HOME  sách   TIỂU SỬ   BẢN TIN  H̀NH ẢNH   thIỀN   BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006 BOOKS  MAGAZINES

                          
BỆNH CÚM

                                               (Influenza)

BS. Nguyễn Văn Đức
Sun, 9 Feb 2003 13:32:38 -0800

Khổ thực, mùa Đông, có năm nào cúm nó thương t́nh, đi chơi chỗ khác không đến cho chúng ta nhờ! Nó lẻn đến tháng 12, đánh lẻ tẻ, nay ra tay mạnh (đúng vào dịp lễ lạc mới thiệt là ác!). Bao người đang khốn khổ v́ nó.

Cúm gây do siêu vi trùng cúm “Influenza” (Influenza virus), hoành hành từ tháng 12 tới khoảng tháng 4 mỗi năm. Ta phân biệt “cúm” (nôm na là “flu”) với “cảm” (cold). Cảm xảy ra quanh năm, so với cúm hiền hơn nhiều, gây bởi những siêu vi ít hung dữ bằng siêu vi cúm. 

      Cúm năm nào cũng đến, song mức độ lan tràn và nặng nhẹ mỗi năm mỗi khác. Những trận dịch cúm lớn, khắp toàn thế giới, cứ 10 đến 15 năm lại xảy ra một lần, kể từ trận dịch lớn năm 1918-1919. Trận dịch toàn cầu năm 1957 làm chết hơn 70.000 người riêng tại Mỹ, chưa kể các nơi khác trên thế giới. Con số người chết bởi các trận dịch lẻ tẻ giữa những trận dịch lớn toàn cầu cũng không phải nhỏ. Hôm nọ, đài truyền h́nh NBC loan báo, những năm gần đây ở Mỹ, mỗi mùa Đông, cúm giết hại 36.000 người. 80-90% số người chết v́ cúm ở vào tuổi trên 65. Thứ đến là những vị mang các tật bệnh kinh niên.

Mức độ tấn công của cúm có thể lên đến 20-30% (tức cứ 10 người, đến 2-3 người bị cúm). Có gia đ́nh cả nhà thay nhau bịnh hết.

Siêu vi trùng cúm gian manh, mỗi năm chúng có thể đổi khác đi cái vỏ bọc bên ngoài của chúng. Vỏ quít dày có móng tay... cố nhọn, mỗi năm người ta lại chế thuốc chích ngừa cúm khác đi, với hy vọng sẽ ngừa được dịch cúm sắp xảy ra trong mùa Đông năm đó. Siêu vi cúm có 3 ḍng: A, B và C. Ḍng cúm A hung dữ nhất, từng gây những trận dịch nổi tiếng thế giới.

Cảm th́ quanh quẩn quanh năm, cúm gần như chỉ xảy ra vào mùa Đông. Vậy, cúm ở đâu, cuối năm mới về góp mặt, vui... Đông, đón Tết? Một giả thuyết cho rằng quanh năm, siêu vi cúm luôn có ở một số người trên khắp thế giới, nhưng… nằm chơi sơi nước, không gây triệu chứng, chờ đến mùa Đông mới ra tay hoành hành. Một giả thuyết nữa: vào các mùa khác, siêu vi cúm trốn ở các súc vật, nghỉ dưỡng sức, vào Đông mới vươn vai tỉnh giấc, và lây sang người.

Siêu vi cúm ẩn trong nước mũi, nước miếng người bệnh. Bệnh truyền từ người bị cúm sang người chưa nhiễm khi những hạt nước nhỏ li ti có chứa siêu vi cúm, bắn ra từ mũi, miệng người bệnh khi họ ho, hắt hơi... Bắt tay, ôm nhau cũng có thể truyền bệnh (dịp lễ lạc, gặp nhau ai cũng tay bắt mặt mừng, choàng vai bá cổ, thân hơn c̣n ôm rịt lấy nhau!). Trong nhà có người đang cúm, bạn khó tránh lây bệnh. 

Triệu chứng

Thời gian từ lúc mới lây bệnh đến lúc bệnh phát ra ngắn, chỉ khoảng 18-72 tiếng đồng hồ. Khác với cảm, triệu chứng của cúm rất đột ngột, nhiều người có thể nói đích xác ḿnh bắt đầu có triệu chứng vào đúng lúc nào.

Đang tự dưng, bạn bỗng nhiên nhức đầu, nóng sốt (thường trên 38.3 độ C hay 101 độ F), ớn lạnh, yếu mệt, khó chịu trong người, nhức mỏi các bắp thịt. Đi kèm là các triệu chứng hô hấp: sổ mũi, rát cổ họng, ho khan, tức vùng giữa ngực. Mắt cũng cay nóng (burning), khó chịu lúc nh́n ánh sáng, đau khi đảo mắt. Cúm nặng có thể gây mê sảng. Nóng sốt lên cao nhất trong ṿng 24 tiếng đầu (nhiều trường hợp đến 41 độ C), rồi giảm dần trong ṿng 2-3 ngày sau. Thỉnh thoảng, cũng có trường hợp nóng sốt kéo dài cả tuần. Nhức đầu thường dữ dội, làm ta khó chịu nhất. Các bắp thịt toàn cơ thể nhức mỏi như dần, nhất là ở lưng dưới và chân. Có người đau cả các khớp xương. Ôi, bị cúm, đời đáng chán!

Nếu không có biến chứng, các triệu chứng của bạn giảm dần trong ṿng 3 đến 5 ngày, nhưng thời gian hồi phục để có thể trở lại làm việc như trước thường chậm hơn khi bị cảm, mất nhiều ngày hay nhiều tuần, nhất là ở người lớn tuổi.

Vị nào đă chích ngừa cúm, nếu không may... vẫn bị cúm, triệu chứng thường nhẹ hơn so với người không chích ngừa. 

Biến chứng

Triệu chứng cúm tuy khó chịu thực, song cúm không nguy hiểm v́ các triệu chứng của nó. Những biến chứng (complications) của nó mới nguy hiểm. Biến chứng xảy ra nhiều nhất là sưng phổi (pneumonia). Siêu vi cúm, dữ hơn các siêu vi cảm, làm tổn thương niêm mạc (mucosa) lót ḷng các ống phổi. Sưng phổi do chính siêu vi cúm gây ra, hoặc do các vi trùng (bacteria) luôn có sẵn trong đường hô hấp. Các vi trùng này thường ngày vẫn sống chung ḥa b́nh với ta không sao, nay nước đục thả câu, bám vào những chỗ niêm mạc bị siêu vi cúm làm tổn thương, tấn công luôn, gây sưng phổi. Biến chứng sưng phổi hay xẩy ra ở các vị lớn tuổi, hoặc những người có bệnh tim, bệnh phổi kinh niên.

Biến chứng nguy hiểm khác là hội chứng Reye (Reye syndrome) ở trẻ em. Hội chứng Reye hay xảy ra nhất trong khoảng tuổi 2 đến 16, vài ngày sau khi bị cúm. Lúc các triệu chứng của cúm có vẻ như đang bớt dần, trẻ đột nhiên buồn nôn và ói mửa. Sau đó khoảng 1-2 ngày, trẻ lờ đờ hoặc mê sảng, giật kinh phong (seizure), rồi đi dần vào hôn mê và có thể chết. Trước kia, khi người ta chưa biết nhiều về hội chứng Reye, tử vong lên đến hơn 40% (cứ 10 trẻ có hội chứng Reye, hơn 4 trẻ chết). Ngày nay, dù với sự định bệnh mau chóng và với các cách chữa trị thích ứng, tử vong vẫn c̣n khoảng 10% (10 trẻ bị, 1 trẻ chết). Cơ chế gây ra hội chứng Reye ở trẻ em bị cúm hiện chưa được biết rơ. Tuy nhiên, người ta nhận thấy các trẻ em nhiễm cúm, nếu dùng Aspirin, sẽ dễ bị hội chứng Reye hơn các trẻ không dùng Aspirin. Hội chứng Reye nay đă giảm đi nhiều, kể từ khi các bậc phụ huynh được báo động, không c̣n dùng Aspirin cho các trẻ em cảm hay cúm.

Các biến chứng khác của cúm: viêm ống phổi, viêm xoang quanh mũi, viêm các bắp thịt, cơ tim, óc... Ngoài ra, ở những vị đang mang bệnh tim, phổi hoặc thận kinh niên, cúm có thể làm các cơ quan này, vốn đă yếu sẵn, thành suy yếu hơn, đe dọa tánh mạng người bệnh. 

Chữa trị

Sự chữa trị cúm, trong những trường hợp không có biến chứng, gồm các phương cách giúp người bệnh đỡ khổ sở v́ các triệu chứng, trong lúc chờ cho cơn cúm đi qua.

Trụ sinh (antibiotics) vừa tốn kém, lại chẳng ăn thua, không làm cúm sợ và đi mau hơn. Trụ sinh chỉ diệt được vi trùng (bacteria), không có kết quả trong những bệnh gây do siêu vi trùng (virus) như bệnh cúm. Chúng... “siêu” hơn vi trùng, nên không sợ trụ sinh. (Các tài liệu y học, vẫn luôn đưa ra lời kêu gọi, yêu cầu các bác sĩ không nên dùng trụ sinh để chữa cảm, cúm). Việc sử dụng trụ sinh chỉ cần thiết, khi đă có các biến chứng (complications) do vi trùng, như sưng phổi, viêm tai giữa (otitis media), hoặc viêm các xoang quanh mũi (sinusitis)... Các khảo cứu cho thấy, nếu dùng sớm, trụ sinh cũng không ngăn ngừa được các biến chứng. Và một khi biến chứng xảy ra, than ôi, vi trùng đă kháng, đă lờn mặt loại trụ sinh đang sử dụng. Dĩ nhiên cần đổi trụ sinh, có khi phải dùng một loại khác độc hại hơn, đắt tiền hơn, làm thủng túi tiền bạn. 

Ta nên nghỉ ngơi và uống thêm các thức uống để cơ thể khỏi thiếu nước, nếu có sốt cao. Ta dùng Tylenol hay các thuốc như Aspirin, Advil, Nuprin, Aleve (mua không cần toa bác sĩ)... để hạ sốt, bớt nhức đầu, đau mỏi các bắp thịt. Dùng Tylenol an toàn nhất. Aspirin, Advil, Nuprin, Aleve... có thể gây chảy máu đường tiêu hóa ở người lớn. Nhất là, nên tránh dùng Aspirin cho các trẻ em dưới 19 tuổi, để tránh hội chứng Reye. Thuốc ho, thuốc sổ mũi, nghẹt mũi hữu dụng trong trường hợp có ho hoặc sổ, nghẹt mũi.

Hiện có hai thuốc thường được sử dụng để chữa cúm gây do siêu vi trùng A: Amantadine và Rimantadine. Nếu uống ngay trong ṿng 48 tiếng kể từ khi bắt đầu có triệu chứng, Amantadine và Rimantadine khiến các triệu chứng cúm mau thuyên giảm (rút ngắn thời gian đau khổ v́ cúm khoảng 50%). 5-10% người dùng Amantadine cảm thấy bứt rứt, căng thẳng, khó ngủ hoặc khó tập trung tư tưởng. Các triệu chứng này sẽ chóng hết khi ta ngưng Amantadine. Rimantadine ít gây phản ứng phụ hơn Amantadine, song đắt hơn. Trong mùa cúm, nếu bỗng nhiên nóng sốt, bạn nên nghĩ: “Chết cha, chắc bị cúm rồi”, và đi bác sĩ sớm trong ṿng 48 tiếng (2 ngày), để có toa mua thuốc Amantadine hoặc Rimantadine. Chớ mất th́ giờ... cạo gió, thoa dầu, vừa đau, vừa nặng mùi, lại chẳng ăn thua (bạn có biết, vào nhà thương, vị nào thoa dầu, bác sĩ và y tá họ thường khám cho nhanh, rồi vội lảng ra xa, v́... không chịu nổi mùi dầu!).

Hai thuốc mới Rilenza và Tamiflu trị được cả cúm A lẫn cúm B. Hai thuốc này khá đắt, và cũng phải dùng ngay trong ṿng một hai ngày đầu khi cúm vừa đến thăm, mới mong có hiệu quả.  

Bạn đang bị cúm (hay lúc bị cảm), nóng ḷng muốn “chích thuốc” để cúm mau hết. Muốn chiều ḷng bạn lắm, nhưng chích thuốc ǵ bây giờ? Đúng theo sách vở, các siêu vi trùng cúm, cảm đâu có sợ kim chích, làm ǵ có thuốc chích để cúm (hay cảm) cuốn gói đi nhanh hơn. 

Ngừa cúm

Phương pháp trị cúm hữu hiệu nhất hiện vẫn là chích ngừa cúm hàng năm. Chích ngừa xong, ta không được bảo vệ 100%, nhưng ít ra cũng được 50 đến 80%.

* Ai cần được chích ngừa?

Tiểu Ban Cố Vấn về Chích Ngừa (Advisory Committee on Immunization Practices) đề nghị chích ngừa cúm cho các trẻ em (từ 6 tháng trở lên) và những người lớn bị nguy hiểm nếu nhiễm cúm, do cao tuổi hoặc v́ đang mang bệnh làm cơ thể yếu sẵn:

- Người lớn trên 64 tuổi, dù không có bệnh ǵ quan trọng.

- Trẻ em trong khoảng tuổi 6-23 tháng.

- Phụ nữ mang bầu, thai kỳ sẽ vào tháng thứ 4 trở đi khi vào mùa cúm.

- Trẻ em tuy ngoài khoảng tuổi 6-23 tháng và người lớn tuy dưới 65, tuy không mang thai, nhưng đang có các bệnh kinh niên như bệnh tim, bệnh phổi (kể cả bệnh suyễn), bệnh thận, bệnh tiểu đường, thiếu máu nặng, bệnh AIDS..., hoặc người đang phải dùng những loại thuốc khiến sức kháng cự của cơ thể suy giảm, như thuốc Prednisone, thuốc chống ung thư.

- Người đang ở trong các viện chăm sóc đặc biệt (nursing homes).

- Người dưới 19 tuổi đang phải dùng Aspirin lâu dài (v́ họ có thể bị hội chứng Reye nếu nhiễm cúm).

- Các bác sĩ, y tá và nhân viên y tế, có nhiệm vụ trực tiếp săn sóc những người thuộc các thành phần kể trên, cả người nhà (household contacts) nữa, cũng nên chích ngừa để tránh nhiễm cúm rồi lây lại cho người thuộc các thành phần cần được chích ngừa cúm kể trên. 

Ngoài ra, tuy không thuộc các thành phần trên, nhưng sợ cúm dữ , ai trong chúng ta cũng có thể chích ngừa (trừ người nào bị nhạy ứng với trứng, v́ chất đệm của thuốc chế từ trứng).

* Chích ngừa lúc nào tốt nhất?

Ở Mỹ, thường dịch cúm chỉ bắt đầu vào tháng 12. Cúm tấn công mạnh nhất vào khoảng tháng Giêng (1) và tháng Hai (2), sau đó vẫn c̣n hoành hành cho đến tháng 4 khi Xuân sang, song với mức độ ít hơn.

1-2 tuần sau khi chích ngừa cúm, cơ thể bắt đầu có kháng thể (antibody) chống cúm. Kháng thể tồn tại trong cơ thể 6 tháng hay hơn. Tuy nhiên, ở một số vị có tuổi, lượng kháng thể giảm xuống dưới mức bảo vệ sau 4 tháng. Thời điểm tốt nhất để chích ngừa cúm, là khoảng tháng 10 đến giữa tháng 11, trước khi cúm đến. Dù vậy, đang trong mùa cúm, rủi chưa chích ngừa, những vị cần được chích ngừa vẫn nên chích, muộn c̣n hơn không, may ra có cơ c̣n tránh được cúm.

A, bạn đang nằm đứ đừ trong chăn, lạnh ơi là lạnh, miệng ho liên miên muốn bứt thở, đầu óc lơ tơ mơ có lúc thấy... cửa Thiên Đường, nghĩ giận lũ siêu vi cúm, giận ơi là giận. Bạn biết thế nào là cúm rồi, không c̣n lẫn giữa cảm và cúm nữa. Bạn lẩm nhẩm, “Cúm quả không thể coi thường, từ nay xin cạch đến già, không lười được, thế nào cũng phải chích ngừa hàng năm trước mỗi mùa cúm”.

 trang nhà l trang sách l bản tin l thiền học l tiểu sử l trang thơ l h́nh ảnh l bài vở

                           Hội Chứng

                              MẸ RƯỢU-CON KHUYẾT TẬT

                                Bác sĩ Nguyễn Ư-ĐỨC

      Kỳ này, mời quí độc giả đọc bài viết của BS. Nguyễn Ư-ĐỨC, về một đề tài chúng ta rất cần biết.

                                                                                    BS. Nguyễn Văn Đức 
                                                                                                    Tue, 18 Feb 2003 19:57:23 -0800

     

      Rượu là một dược phẩm xưa nhất mà nhân loại biết tới. Và rượu cũng là một trong nhiều chất độc hại con người tự nguyện tiêu thụ.

Tại vài quốc gia Âu Mỹ, rượu là nguyên nhân thứ nhất gây ra chậm phát triển trí tuệ, đứng trên cả Hội chứng Down (Down syndrome), một truờng hợp con chậm trí của mẹ luống tuổi sanh con lần đầu.

Từ thế kỷ thứ 18, các nhà nghiên cứu và các thầy thuốc Anh, Pháp đă quan sát thấy hậu quả không tốt của rượu đối với thai nhi mà người mẹ uống trong khi có thai. Những ảnh hưởng tai hại này đă được ghi trong Thánh Kinh: “người nữ có thai đều được nghiêm túc khuyến cáo là không uống rượu nho hoặc đồ uống mạnh và không được ăn thực phẩm không tinh khiết để tránh tổn thương cho thai nhi”. Triết gia Aristote th́ nói những người mẹ say sưa, điên khùng, thường sanh ra con lù đù, chậm chạp.

Ảnh hưởng này được các giới chức y tế Pháp công bố vào năm 1968.

Đến năm 1973, trên tạp chí Y học Lancet, Kenneth Lyons Jones và David W. Smith đặt tên cho ảnh hưởng này là Fetal Alcohol Syndrome. Họ đă nghiên cứu h́nh dáng bất b́nh thường của năm đứa trẻ do các bà mẹ nghiện rượu kinh niên sanh ra. Rồi đến ngày 31 tháng Năm 1977, trong chương tŕnh phát h́nh buổi chiều, đài NBC đă mang tŕnh diện h́nh ảnh em bé Melissa bị ảnh hưởng của rượu mà người mẹ uống khi mang thai em. Đầu em nhỏ, thân h́nh mảnh khảnh, mí mắt hẹp. Dung mạo bất b́nh thường của em bé đă gây một xúc động lớn trong quần chúng.

Ngay ngày hôm sau hai cơ quan uy tín về Bệnh Nghiện Rượu ở Mỹ vội vàng lên tiếng rằng: đàn bà có thai mà uống trên 2 “drinks” rượu mỗi ngày th́ đều có nguy cơ sinh con dị dạng, chậm trí. Mỗi “drink” tương dương với 15 ml rượu nguyên chất. Họ cũng công bố kết quả các nghiên cứu dịch tễ rằng rượu là chất gây quái thai, tâm trí bất thường khi c̣n là bào thai hoặc khi tăng trưởng. Các hệ thống thông tin lớn cũng vội vàng phổ biến rộng răi tin tức quan trọng này. Từ đó, công chúng bắt đầu lưu tâm nhiều hơn với vấn nạn Mẹ-Rượ­u­-Con-Khuyết-Tật. Giới y khoa mở rộng phạm vi nghiên cứu, điều trị. Y tế công cộng đưa ra các chương tŕnh pḥng ngừa, giáo dục hướng dẫn phụ nữ có thai đừng uống rượu.

Đến năm 1989, trên mỗi chai rượu đều ghi lời cảnh cáo về Fetal Alcohol Syndrome (FAS) như sau: “According to the Surgeon General, women should not drink beverages during pregnancy because of the risk of birth defects”. Việc ghi nhăn hiệu này cũng phải trải qua nhiều vận động từ năm 1977 v́ các hăng sản xuất rượu bảo vệ quyền lợi của họ nên phản đối. Cũng năm 1989, trên giấy khai sinh có dành một ô trống để ghi nếu người mẹ có thai mà ghiền rượu.

Giống như ảnh hưởng không tốt của thuốc lá, nhiều người cũng đứng ra kiện các nhà sản xuất rượu v́ tác dụng tai hại này trên thai nhi.

Ảnh hưởng của rượu trên thai nhi

Khi người mẹ uống rượu th́ mẹ uống bao nhiêu con cũng uống bấy nhiêu v́ rượu theo máu lưu chuyển sang con với cùng nồng độ. Nếu trong máu mẹ có mức rượu là 0.3 th́ con cũng 0.3. Nhưng nhờ người to, lá gan lớn nên mẹ loại rượu ra mau hơn con. Thành ra người mẹ có thể say rượu trong vài giờ nhưng con tiếp tục li b́ vài ngày, và say khướt (binge) trong thời gian ngắn lại hại hơn là uống lai rai kinh niên.

Sau khi uống, chất rượu ethanol được chuyển thành acetaldehyde mà chất này có tác dụng độc hại lên tế bào thai nhi. Các chuyên gia đă đề nghị một số giải thích ảnh hưởng này như sau:

a- Rượu tương tác với chất prostaglandins, một chất có liên hệ rất nhiều tới tăng trưởng và các chức năng của thai nhi.

b- Rượu làm giảm sự lưu thông máu từ mẹ qua con do đó chất dinh dưỡng, dưỡng khí giảm và tế bào thai nhi bị suy yếu, kém tăng trưởng.

c- Rượu cũng có thể ảnh hưởng tới sự hấp thụ khoáng chất zinc và magnesium hoặc làm thay đổi các diếu tố (enzymes), lượng kích thích tố như corticosteroid, kích thích tố tăng trưởng. Mỗi người, mỗi chủng tộc có những enzymes khác nhau để hủy rượu, nên ảnh hưởng của rượu thay đổi tùy người, tùy giống.

d- Rượu làm thay đổi cấu trúc của màng tế bào, đưa đến thay đổi h́nh dạng, kích thước, làm chậm tăng trưởng và phân bào. Mọi tế bào đều bị ảnh hưởng, nhất là tế bào thần kinh vào giai đoạn đầu của thời kỳ có thai.

      e- Rượu cũng giảm khả năng tổng hợp các chất dẫn truyền tín hiệu thần kinh cho nên các sinh hoạt trí năo bị ảnh hưởng rất  nặng.

      Ảnh hưởng cũng thay đổi theo tuổi của đứa bé. Tuổi c̣n thơ, bé hay bồn chồn, dễ kích thích, ăn ngủ khó khăn, chậm lớn, chậm phát triển, cử động không ḥa nhịp. Trước khi đi học th́ chúng hay năng động, chia trí, kém nhận biết, diễn tả ngôn ngữ khó khăn. Đến khi đi học th́ không chú ư, quá hoạt động, không biết làm toán, học không vô, hành động mất kiểm soát. Lớn lên: kém trí nhớ; kém suy luận, nhận xét; không biết cách sử dụng tiền bạc; không biết hậu quả việc làm; dục tính không hợp lư; ghiền rượu thuốc; có vấn đề trong hành vi, cư xử.

Hội chứng này là một tàn tật (disability) kéo dài suốt đời, khó mà chữa và đứa trẻ không “lớn lên là hết” (grow out of it) v́ tế bào thần kinh hư hao là không phục hoạt được. Nhiều tế bào thần kinh không được di chuyển tới vị trí định trước nên có vùng năo không tăng trưởng, bỏ trống, thiếu dây thần kinh nối kết nên các chức năng bị rối loạn. Đây là một vấn đề quan trọng ảnh hưởng tới sức khỏe nạn nhân cũng như có nhiều hậu quả xấu cho gia đ́nh và xă hội.

Ảnh hưởng của rượu tùy theo giai đoạn của sự có bầu và số lượng rượu tiêu thụ:

a- Thời điểm:

Quan sát ở súc vật cho thấy uống rượu vào ba tháng đầu của thai nghén đưa tới khuyết tật cơ quan cơ thể; thời kỳ nh́ và ba đưa đến hành vi bất thường. Nhiều quan sát cho thấy ngưng uống vào giai đoạn ba của thai nghén cũng giảm bớt một phần ảnh hưởng xấu. Dăm lần uống say mềm (binge) rồi ngưng cũng nguy hại dù sau đó ngưng hoàn toàn.

b- Về số lượng: 

Câu hỏi đầu tiên được nêu ra là có một mức an toàn nào cho người mẹ ghiền rượu không? Một số ư kiến là đă có nhiều thế hệ phụ nữ mang thai uống rượu mà có sao đâu. Ngoài ra, cơ thể mỗi người mỗi khác nên rất khó mà xác định số lượng nào th́ có hại cho thai nhi cũng như uống bao nhiêu th́ an toàn.

Số lượng uống nhiều ít được dư luận trong ngoài y giới lưu ư và trở thành một đề tài về sức khỏe công cộng. Phụ nữ được hướng dẫn, giải thích không nên uống rượu khi có thai. Truyền thông cũng nhắc nhở các bà mang bầu là đă có công sửa soạn có thai th́ cũng nên tránh rượu để khỏi gây rủi ro cho con ḿnh.

Mới đầu, vấn đề c̣n quá mới nên nhiều thầy thuốc cho là nếu uống chừng dưới 30 ml một ngày th́ không sao. Ngay cả tổ sư môn học sinh đẻ Benson trong sách sản phụ khoa của ông ta xuất bản năm 1977 cũng cho là “đôi khi uống rượu, chẳng hạn một coctail trước bữa ăn tối, th́ không có ảnh hưởng ǵ cho thai nhi”. Nhưng sau đó v́ ảnh hưởng của rượu quá rơ ràng nên sách tái bản năm 1983 nói rằng: “có thai mà tránh uống rượu là điều hay nhất; rằng đôi khi uống th́ được mà ghiền kinh niên th́ có thể sinh ra con dị dạng, chậm trí”.

 Theo một quan sát của Royal College of Obstetricians and Gynecologists th́ khi uống dưới 8.5 drinks một tuần hoặc 1 drink một ngày th́ con không bị FAS hoặc bị ảnh hưởng.

Năm 1977, hai tổ chức quan trọng về bệnh nghiện rượu bên Mỹ “National Institute of Alcohol Abuse and Alcoholism” và “National Council on Alcoholism” ra chung một thông cáo tuyên bố rằng “phụ nữ có thai mà mỗi ngày uống từ  6 drinks (khoảng 90 ml) trở lên th́ có nhiều nguy cơ sanh con khuyết tật”. Cẩn thận hơn nữa, hai cơ quan xác nhận  thêm “ngay cả từ 2 tới 6 drinks cũng có thể gây ra tổn thương cho thai nhi”.

Tập san của Hội Y Sĩ Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 1984 có đăng một bài mà ư chung  là  “dù chỉ uống rượu vừa phải cũng gây ra chậm tăng trưởng cho thai nhi”.

Càng ngày càng có nhiều chứng minh chắc chắn là tác hại của rượu lên thai nhi tùy thuộc vào số lượng: uống nhiều, hại nhiều; mức độ rượu cao có tác dụng xấu hơn mức độ làng nhàng, chẳng hạn khi đột nhiên uống tới say mềm là hại. V́ không đồng ư với nhau về con số, nên giới chức thẩm quyền khuyên chẳng nên uống rượu khi có bầu.

Vấn đề FAS đặt ra đúng vào lúc tỷ lệ phụ nữ, nhất là thiếu nữ, dùng rượu tăng cao. Trong khi đó kỹ nghệ sản xuất rượu lại rất mạnh và đóng góp nhiều cho ngân sách  nhiều quốc gia. Rượu lại rất phổ thông, được bán hợp pháp, được quảng cáo rộng răi, được nhiều nguời uống.

Riêng với người mẹ th́ cũng có nhiều vấn đề trong thời gian mang thai. Họ dễ bị băng huyết, nhau tách sớm, sẩy thai.

Dấu hiệu của khuyết tật

Ngay khi mới sanh, đứa bé có dấu hiệu như của một người ghiền nhớ rượu: rất dễ  bị kích thích, ḿnh run rẩy, cơ thịt co dựt như lên kinh phong.

Hai thay đổi chính sau đây đă được diễn tả:

1- Thay đổi h́nh dáng:

- Mặt là nơi có những thay đổi rơ ràng, đặc biệt nhất. Đầu nhỏ, tóc mọc sau gáy, trán nhô, mặt dẹp, g̣ má thấp, tai thấp, mi mắt sụp, mắt nhỏ, mũi ngắn, sống mũi dẹp, môi trên mỏng đôi khi chẻ, răng nhỏ, cằm lẹm, khoảng cách giữa mũi và miệng rộng;

- Lồng ngực nhô ra hoặc xẹp vào, cột sống nghiêng vẹo;

- Khớp xương và tứ chi bất b́nh thường: ngón tay út ngắn, co quắp; dấu ngón tay mờ, cơ thịt nhăo, khớp xương lỏng lẻo; cử động xương hông giới hạn;

- Ngũ quan cũng bị ảnh hưởng: về thị giác th́ có lé mắt (strabismus), rung dật nhăn cầu (nystagmus), cận thị cả hai mắt. Dây thần kinh mắt bị giảm sản;

- Một phần ba nạn nhân bị điếc trong khi đó th́ nhiều em lại có nhạy thính giác bất thường. Hầu hết hay bị viêm tai giữa.

- Tim thận có dị tật. Vách nhĩ thất thủng. Thận giảm sản, chia đôi; bọng đái có túi (ladder diverticula), ngọc hành nằm trong bụng.

Các em đều chậm lớn, biếng ăn, nhẹ kí, ngủ nghỉ bất thường. Đa số có thể tăng trưởng được nhưng rất chậm.

2- Chậm phát triển trí tuệ:

Hầu hết các em có chỉ số trí tuệ IQ chỉ khoảng 68. Khả năng đọc hiểu ở tŕnh độ lớp 4, khả năng toán học ở lớp 2. Về phương diện giáo dục, chúng được xếp vào loại “có thể dậy dỗ được”. 90% kém khả năng tiếp nhận và diễn tả ngôn ngữ, và 95% không biết tiêu tiền.

Tiếng nói lơ lớ, âm thanh trong họng, đều đều, cứng nhắc, phát âm không rơ dù ư nghĩa và nội dung b́nh thường.

Thời gian phản ứng chậm, kém tập trung; không phân biệt được mầu sắc; khó nhớ tên người và sự vật; kém phán xét, không biết hậu quả hành động của ḿnh; không ư thức được tương lai; không phân biệt khen chê, ơn nghĩa; kém phối hợp các hành động.

Ngay từ khi c̣n bé, các em đă ngang ngược, hay đ̣i hỏi và gây bực ḿnh cho người khác. Lớn lên chúng thích cô đơn, bất cần đời, không chơi với ai, không nghe ai, lười biếng, thụ động, buồn vô cớ, ăn cắp vặt, xâm phạm t́nh dục, lạm dụng rượu.

Một hội nghị vào năm 1980 của các chuyên gia về hội chứng này đă đề nghị là để định bệnh, phải có một trong các dấu hiệu của ba loại sau đây:

1-      Chậm tăng trưởng trước và sau khi sanh với thiếu cân, thiếu chiều cao, đầu nhỏ so với tuổi

2-      Rối loạn về hệ thần kinh trung ương với các dấu hiệu bất b́nh thường các chức năng thần kinh, chậm phát triển về hành vi hoặc có hư hao trí tuệ

3- Có ít nhất hai dấu hiệu bất thường về đầu-mặt như đầu nhỏ, mắt ti hí, mép trên rộng, môi trên mỏng, mũi ngắn, g̣ má dẹp.  

Điều trị - Chăm sóc 

Chăm sóc, giải quyết những vấn nạn xă hội của người mẹ say sưa, những hậu quả của đứa con tật nguyền là trọng tâm.

Động cơ đưa người mẹ tới nghiện rượu cần được t́m hiểu, giúp đỡ. Có vấn đề gia đ́nh, việc làm. Có đam mê, áp lực của bè bạn. Không hay biết tác hại của rượu.

Những chối căi, giấu giếm cần được phát hiện, phanh phui.

Giáo dục, giải thích về hậu quả của rượu với mẹ và bào thai. Những khuyết tật, những chậm trí, những vần đề cá nhân và xă hội của đứa bé tăng trưởng trong say sưa của mẹ. Những tốn kém cho gia đ́nh và ngân sách quốc gia.

Kinh nghiệm cho hay phụ nữ có thai trẻ, độc thân, kém văn hóa, ghiền thuốc lá th́ lại hay uống rượu nhiều hơn. Họ cần được khuyên giải nhiều hơn. Trường hợp cần để bảo vệ thai nhi th́ có thể đặt người mẹ dưới sự giám sát của pháp luật. Ghiền rượu khi có thai được nhiều người coi như một bạo hành với thai nhi, lấy đi cái quyền sống cuộc đời b́nh thường của chúng.

Trong hướng dẫn, giáo dục nên nhấn mạnh ở ảnh hưởng xấu của rượu và lợi ích cho cả mẹ lẫn con khi mẹ ngưng uống. Không bao giờ quá trễ để bỏ rượu, v́ ngưng lúc nào là thai nhi bớt say lúc đó. Dọa nạt nhiều khi đưa tới thái độ đối kháng, bướng bỉnh.

Với con, việc chăm sóc điều trị phức tạp, tốn phí và lâu dài hơn v́ đứa bé sinh ra với nhiều bệnh về thể xác và tâm thần. Vào tuổi đi học, các em đều mang nhiều vấn đề khó khăn tại học đường. Lớn lên, các em hay có những hành vi bất xứng, phạm pháp, không giữ được liên hệ gia đ́nh nhất là với người mẹ đă sinh ra ḿnh. Đa số các em được chăm sóc bởi cha mẹ nuôi hoặc trong viện mồ côi. Nhiều em sau này cũng rơi vào ṿng nghiện ngập, bê tha. Và chính quyền phải mang gánh nặng cưu mang giúp đỡ các em suốt đời.  

Kết luận

Tuy tỷ lệ Mẹ-Rượu-Con-Khuyết-Tật không cao, nhưng những đứa con sinh ra đều mang nhiều tàn phế của cơ thể và sống trong những hoàn cảnh đáng thương. Tất cả chỉ v́ sự thiếu ư thức kèm theo một chút yếu ḷng của người mẹ.

      Đă mất công mang thai, đă hoài băo có con th́ người mẹ cũng nên dằn ḷng cho qua khỏi thời gian chín tháng mười ngày cưu mang. Để mẹ tṛn, con vuông, cho gia đ́nh đầm ấm với tiếng nói trong vui của trẻ thơ lành mạnh.

                                                                   BS Nguyễn Ư-ĐỨC 
                                                                          TX, 28/1/03          
 

 HOME  sách   TIỂU SỬ   BẢN TIN  H̀NH ẢNH   thIỀN   BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006 BOOKS  MAGAZINES