trốn đi.
Ông quan ba và vài người nữa đuổi theo nó.
Được một đổi xa th́ thấy cái hàm của con chó rớt ra gần bên một vũng
máu. C̣n dấu chơn tới đường ṃn
dắt đi vô làng th́ mất. Bữa sau,
dân trong làng tới cho ông quan ba hay rằng Ngài mới giết vị phó tù-trưởng
Nê-pha-da (Néfada sous-chef) của họ, nhưng họ không tỏ dấu chi thương tiết
cả.
Vị phó
tù-trưởng bị súng bắn bay một cái hàm. Họ cắt nghĩa rằng họ có gặp Nê-pha-da;
họ có nói chuyện với ổng trong lúc ổng sắp đi dạo trong rừng, như ổng đă cho
họ hay. Một chập nghe tiếng
súng nổ, kế họ thấy ông trở về lấy áo trùm đầu, ông đi ngă-xiêu ngă-tó, như
một người bị thương nặng. Ngày
mai, họ lại thăm ổng đặng hỏi cớ sao vậy th́ họ thấy ổng đă chết rồi.
Không có ai ở trong nhà ổng v́ sau khi ổng về th́ ổng đuổi mấy người
đàn bà đi hết. Nê-pha-da có
tiếng là người chó-chóc (Homme-hyène). Lúc ổng hiện ra chó-chóc th́
quĩ-quyệt lắm. Ông Shott nói
rằng ông là quan vỏ, ông không hề tin dị-đoan ; nhưng đứng trước trường hợp
nầy ông cũng phải có phần tin rằng : dân bổn-xứ miền đó có phép lạ lùng.
Nhưng chẳng
riêng ǵ xứ Nigérie Septentrionale mới có sự lạ lùng, ở hai thuộc-địa Ư khi
xưa là Somalie và Erythrée, các vị vỏ quan Ư cũng ghi chép những chuyện “Bọn
phù-thủy hóa h́nh thú vật rất hung dữ.”
Nhưng muốn thay h́nh đổi dạng họ phải tới chỗ nào có đất của loài
kiến-đen vung lên mới được. V́
vậy cho nên ở bên Phi-châu, bọn thổ-dân không dám ngủ gần mấy ổ-kiến, họ cho
là nguy-hiểm đến tánh mạng.
NHẬP VÔ M̀NH SẤU-CÁ TRẢ THÙ BỊ GIẾT
Chuyện nầy
của ông cố-đạo Père R.R. Burgoa thuật lại và chép trong cuốn “Địa-dư tỉnh
Santo Domingo (Mỹ-quốc) của Ngài soạn, Thiên bảy mươi mốt (Description
géographique de la province de Santo Domingo, chapitre LXXI, par le Père
R.R. Burgoa).
Cha Diégo rất
can-đăm và tỉnh-trí.
Ngài tuổi lớn
rồi mà không có chi làm cho Ngài sợ sệt.
Có một người da đỏ tên X bị phạm-lổi nặng, Ngài phạt nó một cách rất
nghiêm-khắc. Nó oán-giận,
kiếm-kế trả-thù.
Một ngày kia,
người ta thỉnh Ngài đi rửa-tội cho một người gần chết.
Tên X biết Ngài phải đi ngang qua một cái rạch nên nó ở đó ŕnh.
Ngài cởi một con ngựa vừa đi vừa tụng kinh.
Tới rạch th́ con ngựa dừng lại, rán sức đi mà đi không được.
Ngài ḍm xuống coi th́ thấy có một con cá sấu cắn chơn con ngựa và
kiếm thế lôi con ngựa xuống rạch.
Ngài vái Trời và thúc con ngựa đi.
Nó kéo con sấu lên khỏi rạch.
Con ngựa đá con sấu và Ngài lấy cây có bịt sắt đập đầu con sấu làm
cho nó phải nhả cẳng con ngựa rồi ngă ra dẩy dụa trên bờ.
Tới chỗ rồi
Ngài mới thuật chuyện nầy cho người ta nghe và khi Ngài rửa tội cho
bịnh-nhơn rồi th́ có người lại cho Ngài hay : Tên X mới chết tức th́.
Nó nói rằng : nó bị con ngựa của Ngài đá và bị đánh trên đầu.
Ông Diégo bèn đi hỏi thăm coi.
Người ta thấy con sấu chết trên mé rạch, c̣n trên đầu tên X có những
vít in như những vít trên đầu của con sấu chết.
Mấy chuyện
nầy chứng chắc rằng đánh cái vía chỗ nào th́ xác-thịt bị bịnh chỗ nấy.
Có người hỏi
: Tại sao ở xứ văn-minh bây giờ không có mấy chuyện nầy?
Ấy là tại bọn
phù-thủy ở xứ văn-minh bây giờ không biết cách luyện-tập hóa h́nh thú-dữ như
hồi đời Trung-cổ. Tôi cũng biết
nói ra th́ ít người tin chớ 80.000 năm trước, bọn đạo sĩ ở Châu Ác-Lăn-Tích
(Atlantide) tài phép cao cường, họ muốn làm cho thân thể họ ră ra chừng nào
th́ ră, hườn lại chường nào th́ hườn.
Họ niệm một
câu thần chú tức th́ kẻ-nghịch hóa h́nh thú vật, hoặc cọp, beo, tây, tượng,
tùy theo ư họ muốn.
CHUYỆN THƯ DA TRÂU VÀ THƯ GẠO
Có lẽ Ngài
cũng có nghe chuyện những người cầm ngải đi bắt thú rừng bị lậm ngải th́ hoá
ra xà-niên và chuyện thư da trâu, thư gạo, và cất nhà trong ḿnh con người
chớ. Mấy việc đó có thiệt chớ
không phải nói chơi đâu.
Tôi có quen
với một ông sải Cao-miên, bữa nọ tôi nói chuyện về phép-thư th́ ổng nói cho
tôi biết hiện-giờ cũng có nhiều ông sải biết cách-thư và mở-thư.
Tôi có hỏi
ông làm sao thư th́ ông nói có câu chú niệm tới th́ da-trâu hay nắm-gạo tan
ra rồi bay đến nhà người mà ḿnh muốn thư.
Tới nơi, chúng nó hiện-h́nh con ruồi, lúc ḿnh hả miệng ăn cơm hay
nói chuyện, nó chun vô trong bụng rồi chúng nó hườn lại da trâu hay nắm gạo,
và càng ngày nó càng làm cho bụng ḿnh lớn lên.
Như ḿnh gặp thầy hay mở thư được th́ nắm gạo hay da trâu theo đường
đại tiện ra ngoài, c̣n chạy thầy không kịp th́ chết.
Tại làm sao
câu chú làm cho da trâu ră ra được?
Câu chú niệm
ra th́ có sự rung-động.
Vật-chất nhờ sự rung-động lập-thành mà nó cũng bị sự rung-động làm cho tan
ră vậy. Hiểu được luật
rung-động th́ biết không có chi gọi là phi thường cả.
NHỮNG NGƯỜI KHÔNG HỌC PHÉP XUẤT-VÍA MÀ
XUẤT-VÍA ĐƯỢC
Ngoài ra
những chuyện nầy cũng có những người không học phép xuất-vía mà xuất-vía
được. Ấy là trường-hợp “những
người hấp-hối xuất-vía”.
Trong cuốn:”Những
hiện-tượng cao-siêu của Phù-phép” (Les hauts phénomènes de la Magie) của ông
Gougenot des Mousseaux, chương 14, có thuật một chuyện nầy do ông R.P.
PALGRAVE cựu sĩ-quan đạo-binh chánh-phủ thuộc-địa Ấn, thầy gịng (tên
Jésuite) và giáo-sĩ ở Syrie và Arabie kể lại: “Năm 1830 một sĩ-quan Anh ở
Ấn-độ được nghĩ phép nên xuống tàu vế xứ.
Tàu chạy được mười lăm ngày, linh-đinh giữa biển; bổng chút vị
sĩ-quan lại nói với viên thuyền-trưởng: “Một người lạ mặt đi trên tàu mà
ngài dấu tôi.” Viên thuyền-trưởng đáp: “Ngài nói chơi sao chớ; vậy th́ ngài
cắt-nghĩa cho tôi nghe thử coi.” Vị sĩ-quan bèn nói: “Được, số là lúc tôi
vừa nằm ngủ bổng thấy một người lạ-mặt bước vô pḥng-khách đi cùng hết, rồi
từ buồng nầy sang buồng kia, mỗi buồng đều mở cửa ḍm vô coi rồi lắc đầu bỏ
đi. Khi vén cái màn buồng tôi
rồi va ḍm vô thấy tôi không phải là người va kiếm, va bỏ đi nhẹ-nhàng và
mất dạng luôn.”
-À? Vậy th́ y
phục, tuổi tác và tướng mạo của người lạ mặt đó ra sao? Viên sĩ-quan mới tả
h́nh dạng người đó một cách kỹ lưỡng.
Viên thuyền-trưởng mới la lên: “Ôi! nhờ trời phù hộ tôi! Nếu những
lời ngài nói không phải là vô-lư th́ người ấy là ông thân tôi chớ không c̣n
ai đó nữa. Khi viên
thuyền-trưởng trở về Anh-quốc, th́ ngài hay tin ông thân ngài đă từ trần vài
bữa sau khi vị sĩ-quan thấy ông hiện ra.
Nhưng mà ngày đó giờ đó, bên kia trời, ông nằm trên giường bịnh mê
sảng. Những ngưởi trong
gia-quyến ở canh-giữ thuật lại với ông R.P. Palgrave rằng: trong lúc cảm
khích ông la lớn lên “Các người tưởng ta ở đâu về”.
Ta vượt-biển,
ta tới viếng chiếc tàu của con ta, ta đi cùng các buồng, cái nào ta cũng mở
cửa ra hết nhưng ta không gặp nó ở trong buồng nào cả.
II
Ông Raès, vốn
thông-tín-viên của hội Pháp-Quốc Từ-điễn (Société magnétique de France) ở
bên Hiệp-chủng-quốc (Huê-kỳ) có thuật lại cho ông Hector Durville nghe câu
chuyện của bà vợ ngài mới từ trần cách đây ít lâu đây: “Từ-điễn của tôi
truyền sang cho vợ tôi luôn luôn là thứ thuốc trấn-tỉnh hay hơn hết.
Trong 6 tuần nó không c̣n dùng được món chi cả, nhưng nó không biết
đau đớn chi cả. Phút chót nó c̣n nhận biết mấy người khách tới thăm.
Nó nói trước chắc-chắn ngày giờ nó tắc hơi, thật đúng như vậy; trong
lúc nó bỏ xác nó tỉnh-táo như thường.
Mười lăm phút trước khi từ-trần nó nói với tôi, nó về thăm quê nhà
của nó. Tức th́ nó nằm hôn-mê.
Năm phút và vài giây sau nó tỉnh dậy và nói với tôi rằng: “Nó gặp em
nó bây giờ ở nước Bỉ tại Hainaut, cách đây một ngàn bốn trăm rưỡi dậm Anh.
Bức thơ của
em vợ tôi gởi cho tôi thuật rằng : “Nó thấy rơ ràng chị nó hiện ra ngày đó
giờ đó, quả đương lúc ở nhà tôi hôn-mê”.
Không phải có
hai chuyện nầy mà thôi đâu, c̣n cả trăm cà ngàn chuyện khác nữa.
Ba nhà
thông-thái nước Anh là Gurney, Myers và Podmore có chân trong hội khảo-cứu
về tâm-linh hiện-tượng tại Luân-Đốn có viết một cuốn, nhan-đề Phantasms of
the Living (Le fantôme des vivants) : (Hồn ma của người sống) kể trót một
ngàn năm trăm chuyện xuất vía như vậy mà ba ông đă điều-tra kỹ-lưỡng rồi.
Mà xét lại
nước nào lại không có những chuyện như thế, tại người ta chẳng ra công
điều-tra đó thôi.
Đọc hai
chuyện trên đây, chắc các bạn đă thấy cái vía vâng theo ư-chí của con người
sai khiến. Dầu không học phép
tự-ên xuất vía, trong lúc gần ngặt ḿnh cái vía dễ xuất ra lắm.
Vậy th́ chớ cho mấy việc nầy là lạ-lùng, kỳ-quái.
CHƯƠNG THỨ TƯ
CHIÊM-BAO
Muốn nói tới
chiêm-bao th́ phải cắt-nghĩa tại làm sao mà ngủ.
Mỗi lần
tư-tưởng, cảm-xúc hay là hành-động, xác-thịt con người đều mất sức, mà cái
vía hay là cái trí cũng mỏi mệt vậy, bởi v́ hạ trí với cái vía phải hiệp-sức
nhau mới làm cho các tế-bào của xác thịt cử-động. V́ vậy cho nên phải ngủ.
Cái xác cần
phải nằm yên-tịnh, cái vía và cái trí phải ra khỏi xác-thịt cho lâu đặng
bồi-bổ sức-lực đă mất.
Khi cái vía
ra khỏi xác rồi th́ xác-thịt mới ngủ.
Lúc đó cái phách ở với xác-thịt ở trên giường, các chất thanh-khí ở
ngoài lại bao xác-thịt làm một cái vía giả, song nó không có t́nh liên-lạc
với xác-thịt. Chừng cái vía
thiệt trở về nhập xác th́ nó tan ra thanh-khí như cũ.
Nói tóm lại
khi ngủ là lúc cái vía với mấy thể kia, hạ trí, thượng trí, vân vân, theo
con người qua cơi Trung-Giới.
Cái vía lấy h́nh xác-thịt, mắt mũi, tay chơn in như con người hồi thức.
Những điều ta thấy trong lúc ngủ thành ra chiêm bao, nhưng có khi
thức cũng chiêm bao nữa.
NGUYÊN-NHÂN SANH RA CHIÊM-BAO
Có bốn
nguyên-tố giúp vào sự sanh-sản các điều chiêm-bao ấy là :
A)
Cái óc xác-thịt
B)
Cái óc tinh-khí
C)
Cái vía
D)
Chơn-Nhơn ở trong thượng-trí
Tuy có
bốn nguyên-tố song chỉ có ba thứ chiêm-bao mà thôi: Chiêm bao xác-thịt,
chiêm bao cái phách, chiêm bao cái vía.
A)
CHIÊM-BAO XÁC THỊT
Nên nhớ rằng
lúc ta c̣n thức, ta làm chủ cái xác, cái vía và cái trí.
Một khi ta ngủ rồi, cái xác và cái vía được tự-do nên chúng nó dễ bị
ngoại-giới cảm tới.
Cái óc thường
lập lại những sự rung động của nó lúc ban ngày, nó có một cách “tâm-thức” mơ
màng, và các tế-bào của xác-thịt cũng có một cái “tâm-thức” riêng nữa.
Có cả chục
nguyên-nhân có ảnh-hưởng tới sự chiêm bao xác-thịt như: ăn không tiêu, thở
khó khăn, nằm nghiêng bên trái, ngủ dụng mền gối hay là một vật chi, lo lắng
trong trí một việc chưa thành, lạnh lùng, đói khát, một tiếng động, một ánh
sáng, vân vân…cũng sanh ra chiêm bao.
Về sự đụng
chạm (xúc-giác) và sự nghe (thính-giác), cái óc lại có tánh đặc-biệt là làm
cho một nguyên nhân nhỏ mọn thành ra chuyện lớn lao phi-thường.
Tỹ như mấy
chuyện nầy đây: 1. Một người
kia ngủ, cổ áo sơ-mi chật quá, chiêm bao thấy va bị thắt cổ.
2. Một người
khác bị cây kim gút đâm chiêm bao thấy ḿnh đáng gươm bị một vết thương nặng.
3. Một vị nữa
tên Maury thuật lại rằng một đêm kia ông nằm ngủ bị một cây nuông mùng rót
xuống trúng nhẹ cần cổ ông. Bao
nhiêu đó đủ làm cho ông chiêm bao dữ-dội, ông thấy ông đóng một vai tuồng
trong cuộc cách-mạng Pháp rồi bị lên đoạn đầu đài.
4. Cḥm sao
ô-thước (Constellation du Corbeax) (1) [(1)
Xin xem quyển “Cái chưa biết và vấn-đề tâm-linh” của ông Camille Flammarion,
từ trang 394].
Lúc ban ngày
ông Camille Flammarion xem tấm đồ thiên-tượng Flamsteed, ngài chú ư tới cḥm
sao “ô- thước” “Constellatioin du Corbeau”, ông lại nhớ tới bác-sĩ Babinét,
ông nầy gương mặt không được đẹp; ngó thấy ông th́ tưởng tới Tổ-tiên của
nhơn-loại là loài khỉ.
Tối lại ông
nằm chiêm bao, thấy ông ở trên núi cao, một bầy quạ bay ngang và kiêu
quạ-quạ. Chúng nó cởi lớp ?
xuống trước mặt ông, như mấy con sâu lột da và mấy con bướm thay lớp
nhộng.
Nhưng ông lấy
làm lạ, mấy lớp nầy không giống con quạ mà lại giống đầu con giả-nhơn.
Nhà thiên văn Babinét ở một bên ông lại lượm mấy lớp đó nhét vô đầy
túi.
5. Một hôm
ông Camille Flammarion đi lại đền Compiéque (Château de Compiègne) chơi.
Quan Thái-Phó Filon gặp ngài bèn thuật chuyện ông Home cho ngài nghe:
Ngài dùng bữa và nghỉ tại trường Trung-Đẳng. Ông Paradis, hiệu-trưởng trường
Trung-Đẳng thuật điềm chiêm bao của ông thấy cho ngài nghe như vầy: “Một hôm
tôi ngủ mê lắm, tôi nằm chiêm bao thấy một con nhền-nhện lớn và h́-hợm leo
lên ḿnh tôi và ḅ tới ngực. Tôi sợ quá giựt ḿnh thức dậy.
Người đờn-bà tôi thấy vậy hỏi duyên cớ, tôi bèn thuật lại.
Người đờn-bà tôi bèn tḥ tay trên mển bắt được một con nhền-nhện.
Ông Camille
Flammarion nói: Tôi nằm chiêm bao thấy tôi chảy máu mũi mà thuở giờ tôi
không có chứng bịnh đó. Sớm mai
nầy tôi thức dậy thấy lổ mũi tôi có một chút máu.
6. Điềm
chiêm-bao của nhà văn-sĩ Steffens.
Steffens, nhà
văn-sĩ thường luận về các thứ chiêm-bao có thuật rằng: hồi Ngài c̣n nhỏ,
Ngài ngủ chung với anh Ngài, bỗng Ngài nằm chiêm-bao thấy Ngài đi trong một
con đường vắng-vẻ bị một con thú rừng dữ-tợn rượt.
Ngài sợ quá chạy trốn không la được tiếng nào, cho đến khi Ngài gặp
một cái thang, Ngài leo lên.
Song bị hoảng-hốt nên yếu sức và con thú đó chạy mau quá, nó theo kịp.
Nó cắn Ngài một vít rất sâu ở bắp-chuối. Ngài giựt ḿnh thức dậy th́
chính là trong lúc đó anh Ngài ngắt bắp chuối Ngài ngay chỗ Ngài bị con thú
đó cắn.
7. Ông
Richers cũng có thuật chuyện một người kia đương ngũ bỗng nghe tiếng súng nổ
liền nằm chiêm-bao thấy va đi lính, rồi bỏ trại trốn đi, bị đói khát rất cực
khổ.
Kế va bị bắt
đem về ṭa-binh xử bắn. Tiếng
súng nổ làm cho va giựt ḿnh tỉnh giấc.
B)
CHIÊM BAO CÁI PHÁCH
Trên mặt
địa-cầu có những luồng từ-khí (courants magnétiques) đúng giờ Tư Ngọ đi từ
Bắc chí Nam, từ Đông sang Tây.
Nếu
có thể th́ ḿnh nên ngủ nằm nghiêng hơi phía tay mặt, đầu day về hướng Bắc
hay hướng Đông hạp với mấy luồng từ-khí đó th́ hữu-ích cho thân thể và
tinh-thần. Thuở xưa khi Phật
bỏ-xác Ngài cũng nằm day đầu về hướng Bắc.
Những chỗ
ḿnh ngủ cũng có thứ khí thanh hay trược tùy theo chỗ đó sạch hay dơ.
Mền, mùng, gối chiếu đều dính từ-khí của người ngủ.
Có khi ḿnh nằm trên chiếu gối, từ-khí mấy vật đó không hạp với ḿnh
th́ sanh ra chiêm-bao mộng mị, hoặc thấy rắn cắn, cọp rượt, hoặc là thao
thức măi, ngủ không yên giấc được.
Có khi đương
lúc ngủ th́ có những luồng từ-khí hay là lằn sống tư-tưởng khác bay lại, đi
ngang qua cái óc cái Phách rồi cũng sanh ra chiêm-bao.
Mấy điềm
chiêm-bao đó tức là chiêm-bao cái Phách.
VẤN ĐỀ THỜI-GIAN TRONG CHIÊM-BAO
Trước khi nói
đến chiêm-bao cái vía, tôi xin bàn về vấn-đề thời-gian trong chiêm-bao.
Dường như linh-hồn có cách đo thời gian không giống như người thế.
Có khi chiêm-bao trong một phút đồng hồ, thấy những việc xảy ngoài
đời sáu bảy chục năm mà chưa hết.
Như ba chuyện
nầy :
A)
Trong cuốn Cô-răn (Koran), kinh-thánh của đạo Hồi-Hồi, có thuật
chuyện đấng Tiên-tri Ma-hô-mê (Mahomet) nằm chiêm-bao thấy ḿnh lên viếng
mấy từng trời, có người ta cắt nghĩa cho Ngài nghe đủ các chi tiết; Ngài có
diễn-thuyết rất lâu với các hạng Thiên-thần. Chừng Ngài về nhập xác, th́
Ngài mới bỏ cái giường của Ngài ngủ trong vài giây đồng hồ, nó c̣n nóng hổi.
B)
Addison thuật lại rằng; “Ngày kia có một Hoàng-Đế xứ Ai-cập không tin
chuyện nói trên đây. Ngài thưa
với Sư-Phụ Ngài rằng: Ngài coi chuyện đó như là một chuyện đời xưa.
Sư-phụ Ngài
phép tắc cao cường, muốn tỏ cho vua biết rằng chuyện đó có thể xảy ra được,
bèn dạy đem một chậu nước và xin vua nhúng đầu vào đó rồi ngước lên liền.
Vua vâng lời. Vừa nhúng đầu vào
chậu nước, th́ vua lấy làm ngạc nhiên mà thấy ḿnh đứng ở chỗ kia lạ lùng,
trên băi vắng vẻ, dưới một chơn núi cao.
Sau khi hết giựt ḿnh rồi, đức vua thấy rằng Thầy ḿnh phản bội, nên
dùng tà thuật hại ḿnh, bèn nguyền rủa người thậm tệ.
Nhưng ngày giờ qua, vua thấy ḿnh đói, nên nghĩ rằng trước hết phải
kiếm phương thế đặng nuôi ḿnh trong xứ lạ quê người.
Ngài đi bơ vơ trong giây lát, th́ gặp những người đốn cây trong rừng,
họ kêu Ngài lại tiếp sức với họ, rồi họ cho Ngài theo làm công và dắt Ngài
về thành của họ ở. Ngài ngụ tại
đó trong vài năm, nhờ tiện tặng một số tiền lớn, nên cưới được một người vợ
giàu có. Vua ở với người vợ đó
đặng mười bốn đứa con, trong bao nhiêu năm, gia đ́nh dẫy đầy hạnh phúc.
Bỗng
chút người vợ thác đi, rồi Vua bị những cuộc tai biến xảy tới, cửa nhà, sự
nghiệp tan tành.
Vua mới trở
nên nghèo khổ, và lúc già lại thành người hái củi như trước.
Một ngày kia,
Vua đi gần mé biển, mới cởi quần áo xuống tắm.
Ngài lặn xuống biển rồi trồi lên, lấy tay chùi nước nhểu trên mặt th́
Ngài lấy làm lạ thấy ḿnh đứng trước Quần Thần cũ của ḿnh, gần bên là ông
thầy của Ngài, c̣n trước mặt là chậu nước.
Giấc mộng đă tan, có ai tưởng rằng trong khoảng thời gian ngắn ngủi
như thế, nhúng đầu vào chậu nước rồi ngước lên mà Vua thấy những chuyện xảy
ra cả một đời người.
Nhưng hai
chuyện trên đây xảy ra đă lâu đời rồi, ta không đủ bằng cớ quả quyết rằng
chúng nó có thật. C̣n chuyện
sau nầy mới xảy ra cho một vị Bác-sĩ (tiếc rằng không biết tên) Ngài rất ưa
khảo xét những vấn đề mà ta đương bàn luận đây.
Một ngày kia,
Ngài có hai cái răng phải nhổ, người ta cho Ngài hít thuốc mê.
Ngài định lưu ư tới những sự cảm-xúc của Ngài trong lúc người ta làm
việc. Song lúc hít thuốc mê rồi
Ngài mơ màng quên phứt ư định của Ngài rồi Ngài ngũ mê mang.
Ngài thấy
sang bữa sau, Ngài thức dậy lo những công việc khoa-hoa hằng ngày,
diễn-thuyết trước những hội thông-thái, v.v.
Ngài thấy vui vẻ lạ-lùng và tăng cường sức lực, mỗi bài diễn-văn là
một tác-phẩm phi-thường, mỗi sự thí-nghiệm đem tới cho Ngài những sự
phát-minh mới-mẻ và vinh-diệu.
Cứ như vậy măi, ngày nầy qua ngày kia, tuần nầy qua tuần nọ, lâu lắm, cho
tới một bữa trong lúc Ngài diễn-thuyết trước Vương Hội (Société Royale),
Ngài bị một thính-giả vô lễ chận ngang mà nói rằng : “Thôi bây giờ đă hết
rồi”. Ngài day lại coi cái đó nghĩa chi, th́ nghe một tiếng khác nói: “Đây
nầy hai cái răng đă nhổ hết”.
Ngài xem lại thấy Ngài c̣n ngồi trên ghế của nha-y, mà Ngài sống một khoảng
đời nhiệt-liệt chỉ trong khoảng thời gian bốn chục giây đồng-hồ (40
secondes).
Vẫn biết ba
chuyện nầy không phải là chiêm-bao thường, song những việc xăy ra trong các
chiêm-bao đều giống in như vậy.
Tỹ như điềm chiêm-bao của ông C. Flammarion sau đây:
Sớm mai nầy (Ngày
6 Juin 1897) (1) [(1) Xin xem
quyển “Cái chưa biết và những vấn-đề tâm-linh” quyển nh́, của nông C.
Flammarion trương 400. “L’incorinu
el les problems psychiques par Camille Flammarion, tome II page 400].
, tôi nằm chiêm-bao thấy một
người nện gót chơn trên thang lầu bằng cây rất mạnh.
Tôi giựt ḿnh thức dậy.
Tiếng đó là tiếng pháo của người ta đốt cách xa thiên-văn-đài lối 200 thuớc
hồi 6 giờ sáng mai đặng cho hay lễ Đức-Chúa Thánh-Thần hiện xuống (Peutecole).
Người ta c̣n đốt hai tiếng nữa.
Như thế cái tiếng động làm cho tôi thức dậy, là nguyên-nhân sanh ra điềm
chiêm-bao tôi thấy trước khi tôi thức dậy, nghĩa là điềm chiêm-bao sanh ra
trong một thời-gian ngắn-ngủi có lẽ một phần mười giây đồng-hồ (1 dixième de
seconde).
Trong lúc tôi
thấy người ta nện gót trên thang lầu th́ ḍm lại tôi trần truồng, tôi phải
chạy kiếm quần áo mặc vô đặng ra pḥng khách.
Tại đó có ba mươi người ngồi tṛ chuyện.
Tôi lo lắng một hồi lâu lắm, tôi kiếm phương thế ra khỏi pḥng ngủ,
kế tôi giựt ḿnh thức dậy. Lúc
tôi mở mắt ra, tôi biết tôi lạnh bởi v́ tôi bỏ cái mền ra ngoài.
Chắc là sự
lạnh làm cho tôi chiêm-bao thấy ḿnh trần truồng, cũng như tiếng pháo nổ làm
cho tôi thấy một người nện gót trên thang vậy.
CHIÊM BAO CÁI VÍA (Rêve astral)
Thường thường
ḿnh khó nhớ kỹ những chiêm-bao cái vía mà trái lại ḿnh nhớ rơ chiêm-bao
cái phách và chiêm-bao xác-thịt v́ hai thứ chiêm-bao nầy dễ ghi vào cái óc
xác-thịt.
Chiêm-bao cái
vía chia ra nhiều hạng như là: chiêm-bao thấy cảnh-vật khi ḿnh dạo chơi,
chiêm-bao thấy những người nầy người kia hay là bà con thân-quyến đă quá văn,
vân vân…
CHIÊM-BAO BÁO TIN TRUỚC VÀ CHIÊM BAO BÓNG
DÁNG
Có khi
linh-hồn thấy những chuyện ǵ lạ có quan-hệ tới phàm-nhơn nên rán làm cho
cái óc của xác-thịt, sáng ra ghi nhớ, hầu coi có sửa đổi mạng số được chút
nào chăng. Ấy là những điềm
chiêm-bao báo tin trước.
Nhưng mỗi
linh-hồn đều hành-động khác nhau tùy theo bực tấn-hoá.
Có linh hồn, th́ sự ghi nhớ của xác-thịt tỏ rơ từ đầu tới cuối.
C̣n có linh hồn th́ sự ghi nhớ bằng những tượng-trưng, người ta gọi
là những chiêm-bao sau nầy là chiêm-bao bóng dáng.
Xin xem mấy điềm chiêm-bao dưới đây:
CHIÊM-BAO BÁO TIN TRƯỚC
1.
Chuyện một người thợ rèn bị cưa chân
Một người thợ
rèn làm việc trong một cái máy xay chạy bằng bánh xe nước.
Va biết cái bánh xe hư cần phải sửa lại.
Một hôm, va nằm chiêm-bao thấy ông chủ hảng cầm va lại sau khi hết
giờ làm việc đẵng sửa cái bánh xe đó.
Va rủi té, chơn va mắc kẹt giữa hai bánh xe bị thương nặng phải cưa
đi.
Sáng va thức
dậy va thuật chuyện nầy cho vợ va nghe và hứa chắc nếu chiều người ta biểu
va sửa cái
bánh xe th́ va sẽ bỏ ra về liền.
Qua ngày hôm
sau, ông chủ cho hay chiều lại, sau khi thầy thợ ra về th́ sửa bánh xe.
Anh thợ rèn hay vậy, nhứt định về
trước khi măn giờ làm việc. Va
mới lén trốn vào một lùm cây gần đó.
Chẳng dè đi tới chỗ chứa cây của nhà máy, va gặp đứa nhỏ đang ăn trộm
cây. Thấy mặt va, nó liền bỏ
chạy. Va quyết rượt theo, bắt
nó trả cây lại. Va ham rượt cho
đến đổi quên phức sự quyết định của va, va chưa kịp nhớ tới ư nghĩ của va
hồ́ sớm th́ va đă tới cái máy xây đương lúc thợ thầy ra về.
Va tránh không được, người ta đă thấy va.
Bởi va là thợ rèn chánh, nên va phải ở lại sửa cái bánh xe.
Va hứa trong ḷng sẻ chủ ư hơn ngày thường.
Nào dè va trợt té kẹt chơn giữa hai bánh xe và bị thương nặng.
Người ta chở
va vào nhà thương Bradford và cưa chơn va phía trên đầu gối.
Điềm
chiêm-bao đă ứng nghiệm.
(Rút trong
“Real ghost stories, trương 77, của M.W. I. Stead.
Ông Leadbeater có đem vô trong quyển “Les rêves” của ông.)
2.
Đi săn ngoài biển bị chết ch́m
Bữa 25
Novembre năm 1860, tôi đi săn bắn ngoài biển với nhiều người bạn trên một
chiếc ghe. Lúc bốn giờ chiều
chúng tôi trở về, c̣n hai chục thước ghe cặp vào bờ th́ bỗng chút một người
bạn nói với tôi: Đêm trước va nằm chiêm-bao thấy va bữa nay chết đuối.
Tôi bèn an-ủi va rằng: “Nội trong 10 phút nữa ḿnh sẽ lên bờ rồi.”
Không dè
th́nh-ĺnh chiếc ghe vụt ch́m, hai người bạn tôi, người mới nói chuyện điềm
chiêm-bao với tôi và một người nữa, bị chết trôi.
Chúng tôi rán hết sức cứu song vô hiệu quả.
Anh của người
thuật điềm chiêm-bao hiện giờ làm trạng-sư tại Havre là nơi đă xảy ra tai-nạn.
Các báo ở
Havre xuất-bản ngày 26 Novembre 1860 đều có đăng chuyện đó.
E.B.78 Rue de
Phalsbourg au Havre (Lettre n. 194) “Cái không biết và vấn-đề tâm-linh”
quyển nh́, trương 535.
3. Hồn ma đáp ơn
Có
một lần kia, nhà thi-sĩ Simonide người Hi-lạp đi chơi ngoài mé biển bổng gặp
một thây ma. Tuy không biết là ai song thi-sĩ cũng chôn cất tử-tế.
Ngày kia thi-sĩ sửa soạn vượt biển, bỗng chút nằm chiêm-bao thấy
người mà thi-sĩ đă chôn đó lại cản trở không cho thi-sĩ đi.
Thi-sĩ nghe lời. Chiếc
tàu mà thi thi-sĩ định đi đó dọc đường bị ch́m, cả thảy hành-khách đều bị
chết đuối.
Mấy thứ
chiêm-bao nầy không phải là riêng ǵ bên Âu-châu, bên ḿnh, bên Trung-nguyên,
bên Thiên-trước hay là trong các nước khác đều có xảy ra những hiên-tượng
như thế.
CHIÊM-BAO BÓNG DÁNG (Rêves symboliques
Điềm chiêm-bao của ông
Đốc-tơ Sermyn
Ông
Đốc-tơ de Sermyn nằm chiêm-bao thấy ngài bồng đứa con trai nhỏ ngài đứng
trước ḷ sưởi đương cháy. Bỗng
chút thằng nhỏ chúi xuống và té vô ḷ, ổng đă không kéo nó ra mà lại c̣n
đóng cửa ḷ tức tốc. Ổng nghe
tiếng thằng nhỏ dảy-dụa rên-la v́ bị lửa thiêu.
Ổng dựt ḿnh thức dậy th́ thấy đứa con ổng ngủ yên-ổn như thường.
Sáng ra nó thức dậy cũng vui chơi như mọi bữa.
Nhưng tới trưa nó khởi sự đau.
Mạch nhảy mau lắm, ông coi th́ nó bị sưng hai lá phổi.
Bốn ngày sau đứa nhỏ bỏ ḿnh.
Điềm chiêm-bao của Sir Noêl
Platon
Sir Noêl
Platon gởi cho bà Mrs Crowe bức thơ nầy có đăng trong cuốn The Night Side of
Nature, chương 54. Mẹ tôi có
nằm một điềm chiêm-bao như vầy: Bà thấy ở trong một cái nhà cầu dài, tối và
không bàn ghế chi cả. Một phía
th́ cha tôi, một phía th́ chị cả tôi, tôi và tất cả gia quyến đứng ngay một
hàng theo tuổi tác. Chúng tôi
đứng lẳng lặng và im ĺm. Bỗng chút có một vật, không thể tưởng tượng được,
vô pḥng, bóng nó hiện ra th́ gieo sự kinh khủng cho mọi người.
Nó lén đi từ ba nấc thang xuống.
Mẹ tôi cảm biết ấy là Tử-Thần (1) [(1)
Tượng-trưng của Tử-Thần là Bộ cốt vác cái phăng] đi qua.
Tử-Thần vác trên vai một cái búa lớn.
Mẹ tôi nghĩ rằng nó tới giết mấy đứa tôi một lần một.
Khi nó vô rồi, em gái tôi, Alexes,
liền bước ra, ư muốn xen chính giửa mẹ tôi và Tử-Thần.
Tử-Thần giơ búa lên cao xáng xuống Catherine, em gái tôi, mẹ tôi
hoảng sợ, ngăn cản không được, dẫu rằng lúc đó bả đă xách một cái ghế đẩu.
Bả biết rằng không thể nào liệng Tử-Thần mà không trúng chết Alexes,
v́ nó ra đứng giữa bả và Tử-Thần.
Cái búa giáng
xuống rồi th́ Catherine té nhào.
Tử-Thần lại giơ búa chém xuống đầu em trai tôi, v́ nó lại đứng trước
hàng. Nhưng Alexes lại lỏn ra
sau lưng Tử-Thần. Mẹ tôi hét
lên một tiếng, xách ghế liệng vào đầu Tử-Thần.
Tử-Thần biến mất, mẹ tôi giựt ḿnh thức dậy.
Ba tháng sau,
mấy anh em đều mắc bệnh Tinh-hồng-nhiệt (fièvre scarlatine), nổi mụt đỏ cùng
ḿnh và trong cuống họng. Chẳng
bao lâu, em gái tôi, Catherine bỏ ḿnh.
Khi nó khởi sự đau th́ mẹ tôi vẫn biết tuyệt vô hy-vọng.
Bả cũng hết sức kinh-sợ cho Alexes v́ bịnh t́nh nó dường như thêm
trầm-trọng. Một phần điềm chiêm-
bao đă ứng nghiệm. Tôi cũng vậy,
tôi thập phần tử nhứt phần sanh, các thầy thuốc đều chạy, nhưng mẹ tôi chắc
ư cứu tôi mạnh được. C̣n em
trai tôi, quan thầy coi nó như không có đều chi nguy-hiểm, mà mẹ tôi hết sức
lo sợ, v́ thấy Tử-Thần giơ búa lên ngay đầu nó, nhưng bà không nhớ Tử-Thần
có hạ búa xuống hay không lúc y biến mất.
Em trai tôi
mạnh rồi, song chẳng bao lâu trở bịnh lại, cứu nó sống được cũng hết sức khó
khăn.
C̣n Alexes
không được hạnh-phúc ấy, nó đau gầy ṃn trong hai mươi hai tháng rồi nó nắm
tay tôi mà từ giă cơi trần.
Điềm
chiêm-bao của mẹ tôi đă ứng-nghiệm vậy.
Chiêm-bao thấy cá
Trong cuốn “
Night Side of Nature”, chương 54, của bà Mrs. Crowe cũng có thuật chuyện một
bà kia mỗi lần chiêm-bao thấy một cá lớn, là mỗi lần bà có việc buồn xảy
đến. Một bữa kia, bà nằm
chiêm-bao thấy một con cá lớn đó cắn hai ngón tay của đứa con trai nhỏ của
bà. Chẳng bao lâu, đứa nhỏ nầy
bị một đứa anh em bạn học lấy búa nhỏ chém vào hai ngón tay in như điềm
chiêm-bao đă thấy.
SÁCH BÀN
CHIÊM-BAO
Người ta có
làm tự-điển để cắt-nghĩa những điềm chiêm-bao (Dictionnaire des Songes).
Hạng nhứt là chiêm-bao bóng-dáng (rêves symboliques).
Tỷ như nằm chiêm-bao thấy răng rụng th́ thường có nghĩa là một người
trong gia-quyến từ-trần. Nằm
chiêm-bao thấy nước là: mất tiền bạc, hoặc cho vay, hoặc cho mượn người ta
không trả, hoặc sẽ bị tai nạn, hoặc được của cải, vân vân.
Song có khi
nằm chiêm-bao thấy răng rụng hay là thấy nước mà không có ǵ xảy ra hết, là
tại cách ít lâu ḿnh bị nhổ răng hay là đi chơi gần mé sông, ḿnh chủ-ư đến
cảnh-vật ở đó.
Bởi vậy cũng
có những điềm chiêm-bao linh mà cũng có những chiêm-bao mộng-mị, ḿnh phải
tự ḿnh kinh-nghiệm mới chắc ư.
Mà cũng đồng
thời ba người: người da trắng, người da vàng và người da đen chiêm-bao thấy
nước, nhưng đối với người da-trắng điềm ấy có ư-nghĩa khác hơn người da-vàng
hay là người da-đen.
Thế th́ không
nên quá tin chiêm-bao mà cũng không nên quá suy nghĩ, phải đề-pḥng trước mà
thôi.
Nhưng nên
biết điều nầy: có khi bỏ dứt tật rượu đă lâu, mà lúc ngủ, chiêm-bao thấy
ḿnh uống rượu, hoặc người ăn chay trường chiêm-bao thấy ḿnh ăn mặn, lúc
thức giấc mấy vị buồn bực lắm.
Nhưng điều đó đáng mừng chớ không phải đáng rầu, bởi v́ đó là triệu-chứng
ḿnh đă thắng được các tánh xấu.
Ban ngày ḿnh làm chủ cái vía, cái xác, nên chúng nó vâng lịnh ḿnh
không thèm muốn cái chi, ban đêm ḿnh ngủ, nó được thả lỏng, nên nhớ lại
điều chúng nó ưa, chớ không có chi lạ.
Khi nào
chiêm-bao như thế, lúc thức dậy ḿnh hăy vui-vẻ và nói trong ḷng: “ Bao giờ
phàm-nhơn cũng ở dưới quyền ta sai khiến, và luôn luôn ta vẫn có tiết-độ”.
Rồi từ đó đừng có nhớ tới điềm chiêm-bao nữa.
PHẢI BIẾT
LỢI-DỤNG GIẤC NGỦ
Nếu con người
biết lợi-dụng giấc ngủ th́ sẽ làm được nhiều việc hay.
Làm việc
trong giấc-ngủ, ấy là điều mà người ta không ngờ được.
Trước hết ta nên nhớ rằng: “ Ta là Chơn-Thần hay là linh-hồn, thật ra
ta không có ngủ mà xác-thịt ta ngủ, và luôn luôn cái vía vâng lời ta sai
khiến. Hễ biết th́ làm được.
Vậy th́ trước khi đi ngủ, ta hăy quyết chí rằng, một khi ra khỏi xác,
ta đem thần-lực sang sớt cho một người nào mà ta biết đương bịnh hoạn, hoặc
tới an-ủi một người nào mà ta biết đương buồn rầu……Tự nhiên có cái kết quả
mặc dầu sáng ra xác-thịt ta không nhớ chi cả.
Nhớ hay không nhớ, điều nầy không cần-thiết cho lắm, điều cần-thiết
là ta phải làm những việc mà đừng mong hưởng phước-đức.
Trước khi ngủ,
ta cũng nên tưởng tới những việc thanh cao, tư-tưởng ta rút những tinh-chất
tốt đẹp th́ những điềm chiêm-bao của ta sẽ nhẹ-nhàn, vui-vẻ.
Trong giấc
ngủ ta cũng có thể giải-quyết được trong một vài vấn-đề đương lo lắng ban
ngày.
Nơi trường
trung-đẳng ta đă từng kinh-nghiệm về điều nầy rồi, nhứt là những bài
toán-đố. Tối chúng ta suy nghĩ
không ra mà sáng lại giải-quyết được dễ dàng.
Người thường
th́ như thế, c̣n người đệ-tử c̣n làm được nhiều việc lớn lao mà người thế
không hiểu nổi.
CHƯƠNG THỨ NĂM
TẠI SAO
THẦN-THÁNH BIẾT Ư M̀NH MUỐN CÁI CHI?
Người ta nói
thần-thánh biết ư ḿnh muốn cái chi.
Chuyện ấy có thiệt.
Tại mấy vị ấy
có thần-nhăn và bởi ư muốn và tư-tưởng của con người đều có h́nh-dạng nên
mấy Ngài đọc trong ḷng ḿnh như đọc cuốn sách giở ra.
NHIỀU HẠNG CÓ
THẦN-NHĂN
Những người
có thần-nhăn chia ra nhiều hạng:
1)
Những người ḍm trong cục thủy-tinh (boule de cristal), hay là ḍm
trong mặt kiếng.
2)
Những đồng-tử nhờ ông thầy cho đi thiếp hay là tự-kỷ ám-thị đi thiếp.
3)
Những người đồng-tử nhờ mấy vị khuất mặt làm cho thấy h́nh tư-tưởng
của họ.
4)
Những vị uống thuốc.
5)
Những vị mở được chỗ Luân-xa ở chính giữa hai chơn mày.
Bốn hạng trên
chỉ nhờ sức ở ngoài phụ vào, c̣n hạng sau nầy th́ dùng tài ḿnh.
Những vị mở
được Luân-xa của cái vía ở chính giữa chơn mày đều có luyện đạo song phải
luyện tập cho thường và kinh-nghiệm cho nhiều mới khỏi lầm lạc, bởi v́ dân
sự trên Trung-Giới thay h́nh đổi dạng trong nháy mắt, và những số th́ thấy
ngược, tỹ như 932 thấy 239.
HAI THỨ
THẦN-NHĂN
Thần-nhăn
cũng chia ra hai thứ: thần-nhăn trong không-gian và thần-nhăn trong thời
gian. Có thần-nhăn trong
không-gian ở một chỗ mà thấy được những việc xảy ra cách xa muôn dậm.
C̣n người có thần-nhăn trong thời-gian thấy được việc quá-khứ, vị
lai. Nhưng mà phải luyện-tập
cho dày công lên một hai bực cao nữa là có Thiên-nhăn và Huệ-nhăn th́ mới
không lầm lạc.
CHUYỆN NHỮNG
NGƯỜI CÓ THẦN NHĂN
1. Nhờ cục
thủy-tinh tṛn. (Boule de cristal)
Cô Miss
Angus, người nước Anh chuyên-môn về nghề ḍm trong cục thủy-tinh.
Bữa kia có một người bạn gái của cô tới xin cô xem một việc mà cô nầy
rất lo lắng. Cô Angus ḍm vô
thấy một người nằm trên giường đă chết rồi, có một bà bận đồ đen ngồi một
bên, song cô không nói chi cả.
Cô biểu người bạn cô ḍm coi. Cô nầy xem rồi nói: “Ô! tôi thấy cái giường
nữa! ổng đă chết rồi. Cô lại tả
h́nh-trạng nhiều người xúm lại chung quanh cái thây.
Ông nầy là cha vợ người anh em chú bác cô.
2. Nhờ ông thầy
cho đi-thiếp
Ấy là
trường-hợp hai cô đồng: Léontine, Edmée và nhiều vị khác.
3. Nhờ người
khuất mặt sanh ra những h́nh tư-tưởng
Mấy vị
đồng-tử ngồi cơ thường thấy những h́nh tư-tưởng thứ nầy.
4. Những vị
uống thuốc
Hiện giờ tại
Mể-Tây-Cơ (Mexique) có hai thứ cây nầy tên là Peyote (Peyolte) và Yajé.
Mấy người da đỏ lấy một kilo cây Yagué (Yagé, Yage) đem nấu với vài
lít nước trong lúc ban đêm. Khi
nước cạn xuống c̣n lối một phần tư lít th́ họ nhắc ra.
Họ lựa một người rồi cho người nầy
uống nước thuốc đó với 30 cà-ram rượu mía. Va nằm ngủ mê mang.
Họ mới xóc va đứng dậy, họ mới vịn va và dắc va đi tới chỗ nào mà họ
tưởng có chôn vàng bạc châu báu. Va mở thần-nhăn coi thấu vách tường và dưới
đất cái, đặng kiếm của quí đó.
Nếu va nói có th́ họ vác cuốc, đào chỗ va chỉ, thường thường th́ cái kết-quả
vẫn đẹp.
Họ cũng hay
dùng cách nầy đặng xem việc vị-lai và t́m những đồ họ mất.
(Xin xem
quyển Les plantes divinatoires, par Dr Rouhier, Editions Ayar, 4 Square Rapp
7è.
Chuyện ông
Đại-tá Colonel Custodis Moralés uống cây Yajé
Ông Đốc-tơ
Rafael Zerda Bayon là người học rất kỹ-lưỡng cây Yajé. Ngài có viết một bài
đăng vào tờ phụ-trương Nam mỷ-Châu của báo Times năm 1912 (supplément
sud-américian du Times 1912) như vầy :
“Ông Đại-tá
Colonel Rafael Zerda Bayon cai quản toán binh thuộc về quân-nhu-cục Caquéta
(Intendance de Caquéta) tới viếng tôi trong cái cḥi tôi ở trên bờ sông
Gacha: Ngài năn nỉ xin tôi cho ngài uống thử thuốc Yajé coi cái hiệu-quả thể
nào. Ban đầu tôi dần-dừ, sau
rốt tôi cho ngài uống 15 giọt nhỏ thuốc Yajé của tôi làm ra, trong một ly
nước. Sáng ra ngài thức dậy nói
với tôi rằng tối đêm đó ngài nằm chiêm-bao thấy ông thân ngài ỡ tại Ibagué
mới từ trần và em gái ngài mà ngài rất thương yêu đương đau. Không ai tới
cho ngài hay tin ấy. Nhà giây thép ở gần chỗ đó hơn hết phải đi mười lăm
ngày mới tới.
Một tháng sau
khi thấy điềm chiêm-bao đó th́ có thơ gởi tới cho Đại-tá hay rằg ông thân
ngài đă quá văng và em gái ngài đau nặng mới mạnh.
Tôi xin nói thêm rằng Đại-tá rất nóng-nảy và rất thông-minh.
Trước khi uống cây Yajé ngài có tiết-thực nữa.
5. NHỮNG VỊ MỞ
ĐƯỢC CHỔ BÍ YẾU Ở CHÍNH GIỮA HAI CHƠN MÀY
Chuyện một
người có thần-nhăn
Vị chủ-bút
báo Psyché có viết bài nầy đăng vào báo tháng Avril-Mai 1927 nói về ông Max
Moecka de Wurbung, bên Đức-quốc.
Cuối tháng
giêng năm 1926, tôi qua du-lịch thành Géra.
Tôi đương đi chơi ngoài đường bỗng thấy một tờ cáo bạch như vầy:
“Buổi chiều nầy sẽ có một cuộc diễn thuyết về cách thí-nghiệm sự có
thần-nhăn. Người diễn-thuyết
khi xưa học tại trường cao-đẳng và những cuộc diễn-thuyết của người, dầu tại
Đức-quốc hay ở ngoại quốc cũng được thiên-hạ hoan-nghinh.
Cuộc
diễn-thuyết ở trong một cái pḥng bán rượu bọt.
Tôi đi đến đó thấy thiên-hạ đương ngồi uống rượu.
Tôi ngở đâu sẽ gặp một thằng cha thầy bói bá vơ chớ không dè người
nầy diện-mạo trang hoàng, đi đứng oai-nghi, tuổi lối ba mươi.
Khi
mở lời người đă chê hoàn-cảnh và nói rằng trong ḿnh c̣n mệt mỏi v́ mới
diễn-thuyết tại hí-viện bên Zurich.
Cuộc
diễn-thuyết nầy hay lắm song tôi rất tiếc không chép đủ ra đây được, v́ tôi
viết tắt chẳng kiệp. M. Max Moecke biết cách làm cho công-chúng nghe ḿnh mê
mẩn. Nội trong một lát người
dẩn sự tích khoa pháp-môn từ đời thượng cồ cho tới bây giờ.
Hồi mới khởi
sự diễn-thuyết, tôi và nhiều người khác chắc mấy ông thông-thái có mặt tại
đó có dùng tư-tưởng hỏi M.Max Moecke v́ cách M.Max Moecke nói dường như trả
lời với mấy thông-thái đó vậy.
Khi
diễn-thuyết rồi M.Max Moecke ḍm sơ qua các người đến nghe rồi nói như vầy:
“Xin quí ông, quí bà khi tôi hỏi th́ trả lời liền “Có” hay “Không có” hoặc
là “Không có nhớ”, đặng sau khỏi trách tôi sao không có hỏi quí ông, quí
bà”.
Nói rồi người
ḍm một người đàn bà kia mà nói rằng: “Cô mới gây lộn với một người lối xóm
v́ bởi….(Người có duyên-cớ đó).
Người đờn-bà nầy đỏ mặt chối dài.
M.Max Moecke day lại chỉ một người đàn bà khác nói “Cô nầy làm chứng
v́ có thấy rơ rằng”. Người
đờn-bà sau nầy chịu quả có thật như vậy.
Một người đàn bà khác dùng tư-tưởng hỏi M.Max Maecke như vầy: “Ông có
biết tôi mất món đồ chi và v́ cớ nào chăng?”
“M.Max Maecke
mới tả h́nh trạng vật mất và nói vật ấy mất một cách lạ thường và cô đó nghi
quấy cho một người rất ngay thật”.
Người mất đồ nghe qua thất kinh.
Trong lúc đó M.Max Maecke cười chúm chím song gương mặt như thường
chớ không có vẻ tự đắc.
Công-chúng lấy làm lạ lắm.
M.Max Moeck nói: “Quí ông, quí bà thấy chưa, sự có thần-nhăn là vậy đó,
nhưng trong lúc tôi nói tôi cứ việc quan sát. Ḱa, ông ngồi dưới đó, ông cho
tôi mượn cây viết ch́ vàng của ông đặng tôi nói công việc của ông cho ông
nghe”. Ông nầy sửng sốt mới lấy
cây viết ch́ vàng đưa cho ông M.Max Maecke; M. Max Maecke nói rằng: “Ông chớ
lo, tôi biết ông muốn đưa cho tôi hai cái thơ có gắn keo mà có một cái nói
về sự bán nhà. Thật quả như
vậy, M.Max Maecke đi qua đi lại rồi nói: “Hai cái ở trong túi bên kia, và
tôi nói với ông rằng ông ưa những sự phát-minh lắm.
Đây tôi nói rành-rẽ những người lại hỏi thăm ông, và tôi tả
h́nh-trạng cái xưởng của ông cho ông nghe.” Mấy lời M.Max Maecke nói đều
trúng cả. Khi cầm hai cái thơ
rồi th́ M.Max Maecke biết trong đó nói cái chi, chữ viết thế nào, ở đâu gởi
lại và thấu rơ người gởi đă thác rồi nữa.
Thật không sai chút nào.
M.Max Moecke
trả lời và nói trong thân ḿnh ông đó đau ở đâu, đă mấy năm rồi, và tả
h́nh-trạng mấy ông thầy thuốc đă săn-sóc ông đó nữa.
Trong pḥng vổ tay khen ngợi.
M.Max Moecke nới cắt-nghĩa nhiều thứ thần-nhăn và thiên-tư của mấy
người đồng-tử. Người nói chưa
dứt chuyện th́ kêu một bà kia nói rằng : “Thưa bà, trong bốp bà có 2 cây kim
gút mà có một cây sét. Bà đưa
cây kim tốt cho tôi, tôi không lấy cây sét đâu.
Bà đừng đá-động tới hộp không của bà.
Tôi không dùng nó.” Cái
bóp bà để trên đầu gối ông kia cách bà vài ba thước.
Bà nầy chưa kịp đưa cây kim th́
M.Max Moecke day lại nói người c̣n trẻ như vầy: “Ngài nghe tôi kêu ngài tức
lắm. Thôi, để tôi nói tâm-sự
ngài cho ngài nghe”. Người c̣n
trẻ nầy nghe vừa rồi th́ hăi-hùng thú- thiệt hết mọi điều.
M.Max Moecke
kêu một ông khác nói rằng : “Ông nói thầm trong bụng rằng : “Ông X…không ra
ǵ, ông ráng mà sửa tánh nết lại.
V́ mỗi tư-tưởng là một cái mănh-lực.
Hết thảy tư-tưởng con người đều có có ghi trên không”.
Ông nầy
thất-kinh. M.Max Moecke kêu bà đưa kim và biểu tưởng đến một việc có quan-hệ
với bà hồi mấy năm trước, và cho biết ngày tháng xảy ra việc đó.
Trong lúc bà nầy suy nghĩ, M.Max Moecke giải thêm sự có Thần-nhăn.
Bà đưa cây
kim nói ngày 4 juin 1901. M.Max Moecke định thần một chút rồi thuật rành-rẽ
chuyện một người mắc nạn ngày đó.
M.Max Moecke làm bộ đau-đớn như người bịnh và lập lại mấy lời rên
siếc. Người c̣n tả h́nh trạng
hết thảy những người có lănh một vai tuồng trong đám ấy nữa.
Thiên-hạ vổ tay như pháo nổ, nhưng người không chịu sự ngợi khen ấy
và nói rằng: “Tôi ước-ao cho những cách thí-nghiệm không sai siển của tôi
năy giờ, giúp cho tôi giữ được tṛn cái lư-thuyết của tôi.
Mà trong pḥng nầy tôi thấy có một người c̣n trẻ không tin những lời
tôi nói”. Người trẻ nầy có hơi
sượng-sùng đứng dậy nói rằng : “Thật quả như vậy.” M.Max Moecke cười nói:
“Trước mặt ngài có một miếng giấy tṛn để dưới đít ly, tôi sẽ đổi miếng giấy
làm một cái dĩa hát cho ngài coi.
Vậy th́ ngài sè bàn tay để trên một miếng giấy một lát rồi thảy miếng
giấy đó cho tôi. Đây nầy một
miếng giấy thuật tánh-t́nh và những công việc của ngài như vầy…”. M.Max
Moecke nói một hồi cho người nầy nhiều bài dạy rất đích-đáng.
Người nầy tháo mồ-hôi hột phải khai mọi việc và năn-nỉ xin trả miếng
giấy lại. M.Max Moecke cười
rằng: “Nội pḥng nầy không ai biết đọc miếng giấy đó mà ngài pḥng sợ”.
M.Max Moecke
lại nói thêm rằng: “Tôi biết bắt mạch người ở xa hay gần đều được cả.
Ḱa một ông lương- y ngồi dưới đó.
Tôi xin ông bắt mạch ông, tôi day lưng lại rồi tôi đếm ăn rập cho mà
coi. Rồi chưa?
---Rồi
---Một, hai,
ba…Ông coi trúng như vậy không?
---Trúng.
---Thôi bây
giờ ông bắt mạch bà ngồi bên ông đó.
Ông lương-y liền nghe theo.
Xong rồi M.Max Moecke hỏi : “Ông coi có phải bà đó đau trái tim
không?
---Phải đó.
---Vậy để tôi
chỉ cho bà cách trị mau lành.
Nói xong rồi M.Max Moecke kêu một người thanh-niên kia mà rằng:
“Xin ngài đưa cho tôi một vật chi của ngài đặng tôi làm thí-nghiệm
ngài thử coi” Người thanh-niên đứng dậy đưa
cho M.Max Moecke một sợi dây chuyền đồng hồ.
M.Max Moecke cầm trong tay giây phút rồi cười chúm chím hỏi gằn người
thanh niên như vầy: “Ngài muốn tôi thí-nghiệm ngài phải chăng? - Phải-Nếu
phải, sao ngài đưa giây chuyền đồng hồ của ông ngồi gần bên ngài.
Hai ngài có ư gạt tôi coi tôi có biết không.”
Người
thanh-niên chịu thiệt, thiên hạ càng thêm lấy làm lạ.
M.Max Moecke nói: “Thôi ngài hăy lấy sợi giây chiền đồng hồ lại”.
Tôi sẽ nói tâm tính hai ngài đặng phạt tội gạt tôi.
M.Max Moecke nói không sai một đều và kể tên những sách của hai ngài
đó đọc, những bài thi của hai người mới tập làm và biết sức học của hai
người thể nào nữa. Xong rồi
M.Max Moecke từ giả ra đi và căn dặn các người đến nghe như vầy :
“Lúc về nhà
xin quí ông, quí bà chớ quên rằng mỗi tư tưởng là một cái mănh-lực cũng sống
như ḿnh và không phải thuật đi thuật lại những đều đă thấy là đủ, mà phải
biết rửa ḷng trong sạch mới là tốt”.
Chuyện Ông Cố
Đạo (Curé) d’Ars.
I---Một ngày
kia có một người con trẻ tới xưng tội với ông Cố-Đạo D’Ars (Curé d’Ars).
Ngài bèn nói với người đó rằng: “Tôi khuyên con hăy thú thật hết đi
v́ con xưng tội lần nầy là lần chót”.
Quả thật tên nầy lúc ra về đi ngang qua đồng bị một người đi săn bắn
nhằm chết tốt.
II---Một
người đàn-bà ở xa lắm lại xin ông cầu nguyện với trời cho con cô chưa đầy
hai tuổi đau bịnh kiết mau mạnh.
Ông liền đáp:
“Đức Thượng-Đế làm những phép huyền diệu đặng, song than ôi! cô đến trể quá
rồi. Hăy trở về cho mau, đứa
con của cô bịnh nặng lắm.
Cô đó bước ra
về th́ ngài day lại nói với mấy người có mặt tại đó: “Đứa con cô đó đă thác
rồi, tội nghiệp cho cổ quá”. Bữa sau, ngài được thơ của cô đó cho hay; khi
về tới nhà th́ con cổ đă tắc hơi lâu rồi.
CÓ NÊN DÙNG
THẦN-NHĂN XEM LÉN VIỆC RIÊNG CỦA THIÊN-HẠ KHÔNG?
Có ai dùng
thần-nhăn để xem lén việc riêng của thiên-hạ không?
Đối với người
thường tôi không biết có hay không, chớ đối với các vị đệ-tử th́ đều đó dám
chắc là không có rồi. Ai cũng
là vị Chơn-nhơn, ai cũng là Đức Thượng-Đế ở trong xác-thịt.
Xuống cơi trần học hỏi th́ ai cũng lầm-lạc không nhiều th́ ít; chừng
thành Tiên, Thánh rồi chừng đó mới trọn lành.
Người ta có lỗi, ḿnh cũng có lỗi, cớ sao lỗi ḿnh, ḿnh dấu c̣n lỗi
người ḿnh lại phanh-phui ra.
Đều đó người học Đạo và hành đạo vẫn tránh xa.
Mở thần-nhăn
đặng học hỏi những việc huyền bí cao siêu của Tạo-công hầu sau biết nhiều
phương thế giúp đời trong lúc hữu sự.
Chớ nào phải có thần-nhăn để dùng xem thói hư thật xấu của con người
đâu.
Nhưng
thần-nhăn cũng như con mắt của xác-thịt muốn xem th́ xem, không xem th́ nhắm
lại. Nếu không để ư th́ ngó mà
cũng không thấy, dầu thấy cũng day mặt chỗ khác.
Nếu cho những
vị muốn có thần-nhăn được toại ư th́ có lẻ trong một giờ hay là một ngày th́
họ sẽ hỡi ôi! muốn bỏ thần-nhăn lập tức.
V́ họ sẽ đau ḷng mà thấy trải ra trước mắt những điều không muốn
thấy và cũng không nên nói.
Người đời ích kỷ và giả dối lắm vậy. V́ ham mê vật dục mà quên hết bổn-tánh
thiêng-liêng. Thương thay!
CHƯƠNG THỨ SÁU
TÁNH NẾT CÁI
VÍA
Cái vía
ưa những sự rung-động dữ-dội, v́ vậy cho nên nó dục con người nóng nảy, giận
hờn, oán ghét, ganh gổ, tham lam, tham mê sắc-dục, vân vân.
Không phải nó muốn phá hại mỉnh, song tại những sự rung động của mấy
tánh đó làm cho nó thích chí.
Nó quỉ-quyệt lắm, nó rán làm cho cái trí
nghĩ tới mấy tánh đó đặng làm cho ḿnh lầm tưởng rằng ḿnh muốn chớ không
ngờ nó muốn. Nó là tôi-tớ ḿnh,
đáng lẽ nó phải phục-tùng ḿnh, song trái lại nó làm cho ḿnh nghe theo nó.
Đă nhiều khiếp rồi ḿnh dung dưỡng nó, nên kiếp nầy nó ương ngạnh lắm.
Thất-t́nh lục-dục tức là nó chớ không phải ai vô đó.
Tinh-chất thứ
ba làm ra cái vía, sau thành loài kim-thạch, nó đi xuống, c̣n con người đi
lên (Phản-bổn hườn-nguyên).
Quyền-lợi của nó nghịch hẳn với quyền lợi của con người.
Nó không biết ḿnh là ai và ḿnh muốn cái chi nữa.
Ḿnh với nó chống-chỏi với nhau măi nên ông thánh Paul (Saint Paul)
gọi là: Sự chiến đấu giữa tứ-chi và tinh-thần (La guerre des members contre
L’Esprit).
Không nên
tưởng lầm rằng: ḿnh không cho nó ham muốn sự quấy-quá th́ ḿnh cản trở sự
tấn-hoá của nó. Không phải vậy.
Ḿnh trừ-khử t́nh-dục quấy-quá th́ ḿnh thải bỏ những tính-chất xấu
xa, ḿnh giúp cho những tính-chất tốt đẹp tấn-hóa.
Bởi v́ loài tinh-chất cũng chia ra nhiều thứ : thứ tốt, thứ xấu, thứ
vừa vừa, cũng như cát mà có thứ mịn, có thứ to, có thứ trắng, có thứ vàng
vậy.
Cũng bởi
duyên-cớ nầy có người giữ đạo Phật nói: phải “Sát sanh” chớ đừng “Phóng sanh”.
Nhưng phải hiểu nghiă sâu xa của nó thời mới không lầm-lạc được.
CÁI CHI CÓ
ẢNH-HƯỞNG TỚI CÁI VÍA
Ấy là : 1.
Thức ăn uống.
2. T́nh-cảm.
3.
Tư-tưởng.
1.Thức ăn uống
Mỗi thức ăn uống đều có chất thanh-khí bao phủ (chung
quanh món đồ ăn đó), ḿnh gọi (chất thanh khí đó) là cái vía.
Món nào trược th́ cái vía nó trược, món nào thanh th́ cái vía nó
thanh. Bởi vậy ḿnh ăn những đồ ăn nặng nề th́ chất thanh-khí của nó vô
người ḿnh làm cho cái vía ḿnh hóa ra trược, c̣n những món ăn tinh-khiết
th́ giúp cho cái vía trở nên nhẹ-nhàng.
Món uống cũng vậy.
Những bùa,
phép, cà-tha do người làm để những tư-tưởng thanh-cao hay ô-trược đều có lợi
hoặc là hại cho cái vía của người đeo.
Khói nhang thơm bằng trầm, tốc, bạch-đàng giúp cho con người mến
đạo-đức. Nhưng phải đề-pḥng có
nhiều mùi dầu thơm làm cho con người mến sắc-dục.
2.T́nh-cảm
Những t́nh-cảm có ảnh-hưởng đến cái vía chẳng nhỏ,
t́nh cảm chúng nó là đồ ăn của
cái vía cũng như lúa gạo để nuôi xác-thịt; hễ dùng nó thường th́ cái vía mau
lớn. Nó cũng có thói quen là ưa
lặp đi lặp lại những ư muốn nào hạp với nó.
Mỗi người dầu tu hay không tu cũng nên nhớ kỹ đều nầy: Mỗi khi muốn đều
lành, tính chuyện lành, th́ chất-khí xấu trong cái vía bay ra ngoài,
chất-khí tốt ở ngoài bay vô thế.
Trái lại mỗi lần con người muốn thỏa
dục-t́nh, hay tính chuyện dữ th́ chất-khí tốt trong vía bay ra, chất-khí xấu
ở ngoài bay vô thế.
V́ vậy cái
vía của những người hiền-lương th́ đẹp đẽ và nhẹ nhàng v́ nó chứa đầy đủ
những chất-khí tốt, c̣n cái vía của ngưởi hung-bạo th́ xấu-xa và nặng-nề v́
nó chứa đầy những chất-khí ô trược.
Hai cái vía ở
gần nhau, cái vía nào rung-động mạnh hơn th́ nó bắt cái vía kia rung-động
điều-ḥa với nó. Bởi thế xưa
nay, các Chơn-sư dầu ở Thiên-Trước hay bên Trung-Nguyên cũng vậy, đều để mấy
đứa học tṛ ngày đêm ở bên ḿnh.
Mấy thể cao của học-tṛ: Thượng-trí, Hạ trí, Vía, đều rung động theo
thầy, nhờ vậy không có một tư-tưởng xấu nào sanh ra trong ḷng học tṛ, mà
những tư tưởng xấu ở ngoài cũng không vô trong trí học-tṛ được nữa.
Học tṛ ở gần Thầy tấn-hóa mau lắm.
V́ duyên-cớ nầy mà tục thường nói: “Nhờ Đức Thầy”, song mấy vị
chơn-sư đă thoát đọa luân-hồi, độ ḿnh mới được.
Người thế gian dầu cho xuất-gia mà c̣n mắc trong ṿng thất-t́nh
lục-dục th́ chớ nên xưng làm thầy thiên-hạ v́ đó là trái với đạo-lư.
Ḿnh độ ḿnh chưa xong, ḿnh độ ai bây giờ.
Đức Pythagore có nói: “Ngươi hăy biết ngươi, rồi ngươi sẽ biết vơ-trụ
và các vị Thượng-Đế”, phải lắm.
3.---Tư-tưởng
Những tư-tưởng con người sanh ra nơi cái trí.
(Những tư tưởng này) muốn nhiễm tới cái óc
xác-thịt, chúng nó phải đi qua cái vía và cái phách.
Cái vía chịu ảnh-hưởng cái trí nhiều hơn ảnh-hưởng của xác-thịt.
V́ vậy phải kềm-chế nó, không vậy th́
tư-tưởng ở ngoài đụng tới nó th́ nó rung-động điều-ḥa theo (tư tưởng đó).
Thành thử ḿnh lấy tư-tưởng ở ngoài đó làm tư-tưởng ḿnh.
Muốn hiểu
rành xin xem qua cuốn “CÁI TRÍ”
VẠN VẬT
THÁI-B̀NH
Năm 1949
GIẤY PHÉP SỐ 614/PH
NGÀY 9 AVRIL 1949
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES