Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  QUEST  MAGAZINES 

CON NGƯỜI LÀ AI?

XUỐNG CƠI TRẦN LÀM CHI?

Quyển thứ nh́

CÁI-PHÁCH

(DOUBLE ÉTHÉRIQUE)

 BẠCH-LIÊN-1949
Đánh máy:  Điểm Dung

CÁI-PHÁCH

 Cái Phách bản đánh máy    Cái Phách bản scan

Lời Tựa

Để tưởng nhớ đến vị huynh trưởng Bạch Liên Phạm Ngọc Đa, người đầu tiên có công mang ánh sáng TTH vào Việt Nam. Với tinh thần tưởng niệm người xưa cũng như nhớ lại thời kỳ phôi thai của TTH Việt Nam, chúng tôi chụp lại nguyên bản một số tác phẩm thời kỳ đầu của Huynh trưởng.
Tiếng Việt tuy phát triển từ tiền thế kỷ 20, nhưng phải mất nửa bán thế kỷ, tiếng Việt mới có tiêu chuẩn ổn định. Tác phẩm Xác, Phách, Vía, Trí được viết vào năm 1949 v́ lẽ đó văn phong của nó không dễ đọc như ngày nay nhất là nó lại được viết tại Châu Đốc, nên mang một sắc thái âm hưởng của tiếng Nam thuần túy. Bởi thế, kính xin quư vị thưởng thức tác phẩm trong tinh thần hoài niệm và trong bối cảnh tiếng Việt của miền Nam thời tiền bán thế kỷ 20.

 

Tuy thế, nội dung tác phẩm lại chứa đầy tư tưởng mới lạ, chẳng những mới lạ ở những năm 1949 mà ngay cả bây giờ cũng c̣n mới lạ.


Ở bản chụp, chúng tôi vẫn giữ nguyên gốc không sửa chữa, nhưng để tiện cho việc đọc, chúng tôi cũng có thêm bản đánh máy kèm theo và hầu để người đọc cảm thấy dễ chịu hơn, chúng tôi xin mạn phép sửa lại một số nhỏ lỗi chính tả (không sửa chữa văn phong và từ ngữ).

 

Mục Lục
      

                   CHƯƠNG NHỨT 

H́nh-dạng cái Phách.  Màu sắc

Phận-sự của cái Phách

Những trung-tâm-lực của cái Phách

Phận-sự của những Luân-xa

Ba thần-lực của ngôi mặt trời

Fo-ha

Sự thí-nghiệm về những cách rung-động

Sanh-lực

Sanh-khí-cầu

Sanh-lực có 7 thứ và 7 màu

Sanh-lực vô ḿnh cách nào

Phận-sự của các thứ sanh-lực

Mấy hột sanh-khí-cầu nuôi ḿnh rồi đi đâu ?

Sự tiêu-hóa sanh-lực hay là sự hữu-ích của giấc ngủ

Sự ích-lợi của hào-quang cái Phách

Những điều có ảnh-hưởng tới cái Phách

Chuyện cái Phách của một người bị cưa tay

Phép thôi-miên với cái Phách

Sự liên-lạc của cái Phách với xác-thịt

Cách chụp h́nh sự cảm-động, tư-tưởng và từ-điễn của con người

 

CHƯƠNG THỨ NH̀

Loài kim-thạch cũng sống như ḿnh

Cung-đa-li-ni hay là hỏa-xà

Khí nguyên-dương là cái chi ?

Tại làm sao không nên khươi luồng hỏa sớm

Muốn mở luồng hỏa phải đủ những điều-kiện nào

Sự ích-lợi của nó

Máy để thí-nghiệm từ-điễn trong ḿnh con người

Những sự thí-nghiệm của ông Fayol

Động-cơ của ông Tromelin

 

CHƯƠNG THỨ BA

Dùng từ-điễn để trị bịnh

Sự ích-lợi của từ-điễn

Cách chữa một cơ-thể trong ḿnh

Dùng từ-điễn trong việc mổ xẻ

V́ sao thôi-miên không tốt

Dùng từ-điễn chữa bao lâu mới hết bịnh

Một phép lạ-lùng trị bịnh nào cũng mạnh

Chuyện ông cố-đạo (Curé) d’Ars

Từ-điễn làm cho cây mau lớn

Phép từ-điễn khác với phép thôi-miên

Nhăn-quan

 

CHƯƠNG THỨ NHỨT

   

H̀NH DẠNG CÁI-PHÁCH

 

Như tôi đă nói trong quyển XÁC-THÂN, cái Phách là bộ máy để phát sanh-lực.  Không có nó, con người sẽ chết, cái xác sẽ ră ra các nguyên tử.

    Bởi nó giống xác-thịt và làm bằng chất tinh-khí (dĩ-thái: éther), nên người ta gọi nó là double éthérique.  Nó bao trùm hết các tạng-phủ của xác-thịt từ trong tới ngoài, nghĩa là mặt, mủi, tay, chơn, tim, phổi, ruột, gan con người đều có cái Phách.  Nó ló ra khỏi ngoài da lối 6 ly, song nó chiếu những lằn sanh lực ra khỏi ḿnh lối 1 tấc ngoài.  Những lằn sanh-lực nầy làm ra hào-quang cái Phách (aura éthérique) hay là hào-quang của sự khương-kiện (aura de santé).

 

MÀU SẮC

    Cái phách màu xám tím (violet gris) hay là màu xám xanh (bleu gris) lợt, hơi chói sáng.  Nó tùy theo xác thịt mà biến đổi thể-chất.  Nếu xác-thịt tinh-tấn, nhẹ-nhàng th́ nó cũng tinh-tấn nhẹ-nhàng, c̣n xác thị ô trược, nặng-nề th́ nó cũng hóa ra ô trược nặng-nề vậy.

 

PHẬN-SỰ CỦA CÁI PHÁCH

    Cái phách có hai phận sự:

    Một là: Đem sanh-lực phân phát khắp thân-thể .

    Hai là:  Làm một cái cầu ở chính giữa cái xác và cái vía; nó truyền qua cái vía những sự tiếp-xúc của giác-quan xác-thịt và đem xuống cái óc xác-thịt và bộ thần-kinh mạng-lịnh của tâm-hồn và sự hiểu biết của mấy cảnh trên.

 

NHỮNG TRUNG-TÂM-LỰC CỦA CÁI PHÁCH

    Trong cái Phách có những trung-tâm-lực, tiếng Phạn gọi là Luân-xa (Chakra) nghĩa là bánh xe hay là cái dĩa quay tṛn. Những Luân-xa ở trên mặt cái Phách, ngoài xác-thịt lối 6 ly.  Khi chúng nó chưa mở th́ chúng nó hơi sáng sáng, chừng mở ra rồi, chúng nó chói sáng như những mặt trời nhỏ, bề kinh-tâm (bề kính) từ 5 phân tới một tấc rưỡi.

 

PHẬN SỰ CỦA LUÂN-XA

    Luân-xa có hai phận-sự đặc-biệt: Một là rút sanh-lực rồi phân-phát nó, trước hết khắp cái phách, rồi từ đó qua xác-thịt đặng dưỡng sự sinh-tồn của các cơ-thể.  Hai là: khi mở ra rồi đem cho tâm phàm biết cái tánh của Luân-xa cái Vía chiếu đối với nó.

SỐ LUÂN-XA

    Có 10 Luân-xa ở gần mấy chổ sau nầy của xác-thịt

    1* Luân-xa thứ nhứt ở tại xương mông, giống như bông sen có 4 cánh.

    2* Luân-xa thứ nh́ ở tại trái thăng (rate), giống như bông sen có 6 cánh.

    3* Luân-xa thứ ba ở tại rún, giống như bông sen có 10 cánh.

    4* Luân-xa thứ tư ở tại trái tim, giống như bông sen có 12 cánh.

    5* Luân-xa thứ năm ở tại yết-hầu, giống như bông sen có 16 cánh.

    6* Luân-xa thứ sáu ở chính giữa hai chơn mày, giống như bông sen có 96 cánh.

    7* Luân-xa thứ bảy ở đỉnh đầu, giống như bông sen có 972 cánh.

    8* 9* 10* Luân-xa thứ tám, thứ chín và thứ mười ở tại bộ phận sanh-dục, bên chánh-đạo không dùng tới.

    Xin xem tấm bản dưới đây dễ nhớ hơn.

 

    Muốn mở các Luân-xa phải dùng luồngg hỏa-xà xin xem tới sẽ rơ

BA THẦN-LỰC CỦA NGÔI MẶT TRỜI

    Mặt trời rải xuống 7 cỏi, từ cơi Thái-Cực hay là Tối-Đại Niết-Bàn cho tới cơi Trần, nhiều thần-lực, trong số đó có 3 thần-lực mà người học đạo hiểu rành là:

    1* Fo-ha hay là điễn-khí (Fohat ou électricité).

    2* Pra-na hay là sanh-lực (Prâna ou vitalité).

    3* Luồngg hỏa xa (koundalini ou feu-serpent).

FO-HA

    Fo-hat hay là điễn-khí có thể đổi ra từ-điễn (Magnétisme), ánh sáng, nhiệt-lực, tiếng-tăm và vận-động, vân vân...

    Bỡi Fo-ha là một cách rung-động, nó rung-động chậm th́ thành ra tiếng-tăm, rung-động mau nữa th́ ra điễn-khí, vân vân…

    Người ta có thí-nghiệm về những rung-động như sau đây.

SỰ THÍ-NGHIỆM VỀ NHỮNG CÁCH RUNG-ĐỘNG

    Thí dụ có một vật kia, như 1 cái bánh xe, 1 con vụ hay là 1 cái ống quay tṛn, ban đầu quây chậm, ḿnh thấy nó dễ dàng và ḿnh không nghe tiếng chi hết.  Nó khởi sự quây mau, trước ít, sau nhiều, th́ ḿnh nghe có tiếng, ban đầu nhỏ sau to.  Quây mau quá th́ nghe có tiếng chát chúa rồi bổng chút dứt ngang, im ĺm không c̣n nghe tiếng chi cả, v́ những sự rung-động mau cho đến đỗi lổ tai con người không c̣n ghi được nữa.

    Trong lúc đó người ta nghe hơi nóng, rồi trong giây lát, người ta thấy vật quây đó đỏ sậm.  Nếu nó quây mau hơn nữa, th́ màu đỏ sậm trở nên màu đỏ ḷm, chói sáng ngời. Cứ quây mau thêm măi, màu đỏ sẽ hóa ra màu lá cam, màu lá cam trở nên màu vàng.  Rồi th́ hiện ra màu lục, màu chàm, và sau rốt màu tím.

    Màu tím biến mất, những lằn sáng mà con mắt người ta không thấy được, chiếu ra .  Mấy lằn nầy dùng trong khoa nhíp-ảnh (Photographic).  Rồi th́ những quang-tuyến sanh ra, vân vân…

    Nếu quây mau hơn nữa th́ vật đó sẽ ră ra các nguyên-tử, các nguyên-tử sẽ hóa ra những hột điễn dương và những hột điễn âm rồi sau rốt trở lại những bọt Hổn-ngươn nhứt-khí (bulles de Koilon) như củ.

    Xin xem tấm bản rung-động sau đây:

    Xem những số trong mấy hàng nầy th́ biết trong mỗi giây đồng-hồ có mấy lần rung-động.

TABLEAU DES VIBRATIONS

Le pendulle à seconde

   

    Degré       1.       Chổ khởi điểm                                                          2.   Vibrations par seconde (2 lần rung-   

    (bực)                                                                                                                     động trong 1 giây đồng-hồ)

                     2.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .        4

                     3.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .   .       8

                     4.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .         16

                     5.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .         32

                     6.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .         64

                     7.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .       128

                     8.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .          256

                     9.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .       512

                   10.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .         1024

                   15.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .         32 768   (2)

                   20.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .        1 046 576

                   25.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .        3 554 432

                   30.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .        1 073 741 824

                   35.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .         34 359 738 368   (3)

                   40.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .        1 099 511 627 776

                   45.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .    .     35 184 372 088 832   (4)

                   50.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .      1 125 899 903 812 624   (5)

                   55.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .       33 028 797 018 933 938

                   56.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .       72 057 594 037 927 936

                   57.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .        144 115 188 075 865 872

                   58.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .        288 230 376 151 711 744   

                   59.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .        576 460 752 303 423 488   (6)

                   60.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .        1 152 921 504 606 846 976

                   61.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .   .  .       2 305 843 009 213 693 952

                   62.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .        4 611 686 018 427 387 994

                   63.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .        9 223 372 036 854 775 808

   

(1) Le son commence pour l’oreille humaine (lổ tai khởi sự nghe tiếng)

    (2) Le son finit pour l’oreille humaine et les ondes électriques commencent. (Lổ tai hết nghe nữađược.  Lằn sóng điện khởi sự).

    (3) Les ondes électriques finissent (Lằn sóng điện dứt).

    (4) Les ondes lumineures commencent pour l’oeil humaine. (Con mắt khởi sự thấy ánh sáng).

    (5) Les ondes lumineuses finissent pour l’oeil humaine (Con mắt hết thấy ánh sáng).

    (6) Les rayons X commencent (Quang tuyến X khởi sự sanh ra).

 

SỰ BIẾN ĐỔI CỦA ĐIỂN-KHÍ

    Nếu cho điễn-khí chạy qua sợi dây nhỏ xíu, bằng loại kim-khí th́ nó làm ra ánh sáng như bóng đèn điện của ḿnh thấy đó.

    Nếu nó chạy qua một dây lớn th́ nó làm ra hơi nóng.  Ai có dùng bàn ủi điễn (bàn ủi điện) hay là b́nh nấu nước bằng điễn-khí  (bằng điện) th́ thấy sự công dụng hơi nóng của điễn.  C̣n như cho luồngg điễn vô một miếng sắt cong h́nh bán nguyệt, như miếng sắt đóng móng ngựa, th́ miếng sắt nầy sẽ rút sắt (hút sắt) như đá nam-châm.

 

SANH-LỰC (PRANA)

    Sanh-lực do mặt trời răi xuống, Cơi Trần, cơi Trung-giái, cơi Thượng-giái, vân vân…đều có sanh-lực.  Ở cỏi trần, có sanh-lực vạn vật mới sống, không có nó vạn vật đều chết. Nhờ nó mới có sự cảm động và các tế-bào mới hiệp lại làm một khối duy nhứt, để giúp ích cho con người. Một khi nó ĺa xác-thịt rồi, các tế-bào đều ră ra.  Nó vô ḿnh con người vừa đủ th́ con người khỏe mạnh, nhiều một chút th́ thân thể tráng kiện, dư quá con người phải đau, phải chết, mà ít quá con người sẽ yếu đuối, thiếu nó con người phải bỏ ḿnh.

    Sanh-lực khác hơn sự nóng hay là ánh sáng mặt trời mà đường nó tùng quyền ánh sáng mặt trời.  Bữa nào, trời nắng gắt th́ sanh-lực tuôn xuống rất nhiều, c̣n lúc nào trời u ám, sanh-lực bị ngưng lại hoặc xuống ít lắm.  Loài kim-thạch nhờ sanh-lực mới sống và mới lớn.  Ta hăy xem những cục đá lớn trên núi, chúng nó có những đường gân do đó sanh-lực vô nuôi chúng nó.  Nếu chặt đứt mấy đường gân nầy, chúng nó sẽ chết, không c̣n lớn nữa.

    Loài thảo mộc rút sanh-lực rất nhiều nhưng dường như tiêu-hóa một phần rất ít.  Những cây đại thọ thường thải ra những nguyên-tử màu hường, những nguyên-tử nầy rất cần ích cho các tế-bào của xác-thịt con người.  Tỷ như cây ṭng, cây thông, cây dầu gió, (eucalyptus).  Những người đau yếu sanh ra tánh nóng-nảy, quạo-quọ lại ở gần mấy thứ cây nầy một ít lâu th́ khỏe mạnh và vui-vẻ như thường.  Ấy tại tế-bào và bộ thần-kinh của họ nhờ những đồ ăn nuôi dưỡng chúng nó, đồ ăn đó là những nguyên-tử chứa sanh-lực màu hường.

    Về phần con người, muốn hiểu rỏ sanh-lực vô ḿnh cách nào th́ trước hết phải biết trung-tâm-lực của cái Phách và sự sanh-hóa những sanh-khí-cầu.  Vấn-đề trung-tâm-lực của cái Phách tôi đă nói sơ lược rồi bây giờ xin giải về sanh-khí-cầu.

 

SANH-KHÍ-CẦU

(Globules de vitalité)

    Sớm mai hay là trưa, lúc nào nắng gắt, ta đứng day lưng phía mặt trời, ḍm lên trên không; ta sẽ thấy những đốm trắng xẹt lên, xẹt xuống, xẹt qua, xẹt lại, ấy là những sanh-khí-cầu.

 

SỰ SANH-HÓA NHỮNG SANH-KHÍ-CẦU

    Sanh-lực vô trung-tâm của những nguyên-tử của không-khí, tức th́ mỗi nguyên-tử nầy rút 6 nguyên-tử khác rồi truyền sanh-lực qua, 7 hột nguyên-tử nầy hiệp lại làm 1 hột sanh-khí-cầu (xin xem h́nh số I và số II).

 

SANH-LỰC CÓ 7 THỨ VÀ 7 MÀU

    Sanh-lực có 7 thứ và 7 màu khác nhau: Tím, xanh lục, vàng, lá cam, đỏ sậm và đỏ hường.

    Nguyên-tử đầu tiên màu đỏ hường, chính là nó rút 6 nguyên-tử khác đặng làm ra sanh-khí-cầu.

 

SANH-LỰC VÔ M̀NH CÁCH NÀO?

    Sanh-lực vô ḿnh ba cách:

    Một là: Theo hơi thở chạy khắp châu-thân (xác-thịt)

    Hai là: Theo trung-tâm-lực tại trái thăng.

    Ba là: Theo đồ ăn và thuốc men.

   

    I.—Theo hơi thở.--- Mục đích chánh của sự hô-hấp là thâu dưỡng-khí.  Dưỡng-khí vô phổi th́ đổi máu đen ra máu đỏ, c̣n đạm-khí đi chung với thân-khí th́ theo hơi thở ra ngoài.  Những yếu-tố chánh của dưỡng-khí là sanh-khí-cầu. Tới phổi rồi sanh-khí-cầu ĺa dưỡng-khí nhập với những chất khác đặng làm ra máu huyết chạy khắp châu-thân, nhờ đó nhiệt lực đầy đủ.

 

    II. ---Theo trung-tâm-lực tại trái thăng vô cái Phách.

    Trung-tâm-lực tại trái thăng có phận sự tối cần là rút những sanh-khí-cầu rồi chia chúng nó ra 7 hột nguyên-tử.

    Trừ ra hột nguyên-tử màu đỏ hường ở lại với Luân-xa lá-lách, c̣n 6 hột nguyên-tử kia theo 6 cánh của Luân-xa dẩn đi phân phát cho mấy Luân-xa kia hay là chổ nào của phần xác cần dùng.

 

    (Xin xem h́nh số III sau đây để hiểu hơn)

 

 

   Tuy có 7 thứ sanh-lực mà h́nh chỉ có 5 luồng là tại khi ra khỏi trái thăng, sanh-lực màu xanh, sanh-lực màu tím nhập lại làm một, sanh-lực màu đỏ cam và sanh lực màu đỏ xậm nhập lại làm một.

    Tấm bảng dưới đây chỉ rơ màu sắc của 5 luồng sanh-lực và chổ chúng nó đi tới.

 

 Luồng sanh-lực.

 

    III. Theo sanh-lực và đồ ăn.

    Loài thảo mộc tiêu hóa sanh-lực ít hơn thú vật cho nên trong thảo mộc luôn luôn có sanh-lực dư dùng.

    V́ thế đồ ăn gốc ở thảo mộc thường bổ dưỡng hơn thịt cá dẫu rằng mấy món sau nầy rất ngon miệng.

    Mấy cây thuốc chứa rất nhiều sanh-lực hơn các loài cây khác, cho nên từ ngàn xưa người ta đă biết dùng cây cỏ đặng trị bịnh. Bịnh nào có cây thuốc nấy.  Ngày nay, nếu có những bịnh mà ta trị không được là tại học lực của ta c̣n thấp thỏi, ta không chế được Linh-đơn như những vị đă đắc-đạo.

    Trong rừng bên Thiên-Trước và Hi-Mả-Lạp-Sơn có những cây gọi là cây Trường-thọ.  Ăn trái của nó th́ máu huyết hóa ra trong sạch.  Loài tượng, có con ăn thường những trái nầy cho nên sống trên năm, sáu trăm năm.  Thuốc Trường-sanh vẫn có, nhưng phải xứng đáng mới học được.

 

PHẬN SỰ CỦA CÁC THỨ SANH-LỰC

 

Nhưng tôi tưởng phải giải thêm phận-sự của các sanh-lực nữa, các bạn mới hiểu rành.
 (Xin xem thêm h́nh số IV).

 

1…Sanh-lực màu tím xanh

    Sanh-lực màu tím xanh chạy tới yết-hầu rồi chia ra: Màu xanh đổi làm 2 màu: Xanh dợt và xanh đậm.  Xanh dợt ở lại yết-hầu và làm thêm sức cho nó, c̣n xanh đậm và tím đi luồn lên óc.

    Sanh-lực màu xanh đậm nuôi dưỡng những phần ở giữa và ở dưới cái óc. C̣n màu tím nuôi những phần trên của cái óc, rải rác theo 960 cánh của Luân-xa tại Nê-hườn-cung.

2…Sanh-lực màu vàng.

     Sanh-lực màu vàng, chạy vô trái tim, thêm sức cho trái tim, làm cho nó mạnh và nhảy điều ḥa.  Nó c̣n theo máu chảy khắp châu-thân rồi lên óc dưỡng 12 cánh ở trong Luân-xa tại Nê-hườn-cung.  Nó giúp cái óc thâu thái được những triết-học cao siêu và siêu-h́nh.  Những người ngu-muội khờ-khạo quá th́ sanh-lực màu vàng và màu tím xanh bị ngăn gần hết, không lên đỉnh đầu được.

    Những tư-tưỡng và t́nh cảm cao siêu thuộc về đạo đức th́ dường như tùy theo sanh-lực màu tím.

3…Sanh-lực màu lục

    Sanh-lực màu lục chạy vô cái rún, dưỡng bộ tiêu-hoá, (bao-tử, ruột gan) và thận. Nói là cái rún chớ kỳ thật nó gôm tại Plexus solaire (nó gom lại ở Plexus solaire).  (Tôi không biết dịch ra sao, chẳng biết có phải Tàu dịch là đơn-điền không) 

4…Sanh-lực màu hường

    Sanh-lực màu hường chạy theo mấy đường gân đi khấp châu-thân.  Nếu nó vô vừa đủ th́ tốt, c̣n vô ít, bộ thần-kinh cảm-động lắm và đụng tới ḿnh một chút, hay nghe một tiếng nặng, một tiếng lớn, th́ nó làm cho con người khó chịu, nổi nóng, nổi giận liền.  Nhưng trong ḿnh người nào sanh-lực dư dùng th́ va có thể đem phần dư đó chia sớt cho kẻ khác yếu đuối hơn va được.

    Mà hăy coi chừng, có người xác-thịt giống như đỉa đói, hễ ai ngồi gần họ th́ họ rút sanh-lực qua nuôi ḿnh họ.

    Bỡ vậy nếu ḿnh ngồi gần ai chưa được bao lâu thấy trong ḿnh có vẻ mệt-nhọc khó chịu th́ lập tức dan ra đi.

    Ngồi gần mà làm sao họ rút sanh-lực của ḿnh được? Ấy là tại sanh-lực vô cái vía, qua cái phách rồi mới vô xác-thịt.

    Cái vía của ḿnh ló ra ngoài lối 3,4 tấc, 2 người ngồi gần nhau th́ 2 cái vía pha lẫn nhau rồi.

5…Sanh-lực màu đỏ vỏ cam

     Thứ sanh-lực màu đỏ vơ cam và đỏ bầm và cũng có màu tím sậm nữa, chạy lại chổ Luân-xa ở xương mông, vô nuôi bộ sanh-dục và thêm sức nóng cho máu huyết.  Người nào tuyệt dục th́ sanh-lực màu đỏ vỏ cam và màu đỏ bầm không nuôi bộ sanh dục nữa, nó chạy lên óc.  Màu vỏ cam đổi ra màu vàng ṛng thêm sức cho trí-năng, màu đỏ bầm đổi ra màu đỏ sậm giúp cho t́nh yêu thương trong sạch, không c̣n xen tánh ích kỷ vô nửa.  Màu t́m sậm trở nên màu tím dợt và nuôi phần thiêng-liêng con người.

 

MẤY HỘT SANH-KHÍ-CẦU NUÔI M̀NH RỒI ĐI ĐÂU?

    Sau khi cái Phách rút hết sanh-lực rồi th́ các hột sanh-khí-cầu trở lại nguyên-tử như khi trước.  Chúng nó sẽ ra khỏi ḿnh, theo hơi thở, mấy lổ chơn lông, trên đỉnh đầu và đường đại tiện, tiểu tiện.  Cũng có hột để dành làm cái Phách, v́ chất tinh-khí làm cái Phách thay đổi luôn luôn.

 

(Xin xem h́nh số V dễ hiểu hơn)

 

 

SỰ TIÊU-HÓA SANH-LỰC HAY LÀ:

SỰ HỮU ÍCH CỦA GIẤC NGỦ

    Sanh-lực là một thứ đồ ăn, cũng như cá, thịt, rau, trái.  Nó vô ḿnh rồi cần phải tiêu-hóa mới nuôi ḿnh được.  Trong lúc ḿnh thức bộ thần kinh làm việc măi; xác-thịt phải chờ khi con người ngủ rồi trong ḿnh yên lặng, nó mới lấy sanh-lực bồi bổ sức nó đă mất.

    Từ 6 giờ chiều tới 12 giờ khuya, sanh-lực của mặt trời để lại giảm lần.  V́ vậy nên ngủ hồi 9, 10 giờ đặng để xác-thịt làm việc tốt hơn là đi chơi tới một, hai giờ mới đi ngủ.  Ngủ mê chừng nào xác-thịt dễ làm tiêu-hóa sanh-lực chừng nấy.  Nằm thao thức một đêm sáng ra ḍm thấy gương mặt đă mất vẻ tươi tắn rồi, v́ nó thiếu thần-lực.  Thức vài đêm như vậy thấy ốm.  Vấn đề mập ốm cũng phiền phức lắm.

    Ở trong ḿnh máu huyết xương thịt cũng bao nhiêu đó chớ không mất đi đâu mà tại sao ốm?  Ấy chẳng qua là sanh-lực không tiêu-hóa được.  V́ vậy con người nên trọng giấc ngủ và lựa thức ăn.  Nhưng trong mọi việc, lấy bực trung, không nên thái quá và cũng không nên bất cập.

 

SỰ ÍCH-LỢI CỦA HÀO-QUANG CÁI PHÁCH

 

    Hào-quang cái Phách có ích-lợi lắm.  Nó pḥ-hộ con người không cho những vi trùng ở ngoài nhập vô ḿnh.  Khi con người khỏe mạnh, những lằn nầy ở trong ḿnh dọi thẳng ra (Xem h́nh VI).  C̣n lúc con người mệt nhọc hay phí sức quá lẽ, hoặc bị thương tích, bịnh hoạn th́ mấy lằn dọi xuống đất (xem h́nh số VII).  Chừng nào bịnh mạnh chúng nó dọi thẳng lại như cũ.  Ngày nào ḿnh lại không nuốt những vi-trùng lao, vi-trùng dịch, những vi-trùng ban-cua lưởi-trắng, song nhờ sức lực ḿnh mạnh mẽ, chúng nó không làm chi được.  Chừng ḿnh yếu chúng nó mới hại ḿnh dễ dàng.

    Quí Ngài muốn rơ nữa xin xem cuốn “Le Curé D’Ars” par Henri Chéon, Editeur Camille Flammarion và “Vie du Saint Curé D’Ars” Bureau des Annales de la Sainteté.

 

 

 

 

NHỮNG ĐIỀU CÓ ẢNH-HƯỞNG TỚI CÁI PHÁCH

    Cái Phách tuy là ḿnh không thấy được, song nó làm bằng chất-khí ở cỡi trần cho nên nóng, lạnh, gió, lửa, rượu, thuốc mê, khí độc đều có ảnh-hưởng tới nó.  Khi nó bị thuốc mê, th́ nó xuất ra ngoài đem luôn và bao bọc cái vía.  Trong lúc đó sanh-lực vô ḿnh không đủ sức cho nên con người yếu đuối chẳng c̣n biết đau đớn chi cả, nhờ vậy mới mổ xẻ được.

    Trong cuốn CÁI VÍA, tôi có đem những cách thí-nghiệm chứng chắc rằng : sự đau đớn ở trong cái vía chớ không phải ở trong xác-thịt.

    Chừng dă thuốc mê nó nhập vô xác như củ.

    Thí dụ có một người bị tai nạn, quan Thầy cưa tay, cái phách ở cánh tay đi đâu?. Cánh tay tuy mất song cái phách bao cánh tay cũng c̣n ở đó.  V́ vậy cho nên có nhiều bịnh nhơn lúc trời lạnh than đau ở chổ cánh tay bị cưa.  Ấy là tại cái Phách bị lạnh nên truyền sự đau đớn qua xác-thịt.

 

CHUYỆN CÁI PHÁCH CỦA MỘT NGƯỜI BỊ CƯA TAY

    Trong cuốn Thực-dụng Pháp-môn (Magie pratique) in lần thứ nhứt, trương 202, ông J. Lermina có kể chuyện “một người bị cưa tay” do một quan Thầy chuyên môn về bịnh mổ xẻ ở nước Mỷ thuật lại với ông như vầy:

    “Tôi đi viếng một trại cưa máy với nhiều người bạn thân thiết.  Có một vị, ông X, rủi trợt té, bị một cây cưa tṛn chặt gần đứt tiện cánh tay”.  Phải cắt đi mới được, mà chổ đó rất xa thành thị.  Khi cắt xong người ta bỏ cánh tay của ông vô một cái hộp đựng đầy mạt cưa, rồi đem chôn đi.  Cách ít lâu vít thương (vết thương) gần lành th́ ông X lại than rằng: Ông biết bàn tay bị cắt của ỗng dính đầy mạt cưa và có một cây đinh đâm qua một món tay, nhứt nhối lắm.  Ỗng đau đớn rên siết, ngày đêm ngủ không yên giấc.  Người nhà sợ ổng mất trí.  Tôi mới năy sanh ư-kiến đi tới chổ chôn cánh tay coi thể nào; dẫu rằng sự đó dị kỳ thật.  Tôi đào cái hộp lên dở ra lấy cánh tay bị cắt đem rữa th́ thấy quả thật có 1 cây đinh của cái nắp đâm lủng 1 ngón tay rồi dính luôn ở đó.  Tôi rút cây đinh ra th́ ông X…ở xa đó mấy dậm Anh, nói với mấy anh em bạn rằng: “Người ta xối nước trên tay tôi, người ta rút đinh ra rồi, bây giờ tôi bớt nhức.

    Chuyện nầy mới nghe qua thiệt là dị-đoan hết sức, song hiểu được tính liên-lạc của mấy thể con người th́ không có chi là lạ.

    Cũng có nhiều người cụt chơn, lúc mới thức dậy, quên ḿnh tàn tật, bước xuống giường đi như thường song đi được vài bước sực nhớ lại ḿnh mất hết một chơn bèn té quị xuống.

    Hai mươi lăm năm trước đây tôi cũng có nghe bà con thuật lại chuyện 1 ông kia mắc chứng bịnh đau bụng, lâu lâu đau 1 lần rất dữ dội, chạy đủ hết thuốc nam, thuốc bắc, thuốc tây mà không lành.

    Một bữa gặp một ông Thầy bói, coi quẻ diệc, nói rằng tại cái cây mọc trên mộ ông bà làm cho vị chủ nhà đau bụng măi. Hễ chặt cây đó th́ hết bịnh.  Người con không tin, song xuống thăm ngôi mộ ông nội ở tinh khác th́ quả thấy có một cây lớn mọc gần bên mả, rể nó đâm ngang qua giữa ḥm.

    Chặt rể nó th́ lần lần ông than người lành mạnh như củ.  Có người bảo: đó là tại đức tin?

    Tôi cũng biết đức tin trị bịnh mạnh được, song ở vào trường hợp khác, chớ ở trường hợp nầy tôi lại tưởng như vầy: xương cốt của ḿnh với xương cốt cũa ông bà vốn có tính liên lạc với nhau.  Sự liên lạc của xác thịt cha và con, c̣n mật thiết hơn nữa.  Có nhiều đứa trẻ sanh ra th́ tóc quăn như ông cố nó, c̣n mấy anh em  nó không có; cũng có đứa mắc một chứng bịnh in chứng bịnh của ông bà nó đă mang thuở xưa.  Duy có một đều nầy lạ, là riêng có một ḿnh nó bị đau, c̣n mấy anh em chị em nó mạnh giỏi như thường.  Cũng có người da trắng mà đẻ con ra mặt mày đen thui; chẳng phải vợ ngoại t́nh mà chính là trong tổ tiên có người da đen.  Sự bất thường nầy không phải có dể mà cắt nghỉa.  Có vật-chất mà lại có tinh-thần, nghĩa là có luật Quả-Báo xen vào.  Hễ không có nhân th́ không bao giờ có quả.  Theo mấy trường-hộp nầy không có thế nào gọi là t́nh-cờ được.

 

PHÉP THÔI-MIÊN VỚI CÁI-PHÁCH

    Người ta dùng phép thôi-miên làm cho cái Phách xuất ra được không?

    Được, nhưng phải là tay lảo-luyện mới khỏi sợ những sự hiểm-nghèo xảy ra.

    Trong lúc cái Phách xuất ra th́ xác-thịt nằm trơ trơ, con mắt mất thần, trái tim nhảy yếu, cái phổi cũng yếu, nhiệt-lực trong ḿnh hạ xuống.  Trong pḥng thí-nghiệm lúc nầy phải lặng lẻ như tờ, nếu th́nh ĺnh có một tiếng động mạnh hay là ai vụt chạy vô, cái Phách bị dội lại nhập vô xác tức tốc th́ trái tim nhảy dữ dội, có khi người đồng-tử tắc hơi chết luôn.

    Cái Phách xuất ra thấy được không?

    Nếu biết làm cho chất tinh-khí đặt lại th́ thấy cái Phách, chớ chất tinh-khí c̣n mảnh mai hơn gió nữa, ḿnh không thấy gió th́ không thể nào thấy cái Phách được.

 

SỰ LIÊN-LẠC CỦA CÁI PHÁCH VỚI XÁC-THỊT.

CÁI PHÁCH BỊNH CHỖ NÀO TH̀ XÁC-THỊT BỊ BỊNH CHỖ NẤY

    Cái Phách hiện h́nh ra rồi ḿnh rờ rẫm được không?  Được, nhưng mà không nên ngắt véo chi hết, bỡi v́ nếu cái Phách bị bịnh chỗ nào th́ xác-thịt bị bịnh chỗ nấy.

    Nhưng có khi cái Phách hiện ra th́ rờ đụng mà không thấy nó, có khi thấy nó mà rờ không đụng chạm chi cả.

    Gặp hai trường-hợp nầy, đánh cái Phách cũng như đánh gió, cái xác không có bịnh.  Mới nghe qua th́ lạ thiệt, song phải thí-nghiệm trước mắt mới tin được.

 

CÁCH CHỤP H̀NH SỰ CẢM-ĐỘNG, TƯ-TƯỞNG VÀ TỪ-ĐIỄN CỦA CON NGƯỜI

      người đă chụp đặng hiệu-quả của sự cảm-động và tư-tưởng cùng là từ-điễn ở trong ḿnh con người giọi ra.

    Chụp h́nh cách nào?

    Muốn chụp h́nh từ-điễn hay hiệu-quả của sự cảm-xúc th́ để tấm kiến chụp h́nh hoặc trên trán, trên ngực, gần trái tim hay là gần bàn tay, nhưng phải ở trong pḥng tối thui từ nửa giờ sấp lên mới được.

    Xin nghe mấy chuyện sau đây:

   

KẾT QUẢ NHỮNG SỰ THÍ NGHIỆM CỦA ÔNG ĐỐC-TƠ (DOCTEUR) BARADUC

    1. Một đứa con gái nhỏ ngồi khóc con chim của nó chết.  Cái hiệu quả của sự cảm động đó là khi rửa h́nh th́ thấy, những lằn trắng phủ đứa con gái và con chim giống như một tấm lưới vậy.

    2. Hai đứa nhỏ mới sợ sệt, trong h́nh thấy có một đám mây có những đốm và hơi rung rung.

    3. Bị chưởi mắng, nổi giận dử, thấy trong kiến có những h́nh giống như những đốm hay những ṿng tṛn nhỏ.

    4. Con mèo vui nó kêu ngao th́ trong kiến có những lùm mây màu rất đẹp.

    5. Một viên quan vỏ định trí vào con phụng-hoàng, trong tấm kiến có h́nh con chim ấy liền.

    6. Một người mẹ nhớ tới đứa con đă thác, rửa kiến ra thấy h́nh nó rỏ ràng.

    7. Song chuyện sau chót nầy lạ lùng hơn hết:

   

    Ông Đốc-tơ (Docteur) Hasdeu ở tại thành Bucaresst và ông Đốc-tơ (Docteur) Istrati, ở cách đó vài trăm cây số, vốn là anh em bạn thiết với nhau và đồng khảo cứu về những hiện tượng thần-giao cách cảm.  Hai ông nhứt định thí nghiệm coi có thể nào sai cái vía tới in h́nnh vào trong tấm kiến để sẳn không.

    Tới bữa kỳ hẹn, trước khi đi ngủ, ông Đốc-tơ Hasdeu để máy chụp h́nh dưới chơn giường.  C̣n ông Istrati cũng tập-trung tư-tưởng đặng sai cái vía tới pḥng ông Hasdeu.  Sáng ra khi thức dậy, ông Istrali chắc ư thành công, v́ ông nằm chiêm bao thấy ông có tới viếng ông Hasdeu. Ông liền viết thơ cho một người bạn biểu tới thăm ông Hasdeu đặng coi có quả như vậy không.  Người bạn y lời lại nhà ông Đốc-tơ Hasdeu th́ thấy ông nầy đương rửa h́nh.  Trong tấm kiến có ba cái h́nh rỏ lắm; trong đó có h́nh ông Đốc-tơ Istrati, đứng ngó châm chỉ cái máy.

    Chừng Ông Đốc-tơ Istrati trở về Bucarest xem h́nh ông th́ thấy nó giống tạc ông hơn là mấy cách chụp h́nh ở ngoài nữa.

    C̣n hai h́nh khác trong kiến là h́nh nào? Ấy là h́nh của hai hồn ma, họ thấy máy chụp h́nh để sẳn, họ đứng lại xem và muốn có h́nh họ trong kiến, cho nên khi rửa kiến mới có h́nh họ.

 

CHƯƠNG THỨ NH̀

 

LOÀI KIM THẠCH CŨNG SỐNG NHƯ M̀NH

    Người ta lầm tưởng rằng sắt đá là vật vô-tri vô-giác, chớ nào dè nó cũng thay h́nh đổi dạng và cũng biết cảm-xúc như ḿnh vậy.

    Trong cuốn sách Pháp-môn và Khoa-học. (L’occultisme et la Science) của ông Charles Lancelin nơi chương đầu có chụp h́nh một cục đá tấn hóa.

Cục đá nầy chia ra 3 phần:

    Lớp dưới: Đá cục ( couche rocheuse).

    Lớp giữa: Cẩm-thạch (couche de marbre).

    Lớp trên:  Thủy-ngọc (cristaux de roche).

    Chính là tôi cũng có thấy một cục đá như thế tại núi Sam

 

VÀI CÁCH THÍ-NGHIỆM CỦA MẤY ÔNG  THÔNG THÁI CHỨNG CHẮC RẰNG LOÀI KIM-KHÍ CŨNG SỐNG VÀ CŨNG CÓ CÁI PHÁCH VẬY

    1. Cách thí-nghiệm của ông Becquerel

    Ông Becquerel có t́m học một lằn sáng gọi là lằn sáng N. (1)  [ (1) Lằn sáng N de Blondlot.  Trong tháng Mars 1903, ông Blondlot t́m thấy những nguồn cội chiếu ra ánh sáng như mặt trời, bóng Crookes (Ampoules de Crookes bec Auer) c̣n dọi ra những lằn sáng khác hơn Tử ngoại tuyến (ultra-violet). Ngài t́m được những lằn nầy trong pḥng hóa học của Ngài tại Nancy cho nên Ngài đặt tên là Rayon N. Chữ Nancy khởi đầu bằng chữ N ].   Ngài thấy trong ḿnh thú vật, bông hoa, cây cỏ, kim-khí đều chiếu ra những lằn sáng. Khi cho loại nầy hút thuốc mê th́ không c̣n chiếu sáng nữa.  Xem qua thây ma th́ không thấy mấy lằn sáng nầy.  Như vậy rơ ràng loài nào cũng có cái Phách và cũng sống.

    2. Sự thí nghiệm của ông giáo-sư J. Chandra-Bose.

    Ba mươi chín năm trước, ông giáo-sư Jagadish Chandra-Bose, nguyên Tấn-sĩ khoa-học tại Calcutta bên Thiên-Trước có bày ra một cái máy để đo sức chọc phá loài kim-khí và cách trả lời của chúng nó, đặng coi chúng nó biết động dạn không.  Mỗi lần mấy loài nầy động dạn th́ có 1 đường cong ghi trên ống quây tṛn, hễ trả lời mạnh đường cong ghi cao, trả lời yếu đường cong ghi thấp.

    Thử loài kim rồi Ngài thử loài thảo mộc th́ cũng thấy nó in như loài kim-khí vậy.

    Khi thí nghiệm xong xả, Ngài có diễn thuyết cho thiên-hạ nghe và gởi bài diễn thuyết qua Hoàng-Hội (Institution Royale) ngày 10 Mai 1901.

    Cách 24 năm nay, nhằm ngày 15 Mars 1924, ông Bose qua chơi thành Paris có diễn thuyết tại Đại-học-đường Sọt-bon (Sorbonne).  Ngài nói rằng:  Loài thảo mộc cũng có bộ thần-kinh (Systèm nerveux) có trái tim, bộ mạch cũng nhảy như ḿnh.  Ngài dùng cách chớp bóng cho các thính-giả thấy sự học hỏi của Ngài.

    Ngài mới từ trần trong thượng tuần tháng Février 1938.

 

(Xin xem mấy tấm h́nh dưới đây)

 

 

 

 

 

h́nh VIII và h́nh số IX

 

CUNG-ĐA-LI-NI HAY LÀ LUỒNG HỎA ĐI NHƯ CON RẮN LỬA (HỎA-XÀ)

(KOUNDALINI OU FEU SERPENT)

    Trong mỗi thể con người, từ xác thịt cho đến vía, trí, kim thân, tiên thể đều có một luồng hỏa sức mạnh phi thường.  Nó không giống như lửa của ánh sáng mặt trời mà nó in như sắt đốt chảy ra nước vậy.

    Luồng hỏa ở trong thân ḿnh con người con mắt phàm không thấy được v́ nó là một cái lực.  Nó nằm ở trong một cái ổ làm bằng bảy cái quả tṛn trống rổng, quả nầy chồng vô quả kia.  Mấy cái quả nầy làm bằng chất tinh khí (matière éthérique) và chất thanh-khí (matière astrale) và ở tại trung tâm lực chổ xương mông.  Nó chia ra làm 7 thứ.  Luồng hỏa nằm trong quả tṛn ở ngoài hết, hay là quả thứ bảy, th́ yếu.  Chính là nó hiệp với khí Nguyên-dương (Force primaire), ngày đêm chạy theo mấy đường gân làm cho nhiệt lực trong ḿnh con người đầy đủ.  Nó thuộc về âm, c̣n khí Nguyên-dương thuộc về dương, sự kết cấu của 2 lực nầy người ta gọi là từ-điễn của con người. (Magnétisme personnel).  Nó bắt từ xương mông đi lên theo ba con đường trong cốt tủy.  Ba con đường gân nầy h́nh như số tám viết nằm (không đánh số tám nằm được)  .  Đường bên mặt tiếng Thiên-Trước gọi là Banh-ga-la (Pingala), đường bên trái gọi là Y-da (yda), c̣n đường chính giữa gọi là Sút-hum-na (Soushoumna).

KHÍ NGUYÊN-DƯƠNG LÀ CÁI CHI ?

    Muốn biết khí Nguyên-dương là cái chi th́ phải nói trách nhậm (trách nhiệm) ba ngôi của Đức Thượng-Đế.  Như tôi đă nói, Đức Thượng-Đế chia ra làm 3 ngôi:

    Ngôi thứ nhứt.

    Ngôi thứ nh́.

    Ngôi thứ ba.

    Trong khi sanh hóa Thái-dương hệ nầy th́ ngôi thứ ba lănh phần hiệp các Nguyên-tử lại đặng làm ra ngũ-hành.

    Ngôi thứ nh́ lấy ngũ-hành làm ra những h́nh dạng các loài và cho tinh thần Ngài vô đó.  Nhờ tinh thần nầy các loài mới sống.  Tinh thần đó gọi là :

    Khí Nguyên-dương (Force primaire ou courant vital envoyé par le deuxième aspect du Logos dans la matière déjà vitalisée par l’action du Troisième aspect du Logos).

    C̣n ngôi thứ nhứt sanh các linh hồn.

 

TẠI LÀM SAO KHÔNG NÊN KHƯƠI LUỒNGG HỎA SỚM ?

    Sách Tàu vẽ ḷ chảo ở xương mông là nói bóng dáng về luồng hỏa nầy.  Có nhiều nghe nói chuyện luyện luồng hỏa th́ đắc đạo thành Tiên, thành Phật, nên ham, chớ kỳ thật chưa biết rơ sự hại và sự lợi của nó ra thể nào.

    Luồng hỏa làm ra từ-điễn th́ yếu chớ mấy lớp ở trong th́ dữ tợn lắm.  Đừng động tới nó mà mang hại có ngày.

 

SỰ HẠI CỦA NÓ

    Nó đi tới đâu th́ đốt các tánh xấu tới đó.  Nếu trong ḷng c̣n mến sự nguyệt hoa, c̣n hung dữ, c̣n giận hờn th́ nó sẽ làm cho xác thịt bị cháy từng khúc, phải bỏ mạng, và có khi nó đốt luôn mấy thể khác như vía, trí, tới mấy kiếp sau con người cũng c̣n mang hại.

    Có khi nó không đi lên mà lại đi xuống, vô mở trung-tâm-lực tại bộ sinh dục th́ chừng đó ḷng dâm con người nổi lên cực điểm, dầu có cả trăm vợ cũng không thỏa thích được.  Mấy người như thế th́ có chút đỉnh phép-tắc nhỏ mọn, song họ sẽ bị loài tinh quái thấp thơi hơn nhơn loại ám ảnh họ, trong hai ba kiếp họ mới mong thoát khỏi tay của chúng nó.  Dầu mà luồng hỏa không có hại được đi nữa, nó cũng mở rộng những tánh xấu của con người.  Nó làm cho con người trở nên kiêu căng tự phụ quá lẽ và tham lam tột bực.  Trong cuốn kinh Hathayogapradipika có câu nầy “Luồng hỏa giải thoát cho những đạo sĩ, mà nó bắt mấy kẻ khờ dại làm tôi mọi (Elle apporte aux yoguis la libération et aux sots l’esclavage).

                                                                                                                                                    

MUỐN MỞ LUỒNGG HỎA PHẢI ĐỦ NHỮNG ĐIỀU KIỆN SAU NẦY:

    Một là:  Tánh hạnh thật tốt.

    Hai là:   Nghị lực cứng cỏi.

    Ba là:    Thân thể tráng kiện.

    Bốn là:  Có một vị Chơn-Sư hay là một vị La-Hán coi chừng.

    C̣n tuổi tác không cần lắm.  Dầu 5, 6 chục tuổi mà sức lực mạnh mẽ cũng mở luồng hỏa được vậy.

    Tại làm sao phải có Chơn-Sư coi chừng ?

    Bỡi v́ Chơn-Sư có huệ-nhăn, ngài chỉ cho ḿnh cách dẫn luồng hỏa vô trung-tâm-lực nào trước, hạp với cung mạng cũa ḿnh.  Ngài coi chừng ḿnh luôn luôn; nếu ḿnh làm sái cách, Ngài biểu ḿnh sửa lại lập tức không có hại chi cả.

 

LUỒNG HỎA VỤT ĐI MỘT M̀NH

    Có khi luồng hỏa vụt đi lên một ḿnh.  Lẽ th́ nó phải đi như con rắn ḅ, song không ai dẫn nó, nên nó đi thẳng một đường lên óc, rồi tuốt ra ngoài.  Trong lúc đó con người bị đau đớn quá v́ ba đường gân trong cốt tủy chưa mở ra.  Con người ngă xuống nằm mê mang.  Chừng tỉnh dậy th́ không có hề chi cả.  Nhưng ít có mấy trường hợp nầy lắm.

 

CÁCH KHƯƠI NÓ

    Có nhiều cách khơi nó : hoặc hô hấp, hoặc ngồi và tập luyện như thể tháo, hoặc tham thiền.  Song tham thiền tốt hơn hết.

 

SỰ ÍCH LỢI CỦA NÓ

    Sự hại của nó rất nhiều mà sự lợi của nó cũng chẳng ít.  Luồng hỏa vô mấy trung-tâm-lực th́ làm cho chúng nó nở ra lớn và chói sáng rở.

    Khi Trung-tâm-lực của lá lách mở ra th́ nó giúp cho con người lúc thức dậy nhớ lại những điềm chiêm bao, nhưng có khi không rành-rẽ lắm bởi v́ phải đợi trung-tâm-lực chiếu đối với cái vía mở ra mới không quên đầu đuôi.

    Trung-tâm-lực của rún mở ra th́ con người cảm biết xung quanh ḿnh chổ nào hạp, chổ nào không hạp, chổ nầy ảnh hưởng tốt chổ kia ảnh hưởng xấu.

    Trung-tâm-lực cũa trái tim mở ra th́ con người biết được sự vui, sự buồn của kẻ khác và có khi sự đau khổ của thiên hạ thấu vào ḷng nữa.

    Những người mà Trung-tâm-lực tại yết hầu mở rồi th́ nghe những tiếng xúi biểu làm việc nầy việc nọ đủ hết.  Vậy phải đề pḥng mấy linh hồn ở Trung giới c̣n thấp thỏi, dục ḿnh làm những điều quấy quá. Cũng nghe được âm nhạc hay là những tiếng ít tao nhả hơn.

    Trung-tâm-lực chính giữa chân mày mở ra rồi, th́ con người trông suốt qua mọi vật và thấy cảnh nầy cảnh kia, người nầy, người nọ.  Lúc mở ra th́ người ta thấy phong cảnh và những đám mây có màu sắc. Chính là nhờ Trung-tâm-lực nầy mà người ta có thể làm cho những vật ḿnh đương xem lớn ra bao nhiêu cũng được hay là nhỏ lại bao nhiêu cũng được.

    Khi Trung-tâm-lực trên đỉnh đầu hoàn toàn mở ra th́ khi con người xuất vía ra khỏi xác, làm cái chi, thấy cái chi, chừng thức dậy đều nhớ rành rẽ không quên chút nào, cũng như hồi c̣n thức ở cơi trần vậy.

 

MÁY ĐỂ THÍ-NGHIỆM TỪ-ĐIỄN TRONG M̀NH CON NGƯỜI

    Người ta có bày ra những máy để thí-nghiệm từ điễn trong ḿnh con người.

    Trong số đó th́ có máy của ông Fayol khéo léo hơn cả  (1) [  (1) Ông Fayol có tŕnh cái máy ông cho hội Tâm-lư-học thật nghiệm nhóm kỳ nh́ tại Paris năm 1913. (2* congrès de Psychologie expérimentale)].

     Máy của ông Fayol làm rất giản dị, ở ngoài có cái chụp bằng pha-ly để che cái máy khỏi bị sét và bụi bậm, chính giữa có ống tṛn bằng thép. (Xin xem h́nh rơ hơn).

    Hể để tay gần cái ống th́ từ-điễn làm cho cái ống xây tṛn.

 

NHỮNG SỰ THÍ-NGIỆM CỦA ÔNG FAYOL

    Có nhiều ông Bác-sĩ nói rằng tại hơi nóng ở trong ḿnh con người làm cho cái ống xây tṛn, chớ không có cái lực nào ở trong ḿnh con người gọi là từ-điễn cả.

    Ông Fayol bèn thí-nghiện như vầy : Ông làm những bức ngăn để giữa bàn tay và cái ống, những bức ngăn nầy làm bằng :  sắt mạ thiết (Fer étamé) đồng, kẻm, ni (Flanelle) rơm, giấy cứng (carton).  Nếu quả thật hơi nóng của bàn tay làm cho cái ống quay tṛn th́ có hai lẽ, hoặc là hơi nóng bị những bức ngăn cản như : nỉ, rơm, giấy cứng không làm cái ống quây được, hoặc là hơi nóng gặp chất đồng rút lẹ th́ cái ống sẽ quay mau.

    Nhưng trong lúc thí-nghiệm với bức ngăn bằng sắt th́ cái ống quay như thường.

    Thí-nghiệm với miếng đồng, lẽ th́ cái ống phải quây mau, nhưng trái lại nó quây chậm hơn một chút.  Khi giở cái tay ra th́ cái ống quây chậm chớ không ngừng ngang, dường như chất đồng rút từ-điễn rồi phóng từ-điễn ra một cách chẫm răi.  C̣n nỉ th́ để từ-điễn đi qua chớ không rút từ-điễn vô ḿnh.

    Với bông g̣n th́ lạ lắm.  Hể rút bàn tay ra th́ cái ống tức th́ ngưng liền.  Với rơm th́ cái ống quây mau lắm, mau hơn khi không có bức ngăn và khi rút tay ra th́ nó quây chậm chậm chớ không có ngừng ngang.  Song sự thí nghiệm sau chót nầy mới chứng chắc rằng không phải là tại hơi nóng làm cho cái ống quây.

    Ông Fayol lấy một cái b́nh sắt mạ thiết lớn bằng bàn tay; ông để nó gần cái ống, mà chuyến nầy không để bàn tay vô, ông đổ nước nóng 60 độ (60 degrés) vô trong b́nh và lấy hàn-thử-biểu coi th́ không-khí ở gần cái b́nh 45 độ, c̣n không-khí ở trong pḥng thí-nghiệm th́ 21 độ.  Sức nóng ở gần b́nh như vậy mà trong một tiếng rưởi cái ống không nhúc nhích.  Nước nóng trong b́nh sụt xuống c̣n có 21 độ.

    Người ta mới thay nước trong b́nh cho nó nóng tới 50 độ.  Cái ống cũng ở một chổ.  Nhưng khi ông Fayol mới vừa để bàn tay vô th́ cái ống quây hết sức mau, c̣n ông rút bàn tay ra th́ một phút sau nó ngừng lại lập tức.

 

ẢNH HƯỞNG CỦA NƯỚC ĐÁ

    Bây giờ người ta mới để nước đá vô trong b́nh th́ cái ống không quay, v́ nước đá cản từ-điễn.  Nếu mà cái b́nh đựng nước lạnh hơn không-khí ở trong pḥng th́ cái ống cũng không quây.  Khi nước đá trong b́nh bằng nhiệt độ trong pḥng th́ cái ống quây.

 

Ư KIẾN CỦA ÔNG RAOUL MONTANDON

    Ông Raoul Montandon nói : “ Tôi có đến xem ông Fayol thí-nghiệm hai lần.  Lần đầu tiên, tôi đă chắc chắn không phải nhiệt-độ làm cho cái máy quây.  Tôi thấy ảnh-hưởng tay mặt với ảnh-hưởng tay trái khác nhau rất xa.  Lần thứ nh́, ông Fayol cho tôi hay rằng ông X làm cho cái máy quây ngược hơn thường lệ th́ tôi tưởng vấn đề nhiệt độ làm cho cái máy quây đă giải quyết rồi.  Vài ngày sau tôi thấy tận mắt ông X, rất khỏe mạnh, lâu lâu mới làm cho cái máy quây ngược một lần mà thôi.  Quả đích thật không phải tại sự  thay đổi nhiệt độ trong máu hay là trong da làm cho  cái máy thay đổi chiều hướng.  Tôi cũng thấy bà X., dầu cố gắng và bền chí cũng không làm cho máy quây được chút nào. Một chập sau ông Fayol để tay lên vai bà X…, tức th́ cái máy quây liền.  Tôi lấy làm lạ hết sức.”

 

SỬA ĐỔI CÁI MÁY LẠI

    Người ta nói với ông Fayol : cái máy ông làm toàn bằng kim khí.  Trong ḿnh con người có điễn-khí, v́ vậy cho nên điễn-khí làm cho cái ống quây tṛn.  Lư lẽ nầy cứng cát lắm song ông Fayol không chịu thua.  Ông chế lại cái máy toàn bằng cây.  Cái ống chính giửa bằng bố nhúng dầu paraffine.  Người ta đem lại gần cái ống những cục đá nam-châm rất lớn và những miếng sắt có tánh từ-thạch rồi người ta cho một luồng điện thật mạnh vô trong đó, cái ống đó không động địa chút nào.

    Trái lại, để tay gần th́ cái ống quây tṛn cũng như cái ống làm bằng kim-khí.  Bây giờ người ta mới hết nói rằng tại điễn-khí nên cái ống quây.

 

CÁI ỐNG XÂY TR̉N CÁCH NÀO?

    Nếu để tay trái th́ cái ống quây tṛn từ Tây sang Đông như kim đồng hồ, c̣n để tay mặt th́ nó quây ngược lại từ Đông sang Tây.

    Khi đau ốm hay tinh thần dă dượi th́ cái ống không xây.  C̣n lúc nào mà trong ḿnh không được khoẻ th́ cái ống xây ngược.

 

THỨC ĂN CŨNG CÓ ẢNH-HƯỞNG ĐẾN SỰ QUÂY MAU CHẬM

    Những người ăn rau trái th́ thần-lực mạnh lắm.  Những người dể thọ cảm, những người đồng-tử, th́ không có ảnh hưởng hay là ảnh-hưởng rất ít với cái ống nghĩa là : Cái ống quây chậm ŕ hay là không quây.  Như bà Y hồi nảy.  Có một điều nầy rất lạ.  Ông Fayol, đưa tay mặt sau cái máy th́ cái ống quây hai chục ṿng trong một phút đồng hồ.

    Bà Y để bàn tay trên vai ông Fayol, trong ba phút sau, cái máy liền đứng sựng.  Bà Y bỏ đi ra xa th́ cái ống khởi sự quây lại như củ.

 

VÀI ĐIỀU LẠ

    Thí dụ một người kia để tay vô máy, cái ống quây ba chục ṿng trong một phút.  Nếu có một người khác đi chậm chậm lại cái máy không làm cho nổi gió, rồi đứng phía bên kia, nghịch với bàn tay và cách từ hai tấc tới hai thước tây th́ trong một vài phút cái ống ngừng lại hay là quây chậm ŕ : cái đó tùy theo hạng người.  Khi nào người đó đi nơi khác cái ống mới quây mau lại.

    Trái lại nếu người thí-nghiệm không làm cho cái ống nhúc nhích được, mà có một người khác lại đứng như vậy, tức th́ cái ống khởi sự quây tṛn, chừng bỏ ra đi th́ cái ống ngừng lại.

 

LÚC NÀO CÁI ỐNG QUÂY NGƯỢC?

    Ông J. đau bao tử, ông để tay vô th́ cái ống quây ngược.  Lần sau, ông c̣n đau cái ống cũng quây ngược…tới lần thứ ba ông lành mạnh rồi, cái ống quây xuôi như thường.

   

ẢNH-HƯỞNG CỦA NHIỀU NGƯỜI NẮM TAY

    Người ta c̣n thí-nghiệm cách nầy nữa.  Ông X làm cho cái ống quây 20 ṿng trong một phút.  Nhiều người nắm tay nhau, người nầy nắm tay người kia, làm một cái ṿng tṛn rồi người đứng đầu nắm tay ông X.  Trong ba phút sau cái ống quây chậm, tới phút thứ năm th́ nó ngừng lại.

    Họ buông tay ông X ra.  Cái ống khởi sự quây mau như trước.  Thí-nghiệm trọn năm lần như vậy th́ cái kết quả vẩn in nhau.

    Tại sao lạ vậy ?

    Có hai lẽ.  Hoặc là trong mấy người nắm tay có một người hút từ-điễn của mấy người kia cũng như bông đá hút nước.  Hoặc là tại từ-điễn của mấy người đó ḥa lẩn với nhau nên vô hiệu quả.

    Kết luận :

    Cái máy của ông Fayol chứng chắc rằng trong ḿnh con người có từ-điễn.

 

ĐỘNG-CƠ CỦA ÔNG TROMELIN

    Động-cơ của ông gồm một cái ống tṛn bằng giấy bề kinh-tâm chừng năm hay sáu phân tây, hai đáy trống lổng ; bề mặt phía trên có một cộng rơm đâm ngang ; chính giữa cộng rơm có xỏ một cây kim, mủi kim đụng cái đáy của một cái hủ bằng kiểu hay là một cái ve nhỏ úp miệng xuống.  Cái ống dựng đứng c̣n cây kim là cái cốt của nó, đụng tới cái ống th́ nó xây tṛn liền.  Cũng có thể làm một cái bánh xe bằng giấy có răng cưa thế cho cái ống tṛn.

( Xin xem h́nh rỏ hơn )

 

 

     Khi để cái động-cơ trước mắt và trên một cái bàn rồi sè bàn tay mặt đàng sau nó tức thh́ nó xây tṛn nhưng ngược với cái ṿng tṛn của cây kim đồng hồ (nghĩa là từ Đông sang Tây).  Nếu sè bàn tay trái th́ động-cơ xây ṿng theo cây kim đồng hồ.  Theo ư ông Tromelin th́ đó là dấu chứng rằng thân thể con người giọi ra những từ-điễn

 

CHƯƠNG THỨ BA

 

DÙNG TỰ-ĐIỄN ĐỂ TRỊ BỊNH

 

    Bây giờ đă có người dùng từ-điễn để trị bịnh.

    Nhưng mà chánh-phủ Âu Tây chưa công nhận cách đó hợp với pháp luật.

    Sự luyện tập có khó khăn không?

    Không khó mà khó.  Bỡi v́ con người phải dứt các tánh xấu, sửa cách ăn uống, tập định trí và tập thở dài hơi, học rành khoa giải-phẩu (Anatomie), sinh-lư học và những luật về từ-điễn-học, ư-chí phải cứng cỏi.  Không bền chí th́ không khi nào thành công.

    Nhưng mà phải thông khoa Pháp-môn mới biết sự dùng từ-điễn có lợi mà cũng có hại.

 

SỰ ÍCH LỢI CỦA TỪ-ĐIỄN

    Như tôi nói khi nảy, những người nào khoẻ mạnh th́ sanh-lực dư dùng, và có thế san bớt sanh-lực đó cho những người nào yếu đuối hơn.  Bỡi v́ những người đau ốm, lá lách không vận động mạnh mẽ, sanh-lực vô ḿnh ít lắm nên mất sự thăng bằng.

    Nhờ sanh-lực vô bồi số thiếu th́ bịnh nhân lần lần mạnh lại.  Có hai cách đem sanh-lực ;  

    Một là dùng thuốc men (loài thảo-mộc sanh-lực nhiều hơn chất hoá-học).

    Hai là : dùng từ-điễn

    Những bịnh thuộc về thần-kinh hệ, như tánh nóng nảy, quạo quọ, sanh ra là tại cái Phách yếu đuối rút sanh-lực không đủ nuôi ḿnh, bộ thần-kinh thường căng thẳng, hể đụng tới một chút th́ sân si liền (bịnh nầy khác hẳn với tánh nóng nảy của người ta đă tập quen).

    Bịnh mất ngủ, ăn không tiêu, nhức đầu cũng tại thiếu sanh-lực.  Hễ sanh-lực đầy đủ th́ mấy chứng đó tiêu mất.

 

CÁCH CHỮA MỘT CƠ-THỂ TRONG M̀NH

    Tỷ như lá gan đau th́ chữa cách nào?

    Hễ lá gan đau th́ chất tinh-khí bao lá gan cũng hư xấu vậy.  Thế th́ trước hết phải lấy tay vuốt chổ lá gan từ trên xuống dưới, trong trí phải tưởng đem chất tinh-khí xấu đó theo bàn tay ḿnh mà ra ngoài.  Mỗi lần vuốt rồi th́ phải rảy mấy ngón tay xuống đất đặng chất tinh-khí xấu bay mất; nếu không giữ kỹ đều nầy, chất tinh-khí dính vô ḿnh, sau ḿnh phải đau gan.  Làm như vậy trong năm mười phút tùy theo người bịnh chịu được bao lâu.  Xong rồi phải rửa tay với xà-bông sạch sẽ.

    Rồi trong trí phải tưởng-tượng lá gan trong lúc lành mạnh, tươi tắn.  Nhờ tư-tưởng mạnh dạn vâng theo lịnh ḿnh sai khiến nên nó rút chất tinh-khí tốt lại làm ra một lá gan như ư ḿnh muốn.  Sự rung-động của tư-tưởng sẽ giúp cho các sớ thịt cũ cũa lá gan đau mau lành và sanh ra những sớ thịt mới khác (Trong cuốn Cái Trí, tôi có nói sự rung động sanh ra h́nh dạng). C̣n một cách khác là khi đuổi chất tinh-khí xấu ra ngoài rồi và sau khi rửa tay sạch sẽ th́ cũng lấy tay vuốt trên ḿnh chổ lá gan đau trong trí tưởng đem từ-điễn tốt của ḿnh sang sớt cho người bịnh.

    Trong hai cách th́ cách sau có hại nhiều hơn là lợi.  Bỡi v́ ông Thầy mà có tánh xấu hay là bịnh hoạn chi, đều có thể truyền sang tánh t́nh và chứng bịnh của ổng cho người mà ổng đang chữa.  Té ra người bịnh khỏi mắc bịnh nầy mà lại vướng chứng nọ.

    Đó là đều cần nhứt nên nhớ kỹ trước khi t́m ông Thầy chữa bịnh từ-điễn.  Mà cũng nên biết đồ nỉ và hàng lụa ngăn cản từ-điễn, vậy trong khi chịu cho chữa th́ người bịnh phải mặt đồ vải.

 

DÙNG TỪ-ĐIỄN TRONG VIỆC MỔ XẺ

    Có thế nào dùng từ-điễn làm thuốc tê thế cho thuốc mê trong cơn mổ xẻ không?

    Không phải lấy từ-điễn làm thuốc tê được, nhưng có thể dùng ư-chí không cho sanh-lực vô chỗ đau nữa th́ khi mổ chỗ đó, bịnh nhơn không c̣n biết cảm-động.

    Tại sao vậy?

    Sự đau đớn và cảm-xúc của con người không phải ở trong xác thịt mà vẫn ở trong cái Vía.  Nhờ sanh-lực theo chất tinh-khí của cái Phách làm môi-giới đem sự cảm-động từ xác thịt qua cái Vía và từ cái Vía qua cái Xác.

    Nói rơ hơn nữa là mỗi đường gân trong ḿnh đều có 1 lớp tinh-khí của cái Phách bao phủ, nên vậy người ta mới gọi là cái Phách có cái óc và bộ thần-kinh như xác thịt.  Nếu không cho sanh-lực chạy theo đường gân nào th́ đường gân đó như bị tê liệt không c̣n giao thông với cái óc nữa.  Như vậy đâu có sự cảm-động.  Tỷ như cái tay đau phải mổ.  Nếu dùng ư-chí đuổi sanh-lực ở cánh tay ra ngoài rồi mổ th́ người bịnh không biết đau chi cả.  Trong lúc đó máu huyết chỗ cánh tay cũng lưu thông như thường không có ngưng trệ.

    Cách nầy c̣n tốt hơn dùng thôi-miên làm cho người bịnh ngủ mê đặng mổ.

    V́ sao thôi-miên không tốt?

    Người nào bị thôi-miên một lần th́ đă mất nghị-lực, từ đó về sao ai thôi-miên cũng được.  Người ta có thể, dùng tư-tưởng xuối biểu va làm việc quấy, va sẽ tuân theo mà không ngờ, và cứ tưởng là tại ư va muốn làm đó thôi.  V́ vậy không nên để cho ai thôi-miên và cũng đừng thôi-miên ai cả nếu không phải v́ mụch đích cứu bịnh.

    Những người thiện nghệ không cần dùng bàn tay, chỉ dùng cặp mắt và tư-tưởng mà thôi.  Cái kết-quả lại rất chắc chắn.

    Tôi xin thuật chuyện nầy cho ngài nghe :

    Ông Đại-tá (Colonel) Olcott khi xưa vốn lăo luyện về phép từ-điễn.  Một lần kia Ngài ở Miến-Điện (Birmanie), có mướn một tên bồi không biết nói tiếng Anh.  Ngài dùng từ-điễn thâu thần nó, song cách nầy không có làm cho nó mê mang; nó cũng đi đứng và làm công việc như thường.  Ngài mới hỏi mấy anh em trong hội, có ông Leadbeater tại đó nữa, coi ai muốn Ngài thí nghiệm cách nào.  Có người biểu Ngài làm ra trong góc pḥng một lằn lửa đỏ.  Ngài liền sè tay đưa ngang qua chỗ chỉ tức th́ tư-tưởng Ngài đă hoá ra lửa đỏ rồi.  Người ta mới kêu tên bồi lại rồi biểu nó đi dạo trong pḥng.  Nó đi chẫm răi nhưng tới chỗ ông Olcott làm phép, nó bèn sợ hăi, thụt lại, nói rằng có một lằn lửa đỏ, nó đi qua không được.  Một lần khác nó đi vắng, Ngài liền lấy tay vẻ không dưới đất một đường và nhứt định nó không bước qua chổ đó được.  Rồi Ngài sai kêu nó về.  Nó đi tới chỗ Ngài vẻ th́ dội ngược gần ngă xuống đất.  Chừng nó tỉnh lại, nó nói nó bị thư, v́ cái cẳng nó dính cứng, nó không động địa được.  Nhiều lần nó dợm bước qua chỗ đó mà bước không nổi, nó lấy làm lạ lắm, và sợ hăi v́ không biết sao gặp chuyện khó hiểu như thế.

    Bao nhiêu đây, các bạn cũng đủ rơ những phép tắc ở trong tay những kẻ vô liêm sỉ th́ sự hại người không biết sao mà nói được.

 

DÙNG TỪ-ĐIỄN CHỮA BAO LÂU MỚI HẾT BỊNH

    Đều đó không nhứt định được.  Phải tùy theo bịnh nặng hay nhẹ, người bịnh dễ hay khó thọ cảm, và hạng nhứt là các tánh t́nh và công phu luyện tập của ông Thầy.  Cũng có người trị không hết bịnh vậy.

    Những vị nào v́ thương đời mà chữa bịnh, chớ không lấy phép đó làm kế sanh nhai, không cố ư dục lợi th́ trị mau lành lắm.

    Đức tin lấp biển dời non, người mà đức tin mạnh chừng nào th́ càng làm được nhiều việc phi thường chừng nấy.

 

MỘT PHÉP LẠ LÙNG TRỊ BỊNH NÀO CŨNG MẠNH

    Ngoài phép từ-điễn, thôi-miên, phù chú, c̣n một phép nữa ít ai biết được.

    Phép đó vốn của các Đại-Thiên-Thần (Grands Dévas), nhưng nó không ở lâu với con người, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi mà thôi.  Khi con người có phép ấy th́ rờ tay tới đâu bịnh mạnh tới đó, không có bịnh nào không mạnh.

    Xưa nay đă có nhiều người được phép đó.  Mấy người đó toàn là những người đă dứt ḷng trần tục.

    Trong lịch-sử đạo Thiên-Chúa có kể những phép lạ của đấng Christ đă làm : như một người đàn bà mất máu đă mười hai năm, một người bại xuội nằm trên giường, mười người cùi phung, 1 người có bàn tay khô khan, một người đàn bà bị quỉ phá đau trọn 18 năm, một người xuội bại đă 38 năm, một người đui từ trong bụng mẹ, một người đui và câm bị quỉ ám, nhiều bịnh khác và có ba người chết rồi Chúa cứu sống lại.  Nghe chuyện sau nầy có người hỏi :

    “ Tại sao chết rồi mà sống lại.  Có lẽ họ chết giả sao chớ ?”

    Xin đáp: “Đức Chưởng-Giáo có quyền cải tử hườn sanh, song người ta thường gọi ba trường hợp nầy là chết giả (léthargie).  Tôi cũng biết rằng: Mấy anh Bàn-môn tả đạo có thể làm cho mấy thây ma chết śnh sống lại đặng phá người nữa (1), [(1)  Xin xem chuyện thiếu-phụ thành Corinthe bên Hy-Lạp trong quyển con người thác rồi về đâu.] huống chi là đức Chưởng-Giáo.”

    Tôi biết th́ phải nói, độc-giả có quyền tin hay không cũng được.

    Phương-ngôn Langa có câu : “Biết th́ làm đặng” “Savoir, c ést pouvoir”.

 

CHUYỆN ÔNG CỐ-ĐẠO CURÉ D’ARS

    Cũng có người viện lẽ rằng : Những chuyện của đức Chưởng-Giáo làm đă gần hai ngàn năm không biết sao mà nói được.  Vậy tôi xin thuật vài chuyện lạ lùng của ông Cố-Đạo Curé d’Ars (Curé d’Ars) sanh đẻ tại Dardilly, một thôn trong địa phận Rhône, ngày 8 Mai 1786, hồi 12 giờ khuya.  Hồi thuở nhỏ, Ngài đă ưa cầu nguyện rồi, Ngài nhập đạo năm 1815, rồi ba năm sau được phong linh-mục tại thôn Ars thuộc về quận Ain.  Từ đó tới năm 1860, trọn 42 năm như vậy, Ngài làm nhiều điều mà người ta gọi là phi thường.  Danh thơm của Ngài bay khắp cơi Âu.  Ngày nào như ngày nấy, bốn phương thiên hạ nườm nượp tới cầu nguyện tại nhà thờ d’Ars, chật đường chật xá, chen chơn không lọt.  Có một đứa nhỏ lối 12 tuổi gầy c̣m và bại xuội đợi trong hai ngày ở ngoài nấc thang trước thềm mới lết vô được ở bàn chót trong nhà thờ đặng cho Ngài thấy nó.  Khi Ngài bước vô cữa, nó mới làm gan nắm áo Ngài, cầu xin Ngài ban ân huệ cho nó lành mạnh.  Ngài bèn nói với nó. “Con muốn lành mạnh th́ hăy cầu nguyện đức Thánh Philomène trong 9 bữa đi.”

    Đứa nhỏ vâng lời.  Ngày thứ mười, nó mới xin thiên hạ cho nó chen vô giữa rồi thưa Ngài: “Thưa cha con cầu nguyện đă 9 ngày rồi mà bịnh tật không thuyên giảm.  Ngài bèn hỏi nó : “Con muốn mạnh lắm sao?”

    ---Thưa cha con muốn lắm.

    ---Vậy th́ con hăy đứng dậy mà đi đi.  Ngài vừa phán dứt lời th́ đứa nhỏ đứng dậy đi như thường, các tật bịnh đều tiêu mất hết.

    Ngài không tiền, nhưng mà chẳng biết vàng bạc ở đâu tự nhiên đem tới cho Ngài không biết bao nhiêu mà kể.  Lần kia, Ngài nói với cô quản-gia Catherine Lassagne như vầy : Bữa nay có một chuyện dị-kỳ làm cho tôi bắt tức cười một ḿnh.  Không biết sao cái túi đựng tiền của tôi th́nh ĺnh nó lớn lên mải.  Tôi giở ra coi th́ thấy một nắm đồng vàng.  Mà không phải lần nầy là lần thứ nhứt đâu.

    Có một ngày nọ, Ngày than với ông linh-mục Tailhades rằng : “Tôi buồn quá, tôi mắc nợ hết ba ngàn quan. Ông Tailhades mới khuyên lơn Ngài : “Ông chớ lo, đức Thượng-Đế sẽ sắp đặt xong xuôi việc ấy.” Qua ngày sau Ngài bèn nói với ông Tailhades : “Tôi kiếm được tiền rồi, nhiều lắm.  Sớm mai nầy ḿnh tôi thếp vàng.  Tôi đi không muốn nổi, hai túi tôi nặng cho đến đổi tôi phải lấy tay bợ lên kẻo nó rách đi.”

    Ngày nọ cô quản-gia Catherine Lassagne lại cho Ngài hay lúa trong bồ đă tận đáy rồi.  Ngài làm thinh, nhưng trong ḷng tin chắc đức Thượng-Đế ḷng từ ái vô biên không bỏ Ngài bao giờ.

    Ngài bèn lấy miếng xương của Thánh Francois Regis đem dấu dưới đống lúa c̣n lại, rồi Ngài đi nhà thờ đọc kinh.

    Bổng chút cô quản-gia với nhiều người khác hớn hở chạy lại cho Ngài hay: “Thưa cha, hồi năy cái vựa gần trống trơn, bây giờ đă đầy tràng những lúa, khép cữa không muốn được.”

    Có một bữa, cô quản-gia Catherine Lassagne tới cho Ngài hay : c̣n một chút bột không đủ làm một ổ bánh ḿ.  Ngài trả lời : “Cứ thêm men vô.”  Quả thiệt càng nhồi bột càng nổi có đủ làm 8 ổ bánh ḿ và nướng rồi c̣n ngon hơn bánh mọi lần nữa.

    Quí Ngài muốn rơ nữa xin xem cuốn “Le Curé d’Ars” par Henri Chéon, Editeur Camille Flammarion và “Vie du Saint Curé d’Ars” Bureau des Annales de la Sainteté.

    Không phải tôi giữ đạo Thiên-Chúa nên làm quảng cáo cho mấy ông Linh-mục.  Tôi là người học Đạo, tôi kính trọng hết các vị thánh nhơn, hiền triết, dầu ở Đông-Á hay là Tây-Âu cũng vậy, nếu có dịp, tức th́ tôi xưng tụng công đức liền.

    Ông Olcott, Hội-trưởng Thông-Thiên-Học khi xưa cũng có phép lạ lùng đó một ít lâu.  Trong một tháng Ngài trị lành mấy ngàn người mắc đủ chứng bịnh.

    Như tôi đă nói khi năy, những vị xả thân cứu đời không c̣n một mảy háo danh, tư lợi th́ trên Thiên-Đ́nh mới ban phép ấy cho.  Nếu tu hành mà c̣n tánh ích-kỷ, không lo cứu vớt quần sanh th́ chẳng hề có phép đó bao giờ, ước ao vô ích.

 

TỪ-ĐIỄN LÀM CHO CÂY MAU LỚN

VÀ THÂY MA KHÔ ROM KHÔNG HÔI THÚI

    Từ-điễn c̣n làm cho cây mau lớn và thây ma khô rom không hôi thúi chi cả

    Sự thí-nghiệm của ông Đốc-tơ Edouard Bertholet

    Ông Đốc-tơ Bertholet thí nghiệm với những hột bí rợ, trồng trong hai cái hủ, đất phân in nhau.  Một thứ th́ Ngài truyền từ-điễn qua, mỗi ngày từ 20 tới 30 phút.  C̣n hủ kia th́ để tự nhiên. Mười hai ngày sau những hột có truyền từ-điễn đâm ra rễ mau hơn mấy hột trong hủ kia.

    Xin xem h́nh dưới đây:

 

    A: Những hột để làm chứng

    B: Những hột truyền từ-điễn trong 12 ngày.

   

    Cách thí-nghiệm của Đốc-tơ Durville

    Năm 1913, một ngày kia ông Đốc-tơ De Socquel xin bạn đồng nghiệp của Ngài là ông Đốc-tơ Durvill truyền từ-điễn cho một bộ phận trong thân thể người chết thử coi.

    Ông Đốc-tơ Durville chịu. Vài bữa sau, ông Đốc-tơ Socquel đem lại một cánh tay của một người tự-tử bằng hơi độc, mà ông để-dành trong máy làm nước đá đă 3 tuần lễ rồi.  Khi thấy trạng-thái của cánh tay đó th́ ông Đốc-tơ Durville dụ dự, song ông muốn khỏi thất hứa, ông bèn chịu.

    Người ta mới lập một Ủy-ban gồm những ông Đốc-tơ Allendy, Đốc-tơ Vergnes, Đốc-tơ Flach, Đốc-tơ Bas, Đốc-tơ Cabanès và quí ông Girod, Magnin, Herbet, Haudricour và Jagot, để xem xét trạng-huống của sự thí-nghiệm mỗi ngày.  Các báo mỗi bữa cũng có gởi người tới lấy tin.  Nhờ hai người phụ tá, bà Raynaud và ông Picot, ông Đốc-tơ Durville truyền từ-điễn qua cánh tay đó luôn luôn gần 2 tháng.  Cánh tay nầy để trên dĩa ở trong hầm rượu gần ḷ sưởi.  Trước hết th́ thấy ngón tay khô rồi kế đó trọn bàn tay không có bay mùi hôi hám chi cả.

    14 năm sau, nhằm năm 1927, cánh tay đó giống như mấy cái thây ướp của người Ai-cập (momie égyptienne) khô rom và để dằn giấy trên bàn viết.

     Người ta đem óc, gan và tim thú vật tới cho ông Đốt-tơ Durville truyền từ-điễn qua; cái kết quả cũng in như ở trên, nghĩa là mấy cơ-thể ấy khô rom không hề hôi thúi

    Nhưng không phải một ḿnh ông Đốc-tơ Durville có cái biệt tài như thế mà thôi, bà X. ở tại Bordeaux và bà D. ở Toulouse cũng có cái mảnh lực ấy.

 

Sự thí-nghiệm của hai ông, Đốc-tơ L. Clarac và Đốc-tơ B. Llaguet.

 

Ông Đốc-tơ L. Clarac là một vị lương-y rất có danh giá tại Bordeaux và ông Đốc-tơ B. Llaguet, một nhà hóa-học đại tài và giáo-sư tại Khoa-học Đại-học-hiệu (Faculté des Sciences) ở Bordeaux có pḥng thí-nghiệm nhiều lần với bà X.  Những vật của hai ông trao cho bà X. truyền từ-điễn đều khóa chặt trong pḥng hóa-học, không hề đem ra ngoài, trừ ra khi thí-nghiệm mà thôi.  Mỗi lần th́ bà X truyền từ-điễn từ 15 tới 20 phút và truyền từ-điễn và đồng thời nói chuyện với hai ông Đốc-tơ.

    Dưới đây là tờ kiết chứng của hai ông:

    1.) Cây cối và bông hoa.---Một bông hường và một nhánh kim ngủ thảo (muflier) khô mau lắm, trong 10 ngày , màu bông và màu cây y nguyên, lá dính trên nhành.

    2.) Rượu chát.---Khô lần lần.  Trong 11 ngày không hôi hám chi cả.  C̣n thứ để làm chứng trong 3 ngày đă chua và nổi meo đầy trên mặt.

    3..) Loài ṣ hến.---Những con hào gọi là con hào Bồ-đào-nha (huitres portugaises) và những con hào thường.  Khô lần lần tới 13 ngày th́ khô rom không hôi thúi.  C̣n mấy con để làm chứng tới ngày thứ 9 ră ra nước, hôi hám hết sức.  Mấy con có ḍi đưa cho bà X truyền từ-điễn vào th́ chúng nó ḅ ra ngoài vỏ rồi chết ráo.  Trong 3, 4 ngày không có con ḍi nào sống cả và thịt con hào lần lần khô, hết thúi nữa.

    4.) Cá.---Hai con cá chép (Cyprins) chết, không mổ ruột.  Khô mau lắm, 3 ngày sau không có mùi hôi.  Màu sắc c̣n y nguyên, hai con mắt cũng sáng rỡ.

    5..) Chim.---Một con chim hoàng-oanh (Chardonnet) chết ở trong lồng không mổ ruột.  Khô mau lắm, 3 ngày sau cứng đơ, màu vàng ở cánh và màu đỏ ở đầu đă không phai lại c̣n trở nên sậm nữa.

    Một con chim hít cô (Serin) chết trong lồng, không mổ ruột: bỏ 2 ngày đă śnh rồi mới đưa cho bà X truyền từ-điễn.  Tức th́ ngưng bớt sự hôi thúi lần lần, rồi khô rom, trong ṿng 5 ngày.  Màu sắc của lông cánh c̣n nguyên, màu vàng dợt trở thành màu vàng sậm.  Lông của hai con chim dính cứng vô ḿnh.

    6..) Những con thú.---Con thỏ cắt lấy máu; gan và lá lách. 2 ngày đầu th́ khởi sự khô, song trở lại mềm h́nh như muốn thúi. Qua ngày thứ 3 th́ khô mau, tới bữa thứ năm th́ khô rom hết.

    Trái tim và cật khô mau, không có trở lại mềm.  Trong bốn ngày khô rom.

    Mấy cơ-thể nầy để xem xét trong một tháng không hôi thúi chi cả.  Chúng nó giống như da thuộc cũ mà đánh si-ra đen (cirage noir) sơ sài.

    Máu con thỏ hồi mới thí-nghiệm th́ đặc, 10 cà-ram máu đựng trong cái b́nh bằng chai, trong 3 ngày trở nên lỏng, đỏ ao.  Nước máu nầy trọn 20 ngày th́ lỏng, qua ngày 21 th́ khởi sự đặc lần lần.  Tới ngày thứ 28 th́ nó khô.

     Mỗi 3 ngày th́ lấy kiến hiển-vi xem coi nhiều lần, mấy hột máu vẩn c̣n y nguyên.

    Tới ngày thứ 28 trước khi th́nh ĺnh máu đặc lại, nếu lấy nó trải ra trên một miếng giấy hay là một miếng chai và đem kiến hiển-vi xem coi th́ thấy hột máu đỏ cũng không hư hoại.

    Hiện giờ máu khô rom và cũng c̣n giữ màu đỏ ḷm, không có mùi hôi.  Duy mới hôm qua đây người ta thấy nó nức trên mặt.

    Đó là những việc có rơ ràng, chúng tôi nói trắng ra đây, chỉ lo có một đều là cho đúng với sự thật mà thôi.

            Kư tên:  Đốc-tơ L. Clarac và B. Llaguet,

 

Sự thí nghiệm của ông Stellet   

    Bà D… ở Toulouse sè bàn tay để vài lần trên ḿnh mẩy con thú nhỏ như : chuột, cá, chim và những cục thịt lớn, th́ chúng nó đều khô rom. Những trái cây một phen khô rồi th́ để đời đời.

    Tṛng trắng và tṛng đỏ trứng già đặc cứng không hôi hám chi, bông hoa th́ c̣n y nguyên màu sắc.

    Báo Psychica ngày 15 Févier 1926, có đăng bài của ông Stellet thuật về sự thí-nghiệm của ông như vầy :

    “Tôi đem lại nhà bà D…con cá của tôi câu.  Bà truyền từ-điễn trong 10 phút rồi trả lại cho tôi đem về nhà.             

    Ngày mai tôi đem con cá đó lại cho bà truyền từ-điễn nữa.

    Qua ngày thứ ba con cá khô rom, không nói ra các Ngài cũng biết con cá đó để ruột gan y nguyên.  Tôi đem cho bà những cục thịt ḅ, một con lương, một con ếch, sữa loảng, bà truyền từ-điễn qua mấy vật đó chúng nó hoá ra khô rom, c̣n sữa th́ cứng đơ như cục đá cẫm thạch.


 

 

    H́nh XIII (trương 511) là những h́nh sau khi truyền từ-điễn khô rom, đăng trong báo Psychica, 15 Mars 1926:

    Trái cam (Avril 1924). Gan ḅ (Avril 1924).  Bông hường (Juin 1925). Con lương (Juillet 1925). Hai con cá (Octobre 1925).

    Ve chai không ngăn cản từ-điễn được.  Một cái ve đựng nước tiểu, sau khi truyền từ-điễn, để mấy tháng cũng không có mùi hôi.

    Tôi cũng thấy một mụt ghẽ lở, đầy mủ máu và hôi quá.

    Bà D… để tay lên trên lối 10 lần th́ mục ghẽ đó lành, khô rồi kéo da non.

    Tôi có thuật chuyện nầy cho một người bạn tôi Y-khoa tấn-sĩ và một ông Giáo-sư tại Y-khoa đại-học-hiệu ở Toulouse.  Hai ông nầy tới nhà bà D…thăm và xem coi, những con thú nhỏ của bà để trong tủ sách, hai Ngài lấy lạ lùng hết sức…

    Mấy vị khác như ông A. Pauchard, hai vợ chồng ông P. Burnet cũng có tài làm cho những cá, những bông và trái tim con ḅ con, con dê con khô rom vậy.

    Đó là những sự công dụng sơ lược của từ-điễn, ngày sau con người tấn hoá cao rồi, sẽ thấy nhiều sự lạ lùng nữa.

 

PHÉP TỪ-ĐIỄN KHÁC VỚI PHÉP THÔI-MIÊN.

    Phép từ-điễn khác với phép thôi-miên thế nào?

    Thôi-miên vốn dịch chữ hypnotisme mà hypnotisme do chữ Hy-lạp hypnos mà ra, Hypnos nghĩa là giấc ngủ, nghĩa rộng ra là thuật làm cho ngủ mê. Học thôi-miên đặng trị bịnh th́ là tốt hơn hết, c̣n dùng nó đặng làm việc quấy toại ḷng dục th́ mắc quả báo chẳng sai, chạy trốn đường nào cũng không khỏi.

    Tại làm sao nhiều người học thôi-miên lại bị cận thị?

    Đó là tại luyện sái cách.  Mấy vị đó vẽ chấm đen ḍm măi nên phải hư con mắt.  Phải tập cho có mực thước.  Ḍm trong mặt kiến ít hại hơn là chấm đen.  Song tôi tưởng sửa tâm tánh cho tốt là điều cần ích hơn hết v́ người có đức hạnh vẹn toàn mở miệng ra thiên hạ đều bái phục và không có ai thôi-miên được cả.

 

NHĂN-QUAN (VUE ÉTHÉRIQUE)

    Xin nhắc lại cơi Trần chia ra làm bảy cảnh, ba cảnh thấp là : nước, đất và khí.  C̣n bốn cảnh cao làm bằng chất tinh-khí (substance éthérique).  Con mắt ḿnh chỉ thấy nước, đất và khí đặc lại.  Nếu mà khí không đặc lại ḿnh cũng không thấy.  Chừng mở được nhăn quan của cái phách th́ thấy được 4 thứ tinh-khí và trông suốt qua hết các vật ở cơi trần.  Vách gạch, vách đá, tủ sắt ngăn sự thấy của hai con mắt phàm chớ người có nhăn-quan thấy rơ những đồ để bên kia vách, hay là trong tủ hoặc trong bao niêm phong kín ; người cũng đọc được những đoạn trong một cuốn sách xếp lại; ḍm xuống đất cái thấy rơ những vật ǵ ở cách xa mặt đất chừng một, hai trăm thước.  Đối với người có nhăn-quan  th́ xác-thịt kẻ khác trong ngần thấy rơ tim, phổi, ruôt, gan, cách máu huyết lưu thông, và cơ thể nào mạnh yếu.

    Cũng biết được thứ cây nào trị bịnh chi.

    Tục truyền rằng : “Thuở xưa cái vị tổ khoa y-học bên Trung-Nguyên, ḿnh mẩy trong ngần ; khi nếm thuốc thấy rơ chúng nó chạy vào tạng phủ nào, nên mới làm ra bản-thảo để lại đời sau”.  Tôi tưởng mấy vị ấy chẳng cần tới nếm thuốc chỉ ḍm các chứng bịnh và các vị thuốc th́ đủ biết, thứ nào hạp với chứng bịnh nào rồi.

    Bởi có nhăn-quan nên thuốc của cái vị Chơn-nhơn hay hơn thuốc của người thường bào-chế cả trăm lần

 

BẠCH-LIÊN

 

VẠN VẬT THÁI-B̀NH

 

 

MỤC-LỤC

 

CHƯƠNG THỨ NHỨT

H́nh-dạng cái Phách.  Màu sắc ……………………………………………………………..3

Phận-sự của cái Phách ………………………………………………………………………3

Những trung-tâm-lực của cái Phách ………………………………………………………...4

Phận-sự của những Luân-xa ………………………………………………………………...4

Ba thần-lực của ngôi mặt trời ……………………………………………………………….5

Fo-ha ………………………………………………………………………………………...5

Sự thí-nghiệm về những cách rung-động …………………………………………………...6

Sanh-lực ……………………………………………………………………………………..8

Sanh-khí-cầu ………………………………………………………………………………...9

Sanh-lực có 7 thứ và 7 màu ………………………………………………………………..10

Sanh-lực vô ḿnh cách nào ………………………………………………………………...10

Phận-sự của các thứ sanh-lực ………………………………………………………………12

Mấy hột sanh-khí-cầu nuôi ḿnh rồi đi đâu ? ……………………………………………...15

Sự tiêu-hóa sanh-lực hay là sự hữu-ích của giấc ngủ ………………………………………15

Sự ích-lợi của hào-quang cái Phách ………………………………………………………..17

Những điều có ảnh-hưởng tới cái Phách …………………………………………………...17

Chuyện cái Phách của một người bị cưa tay ……………………………………………….20

Phép thôi-miên với cái Phách ………………………………………………………………22

Sự liên-lạc của cái Phách với xác-thịt ……………………………………………………...22

Cách chụp h́nh sự cảm-động, tư-tưởng và từ-điễn của con người ………………………...23

CHƯƠNG THỨ NH̀

Loài kim-thạch cũng sống như ḿnh …………………………………………………………25

Cung-đa-li-ni hay là hỏa-xà …………………………………………………………………..27

Khí nguyên-dương là cái chi ? ………………………………………………………………..28

Tại làm sao không nên khươi luồng hỏa sớm ………………………………………………….28

Muốn mở luồng hỏa phải đủ những điều-kiện nào …………………………………………….29

Sự ích-lợi của nó ……………………………………………………………………………...30

Máy để thí-nghiệm từ-điễn trong ḿnh con người ……………………………………………31

Những sự thí-nghiệm của ông Fayol ………………………………………………………….32

Động-cơ của ông Tromelin …………………………………………………………………...36

CHƯƠNG THỨ BA

Dùng từ-điễn để trị bịnh ……………………………………………………………………..38

Sự ích-lợi của từ-điễn ………………………………………………………………………..38

Cách chữa một cơ-thể trong ḿnh …………………………………………………………...39

Dùng từ-điễn trong việc mổ xẻ ………………………………………………………………40

V́ sao thôi-miên không tốt …………………………………………………………………..41

Dùng từ-điễn chữa bao lâu mới hết bịnh …………………………………………………….42

Một phép lạ-lùng trị bịnh nào cũng mạnh ……………………………………………………42

Chuyện ông cố-đạo (Curé) d’Ars …………………………………………………………….43

Từ-điễn làm cho cây mau lớn ………………………………………………………………..46

Phép từ-điễn khác với phép thôi-miên ……………………………………………………….51

Nhăn-quan ……………………………………………………………………………………52

 

H́nh I    -  Nguyên-tử rút 6 nguyên-tử khác…………………………………………………...9

H́nh II   -  Sanh-khí-cầu……………………………………………………………………….9

H́nh III  -  Phân phát sanh-lực………………………………………………………………..11

H́nh IV  -  Mấy lằn sanh-lực và các chổ bí yếu  ..……………………………………………14

H́nh V   -  Cơ-quan bài-tiết sanh-lực…………………………………………………………16

H́nh VI  -  Hào-quang cái phách khi khỏe mạnh……………………………………………..17

H́nh VII – Hào-quang cái Phách khi mệt nhọc, thương tích, bịnh hoạn …………………….17

H́nh VIII- Cách trả lời của miếng thiếc, miếng thịt ………………………………………….26

H́nh IX  -  Cách trả lời của loài kim-khí ……………………………………………………..27

H́nh X   -  Máy để thí-nghiệm từ-điễn của ông Fayol ……………………………………….32

H́nh XI  -  Động-cơ của ông Tromelin ………………………………………………………36

H́nh XII -  Từ-điễn làm cho cây mau lớn ……………………………………………………46

H́nh XIII-  Trái, bông, lươn, cá có truyền từ-điễn làm cho khô rom ………………………...50

 

(h́nh ba ngôi của con người)

BA NGÔI CỦA CON NGƯỜI

H́nh tam-giác lớn tượng-trương Chơn-thần (Monade Esprit)

H́nh tam-giác kế đó tượng-trương Chơn-nhơn (Individualité, Soi supérieur, Ego)

H́nh tam-giác nhỏ hơn hết tượng-trương Phàm-nhơn (Personnalité, Soi intérieur)

 

GIẤY PHÉP SỐ 614/PR

NGÀY 9 AVRIL 1949

 

   

 

HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  QUEST  MAGAZINES