Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME  NHẬP MÔN  sách   TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  QUEST  MAGAZINES

 

ĐẠO HỌC TÙNG THƯ

TRƯỚC THỀM THÁNH ĐIỆN

(VERS LE TEMPLE) 

 tác giả  ANNIE BESANT
Dịch giả BẠCH LIÊN và CAO THỊ LAN
1964
 SÀI G̉N

đầu trang cuối trang mục lục lời nói đầu  phần 1 2 3 4 5


 

 

 

 

 

 MỤC LỤC

 

VÀI LỜI NÓI ĐẦU

I- SỰ TINH LUYỆN

II- SỰ LUYỆN TẬP CÁI TRÍ

III- SỰ LẬP HẠNH HAY LÀ LUYỆN TÁNH

IV- TINH THẦN HOÁ HAY KHOA LUYỆN KIM

V- TRƯỚC THỀM THÁNH ĐIỆN

 

 

 

 

 

VÀI LỜI NÓI ĐẦU

đầu trang cuối trang mục lục lời nói đầu  phần 1 2 3 4 5

 

Năm đề tài sau đây:

I.- TINH LUYỆN

II.- TẬP LUYỆN CÁI TRÍ

III.- LẬP HẠNH

IV.- TINH THẦN HÓA hay là KHOA LUYỆN KIM TINH THẦN

V.- TRƯỚC THỀM THÁNH ĐIỆN

Vốn của Đức Bà Annie Besant thuyết tŕnh tháng 8 năm 1875, tại Chi Bộ Thông Thiên Học Blavatsky, một trong những Chi Bộ lớn ở Luân Đôn.

Chúng nó liên quan mật thiết với nhau và được in ra thành sách nhan đề: “The outer court” dịch ra tiếng Pháp là: Vers le Temple.

Xét rằng cuốn nầy hữu ích cho tất cả tín đồ các Tông giáo và cho những ai muốn t́m cửa Đạo, chớ không phải riêng ǵ hội viên Thông Thiên Học mà thôi, nên chúng tôi cố gắng phiên dịch nó ra Việt ngữ không ngoài ư muốn cống hiến cho đồng bào một tác phẩm rất có giá trị của một vị Đại đức, lăo Tiền Bối và Cao đồ của Chơn sư đă hi sinh tất cả để phụng sự nhơn loại và đă từng châu du khắp hoàn cầu đặng thuyết Đạo.

Cuốn”Trước Thềm Thánh Điện” đi đôi với cuốn “Con Đường Của Người Đệ Tử”. Phải đọc nó trước, nhiên hậu mới thật hiểu những lời của Đức Bà Annie Besant giải trong cuốn “Con Đường Của Người Đệ Tử”.

Ai bền chí Tu tâm luyện trí theo phương pháp của Ngài chỉ dạy trong hai quyển đó từ mười năm sắp lên mà không gián đoạn th́ sẽ thấy ḿnh Đổi mới”, tức là trở thành một người biết tuân theo thiên lư, sống một đời sống cao thượng hơn trước và chắc chắn sẽ có những bực cao minh tới Điểm Hóa cho.

Điều nầy đúng với sự thật một trăm phần trăm, nó không bao giờ sai đâu, bởi v́ theo luật Nhân quả, con người gieo giống chi gặt giống nấy. Học Đạo và hành Đạo mà không kíp th́ chầy sẽ đắc Đạo. C̣n thuyết Đạo mà không hành Đạo th́ có khác nào đứng một chỗ dậm chơn chớ không chịu cất bước ra đi. Như thế không biết bao giờ mới tới mục tiêu của ḿnh đă nhắm.

Vẫn biết nửa thế kỷ trước đây những sách đạo đức chỉ hợp với một số rất ít người muốn t́m chơn lư và nhứt là những vị lăo thành đă giàu kinh nghiệm nên sanh ḷng chán nản những tṛ đời giả dối, cuộc thế đảo điên.

Nhưng thời gian qua: nhơn loại đă tiến tới một khúc quanh lịch sử. Một chu kỳ mới, chu kỳ Huyền bí Học, sẽ mở màn vào năm 1975. Con người sẽ đua nhau học hỏi những sự bí mật của Tạo Công và t́m hiểu ảnh hưởng của những cơi vô h́nh bao bọc quả địa cầu của chúng ta, ảnh hưởng nầy rất lớn lao đối với người và vật.

Thế nên những sách của các nhà Huyền bí Học viết ra về Vũ Trụ và nhân sanh rất hữu ích cho các bạn Thanh niên Nam Nữ hiện giờ. Quí bạn có sẵn một cây kim chỉ nam để nhận định phương hướng chánh phải theo cho đúng và hạp với cơ Tiến hóa. Quí bạn tự biết ḿnh rồi th́ sẽ biết được Vũ Trụ và các vị Thượng Đế bởi v́ con người đồng bản tánh với trời đất. Mỗi người trong chúng ta đều là một vị Thái dương Thượng đế vị lai, trong ḿnh vẫn có đủ chất khí đă tạo ra càn khôn vũ trụ.

Vậy th́ cầu xin cuốn “Trước Thềm Thánh Điện” đem ánh sáng thiêng liêng soi tỏ bước đường của Quí bạn cũng như nó đă từng giúp chúng tôi rất nhiều trong công việc tu tâm luyện tánh hằng ngày.

                                                                     

Châu Đốc, ngày 14 tháng 2 năm 1964.

Mùng hai Tết năm Giáp Th́n.

BẠCH LIÊN 

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

 

TRƯỚC THỀM THÁNH ĐIỆN

 

I.- SỰ TINH LUYỆN

đầu trang cuối trang mục lục lời nói đầu  phần 1 2 3 4 5

Nếu tự một cứ điểm trong không gian, chúng ta có thể nh́n theo con đường tấn hóa mà học về lịch sử của các dăy hành tinh theo một quan niệm tưởng tượng, rồi h́nh dung ra mọi việc, chớ không phải tùy theo những cảnh Hồng trần, Trung giới và Thượng giới của những bầu đó, nếu chúng ta có thể đứng từ bên ngoài mà nh́n ngắm những đám chúng sanh đang tiến tới, đám nhân loại đang tiến hóa, th́ h́nh như chúng ta có thể diễn tả mọi sự kiện giống như một bức họa vậy. Tôi thấy một ngọn núi cao đứng sững giữa không gian, từ dưới chơn núi có một con đường đi lên ṿng quanh cho đến đỉnh núi. Con đường nầy gồm có bảy ṿng khu ốc. Trong mỗi ṿng có bảy trạm nghỉ cho khách hành hương dừng chân trong một thời gian, và ở mỗi trạm nghỉ đó, họ c̣n phải do một con đường khu ốc [[1]] mà leo lên cao nữa.

Đi theo các ṿng khu ốc cho tới tận cùng, chúng ta thấy rơ: theo cách nào con đường đă leo lên đỉnh núi. Nó dẫn dắt đến một ṭa Thánh Điện trang nghiêm, một ṭa Thánh Điện như làm bằng cẩm thạch trắng, nổi bật, sáng chói và huy hoàng trên nền trời xanh thẳm. Ṭa Thánh Điện đó là mục đích của cuộc hành hương, ai vào được trong đó là đă hoàn tất cuộc hành tŕnh của ḿnh, ít nhất là đối với ngọn núi nầy, và nếu họ c̣n ở trên núi, đó chỉ là với mục đích duy nhất: để giúp đỡ những kẻ đang đi lên mà thôi. Nếu chúng ta nh́n ngắm ṭa Thánh Điện sát một bên, nếu chúng ta muốn biết nó được xây cất theo lối nào, chúng ta sẽ thấy tại nơi trung tâm, có một cái Linh Đài, xung quanh có bốn cái sân xếp theo những h́nh tṛn đồng một trung tâm điểm. Những cái sân nầy ở phía trong ṿng thành Thánh Điện; có những bức tường ngăn cách sân nầy với sân nọ, và muốn đi từ sân ngoài vào sân trong, người hành hương phải bước qua một cái cửa, cái cửa duy nhất của mỗi bức tường bao quanh sân. Phía ngoài Thánh Điện, có một cái sân thứ năm, đó là ṿng ngoài đông khách hành hương hơn ở trong Thánh Điện.

Vậy chúng ta có ngay dưới mắt một bức họa miêu ta sự tấn hóa của nhân loại và con đường mà ṇi giống ta đang đi theo và mút con đường là ṭa Thánh Điện. Trên đường, rất đông người đang đi lên chậm chạp, chậm chạp đến nỗi h́nh như mỗi khi họ tiến lên được một bước th́ họ lùi lại một bước vậy. Xu hướng chung của toàn thể là đi lên, nhưng họ đi chậm chạp đến nỗi người ta phải khó nhọc lắm mới nhận thấy rằng họ đang tiến. Cái sự tiến hóa không ngừng của nhân loại qua mọi thời đại có vẻ dài ḍng và mệt nhọc đến nỗi người ta phải tự hỏi rằng làm sao các khách hành hương lại có can đảm trèo lên hoài trong một thời gian lâu thế. Phải cần đến hàng triệu năm để theo dơi nhân loại đi ṿng quanh ngọn núi; muốn theo dơi một khách hành hương duy nhất trên con đường của y th́ phải mất nhiều triệu năm khác nữa, và chúng ta thấy rằng h́nh như người hành hương nầy phải trải qua vô số kiếp luân hồi liên tiếp để mà tiến lên măi. Chúng ta sẽ mệt mỏi khi nh́n thấy những đám đông ấy tiến lên chậm chạp như thế, từng nấc một trên con đường ṿng quanh. Nh́n ngắm họ, chúng ta tự hỏi rằng: “Tại sao họ trèo lên chậm chạp thế? Tại sao họ luôn luôn cố gắng tiến về phía ṭa Thánh Điện dựng trên đỉnh núi”.

Khi ta quan sát họ th́ dường như họ đi chậm, là v́ họ không nh́n thấy mục đích, họ không biết cái phương hướng của cuộc du hành của ṇi giống họ. Nếu chúng ta nhận xét riêng biệt vài ba người trong bọn, ta thấy họ luôn luôn rời xa đường lộ và bị nơi nầy nơi kia quyến rũ; thái độ của họ không có ǵ là nhất định cả. Thay v́ tiến thẳng về phía trước như những người bận rộn, họ lại đi lang thang chỗ nầy chỗ kia, giống như những đứa trẻ rời bỏ đường cái để hái một bông hoa hay đuổi theo một con bướm. Dường như trọn cả cuộc đời họ bị lăng phí, và đêm tối đến, khi Tử thần tới trước họ, họ dừng chân một thời gian và tấn hóa rất ít. H́nh như sự phát triển về trí thức, dù có chậm chạp đến đâu, cũng không thúc giục họ đi mau hơn được. Những kẻ mà trí khôn vừa mới được thành h́nh, dường như đang ngủ mê sau mỗi ngày, tức là mỗi kiếp của cuôc đời, th́ chỉ tiến hơn được chút ít, nếu mang ra so sánh với cái giai đoạn của ngày vừa qua tức là tiền kiếp, và những ai trí khôn đựơc phát triển khá hơn cũng không đi nhanh hơn và dường như sự tiến bộ của họ rất ít trong mỗi kiếp. Nh́n thấy họ đi lên như vậy, ta phải nản ḷng và tự hỏi tại sao họ không ngước mắt nh́n xem con đường sẽ dẫn họ đến đâu. Và dường như cái con đường dài khu ốc đi ṿng quanh núi không phải là con đường duy nhất dắt đến Sân Ngoài của ṭa Thánh Điện, cái sân đầu tiên nơi đó đôi ba người dẫn đầu cuộc tấn hóa đă vào được. V́ khi nh́n kỹ, chúng ta thấy có nhiều điểm trên con đường khu ốc do đó người ta có thể đi đến Sân Ngoài, bằng cách theo những con đường tắt, ngắn hơn, không đi ṿng quanh núi, mà đi thẳng lên đỉnh núi. Người hành hương có tấm ḷng can đảm, tay chân cứng cát, có thể chọn con đường tắt nầy. Và nếu chúng ta t́m cách hiểu tại sao một số người đă đi đến Sân Ngoài nhanh chóng hơn đồng loại của họ, th́ ta sẽ thấy rằng họ sẽ rời bỏ con đường dài để lần đầu tiên dấn bước trên con đường tắt khi lần thứ nhứt họ nh́n thấy được một ánh sáng tự nơi Thánh Điện xẹt ra. V́ Ṭa Thánh Điện trắng ngần đứng trên đỉnh núi hằng phát ra những tia sáng chiếu rọi xuống sườn núi. Thỉnh thoảng, một khách lữ hành không mải mê nh́n những con bướm và những ḥn sỏi trên đường nữa th́ tia sáng dường như chiếu vào mắt y. Y ngửng đầu về phía ṭa Thánh Điện, y nh́n thấy nó một chốc lát, và sau cái nh́n thoáng qua ban đầu ấy, th́ y không c̣n giống như trước nữa. Dù chỉ trong chốc lát, y cũng đă nh́n nhận ra được một mục đích, một cứu cánh; y đă thấy thoáng qua cái đỉnh núi mà y muốn tiến đến, y đă thấy con đường tắt dốc hiểm nhưng ngắn hơn không biết bao nhiêu, nó vượt ngay lên sườn núi và dẫn đến chót đỉnh trên đó ṭa Thánh Điện đang chiếu sáng rực rỡ.

Và ngay cái lúc linh hồn nh́n nhận được mục đích phải đạt được, ngay cái lúc nó hiểu biết, trong một tia trực giác chớp nhoáng, rằng thay v́ con đường dài xoay quanh trái núi và theo h́nh khu ốc nhiều lần, có một con đường tắt dẫn đến mục đích, - trong cái lúc giác ngộ chớp nhoáng nầy, linh hồn c̣n hiểu thêm rằng con đường tắt có một danh từ, là Phụng Sự và tất cả những ai đi theo con đường rút ngắn đó đều phải chui qua một cái cửa có ghi những chữ vàng rực rỡ sau đây: “Phụng Sự Nhân Loại”. Linh hồn mà chúng ta theo dơi, lúc đó hiểu rằng trước khi có thể đi vào Sân Ngoài của Thánh Điện, y phải đi qua cái cửa đó và nhận định rằng: người ta sống là để phụng sự chớ không phải là để làm thỏa măn những dục vọng ích kỷ, và cái phương pháp duy nhất để tiến lên nhanh hơn, là tiến lên để làm điều ích lợi cho những ai đang chậm bước, ngơ hầu ṭa Thánh Điện có thể ban phát cho những khách hành hương đi theo con đường dài một sự giúp đỡ có hiệu lực hơn là những trường hợp khác.

Như tôi đă nói, đó chỉ là một chớp nhoáng, một sự thấy thoáng qua mà thôi, rồi lại tan mất ngay đi, v́ chỉ có một tia sáng tự ngọn núi phóng ra rọi vào mắt mà thôi. Và suốt dọc đường ngoằn ngoèo có rải rác không biết bao nhiêu sự vật quyến rũ để thu hút linh hồn một lần nữa. Nhưng một khi đă nh́n thấy được ánh sáng rồi, th́ rất dễ mà nh́n thấy nó lại một lần nữa. Một khi đă nh́n thấy thoáng qua cái mục đích phải đạt cho được, một khi đă hiểu rơ cái bổn phận và cái khả năng phụng sự, mặc dầu sự hiểu biết này chỉ là nhứt thời trong ánh sáng trực giác th́ c̣n lại ở tận đáy ḷng một ư muốn đi theo con đường ngắn nhứt và t́m lối thẳng tiến lên Sân Ngoài Thánh Điện. Sau khi đă nh́n thấy như thế lần thứ nhứt, rồi thỉnh thoảng tia sáng đó cũng nhấp nháy hiện ra. Từ ngày này sang ngày khác trong cuộc leo núi dài thăm thẳm, tia sáng cứ xuất hiện măi, có lẽ mỗi ngày một rực rỡ thêm lên. Và chúng ta thấy những linh hồn này bắt đầu đi lên một cách vững chắc hơn đồng loại của họ. Tuy họ c̣n đi ṿng quanh trái núi, họ lập hạnh (trau dồi tánh nết) một cách đều đặn hơn và hiến ḿnh cho tôn giáo một cách quả quyết hơn, tôn giáo này cố gắng chỉ dẫn cho họ thấy rằng họ có thể lên tới Thánh Điện bằng cách nào.

Những linh hồn nào đă thoáng nh́n thấy cái mục đích có thể đạt được và tự biết ḿnh có xu hướng để theo con đường nầy nhiều hay ít, th́ nổi bật lên giữa đám đồng loại do tánh siêng năng và chú ư, và chẳng bao lâu họ sẽ dẫn đầu cái đám đông c̣n rải rác trên đường. Họ đi nhanh hơn v́ họ tiến một cách quả quyết hơn, v́ họ đă bắt đầu hiểu cái phương hướng mà họ đang theo, v́ vậy nên họ cố gắng – tuy lúc đầu c̣n bất toàn – để tiến lên, nghĩa là để sống theo một mục đích nhất định. Và tuy mới vừa hiểu được rằng kết cuộc mục đích đó sẽ là ǵ – (v́ họ có một trực giác mập mờ về điều nầy hơn là một sự hiểu biết rơ ràng) – họ cũng không c̣n đi lang thang rày đây mai đó nữa, không c̣n để cho ngày mai cướp mất cái ǵ mà họ đă thu thập được ngày hôm nay. Từ nay, họ không tiến lên trên con đường ṿng quanh, và trong mỗi ngày tức là mỗi kiếp của cuộc đời, họ lại trèo lên nhanh hơn một chút, cho tới khi họ rơ ràng vượt hẳn đám đông nhờ đời sống tinh thần của họ, nhờ những tánh tốt của họ, và nhờ ư muốn luôn luôn giúp đỡ đồng loại của họ. Những linh hồn nầy, tuy hăy c̣n đi trên con đường ṿng quanh, nhưng đang mau tiến bước lên đỉnh núi và bắt đầu nỗ lực một cách rơ ràng hơn. Họ cố gắng giúp đỡ đồng loại và giơ bàn tay dịu hiền ra để lôi kéo những kẻ xung quanh tiến bước nhanh hơn.

Chẳng bao lâu, trong khi họ đang bước tới cùng với những linh hồn mà họ yêu mến và giúp đỡ, họ sẽ thấy có một h́nh dáng rất đẹp đẽ - tuy mới nh́n qua th́ có vẻ như nghiêm khắc – đang tiến đến để gặp họ. H́nh dáng nầy bắt đầu nói nhỏ với họ về một con đường ngắn hơn và chỉ dẫn cho họ những điều kiện của một sự tấn bộ nhanh chóng hơn. H́nh dáng đó chính là sự Giác Ngộ vậy. Sự giác ngộ nầy là chị em với hai thế lực phổ độ mà chúng ta đă nói đến; ấy là Phụng Sự Nhận Loại và Tôn giáo giúp đỡ những linh hồn trong sự trau dồi đức hạnh. Giác Ngộ, Phụng Sự và Tôn giáo, ba ảnh hưởng nầy chung nhau d́u dắt bước đường của linh hồn cho đến khi một buổi b́nh minh sáng lạng hơn hiện ra với một sự hiểu biết đầy đủ hơn. Và lúc đó chư huynh thấy linh hồn bắt đầu có một quan niệm rơ ràng về mục đích của sự tiến hóa của ḿnh. Nó không phải mơ mộng đến tương lai mà thôi, mà nó rán làm cho giấc mơ nầy trở thành cái mục đích nhất định mà nó cố gắng đạt cho được, và nó công nhận rằng Phụng Sự là định luật của đời sống.

Và giờ đây, tuân theo một sự kích động tự nhiên, linh hồn th́ thầm thốt lên một lời phát nguyện thành thực, là sẽ giúp đỡ ṇi giống tiến hóa. Đó là ước nguyện đầu tiên của nó, lời ước nguyện một ngày kia sẽ hiến ḿnh để phụng sự nhân loại. Tuy nhiên giờ chưa phải là một lời thành tâm ước nguyện, nhưng sau nầy linh hồn sẽ thốt lên một lời ước nguyện rơ rệt như thế. Trong một cuốn Kinh Thánh, người ta có chép rằng một vị trong các Đấng Cao Cả đă theo con đường ngắn nhất, đă đi trên con đường khó khăn hiểm trở nhất, và Ngài đă vượt qua con đường nầy một cách nhanh chóng đến nỗi Ngài bỏ lại phía sau Ngài toàn thể nhân loại và Ngài tiến bước một ḿnh. Gương Ngài bảo đảm rằng trong tương lai nhân loại sẽ có thể thành đạo như Ngài; Ngài giống như bông lúa sớm kết hạt của vụ gặt: người ta ghi chép Đấng Cao Cả nầy đă mang danh hiệu là Đức Phật (đă hoàn tất lời nguyện ước của ḿnh từ Đại kiếp nầy sang Đại kiếp khác). V́ sự hoàn tất công nghiệp của Ngài phải khởi đầu bằng lời ước nguyện là phụng sự. Lời nguyện ước đầu tiên của linh hồn ràng buộc nó với những Đấng Cao Cả đă đi trước nó, và như thế tạo thành một sợi dây lôi cuốn nó vào con đường thử thách, đường nầy dẫn đến Sân Ngoài, và khi đă đi xuyên qua khoảng Sân Ngoài ấy rồi th́ sẽ đi đến chính Thềm Thánh Điện.

Sau nhiều kiếp cần lao và gắng sức, linh hồn càng ngày càng tinh tấn, càng cao thượng và càng khôn ngoan hơn, từ kiếp này sang kiếp khác và sau cùng nó mới thốt ra một cách rơ ràng và minh bạch, thốt ra cái ư muốn của ḿnh, ư muốn nầy bây giờ đă trở nên mănh liệt. Và khi mà ư muốn biểu lộ ra như một sự quyết định hẳn ḥi và đích xác chớ không c̣n là một tiếng nói th́ thầm tỏ bày hoài vọng nữa, khi ư muốn là một lời nói sáng tạo ban hành mệnh lệnh, th́ lúc đó nó cả quyết đến gơ cửa Sân Ngoài, và không ai có thể hiểu lầm tiếng gơ cửa đó, v́ nó diễn tả cái mănh lực của một linh hồn nhất định chiến thắng, một linh hồn khá thông minh nên hiểu được cái tầm rộng lớn bao la bát ngát của công việc định làm. V́ bây giờ đă đi đến thềm của Sân Ngoài, linh hồn biết rơ cái việc mà nó đang rán sức hoàn thành, nó hiểu rằng sự khó khăn đang chờ đợi nó thật là phi thường. Ra khỏi nhân loại, đó là cái điều mà nó tự trù định làm, ra khỏi cái đám nhân loại đang tiếp tục đi lên măi theo ṿng quanh núi trong vô số thế kỷ, cứ đi như vậy từ thế giới nầy sang thế giới khác, xung quanh dăy hành tinh, và cuộc hành tŕnh cứ tiếp tục như thế măi măi cho đến khi mỏi mệt chán chê. Cái linh hồn anh dũng đang gơ cửa Sân Ngoài muốn trèo lên núi trong vài ba kiếp ngắn ngủi, xông pha lên những sườn núi dốc hiểm nhất, nó muốn vượt từng bước một cái con đường tắt dẫn ngay đến trung tâm Thánh Điện. Trong một khoảng thời gian gồm vài chục kiếp, linh hồn muốn hoàn tất cái công việc thường đ̣i hỏi ở nhân loại vô số kiếp Luân hồi, cái công việc phi thường cho đến nỗi chỉ nh́n ngắm nó ta cũng thấy choáng váng mặt mày rồi, một công việc anh dũng đến nỗi người ta có thể nói rằng linh hồn nào muốn làm việc đó th́ tức là đă nhận định được cái bản chất thiêng liêng của ḿnh, cái Uy Quyền Tuyệt Đối ẩn tàng nơi ḿnh. Muốn thành Đạo, nhân loại không những chỉ trải qua cái bản chất thiêng liêng của ḿnh, cái Uy Quyền Tuyệt Đối ẩn tàng nơi ḿnh. Muốn thành Đạo, nhân loại không những chỉ phải trải qua cái thời gian sống trên địa cầu nầy, mà c̣n phải trải qua những cuộc tuần hoàn [[2]] vị lai nữa; vậy mà nay linh hồn muốn hoàn thành trọn vẹn cái công việc vĩ đại đó trong vài ba kiếp thôi, bắt đầu từ cái điểm tiến hóa của nhân loại hiện nay; đó thật là một công việc vô cùng khó khăn, một công việc chỉ có Thượng Đế mới làm nổi. Sự hoàn tất một công việc vĩ đại như thế chỉ rơ cho ta thấy rằng Uy quyền của Thượng Đế đang tự hoàn thành trong tâm con người.

Như vậy khi linh hồn gơ cửa Đạo, th́ cửa Đạo mở ra cho linh hồn bước vào, và nó tiến đến Sân Ngoài. Bây giờ nó phải vượt qua Sân Ngoài từng bước một mà tiến đến cái cửa đầu tiên dẫn đến chính Thánh Điện, cái cửa đầu tiên trong số bốn cái cửa, mỗi cái cửa là biểu hiệu của một lần Đại Điểm Đạo. Không một linh hồn nào có thể vượt qua ngưỡng cửa đó nếu không vĩnh viễn hiến ḿnh cho Thượng Đế, nếu nó vẫn c̣n quyến luyến những sự vật phù du của cơi trần đương bao vây nó. V́ một khi đă vượt qua ngưỡng cửa của Thánh Điện rồi th́ linh hồn không bao giờ đi trở ra ngoài nữa. Linh hồn đă vượt qua khỏi cái cửa đầu tiên của những ṿng trong dẫn dắt đến Trung tâm Thánh Điện th́ linh hồn không bao giờ lùi lại. Nó đă lựa chọn cái phần của nó trong những thế kỷ vị lai, nó đă đi vào cái nơi chốn mà không ai lại quay trở ra một khi đă bước chân tới đó. Vậy sự Đại Điểm Đạo lần thứ nhứt được cử hành ngay ở trong Thánh Điện. Nhưng linh hồn mà ta đang theo dơi đây chỉ mới bắt đầu chuẩn bị thôi. Ở Sân Ngoài, nó sửa soạn, trong những kiếp vị lai, để leo lên bảy nấc thang dẫn đến cai cửa thứ nhất. Tới đó rồi, nó phải đợi người ta cho phép nó bước qua ngưỡng cửa của chính Thánh Điện.

Vậy Sân Ngoài, nhiệm vụ của nó là ǵ? Trong những kiếp mà nó sống ở đó, nó phải sống theo lối nào để xứng đáng được gơ cửa Thánh Điện. Đó là cái đề tài đang chờ đợi chúng ta; để tŕnh bày đề tài này cùng chư huynh, tôi không quản công lao khó nhọc, dù chỉ có một hay hai người nơi đây thật sự có đủ khả năng lợi dụng được buổi nói chuyện này. V́ thưa chư huynh, tôi đă biết quá rơ ràng rằng: trong khi tôi miêu tả Sân Ngoài, sẽ có những điều khó khăn và không hứng thú chút nào đối với chư huynh. Chỉ việc t́m thấy con đường dẫn đến Sân Ngoài cũng là một điều khó khăn quá rồi cho thí sanh cố gắng để thực hành đạo lư và trau dồi tánh tốt khiến cho linh hồn có thể gơ cửa của cấp ngoài của Sân Ngoài bao vây Thánh Điện, đó cũng là một công việc rất nhọc nhằn; v́ thế cho nên những ai được vào nơi đó đều đă tiến bộ nhiều trong dĩ văng rồi. Vậy dĩ nhiên, và có thể chắc chắn là trong nhóm chư huynh đây, có những người không ưa thích cái lối sống mà tôi sẽ miêu tả, và rất ít người nhận định được mục đích và lư do của đời sống của ḿnh. Chư huynh sẽ nhớ điều này; chỉ riêng những ai đă trọn vẹn hiến ḿnh để phụng sự nhân loại mới được vào Sân Ngoài. Họ đă cho ra tất cả mà không đ̣i hỏi trở lại một đặc ân nào, ngoài cái đặc ân được phụng sự kẻ khác. Họ đă nhận định rơ ràng được cái tính cách phù du của sự vật hồng trần và đă mạnh bạo nhận lănh cái nhiệm vụ mà họ muốn làm. Họ đă quay lưng không nh́n về phía những con đường dẫy đầy hoa thơm cỏ lạ chằng chịt với nhau leo quanh trên sườn núi và đă quyết định trèo thẳng ngay lên đỉnh núi, mặc dầu khó nhọc đến đâu, mặc dầu phải ra công gắng sức trong những kiếp đầu thai liên tiếp nhau một cách mau chóng. Ở Sân Ngoài, phải cố gắng, cố gắng rất nhiều, v́ đó là nơi mà ta phải làm xong nhiều việc trong một thời gian ngắn.

Những sự phân tích trong đề tài vốn của tôi tự tiện đặt ra và không phải là những cấp bậc nối tiếp nhau khi người ta đi băng qua Sân Ngoài. Ta phải nh́n xét tất cả những giai đoạn một lượt với nhau và phải làm không ngừng cái công việc của mỗi giai đoạn. Đó là nhiều sự luyện tập phải làm tất cả trong một lúc, và nếu tôi phải chia chúng ta thành từng giai đoạn th́ đấy là để có thể tŕnh bày đề tài một cách rơ ràng mà thôi. Tôi đă cho những giai đoạn đó những danh từ sau đây: Sự Tinh Luyện – Sự Tinh Luyện Cái Trí – Sự Lập Hạnh – Khoa Luyện Kim Tinh Thần và Trước Thềm Thánh Điện. Một lần nữa, chúng ta không nên coi công việc phân chia những giai đoạn nầy như là riêng biệt. Phải làm tất cả những việc nầy cùng trong một lúc; phải cố gắng măi măi không ngừng; và linh hồn đă đi đến Sân Ngoài sẽ ra sức làm nhiệm vụ của ḿnh trong mỗi kiếp ở đó. Đó là những bổn phận mà nó phải làm xong, ít nhất là một phần, trước khi dám tŕnh diện tại cửa Thánh Điện. Nếu tôi lần lượt giải riêng về những bổn phận nầy, hết cái nọ đến cái kia, ấy là để làm cho người ta hiểu chúng một cách rơ ràng hơn mà thôi. Ngoài ra, xin chư huynh biết cho rằng muốn đi đến ngưỡng cửa của sự Điểm Đạo lần thứ nhất ta không cần phải làm trọn vẹn hay đầy đủ những bổn phận đó. Nhưng cần phải đă làm được một phần nào những bổn phận ấy, linh hồn phải tận lực làm việc đó một cách hữu hiệu, có kết quả; nó phải hiểu cái công việc cần phải hoàn thành và chuyên tâm sốt sắng làm việc ấy. Khi mà công việc được hoàn thành một cách trọn vẹn th́ linh hồn đă vào được Trung tâm Thánh Điện rồi.

*

*   *

Cái công việc đầu tiên mà linh hồn phải làm trong Sân Ngoài là Sự Tinh Luyện, tinh luyện cái bản thể thấp hèn cho đến mức làm cho tất cả những bộ phận của nó đều rung động điều ḥa một cách tuyệt đối với Chơn Nhơn cao cả. Phải tinh luyện tất cả cái ǵ thuộc về cái phần giả tạm của con người, tất cả những ǵ mà ta gọi là bản ngă, tất cả cái đại thể gồm những tánh và những nét đặc biệt không trường tồn mà con người đă thu thập xung quanh ḿnh trong vô số kiếp sống. (Nơi đây, tôi muốn nói những tánh nết, những sự kiện bên ngoài, chúng bao bọc linh hồn, tất cả những lớp y phục mà linh hồn tự khoác lên ḿnh và giữ lấy kiếp này sang kiếp khác, tất cả những ǵ mà linh hồn gặp lại mỗi khi đầu thai xuống trần, tất cả những ǵ mà con người thiệt thọ thu thập chung quanh ḿnh trong đời sống hồng trần để rút lấy cái tinh hoa và đồng hóa nó đặng biến nó ra thành phần của Chơn Nhơn luôn luôn tiến tới măi vô cùng vô tận).

Ông Sinnett có dùng một câu miêu tả rất đúng cái vị trí của linh hồn ở ngay vào cái lúc mà ta đang nói đến bây giờ đây, cái vị trí của linh hồn vừa tự ư bước vào Sân Ngoài và nhận định được cái công việc phải làm. Ông nói: “Linh hồn trở thành chư hầu của Chơn Nhơn cao cả” – từ ngữ này có ích cho ta nếu ta hiểu rơ nó. Nó có nghĩa là ta nhứt quyết từ bỏ mọi điều phù du nhất thời, tất cả những ǵ thuộc về bản ngă thấp hèn. Tất cả những kiếp sống ở cơi trần này sẽ chỉ dùng để gom góp những vật liệu hữu ích và truyền đạt chúng lên Chơn Nhơn cao cả. Chơn Nhơn lớn và phát triển nhờ những điều mà bản thể thấp hèn thu thập được. Khi bản ngă thấp hèn hiểu biết được sự hợp nhứt khẩn yếu của nó với Chơn Nhơn cao cả hơn đang ngự trị nó; khi nó biết lư do duy nhất của nó sanh ra ở cơi trần này là để làm cho một dụng cụ hoạt động nhứt thời với mục đích là thu thập những ǵ mà Chơn Nhơn trường tồn bất diệt cần dùng đến – th́ như tôi đă nói – cái bản ngă thấp hèn nhứt định rằng trọn cả kiếp sống của nó ở cơi trần này chỉ để dành làm cái công việc đó mà thôi. Nó hiểu rằng mục đích đời sống của nó chỉ là để gom góp những vật liệu để sau này mang lên hiến dâng cho Chơn Nhơn là tinh hoa thiệt thọ của bản thể nó, những vật liệu nầy sẽ dự phần vào sự phát triển của Chơn Nhơn trường tồn bất diệt cao cả hơn phàm nhơn của một kiếp.

Vậy th́ “trở thành Chư Hầu của Chơn Nhơn cao cả” có nghĩa là bản ngă thấp hèn phải tự nh́n nhận có bổn phận phụng sự chủ nhân ông của ḿnh, từ nay sẽ không sống cho ḿnh mà sống để phụng sự cái ǵ trường tồn bất diệt. Vậy th́ đời sống của con người ở Sân Ngoài là hết ḷng phụng sự trung thành; tất cả công việc của y sẽ hiến dâng cho Chơn Nhơn cao cả trường tồn bất diệt; đời sống của Chơn Nhơn càng ngày càng mở mang rực rỡ, nhờ sự tận tâm chơn thành và hồn nhiên của bản ngă là vị sứ giả mà Chơn Nhơn đă gởi ra ngoại giới.

Trong cuốn sách này, tôi tỉ dụ rằng con người đă hoàn thành xong xả cái công việc mà những Thánh Kinh toàn cầu coi như là sự tự chuẩn bị để t́m kiếm linh hồn ḿnh một cách tích cực. Chắc chư huynh cũng nhớ là trong một cuốn kinh Upanishad có viết rằng ai muốn t́m thấy linh hồn ḿnh th́ trước hết phải rời bỏ con đường tội lỗi. Linh hồn mà ta quan sát đă có làm công việc này trước khi bước vào Sân Ngoài. V́ những ai vào đó rồi th́ không bị những sự vật tầm thường của hồng trần quyến rũ nữa. Họ đă vượt qua chúng. V́ vậy nên kiếp họ bước vào Sân Ngoài, ít nhất họ cũng đă ĺa xa “Con đường tội lỗi” và không c̣n ưa thích nó nữa. Nếu nhỡ ra ta thấy họ đi trên con đường đó, th́ ấy là hậu quả của một sự sa ngă bất ngờ và sẽ được sửa chữa lại ngay tức khắc. Họ sanh ra đời với một lương tâm không ưa thích tội lỗi, nếu cơ hội làm lành đến với họ trước nhất. Và tuy lương tâm họ, v́ chưa có được một sự kinh nghiệm hoàn toàn, nên c̣n có thể bị lầm lạc trong sự lựa chọn trước khi và cả sau khi vào Sân Ngoài, nhưng nó vẫn nồng nhiệt muốn chọn điều lành bất cứ lúc nào.

Bản ngă thấp hèn không c̣n có thể tự ḿnh không tuân theo mạng lệnh Chơn Nhơn, v́ ai làm trái mệnh lệnh th́ không bao giờ được vào Sân Ngoài và c̣n lâu lắm mới bước vào đó được. Những linh hồn được lựa chọn vào đó ít nhất cũng đă cố gắng tự hướng về điều thiện và muốn vâng lời của Tiếng nói nội tâm nó khuyên nhủ phải làm lành, và không muốn cố ư căi lại. Những linh hồn này sinh ra đời sau khi đă vượt qua cái quăng đường dài dốc đứng và thành thực muốn làm điều thiện cao cả nhất mà họ có thể quan niệm được.

Bây giờ, linh hồn phải chiến đấu với những sự quyến rũ tế nhị hơn, những sự quyến rũ đang đợi nó trong Sân Ngoài. Đó không phải là những sự quyến rũ thô bỉ của thế gian, mà lại là những sự quyến rũ sâu sắc hơn, thấm thía hơn, chúng tấn công linh hồn trong khi nó phải vượt qua nhiều kiếp mau lẹ và phải hối hả leo lên sườn núi lớn. Linh hồn không c̣n có th́ giờ do dự trốn tránh trước sự quyến rũ, không có th́ giờ lập hạnh bồi đức dần dần. Khi mà nó bước chân vào Thánh Điện, dù mới ở Sân Ngoài, nó đă tự cảm thấy rằng nó phải tiến lên măi, không ngừng, không nghỉ, phải leo lên sườn núi không bao giờ dừng bước. Và nơi đây, nó bị tấn công tứ phía bởi những nỗi khó khăn và những sự quyến rũ thuộc về lư trí, bởi ḷng tham vọng, bởi tánh kiêu căng của cái trí, bởi sự hănh diện về những điều mà nó đă thâu thập được và cho rằng những điều đă thực hiện được là do công lao nó. Ngoài cái sự tấn công đáng sợ của ḷng tham vọng, ngoài cái bản tính kiêu ngạo của con người muốn chiếm giữ tất cả và muốn xây dựng một bức tường giữa ḿnh và kẻ dưới, linh hồn c̣n muốn hiểu biết, hiểu biết cho riêng ḿnh, hiểu biết để chiếm hữu, để lấy sự thông thái của ḿnh mà chống lại mọi người, chớ không phải để làm điều hữu ích cho họ. Cái cảm giác này được ẩn nấp dưới lớp mặt nạ của ḷng yêu mến khoa học v́ khoa học, yêu mến chơn lư v́ chơn lư, và thường thường linh hồn phát giác ra rằng, khi nó nh́n thấy một cách rơ ràng và thấu đáo, th́ cái điều mà người ta tưởng rằng đó là ḷng yêu mến khoa học một cách vô tư, thật ra chỉ là cái ư muốn xa cách đồng loại, ư muốn có được cái điều mà họ không có, được hưởng những lợi lộc mà họ không được chia sớt. Tính chia rẽ, sự kiêu căng của tính chia rẽ, ư muốn được đứng riêng biệt, được học hỏi, được phát triển, được thực hiện để chiếm hữu, đó là một trong những sự nguy hiểm ghê gớm nhất đe dọa linh hồn đang phát triển. Đó là một trong những sự cám dỗ nó chờ đợi linh hồn khi linh hồn vừa bước qua khỏi cửa Sân Ngoài. V́ linh hồn sẽ thấy rằng ḿnh có thể giơ tay nắm lấy sự hiểu biết và có ư muốn chiếm lấy sự hiểu biết này, nó sẽ thấy quyền năng ở trước mặt và muốn có quyền năng và như vậy, hoàn toàn không phải chỉ v́ muốn phụng sự mà cũng có một phần là v́ những điều này sẽ làm cho linh hồn được lớn thêm. Linh hồn thấy cần phải xây một bức tường xung quanh ḿnh để thọ hưởng những điều đă thực hiện được. Nhưng chẳng bao lâu linh hồn hiểu được rằng nếu một ngày kia, nó muốn vượt qua khỏi Sân Ngoài để đi đến cái cửa lớn đang chói sáng ở phía đàng xa th́ nó phải ĺa bỏ tất cả ḷng tham vọng và tánh kiêu căng cùng là cái ư muốn thu thập kiến thức cho riêng ḿnh; nói tóm lại, phải ĺa bỏ mọi điều ǵ chia rẽ nó với các linh hồn khác, anh em với nó. Lúc đó, nó bắt đầu tinh luyện bản chất cái trí của nó, nó xét kỹ cái lư do thúc đầy nó cố gắng, cái lư do thúc đẩy nó hoạt động. Nó bắt đầu xét ḿnh một cách kỹ lưỡng dưới anh sáng của đời sống tinh thần đang chói rạng nơi Trung tâm Thánh Điện và soi sáng Sân Ngoài. Dưới ảnh hưởng của ánh sáng ấy, mọi bóng tối trở nên dầy đặc hơn, và linh hồn bắt đầu nhận thấy rằng dường như những sự vật đă chiếu sáng ở cơi hạ giới, thật ra, chỉ là những cái bóng, và tự chúng, chúng không có ánh sáng thiệt thọ. Lúc đó, linh hồn hiểu được rằng “cái bản chất của dục vọng của nó mang theo ḿnh pha lẫn với trí thức cần phải được lọc sạch hết mọi vết nhơ của bản ngă riêng tư”. Linh hồn quả quyết bắt đầu tự tinh luyện, tự ư bắt đầu làm việc một cách cẩn thận sáng suốt, cố gắng không ngừng để loại trừ tất cả những ǵ ngăn cách linh hồn, bất luận dù bằng cách nào, với những kẻ ở mức dưới đang theo vết chân nó, cũng như với những Đấng Cao Cả hơn đă đi trước nó. Thật vậy đây là điều mà linh hồn học được, và đây cũng là một trong những bài học cao siêu ở Sân Ngoài, nếu một ngày kia nó muốn nh́n thấy cửa Thánh Điện mở rộng ra th́ nó phải phá vỡ những bức tường ngăn cách nó với những huynh để của nó ở phía dưới. Chỉ lúc đó th́ những bức tường ngăn cách nó với những Vị Cao Cả bỗng nhiên tan mất đi. V́ cái cửa mà ta phải vượt qua chỉ tự mở rộng ra trước người nào xin phép bước vào nếu y đă đập tan được những bức tường của chính bản ngă y dựng lên và ưng thuận chia sớt với mọi người cái kết quả những sự cố gắng của y.

Vậy y bắt đầu tinh luyện những dục vọng và điều khiển bản ngă thấp hèn của y để xóa bỏ mọi vết nhơ. Y tự tinh luyện bằng cách nào? Y không được tiêu diệt một cái ǵ cả, v́ những ǵ mà y đă thu thập được trong cuộc hành hương của ḿnh, đó chính là những kinh nghiệm và kinh nghiệm đă được biến hóa thành ra khả  năng và mănh lực; và giờ đây y đang cần dùng đến tất cả sự dũng mănh của ḿnh; nếu y tiêu diệt nó đi th́ chẳng hóa ra y dại dột và vụng về lắm sao. Vậy khi đi tŕnh diện, y phải mang theo tất cả năng lực của ḿnh, những năng lực đă được tinh luyện chớ không phải những năng lực ô trược. Nhưng phải làm cách nào để tinh luyện chúng. Tiêu diệt chúng đi là một công việc dễ dàng biết bao. Xóa bỏ một vài tính t́nh mà y có, như thế sẽ là một sự thử thách dễ dàng hơn đối với ḷng kiên nhẫn của y. Dường như y sẽ vui ḷng tấn công chúng, tiêu hủy chúng để được yên thân một lần chót.

Nhưng người ta không thể đi vào Thánh Điện theo lối ấy được. Y phải mang đến đó như là lễ vật đầu tiên tất cả những ǵ đă thu thập được trong dĩ văng, tất cả những ǵ đă biến hóa thành ra khả năng và mănh lực. Đó là sự Hy sinh phải hiến dâng tự nơi ngưỡng cửa của sự Điểm Đạo. Không thể vào đấy với hai bàn tay trắng. Người chí nguyện phải mang tới đó nguyên vẹn tất cả. . . những ǵ đă gặt hái được trong đời sống hồng trần. Đă không được phép tiêu diệt th́ phải lo việc tinh luyện khó khăn hơn, ǵn giữ cái tinh hoa của mọi tính t́nh và đồng thời loại trừ cái ǵ có tánh cách cá nhân. Tất cả những bài học mà con người học được về tánh tốt và về tánh xấu, chính là tổng số kinh nghiệm gặt hái được trong dĩ văng, trong cuộc hành hương. Y sẽ ǵn giữ cái tinh hoa của mỗi tánh t́nh, v́ đó là kết quả của tất cả sự tấn bộ của y, nhưng y sẽ mang nó đến trước bàn thờ tinh khiết như vàng ṛng không hề lẫn lộn một chút cặn bă nào hết.

Ta hăy xem xét riêng rẽ một vài tánh ấy để biết rơ sự tinh luyện là ǵ. Một khi đă hiểu được cái cách áp dụng phương pháp này vào một hai tánh nhất định rồi th́ chư huynh có thể tùy ư ḿnh mà suy nghĩ để xử dụng nó trong những trường hợp khác. Việc học cái phương pháp tinh luyện này là một trong những bài học quan trọng hơn hết.

Thoạt đầu tôi xin nói với chư huynh về một sức mạnh mănh liệt có ở nơi mỗi người. Nó đă được biểu lộ ra trong những giai đoạn đầu tiên khi ta mới phát triển, nó đă theo ta khi ta tiến hóa, và đây là lúc nó phải được tinh luyện lần cuối cùng. Ở tŕnh độ thấp nhất của nó, sức mạnh này là sự tức giận, sự phẫn nộ, một sức mạnh ghê gớm phát triển nơi con người, nhờ nó con người mới tạo được cho ḿnh một chỗ đứng trong đời sống và có khi vượt được mọi nỗi khó khăn; nó là một năng lực kinh khủng của linh hồn, nó đột nhập vào bản ngă thấp hèn và tự tạo cho ḿnh một con đường đi bằng cách phá tan mọi sự trở ngại. Sự tức giận là một năng lực vô trật tự và v́ vậy mà nó có tính cách phá hoại, trong những giai đoạn đầu tiên khi con người mới phát triển, khi y chưa học được cách điều khiển và làm chủ nó. Nó là một sức mạnh ghê gớm, và v́ nó là một sức mạnh nên ta phải nh́n nhận giá trị của nó, dù khi tác động ở cơi Hạ giới nó có phá hoại đến thế nào đi nữa.

Trước khi bước vào Sân Ngoài, con người đă thay đổi nhiều cái sức mạnh ấy của tâm hồn. Y đă biến nó thành một tánh tốt thực sự mà y đă trau dồi từ lâu ở ngoài đời. Từ khi được biến thành tánh tốt, nó mang cái tên: “Sự phẫn nộ cao thượng”, ḷng phẫn nộ đối với sự bất công, ḷng thù ghét tất cả mọi điều ác, thấp hèn, ti tiện, độc hiểm. Và dưới vô số h́nh thức của cái sức mạnh phá hoại đó, nó đă phụng sự chủ nhân nó ở ngoài đời một cách cao thượng. V́ trước khi bước vào Sân Ngoài, y đă làm việc cho đời, y đă thực hành tánh tốt đó. Y nổi giận khi thấy người ta tàn ác với kẻ yếu, y phẫn nộ khi thấy một kẻ bạo ngược bất công. Khi thực hành đức tánh này, y đă tinh luyện cho sức mạnh đó không c̣n chứa chấp cái phần cặn bă ích kỷ lớn lao, v́ trong những kiếp sống đầu tiên c̣n dă man của y, y đă tức giận cho chính bản thân y. Y nổi giận mỗi khi người ta làm cho y bị thiệt hại, y trả đũa khi người ta đánh y. Nhưng từ lâu, y đă kiềm chế, đă thắng được sự tức giận hung bạo của bản ngă thấp hèn nó đem cái sức mạnh phá hoại của nó ra mà tự bảo vệ lấy ḿnh, nó lấy ác trả ác, lấy oán báo oán. Đă lâu lắm rồi trước khi đi vào Sân Ngoài, nó đă vượt qua cái tŕnh độ cổ sơ ấy và đă học được cách biến hóa đến một phần nào cái sức giận dữ đó rồi. Y đă tinh luyện rất nhiều cái tính cách cá nhân của nó, y đă có thói quen tức giận khi người ta làm thiệt hại kẻ khác chớ không phải khi người ta làm cho y bị thiệt hại; y đă quen nổi xung khi thấy kẻ khác đau khổ chớ không phải khi chính y bị đau khổ. Khi y thấy một người độc ác dày xéo lên một kẻ yếu đuối bất lực, y liền chạy đến cứu giúp kẻ yếu, y đánh kẻ áp chế và xua đuổi nó đi một cách quyết liệt. Như thế y đă xử dụng sự tức giận cao thượng để chiến thắng sự tức giận thấp hèn, như thế, y đă dùng một sự bồng bột, cao thượng hơn để tiêu diệt sự bồng bột hung bạo của bản ngă thấp hèn. Trong những kiếp sống ở một dĩ văng xa xăm, con người đă học cách tinh luyện cho sự tức giận của y không c̣n tính cách thô tục nữa, và đi đến cái mức không tức giận khi nghĩ đến chính ḿnh y mà chỉ tức giận v́ lo cho những người mà y muốn giúp đỡ. Xin chư huynh nhớ rằng nơi đây linh hồn đă nh́n nhận từ lâu rằng việc phụng sự là một bổn phận, và một trong những cách phụng sự của y là tiêu diệt những kẻ áp chế, xua đuổi những kẻ làm cho người khác đau khổ. Sự tức giận nồng nhiệt của y phản đối lại mọi h́nh thức của sự ác, y đă làm việc cho những kẻ yếu, và có lẽ đă hành động như một vị anh hùng trên thế gian.

Nhưng trong bầu không khi yên tịnh hơn của Sân Ngoài Thánh Điện, nhờ ánh sáng của ḷng Từ bi vô lượng của Linh Đài soi tỏ không c̣n có một chỗ để chấp chứa sự tức giận được nữa dù sự tức giận đó đă được tinh luyện rồi, và không c̣n tính cách cá nhân. V́ bây giờ người chí nguyện phải biết rằng: những kẻ làm điều ác cũng là những huynh đệ của y, và do những việc ác của chính họ, họ sẽ phải đau khổ một cách sâu xa, thấm thía hơn là những người đă bị họ áp chế và ức hiếp. Y phải biết rằng cái sự phẫn nộ cao thượng ấy, cái sự tức giận trước sự ác, cái sự hăng hái có tính cách phá hoại như thế, chống đối với sự áp chế, không c̣n được là những nét đặc biệt của linh hồn cố gắng tiến lại gần Thượng Đế nữa, v́ Thượng Đế yêu mến tất cả các con cái của Ngài mà Ngài đă cho đầu thai xuống trần, dù những kẻ này ở vào tŕnh độ nào, cao hay thấp cũng vậy, dù mức tiến hóa của họ có thấp kém đến đâu đi nữa. Không một sự ǵ có thể thoát ra khỏi ḷng từ ái của Thượng Đế. Ngài đă sanh ra vạn vật. Ngài là Trung tâm của mọi sự. Ngài ngự trong ḷng của kẻ gian ác cũng như các bậc Thánh Nhân. Trong Sân Ngoài, ta phải nh́n nhận Thượng Đế, dù những đám mây che phủ Ngài c̣n dầy đặc đến đâu chăng nữa, v́ con mắt tinh thần phải được mở rộng và không được để cho một tấm màn che nào che lấp mà không thấy được Chơn Nhơn của người khác. V́ thế cho nên sự phẫn nộ cao thượng này phải được tinh luyện cho đến mức không c̣n có một sự giận dũi nào nữa, nó phải biến thành một sức mạnh phù trợ, giúp đỡ mọi sinh linh, không loại trừ một ai. Cái năng lực mạnh mẽ này của linh hồn phải trở nên hoàn toàn tinh khiết, nó phải làm việc lành cho kẻ bạo chúa cũng như cho kẻ nô lệ, nó phải lấy tấm ḷng từ ái mà bao trùm cả kẻ áp bức và người bị áp bức. Các Đấng Cứu Thế không hề lựa chọn những người nào mà các Ngài ưa thích để các Ngài cứu giúp. Các Ngài cứu giúp tất cả mọi người, không hề phân biệt ai là ai. Những vị phụng sự đời không bao giờ thù ghét một sinh linh nào trong vũ trụ. Do sự tinh luyện, sự tức giận xưa kia nay trở thành sự che chở cho kẻ yếu đuối, sự phản đối vô tư đối với tội lỗi trụy lạc, và sự công bằng tuyệt đối đối với tất cả mọi người.

Người ta đă tinh luyện sự tức giận như thế nào th́ người ta cũng tinh luyện t́nh yêu như thế nấy. Lần đầu tiên, ở giai đoạn đầu của sự phát triển của con người, th́ t́nh yêu tự biểu lộ dưới cái h́nh thức thấp hèn và ti tiện nhất. Nó có thể hẹp ḥi và ô trược, như ḷng dục mù quáng nhắm vào một người khác, và trong khi khao khát được thỏa măn, nó không hề lo lắng chút nào những điều có thể đến cho người yêu. Theo với sự phát triển của tâm hồn, tích cách của t́nh yêu đă thay đổi, nó trở thành cao thượng hơn trước, ít ích kỷ hơn trước, ít có tánh cách cá nhân hơn trước, cho đến khi nó quyến luyến chỉ v́ mến những nét cao thượng của người yêu, chớ không phải quyến luyến cái vỏ xác thịt bên ngoài. T́nh yêu thoạt đầu chỉ là dục vọng, nay đă trở nên tinh khiết và có tính cách luân lư. Nhưng ở Sân Ngoài của Thánh Điện, nó c̣n phải trở nên tinh khiết hơn thế nữa. Thí sinh phải mến yêu, nhưng phải mến yêu một cách không riêng tư, độc quyền, t́nh yêu càng ngày càng phải lan rộng hơn, nồng nhiệt hơn, rạng rỡ hơn, đầm ấm hơn, nói tóm lại không c̣n chứa đựng cái ǵ thấp hèn thuộc về bản ngă nữa.

Một t́nh yêu như thế luôn luôn nhắm về phía người khác, t́m cách để phụng sự họ, chớ không phải để phụng sự chính ḿnh. Nó tự hỏi: “Ta có thể ban phát ra bao nhiêu” và không bao giờ nghĩ rằng: “Ta thu nhận được những ǵ”. Một t́nh yêu mà được như thế th́ tinh hoa của nó đang trở nên thiêng liêng, v́ nó sẽ tự ban ra theo nhu cầu của kẻ khác, chớ không phải tùy theo số tiền bạc mà người ta sẽ đền bù lại cho nó.

Trong khi linh hồn cố gắng tự tinh luyện như vậy, bằng cách làm việc hết sức ḿnh để phụng sự nhân loại, nó phải tự kiểm soát ḿnh mỗi lúc không ngừng. Sự Vô Tư sẽ là “Thanh gươm Ithuriel” [[3]], là ḥn đá thử vàng được mang ra áp dụng trong mọi hành động. Khi linh hồn giúp ai một việc ǵ, khi nó làm một việc mà nó cho là hữu ích đối với nhân loại, nó phải thận trọng ḍ xét sự hành động và lư do của sự đó, để xem coi cái chất độc tế nhị của cái “Tôi” có xen lẫn ở trong sức lực đă tốn hao không. Nếu linh hồn khám phá ra rằng nó t́m kiếm sự thành công của chính nó hơn là sự thành công của việc làm; nếu khi trông thấy kẻ khác thành công trong một việc mà nó đă thất bại không làm xong được, một nỗi đắng cay bỗng xen lẫn vào nỗi vui mừng v́ thấy công việc được hoàn thành – th́ lúc đó nó biết rằng bản ngă hăy c̣n; v́ nếu nó thật trong sạch đàng hoàng th́ nó chỉ lo lắng sao cho công việc phụng sự được thành tựu mà thôi, và không bận ḷng đến việc ḿnh đă được dự phần vào đấy. Và nếu nó thấy rằng một sự thất bại cá nhân làm cho nó sanh ra một mối thất vọng, nếu nó chán nản, ngă ḷng khi đă phí sức mà không thành công, nếu có một sự ǵ gọi là “Tôi không hiểu tại sao” làm xáo trộn sự an lạc và yên tĩnh của nó trong chốc lát, th́ lúc đó, nó nhận thấy ngay được rằng sự đắng cay và sự xáo trộn nầy là dấu vết của bản ngă, cần phải tiêu diệt đi, và nó phải quả quyết loại trừ nhược điểm ấy để làm tan đám mây đang che mắt đó. Ngoài ra, nếu khi phân tách, và thử thách t́nh yêu của nó Linh hồn thấy rằng ở đấy cũng có một cảm t́nh lạnh nhạt, một chút thất vọng khi người khác được nó yêu mến mà vẫn tỏ vẻ lănh đạm, lạnh nhạt, mặc dầu nó đă phụng sự người yêu một cách cao thượng, đă tŕu mến người một cách sâu xa thắm thía; nếu t́nh ỵêu được ban rải ra nay lại muốn quay về trở lại, muốn ngừng nghỉ v́ không được người yêu yêu ḿnh lại, th́ lúc đó Linh hồn – tự nghiêm khắc với ḿnh bao nhiêu th́ lại phải từ bi đối với tất cả những kẻ khác bấy nhiêu, nó hiểu ngay được rằng đó cũng là cái mùi hương tế nhị của bản ngă hăy c̣n lại vậy, rằng Linh hồn cũng vẫn c̣n lo làm việc cho bản thân ḿnh thay v́ muốn t́m thấy sự vui cao thượng chỉ v́ được cái vinh dự ban rải t́nh thương ra ngoài. Vậy th́ Linh hồn đi qua Sân Ngoài lại phải tự tinh luyện để diệt trừ cái dấu vết của bản ngă c̣n lại cho đến khi t́nh yêu của nó chói rạng mà không bao giờ tự hỏi rằng có được người ta đền đáp lại không, mà cũng không bao giờ đợi chờ một sự trả lời. V́ thật vậy, kẻ nào không đền đáp được tấm ḷng người ta yêu mến ḿnh, th́ kẻ đó chính là kẻ cần được thương yêu nhiều nhất; cá nhân nào mà không có ǵ đền bù lại ơn của kẻ khác đă từng giúp đỡ ḿnh, th́ chính cá nhân ấy cần thụ hưởng ḷng từ bi bác ái hơn mọi người khác. Theo lối đó, Linh hồn quả quyết tự phát triển phải tự rèn luyện ḿnh một cách nghiêm khắc, không ngớt tinh luyện cái bản ngă thấp kém của ḿnh bằng cách tiếp tục cố gắng và triệt để khắc kỷ. V́ nó luôn luôn tự so sánh với các Đấng Cao Cả ở trên, chớ không phải với những người trẻ dại ở dưới, mắt nó phải luôn luôn hướng về phía những vị đă hoàn thành xong công việc tinh luyện bản thân, thay v́ nh́n xuống đám đông đang đi lên phía Sân Ngoài. Nó không ngừng nghỉ chút nào, nó không thể hài ḷng cho tới ngày nó nh́n thấy mục đích tiến lại gần một cách mau lẹ, cho tới ngày nó cảm thấy rằng nó không c̣n là một chướng ngại lớn lao cho Ánh sáng rực rỡ của các Đấng Cao Cả thiêng liêng.

Trong Sân Ngoài, con người bị thử thách và sa ngă v́ tánh tốt chớ không phải v́ tánh xấu của ḿnh. Những sự quyến rũ tế nhị đến tấn công y và hiện ra với y như là những Thiên thần chói sáng. Những Linh hồn đang đi lên này bị thử thách bởi những điều ǵ cao thượng, cao cả nhất nơi họ. Kẻ thù nắm lấy những tánh tốt của họ và lợi dụng sự vô minh của họ mà biến chúng thành ra những sự quyến rũ. V́ những Linh hồn nầy đă vượt qua cái điểm mà những tánh xấu có thể làm hại họ hay lung lạc họ, và ảo tưởng chỉ có thể mang cái mặt nạ của đức hạnh th́ mới có hy vọng làm cho họ sai đường lạc lối được. V́ vậy nên họ phải hết sức nghiêm khắc đối với ḿnh, v́ vậy nên họ phải khắc kỷ không ngừng. Họ dư biết rằng do những sự thất bại của chính họ và của những đạo hữu của họ, những đức tánh khó thực hiện nhất ở ngoài đời, đều trở nên dễ dàng ở Sân Ngoài, và lúc đó có thể nói rằng những đức tánh nầy bị kẻ thù trộm lấy và biến chế thành những sự cám dỗ để làm cho người tân tín đồ phải vấp té trên con đường hiểm trở. Theo cách đó, các Linh hồn biết được rằng chỉ có một cách duy nhất để thành công mà thôi, đó là luôn luôn sống theo Ánh Sáng của Chơn Ngă, v́ thế cho nên các Linh hồn tin chắc chắn rằng ḿnh không bao giờ dám đến tŕnh diện ở cửa Thánh điện, khi mà Ánh Sáng này không chiếu rọi sáng ngời trong tim ḿnh.

Làm sao họ dám bước vào chốn Ánh Sáng huy hoàng mà trước những tia chói rạng, tất cả những ǵ ở thế gian gọi là rực rỡ, quang minh chỉ là những bóng tối lờ mờ thôi, làm sao họ dám vào chốn Ánh Sáng chói ḷa cho đến đỗi không có con mắt phàm tục nào nh́n ngắm nó được, và cái mà người ta gọi là đức lành, tánh tốt bị nó soi thấy để lộ ra những chỗ bất toàn, c̣n tất cả những ǵ mà ta gọi là tốt tươi, đẹp đẽ đều chẳng qua là những cái xấu xa, tầm thường, vô vị; nói tóm lại, làm sao họ dám bước vào Thánh Điện ngay dưới cái nh́n nghiêm nghị của Chơn Sư; ở nơi đây Linh hồn phải phô bày trọn vẹn Chơn Tướng của ḿnh không c̣n giấu giếm che đậy cái chi được nữa, làm sao họ dám ở lại một Chỗ Thiêng Liêng như thế, nếu ḷng họ c̣n một điểm nhỏ chưa được hoàn hảo và khi mà Chơn Sư ḍ xét ḷng họ, Ngài c̣n thấy một vết nhơ làm xốn con mắt tinh anh của Ngài?

V́ vậy cho nên ở Sân Ngoài, những sự thử thách mà đời cho là khó nhọc lại biến thành ra những nỗi vui, và cái sự đau khổ nó tinh luyện ta, ta niềm nỡ đón tiếp nó như là một người bạn. V́ thế nên Thượng Đế, Vị khuôn mẫu của những nhà Tu sĩ Dô Ghi [[4]], Đấng mà người ta gọi là nhà Dô Ghi Cao Cả, Sư phụ và chủ nhân tất cả mọi người, Ngài luôn luôn đứng giữa giàn hỏa thiêu thân, xung quanh là những ngọn lửa hồng đốt tiêu mọi vật đụng tới nó. V́ trong trái tim của những ai đi qua Sân Ngoài, hăy c̣n có những nơi sâu kín mà Ánh sáng chưa chiếu vào được, muốn tinh luyện trọn vẹn tấm ḷng, trước khi vào Thánh Điện, phải cần đến những ngọn lửa linh động của chính Đức Thượng Đế. Những ngọn lửa này đốt cháy tất cả sự tàn ác ẩn tàng, mắt không trông thấy được trong những nơi sâu kín của tấm ḷng của kẻ sắp làm đệ tử, của kẻ đă hiến ḿnh cho Sư phụ và không c̣n giữ lại một cái ǵ cho ḿnh cả. Tự nơi giàn hỏa oai nghiêm dựng lên ngay trước cửa Thánh điện, túa ra những ngọn lửa hồng rực rỡ mà, ai ai cũng phải đi ngang qua ngọn lửa này trước khi cửa Thánh Điện được mở rộng ra đặng đón tiếp họ. Nét mặt của Thượng đế hiện ra với ta xuyên qua và ở ngay chính giữa những ngọn lửa này. Thượng Đế, nhà Dô Ghi Tối Cao, Ngài là nguồn cội của những ngọn lửa này, nhờ sự hiện diện vinh quang của Ngài trong lửa nên lửa mới có được cái tính cách tinh luyện ấy. Chính là nhờ Thượng Đế, Đức Sư Phụ tối cao mà người đệ tử được tinh luyện lần chót. Rồi Linh hồn vượt qua Thềm Thánh Điện, sau cánh cửa này Linh hồn sẽ không c̣n dính dấp chi với những danh lợi hồng trần nữa; trừ công việc phụng sự, nó sẽ không c̣n có một dục vọng phàm tục nào nữa, ngoài cái ư muốn làm việc để cứu rỗi nhân loại. Trên Địa cầu không c̣n một cái ǵ có thể quyến rũ nó được nữa, v́ nó đă nh́n thấy nét mặt của Thượng Đế và trước vẻ huy hoàng Oai nghiêm của Ngài, mọi ánh sáng khác đều phải lu mờ đi vậy.

 

II. – SỰ TẬP LUYỆN CÁI TRÍ

đầu trang cuối trang mục lục lời nói đầu  phần 1 2 3 4 5

 

Trong cái phần thứ hai này của đề tài của tôi có lẽ chư huynh sẽ nhận thấy một sự khác biệt rơ ràng hơn là bất cứ ở đâu về cái cách nhận xét của một người ở ngoài đời, tính nết trầm tĩnh và thăng bằng, có đạo đức, với cái nhận xét của một nhà Huyền bí Học. Tôi phải dẫn chư huynh từng bước một ngay từ lúc ban đầu để chỉ cho chư huynh thấy cái cách nhận xét đó được thay đổi theo lối nào. Nhứt là về trí thức; vị trí của nó trong con người, phận sự của nó trong việc mở mang nhân tánh, nhiệm vụ của nó và cách nó làm tṛn nhiệm vụ, nhứt là đối với những vấn đề đó th́ có nhiều quan điểm trọng đại khác nhau sanh ra tùy theo phương diện của người đứng ra xem xét chúng nó, tùy theo quan niệm của y về cuộc đời và vai tuồng của y phải nhận lănh. Để nói cho rơ ràng hơn, chúng ta hăy t́m hiểu trong chốc lát coi một người tốt, công b́nh, thuộc về hạng trí thức, một người chắc chắn không phải là vô tư lự, nhẹ dạ, phù phiếm theo nghĩa thường – chúng ta hăy t́m hiểu coi một người như vậy, với đầu óc minh mẫn, với trí hóa thông minh, thăng bằng, sẽ quan niệm sự làm chủ cái trí của ḿnh như thế nào.

Một người tốt, nhất quyết đeo đuổi theo một lư tưởng về đức hạnh mà y cố gắng thực hiện, một lư tưởng về bổn phận mà y cố gắng hoàn thành, một người như vậy, khi ấn định cái lư tưởng của ḿnh, khi suy nghĩ về cái quan niệm của ḿnh về nhiệm vụ, sẽ nh́n nhận rằng cần phải làm chủ cái “bản ngă” thấp hèn và y sẽ t́m cách bắt buộc bản ngă này phải vâng lời “Chơn Nhơn Cao Siêu”. Đó là điều chắc chắn không c̣n có thể nghi ngờ ǵ nữa. Những sự đắm mê và thèm khát của xác thân, những mối xúc cảm lôi cuốn ta đi một cách vội vàng mau lẹ, không suy nghĩ đắn đo, tất cả cái khía cạnh ấy của con người chịu ảnh hưởng bên ngoài và tự biểu lộ ra bằng những hành động vô tâm, không suy nghĩ, con người đức hạnh ắt sẽ cho rằng tất cả những sự ấy phải được kiềm chế và điều khiển. Nói một cách thông thường, chữ “Tự chủ” dùng để chỉ định một người đă kiềm chế được bản ngă thấp hèn của ḿnh, đă kiểm soát được cái trí như đă nói ở trên, v́ thế cho nên lư trí kiểm soát được những dục vọng.

Chúng ta hăy nhận xét về một người đă được tiếng là có ư chí mạnh mẽ, một tánh t́nh đàng hoàng, một tánh t́nh hành động theo một đường lối cư xử nhất định, một ư chí dù ở trong những trường hợp rất khó khăn cũng vẫn có thể điều khiển được bản tính theo một phương hướng đă được ấn định rơ ràng. Ở một người như vậy, ta luôn luôn thấy một cái trí vô cùng phát triển, cho nên y hành động không phải v́ bị kích thích bởi những trường hợp ngoại cảnh, những sự quyến rũ ở xung quanh, hay là v́ thú tánh của y đă hưởng ứng những sự quyến rũ ấy, mà chính là do một căn bản kinh nghiệm tích trữ trong trí nhớ bao gồm những kỷ niệm của những sự việc đă qua và bao gồm sự so sánh những hậu quả của những sự việc ấy. Trí thông minh đă chọn lọc những kinh nghiệm ấy, đă xếp hạng và so sánh chúng, và rút lấy một kết luận do một sự cố gắng của lư trí và lẽ phải. Trí khôn ǵn giữ cái kết quả này như là một định luật về hạnh kiểm và khi con người ở vào trong những trường hợp rối ren khuất phục được một ư chí yếu đuối và một người tầm thường sẽ bị xa đường lạc lối, th́ cái trí thông minh mănh liệt hơn và được phát triển hơn của y sẽ cư xử theo cái định luật về hạnh kiểm đă được ấn định trong một lúc b́nh tĩnh, tránh khỏi sự quyến rũ và không để cho sự quyến rũ hay sự kích thích trong chốc lát làm cho lạc hướng. Trong khi giao thiệp với một người như vậy, chư huynh có thể đoán trước được cái việc mà y sẽ làm. Chư huynh biết được cái chiều hướng chánh yếu của tư tưởng y, và chư huynh có thể như tin chắc được rằng cái tánh t́nh vững vàng ấy, mănh liệt và quả quyết, trong khi chiến đấu – mặc dầu tất cả những sự quyến rũ bên ngoài – sẽ thực hiện được cái lư tưởng mà nó đă quan niệm được trong khi b́nh tĩnh và suy tưởng.

Thường thường một người tự chủ th́ như thế đó. Đó là một người trong khi tự phát triển đă đạt được cái mức khá cao mà chúng ta vừa miêu tả, một người đă rèn luyện để chiếm đắc, kiềm chế và điều khiển cái bản ngă thấp hèn của ḿnh, để cho Linh hồn có thể đứng vững trước những sự tấn công của dục vọng, mặc dầu sự kích thích bên ngoài lên đến cực độ. Một người như thế sẽ hành động một cách cao thượng, dù những sự cám dỗ có mạnh mẽ đến thế nào, những sự cám dỗ này xúi giục y hành động một cách ti tiện hay sa ngă theo những khích động của bản ngă thấp hèn.

Cái hạng người mà chúng ta đang nghiên cứu năy giờ đây, chúng ta có thể gọi y là một người đức hạnh. Đó là một người tánh t́nh cao thượng, tư tưởng minh bạch, có cách xét đoán không sai lầm, không bị những trường hợp đẩy đưa sang bên này hay bên kia, giống như những kẻ sa đọa phóng đăng hay không biết tiết chế. Nhưng c̣n có một tŕnh độ cao hơn nữa mà người này có thể tiến tới được. Y có thể chịu ảnh hưởng của một nền triết lư cao cả về đời sống, triết lư này giảng giải cho y thấy một cách trọn vẹn hơn về cách tác động của trí khôn con người. Y có thể tiếp xúc với những giáo lư Thông Thiên Học cao siêu được tŕnh bày trong những kinh sách thuở xưa hay bây giờ, dù nguồn gốc là ở Ấn Độ, Ai Cập, Hi Lạp hay Âu châu hiện đại. Nền triết lư này sẽ có thể mang lại cho y một quan niệm mới mẻ về vũ trụ và biến đổi sâu xa sự thấy của y.

Hăy tỉ dụ một người như vậy gia nhập vào Hội Thông Thiên Học và chấp nhận những giáo lư căn bản. Ngay lúc đó y sẽ bắt đầu nhận thấy cái ảnh hưởng to tát của tư tưởng một cách rơ ràng hơn là khi chưa gia nhập vào cái trào lưu học hỏi này. Y bắt đầu hiểu rằng trí khôn của y, khi nó hoạt động, th́ sẽ có cái mănh lực sáng tạo như đa số chư huynh đă biết. Y sẽ biết rằng tư tưởng y tạo ra những đời sống, những sinh vật rơ ràng, và do cái quyền lực sáng tạo ấy mà khoảng không gian xung quanh y có đầy dẫy những sinh vật hoạt động theo đường thiện hay theo đường ác, và luôn luôn ảnh hưởng đến tư tưởng và đời sống của những kẻ xa lạ không bao giờ giao thiệp trực tiếp với người đă phát sinh ra những tư tưởng ấy. Y bắt đầu hiểu rằng tư tưởng của y không cần phải được diễn tả ra thành lời nói hay câu văn mà vẫn ảnh hưởng được đến tâm trí của đồng loại. Tư tưởng không cần phải được biểu lộ ra thành sự hành động hay là làm gương mới có một ảnh hưởng mănh liệt về điều thiện hay điều ác. Y có thể là một người vô danh tiểu tốt theo ư nghĩa thường ở ngoài đời, một người mà đồng loại không hề biết đến, y có thể chỉ ảnh hưởng đến một số ít bà con, bè bạn giao thiệp ngay với y thôi. Tuy nhiên y có một sức mạnh vượt qua hẳn sức mạnh của lời nói. Y hiểu rằng tuy y là một người không ai biết đến, một người xa cách hẳn mọi sự việc của đời sống hồng trần, mà y vẫn có thể có một ảnh hưởng mănh liệt đến kẻ khác, về điều thiện cũng như về điều ác. Y có thể làm cho những linh hồn sống đồng thời với y trở nên trong sạch, tinh khiết hay ô trược, xấu xa; y có thể dự phần vào sự tấn bộ của nhân loại hay làm cản trở sự tấn bộ ấy; y có thể nâng cao ṇi giống của y lên hay hạ nó xuống thấp; nói tóm lại, không cần phải làm gương mẫu, không cần phải nêu ra những qui tắc – là những phương tiện duy nhất của người thường – y vẫn có thể ảnh hưởng tới tinh thần của thời đại y bằng những mănh lực tế nhị của tư tưởng, bằng những h́nh tư tưởng hoạt động lan tràn khắp thế giới loài người; chúng sanh ra những hiệu quả rất chắc chắn v́ những tư tưởng này làm việc mà không ai thấy chúng, có một ảnh hưởng rất rộng răi v́ chúng là những tư tưởng tinh vi tế nhị, cảm nhiễm quần chúng mà quần chúng không hay biết.

Như thế, khi mà con người càng có được những kiến thức rộng răi hơn th́ đối với y, tư tưởng y càng có một khía cạnh mới mẻ. Y bắt đầu biết được rằng chỉ một sự xử dụng cái trí của ḿnh cũng khiến cho y cũng có một trách nhiệm rất lớn lao. Y hiểu rằng cái trách nhiệm này lan rộng khỏi tầm mắt y, và thường khi y dự phần một cách rất thiết thực vào những tội ác làm nhơ danh xă hội, cũng như dự vào những hành vi cao thượng anh hùng khiến cho xă hội được phấn khởi. Sau chót, y hiểu được cái nguyên tắc chủ yếu này là trọn cả cái trách nhiệm của một việc làm không phải luôn luôn kẻ làm việc đó cũng phải gánh chịu, trái lại mỗi hành động là một sự biểu hiện của một ư niệm, ấy là một ư niệm được thành h́nh, và ai đă dự phần vào việc phát sinh ra những ư niệm đó đều có một phần trách nhiệm về những hành động mà ư niệm đă sanh ra.

Được hiểu biết một cách mới mẻ như vậy về ư nghĩa rộng răi của sự sống, con người bắt đầu cẩn thận, coi chừng sự hoạt động của cái trí ḿnh. Y bắt đầu hiểu rằng y phải làm chủ tư tưởng, và về điều nầy, y khác xa hẳn cái lối hiểu biết của một người thường. Nhưng như vậy chưa phải là hết đâu. Khi học hỏi một cách sâu xa hơn, chẳng bao lâu y sẽ nhận thấy rằng những tư tưởng ở ngoại giới mà y tự thu hút vào ḿnh phần nhiều có một tính chất giống như tính chất của những tư tưởng mà chính y đă phát sinh ra. Như thế, y giống như một ḥn đá nam châm, không phải chỉ v́ y phát ra những làn tư tưởng mănh liệt trên khắp vùng xung quanh y ở, ví như một từ trường (champ magnétique) mà y c̣n thu hút vào ḿnh những chất tương ứng với những tư tưởng mà y đă phóng ra. Những tư tưởng tốt lành hay ô trược nó đổ xô vào trí y phần lớn là do chiều hướng của sức mạnh của cái trí y, như thế y bắt đầu hiểu rằng khi phát sanh ra một tư tưởng tốt, không những y đă làm đầy đủ một bổn phận cao siêu đối với đồng loại, mà cái tư tưởng tốt của y vừa phóng ra cũng có ích cho chính ḿnh y nữa.

Điều này luôn luôn xảy ra khi con người làm việc đúng với luật Trời. Mỗi khi y ban rải một tư tưởng cao thượng cho đời, th́ y cũng tự biến ḿnh thành một trung tâm thu hút những tư tưởng cao thượng khác, chúng do một sự đồng thanh đồng khí mà phóng lại phía y. Những tư tưởng này từ phía ngoài đi vào sẽ giúp đỡ và tăng cường trí khôn của y. Và càng suy nghĩ bao nhiêu th́ con người lại càng nh́n nhận một cách hổ thẹn và đau khổ rằng khi phóng ra ngoài đời một tư tưởng ô trược, y khiến cho tâm thức y trở thành một trung tâm ô trược, thu hút những tư tưởng ti tiện ở xung quanh và khiến cho cái xu hướng về điều ác của y trở nên mạnh mẽ, giống hệt như sự suy tưởng về điều lành sẽ làm cho xu hướng về điều thiện được mạnh mẽ hơn. Khi mà y hiểu được cái sự liên quan tương đồng về thể trí nó ràng buộc tất cả mọi người lại với nhau, th́ y sẽ thay đổi hoàn toàn cái cách suy tưởng của ḿnh. Càng ngày y càng cảm thấy rơ rệt cái trách nhiệm của ḿnh, y nh́n nhận thấy những sợi dây tương liên tự nơi y bủa rải tứ phía, đi về phía những người khác, rồi lại tự những người khác mà lại quay trở về với y. Và trong đời sống hàng ngày, y bắt đầu coi chừng tư tưởng hơn là sự hành động. Y hiểu rằng mọi mănh lực đều được phát sinh chính ở nơi cảnh giới tư tưởng của cơi vô h́nh, rồi sau mới tự biểu lộ ra trong đời sống tâm linh và đời sống hữu h́nh.

 

*

*   *

Một khi đă đi đến Sân Ngoài rồi, con người sẽ bước thêm một bước nữa. Như chúng ta đă thấy, bây giờ y đang leo lên con đường ngắn hơn và hiểm trở hơn để đi đến đỉnh núi, y bước vào cái thời kỳ phải chịu thử thách để chuẩn bị được Điểm đạo. Lúc này, chỉ hiểu được cái trách nhiệm của ḿnh đối với đồng loại mà thôi - như trước kia ta đă hiểu – th́ như vậy thật là chưa đủ. Khi đă bước qua ngưỡng cửa của Sân Ngoài rồi, con người nhận thấy rằng đằng sau cái trí của ḿnh c̣n có một thể cao cả hơn nữa, đối với cái trí th́ thể này có cái nhiệm vụ cũng giống như nhiệm vụ của cái trí đối với bản ngă thấp hèn. Trong lúc phát triển và sau khi đă nh́n nhận rằng thể trí là cao hơn những dục vọng, lúc bước qua ngưỡng cửa của Sân Ngoài, và ngay cả khi chưa bước qua ngưỡng của đó – (v́ chính điều này là một phần đă dẫn dắt y đến thềm của Sân Ngoài) – con người đă nh́n nhận rằng y đă lầm lẫn khi tưởng rằng cái trí là tột cùng cao cả. Ngày hôm qua y hăy c̣n đồng ư với một tư tưởng gia chủ trương rằng : “Trong thế gian chỉ có con người là cao hơn hết, và trong con người chỉ có cái trí là cao hơn hết” mà thôi. Nhưng ngày nay y nh́n nhận rằng đó chỉ là một ảo tưởng, v́ y đă nh́n xét sự vật theo một quan điểm thấp thỏi và tầm mắt nh́n của y đă bị lu mờ. Mắt y đă mở rộng và y đă thấy rằng trong Vũ trụ c̣n có một cái ǵ cao cả hơn cái trí đó mà trước kia y tưởng là chót đỉnh của nhân loại – có một cái ǵ bao la rộng răi hơn, cao siêu hơn, đă có lần chiếu sáng nơi y trong chốc lát, rồi lại bị che phủ và h́nh như biến mất đi. Con người đă nh́n nhận không phải do sự nhận xét trực tiếp, mà do những điều y đă học được ở ngoại giới, rằng y vừa mới thoáng nh́n thấy được Linh hồn, một tia sáng phát sinh từ một cảnh giới cao cả hơn đă chiếu vào trí y, cùng một lúc đó Ánh sáng này cho y cái cảm tưởng rằng nó chính là tinh hoa của cái trí y vậy. V́ thế cho nên thoạt đầu có sự lộn xộn, có một sự ḍ dẫm trong bóng tối giữa một bên là cái trí, và bên kia là “một cái ǵ” mà con người liên cảm rằng nó giống hệt với y, tuy trước kia y đă tưởng y chính là cái trí vậy. Đối với y th́ cái nguyên tố mới mẻ này vừa là y, vừa lớn hơn y, cao cả hơn y, và thoạt đầu con người không biết ánh sáng này tự đâu mà đă tới với ḿnh, y không biết rằng cái niềm hi vọng mà tia sáng đó đă làm nảy sanh nơi y là một sự thật hay chỉ là một giấc mộng.

Trước khi làm sáng tỏ vấn đề, phải định nghĩa rơ ràng cho danh từ “cái trí” và “linh hồn”. Đối với chúng ta, danh từ này không phải chỉ là những phiếu, những thẻ dùng để đánh bạc không có giá trị thật sự. Chúng phải giống như những đồng tiền thiệt thọ có một giá trị tinh thần phong phú, phải là một kho quan niệm mà chúng ta đây có sẵn. Ta hăy xem xét những danh từ này trong chốc lát để biết cái ư nghĩa của chúng là ǵ, hay là tôi đang dùng chúng nơi đây theo cái ư nghĩa nào. Cho nên những lối giải nghĩa sau đây sẽ minh bạch, dù chư huynh có đồng ư hay không về cái cách định nghĩa những danh từ của tôi.

Tôi định nghĩa Linh hồn con người là cái nguyên lư nó cá nhân hóa Đại Hồn của Vũ trụ, nó tập trung cái ánh sáng thiêng liêng vào một tiêu điểm duy nhất. Có thể so sánh Linh hồn con người với một cái b́nh trong đó Đại Hồn của Vũ trụ tuôn vào. Linh hồn con người tự biểu lộ thành ra riêng biệt, tuy rằng thật ra nó luôn luôn Đại đồng và giống hệt với Đại Hồn.

Có sự chia cách riêng rẽ này là để cho một cá nhân có thể nảy sanh và phát triển, và để cho đời sống cá nhân đó có thể hoạch đắc được quyền năng và kiến thức trong mọi cảnh giới của Vũ Trụ, trong cơi Trần, trong cơi Tâm linh cũng như trong cơi Tinh thần, luôn luôn sáng suốt không bao giờ bị gián đoạn trong cái trạng thái thức tỉnh, sáng suốt để cá nhân có thể tự tạo lấy những Thể cần thiết ngơ hầu học hỏi ở những cảnh giới khác hẳn cảnh giới của ḿnh và có thể lần lần tinh luyện những thể này để mai sau chúng không hành động như những tấm màn dày đặc, những chướng ngại, mà trở nên những trung tâm truyền đạt tinh khiết và trong suốt, nh́n qua đó có thể thâu thập được những sự hiểu biết rơ ràng về mỗi cảnh giới. Khi dùng danh từ “cái b́nh” và h́nh ảnh do danh từ này phát sanh ra, tôi làm cho chư huynh lầm lẫn. Lấy những từ ngữ mà đem áp dụng vào cách tác động của cái trí, th́ cái h́nh ảnh tuy đúng thực theo phương diện nầy, nhưng vẫn là sai lầm theo một phương diện khác. V́ cái cách Đại Hồn tự biến hóa ra làm thành cá nhân không hề giống sự nắn thành một cái b́nh mà h́nh dáng qui định tức tốc h́nh dáng cái chất của người ta đổ vô b́nh. Hiện tượng Đại Hồn biến thành cá nhân, thật ra th́ giống như sự thành lập một hệ thống vĩ đại trong vũ trụ, như sự thành lập một Thái dương hệ chẳng hạn. Lấy trí tưởng tượng mà đi ngược ḍng thời gian, chư huynh có thể h́nh dung cơi không gian nơi đó người ta không trông thấy một vật ǵ cả. Cơi không gian này tuy dường như trống rỗng, mà thật ra chứa đựng mọi sự viên măn mà con mắt không trông thấy được. Chư huynh hăy tưởng tượng trong sự trống rỗng giả tưởng này, một đám sa mù nhẹ nhàng nhưng hăy c̣n quá mong manh tế nhị, chưa xứng đáng với danh từ “sa mù”, đó là một sự phối hợp mới khởi đầu mà ta không thể gọi bằng danh từ ǵ đúng hơn nữa được. Rồi khi chư huynh cứ nhận xét măi, đám sa mù trở nên dày đặc, tỷ trọng nó càng ngày càng tăng, và càng ngày nó càng tách ra rơ ràng khỏi cơi không gian xung quanh nó. Sau rốt, cái đám sa mù mà thoạt đầu chỉ là một cái bóng mờ nay bỗng có một h́nh dáng càng ngày càng rơ; đám tinh vân đông đặc lại, những nét chu vi của nó lần lần trở nên rơ hơn cho đến khi một hệ thống được thành h́nh; hệ thống này gồm có một mặt trời ở chính giữa và xung quanh là những hành tinh.

Dù sự miêu tả trên đây có vẻ khiếm khuyết đến thế nào chăng nữa, dường như Đại Hồn cũng theo một phương pháp giống như thế mà tự nhân cách hóa. Nó giống như một cái bóng mờ hiện ra trong khoảng trống của Vũ trụ, khoảng trống này thiệt ra là sự viên măn nhất trong những sự viên măn. Nhưng rồi cái bóng mờ trở thành một đám sa mù nó có một h́nh dáng càng ngày càng thấy rơ, nó trở nên càng ngày càng rơ ràng cho tới khi chúng ta thấy có một cá nhân, một Linh hồn ở cái nơi mà lúc thoạt đầu chỉ có một cái bóng mờ khó mà nh́n thấy được. Một Linh hồn, một tâm thức cá nhân được tạo thành theo kiểu đó vậy. Nếu chư huynh có thể hiểu rơ cái ư niệm này, chư huynh sẽ biết rằng thoạt đầu Linh hồn không được đầy đủ trọn vẹn, Linh hồn không đi xuống cảnh giới của vật chất như một người thợ lặn lao ḿnh xuống nước; Linh hồn tự tạo ḿnh một cách chậm chạp, chậm chạp lắm, nó tự đông đặc lại dần dần, như trên kia đă nói cho tới mức từ trạng thái Đại Đồng, nó trở thành một Linh hồn cá nhân. Và cá nhân này phát triển không ngừng theo đà tiến hóa của nó. Nó là cái Linh hồn thiệt thọ trường tồn từ kiếp này sang kiếp khác, qua những thời đại vô tận vô biên, qua những vô số thế kỷ như chúng ta đă biết. Nó là một cá nhân luôn luôn tăng trưởng, và lương tri nó là cái lương tri đă thâu thập được mọi kinh nghiệm đă có sẵn trong những tiền kiếp, trong khi phát triển. Linh hồn con người là như thế đó, Linh hồn này giờ đây đă trở nên mănh liệt trong nhiều người rồi. Linh hồn có trong dĩ văng một lịch sử dài ḍng luôn luôn hiện ra trong cái lương tri đă trở thành rộng lớn mênh mông theo với thời gian, lương tri rộng lớn này thu gồm bao nhiêu kiếp sống của linh hồn lại trong một đời sống duy nhất và biết trọn vẹn cả cái dĩ văng của ḿnh. Mỗi khi phải đầu thai lại một lần nữa, mỗi khi phải xuống trần để t́m kiếm thêm kinh nghiệm, Linh Hồn đă từng phát triển không ngừng qua các thời đại, lại cho một phần của bản thể ḿnh khoác những lớp y phục mới. Và cái phần này của Linh hồn phải đi xuống những cảnh thấp, cái dụng cụ này cung cấp những kiến thức mới mẻ để Linh hồn phát triển, cái phần này mà Linh hồn phóng ra ngoài chính là cái trí hay là sự thông minh của con người vậy. Đó là cái phần Linh hồn làm việc trong khối óc, bị khối óc hạn chế và làm trở ngại, bị xác thịt nặng nề đè nén, bị chôn vùi dưới một lớp vật chất nặng nề, và xuyên qua vật chất đó, lương tri của Linh hồn tự biểu lộ ra được một cách khó nhọc. Cái điều cao cả mà chúng ta gọi là Trí thức của con người chỉ là một phần của Linh hồn đang cố gắng, đang chịu nhọc nhằn trong khối óc để có thể giúp cho cá nhân thiệt thọ phát triển được. Khi nó càng cố gắng th́ nó càng biểu lộ được những quyền lực của Linh hồn, v́ nó chính là Linh hồn dưới lớp dầy vật chất. Tất cả cái ǵ mà nó có thể biểu lộ qua khối óc th́ làm ra sự thông minh của con người như ta thường biết ở cơi trần này, có khi nó tự biểu lộ rất nhiều, có khi nó tự biểu lộ rất ít, tùy theo cái tŕnh độ tiến hóa đă đạt được.

Nói tóm lại, một khi đă bước chân vào Sân Ngoài rồi, con người hiểu được rằng cái bản thể thiệt thọ của y là Linh hồn mà chúng ta vừa nói trên kia, c̣n cái trí thông minh của y chỉ là một sự biểu lộ tạm thời của Linh hồn thôi. Lúc đó, y bắt đầu hiểu rằng nếu trí khôn – cái phần của Linh hồn thiệt thọ bị giam hăm – phải làm chủ xác thân và dục vọng, th́ đến lượt trí khôn phải tùng phục Linh hồn v́ trí khôn chỉ là một sự biểu lộ tạm thời của Linh Hồn mà thôi. Trí khôn là một dụng cụ, một cơ quan của Linh hồn, với mục đích duy nhất là phụng sự Linh hồn, một cơ quan dùng để thu thập mọi kinh nghiệm ở ngoại giới, rồi mang những kinh nghiệm đó lên cho Linh hồn, là tinh hoa thiệt thọ của nó.

Một khi đă hiểu được những điều nầy rồi th́ thí sinh phải có một thái độ như thế nào? Trí khôn phải học hỏi. Khi tiếp xúc với cơi đời bên ngoài, trí khôn thu thập những sự việc, xếp loại và so sánh chúng, Linh hồn xét đoán chúng, nói tóm lại Linh hồn làm đầy đủ những nhiệm vụ đặc biệt của ḿnh. Kết quả của tất cả sự làm việc nầy được truyền đạt vào nội tâm, đi ngược ḍng từ trí khôn lên đến Linh hồn; khi lên Thiên đàng Linh hồn mang theo ḿnh cái kết quả ấy để đồng hóa nó và biến đổi nó thành minh triết. V́ minh triết và hiểu biết là hai điều khác hẳn nhau. Sự hiểu biết là tổng số kiến thức, với những cách người ta xét đoán chúng và với những kết luận do sự xét đoán ấy phát sanh ra. Minh triết là cái tinh hoa gạn lọc từ toàn thể, là cái sự khôn ngoan rơ rệt mà Linh hồn đă gặt hái được do tất cả những kinh nghiệm đó, và như người ta đă biết; sự biến đổi những kinh nghiệm ra thành minh triết chỉ được thực hiện ở Thiên đàng mà thôi.

Người chí nguyện biết mọi điều nầy, y hiểu rằng y chính là Linh hồn, Linh hồn nầy đă tiến bước qua mọi tiền kiếp và đă tự đào tạo trong lúc đi hành hương. Giờ đây, nó hiện ra như là bản thể thiệt thọ của con người, trong khi chờ đợi cho y có thể nh́n thấu được cả những bề sâu thăm thẳm hơn thế nữa. Y hiểu tại sao ngay từ quăng đầu của con đường Đạo, người ta đă nói rằng thí sinh phải biết phân biệt giữa Chơn Nhơn trường tồn và cái trí khôn nó chỉ là một sự biểu lộ nhất thời của Linh hồn trong cơi đời vật chất mà thôi, một sự biểu lộ chỉ để phụng sự những quyền lợi của Linh hồn.

Bây giờ người đệ tử có thể hiểu được câu trả lời là của Sư phụ khi lần đầu tiên y xin Ngài dạy dỗ y. Người đệ tử bồng bột kêu lên rằng: “Thưa Sư phụ, con phải làm ǵ để có được sự Minh triết? Con phải làm ǵ để được toàn thiện, thưa Chơn sư Minh triết?” Chơn sư trả lời: “Con hăy t́m kiếm những con đường Đạo. Nhưng hỡi đệ tử, trước khi lên đường, tấm ḷng con phải trong sạch. Trước khi cất bước lần đầu tiên, con hăy tập phân biệt sự chơn với sự giả, cái luôn luôn thay đổi với cái trường tồn bất diệt [[5]]. Rồi Chơn sư lại tiếp tục dạy dỗ. Ngài chỉ bảo sự khác nhau giữa kiến thức và Minh triết. Ngài chỉ bảo cho đệ tử thấy sự vô minh là ǵ, sự hiểu biết là ǵ, và kế tiếp, sự Minh triết nó nối tiếp hai cái đó là ǵ. Rồi Ngài lại phân biệt giữa trí khôn “giống như một tấm gương phản chiếu h́nh ảnh nhưng cũng thu hút những bụi bậm” với sự Minh triết của Linh hồn giống như một luồng gió thổi tan những bụi bậm của ảo tưởng làm cho tấm gương trở nên trong sạch.

Nghe những lời này, nếu thí sinh khôn ngoan th́ y phải suy nghĩ. Sự khác biệt giữa cái chơn và cái giả là cái ǵ vậy? Và tại sao sự khác biệt này lại có liên quan đến sự biểu lộ của trí khôn. Giữa tấm gương phản chiếu những h́nh ảnh và Linh hồn có nhiệm vụ phải phủi sạch bụi bậm của tấm gương để làm tan những ảo ảnh của chúng ta, có một sự khác biệt, sự khác biệt nầy là cái ǵ vậy? Người ta đang gán một nhiệm vụ mới mẻ nào cho cái trí khôn, mà trước đây trí khôn nầy là một yếu tố khẩn thiết, cho đến đỗi chúng ta coi nó như là hiện thân của con người vậy. Nói tóm lại, cái nhiệm vụ thiệt thọ của trí khôn là ǵ nếu ở cái bước đầu tiên trên con đường Đạo phải cần phân biệt cái chơn với cái giả, và nếu trí thông minh có liên quan ngay đến sự nẩy sanh các ảo tưởng, th́ đó là do một sự tiếp xúc tế nhị như thế nào?

Người đệ tử c̣n nhớ lại những lời nói khác cũng do các Đấng Chơn sư Minh triết ấy thốt ra. Y nhớ đến một qui luật lạ lùng nói đến “Vị Chúa tể những giác quan”, vị vua cai trị bản ngă thấp hèn, nhưng mà không phải là bạn thân của kẻ đệ tử đâu. Chính lời giáo huấn nầy cũng khuyên nên t́m kiếm “Vị Chúa Tể của giác quan” để hiểu nó một cách kỹ càng v́ chính nó “phát sinh ra những tư tưởng, chính nó khêu gợi ảo tưởng” và có một câu khác nữa là “trí khôn là kẻ tiêu diệt sự Chơn. Thật vậy người đệ tử phải trừ khử kẻ sát nhơn đi [[6]].

H́nh như ở đây chúng ta đang theo dấu của một vài tư tưởng có thể soi đường cho người đệ tử khi y t́m kiếm vị Chúa tể của giác quan. Vị Chúa tể hay vị vua của các giác quan là kẻ sanh ra tư tưởng, một mặt khác kẻ sanh ra tư tưởng, cùng một lúc, lại khêu gợi ảo tưởng và giết chết sự Chơn thật. Chúng ta biết rằng trong thế giới tinh thần, có Thật Thể. Khi sự sai biệt càng tiến triển th́ ảo tưởng lại phát sanh, và chính là cái trí khôn, cái trí khôn đang phát triển đă sanh ra ảo tưởng. Chính cái trí khôn đang phát triển nầy luôn luôn tạo ra những h́nh ảnh, nó có cái năng khiếu mà ta gọi là sự tưởng tượng cùng cái năng khiếu lư luận nó xây dựng bằng cách lấy h́nh ảnh hư vô do sự tưởng tượng đă tạo ra mà làm căn bản: Cái trí thật là kẻ đă tạo nên ảo tưởng, đă tiêu diệt sự Chơn thật ngay lúc con người được làm đệ tử. V́ vậy cho nên cái công việc đầu tiên của người đệ tử là phải trừ khử kẻ sát nhơn. V́ nếu nó không giải trừ được những ảo ảnh của trí khôn th́ nó sẽ không khi nào vượt qua khỏi Sân Ngoài được.

Rồi nếu người đệ tử c̣n nghe thêm lời của Chơn sư, th́ nó nghe một tiếng nói khuyên nó t́m cách hợp nhất trí khôn với Linh hồn [2].  Phận sự của y là phải biến đổi hạ trí ḿnh, khiến nó có thể hợp nhất với Chơn Nhơn, phải tiêu diệt cái khả năng phát sanh ảo tưởng của nó đi để nó có thể biết đến Linh hồn bất tử đă sanh ra nó, để cho Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con có thể hợp nhất được với nhau.

Người đệ tử c̣n biết rằng y phải tiêu diệt nguyệt thể và tinh luyện thể trí của ḿnh. Khi y học hỏi qui tắc này và t́m hiểu ư nghĩa của lối nói thần bí này, th́ y nhờ nhiều lối nói bóng gió, nhiều h́nh ảnh tượng trưng quen thuộc, y hiểu được rằng Nguyệt Thể là Kama, là ḷng Dục. Thỉnh thoảng người ta gọi thể này là cái Vía. Vậy người đệ tử phải tiêu diệt Nguyệt thể và tinh luyện cái trí. Sư phụ nói: “Phải tinh luyện cái trí của con” v́ nếu không phủi sạch bụi bậm ảo tưởng bao phủ nó th́ nó không thể nào phục hồi nguyên vị được, không thể nào hợp nhất với Linh hồn được.

Bây giờ người tân tín đồ bắt đầu hiểu cái công việc tinh luyện cái trí ở Sân Ngoài là thể nào. Y bắt đầu hiểu rằng chính y, chính cái Linh hồn linh động tấn hóa qua nhiều thế kỷ đă phóng ra ngoài bản thể ḿnh một cái trí, một mănh lực để xử dụng như là một dụng cụ. Thay v́ làm chủ, trí khôn phải là một kẻ nô lệ biết vâng lời, một dụng cụ trong tay Linh hồn, một người tôi tớ dễ dạy mà Linh hồn đă gởi xuống trần gian. Và khi mà người đệ tử trông thấy rơ ràng cái công việc phải làm th́ y bắt đầu tinh luyện cái trí y vậy. Sự tinh luyện này khởi đầu bằng những việc rất giản dị. Người tân tín đồ nhận thấy rằng tư tưởng của ḿnh luôn luôn bay nhảy từ vật này sang vật khác, nó bướng bỉnh, nó bất trị. Như Đức Arjouna đă nhận xét cách đây 5000 năm, cái trí rất lao chao, bồn chồn, hiếu động và khó cầm giữ trong tay (Kinh Bhagavad Gita).

Chư huynh phải bắt đầu hành động để tập rèn nó như khi ta huấn luyện cho một con ngựa thành một con vật thuần thục để ta cưỡi. Phải trị được nó và dạy nó đừng có đi lang thang không mục đích, đừng nhảy qua các hầm hố và hàng rào, mà phải đi theo con đường do ư chí của chư huynh đă vạch sẵn, không được cự nự phản đối.

V́ thế cho nên trong đời sống hàng ngày của ḿnh – v́ đời sống hàng ngày của thế tục là khung cảnh nơi đó phải làm cái công việc chuẩn bị này – thí sinh phải tập lần lần cho cái trí của ḿnh suy nghĩ một cách liên tục và rơ ràng, và không để cho vô số những sự quyến rũ xung quanh lôi cuốn, không phung phí thần lực của cái trí ra tứ phía. Y sẽ tránh, không cho tư tưởng của ḿnh được vẩn vơ, y sẽ coi chừng cho nó theo một đường lối nhất định, y sẽ không học hỏi một cách đứt quăng, từng mảnh một, giống như khi y không đủ sức để theo dơi một nghị luận khó khăn. Y sẽ dẹp qua một bên vô số những sự quyến rũ bao vây y, trong cái thời đại phù phiếm của chúng ta đây. Những sách y đọc sẽ được chọn lọc một cách đứng đắn, v́ nhứt là ở đây tư tưởng của thí sinh được huấn luyện. Y sẽ tự ư đọc những lư luận sâu xa, những lư luận dài ḍng khiến cho trong một thời gian khá lâu trí y phải theo một con đường duy nhất, được ấn định rơ ràng. Y sẽ không cho phép tư tưởng của ḿnh nhảy bất thần từ đề tài này sang đề tài khác, v́ làm như vậy th́ chỉ khiến cho cái trí không được vững chắc, điều này là một sự trở ngại trên con đường của người đệ tử, nếu không loại trừ nó ra th́ sau nầy không thể nào tấn bộ được.

Như thế, từ ngày này sang ngày khác, từ tháng này sang tháng khác, từ năm này sang năm khác, thí sinh rèn luyện cái trí của ḿnh. Y tập luyện cho cái trí suy tưởng một cách liên tục. Ngoài ra, y c̣n phải học chọn lọc tư tưởng của y. Y không cho những tư tưởng nầy được tự do đi lại trong trí. Y sẽ không để cho ḿnh bị ám ảnh bởi những ư niệm hay lọt vào và gắn chặt trong trí của những người thường mà họ bất lực không nên xua đuổi chúng được. Người đệ tử tự làm chủ lấy ḿnh. Nếu trong đời sống hàng ngày y bị những sự thử thách ào đến tấn công, th́ điều đó cũng không sao, những sự thử thách nầy giúp cho y tự huấn luyện trí ḿnh. Ở giữa những sự thử thách đau đớn nhất, những sự lo âu nhọc nhằn nhất, nếu người đệ tử chực muốn nghĩ đến tương lai, nếu y lo âu thắc mắc khi nghĩ đến những sự buồn rầu đang chờ đợi y trong mấy ngày, mấy tuần lễ, hay mấy tháng, th́ y hăy quả quyết tự nhủ rằng: “Không, tôi không muốn lo âu như thế, tôi không muốn chất chứa một ư nghĩ như vậy trong trí tôi. Trong cái trí nầy của tôi, chỉ riêng những ư nghĩ nào mà tôi ưng thuận chứa chấp th́ mới được phép nhập vào mà thôi, ư nghĩ nào đă lọt vào trí tôi mà tôi không cho phép phải tức khắc ra ngoài” – Ban đêm biết bao nhiêu người thao thức không ngủ v́ bị những tư tưởng lo âu dằn vặt; trọn vẹn cả cuộc đời họ bị đầu độc, trọn vẹn cả sức khỏe của họ bị hao ṃn, không phải do những sự thử thách mà do những nỗi lo âu mà những thử thách làm nảy sanh ra trong trí họ. Thí sinh phải chấm dứt ngay t́nh trạng đó. Y không được cho phép trí ḿnh hoạt động một cách tự do và phải cương quyết đóng cửa ngăn cấm ngay mọi tư tưởng tới phá khuấy măi y.

Đó là một sự tập luyện có phương pháp, một sự tập luyện dài lâu và khó nhọc, v́ những tư tưởng thường nổi lên chống với ư chí và phải lấy sức mạnh mà xua đuổi chúng ra. Phải làm như vậy hết lần nầy đến lần khác, phải làm đi làm lại với một tấm ḷng kiên nhẫn không hề biết mệt mỏi. Chỉ có một cách duy nhất là mỗi khi có tư tưởng độc hại nổi lên, phải nắm ngay lấy nó và quả quyết không cho nó trú ngụ. Chư huynh sẽ hỏi tôi rằng: “Muốn được như vậy th́ phải làm thế nào?” – Thoạt đầu, việc dễ làm nhất là chú ư đến một việc khác; rồi về sau người ta chỉ từ chối cho tư tưởng xấu vô trí. Nhưng trước khi thí sinh có đủ sức mạnh cần thiết để đóng cửa thể trí và giữ được sự b́nh tĩnh, không bị ảnh hưởng bên ngoài chi phối, y phải lấy một ư tưởng nầy thay thế cho một ư tưởng kia, luôn luôn lấy một tư tưởng cao thượng, có đặc tính trường tồn thay thế cho một tư tưởng phù phiếm mà y định xua đuổi. Phương pháp nầy có hai điều lợi: một là nó xua đuổi được cái tư tưởng phù phiếm, hai là nó tập cho cái trí đứng được vững vàng nơi cảnh giới trường tồn và khiến cho nó nhận định được rằng hiện tại luôn luôn trôi đi mất, không đáng cho ta quan tâm. Sự luyện tập nầy thêm sức mạnh cho Linh hồn trong lănh vực những vấn đề trường tồn, nó khiến cho Linh hồn không ngớt chăm chú vào cái vô thỉ vô chung. Đó là bí quyết của mọi sự an lạc thiệt thọ trong cơi trần nầy cũng như trong các cơi khác.

Vậy thí sinh tập luyện cái trí của ḿnh, lần lần y sẽ làm chủ được nó. Sau nầy y có thể tự ư lựa chọn đề tài để suy nghĩ và loại trừ những ư tưởng mà y cho là xấu xa. Y c̣n phải có thể tiến thêm một bước nữa, nhưng đến đây sự khó khăn lại gia tăng. Thí sinh phải trọn vẹn vượt khỏi cái trí của ḿnh, suy nghĩ mà không cần đến cái trí nữa – không phải v́ y muốn trở nên vô ư thức, nhưng trái lại v́ y t́m cách đoạt đến một lương trí cao sâu hơn, không phải v́ nơi y đời sống trở thành ṃn mỏi và hôn mê, nhưng v́ đời sống nầy bỗng trở nên nhiệt liệt đến nỗi khối óc không c̣n đủ sức để chứa đựng nó nữa. Khi mà đời sống nội tâm càng nảy nở nơi y, khi mà làn sóng sinh lực tự đáy Linh hồn dâng lên cao th́ người thí sinh sẽ lần lần nhận thấy rằng có thể  tiến đến một trạng thái tư tưởng không c̣n là sản phẩm của cái trí, mà tư tưởng chính là lương tri ở ngay trong Linh hồn vậy.

Nhưng lâu lắm, trước khi đoạt được lương tri ấy, trước khi có thể tiếp xúc và hợp nhất với nó một cách liên tiếp, thí sinh phải trải qua một thời kỳ đen tối, trống rỗng nội tâm. Có thể đó là một trong những sự thử thách khó nhọc nhất trong đời sống của thí sinh ở Sân Ngoài. Lúc đó y cũng bắt đầu hiểu một cách lờ mờ về ư nghĩa của những lời này của Chơn Sư: “Hăy lấy Chơn Ngă Thiêng liêng của con mà khuất phục phàm ngă thấp hèn. Hăy lấy cái vĩnh cửu trường tồn mà kềm chế Chơn Ngă” [[7]]. Chơn nhơn Thiêng liêng, chính là cái Linh hồn phải làm chủ hạ trí. Rồi ở phía trên cao hơn Linh hồn nữa, là Đức Thượng Đế Trường tồn, trong tương lai, ở ngay trung tâm Thánh Điện. Vị Thượng Đế Trường tồn nầy phải làm chủ Linh hồn, cũng như Linh hồn, tức con người Thiêng liêng làm chủ bản ngă thấp hèn vậy.

Kế tiếp thí sinh học được lần lần từng chặng một rằng y phải làm chủ mọi vật bao vây y trong lănh vực của tư tưởng thuần túy. Những sự cám dỗ tế nhị đến tấn công y. Những cám dỗ nầy không liên quan ǵ đến bản ngă thấp hèn của y nữa, mà lại mạnh bạo chống cự với bản ngă cao cả của y. V́ không thể thành công với những dục vọng và những cám dỗ thô lỗ của xác thân chúng t́m cách dùng cái trí khôn của người đệ tử mà tiêu diệt y. Và những sự cám dỗ tế nhị của cơi trí chạy ào tới tấn công y từng đám, chúng nó gài bẫy Linh hồn. Trong khi y bước chân đi trên con đường Đạo gian lao hiểm trở, chúng từ tứ phía chạy lại bao vây y. Người đệ tử phải hoàn toàn làm chủ những h́nh tư tưởng do chính y tạo ra, trước khi có thể tiếp tục lên đường, lănh đạm, trầm tĩnh, trơ như đá, vững như đồng giữa cái đám tư tưởng linh động, mănh liệt tựa bầy ong bay nhanh đó; không phải là cái trí thông minh yếu ớt của người thường nơi hạ giới đă nuôi dưỡng những tư tưởng nầy, mà chính là một năng lực kinh khủng, thuộc về bản chất những thần lực của cảnh giới thiêng liêng – dĩ nhiên thuộc về khía cạnh tối tăm chớ không phải khía cạnh sáng sủa, v́ những mănh lực tàn phá nầy phát sanh tự những kẻ muốn giết chết Linh hồn chớ không phải những kẻ sẵn ḷng cứu vớt nó.

Ở Sân Ngoài, thí sinh đương đầu với những tư tưởng đó và chúng tấn công y với tất cả những sức mạnh của những lực ghê gớm ác độc. Nếu trong Sân Ngoài, thí sinh không làm chủ được cái trí khôn của ḿnh, nếu y chưa được luyện tập quen để chống đối với những sự tấn công ti tiện với ở ngoài đời thường, th́ làm sao y có thể đương đầu với những đạo quân của Ma vương. Làm sao y có thể vượt qua được cái giai đoạn cuối cùng của Sân Ngoài, xung quanh đó những kẻ tử thù của Linh hồn tụ họp đông đúc, chúng không bao giờ để cho ai đi lọt qua nơi đó, nếu không phải là người hoàn toàn giữ được sự an tịnh nơi ḿnh. Chính lúc đó con người cảm thấy ở trong tâm có một sức mạnh đang phát triển, sức mạnh nầy phát sinh tự cái tinh thần vững chắc. Bây giờ y đă trở nên khá mạnh mẽ, có thể tùy ư tập trung tư tưởng vào một nơi nào y muốn và tâm trí cứ định ở đó măi, bất di bất dịch, dù xung quanh y giông băo nổi lên dữ dội đến thế nào mặc ḷng. Sự định trí này mạnh mẽ, không hề bị lay chuyển đến nỗi không một sức mạnh nào ở bên ngoài có thể đến khuấy rối nó được. Bây giờ con người không c̣n cần phải diệt trừ những tư tưởng xấu nữa, sự cố gắng diệt trừ chúng như vậy đă trở nên vô ích. Linh hồn càng hùng dũng bao nhiêu th́ trong việc làm nó lại đỡ bớt công phu bấy nhiêu; khi mà quyền năng được phát triển nơi y th́ y không c̣n thấy sự tấn công ở ngoại cảnh đến nữa.

Rồi th́ trong sự phát triển về thể trí, con người đạt đến một tŕnh độ vinh diệu, không cần phải lấy ư chí mà diệt trừ những tư tưởng xấu nữa, một khi đụng chạm phải Thánh Điện của Linh hồn, những tư tưởng xấu đó tự nhiên rơi xuống tan tành. Cái trí không c̣n cần phải diệt trừ nữa, không c̣n cần phải được kềm hăm nữa, nó đă trở nên trong suốt, tinh khiết và vâng lời. Đến đây cái trí và Linh hồn bắt đầu hợp nhất với nhau, và cái kết quả của sự khởi đầu hợp nhất nầy là mọi tư tưởng sái quấy khi vừa chạm phải cái trí th́ liền bị chết khô ngay. Lương tri không cần phải ra tay tiêu diệt nữa, v́ tất cả những ảnh hưởng cần phải tiêu hủy bổng nhiên tiêu tan đi do cái sức khích động của chúng bị dội ngược lại. Đó là sự định trí được tượng trưng như một ngọn đèn để ở một chỗ kín đáo nên không có ngọn gió nào làm cho chập chờn được. Chính là ở tại cái chỗ nghỉ ngơi nầy mà con người hiểu được ư chí là ǵ, chính ở nơi đó y t́m thấy được sự an lạc hoàn toàn. Đó là một nơi an ổn ở dưới bóng mát của những bức tường của Thánh Điện và kinh sách đời xưa đă nói đến nó như sau đây: “Thoát khỏi dục vọng, thoát khỏi sự đau khổ; con người trong sự an tịnh của giác quan, chiêm ngưỡng vẻ tôn nghiêm của Linh hồn ḿnh” [[8]].

Lúc ấy lần đầu tiên, y nh́n thấy Chơn lư, đó không phải là những làn ánh sáng chớp nhoáng, những tia sáng vừa lóe ra th́ đă tắt ngấm ngay đi, nhưng y thấy Chơn lư trong sự an tịnh và sự b́nh thản tuyệt đối mà dục vọng và sự buồn rầu không c̣n có thể đến quấy rối được nữa. Lúc đó Linh hồn oai nghiêm chiếu sáng rực rỡ, không c̣n một đám mây mờ nào bao phủ cả, và cái trí từ nay sẽ là một tấm gương trong trẻo, không chút bợn nhơ phản chiếu h́nh dáng của Linh hồn đúng với sự thật. V́ cái trí nầy trước kia giống như một tấm gương lấm bụi, một cái hồ bị những luồng gió dữ dội làm sóng cuộn ba đào, nay lại giống như một mặt gương sáng chói phản chiếu đúng đắn. Bây giờ nó giống như mặt hồ êm ả, in h́nh non núi và trời xanh; mặt hồ phản chiếu cây cỏ và những v́ tinh cầu, cùng là màu sắc thay đổi của ṿm trời mà không làm sai lạc Chơn tướng của sự vật.

Nhưng trước khi đạt được sự an tịnh hoàn toàn nầy, có một lúc nguy hiểm mà “Tiếng nói vô thinh” đă thốt lên để báo trước. Có một lúc khi gần đạt được điểm nơi đó ngọn đèn tâm không c̣n bị xao xuyến nữa, mà cái trí và Linh hồn vẫn c̣n chiến đấu với nhau trong một trận cuối cùng. Lúc đó cái trí vùng vẫy như một con voi điên trong rừng. Phải làm thế nào để thắng được nó. Đó là trận chiến đấu cuối cùng của cái trí, đó là bản ngă thấp hèn cố gắng một lần chót để chống lại với Chơn nhơn cao cả, để vứt bỏ cái ách mà nó thấy đang đè nặng trên vai. Đó là sự nổi dậy của bản ngă thấp hèn như những kinh sách nói về sự Điểm đạo đă đề cập đến. V́ trong tất cả những kinh sách nói về Minh Triết Huyền Bí đều có ghi rằng khi thí sinh đi gần đến thềm cửa, trước khi bước vào Thánh Điện, tất cả những sức mạnh của Thiên nhiên đều họp lại để cản bước y, tất cả những mănh lực của thế gian đều chống lại để lôi thí sinh về phía sau. Đó là trận chiến đấu cuối cùng trước khi hoàn toàn thắng trận. Ở trên những cảnh giới cao siêu hơn, c̣n có một trận chiến đấu khác mà trận chiến trên đây chỉ là một phản ảnh yếu đuối; ở trên những cảnh giới cao siêu đến nỗi ta không sao có thể tưởng tượng nổi, đó là những cảnh giới mà chỉ có những Vị cao cả nhất trong những Vị cao cả mới có thể lên đấy được. Trận chiến đấu nầy được h́nh dung trong trận giặc cuối cùng xảy ra giữa Đức Phật và Ma Vương dưới gốc cây Bồ đề. Ở dưới gốc cây nầy, khi Ngài đă chứng quả Vô Thượng chánh Đẳng chánh Giác thành một vị Phật, tất cả những đạo binh của Ma Vương họp nhau lại rán cản đường Ngài một lần chót. Tuy rằng ở một mức vô cùng thấp hèn hơn nhiều, trận chiến đấu sau cùng đó cũng xảy ra với người chí nguyện, khi đến gần cửa Thánh Điện.

Y phải làm thế nào để chiến thắng? Trên Đường Đạo đầy thử thách phải làm thế nào để nối gót những Vị tiền bối? Lần nầy, những lời dạy bảo của Chơn sư lại đến cứu y, chính Ngài đă thốt ra lời khuyên nhủ để d́u dắt ta; “Tiếng nói vô thinh” đă bảo: “Cần phải có những cứ điểm để thu hút Linh hồn con người lên với Linh hồn Kim cương” [[9]]. Vậy Linh hồn Kim cương là ǵ? Đó là Linh hồn đă hợp nhất được với Chơn linh cao cả, đó là Linh hồn không khiếm khuyết, không dấu vết, trong suốt như một viên kim cương thuần khiết nó tập trung Ánh sáng của Đức Thượng Đế trong một tiêu điểm duy nhất cho nhân loại chúng ta. Cái danh từ oai nghiêm mà tôi vừa kể trên kia – và tôi c̣n có thể kể nhiều danh từ khác nữa, chúng cùng có một ư nghĩa tuy chúng thuộc về những ngôn ngữ của các quốc gia khác nhau – danh từ nầy là tên của một Linh hồn cao cả nhất trong các Linh hồn cao cả, xứng đáng với danh hiệu Linh hồn Kim cương. Và Ánh sáng của Thượng Đế chiếu rọi qua Linh hồn nầy không bị lu mờ, v́ viên Kim cương hết sức tinh khiết, v́ cái Linh hồn vô giá nầy hết sức trong trắng. Trong những lúc ước nguyện cao siêu, chúng ta dâng cao tấm ḷng lên đến Linh hồn Kim cương đó, và Linh hồn nầy chỉ cần phóng ra một tia sáng Mỹ lệ, một ngọn lửa liếm qua cũng đủ thu hút ta lên với Nó rồi. V́ giống như bông hoa phát triển hướng về phía mặt trời, Linh hồn con người phát triển hướng về nguồn cội của chính bản thể ḿnh, những điểm thu hút nó, chính là những tia sáng huy hoàng mà Linh hồn Kim cương phóng ra xung quanh vậy. V́ Linh hồn của người đệ tử mặc dầu c̣n yếu đuối và do dự th́ cũng vẫn đồng bản chất với Linh hồn Cao cả. V́ thế cho nên Linh hồn cao cả thu hút Linh hồn con người bằng một thần lực rất thiêng liêng để cho hai bên được hợp nhất với nhau. Khi mà sự hiểu biết càng được minh bạch người đệ tử sẽ càng hiểu được Linh hồn Kim cương là ǵ; hiểu rằng một ngày kia Linh hồn Kim cương cũng sẽ phát hiện nơi y, “Ngươi hăy nh́n chính bản thân ngươi! Ngươi là Phật đấy!” Y hiểu rằng trí khôn của y cũng giống như thể xác của y, chỉ là những dụng cụ của Linh hồn Kim cương mà thôi, nếu dụng cụ nầy không thốt ra được những âm thanh xứng đáng để có thể vang lên trên những cảnh giới cao siêu hơn th́ nó thật là không hữu ích và quí báu ǵ cả. Chính lúc đó những sợi dây đàn của Linh hồn phải nhờ ḷng sùng đạo hoàn toàn mà được điều ḥa với nhau, lúc đó Linh hồn trở thành một cây đàn xứng đáng để bàn tay của Chơn sư khảy, một cây đàn có thể trổi vang lên tất cả những bản nhạc du dương của cơi trần và cơi Thượng Thiên vậy. Sau cùng, người đệ tử đứng ngay trước cửa Thánh Điện và y nhận thức được điều ǵ đă xảy đến. Đó là chính y đă t́m thấy cái bản thể của ḿnh, và cái Linh hồn bây giờ là chính y, đang ngước mắt nh́n một Bản Thể Cao Siêu hơn nữa mà một ngày kia y sẽ được hợp nhất với. Sự hợp nhất cao cả hơn nầy chỉ có thể thực hiện được ở giữa Thánh Điện. Người đệ tử khi đi đến thềm cửa chỉ mới hợp nhất cái bản ngă hữu sinh hữu hoại của ḿnh với Chơn nhơn trường tồn bất diệt, hợp nhất cá nhân trí thức của ḿnh với Chơn nhơn thiệt thọ mà thôi.

Rồi th́ y mới bắt đầu thờ phượng, sự thờ phượng nầy nghĩa là sự lần lần hợp nhất lương tri ḿnh với Thượng Đế. Lúc đó y hiểu được rằng, trong đời sống hằng ngày, Linh hồn con người có thể luôn luôn thờ phượng Thượng Đế, dù trí y đang bận rộn về một công việc ǵ, dù xác thân y đang hoạt động cách nào. Sau cùng hiểu rằng đời sống của người đệ tử là một sự thờ phượng Thượng Đế không ngừng nghỉ, một sự chiêm ngưỡng không ngớt cái Linh hồn Kim cương, chiêm ngưỡng măi măi Đức Thượng Đế. Y biết rằng khi Linh hồn mắc bận thờ phượng luôn luôn nơi Thánh Điện th́ xác thân và cái trí vẫn làm việc nơi Sân Ngoài, và c̣n xa hơn thế nữa, vẫn làm việc trong thế gian để phụng sự nhân loại. Y biết rằng xác thân ḿnh có thể luôn luôn hoạt động, đặng làm việc cho loài người, và cái trí của ḿnh có thể luôn luôn bận rộn, v́ nó làm việc cho nhân loại. Khi mà người đệ tử c̣n sống nơi cơi trần, cái trí và xác thân y là những dụng cụ của y, những sứ giả của y trong thế giới loài người, và trong lúc đó, chính y đang thờ phượng nơi Thánh Điện. Sau cùng y hiểu được đoạn kinh nầy: “Ở trên trời, những Thiên Thần đời đời chiêm ngưỡng Đức Chúa Cha”. V́ sự chiêm ngưỡng Linh Hồn-Từ Phụ là một sự chiêm ngưỡng không bao giờ chấm dứt. Không một đám mây nào của thế gian có thể làm lu mờ sự chiêm ngưỡng ấy, không một việc ǵ ở cơi trần lại có thể phá rối sự chiêm ngưỡng đó. Linh hồn luôn luôn chiêm ngưỡng thờ phượng, trong khi cái trí và xác thân làm việc.

Đi đến được tŕnh độ nầy, Linh hồn được tự do bước qua thềm Thánh Điện, và tự ở Sân ngoài, nó đi vào trong Thánh Điện của Đức Thượng Đế.

 

III. - SỰ LẬP HẠNH HAY LÀ LUYỆN TÁNH

đầu trang cuối trang mục lục lời nói đầu  phần 1 2 3 4 5

 

Ngay lúc khởi đầu bài diễn thuyết thứ ba nầy, tôi muốn nhắc lại lời khuyến cáo đă được nói đến ở cuộc hội họp thứ I của chúng ta. Sự khuyến cáo nầy có liên quan đến những đức tánh mà chúng ta đang khảo học hiện nay, và cái cách thức mà những người đang ở Sân Ngoài phải tư tưởng và hành động. Xin chư huynh hăy nhớ rằng tôi đă miêu tả vị trí của người chí nguyện đă tiến đến mức nầy, tôi đă chỉ dẫn cho chư huynh thấy nó khác xa với vị trí của một người hiền lành, đức hạnh, sùng đạo, nhưng chưa nh́n nhận được mục đích của sự tiến hóa của nhân loại và chưa hiểu được bổn phận của ḿnh rộng lớn như thế nào. Tôi muốn nhắc nhở để chư huynh nhớ rằng trong khi phác hoạ những đức tánh mà những người bước vào Sân Ngoài cần phải có, tôi luôn luôn coi đó là một sự luyện tập tự ư ḿnh, sau khi đă suy nghĩ kỹ càng để đi đến mục đích đă được ấn định rơ rệt.

Ngoài ra khi nói đến những đức hạnh cần phải có nầy, tôi không nói rằng chúng phải được hoàn toàn phát triển trong khi người chí nguyện hăy c̣n đứng ở Sân Ngoài Thánh Điện. Tôi chỉ nói rằng y phải bắt đầu xây dựng đức hạnh của ḿnh, phải hiểu hết sức rơ ràng công việc mà ḿnh phải làm, phải cố gắng tiến về phía lư tưởng của ḿnh, dù y thành công được nhiều hay ít. Tôi không bao giờ chủ trương rằng sự tinh luyện trọn vẹn, sự triệt để làm chủ tư tưởng, sự lập hạnh tuyệt đối, sự biến đổi hoàn toàn những năng lực thấp hèn thành những năng lực cao thượng, tất cả những sự toàn thiện toàn mỹ đó phải được thực hiện trước khi người chí nguyện bước qua ngưỡng cửa Thánh Điện. Thật vậy, ở Sân Ngoài, y lo lắng xây dựng nền móng của ṭa dinh thự tương lai, vẽ một cách đầy đủ và khá cẩn thận những họa đồ của ṭa nhà mà y muốn hoàn thành một ngày sau đây. Sự thực hiện những họa đồ nầy, sự xử dụng những vật liệu để xây dựng trên những nền móng đó, sự dựng nên những bức tường, sự đặt viên đá cuối cùng, đỉnh nóc của ṭa nhà - tất cả cái công việc hoàn thành rốt ráo nầy sẽ được thực hiện ngay ở Trung Tâm Thánh Điện, sau khi con mắt đă được mở rộng, chớ không phải trong khi người chí nguyện hăy c̣n vô minh, nh́n không thấy tỏ rơ, đang cố gắng ở Sân Ngoài.

Nhưng cái điều mà tôi muốn chư huynh hiểu trước hết, đó là bức họa đồ đă được vẽ, đă được chấp thuận rồi, đó là người thí sinh tự chuẩn bị để đạt được cái mục đích cao siêu của nhân loại toàn thiện toàn mỹ; theo đà thời gian y sẽ được trông thấy những tŕnh độ cao cả hơn. Dù một sự ước nguyện như vậy có vẻ bao la rộng răi đến đâu chăng nữa, dù sự phác họa cái công việc phải làm có vẻ vĩ đại như thế nào đi nữa - những chi tiết của công việc sẽ được hoàn thành về sau – th́ ở Sân Ngoài thí sinh vẫn chấp thuận bức vẽ đại cương đó, cái bức họa tổng quát sau nầy nhiều chi tiết sẽ được lần lượt từng cái một ghi thêm vào. Mặc dầu những sự thực hiện được bây giờ có vẻ nhỏ bé đến đâu, đó cũng vẫn là cái nền tảng chắc chắn để xây dựng những vinh quang trong tương lai.

Tôi nhấn mạnh về điểm nầy, v́ người ta đă bảo với tôi rằng nếu tôi ấn định một phạm vi rộng răi như vậy cho thí sinh ở Sân Ngoài, th́ có thể là đôi ba người ngồi nghe tôi đây sẽ nản ḷng, hay là sẽ thất vọng nữa là khác. V́ vậy cho nên cần phải để cho mọi người hiểu rằng, dù có phác họa một tấm đồ h́nh tổng quát, th́ những sự khởi đầu cũng chỉ là những sự khởi đầu, và một khi bước qua thềm cửa, c̣n phải sống trong nhiều kiếp nữa để hoàn thành cái công việc mới được bắt đầu ở đây. Chư huynh chỉ nên nhớ rằng trọn vẹn cả ṭa nhà sẽ được hoàn tất theo họa đồ mà kiến trúc sư phải vẽ ngay từ bây giờ.

Một khi chư huynh hiểu rơ được điều nầy rồi, tôi xin nói về sự lập hạnh, tức là tự ḿnh xây dựng lấy tánh nết của ḿnh. Đây là một sự xây dựng rơ ràng và thực tế và đó cũng là cái công việc chánh yếu của người thí sinh nơi Sân Ngoài Thánh Điện. Chúng ta cũng biết rằng trong những tiền kiếp, y đă là một người đức hạnh và sùng đạo. Y phải công nhận rằng y không được để một tật xấu nào trong ḷng và không tha thứ một sự ác nào nơi bản thân y. Nếu c̣n có một mầm mống tật xấu th́ phải loại trừ ngay đi, nếu c̣n có những xu hướng phạm tội ác th́ phải nhất định triệt để bứng gốc rễ chúng đi. Trong Sân Ngoài nầy không thể có sự thỏa hiệp với điều ác, không được rộng lượng dung thứ điều ǵ không công b́nh, không trong sạch, không nhân đức. Có thể rằng thí sinh c̣n yếu đuối trong khi làm điều thiện, nhưng Linh hồn y không thể c̣n sống bơ thờ trong điều ác được nữa. Người chí nguyện đă hoàn toàn ĺa xa điều ác, y đă loại trừ được những yếu tố ô trược nhất nơi bản tánh ḿnh, đă hoàn thành xong cái giai đoạn đầu tiên của sự chiến đấu nội tâm. Y không được phép mang những ḥn đá kịch cợm đến mà xây dựng ṿng ngoài Thánh Điện. Y phải gọt giũa trau chuốt những ḥn đá đó từ kiếp nầy sang kiếp khác, tánh nết y c̣n phải được tập luyện lâu hơn nữa, trước khi có thể được xử dụng ngay ở ṿng ngoài Thánh Điện.

Chúng ta đă dẹp lại phía sau sự gột rửa sơ lược tánh nết của ta và lo xây dựng những đức tánh tích cực. Như chúng ta sẽ thấy, những đức tánh mà chúng ta sẽ nghiên cứu thật là cao thượng hơn hết. Đó không phải chỉ là những đức tánh được coi như là cần thiết trong đời sống thường mà là những đức tánh của người chí nguyện phải có để trở thành một Vị Phụ Tá và một Vị Cứu Thế, những nét đặc biệt của những Vị Chuộc Tội cho nhân loại, những Vị tiên phong và tiên tiến của cả giống ṇi.

 Cái điều khiến cho ta phải chú ư trước nhất trong sự lập hạnh của người đệ tử để đi đến Sân Ngoài, là tính cách hết sức quả quyết của nó vậy. Đây không phải là lúc có những sự kích thích nhất thời, những sự xây dựng tùy ư thích, lúc th́ bị bỏ rơi, lúc th́ được bắt đầu làm lại theo sự ngẫu nhiên của hoàn cảnh, tùy theo những cố gắng đột khởi, lúc theo chiều hướng nầy, lúc theo chiều hướng khác. Giờ đây không phải là lúc đi t́m một mục đích ở khắp mọi nơi. Tất cả những sự do dự lúc ban đầu đều thuộc về dĩ văng rồi: con người đă nh́n nhận được mục đích của đời sống, sự cố gắng của y phải nhắm theo chiều hướng nào, điều nầy đă được ấn định rơ ràng rồi. Đây là một sự xây dựng đă được suy nghĩ chín chắn của một người biết rằng ḿnh có đủ thời giờ cần thiết và không sự ǵ trong Thiên nhiên mà lại bị mất đi cả. Đây là một sự xây dựng có tính toán, bắt đầu với những vật liệu mà kiến trúc sư có sẵn trong tay, với cái tánh nết mà y đang có hiện thời.

Con người b́nh tĩnh nhận xét tất cả khả năng cùng những khuyết điểm của ḿnh, y bắt đầu làm việc để tăng cường khả năng và sửa chữa những khuyết điểm. Phải xây dựng một cách đúng đắn, theo một đồ h́nh đă được nhận định kỹ càng, phải kiên nhẫn đục chạm trong tảng đá hoa cứng rắn và vững chắc cái pho tượng kiểu mẫu đă được vẽ xong rồi. Vậy cái điều đầu tiên mà người ta nhận thấy ở những thí sinh nơi Sân Ngoài là sự minh bạch của mục đích đang theo đuổi và cái tính cách tự do của công việc. Từ nay con người biết rằng bất cứ một việc ǵ đă được bắt đầu th́ sẽ được tiếp tục. Y biết rằng sẽ mang theo ḿnh từ kiếp nầy qua kiếp khác những của cải đă tích trữ. Y biết rằng một sự khiếm khuyết mới được khám phá ra, tuy chưa có thể được bổ túc một cách hoàn toàn trọn vẹn, song cũng đă được bổ túc đến một mức nào rồi và một phần công việc đă được làm xong. Y biết rằng một khi đă phát triển được một quyền năng mới mẻ th́ quyền năng nầy vĩnh viễn thuộc về y, nó trở thành một phần cố hữu của Linh hồn y, nó thấm nhuần vào bản chất của cá nhân y, và không c̣n bao giờ có thể mất đi được nữa.

Thí sinh tự ư xây dựng tánh nết ḿnh và đức tin y vững vàng v́ y đă hiểu biết đúng đắn tường tận. Y biết rằng dưới mọi khía cạnh của Thiên nhiên, chỉ có một Định luật mà thôi. Khi hiểu được rằng Định luật là bất di bất dịch, chắc chắn rằng ḿnh có thể hoàn toàn triệt để tin cậy nơi Định luật đó, y kêu gọi Định luật giúp đỡ, v́ biết rằng Định luật sẽ không làm cho y thất vọng, y cầu khẩn Định luật v́ y biết Định luật sẽ phán xét. Y không c̣n một chút do dự nào, một chút nghi ngờ nào. Những sức mạnh mà y đă tung ra nhất định thế nào cũng phát sinh những kết quả, và mỗi một hạt giống đă gieo trồng, chắc chắn sẽ đơm bông kết trái theo loại của nó, và sau nầy y sẽ gặt hái được cái kết quả tương đương, chớ không có ǵ khác được. Vậy y không tập luyện một cách hấp tấp vội vàng, không nóng ḷng sốt ruột trong khi cố gắng. Nếu quả chưa chín th́ sau nầy y sẽ hái được nó, nếu cái hạt giống chưa được sẵn sàng th́ sẽ chờ đợi. Y biết rằng Định luật mà y đang tuân theo vừa có tính cách lành thiện, vừa có tính cách bất di bất dịch. Y biết rằng Định luật sẽ mang đến cho y mỗi sự vật đúng với giờ khắc thích hợp, và đối với thế gian cũng như đối với chính bản thân y, giờ đó là giờ tốt nhất vậy.

Vậy thí sinh sẽ bắt đầu tập luyện với những tài liệu mà y đă có sẵn. Đối với y những tài liệu đó là đủ rồi, v́ đó là kết quả của dĩ văng y mà Định luật đă mang đến cho y. Y hoàn toàn hài ḷng với những tài liệu nầy, v́ chỉ cần phải làm việc với chúng, chớ không phải với những tài liệu khác. Dù hành lư của y phong phú hay khiếm khuyết, đầy đủ hay thiếu thốn y cũng nắm lấy nó và bắt đầu sửa soạn nó. V́ y biết rằng mặc dầu bây giờ y rất nghèo nàn, nhưng sau nầy sự viên măn, sự phong phú của y sẽ vô bờ bến; y biết rằng mặc dầu những khả năng hiện giờ của y rất thấp kém, nhưng rồi theo với thời gian, sự phát triển của chúng sẽ bao la rộng răi, vô tận vô biên. Y biết rằng lẽ tự nhiên y sẽ thành công; sự thành công nầy không phải là một sự mơ hồ, có thể xảy ra được, mà là một sự hoàn toàn chắc chắn; đây không phải là một công việc làm gặp sao hay vậy, mà là một sự thật rơ ràng. Định luật phải mang một kết quả tương xứng mà đền bù những sự cố gắng của y, và nếu y chỉ cố gắng ít, th́ một ngày kia y sẽ chỉ gặt hái được một cái kết quả nhỏ mà thôi, và cái kết quả nầy sẽ dùng để làm căn bản cho những sự xây dựng về sau.

Càng thêm vào số vốn của ḿnh mỗi ngày một ít th́ mỗi sự gắng sức mới mẻ, mỗi sự thành công mới mẻ đều mỗi nâng đỡ con người lên một tŕnh độ cao hơn trước.

Chúng ta đă biết một phần nào cái phương pháp lập hạnh. Chúng ta biết rằng thí sinh phải bắt đầu bằng những tư tưởng từ thiện. Ở chương II chúng ta vừa nghiên cứu về cách tập luyện tư tưởng, sự tập luyện nầy rất cần thiết cho con người nếu y muốn tập làm lành, lánh dữ. Luôn luôn cố gắng để làm chủ tư tưởng như vậy, và biết rơ những điều kiện của sự tập luyện, thông hiểu những định luật chi phối sự phát sanh ra tư tưởng, sự tác động của chúng trên thế gian cùng sự phản ứng của chúng đối với người đă sanh ra chúng, từ nay trở đi người thí sinh được tự do lựa chọn lấy cái tư tưởng lành thiện mà xây dựng tánh nết ḿnh. Đó là một trong những nhiệm vụ đầu tiên mà y phải làm khi đi ngang qua Sân Ngoài.

Y phải làm việc nầy v́ hai lư do: Lư do đầu tiên là v́ tư tưởng tốt lành ảnh hưởng đến đồng loại y, và tất cả những thí sinh muốn vào Thánh Điện đều có một lư do chánh yếu là Phụng Sự Nhân Loại. V́ vậy nên khi y lựa chọn tư tưởng, dù y muốn tự ḿnh phát sanh ra những tư tưởng ấy, hay muốn thu nhận vào tâm thức ḿnh những tư tưởng do kẻ khác sanh ra, th́ cái lư do chánh yếu của y vẫn là cái ảnh hưởng của những tư tưởng đó đối với kẻ khác chớ không phải đối với y. Trước hết mọi sự, y là thí sinh muốn phụng sự trên mọi cảnh giới. V́ thế cho nên khi lựa chọn những tư tưởng mà y sẽ e trút thêm thần lực của y vào để làm cho chúng thêm linh động, sẽ tính toán đến ảnh hưởng của chúng đối với ngoài đời. Y sẽ dự đoán xem chúng có thể giúp đỡ, có thể thêm sức, có thể tinh luyện kẻ khác như thế nào. Y sẽ đem những tư tưởng hữu ích cho kẻ khác mà đặt vào cái ḍng tư tưởng mănh liệt đă phát sanh tự trí y, và cái mục đích đă được ấn định rơ ràng của y là phụng sự các huynh đệ và giúp đời tấn bộ.

Lư do thứ nh́ là y phải xem xét cái bản chất của những tư tưởng của ḿnh, chúng sẽ ảnh hưởng đến y, sẽ phản ứng vào y như thế nào, để xây dựng tánh nết y, chút nữa chúng ta sẽ biết sự tối quan trọng của sự nhận xét nầy, v́ thật sự đây là khí cụ dùng để xây dựng tánh nết con người. Và không những y sẽ xem xét ảnh hưởng của tư tưởng ḿnh đối với tánh nết ḿnh, mà y c̣n được trông thấy rơ ràng những tư tưởng ấy một khi sửa đổi lại tánh t́nh y, th́ sẽ biến đổi tánh t́nh ấy thành một cục đá nam châm thu hút tất cả những tư tưởng đồng bản chất. Cho nên khi con người hành động như trung tâm điểm của những tư tưởng cao thượng (chúng ta hi vọng rằng trung tâm nầy từ nay sẽ không c̣n chứa đựng những tư tưởng thật xấu xa nữa) th́ y sẽ tự biến đổi lương tri ḿnh thành một cục đá nam châm thu hút tất cả mọi điều tốt lành. Những mănh lực xấu xa sẽ bị tan ră khi đụng chạm phải linh hồn dũng mănh của y, và những lực tinh khiết, tốt lành sẽ chảy tuôn cuồn cuộn vào lương tri y như những làn sóng để được bồi dưỡng, được thêm sinh khí và thêm sức mănh liệt. Những tư tưởng tốt của những kẻ khác cũng đến với y, rồi lại từ giă y mà ra đi cùng khắp thế gian với một sức mạnh được tăng cường. Như vậy y không những chỉ là một nguồn thần lực giúp đời do những tư tưởng mà y phát sanh ra, y c̣n là một con kinh tràn ngập những ân huệ thiêng liêng, nhờ những tư tưởng mà y nhận được, và tăng cường rồi truyền đạt đi. Và tất cả những ảnh hưởng nầy đều dự phần vào việc xây dựng tánh t́nh y, cho nên ngay từ khi mới xây dựng, cái tư tưởng chơn chánh nầy sẽ là cái ảnh hưởng chủ yếu của trí y. Y sẽ luôn luôn coi chừng tư tưởng của y, y theo dơi chúng một cách thận trọng để cho Thánh Điện nội tâm không có chút ǵ ô trược có thể xen vào. Nếu điểm nầy không được canh chừng, th́ tất cả sẽ bị mở rộng ra để cho quân thù xâm nhập. Chính đây là nơi doanh trại của thành tŕ, mà cũng là cái cửa duy nhất để cho những ngoại vật đi lọt vào.

Thúc đẩy cái công việc lập hạnh của ḿnh xa hơn nữa, nếu y chưa biết th́ y sẽ học cách coi chừng lời nói của ḿnh. Lời nói chơn chánh, trước hết phải thật đúng, hết sức thực đúng. Chỉ thực đúng một cách tầm thường như ở ngoài đời thôi th́ thiệt là chưa đủ, tuy được như vậy cũng đă là khá lắm rồi. Người đệ tử phải nói hết sức đúng với sự thật, phải nói thật một cách tuyệt đối, đó là một đức tánh cần thiết hơn hết đối với ai muốn đi theo con đường Huyền học: phải đúng thật trong khi nhận xét sự việc, phải đúng thật trong khi tường thuật lại mọi việc, phải đúng thật trong tư tưởng, trong lời nói, trong việc làm, trong hành động. Nếu không ngớt t́m kiếm sự thật, nếu không quả quyết triệt để trở thành một người tự ḿnh đúng với sự thật th́ không thể nào đi theo đường Huyền bí học được. Huyền bí học sẽ là một sự nguy hiểm, sự sa ngă mà thôi, sự sa ngă nầy càng đáng sợ, càng đau đớn khi sinh viên càng lên cao. V́ đối với nhà Huyền bí học, sự đúng thật vừa là một người chỉ đường đưa lối, một người hướng đạo, vừa là một bộ áo giáp để che chở ta. Sự đúng thật là người hướng đạo v́ nhờ nó mà nhà Huyền bí học có được trực giác khiến y có thể phân biệt được con đường chơn chánh và con đường sai lầm, chánh đạo và tà đạo. Nó là một bộ áo giáp, v́ nếu nhà Huyền bí học không mặc bộ áo giáp chơn thật đó, th́ không thể nào tránh khỏi y sẽ là nạn nhân của những ảo ảnh và những h́nh thù quái đản của những cảnh giới mà y phải đi qua. Áp dụng sự đúng thật trong tư tưởng, lời nói và việc làm sẽ lần lần thức tỉnh được các trực giác tinh thần nó thọc phủng tất cả những tấm màn ảo tưởng và không bao giờ bị một thế lực nào ở đời lừa dối được. Những tấm màn che mắt giăng khắp mọi nơi. Trong cơi đời ảo tưởng nầy, những h́nh dáng giả dối từ tứ phía đều nổi lên cho đến ngày trực giác tinh thần với tia mắt nh́n thẳng thắn và không sai lầm của nó đi xuyên qua được mọi tấm mặt nạ che giấu sự vật. Ta không có thể đạt được trực giác đó nếu không tập luyện để có được sự đúng thật trong tánh t́nh, trau giồi sự đúng thật trong trí, phát triển sự đúng thật trong tâm ḿnh. Không có sự đúng thật, ta sẽ thất bại, sẽ lầm lạc không bao giờ tránh khỏi.

Vậy lời nói trước hết phải đúng thật, sau nữa lời nói phải dịu dàng. V́ sự đúng thật và sự dịu dàng không đối chọi nhau như người ta vẫn thường hay tưởng. Lời nói có thể trọn vẹn đúng thật mà vẫn hết sức dịu dàng, nhă nhặn và từ ái. Và khi nó càng đúng thật bao nhiêu th́ nó lại càng phải dịu dàng bấy nhiêu, v́ chính ngay trong trung tâm của sự vật, Chơn lư và ḷng Từ bi vẫn hằng sống đời đời bên cạnh nhau. V́ vậy cho nên lời nói đă phản chiếu cái Tinh hoa sâu kín nhất của vũ trụ th́ không thể vô cớ làm mích ḷng một sanh vật nào, hay sanh ra một chút ngờ vực nào cả. Vậy lời nói phải đúng thật và dịu dàng – đúng thật, dịu dàng và nhă nhặn. Đó là sự khắc kỷ về lời nói, sự hăm ḿnh thiệt thọ trong ngôn ngữ, sự hy sinh mà mỗi người chí nguyện phải làm.

Sau chót, tư tưởng, lời nói đă được chơn chánh rồi, th́ lẽ tự nhiên, việc làm cũng sẽ thành chơn chánh nốt. Cái nhân đă như vậy, th́ cái quả cũng sẽ phải như vậy, chớ không sao khác được. V́ sự hành động tức là sự biểu lộ những sức mạnh nội tâm, và khi nào tư tưởng đă trong sạch, khi lời nói đă đúng thật và ngay thẳng, th́ hành động sẽ tất nhiên là cao thượng. Phát nguyên tự một ngọn suối dịu dàng ngon ngọt th́ ḍng nước cũng dịu dàng ngon ngọt, chớ không thể nào khác được; phát sanh tự một tấm ḷng và một khối óc tinh khiết, sự hành động chỉ có thể là chơn chánh, từ thiện mà thôi.

Đó là ba sợi dây liên kết người chí nguyện một mặt với nhân loại và một mặt với Sư phụ y; trong những tôn giáo lớn, ba sợi dây nầy là dấu hiệu của sự hoàn toàn tự chủ, tự chủ về tư tưởng, lời nói và việc làm; đó là ba sợi dây nầy liên kết con người với sự phụng sự cao siêu, liên kết người đệ tử với bàn chân của Sư phụ - ba sợi dây không dễ ǵ mà cắt đứt được.

Một khi đă hiểu những điều trên đây, người thí sinh phải vừa cố gắng mang áp dụng chúng vào đời sống hằng ngày, vừa bắt đầu thực hiện những cách tập luyện đúng phương pháp, đă được ấn định rơ ràng, để xây dựng tánh t́nh ḿnh. Và thoạt đầu y phải xây dựng lên một “Lư tưởng”. Cố gắng trong phạm vi riêng biệt của nó, trí khôn phải tạo nên một h́nh ảnh nội tâm, một h́nh ảnh mà phần lớn những yếu tố được mượn ở ngoại cảnh, theo với cái đà phát triển của con người. Tuy những vật liệu được mượn ở ngoại cảnh, nhưng cái ư tưởng chánh vẫn phát sanh tự cái trí nó chọn lựa, xếp đặt những tài liệu ấy trong nội tâm. Hiểu theo cái ư cao cả nhất của nó th́ một ư tưởng là một vật trừu tượng, vô h́nh; và nếu chúng ta có thể hiểu được sự phát sanh ra một ư tưởng trừu tượng trong lương thức của khối óc, th́ chúng ta sẽ hiểu được một cách rơ ràng minh bạch rằng một Lư tưởng nghĩa là ǵ.

Ta hăy lấy cái ư tưởng trừu tượng giáo khoa về một h́nh tam giác làm thí dụ: trong đầu óc một em nhỏ, ư tưởng về một h́nh tam giác có thể thành h́nh thoạt đầu do sự nghiên cứu về nhiều h́nh mà người ta nói với em rằng đó là những h́nh tam giác. Em sẽ nhận thấy những h́nh nầy có dáng vẻ rất khác nhau, những đường cạnh của chúng xoay theo đủ chiều hướng. Khi nhận xét chúng riêng từng cái một với trí óc thơ ngây của ḿnh, em nhỏ thấy những h́nh nầy không giống nhau. Thoạt đầu, em cho rằng đó là những h́nh khác nhau và không thể nh́n thấy những tính đồng nhất, khiến cho tất cả những h́nh nầy được gọi là những h́nh tam giác. Nhưng khi tư tưởng em càng tiếp tục làm việc th́ em sẽ lần lần học được rằng có vài ba đặc tính bất di bất dịch làm nền tảng cho ư niệm duy nhất về h́nh tam giác, đó là h́nh nầy bao giờ cũng có ba đường cạnh thẳng và ba góc, và tổng số ba góc nầy bao giờ cũng có một giá trị nhất định, không thay đổi, ba đường thẳng được gọi là ba cạnh của h́nh tam giác, chúng có một mối tương quan với nhau, v.v. . . Khi càng nghiên cứu, trí khôn càng hiểu rơ tất cả những ư niệm khác nhau nầy, rồi do một sự lựa chọn tổng quát, trí khôn trích ra được một ư niệm trừu tượng về h́nh tam giác, ư niệm nầy không có h́nh dáng kích thước đặc biệt, một khi người ta tách rời những góc của nó ra th́ những góc nầy không có một giá trị đặc biệt nào cả. Và ư niệm trừu tượng nầy được thành h́nh là nhờ trí khôn đă nghiền ngẫm, suy tưởng về vô số những h́nh tam giác rơ rệt có thật, ít nhất là đối với khối óc xác thịt, tôi xin tạm bỏ một bên ư niệm cao cả hơn ư niệm vừa được nói ra trên đây chỉ là một phản ảnh. Trong khối óc, ư niệm trừu tượng không màu sắc, không h́nh dáng được tạo thành theo cách đó, người ta không thể dùng h́nh ảnh đặc biệt nào mà diễn tả những đặc tính của ư niệm ấy, tuy nhiên ư niệm ấy vẫn chứa đựng những điều ǵ giống nhau khiến cho vô số h́nh tam giác khác nhau được hợp nhất lại.

Cái lư tưởng mà chúng ta phải xây dựng cũng là một ư niệm trừu tượng, có tính chất giống thế. Lư tưởng nầy là sản phẩm của khả năng tưởng tượng của trí ta, khả năng nầy gạn lọc lấy cái tinh hoa của tất cả những ư niệm liên quan đến những đức tánh cao thượng, liên quan đến mỹ lệ, đến chơn chánh, đến tiết điệu, điều ḥa, đến ḷng từ bi, đến tất cả những ǵ thoả măn tới cực độ những ước vọng cao thượng nhất của tinh thần và của ḷng dạ. Trí khôn gạn lọc lấy cái tinh hoa tất cả những ư niệm khác nhau ấy, giống hệt như khi chúng tự biểu lộ ra một cách bất toàn, rồi xây dựng và phóng ra trước mặt một h́nh ảnh oai hùng vĩ đại trong đó mỗi vật đều được tận thiện, tận mỹ, mọi vật đều được phát hiện đến mức cao siêu và toàn vẹn nhất. Nơi đây, thần trí không xem xét những vật có thật, mà xem xét ngay Sự Thật, tức là Chơn Lư vậy; nó không xem những sự vật đẹp đẽ, mà xem chính sự Mỹ lệ; nó không xét những vật mạnh mẽ, mà xét chính sự Mạnh mẽ oai hùng; không xem xét những sự ǵ mềm mại, dịu dàng, tŕu mến, mà xem xét ngay sự Mềm mại, dịu dàng, tŕu mến vậy; nó không xem xét những kẻ thương yêu, mà xem xét ngay t́nh thương yêu. Và đây là một h́nh ảnh hoàn toàn, oai nghiêm mà lại điều ḥa trong mọi kích thước của nó, cao siêu hơn mọi điều chúng ta đă nh́n thấy ở trần gian, chỉ kém những tia sáng của sự Mỹ lệ tuyệt vời mà trong những lúc cảm hứng hiếm có Thượng Trí chiếu rọi từ cảnh cao xuống dưới Hạ trí của chúng ta mà thôi – đó là Lư tưởng toàn thiện toàn mỹ mà người chí nguyện phải tự xây đắp cho ḿnh, cái lư tưởng hết sức hoàn toàn mà y có thể tưởng tượng được, y hiểu rơ ràng, tuy nhiên, cái giấc mơ cao siêu nhất của y chỉ là cái bóng mờ nhạt, rất mơ hồ của Chơn Lư mà nó muốn phản chiếu. V́ trong cảnh giới của Chơn Lư, cái kiểu mẫu tuyệt vời vô thủy vô chung làm bằng ánh sáng linh động, bay lượn trên những từng trời cao thăm thẳm vô tận vô biên trên những đỉnh núi tuyết phủ, tượng trưng cho ước vọng của nhân loại, mà ở cơi hạ giới nầy con người chỉ nh́n thấy một phản ảnh yếu ớt với những màu sắc mờ nhạt. Tất cả những ǵ hoàn toàn hơn hết, cao siêu hơn hết mà Linh hồn con người có thể tưởng tượng được, tất cả những ǵ mà nó có thể nghĩ được về Thượng Đế Tối Cao mà nó đang t́m kiếm, tất cả những điều đó chỉ là những cái bóng và cái bóng là phản ảnh của Chơn Lư vô biên. Cái lư tưởng mà con người tự xây dựng cho ḿnh rất bất toàn, bởi v́ không có thể làm sao cho khác được. Nhưng dù có bất toàn đến đâu, nó cũng vẫn là cái lư tưởng của y, cái lư tưởng theo đó y phải xây dựng tánh nết của ḿnh.

Nhưng tại sao phải xây dựng một lư tưởng? Những ai trong chư huynh đă theo dơi tôi từ trước đến lúc này, xuyên qua những tác động của tư tưởng con người, sẽ hiểu tại sao lại cần có một lư tưởng. Tôi xin trích hai đoạn trong Thánh kinh, một đoạn của xứ Ấn Độ, một đoạn của Cơ Đốc Giáo để chư huynh thấy rằng các Vị đă được Điểm đạo cùng nói về một sự việc, mặc dầu các Ngài dùng ngôn ngữ nào, các Ngài nói với giống văn minh nào. Trong những kinh Upanishad, có một cuốn thần bí nhất, cuốn Chhândogya, trong đó có ghi: “Con người là một sanh vật biết suy tưởng. Nó nghĩ đến điều ǵ th́ nó tự biến hóa ra điều đó. Vậy ngươi hăy suy nghĩ đến Thượng Đế.” [[10]]. Mấy ngàn năm về sau một Vị đại sư khác, một trong các vị tông đồ đă xây dựng nên Cơ Đốc Giáo cũng tuyên bố đúng hệt cái tư tưởng đó, bằng những từ ngữ khác: “Vậy th́ tất cả chúng ta đây, được chính mắt ḿnh chiêm ngưỡng sự vinh quang của Chúa, như trong một tấm gương soi, chúng ta được biến thành cái h́nh đó, từ sự vinh quang nầy đến sự vinh quang khác”[[11]].

“Chiêm ngưỡng như trong một tấm gương soi,” v́ cái trí ta là một tấm gương soi phản chiếu những h́nh ảnh đă in h́nh trong đó, và Linh hồn đang chiêm ngưỡng sự vinh quang của Chúa trong tấm gương soi của cái trí th́ càng ngày càng được vinh quang và biến thành cái h́nh ảnh thiêng liêng ấy. Vậy th́ vẫn chỉ có một giáo lư duy nhất ấy của Quần Tiên Hội được truyền đạt đến cho ta, qua lời nói của vị Hiền triết xứ Ấn Độ và qua lời nói của vị thánh Cơ Đốc, trong Kinh thánh phương Tây cũng như trong Kinh thánh phương Đông cổ kính; chư huynh phải có một lư tưởng trước mắt để có thể phản chiếu nó, và tâm trí con người không ngớt tham thiền suy ngẫm về cái lư tưởng nào th́ lẽ tự nhiên, y sẽ biến hóa thành chính cái lư tưởng ấy vậy.

Và chúng ta phải làm cách nào xây dựng ṭa lâu đài đức hạnh của ta lên đến mức cao của lư tưởng. V́ đó là vấn đề c̣n lại mà chúng ta phải xem xét ngay bây giờ.

Do sự chiêm ngưỡng.- Người chí nguyện đang t́m cách lập hạnh phải tự ư ḿnh lựa chọn một giờ nhất định mà y sẽ không thay đổi nữa, và sẽ chiêm ngưỡng lư tưởng của y đă xây dựng từ ngày nầy sang ngày khác. Y sẽ tập trung tư tưởng vào đó và lương tri y sẽ phản chiếu lư tưởng đó không ngừng. Từ ngày nầy sang ngày khác, cứ lập đi lập lại măi những nét đặc biệt của lư tưởng thân mến, từ ngày nầy sang ngày khác cứ lấy tư tưởng của ḿnh mà tham thiền và suy ngẫm măi. Khi y càng chiêm ngưỡng, th́ tất nhiên y càng thấy nảy nở trong tâm y, tấm ḷng tôn kính và sự kích động thánh thiện nó là dấu vết của sự tôn thờ, đó là cái năng lực vĩ đại có tánh cách biến hóa khiến cho con người trở thành cái ư tưởng mà nó thờ phụng.

Sự chiêm ngưỡng nầy vừa có tính cách tôn thờ, vừa có tính cách nguyện ước, mong muốn. Khi con người càng chiêm ngưỡng th́ những tia sáng của lư tưởng thiêng liêng sẽ càng tuôn xuống y, và để tiếp nhận những tia sáng nầy, sự mong muốn ước vọng của y sẽ mở rộng cánh cửa của tâm hồn ra. Cho nên những tia sáng sẽ chiếu rọi nơi nội tâm y, và rồi cũng chiếu sáng ra ngoài. Lư tưởng sáng ngời luôn luôn bay lượn trên ḿnh y và trong tâm y, chỉ vạch cho y thấy con đường phải theo.

 Muốn có thể chiêm ngưỡng như vậy, con người phải học tập về cách tập trung tư tưởng. Cái trí không được lo ra như thường lệ. Phải học cách định trí, và một cách quả quyết. Đối với chúng ta sự tập trung tư tưởng phải là mục đích của sự tập luyện không ngừng. Phải cố gắng định trí trong khi đang làm những công việc tầm thường hàng ngày. Muốn thế, ta chỉ cần làm một việc trong một lúc thôi, cho đến khi nào khối óc ta vâng lời ư chí một cách dễ dàng. Chỉ cần làm đầy đủ mỗi bổn phận của ḿnh với tất cả khả năng của trí thông minh tập trung vào một điểm duy nhất. Thế nào chư huynh cũng biện bác rằng những công việc chư huynh phải làm, phần nhiều có tính cách tầm thường lắm. Điều nầy không quan hệ ǵ cả. Trong sự tự luyện tập để làm cho quí huynh trở thành đệ tử, phần cốt yếu không phải là ở bản tính công việc mà chư huynh làm, nhưng chính là ở cái cách thức làm việc của chư huynh. Điều phải coi chừng không phải là cái loại công việc đă giao phó cho chư huynh ở ngoài đời mà là cái phương  pháp làm việc của chư huynh, cái tư tưởng chư huynh dành cho công việc đó, những năng lực mà chư huynh tập trung vào đó, cũng là sự thuần thục, thành thạo, khéo léo mà chư huynh thu lượm được. Một lần nữa, xin nhắc lại rằng dù đời sống của chư huynh có như thế nào, điều nầy cũng không có ǵ quan hệ, chư huynh có thể cứ để y nguyên đời sống của ḿnh và xử dụng nó để tự tập luyện lấy ḿnh. Mặc dù cái công việc đang làm có vẻ tầm thường đến đâu dưới mắt chư huynh, chư huynh vẫn có thể dùng nó làm khí cụ để tự luyện tập tư tưởng. Hiện giờ, mặc dù chư huynh đang bận rộn về điều ǵ, vật ǵ, chư huynh cũng có thể nhờ sự chú ư không ngớt mà luyện cho cái trí của ḿnh có thói quen tự tập trung lại một cách tự nhiên dễ dàng. Và chư huynh hăy nhớ rằng một khi đă có được cái nếp quen ấy rồi, chư huynh sẽ tha hồ được tự do mang áp dụng nó vào việc ǵ cũng được. Khi chư huynh đă học được cách làm chủ tư tưởng của ḿnh rồi th́ chư huynh có thể khiến cho tư tưởng đó chú định vào vấn đề nào cũng được, phóng ra theo đường lối nào cũng được.

 Nhưng trong khi chờ đợi, chư huynh có thể tập luyện và hoạch đắc sự làm chủ tư tưởng nầy trong những công việc nhỏ nhặt cũng như trong những công việc lớn lao. Thật vậy, như thế chư huynh sẽ tập luyện được nhiều hơn, v́ lúc nào, giờ nào cũng có những công việc nhỏ nhặt ở xung quanh chư huynh, c̣n chỉ thỉnh thoảng chư huynh mới gặp những công việc lớn lao mà thôi. Đứng trước một sự việc lớn lao, tâm trí liền tập trung những khả năng của nó lại ngay tức khắc; trước một việc lớn lao, tất cả những sức lực của Linh hồn đều được triệu tập để có thể làm tṛn nhiệm vụ cao cả cần phải làm. Nhưng giá trị thiệt thọ của Linh hồn tự biểu lộ trong những sự việc bé nhỏ, nơi mà không có ǵ khiến cho người đời chú ư, không có ai khen ngợi ta, cổ vơ ta, nơi mà con người phải tự ḿnh làm việc để đạt được cái kết quả mà y đă định trước và xử dụng trọn vẹn những ǵ bao chung quanh ḿnh như là những phương tiện để tự chủ.

 Cái kỷ luật mà con người tự bắt buộc ḿnh phải theo là bí quyết của tất cả những phương pháp. Chư huynh hăy tổ chức đời ḿnh theo một chương tŕnh nhất định. Chư huynh hăy đặt ra vài ba quy tắc rồi tự bắt ḿnh phải theo đó mà sống. Một khi những quy tắc nầy đă có rồi, xin chư huynh hăy tuân theo chúng. Nếu chư huynh thấy cần phải thay đổi chúng, th́ chư huynh cứ sửa đổi chúng một cách tự do như trước kia chư huynh đă đặt ra chúng. Để thí dụ, chúng ta hăy lấy một việc rất giản dị như mỗi sáng phải thức dậy đúng giờ (quy tắc nầy cũng quan hệ, v́ ta cũng phải làm chủ cả xác thân nữa). Chư huynh hăy ấn định một giờ thức giấc mà chư huynh cho đó là giờ tốt nhất cho công việc làm của ḿnh, một giờ thích hợp nhất với sự tổ chức đời sống của chư huynh trong gia đ́nh. Một khi đă ấn định giờ đó rồi, chư huynh hăy tuân theo. Chư huynh đừng cho phép xác thịt tự ư muốn thức dậy giờ nào cũng được, tùy theo sự kích thích trong chốc lát. Chư huynh hăy tập cho xác thân phải vâng lời ngay tức khắc, một cách máy móc, chỉ như thế xác thân mới trở thành một kẻ đầy tớ hữu ích của trí khôn. Nếu sau khi thực hành một thời gian, chư huynh thấy rằng ḿnh đă chọn giờ sai lầm th́ hăy thay đổi giờ đó đi. Đừng có ương ngạnh cứ giữ măi giờ đó, lấy cớ rằng như thế để rèn luyện cho ư chí được cứng cỏi. Mỗi khi có sự ǵ không thích hợp, chư huynh hăy sửa đổi ngay đi, nhưng phải đổi lấy một giờ thuận tiện một cách hữu ư. Đừng tùy theo đắm mê, sự xúc cảm hay một dục vọng về xác thịt mà thay đổi giờ ngủ, thức dậy. Chư huynh đừng thay đổi giờ v́ bản tánh thấp hèn đ̣i hỏi, ta phải làm chủ bản tánh nầy. Nhưng chư huynh hăy thay đổi giờ khi chư huynh thấy là ḿnh đă chọn nó sái cách. Bởi v́ chư huynh không bao giờ nên sống theo quy tắc làm trở ngại cho những người ở chung quanh; để làm chủ lấy ḿnh, chư huynh không bao giờ nên lựa chọn những phương pháp có thể làm bứt rứt trở ngại người khác, hoặc làm cho họ bực ḿnh, thay v́ liên quan đến sự tập luyện riêng của ḿnh mà thôi. Một khi đă hiểu rơ phương pháp lập hạnh, chư huynh phải t́m hiểu về tánh nết ḿnh. Bởi v́ không được luyện tập một cách mù quáng, phải luyện tập theo một cách hiểu biết rơ ràng. Để có thể tự xét đoán lấy tánh nết của ḿnh, chư huynh hăy xem xét một cách khôn ngoan về đôi ba tánh tốt mà những vĩ nhân đă để trước mặt chư huynh, tất cả những đức hạnh ấy tổng hợp lại sẽ dẫn dắt chư huynh đến thềm Thánh Điện. Thí dụ chư huynh có thể lấy những đức tánh mà đức Shri Krishna nói cho Arjuna viết trong chương 16 của kinh Bhagavad Gita, những đức tánh cần thiết để tạo lập một tánh t́nh siêu phàm nhập thánh. Chư huynh có thể lấy sự miêu tả ấy làm kiểu mẫu để noi theo trong khi lập hạnh. Có một bảng danh sách những tánh tốt để chư huynh tập trung tư tưởng và sự cố gắng không ngừng của ḿnh vào đó. Và xin chư huynh hăy nhớ rằng muốn lập hạnh, trước nhất ta phải chiêm ngưỡng tánh tốt rồi thực hành nó trong ngôn ngữ và hành động hàng ngày, đức tánh nầy sẽ trở nên một phần tử cố hữu của tư tưởng.

Bảng danh sách đó như dưới đây: (Dù những đức tánh nầy có nhiều đến đâu chăng nữa, chư huynh vẫn có đủ thời giờ để thực hành). “Tánh vô úy (không sợ hăi), tấm ḷng trong sạch, sự bền chí trong Pháp môn Minh triết, ḷng nhân đức, sự tự chủ, ḷng hy sinh, và sự ham học những Kinh thánh, sự khắc kỷ và tánh ngay thật, tánh ngây thơ, tánh chơn chánh, tánh không giận dữ, tánh dứt bỏ sự an lạc, tánh không nói xấu và nói hành, ḷng từ bi đối với mọi sinh vật, tánh không ham muốn, tánh dịu dàng, tánh khiêm nhượng, tánh không hay thay đổi bất thường, không nhẹ dạ, tánh can đảm, tánh khoan dung, tánh đại lượng, tánh thẳng thắn, tánh yêu mến, tánh không kiêu ngạo – đó là phần sở hữu của kẻ sanh ra với những đức tánh thiêng liêng.”

Y chưa hoạch đắc được tất cả những đức tánh nầy một lượt, nhưng lần lần, nhờ sự lập hạnh, y sẽ có đủ những đức tánh đó. Và trong một lúc nhàn hạ, nếu chư huynh cẩn thận đọc lại bảng danh sách nầy, chư huynh sẽ thấy những đức tánh đó có thể được xếp từng loại rơ rệt, ta có thể thực hành mỗi đức tánh, thoạt đầu một cách bất toàn, nhưng đều đều không đứt quăng, từ ngày nầy sang ngày khác, dầu chưa thành công cũng không bao giờ nản ḷng. Chỉ nên vui mừng v́ biết được rằng mục đích ở ngay trước mắt ta, và mỗi bước đi là mỗi bước tiến về mục đích mà sau nầy thế nào ta cũng đạt được. Và chư huynh hăy để ư mà coi, những sợi chỉ vàng của ḷng vô tư lợi, của t́nh yêu mến, của tánh thơ ngây được dệt cùng với ḷng can đảm, với sức mạnh, với sự nhẫn nại khiến cho tánh nết được thăng bằng một cách tuyệt diệu. Đó là một tánh t́nh vừa cứng cỏi, vừa dịu dàng, vừa can đảm, vừa từ bi, một tánh t́nh oai nghiêm bất di bất dịch, sẵn sàng hết ḷng cứu giúp kẻ yếu đuối, một tánh t́nh rất sùng đạo, rất tinh khiết, một tánh t́nh có kỷ luật, và v́ vậy mà được điều ḥa. Hăy thí dụ rằng chư huynh nhận lấy một tánh t́nh như thế làm lư tưởng để d́u dắt tư tưởng mỗi ngày, chư huynh đă bắt đầu mang tánh t́nh đó ra áp dụng từng chi tiết. Chúng ta hăy nhận xét một điểm thường hiện ra luôn luôn trong khi ta cố gắng, một điểm bao gồm nhiều đức tánh và đă nhiều phen bị hiểu lầm. Chúng ta hăy nhận xét đức tánh tập hợp trong chốc lát và thử nh́n xem nhiệm vụ của nó trong sự lập hạnh là ǵ. Đức tánh nầy có một cái tên mà người Tây phương cho là rất trái tai: tánh lănh đạm. Thỉnh thoảng người ta nói một cách rơ ràng hơn rằng đó là tánh lănh đạm đối với những nỗi vui buồn, lănh đạm đối với sự nóng và sự lạnh, lănh đạm đối với lời khen ngợi hay chê bai, lănh đạm đối với sự yêu hay sự ghét. Vậy tánh lănh đạm thật ra là ǵ?

Trước hết tánh nầy là sự hiểu biết về luật tương đối, lẽ tất nhiên nó xen vào đời sống của những ai đă thoáng thấy Chơn Lư giữa những sự vật phù du cùng là ánh sáng thiêng liêng ẩn ḿnh dưới những bóng trôi qua. Một khi đă hiểu được sự rộng răi bao la của mục đích, một khi đă công nhận rằng con người phải sống trong vô số kiếp, một khi người chí nguyện biết rằng có cả một thời gian vô tận vô biên trước mặt ḿnh, khi y hiểu được tất cả cái vẻ cao cả của công việc phải làm và những khả năng vô tận đang chờ đợi y, tuy rằng hăy c̣n ẩn tàng dưới lớp màn bí mật của tương lai; khi con người đă trông thấy ánh sáng của Chân Lư, th́ mọi sự của một kiếp sống ngắn ngủi chỉ choán cái vị trí tương đối xứng đáng, đúng theo với mực thước của nó khi đem so sánh với đại thể. V́ thế cho nên khi có một sự thử thách đưa đến th́ sự thử thách nầy không có vẻ nghiêm trọng như khi con người tưởng rằng kiếp sống nầy của y chỉ là kiếp sống duy nhất. Và y sẽ bắt đầu hiểu rằng y đă trải qua nhiều sự thử thách rồi, và một khi vượt qua được chúng, y trở nên mạnh mẽ và an tịnh hơn. Và khi có một sự vui mừng đưa đến th́ y sẽ biết rằng y đă trải qua nhiều sự vui mừng rồi, chúng dạy y nhiều bài học và trong số đó sự vui mừng nầy đă dạy cho y biết rằng những niềm vui đó cũng có tánh cách phù du. V́ thế cho nên một sự vui hay một sự buồn mà đến với y, th́ y sẽ nhận lănh nó, không phải là y sẽ trơ trơ không cảm thấy nỗi vui hay nỗi buồn ấy, mà y cảm thấy chúng một cách thấm thía hơn là người thường ở ngoài đời. Nhưng y đặt để chúng vào đúng vị trí của chúng, y đánh giá chúng theo đúng chân giá trị của chúng trong cái đại thể của đời sống rộng lớn của y.

Khi mà con người tập luyện để có được tánh lănh đạm ấy, ta không nên tưởng rằng y trở nên vô tri vô giác, không biết cảm động nữa. Trái lại y càng ngày càng cảm thấy một cách rơ rệt những sự rung động nhỏ nhặt của sự sống ở trong người y và ở ngoại cảnh. V́ rằng y càng ngày càng tự điều ḥa với vạn vật, cho nên tự nhiên y phải trở nên càng ngày càng nhạy cảm đối với mọi sự thay đổi nhẹ nhàng của mỗi tiết điệu trong vạn vật. Nhưng không một sự thăng trầm nào có thể lay chuyển y, có thể quấy rối sự hoàn toàn an tĩnh của y, v́ đời sống thiệt thọ của y đă châm cội rễ nơi không hề có dông tố, không hề có sự thay đổi nào xảy ra và trong khi y cảm biết các sự biến thiên, th́ không bao giờ chúng có thể ảnh hưởng đến ư chí y nữa. Mỗi sự việc đều choán vị trí tương xứng với nó trong cái chu kỳ bao la của đời sống của Linh hồn. Cái sự lănh đạm nầy, cái sự lănh đạm thiệt thọ đồng nghĩa với sức mạnh, chư huynh sẽ phát triển nó theo cách nào?

 Thoạt đầu chư huynh sẽ phát triển bằng cách tham thiền hằng ngày về ư nghĩa của đức tánh nầy theo phương pháp đă được chỉ dẫn, bằng cách nghiên cứu đức tánh đó từng chi tiết một, cho đến khi hiểu được nó trọn vẹn, nghiên cứu nó tỉ mỉ từng chút để xem coi dưới mắt chư huynh đức tánh ấy là cái ǵ. Rồi sau nầy, khi chư huynh sống chung với đồng loại, chư huynh sẽ áp dụng đức tánh đó trong đời sống hằng ngày. Chư huynh sẽ thực hành tánh lănh đạm, không phải bằng cách trở nên cứng rắn, nhưng bằng cách tăng trưởng ḷng thiện cảm của ḿnh, không phải bằng cách ẩn ḿnh trong một cái vỏ cứng khiến chư huynh phải xa cách đồng loại, nhưng bằng cách ứng đáp với những sự rung động nhỏ nhất ở bên ngoài. Cùng một lúc, chư huynh giữ lấy sự thăng bằng nội tâm mà không một sự ǵ có thể ảnh hưởng tới, dù sự rung động có làm lay chuyển đến cả đáy ḷng.

Đó là một bài học nhọc nhằn và khó khăn, nhưng nó cho ta không biết bao nhiêu hy vọng và sự vui mừng, nó khiến cho sự hoạt động của ta lại được hồi sanh nồng nhiệt, và chỉ v́ những sự lợi ích nầy mà thôi, cũng đáng cho ta tập luyện cho có được tánh đó vậy. V́ một khi Linh hồn tự cảm thấy ḿnh trở nên quá mạnh mẽ không bao giờ c̣n có thể bị lay chuyển nữa, mà vẫn nhạy cảm đối với mỗi sự rung động ở phía ngoài, th́ sẽ thấy đời sống của ḿnh được mở rộng ra một cách kỳ diệu; thấy sự tiết điệu, sự ḥa hợp càng ngày càng trở nên trọn vẹn hơn, nó thấy lương thức nó càng ngày càng phát triển, càng ngày càng rơ rệt cái sự hợp nhất của nó với Đại thể mà nó là một thành phần. Khi mà cái cảm giác chia rẽ tan mất đi, sự vui mừng ngự trị nơi trung tâm vạn vật sẽ tràn ngập Linh hồn và ở ngay cái chỗ mà người đời trông thấy những sự đau khổ, th́ người đệ tử lại không trông thấy có ǵ là khó khăn cả. Bởi v́ có thể nói rằng người đệ tử cảm thấy những sự khó khăn nầy như là thành phần của Đời sống của Vũ trụ. Đối với y, chúng chỉ là một vần chữ trong cái ngôn ngữ bao la của Vũ trụ Hữu h́nh. Y có thể học hỏi ư nghĩa của sự đau khổ mà tấm ḷng vẫn được tự do thong thả, không hề đau khổ, bởi v́ sự an lạc là kết quả của sự hiểu biết càng ngày càng rộng lớn nơi y, đă đền bù cho y, và đền bù rất nhiều nữa, có thể nói rằng sự an lạc nầy làm thay đổi cái thái độ đối với tất cả những kinh nghiệm của ngoại giới mà người ta cho là những sự đau khổ và mất mát, thiệt tḥi. Tư tưởng và hành động theo lối đó, chư huynh sẽ thấy tăng trưởng nơi ḿnh tư tưởng b́nh tĩnh an lạc, trầm tĩnh. V́ thế cho nên chư huynh dường như đang ở một nơi yên tịnh, mặc dầu băo tố đang nổi lên ở ngoài đời. Chư huynh sẽ thấy và cảm thấy trận băo, nhưng chư huynh sẽ không bị lay chuyển.

Một sự an lạc tuyệt vời và sâu xa, mà không sự ǵ có thể quấy rối được, đó là những dấu báo hiệu một Đời Sống Tinh Thần. Đời sống nầy thoạt đầu tự biểu lộ bằng sự yên tịnh, rồi đến sự hoan hỉ của tâm hồn và khiến cho đời sống của người đệ tử trở thành một sự phát triển liên tiếp mà mục đích là luôn luôn tiến về phía trước cho đến khi đi đến trung tâm của sự vật, chính là T́nh Thương Yêu vậy. Điều nầy là nảy sinh cảm tưởng rằng: Chúng ta là những người tự chủ, rằng Chơn Nhơn nơi ta mạnh mẽ hơn những sự thay đổi bên ngoài. Chơn Nhơn muốn rằng những sự tiếp xúc bên ngoài được vang động lên trong nội tâm, nhưng nó không muốn để cho cơi ḷng xao xuyến. Lúc đó, từ tánh tự chủ và tánh lănh đạm bỗng nảy sanh ra tánh không thù ghét ai, người ta nhấn mạnh nhiều lần về đức tánh nầy trong khi người chí nguyện lập hạnh để trở nên đệ tử. Không được thù ghét một điều ǵ cả. Phải thâu gồm tất cả trong phạm vi của t́nh thương yêu. Dù bề ngoài của mọi vật có đáng ghê tởm đến đâu chăng nữa th́ điều đó cũng không quan hệ ǵ v́ Sự Sống và T́nh Thương ngự nơi trung tâm của Vạn vật. V́ vậy, người đệ tử đang học hỏi không loại trừ một vật ǵ ra ngoài ḷng từ bi của ḿnh. Y bao gồm mọi sanh linh trong tấm ḷng thương yêu của ḿnh và chú ư đến sự nhạy cảm của chúng, y thành người bạn của vạn vật, y thương yêu tất cả những sanh vật có tri giác.

Khi lấy những đức tánh đó mà xây dựng tánh t́nh ḿnh, người chí nguyện trở nên một người can đảm; y can đảm v́ y không thù ghét cái chi cả th́ không có cái chi có thể làm hại y được. Sự ác độc từ bên ngoài đến với chúng ta chính là sự phản ứng của những ǵ ác độc, khiêu khích từ nơi tâm ta đó. V́ chúng ta thù ghét kẻ khác nên kẻ khác mới thù ghét ta. Chúng ta đi khắp thế gian gieo rắc sự ác, v́ vậy cho nên các sanh vật, đến lượt chúng, chúng đối xử độc ác lại với chúng ta. Chúng ta có bổn phận yêu thương mọi sanh vật, vậy mà chúng ta tung ra khắp mọi nơi sự chết chóc, sự bạo ngược, sự thù hận, ta t́m kiếm đồng loại để hành hạ họ chớ không phải để dạy bảo họ - làm như con người ở cơi trần nầy không có bổn phận dạy dỗ các em c̣n nhỏ dại của ḿnh và không dùng tất cả ḷng tŕu mến, ḷng từ bi của ḿnh mà nâng đỡ họ . . . Chúng ta đi khắp thế gian, hành hạ kẻ khác, dầu đó là người hay vật, mỗi khi chúng yếu đuối hơn ta – tôi nói rằng chúng càng yếu đuối bao nhiêu th́ ta lại càng hành hạ chúng bấy nhiêu, và chúng càng tiều tuỵ bao nhiêu th́ ta lại càng bắt chúng mang nặng bấy nhiêu. V́ khi các sanh vật trốn tránh ta, khi trong thế gian kẻ yếu sợ hăi ta, kẻ mạnh thù ghét ta, th́ ta lại lấy làm lạ lùng ngạc nhiên. V́ vô minh chúng ta không biết rằng tất cả những sự thù hận của thế giới bên ngoài đối với ta chỉ là cái phản ảnh của điều ác đang có trong ḷng ta, và đối với tấm ḷng yêu mến th́ không có cái ǵ là đáng ghét, không vật ǵ làm hại được cả. Con người mà ḷng dạ nhân từ có thể đi qua rừng sâu mà không bị nguy hiểm, y có thể đi vào hang thú dữ mà không bị vồ, có thể lấy tay mà bắt rắn. V́ tấm ḷng tràn ngập t́nh thương nên không nh́n thấy ở đâu là thù hận cả. T́nh thương phóng những tia sáng ra khắp cơi đời và thu hút mọi vật để phụng sự chúng, chớ không phải để làm hại chúng, và do sự thu hút nầy làm thức tỉnh t́nh yêu, chớ không phải ḷng thù hận nơi vạn vật. V́ vậy, nên con cọp lăn ḿnh dưới chân nhà tu sĩ Dô Ghi như một người bạn thân, con vật hung dữ nhất mang con đến gởi cho vị Thánh nhân, nhờ Ngài che chở và cứu giúp; v́ thế cho nên tất cả mọi sanh vật đều đến với người có ḷng nhân đức thương mến, v́ vạn vật cùng có một nguồn cội thiêng liêng. T́nh yêu là Thiêng liêng và khi nào con người thương yêu trọn vẹn th́ y thu hút vạn vật.

Như vậy, lần lần và thong thả, chúng ta học tiến bước mà không sợ hăi, tuy rằng chúng ta c̣n phải chịu những nỗi đau khổ! V́ - chúng ta biết rằng - nếu người ta làm cho chúng ta đau khổ, đó là chúng ta trả một món nợ của quá khứ đen tối, mỗi khi trả nợ, chúng ta lại cảm thấy giảm bớt đi cái tổng số nợ nần của ḿnh đă bị ghi ở cuốn sổ lớn của Thiên nhiên.

Chúng ta sẽ không sợ hăi v́ chúng ta đă hiểu biết, và sự sợ hăi chỉ phát sanh từ ḷng nghi ngờ và ḷng thù hận mà thôi. Con người hiểu biết đă ĺa bỏ sự nghi ngờ ở phía sau ḿnh và bước đi một cách chắc chắn ở nơi nào mà y biết rằng có thể đi được, chân y chỉ đạp lên trên một miếng đất cứng chắc, và dọc đường y không gặp cạm bẫy. V́ vậy y có một ư chí cương quyết không hề bị lay chuyển, một ư chí căn cứ nơi sự hiểu biết, một ư chí mà t́nh thương yêu đă khiến cho tin cậy. Khi đi qua Sân Ngoài, bước chân của người đệ tử trở nên cứng cáp hơn, sự quyết định của y trở nên mạnh mẽ và vững vàng hơn. Tánh nết y bắt đầu có một vẻ nhất định rơ ràng, minh bạch, v́ Linh hồn đă sắp trưởng thành.

 Lúc đó con người không c̣n ham muốn ǵ nữa, những sợi dây buộc chúng ta với cơi đời bên ngoài được lần lần bứt bỏ; kinh nghiệm của những tiền kiếp đă chứng minh cho ta thấy rằng những sự thèm muốn không sao có thể làm cho Linh hồn thỏa măn, nên nay ta lần lần loại trừ chúng ra; lúc đó ta không c̣n ư muốn và dục vọng riêng tư nữa, ta lần lần hợp nhất với vạn vật. V́ người chí nguyện tự phát triển không c̣n muốn để cho những sợi dây hồng trần trói buộc ḿnh vào bánh xe luân hồi sinh tử nữa. Con người phải tái sinh v́ bị ràng buộc với địa cầu, bị sợi dây dục vọng trói cột vào cái bánh xe sinh tử. Nhưng con người mà ta vừa nói trên đây đă muốn được giải thoát. Con người sắp được giải thoát phải tự ḿnh cắt đứt sợi dây dục vọng. Chỉ c̣n một sự có thể trói buộc y mà thôi, chỉ c̣n một sự có thể khiến cho y c̣n phải luân hồi mà thôi; ấy là t́nh thương yêu đồng loại và ư muốn phụng sự họ. Y không bị trói buộc vào bánh xe sinh tử, v́ y được tự do, nhưng y có thể trở lại thế gian một lần nữa để quay bánh xe Pháp, v́ ḷng thương yêu những kẻ hăy c̣n bị trói buộc, để đứng bên cạnh họ cho đến khi tất cả mọi Linh hồn đều cắt đứt được tất cả những xiềng xích của ḿnh. Khi được giải thoát, y cắt đứt tất cả mọi dây trói buộc cần thiết. Như vậy y học được sự hoàn toàn vô tư lợi, v́ kinh nghiệm đă cho y thấy rằng điều ǵ tốt lành cho tất cả mọi người th́ đó cũng chính là điều mà y đang t́m kiếm cho ḿnh, và mục đích riêng tư của y với sự lợi ích của Đại thể vẫn in như nhau. Rồi y học được cách tự tin ở nơi ḿnh. Con người muốn lên cao về phía ánh sáng nên học cách trở nên mạnh mẽ hơn trước để có thể giúp đỡ kẻ khác; y học cách tin tưởng nơi Chơn Nhơn trong ḷng ḿnh, đó cũng là Chơn Tánh của vạn vật, khi tự phát triển, y càng ngày càng rán hợp nhất với Chơn Tánh đó vậy.

Người chí nguyện c̣n cần phải đương đầu với một thử thách và ta cần phải nói qua về điều nầy, v́ đó là một trong những giai đoạn khó khăn nhất trong khi đi qua Sân Ngoài. Một khi bước vào Sân nầy y biết và nh́n thấy sự vui vẻ bao la đang ngự ở trên cao, y không c̣n tha thiết đến những sự việc mà đồng loại y cho rằng đó là những thú vui ở đời. Nhưng có khi Linh hồn phải trải qua một thời kỳ lo ngại rất mệt nhọc, v́ y đă phóng ḿnh lên cao, đă nhảy lên khoảng trống không mà từ trên cao y vẫn chưa thấy có bàn tay nào đưa xuống để nắm tay y; bóng tối bao phủ y, và chân y th́ lơ lửng không nơi nương tựa. Trong những giai đoạn phát triển của Linh hồn, có những lúc tất cả những ǵ có tính cách hồng trần đều không thể làm cho y thỏa măn, hài ḷng được nữa; những mối t́nh bằng hữu thâm niên h́nh như đă phai lạt, những nỗi vui của cơi trần đă mất hết mùi vị, chúng ta chưa cảm thấy được những bàn tay đang chờ đợi chúng ta – tuy trong lúc ấy những bàn tay đó đang nắm chúng ta; tảng đá mà chúng ta đang đặt chân lên h́nh như không c̣n được vững vàng bất di bất dịch nữa – tuy rằng bàn chân ta đang đặt lên đó; Linh hồn bị một tấm màn ảo tưởng bao phủ, tưởng ḿnh bị bỏ rơi và không biết cầu cứu với ai. Người chí nguyện nào cũng phải lao ḿnh vào khoảng trống rỗng đó; người đệ tử nào cũng phải vượt qua hố sâu đó. Khi hố sâu nầy mở ra rộng lớn trước Linh hồn, Linh hồn lùi bước. Khi hố sâu nầy hiện ra, bề ngoài dường như tối om và sâu thăm thẳm, người chí nguyện đứng ở miệng hố sợ hăi liền lùi lại phía sau. Và tuy nhiên, sự sợ hăi nầy thật là phi lư. Chư huynh hăy mạnh dạn lao ḿnh vào khoảng trống rỗng, chư huynh sẽ t́m thấy ở đó một sự viên măn, tràn đầy. Chư huynh hăy nhảy ngay vào bóng tối và chư huynh sẽ thấy chân ḿnh được đặt lên trên một tảng đá. Chư huynh hăy gỡ những tay đang níu ḿnh lại, và sẽ có những bàn tay mạnh bạo hơn nắm lấy bàn tay chư huynh và kéo chư huynh về phía trước. Những Bàn Tay nầy không bao giờ rời bỏ chư huynh. Những cái siết tay của cơi trần thỉnh thoảng có thể dường như yếu ớt, bàn tay một người bạn có thể ĺa bỏ bàn tay chư huynh và để cho nó trơ trọi, nhưng những người bạn ở Bên Bờ Sông Giác không bao giờ rời bỏ tay chư huynh, mặc dù xảy ra những sự biến thiên ở cơi trần. Vậy chư huynh hăy mạnh dạn tiến thẳng vào trong bóng tối. Chư huynh sẽ thấy sự cô đơn của ḿnh chỉ là một ảo tưởng dày đặc nhất, và cái sự tối tăm ấy lại là một ánh sáng không bao giờ bị tắt mất. Một khi vượt qua được sự thử thách nầy rồi, th́ nó dường như quả thật là một ảo ảnh, và nếu người đệ tử dám lao ḿnh vào đó, th́ y sẽ tự thấy ḿnh qua được bờ bên kia b́nh an vô sự.

Sự lập hạnh cứ như thế mà tiếp tục măi. Nó cứ sẽ tiếp diễn, trải qua những kiếp vị lai, và cứ ở mỗi kiếp sống mới, nó lại càng ngày càng trở nên cao thượng hơn trước. Những viên đá đầu tiên nầy chỉ là cái nền nhà mà tôi đă chỉ cho chư huynh thấy qua, và nếu công việc có vẻ to tát vĩ đại, đó là tại v́ trong trí tưởng tượng của kiến trúc sư, ṭa lầu đài bao giờ cũng được toàn vẹn. Ở ngay những nét bút đầu tiên của bản họa đồ, trí tưởng tượng đă trông thấy ṭa lầu đài được hoàn thành và hiểu rơ cái mục đích của việc làm của nó.

Và sau hết th́ mọi sự sẽ ra sao? Ôi ngôn ngữ con người thật là bất lực, không sao miêu tả được đoạn chót của sự lập hạnh nầy. Những màu sắc tối tăm của trái đất không sao miêu tả nổi cái vẻ mỹ lệ của Lư tưởng hoàn toàn ấy mà chúng ta hy vọng một ngày kia sẽ đạt được, mà chúng ta biết rơ rằng một ngày kia sẽ thành tựu được. Có bao giờ Lư tưởng nầy hiện rơ ra với chư huynh trong những lúc lặng lẽ không? Chư huynh đă bao giờ trông thấy cái phản ảnh của nó, trong sự an tịnh của trái đất cũng như trong sự tịch mịch của bầu trời không? Chư huynh đă bao giờ trông thấy các vị Tiên Thánh c̣n sống và hoạt động không? Các vị trước kia đă là người và bây giờ đă vượt qua tŕnh độ của con người, đă trở thành những vị Siêu nhân Cao cả oai nghiêm. Sau nầy nhân loại cũng sẽ được như các Ngài, tuy bây giờ chưa đi đến tŕnh độ ấy, trừ ra ở những ṿng trong của Thánh Điện.

Nếu chư huynh đă thoáng nh́n thấy được cái quang cảnh nầy trong những lúc yên tịnh nhất, th́ tất cả những lời mà tôi dùng để miêu tả đều là vô ích đối với chư huynh. Chư huynh đă biết tấm ḷng từ bi nó h́nh như làm ra trọn vẹn cái bản thể của ta, rực rỡ trong sự toàn thiện toàn mỹ của nó, trong sự thiêng liêng huy hoàng của nó, chư huynh biết tấm ḷng tŕu mến dịu dàng bao la rộng răi cho đến nỗi sẵn sàng cúi xuống với những kẻ thấp hèn nhất và bay lơ lửng trên những kẻ cao sang quyền quí nhất, sự dịu dàng tŕu mến bao gồm cả sự cố gắng của kẻ yếu đuối nhất và sự thành công vĩ đại nhất; thật vậy đó là một sự dịu dàng tŕu mến sâu xa hơn nữa đối với kẻ yếu thay v́ đối với kẻ mạnh, v́ kẻ yếu cần được giúp đỡ nhiều hơn, cần được hưởng thụ không ngớt một tấm t́nh thiện cảm; duy chỉ có một tấm ḷng thương yêu có bản tánh con người là che lấp được cái bản tánh thiêng liêng nơi các Ngài mà thôi, tấm ḷng thương yêu nầy khiến cho ta cảm thấy rằng Con Người và Thượng Đế đă được hợp nhất nơi các Ngài.

Và ở đàng sau cái sự dịu dàng tŕu mến c̣n có một sức mạnh nữa - một sức mạnh mà không có cái ǵ có thể làm cho giảm suy, sức mạnh nầy cộng tác với các nguồn lực căn bản của Vũ trụ, có thể dùng để làm nền móng cho các thế giới mà không hề bị lay chuyển. Một sức mạnh vô biên liên kết với một ḷng từ bi vô lượng – làm sao cả hai đức tánh ấy lại có thể gặp được ở nơi một vị Thánh nhân trong một sự điều ḥa tuyệt diệu như vậy? Rồi đến sự vui tươi sáng rỡ, sự vui mừng nó chiến thắng và muốn chia sớt niềm an lạc tuyệt vời của nó với vạn vật, đó là vầng Thái dương chói rạng không bị lu mờ v́ vầng mây án, sự chiến thắng vinh quang nó hứa hẹn rằng tất cả đều sẽ thành công; sự vui mừng v́ đă thoáng trông thấy điều ǵ xa hơn là sự đau khổ hiện thời, v́ biết rằng mặc dầu có sự đau khổ, tất cả mọi sự việc đều sẽ được hoàn thành trong niềm an lạc.

Một tấm ḷng dịu dàng tŕu mến, một sức mạnh, một niềm vui, một sự an lạc tuyệt vời - cảnh yên tịnh của một mặt hồ êm ả, sự trầm lặng mà không một điều ǵ có thể phá rối được - đó là một vài nét của cái lư tưởng mà một ngày kia chúng ta sẽ thực hiện được ở nơi ḿnh. Nếu chúng ta dám nh́n lên những đỉnh cao chót vót đó, chính là các vị Tiên Thánh vẫn hăy c̣n sống ở cơi trần nầy cùng với chúng ta. Các Ngài cao hơn chúng ta xa lắm nhưng các Ngài vẫn ở bên chúng ta, các Ngài vượt khỏi chúng ta nhưng các Ngài không bỏ rơi chúng ta, tuy rằng ở tất cả mọi phương diện, chúng ta không sao có thể hiểu nổi các Ngài. V́ trong trái tim của Chơn Sư, có đủ chỗ chứa toàn thể nhân loại, và vào tŕnh độ của nhân loại hiện giờ, chúng ta là con cháu của các Ngài, chúng ta có thể nghĩ đến sự hiện diện của chúng ta trong trái tim đó mà không một chút chi sợ hăi.

 

IV.- TINH THẦN HÓA

HAY LÀ KHOA LUYỆN KIM TINH THẦN

đầu trang cuối trang mục lục lời nói đầu  phần 1 2 3 4 5

 

Ba bài thuyết tŕnh trước đây đă nói về những sự tiến bộ mà người chí nguyện phải thực hiện cùng một lúc để đi vào Thánh Điện như là tự tinh luyện dần dần, làm chủ tư tưởng và lập hạnh hay nói cho đúng là xây đắp nền móng của hạnh kiểm ḿnh. Đó là ba giai đoạn mà chúng ta đă xem xét xong. Chúng ta đă biết rằng ai vào đến Sân Ngoài và đă lấy cái công việc vĩ đại nầy làm mục đích, th́ phải cố gắng làm cả ba việc một lượt (tinh luyện, làm chủ tư tưởng, lập hạnh) thay v́ làm xong việc nầy rồi mới làm đến việc kia, t́m cách làm chủ bản ngă lần lần, bằng cách xử dụng mà theo đuổi cái mục đích đă ấn định.

Sau khi đă xem xét liên tiếp ba giai đoạn nầy rồi - cần phải làm như vậy để được rơ ràng minh bạch - chúng ta tỉ dụ bây giờ thí sinh lưu ư đến một phần khác của công việc lớn lao mà y phải làm. Tôi gọi phần nầy là việc Tinh thần hóa hay là sự Luyện kim Tinh thần, nghĩa là một phương pháp thay đổi biến hóa – dĩ nhiên nơi đây người ta ám chỉ đến việc làm của nhà Luyện kim; y biến đổi một miếng kim loại tầm thường thành một thứ kim loại quí báu hơn, thí dụ như làm cho đồng biến thành vàng ṛng. Cái sự biến đổi mà tôi muốn nói đây đang được thực hiện trên thế gian, xung quanh ta đây; tôi tin rằng nó đang được thực hiện một mức nào đó trong tâm trí và trong đời sống của bất cứ là ai vốn ưa suy nghĩ và sống theo đạo đức. Nhưng điều nầy tôi đă nhắc đi nhắc lại nhiều lần rồi, ở nơi thí sinh, đó là một công việc hữu ư và tự nguyện. Y nh́n thấy rơ những phương tiện và mục đích và tự ư cố gắng thực hiện cái ư muốn của ḿnh.

Theo ư nghĩa bao quát nhất, cái phương pháp Luyện Kim Tinh Thần nầy có thể được coi như là một sự biến hóa những mănh lực. Ai ai cũng có nơi ḿnh sự sống, năng lực, sức mạnh, quyền năng của ư chí v.v… Đó là những sức mạnh mà con người phải xử dụng như là những khí cụ - đó là những khả năng sẽ khiến cho y đạt được mục đích. Theo một phương pháp mà người ta có thể gọi là phương pháp luyện kim, y biến hóa những mănh lực nầy, bằng cách áp dụng chúng vào những mục đích cao thượng hơn, y biến đổi những năng lực thô bạo thành những năng lực tinh thần đă được tinh luyện. Không phải y chỉ thay đổi mục đích mà thôi - không phải là sự thay đổi mục đích là điểm tôi muốn làm nổi bật lên nơi đây – mà chính là y đă thay đổi và tinh luyện sức mạnh đó mà không làm hư hoại bản tánh cốt yếu của chúng. Giống như một nhà luyện kim lấy một thứ vật chất thô sơ và bắt nó phải chịu một phương pháp tinh luyện thâm sâu. Y không những chỉ loại ra những cặn bă ngoài mặt mà để xúc tiến sự tinh luyện đến mức sâu xa hơn nữa, y chuyển nó lên đến một trạng thái tinh vi hơn, để khiến cho những nguyên tố của nó tạo thành được một thứ kim loại quí báu và thuần túy hơn. Chư huynh có thể tưởng tượng ra nhà luyện kim tinh thần nắm lấy mọi mănh lực trong bản tánh ḿnh, nh́n nhận chúng như những sức mạnh đáng kể và biết rơ sự hữu ích và tánh cách cần thiết của chúng - nhưng y biến đổi chúng, tinh luyện chúng, một cách có phương pháp. Chúng ta sắp sửa học cái lối tinh luyện nầy, và do đó ta có thể đạt được mục đích.

Sự luyện kim tinh thần không phải chỉ có một mục đích duy nhất là biến hóa các mănh lực, tuy rằng điều nầy là mục đích chánh yếu của nó. Nó c̣n có một mục đích thứ nh́ nữa mà ta phải kể tới. Những Linh hồn, chỉ v́ những dục vọng của ḿnh, mà phải bị trói buộc vào đời sống hồng trần, vào bánh xe sinh tử. Chúng bị sự vô minh cột chặt vào đấy, chúng bị ràng buộc bởi chúng thèm muốn hưởng thụ những thú vui vật chất, những niềm vui được nếm trải trong sự chia rẽ, trong cảnh cô đơn. Luôn luôn hoạt động, Linh hồn tự trói buộc ḿnh bằng những hành động của ḿnh. Dù những hành động nầy là lành thiện hay tàn ác, cứu giúp hay là làm hại kẻ khác, luôn luôn ở nơi con người tầm thường, chúng có một tánh cách chung nầy: nguồn cội của chúng là ḷng ham muốn, và chính ḷng ham muốn ràng buộc và trói cột con người.

 Vả lại bao giờ con người c̣n sống trên cơi đời th́ hành vi cần phải có, luôn luôn cần phải hoạt động. Nếu không có nó, th́ không c̣n có cái ǵ tự biểu hiện ra được nữa. Khi sự cao thượng, sự khôn ngoan và sức mạnh tăng trưởng nơi con người, th́ sự hành động của y trở nên một yếu tố càng ngày càng quan trọng trong sự tiến bộ của thế gian. Nếu những người tiến hóa nhất không hành động nữa th́ sự tiến bộ của ṇi giống chúng ta sẽ bị chậm trễ lại, và dĩ nhiên sự tiến hóa đó sẽ bị tŕ hoăn.

 Vậy phải làm thế nào để sự hành động được thực hiện mà con người vẫn được tự do? Đây cũng là một trường hợp luyện kim tinh thần. Nhờ sự luyện kim nầy, con người tiến hóa nhất sẽ hành động một cách hết sức linh hoạt để phụng sự đời - nhưng việc y làm không ràng buộc y, v́ là một Linh hồn đă được giải thoát. Đó là một thí dụ lúc thoạt đầu xem như là có vẻ mâu thuẫn: một sự giúp đỡ để cho người chủ được hoàn toàn tự do. Nay, khi đề cập đến một sự luyện kim tinh thần nó khiến ta được hoàn toàn tự do, tôi muốn nói đến định luật HI SINH căn bản - đó là Định luật tối cao trong cơi thế giới hữu h́nh nầy, nó là căn bản của mọi sự, luôn luôn nó được tuyên bố. Định luật nầy có những h́nh thức rất hay biến đổi, cho nên thường thường người ta không nhận ra nó, nó tác động một cách phức tạp đến nỗi người ta thường lầm lẫn một cách dễ dàng. Sự lầm lẫn mà người ta dễ phạm nhất là sự lựa chọn những từ ngữ, v́ nơi đây chúng ta phải đề cập đến sự thật muôn mặt, nó phần nhiều có hai trạng thái, tùy theo chúng ta từ trên cao nh́n xuống hay từ dưới đất nh́n lên. Nó là một định luật được phổ biến khắp vũ trụ, người ta có thể nói rằng nó chi phối mỗi nguyên tử. Nó chính là Đời sống Thiêng liêng của Thượng Đế được biểu lộ ra.

Khi bàn sơ qua về một đề tài như thế nầy, có rất nhiều dịp khiến ta lầm lẫn: lầm lẫn về những danh từ đối với người nói, lầm lẫn trong sự hiểu đối với người nghe v́ không thể lănh hội được một tư tưởng tŕnh bày không trọn vẹn. V́ thế cho nên trong buổi khảo học nầy, người ta có thể trở nên thiên lệch, tùy theo quan niệm nó đặc biệt choán tâm trí ta trong chốc lát - tùy theo người ta đứng về phương diện vật chất hay tinh thần, tùy theo người ta đứng từ bên ngoài mà nh́n vào trung tâm hay đứng trong trung tâm nh́n ra phía ngoài. Khi người ta nghiên cứu về một đề tài rộng răi bao la, làm nảy sanh ra một tư tưởng mà không một lời nói nào có thể diễn tả được - một đề tài mà những kẻ kém phát triển như chúng ta không thể nào quan niệm nổi – th́ đối với người nói cũng như người nghe, thật khó mà tránh được những sự hiểu lầm, khó mà tránh khỏi sự nhấn mạnh vào điểm nầy rồi quên lăng một điểm khác, khó mà giữ được sự quân b́nh là điều duy nhất diễn tả được trọn vẹn Chơn lư. Trường hợp của Định luật Hy sinh nầy thật là một trường hợp đặc biệt giống như trên đă nói vậy.

Chúng ta hăy xem xét Luật nầy theo cái quan điểm thấp thỏi của nó. Chúng ta không nên coi thường quan điểm đó, v́ nó có nhiều điều có thể dạy chúng ta, tuy rằng trong khắp mọi cảnh giới, cái tánh cách thấp thỏi của nó được hiện ra rơ ràng. Chúng ta hăy xem xét Định luật nầy như khi ta thấy được diễn tả trong Vũ trụ Hữu h́nh, in dấu trong Thiên nhiên, tác động trong những cảnh hồng trần, trung giới và thượng giới, bao gồm không những sự liên quan giữa những sanh linh như chúng ta thường thấy nơi hạ giới, mà c̣n có sự liên hệ đến những sanh vật khác thuộc về những cảnh giới bao vây xung quanh ta đây. Chúng ta hăy ngừng chân trong chốc lát ở cái quan điểm thấp thỏi nầy trước khi tiến lên cao, v́ ở nơi nầy ta cũng c̣n học được một bài học quí hóa và đầy dẫy ánh sáng nó giúp ta đi qua được Sân Ngoài.

Trong những cơi hạ giới, sự hy sinh có thể được coi như là sự giúp đỡ lẫn nhau, sự quay chuyển không ngừng bánh xe đời, trong đó mỗi người thụ nhận và ban rải ra - con người không thể tránh sự không thụ nhận, và không thể khước từ sự không ban ra. Nếu chư huynh xem trong chốc lát sự hy sinh theo quan điểm thấp kém của nó, th́ hy sinh đối với chư huynh là sự làm quay chuyển bánh xe đời không ngừng. Mọi vật đều có dự phần vào trong đó, dù một cách hữu ư hay vô tâm. Sự hợp tác của chúng có tánh cách hữu ư nhiều hay ít là tùy theo chúng đă tiến hóa đến đâu. Sự hy sinh theo cách đó đă được tŕnh bày rơ rệt, c̣n rơ rệt hơn là ở bất cứ nơi nào khác, trong kinh Bhagavad Gita (khúc ca của Thượng Đế), một trong những thánh kinh của Ấn Độ, nói về bánh xe của sự sống trong đó chư huynh biết được cái điều cần phải biết, là cái cách thức hợp nhất sự hy sinh với sự hành động. Thượng Đế, vị Sư phụ cao cả nói:

“Thế gian bị ràng buộc bởi mọi hành động nào mà không có sự hy sinh làm mục đích. Vậy hỡi con cái của Kounti [[12]] trong khi hành động nhà ngươi phải lấy sự hy sinh làm mục đích và tự giải thoát ra khỏi mọi điều ràng buộc”.

Rồi đi ngược lại ḍng thời gian để hoàn thành sự tuần hoàn của sự hy sinh do sự giúp đỡ lẫn nhau, đại Từ phụ nói tiếp:

“Trong những thời gian xưa, xa xôi, sau khi đă do một hành động hy sinh mà khiến cho nhân loại tự bản thể Ngài mà sanh ra; Thượng Đế, Chúa Tể của sự sanh hóa nói: “Do sự việc nầy, các ngươi sẽ sanh con đẻ cái, truyền tử lưu tôn; đối với các ngươi sự việc nầy là Kamaduk (nghĩa là ḍng sữa của dục vọng); các ngươi hăy lấy nó mà nuôi dưỡng những Thần minh; cầu mong các Thần minh cũng lấy đó mà nuôi dưỡng các ngươi. Tự nuôi dưỡng lẫn nhau như thế, các Thần minh và các ngươi sẽ có được an phước tối cao. V́ các thần minh được sự hy sinh nuôi dưỡng, sẽ ban cho các ngươi những điều mà các ngươi mong muốn thụ hưởng”. Thật vậy, kẻ nào thụ hưởng những món của Thần minh ban phát cho mà không có ǵ để trả lại các Ngài, th́ kẻ đó chính là một tên trộm cắp. Các sanh vật cần có đồ ăn mới sống được; nhờ có mưa mới có đồ ăn; nhờ sự hy sinh cúng lễ mới có mưa; nguồn cội của sự hy sinh là sự hành động. Biết rằng sự hy sinh phát sanh từ đức Brahma, đức Thượng Đế và nguồn cội của đức Thượng Đế là Brahman, trường tồn bất diệt, Ngài thấm nhuần Vạn vật, thế nên Ngài vẫn có mặt trong sự hy sinh. Kẻ nào ở cơi hạ giới nầy mà không tuân theo sự vận chuyển tuần hoàn của sự sống th́ sẽ phạm tội trong cách sanh sống của ḿnh, và mặc dù sung sướng theo giác quan, kẻ đó đang sống một cuộc đời vô ích.” (Bhagavad Gitā, 9 – 16)

 Chư huynh có trước mặt cái bánh xe luân chuyển của sự sống, nó làm ra nền tảng của sự hy sinh trong các tôn giáo. Tôn giáo càng tinh khiết, càng cao thượng bao nhiêu th́ cái ư niệm hy sinh thấm nhuần nó lại càng tinh khiết và cao thượng bấy nhiêu. Chư huynh hăy chú ư rằng, ở đây, chúng ta đă thấy tư tưởng luyện kim là luôn luôn biến đổi đă thực hiện đến mức độ nào. Đồ ăn biến thành những sanh vật, nhưng muốn có đồ ăn th́ phải có mưa, muốn cho có mưa rơi xuống th́ phải cúng kiến Thần minh và Thần minh sẽ nuôi dưỡng các sanh vật.

Chư huynh luôn luôn gặp sự vận chuyển rơ ràng theo cái ṿng tṛn nầy trong những tôn giáo cổ thời xưa. Thí dụ như người Bà La Môn ném lễ vật vào lửa, v́ người ta nói: Thần Agni (Hỏa Đức Tinh Quân) là miệng của các đấng Thần minh. Ngày xưa, người ta ném lễ vật vào lửa và đọc những câu thần chú, những câu chân ngôn [[13]] do những vị Minh triết đặt ra, các Ngài cho những lời nói của câu thần chú có một ảnh hưởng đối với những mănh lực thấp thỏi của Thiên nhiên - cách dâng lễ vật như vậy khiến cho những sức mạnh thiên nhiên (mưa gió) được thuận ḥa, ảnh hưởng đến trái đất, sanh ra rau trái, những thực phẩm cho con người. Tuy dâng lễ vật nầy chỉ là một hành động tượng trưng, nhưng nó tượng trưng cho điều có thật, và sức mạnh được thốt ra tự miệng của nhà tu sĩ hành lễ tinh khiết cũng có thật nữa. Sự tượng trưng nầy dạy cho dân gian biết rằng đời sống chuyển động theo ṿng tṛn, họ phải hiểu rằng trong bản chất của nó, sự hành động phải là sự hy sinh, và tất cả mọi hành động đều bắt buộc phải có tánh cách hy sinh, hay nói theo cách khác, ta phải hành động v́ đó là điều lành, chớ không phải v́ một lư do nào khác; phải hành động để cho con người được điều ḥa với định luật; phải hành động v́ đấy là cái cách con người ứng đối với định luật, và đó là cái phần cộng tác trong công nghiệp chung. Theo thuyết nầy th́ sự hy sinh là sợi dây bằng vàng liên kết vạn vật trong thế giới hữu h́nh nầy. Và hành động là căn bản của sự hy sinh, sự hành động phát sanh nơi đức Thượng Đế sáng tạo, Ngài tự biểu lộ trong vũ trụ, nên người ta nói rằng Brahman, đức Thượng Đế ngự trị trong mỗi sự hy sinh. Từ đó mỗi bổn phận đều được coi như là một bổn phận đối với thế gian, không ham muốn ǵ cho cá nhân ḿnh, không muốn điều lợi ích riêng tư cho ḿnh, không mong mỏi kiếm được cái ǵ cho bản ngă chia rẽ - chính ở bản ngă nầy ta thấy lộ ra lư do thấp hèn ti tiện, ích kỷ nó ngự sau sự hy sinh. Đó là đặc tánh của sự luyện kim, nó góp sức làm quay chuyển bánh xe của đời sống, làm đầy đủ bổn phận ḿnh v́ mến yêu bổn phận, biến hóa sự hành động thành một sự hy sinh, đốt cháy những sợi dây ràng buộc của dục vọng và giải thoát con người đă được giác ngộ. Được ngọn lửa minh triết tinh luyện như vậy, sự hành động không c̣n ràng buộc được Linh hồn nữa. Linh hồn hợp tác với Thượng Đế trong Thiên nhiên, và mỗi hành động được hiến dâng lên bàn thờ của bổn phận đều trở thành một sức mạnh làm quay chuyển bánh xe của đời sống, nhưng không c̣n có thể trói buộc Linh hồn được nữa.

Sự trao đổi liên tiếp bất biến, sự giúp đỡ lẫn nhau nầy là h́nh thức của đại luật Hy sinh. Sự biến đổi đă xong xuôi, việc làm đă được thực hiện như là một bổn phận, th́ trở nên một thành phần của sự điều ḥa của vũ trụ, thúc đẩy sự tiến hóa và giúp cho ṇi giống tiến bộ một cách rơ ràng. Công việc của tân tín đồ ở Sân Ngoài là tự luyện tập lần lần để hành động trong tinh thần hy sinh đó, y hiểu rơ ràng rằng y làm như vậy mà không t́m kiếm một sự ǵ, không mong mỏi một mối lợi ǵ, không nài xin một phần thưởng nào, y làm việc v́ bổn phận, chớ không v́ một lư do nào khác. Hành động như vậy là thực hiện khoa luyện kim tinh thần, nó tinh luyện mỗi hành động trong ngọn lửa của sự minh triết; và v́ đă tự điều ḥa một cách có ư thức với Thiên Ư trong vũ trụ hữu h́nh để trở thành một sức mạnh thúc đẩy sự tiến hóa, một năng lực nâng đỡ sự tiến bộ. Tất cả nhân loại đều hưởng được quả tốt của sự hành động nầy; nếu nó không có tính cách hy sinh th́ nó sẽ chỉ đem lại cho kẻ chủ động một kết quả cá nhân mà thôi, và cái kết quả nầy, đến lượt, nó lại trở thành sợi dây ràng buộc Linh hồn, làm giảm bớt những khả năng tiềm tàng của nó trong điều thiện. Đó là lối tác động của định luật Hy sinh được xem xét theo quan điểm thấp kém.

Nay ta hăy nghiên cứu nó trên một quan điểm cao siêu. Để tránh mọi sự hiểu lầm, tôi sẽ cố gắng tŕnh bày vấn đề một cách cẩn thận, minh bạch, v́ tôi biết sự lầm lộn có thể sanh ra rất dễ dàng nếu sự tŕnh bày của tôi khiếm khuyết, và đó là lỗi của tôi, tôi phải chịu trách nhiệm. Tôi muốn ngưng lại một chút ở bản tánh của sự hy sinh và t́m kiếm cùng với chư huynh coi xem thiệt ra nó là cái ǵ vậy. Và đây là tư tưởng tôi xin chư huynh có ngay lúc ban đầu là xem xét sự hy sinh ở trong cái bản chất sâu kín của nó, theo quan điểm của ta khi ta càng sống một cuộc đời thiêng liêng thánh thiện hơn, th́ theo tôi dường như hy sinh có nghĩa là cho ra, ban rải ra phía ngoài. Lư do của nó là ư muốn cho ra, cái tinh hoa của bản chất nó là muốn ban rải ra ngoài một vật sở hữu, một vật mà người chủ rất quí trọng, v́ đó là một báu vật nên người sở hữu muốn ban phát nó ra để giúp đỡ và làm vui ḷng kẻ khác. Vậy th́ lần nầy, từ một quan điểm nội tâm, chớ không phải theo bề ngoài, ta phải coi sự hy sinh trong thiên nhiên như sự cho ra, sự ban rải ra ngoài để làm cho kẻ khác được sung sướng. V́ vậy nên sự hy sinh, trong căn bản của nó, là một niềm vui chớ không phải là một nỗi đau khổ; có thể nói rằng đặc tánh của sự hy sinh là niềm vui v́ được tự hiến dâng.

Chúng ta hăy dẹp lại một bên vấn đề t́m hiểu rằng sự hy sinh được phát sanh ra theo cách nào, sau nầy ta sẽ bàn đến; bây giờ chúng ta hăy bắt đầu thừa nhận rằng sự hy sinh chính là một sự hiến dâng. Sự hiến dâng nầy được nảy sanh từ nơi một tâm hồn muốn cho ra, một tâm hồn khao khát tự ban rải ra ngoài, muốn mang trọn vẹn cái hạnh phúc của ḿnh mà chia sớt với kẻ khác, chỉ có một lư do duy nhất để hành động như vậy mà thôi, đó là cái ước vọng duy nhất làm sao tự ban rải ra trong tấm ḷng kẻ khác để được hợp nhất với họ trong một niềm vui chung. Chư huynh sẽ hỏi tôi: Tại sao trong một niềm vui? Tôi đă xin chư huynh đi theo tôi đến tận trái tim và trung tâm của cơi đời hữu h́nh nầy. Tôi đă dám nói trong một quyển sách khác [[14]] rằng: Sự hy sinh cao cả là cái hành động, do đó đức Thượng Đế, tức là Đời sống Duy nhất, tự hạn định lấy ḿnh, do đó Ngài đă sanh ra Thượng Đế Hữu H́nh, dưới h́nh thức năng lực. Nay, tôi nhận thấy rằng điều nầy là lẽ tự nhiên, v́ trong khi nghiên cứu về cách tiến triển và cách hành động của Ngài trong vũ trụ, tôi đă nhấn mạnh nhiều trên một trong những quan điểm, tôi nhận thấy rằng cái lối xét đoán sự hy sinh như thế đă được coi như là “sự hấp hối của Thượng Đế.” Theo tôi th́ “hấp hối” và “Thượng Đế ” là hai danh từ mâu thuẫn với nhau. Thượng Đế ở đây là ǵ? Là Thượng Đế hữu h́nh. Và chúng ta đă thấy trong những kinh sách cổ kính phát sanh từ một khoa thần học rất lâu đời, người ta đă nhiều lần nhắc đi nhắc lại Thượng Đế là Niềm Chí Phước, là Hạnh Phúc Tuyệt Vời. Không thể có một quan niệm nào khác được nếu chư huynh rán lấy tư tưởng mà đi đến những ǵ cao hơn là thế giới hữu h́nh. Thượng Đế là Niềm Chí Phước, đó là cái âm thanh chánh yếu của tôn giáo Aryan cổ kính nhất. Trong khi con người tiến lên cao để đi đến Thượng Đế, cái thể cao nhất để bao bọc Linh hồn được gọi là Thể Chí Phước (corps de béatitude). Chư huynh hăy nghiên cứu trong pháp môn Raja Yoga của Ấn Độ về những thể giúp cho Linh hồn tự biểu lộ được trong những cảnh giới khác nhau. Chư huynh sẽ thấy rằng khi ĺa bỏ cơi hạ giới, Linh hồn cởi bỏ những thể thấp hèn. Linh hồn cởi bỏ xác thân, cởi bỏ cái vía, cái trí rồi cởi bỏ cả thể Bồ đề nữa. Và chư huynh thấy rằng sự luôn luôn tiến lên cao đó, Linh hồn càng ngày càng đến gần Thượng Đế - Ngài chính là bản thể của Linh hồn - và càng ngày nó càng t́m được bản chất cốt yếu của ḿnh (phản bổn hoàn nguyên) - Chư huynh thấy sau cùng, Linh hồn c̣n một thể duy nhất, cao cả nhất, tế nhị, thanh bai đến nỗi khoác thể nầy lên ḿnh, Linh hồn chỉ hơi khác biệt chút ít với Thượng Đế mà thôi - đó là tấm màn che trong suốt khiến cho cá nhân được tồn tại, tấm màn cần thiết để chứa đựng trọn vẹn những sự thu hoạch của thời đă qua. Thể nầy có một cái tên, đó là Thể Chí Phước [[15]], gọi thế như để nhắc nhở những ai trong cơi đời nầy c̣n vùng vẫy trong sự vô minh nó ràng buộc con người, như để nhắc nhở cho mọi người nhớ rằng những sự tiến bộ trong pháp môn Yoga, trong sự hợp nhất với Thượng Đế phải được thực hiện từng giai đoạn một, cho đến khi Linh hồn chỉ c̣n có một ḿnh trong Thể Chí Phước (hạnh phúc tuyệt vời) bao bọc mà thôi. V́ thế, nên người ta nói: “Thượng Đế là Chí Phước.”

Dù chư huynh hiểu được rất ít về giáo lư cao cả nầy, chư huynh cũng biết rằng ở những cảnh giới cao cả nầy, mỗi sự hy sinh đều chỉ là một hành động vui mừng, một hành động tinh khiết đầy hạnh phúc tuyệt vời ban rải ra ngoài. Chính cái tinh hoa của tư tưởng nầy là - dù tôi có diễn tả nó một cách bất toàn đến đâu, điều nầy cũng không quan hệ ǵ - vũ trụ mà được thành h́nh là do tự Niềm Chí Phước, tự Bản tánh cao siêu ấy, là v́ Thượng Đế vô h́nh, tự ư hạn định nên mới có Thượng Đế hữu h́nh, mà Thượng Đế hữu h́nh th́ chính là Thượng Đế vô h́nh vậy. Mục đích của Thượng Đế tự ư hạn định để ban rải cái hạnh phúc cố hữu của Bản Thể Ngài, để sau khi chu kỳ của sự sống được hoàn tất, có một đám đông những sanh linh cùng nhau chói sáng và vui vẻ, có thể chia sớt cái hạnh phúc tuyệt vời của Ngài, chia sớt cái Niềm Chí Phước luôn luôn tăng trưởng của Ngài khi chúng càng lại gần Ngài. Chỉ v́ cái màn vô minh bao bọc Linh hồn cho nên con người tưởng rằng y xa cách Thượng Đế, đó là điều duy nhất khiến cho con người đau khổ!

Nếu theo chư huynh th́ ư niệm căn bản sẽ là: Định Luật Hy Sinh có nguồn gốc nơi bản tánh thiêng liêng. Sự hy sinh cao cả sanh ra Vũ trụ, chính là Thiên nhiên Chí phước tự hiến dâng, v́ vậy tất cả đều có mục đích chia sớt, ban rải hạnh phúc. Sau chót, cội rễ của sự hy sinh của Thượng Đế là niềm vui, v́ được tự ban rải ra ngoài để có thể hợp nhất nhiều Linh hồn lại với Ngài - hiệu quả của sự hợp nhất này là sự “an lạc tuyệt vời” không thể quan niệm được.

 Một khi được hiểu rơ, th́ ư tưởng nầy khiến ta nhận thức rơ ràng được định luật Hy sinh và nh́n thấy hai khía cạnh của nó: trong sự cho ra, trước nhất là có sự vui; nhưng bản ngă thấp hèn lại tham lam hơn là rộng lượng, cho nên theo quan niệm của bản thể thấp hèn, sự hy sinh không ngớt là đau khổ vậy. Chúng ta hăy nhận xét điểm nầy một cách kỹ lưỡng hơn. Như vậy, chúng ta sẽ tránh được mọi sự mâu thuẫn, và có lẽ sẽ nhận xét sự bí mật cao cả nầy, tức là Định Luật Hy Sinh bằng cặp mắt sáng suốt hơn. Chúng ta nên hiểu rằng sự cho ra là một niềm vui rất cao cả, v́ nó chính là bản tánh của Thượng Đế. Sau nữa, chúng ta nên hiểu rằng khi “phản bổn hoàn nguyên” nghĩa là sau khi trở nên thánh thiện, thiêng liêng một cách có ư thức, th́ con người sẽ t́m thấy ở nơi ḿnh một niềm vui càng ngày càng lớn, một niềm vui càng ngày càng phong phú đối với kẻ khác. Khi bản tánh cao thượng phát triển th́ hạnh phúc hay là Niềm Chí Phước cũng tăng trưởng theo. Sự đau khổ chỉ phát sanh từ sự bất ḥa và từ những sự loạn động của bản ngă thấp hèn - bản ngă nầy thật ra chỉ là một với Chơn Nhơn, nhưng hiện nay đang bị sự vô minh đè bẹp và đang bị những ảo ảnh bao vây. Khi xúc tiến sự học hỏi nầy, chúng ta sẽ thấy rằng sự đau khổ nầy có mục đích giải thoát chúng ta ra khỏi sự vô minh, tất cả sự tăng trưởng và sự tiến hóa diễn ra có mục đích đánh tan sự vô minh của chúng ta. Đối với chúng ta, sự tiến triển nầy là sự đau khổ; là những mối lo âu, là những sự chiến đấu - đó là cảm giác thường xuyên của bản ngă thấp hèn. Tuy vậy tŕnh độ tiến hóa của Linh hồn, con người thiệt thọ, mức độ hoạt động có ư thức của nó, cái khả năng tự biểu lộ của nó đến mức nào trong phàm tánh, sự kiện đó được nhận định đúng với cái cách của nó hiểu biết rằng tất cả những sự cố gắng của Linh hồn là cứu giúp cơi đời đang ch́m đắm trong sự buồn khổ, khi nó tỏ ra vui vẻ và an tịnh.

 Rồi lần lần con người sẽ in sâu được cái quan niệm của Chơn Nhơn ḿnh xuống bản ngă thấp hèn của ḿnh, tinh luyện cho nó khỏi bị vô minh và mở mắt nó ra cho nó nh́n thấy sự thật, từ nay sự thật sẽ thay thế cho những vẻ bề ngoài gạt gẫm.

 Người ta có thể hỏi một cách hữu lư rằng: tại sao cứ nói đến sự hy sinh là con người thường hay nghĩ đến sự đau khổ? Tại sao hai ư tưởng nầy lại được liên kết đến nỗi mỗi khi nghĩ tới hay đọc tới chữ hy sinh th́ con người có ngay một tư tưởng về sự bị hành tội? Dường như cái quan niệm sai lầm nầy có nguyên nhân nơi bản ngă thấp hèn mà những sự hoạt động đầu tiên của nó luôn luôn t́m cách chiếm đoạt, nó nắm lấy, giữ lấy điều ǵ cho cái “tôi” riêng biệt chia rẽ của nó. Ở ngoại cảnh, cái “tôi” t́m cách gom góp những kinh nghiệm. Nhưng Chơn Nhơn, con người cao cả chưa được phát triển bao nhiêu, Chơn Nhơn hăy c̣n có tính cách ấu trĩ nên gần như không có ảnh hưởng đến bản thể thấp hèn. V́ vậy bản ngă nầy lặn xuống dưới thế giới của những sự cảm xúc, giơ bàn tay tham lam ra tứ phía, để giữ lấy tất cả những sự quyến rủ, không hiểu biết về bản tánh của đồ vật, không hiểu biết về hậu quả của những hành vi, chỉ hành động theo vẻ bề ngoài và không biết rằng cái bộ mặt lường gạt nầy có chứa đựng những ǵ bên trong. Những kinh nghiệm đầu tiên nầy, được lặp đi lặp lại nhiều lần nơi bản ngă thấp hèn, nhắm t́m không ngừng những niềm vui giả tạo, và luôn luôn khám phá ra rằng những niềm vui nầy không làm thỏa măn ta như trước kia ta thường tưởng. Có lẽ chư huynh cũng nhớ rằng trước kia tôi đă giảng giải tỉ mỉ về ư nghĩa và sự hữu ích của sự đau khổ nó lần lần chỉ cho con người thấy, cùng với một bản chất của định luật, cái tánh cách nhất thời, chóng tàn của các dục vọng giác quan và những thú vui riêng của thú tánh. Như thế, sự đau khổ dẫn dắt chúng ta đến sự hiểu biết; như thế, sự vui sướng cũng dẫn dắt chúng ta đến sự hiểu biết. Khi học biết được hai khía cạnh của đời sống hữu h́nh, lần đầu tiên Linh hồn hiểu biết được một sự thật phụ thuộc nữa. Đă có được một sự kinh nghiệm có lẽ và thường thường là đau khổ, Linh hồn biến hóa kinh nghiệm của ḿnh thành ra sự hiểu biết, rồi lại biến hóa sự hiểu biết của ḿnh ra thành sự minh triết, sự minh triết nầy từ đây sẽ dẫn lối cho y. Khi mà sự hiểu biết càng được thêm nhiều - đó là vật sở hữu của con người thiệt thọ - th́ Chơn Nhơn đang phát triển bắt đầu hiểu được bản thể của ḿnh. Y biến hóa sự hiểu biết thành ra minh triết, và từ lúc nầy, sự minh triết đối với y là một nguồn vui hoàn toàn thuần khiết. Sự minh triết đang phát triển nầy luôn luôn đi đôi với tầm mắt nh́n sâu rộng hơn, một sự b́nh tĩnh và một sức mạnh cứ tăng trưởng măi măi. V́ thế, nó chấp nhận những ǵ mà bản ngă thấp hèn cho là đau khổ; v́ nó coi những sự đau khổ là một nguồn kinh nghiệm. Khi Chơn Nhơn nh́n thấy rằng một sự vui sướng mà ta thèm thuồng khao khát chỉ đem lại cho ta sự thất vọng và sự mỏi mệt th́ lúc đó nó liền biến hóa sự hiểu biết nầy thành ra minh triết. Được hiểu theo cách đó th́ chính sự đau khổ cũng có cái khía cạnh vui vẻ của nó, v́ trong cái kinh nghiệm nầy, con người chú ư đến sự ích lợi đă thực hiện được về sự hiểu biết nơi Chơn Nhơn, chớ không chú ư đến sự đau khổ thoáng qua của bản ngă thấp hèn. Y hiểu rằng nhờ tất cả những kinh nghiệm nầy mà sự hiểu biết và quyền năng của y tăng trưởng. Y chọn lựa những kinh nghiệm đó, v́ sự chọn lựa một cách hữu ư th́ luôn luôn có tánh cách vui vẻ, v́ y trông thấy mục đích cuối cùng và sau khi đốt cháy, lửa sẽ chỉ c̣n để lại vàng ṛng cho ta mà thôi.

Bây giờ, chúng ta hăy nhận xét con người v́ vô minh nên bị mù quáng nơi cơi hạ giới. Chúng ta hăy thí dụ y phải lănh những bài học mà Thiên nhiên luôn luôn mang ra để dạy y, những bài học nghiêm khắc và đau khổ. Y t́m kiếm những thú vui xác thịt không đếm xỉa đến những sự đau khổ đă gây ra cho những kẻ xung quanh y, y chà đạp lên đồng loại để chiếm đoạt lấy vài đồ vật mà y thèm muốn. Khi nh́n thấy đồ vật ấy tan nát trong tay ḿnh, th́ chắc chắn cảm giác đầu tiên của y là một sự đau khổ ghê gớm, một sự thất vọng sâu xa, một cảm giác mệt mỏi chán chường. Đứng ở quan điểm nầy mà nhận xét th́ kinh nghiệm đó thật là đau khổ, tuy rằng đứng ở một quan niệm cao cả hơn th́ ta nên có sự kinh nghiệm nầy, v́ nó cho ta sự minh triết, nó giúp ta có nhiều khả năng hơn để đi sâu vào sự vật của Thiên nhiên và hiểu biết Định luật một cách rơ ràng hơn; hậu quả của kinh nghiệm là như vậy đó. Nhưng c̣n có những điều khác nữa. Bản ngă thấp hèn và Chơn Nhơn cao cả xung đột với nhau. Chơn Nhơn cao cả tự ấn định cho ḿnh một mục đích, muốn đạt mục đích ấy, Chơn Nhơn phải nhờ đến bản ngă thấp hèn, bản ngă nầy không hiểu Chơn Nhơn muốn ǵ và không nh́n thấy mục đích như Chơn Nhơn đă thấy. Nếu không có sự hợp tác của bản ngă thấp hèn th́ Chơn Nhơn không sao đi tới đích được. Do đó có sự chiến đấu với bản ngă thấp hèn, cái bản ngă mà lúc th́ ta phải thúc đẩy, lúc th́ ta phải kềm hăm. Đối với cái bản ngă thấp hèn đang bị vô minh bao phủ, tất cả những sự kiện nầy phát sanh ra một cảm giác khó chịu, v́ bị bắt buộc phải ĺa bỏ những đồ vật mà ta thèm muốn. Nhưng rồi lần lần, khi Chơn Nhơn cao cả ảnh hưởng đến bản ngă một cách hữu hiệu th́ tự cái bản ngă thấp hèn đó, nảy sanh ra một sự hiểu biết càng ngày càng rơ ràng rằng: “Nên làm một việc như vậy.” Nếu do đó mà bị đau khổ th́ cái lợi được hưởng đáng cho ta chịu đau khổ, và nếu có phải cố gắng, có phải đau khổ mới vượt qua được nỗi khó khăn, th́ sức mạnh được tăng thêm cho đến đỗi, trong cái niềm vui v́ đă thành công, người ta quên mất sự đau khổ nhất thời của sự gắng sức. Khi Linh hồn phát triển, trong cái trí, trong sự khôn ngoan của con người, có hai sự việc được thực hiện - và điều nầy cũng xảy ra đối với bản ngă thấp hèn nữa; tự ư ḿnh, con người tự lựa chọn lấy một mục đích khó đạt được, v́ y thấy mục đích nầy hết sức tốt đẹp - tuy nhiên, muốn đạt được nó, y phải hy sinh vài thứ dục vọng thấp hèn. Vậy y phải hy sinh chúng và đốt cháy chúng đi trong ngọn lửa của sự hiểu biết. Nhưng rồi y nhận thấy rằng cùng một lúc, y cũng đốt cháy những chướng ngại và những sợi dây ràng buộc y, y đốt cháy những nhược điểm ngăn cản không cho y tiến bước; và có cảm giác rát phỏng, thoạt đầu đau đớn, chỉ là hiệu quả của ngọn lửa đốt những xiềng xích của y. Vậy y rất vui mừng mà nhận lấy sự giải thoát nầy. Kinh nghiệm lặp đi lặp lại nhiều lần, và con người càng ngày càng trông thấy sự giải thoát và càng ngày càng bớt đau khổ; phải trả giá sự giải thoát bằng sự đau khổ! Vậy theo quan điểm nội tâm, sự đau khổ được biến đổi thành sự vui mừng, và chính ở nơi đây thuật luyện kim tinh thần đang tác động. Con người thấy rằng trong khi Bản chất cao cả nhập với Bản thể thấp kém, th́ cái Bản thể trên giúp cho Bản chất dưới chia sớt được với ḿnh cái niềm vui và hưởng thụ được Hạnh phúc Tuyệt vời một cách sâu xa hơn; hạnh phúc nầy không bao giờ thay đổi và luôn luôn tăng trưởng. Khi Linh hồn đi đến gần cửa Thánh Điện, mục đích của tất cả những bài học ấy hiện ra rơ ràng, nó bắt đầu nhận thấy rằng tất cả những bài học đó đều nhắm giải thoát Linh hồn ra khỏi những ràng buộc - những dây ràng buộc nầy là nguyên nhân duy nhất của sự đau khổ, v́ chỉ chúng ngăn cản, không cho Linh hồn hợp nhất với anh em của nó là những Linh hồn khác, và hợp nhất với Thượng Đế. Khi sự tin chắc như thế càng ngày càng thêm, khi cái Bản thể thiêng liêng tức là Chơn Nhơn càng tự ban rải ảnh hưởng xuống, th́ người ta sẽ luôn luôn cảm thấy một nguồn vui thiêng liêng trong sự hủy diệt những điều kiện hạn chế, người ta sẽ thấy rằng nguyên do của sự đau khổ chỉ là sự chia rẽ, mà nguồn cội của sự chia rẽ là sự vô minh, và một khi tiêu diệt được sự vô minh th́ tự nhiên sự đau khổ cũng sẽ chấm dứt ngay tức khắc. C̣n điều nầy nữa: Khi ta nh́n được rằng những sợi dây trói buộc chỉ là những ảo ảnh, hữu danh, vô thực, không thể tồn tại được trong cảnh giới của Chơn Nhơn, th́ Chơn Nhơn liền quả quyết bắt đầu biến hóa những năng khiếu của bản ngă thấp hèn, và do hành động tinh thần hóa nầy mà tinh luyện chúng, như tôi đă nói ở đoạn trên.

 

*

* *

Chúng ta hăy lấy một vài thí dụ và nhận xét coi cái công việc biến hóa nầy được thực hiện như thế nào. Trước hết, chúng ta hăy t́m học về một trong những nguồn cội lớn nhất của sự đau khổ nơi hạ giới nầy, là sự t́m kiếm thú vui cho cái tôi riêng biệt, không đếm xỉa đến những ư muốn và t́nh cảm của kẻ khác - cái dục vọng muốn thụ hưởng một ḿnh, thụ hưởng trong phạm vi chật hẹp, xa cách hẳn cơi đời bên ngoài, một phạm vi để dành riêng cho sự thỏa măn riêng biệt của cái “Tôi” thấp hèn. Linh hồn sẽ cư xử ra sao đối với cái bản năng cứ thúc đẩy ta đi t́m thú vui. Bản năng nầy có một yếu tố ǵ mà ngọn lửa có thể tinh luyện và biến hóa được không?

Sự t́m kiếm thú vui mà luôn luôn có sự đau khổ đi theo sau, có thể trở thành cái khả năng ban rải sự vui mừng và chia sớt với tất cả mọi người cái điều mà một người đă hoạch đắc được. Linh hồn sẽ khám phá ra rằng nó có thể thực hiện sự biến hóa nầy bằng cách loại bỏ dần dần yếu tố chia rẽ trong cái bản năng cứ muốn kiếm thú vui nơi ngoại giới, luôn luôn cố gắng xua đuổi cái ư muốn tự độc chiếm, bằng cách lật đổ cái bức tường vô minh nhỏ bé bao vây Llinh hồn trong những cơi hạ giới nầy, nơi đó Linh hồn đang tự biểu lộ bằng cách đốt cháy bức tường thấp kém có thể ngăn cách Linh hồn với kẻ khác. Cứ làm như vậy cho đến khi mỗi lúc tưởng tượng và thu lượm được một thú vui, bản ngă liền tự ban rải ra ngoài, giữa các huynh đệ của nó và chia sớt với họ niềm hạnh phúc mà nó đă t́m thấy. Làm như vậy, không mất đi ǵ cả, v́ tuân theo định luật, Linh hồn t́m thấy một niềm vui sâu xa. Trong một thế giới mà Định luật ngự trị khắp mọi nơi, nếu ta sống điều ḥa với Định luật th́ chắc chắn ta sẽ được sung sướng và yên ổn. Chỉ có một âm phù sái điệu cũng đủ chỉ cho ta thấy không có sự điều ḥa với Định luật. Nhưng Linh hồn đang được phát triển nầy, nhận biết rằng ḿnh đă hoạch đắc được đôi ba mănh lực, đôi ba kiến thức, đôi ba chân lư thiêng liêng sẽ có thói quen cảm biết nỗi vui thiệt thọ của sự sở hữu không phải là sự chiếm hữu, mà chính là sự ban rải ra, và việc mà Linh hồn phải làm là đạp đổ tất cả những bức tường mà xưa kia chính tay nó đă dựng nên, khi nó hăy c̣n vô minh để cho niềm vui của nó có thể tỏa rộng một cách tự do, xuyên qua thế giới của loài người và loài vật. Cái bản năng hay t́m kiếm thú vui có thể biến đổi thành khả năng ban rải sự vui mừng; và con người xưa kia đă t́m thú vui trong cảnh riêng rẽ, nay sẽ hiểu rằng: chỉ chia sớt cho kẻ khác th́ ta mới vui được, và những của cải đáng thu thập là những của cải mà người ta có để ban rải ra mà thôi. Sự vui mừng v́ được cho ra, thật vậy, đó là sự hy sinh thiệt thọ, sự ban rải tràn trề mọi điều cho tất cả mọi người, nếu không ban rải như vậy th́ những vật sở hữu sẽ không có giá trị ǵ cả, v́ nó bị chứa đựng trong một cái “Tôi” riêng biệt. Chúng ta hăy lấy một cảm t́nh khác làm thí dụ, cảm t́nh nầy có thể được thay đổi cũng nhờ thuật luyện kim tinh thần ấy; cảm t́nh ấy là bản năng đi t́m thú vui, v́ riêng chữ “t́nh yêu” đă ít nhất bao hàm cái ư tưởng cho ra, nếu không th́ đâu phải là t́nh yêu! Nhưng t́nh yêu có thể rất ích kỷ, t́m cách thụ hưởng hơn là cho ra, trước hết nó nghĩ đến cái ǵ mà những vật nó yêu thương mang lại cho nó, chớ không phải cái ǵ mà nó có thể ban cho chúng. Chính v́ do cái điểm muốn được lời nên t́nh yêu nầy có những nét đáng buồn của sự độc quyền, của tật ghen tuông, của ư muốn xua đuổi kẻ khác ra phía xa, nó có ư muốn giữ vật nó yêu lại cho riêng ḿnh, và tôi có thể nói nó muốn lấy cái mái nhà mà úp chụp lên mặt trời, để mặt trời chỉ soi sáng riêng nhà ḿnh thôi, và khiến cho mọi nhà khác không được hưởng thụ những tia sáng nhân từ đó. T́nh yêu ích kỷ nầy, ta phải làm cách nào để tinh luyện nó? Chắc chắn không phải bằng cách thu hẹp nó lại như một số người đang t́m cách làm, không phải bằng cách làm cho nó trở thành lănh đạm hơn, cứng rắn hơn, v́ t́nh yêu không bao giờ có thể trở nên lănh đạm và cứng rắn được. Phải tinh luyện nó bằng cách khuyến khích t́nh yêu và đồng thời phải loại bỏ ra ngoài những yếu tố ti tiện. Phải coi chừng bản ngă thấp hèn và khi mà nó mới bắt đầu xây dựng lên một bức tường chia rẽ nhỏ, th́ ta phải đập tan bức tường ấy ngay đi; nếu nó muốn giữ lấy một ḿnh một đồ vật quí báu, đẹp đẽ, ta phải t́m cách chia sớt đồ vật ấy ngay với kẻ khác; nếu nó muốn cho kẻ khác không có đồ vật mà ta yêu dấu, ta phải ban rải đồ vật ấy ngay ra ngoài và chia sớt nó với kẻ khác. Linh hồn hiểu rằng phải chia xẻ với người khác điều ǵ phát sanh ra Mỹ lệ và vui mừng, để cho họ cũng có thể nếm được hạnh phúc mà xưa kia chỉ có một người t́m thấy được ở đồ vật mến yêu. Như vậy, tất cả những yếu tố thô trược sẽ dần dần biến mất. Nếu ḷng ích kỷ mới vừa nảy sanh nó sẽ bị dẹp qua một bên ngay. Tánh ghen tị có bắt đầu nảy nở, nó sẽ bị chận đứng lại ngay. V́ thế cho nên nơi nào mà trước kia có ư nghĩ: “Chúng ta hăy ở riêng rẽ một ḿnh và thụ hưởng,” người ta sẽ thấy một tư tưởng khác được nảy sanh: “Chúng ta hăy cùng nhau đi khắp thế gian và chia sớt với những người khác niềm vui mà chúng ta đă cùng nhau t́m kiếm được.”

 Như thế, theo thuật luyện kim đó, t́nh yêu sẽ biến đổi thành ḷng từ bi thiêng liêng và tự ban rải ra khắp nhân loại, và kẻ xưa kia đă ưa thích thu nhận những món quà của vật ḿnh yêu, nay lại sẽ hết sức vui mừng ban rải cho mọi người những điều mà y đă t́m được. Có thể rằng xưa kia t́nh yêu nầy đă ích kỷ. Có lẽ xưa kia nó đă hợp nhất một người nam với một người nữ. Rồi nó được mở rộng ra mà bao gồm cả phạm vi gia đ́nh, rồi bao gồm cả đời sống xă hội và đời sống của ḍng giống nữa, sau cùng nó sẽ lan rộng và bao quát cả mọi sanh linh, trong một vũ trụ mà mọi vật đều có chứa đựng sự sống. T́nh thương nầy sẽ không hề mất vẻ sâu xa, nồng nàn, nhiệt thành và sốt sắng; nhưng nó được lan rộng ra khắp vũ trụ, thay v́ tự tập trung vào một tấm ḷng thôi; nó sẽ thành một đại dương của sự từ bi bao gồm tất cả mọi sanh linh biết cảm xúc. Phép luyện kim tinh thần được áp dụng vào t́nh thương là như vậy đó.

Chư huynh có thể theo lối nầy mà lần lượt lấy tất cả những tánh của bản ngă thấp hèn và tinh luyện chúng. Nói tóm lại phương pháp nầy nhắm việc tự giải thoát ra khỏi tánh chia rẽ và lấy ư chí, sự hiểu biết và tánh phân biện mà tiêu diệt nó đi. Chư huynh cũng sẽ thấy rằng trọn cả cái công việc nầy là một niềm vui cho Chơn Nhơn, cho con người thiệt thọ, tuy rằng bản ngă thấp hèn, trong khi mù quáng, có thể tỏ ra vô minh. Khi tin chắc được như vậy, cái điều mà ta gọi là đau khổ sẽ mất vẻ cực nhọc, khó chịu đi và trở thành một niềm vui.

Ở nơi mà trước kia, cái cảm giác đau khổ ngự trị, th́ nay niềm vui đang tràn lan và biến đổi sự đau khổ, v́ Linh hồn đă nh́n thấy, và bản ngă thấp hèn đă bắt đầu hiểu được cứu cánh và mục đích của kiếp người.

Khi tiếp tục nghiên cứu như vậy, chúng ta thấy rằng sự biến hóa nầy c̣n có thể thực hiện theo một lối khác nữa. Khi mà ngọn lửa minh triết và mến yêu, cái Bản tánh thiêng liêng nơi con người càng ngày càng thấm nhuần bản ngă thấp hèn và đốt cháy mọi giới hạn mà tôi vừa nói, biến bản ngă thấp hèn giống hệt h́nh ảnh của Bản tánh thiêng liêng, Chơn Nhơn liền tự biểu lộ ra nơi bản ngă thấp hèn, những năng lực và những năng khiếu h́nh như được phát sanh từ sự tiến triển mà chúng ta đă nghiên cứu, đó cũng là một sự lạ lùng. Nhờ thuật luyện kim đă có sẵn trong thiên nhiên, khi Linh hồn do ngọn lửa mến yêu và minh triết mà tự biểu lộ trong nhân loại, th́ dường như chỉ một việc đốt cháy những yếu tố thấp hèn cũng đủ khiến cho ở một cảnh giới cao hơn, có một số thần lực tế nhị, thanh bai được phóng ra.

Vậy hiệu quả của sự đốt cháy nầy là giải thoát cho đời sống tinh thần, giải thoát cái điều mà trước kia bị trói buộc, không thể tự biểu lộ ra được, nay v́ cái vỏ bên ngoài đă bị đốt cháy rồi nên điều đó sẽ sẵn sàng tác động một cách mạnh mẽ trong thế gian. Trong khi Linh hồn vượt lên đến những cảnh giới cao siêu hơn, nơi đó nó càng ngày càng nh́n thấy rơ ràng, sự hợp nhất của nó với vạn vật, chúng ta liền hiểu được một cách mơ hồ rằng c̣n có một chơn lư vĩ đại nữa. V́ đă được hợp nhất với các Linh hồn khác, nên Linh hồn ta có thể chia sớt với họ những điều mà ta có và giúp đỡ họ theo nhiều đường lối; bằng sự hy sinh vui vẻ, nó có thể cho ra những vật sở hữu mà đáng lẽ nó giữ lại cho ḿnh, nhưng v́ đă hợp nhất với vạn vật nên nó phải mang ra mà ban phát cho đời. Như vậy theo cách đó, những kết quả của công phu luyện tập, những khả năng an dưỡng tinh thần, sự hưởng được chí phúc, và sự phát triển tinh thần, thật ra th́ mấy điều nầy không san sẻ cho ai được; nhưng Linh hồn từ khước chúng do một hành động vui vẻ và cần thiết hầu để cho chúng nó thành ra của cải chung cho nhân loại để thúc đẩy sự tiến hóa.

 V́ vậy người ta có nói với chúng ta về những người đệ tử hy sinh, không màng lên cơi Thiên đàng, các vị Chơn Tiên hy sinh từ khước cảnh Niết bàn. Như vậy chúng ta phải hiểu rằng - mặc dầu chúng ta cảm thấy điều nầy một cách mơ hồ - tất cả những vị nầy đă hợp nhất với các huynh đệ của ḿnh cho đến mức chia sớt cái kết quả của những sự cố gắng của các Ngài với kẻ khác là một bổn phận thiêng liêng của các Ngài vậy; cái phần thưởng thiệt thọ của các Ngài không phải là niềm vui ở Thiên đàng, không phải là những hạnh phúc tuyệt vời không thể tưởng tượng được ở cảnh Niết bàn, các Ngài chỉ muốn hưởng một niềm vui duy nhất: là cởi bỏ những sở hữu của các Ngài, cởi bỏ tất cả những ǵ mà các Ngài có thể thụ hưởng, đặt chúng vào một nơi để làm của chung cho tất cả mọi người. Theo lối đó, các Ngài thúc đẩy sự tiến hóa tổng quát; các Ngài dự một phần vào công việc thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loại trong đó các Ngài cũng là những phần tử.

Bây giờ chúng ta lại nh́n thấy một chơn lư khác, v́ chúng ta bắt đầu hiểu được cái cách thức giúp đỡ một người nào đó. Khi một người bị quả báo dồn dập mà chính y đă tạo nên, khi một định luật nghiêm khắc khiến cho Linh hồn y phải chịu đau khổ - v́ chính y xưa kia đă gieo cái nhân - đối với ai mà trước mắt không c̣n trông thấy sự chia rẽ nữa và đă biết rằng ở trên cảnh giới cao siêu của thực tại, ḿnh được hợp nhất với Linh hồn đang đau khổ, th́ v́ đó có thể, không phải là tự ḿnh hứng chịu lấy sự đau khổ ấy, hứng lấy cái quả không thế nào tránh khỏi, để cho con người đă gieo nhân kia khỏi phải chịu quả báo nặng nề, nhưng vị đó có thể đứng ở bên cạnh người đang gặt quả báo, và tiếp cho y một sức mạnh, một nguồn sống mới mẻ, một sự hiểu biết mới mẻ. Như vậy người ta có thể giúp đỡ Linh hồn đau khổ trong khi nó đang phải trả quả báo nặng nề, bằng cách ảnh hưởng, không phải đến bản tánh của quả báo, mà ảnh hưởng đến cái thái độ của kẻ phải trả quả, không phải bằng cách biến đổi gánh nặng, mà chính là biến đổi những mănh lực của Linh hồn dùng để chịu đựng được gánh nặng ấy. Một trong những niềm vui cao cả nhất, một trong những phần thưởng cao quí nhất mà Linh hồn đang phát triển có thể nhận được - Linh hồn nầy không đ̣i hỏi một điều ǵ cho riêng ḿnh, ngoại trừ cái khả năng được phụng sự - là khi nó gặp một Linh hồn khác yếu đuối hơn đang bị cái bản chất yếu đuối đó đè bẹp xuống th́ Linh hồn đang phát triển có thể truyền qua Linh hồn yếu đuối nầy một chút ḷng can đảm cao siêu, khiến cho gánh nặng của nó trở nên nhẹ nhàng, khiến nó hiểu biết, và v́ vậy mà có hy vọng cùng sức mạnh để chịu đựng mọi sự. Khi Linh hồn yếu đuối được cứu giúp, nó có đủ sức mạnh để làm tṛn phận sự của ḿnh. Sự cứu giúp nầy không giải thoát cho Linh hồn khỏi mang gánh nặng mà tự tay đă tạo ra, mà chính ḿnh phải gánh vác lấy, v́ điều nầy hữu ích cho nó, nhưng sự cứu giúp nầy truyền đạt cho Linh hồn yếu đuối một sức mạnh phát sanh từ sự thông hiểu mọi điều. Nhờ sức mạnh nầy, sự đau khổ của một h́nh phạt bỗng biến thành một sự an phận trầm lặng chịu đựng những nỗi đau đớn có sức giáo hóa con người. Một Linh hồn được giúp đỡ như vậy trở nên vui vẻ, dù phải chịu đựng cái sức nặng của quả báo. Món quà nầy làm cho nó trở nên mạnh mẽ. Ấy là Sự Sống Thiêng Liêng đă chiếu rạng, phát sanh từ cảnh giới cao siêu nơi đó tất cả những Linh hồn đều chỉ là một. Ở cảnh giới nầy luôn luôn tràn ngập thần lực, thần lực nầy thành ra sự giúp đỡ mạnh mẽ do những sự hiến dâng không ngớt của những vị đă khám phá ra được niềm vui thiêng liêng của sự cho ra. Đối với các Ngài phần thưởng duy nhất của các Ngài là được nh́n thấy các em nhỏ tiến lên đến cái ánh sáng mà các Ngài đă đạt được rồi.

Nhưng nếu quả thật như vậy, tại sao ta lại có một tư tưởng thường hay quấy nhiễu mà chúng ta đều biết. Chắc chắn là người ta đă nói điều đó với kẻ chí nguyện; ngay từ lúc khởi đầu những sự thử thách trong thời kỳ chuẩn bị y đă cảm thấy tư tưởng đó rồi, có lẽ y đă tưởng rằng tư tưởng nầy chỉ ngự trị trong Sân Ngoài mà thôi, khi y vừa bước qua khỏi cửa. Tại sao con Đường Đạo lại bị gọi là “Con Đường đau khổ,” nếu mỗi khi tiến lên thêm một bước, một niềm vui thiêng liêng càng ngày càng chói sáng? Tuy nhiên, người ta có thể giải nghĩa từ ngữ nầy một cách dễ dàng. Như vậy, chỉ cần phải hiểu trước hết, con đường nầy có vẻ đau khổ đối với ai. Phải hiểu sự leo ngay lên sườn núi, cái ư chí quả quyết tiến lên cao một cách nhanh chóng, cái ḷng nhất quyết phải vượt qua mức tiến hóa b́nh thường của nhân loại - lẽ tự nhiên sẽ khiến ta tập trung trong vài ba kiếp ngắn ngủi những kết quả mà nếu ta không cố gắng như thế, sẽ phân phối ra trong nhiều kiếp luân hồi. Quả báo của dĩ văng đột nhiên tuôn xuống, v́ giờ đây, Linh hồn phải đương đầu với nó và trả quả trong một thời gian thật ngắn, và những nỗi khó khăn sẽ nổi lên một cách đáng sợ và mănh liệt. Sự tấn công đầu tiên nầy có thể vô cùng tàn bạo khiến ta ngạc nhiên, nó có một sức mạnh khiến ta phải lấy làm lạ lùng và khiến cho Linh hồn phải đau khổ đến một mức mà xưa kia chưa bao giờ nó ngờ tới được. Nhưng ngay ở lúc đó, không phải Linh hồn đang thật sự chịu đựng sự đau khổ đâu, đó là cái bản ngă thấp hèn hăy c̣n mù quáng và luôn luôn bị Chơn Nhơn cao cả thúc đẩy phải luôn luôn tiến về phía trước. Ngay ở trong cái giờ phút bị thử thách một cách đau đớn, khi tất cả những quả báo đă tích trữ trong biết bao nhiêu tiền kiếp bỗng nhiên rơi tới tấp lên đầu một kẻ có gan dạ dám kêu gọi quả báo đến. Ngay chính lúc đó, Linh hồn vẫn luôn luôn an tịnh, vui vẻ mà thực hiện một cách lẹ làng việc, mà chẳng vậy, phải kéo dây dưa trong nhiều kiếp tái sanh, v́ Linh hồn đă nhắm mắt theo một đời sống duy nhất mà nó cho là chánh đáng.

V́ thế cho nên, khi nhận xét từ dưới ngó lên th́ con đường nầy bị gọi là “Con Đường Đau Khổ.” Cũng bởi v́ khi con người đặt chân lên con đường đó, th́ y từ bỏ biết bao nhiêu là sự vật, chúng là những thú vui, theo con mắt của người đời: thú vui xác thịt, thú vui thế tục, những lạc thú đủ loại; mà đối với biết bao nhiêu người th́ chúng là những bông hoa mọc ở hai bên vệ đường đời. Nhưng Linh hồn đă nhất quyết lên cao không c̣n thích những thú vui ấy nữa, nó không c̣n ham muốn chúng; nó t́m kiếm những thú vui trường tồn, không bao giờ phai nhạt được. Từ phía ngoài nh́n vào, con đường nầy dường như là Con Đường đoạn tuyệt, dứt bỏ, nhưng nh́n từ một quan điểm bên trong, th́ sự đoạn tuyệt nầy là sự vui mừng, sự an lạc và hạnh phúc được tăng trưởng. V́ người ta không đón rước sự đau khổ đến bởi thích chịu đau đớn, mà người ta chỉ loại trừ một hạnh phúc phù du để có được một hạnh phúc tuyệt vời bất diệt, mang những sự vật mà những hoàn cảnh ngoại giới có thể cướp mất của chúng ta và đổi chúng lấy những sự quí báu nội tâm, những vật sở hữu của Linh hồn, những kho tàng mà không một tên trộm nào có thể rờ mó tới được, những niềm vui mà không một biến cố hồng trần nào có thể làm giảm bớt, phá quấy hay làm cho lu mờ đi.

Khi Linh hồn càng tiến bước trên Con Đường Đạo, niềm vui của nó càng ngày càng trở nên sâu xa hơn, v́ ngay ở lúc đầu, sự phiền năo đă chứng tỏ rằng nguồn cội của nó là sự vô minh. Dĩ nhiên, trước khi được hiểu biết, con người phải chịu cay đắng và đau khổ; nhưng nguồn cội của đau khổ là sự vô minh, sự mù quáng. V́ thế cho nên sự buồn rầu ám ảnh những người có lẽ v́ sự buồn rầu ấy nên mới đi t́m Con Đường Đạo, khi nh́n khắp nhân gian họ thấy đâu đâu cũng đầy dẫy sự khốn cùng và khổ năo, th́ một nỗi buồn làm cho ḷng họ se thắt lại; khi họ nh́n thấy những người nam, người nữ cùng các trẻ em phải đầu thai xuống cơi hạ giới nầy để chịu đau khổ, cứ cách 100 hay 1.000 năm, khi nh́n thấy con người phải đau khổ mà không hiểu duyên do v́ đâu đau khổ, v́ bị sự vô minh nó thúc giục, châm chích; sự vô minh nầy chính là nguyên do của sự đau khổ! Khi nh́n vào một thế giới bị những bóng tối bao phủ, nh́n vào một nhân loại đang vùng vẫy và bị siết chặt trong sự vô minh, những ai sau nầy sẽ trở nên những Đấng Cứu Thế cảm thấy tất cả những nỗi cùng khổ của cơi đời nầy và cũng có ư muốn t́m Con Đường Giải Thoát để cứu đời. Khi nghiên cứu trong dĩ văng về tiểu sử các Đấng cao cả ấy; trong dĩ văng, chư huynh có bao giờ lưu ư đến vài ba tia sáng mà lịch sử hay truyền thuyết đă phóng ra để làm sáng tỏ đời sống của các Ngài trong thế giới loài người chăng? Chư huynh có bao giờ chú ư đến sự việc nầy chăng: là trước khi t́m thấy ánh sáng, các Ngài phải trải qua giai đoạn khắc khoải lo âu? Cái sự khắc khoải lo âu nầy có căn nguyên ở sự bất lực, nó là tiếng vang của những sự buồn rầu mà các Ngài đă phải chịu đựng nhưng vô phương cứu chữa. Nếu chư huynh nhận xét về nỗi đau khổ của một vị siêu nhân mà ngày nay cả trăm triệu con người tôn kính như là một Đấng cao cả nhất, như là Bông hoa của chính nhân loại chúng ta đây, nỗi đau khổ của Đức Phật mà hiện giờ được 1/3 nhân loại sùng bái, tôi xin hỏi chư huynh có nhớ Ngài đă t́m kiếm cội rễ sự đau khổ theo cách nào? Ngài đă tham thiền như thế nào về sự vô minh và nỗi khốn cùng của thế gian mà Ngài không t́m thấy phương cứu chữa? Có lẽ câu nói nầy là một câu nói bóng dáng. Ngài đă ĺa vợ con, bỏ lầu đài cung điện, bỏ gia đ́nh, bỏ sơn hà xă tắc như thế nào? Ngài đă ra đi như thế nào, chỉ mang theo một cái b́nh bát, cô đơn, dấn thân vào rừng sâu hiu quạnh; v́ lúc đó Ngài chưa được tỏ ngộ nên tấm ḷng Ngài phải nặng trĩu v́ đau khổ như thế nào? Người ta nói lại với chúng ta rằng lúc đó Ngài chưa biết phải làm sao mà cứu nhân độ thế, và khi thế gian c̣n đau khổ th́ Ngài không thể an lạc được. Ngài đă phải trải qua biết bao nhiêu sự nguy hiểm, biết bao nhiêu sự đau đớn, biết bao nhiêu sự khổ hạnh; Ngài cũng đă trải qua trạng thái của một Linh hồn đă hoài công t́m kiếm chơn lư trong sự tối tăm và khắc khoải. Cuối cùng, một ngày kia, ngồi dưới gốc cây Bồ đề thiêng liêng, Ngài tỏ ngộ và hiểu được nguyên nhân của sự đau khổ! Ngay lúc đó, sự đau khổ tiêu tan đi và nhường chỗ cho sự vui mừng hoan hỉ. Ngay hôm đó, sự chiến thắng, niềm hoan hỉ, cái hạnh phúc bất biến bừng nở và reo vui trong những lời châu ngọc của Ngài đă thốt ra, mà trải qua nhiều thế kỷ, nhân loại đă giữ ǵn được cho chúng ta đến ngày nay. Có lẽ chư huynh hăy c̣n nhớ những lời một thi sĩ người Anh đă dùng để diễn tả những câu của Phật đă nói, chứng minh rằng nguồn cội của sự đau khổ là sự vô minh, và nguồn cội của sự giác ngộ và của hạnh phúc là minh triết: “Ta, Đức Phật, xưa kia Ta đă từng nhỏ lệ chung với các huynh đệ của Ta. Những nỗi đau khổ của trọn cả thế gian đă làm cho trái tim của các huynh đệ Ta tan nát. Giờ đây, Ta cười và hoan hỉ, v́ thật có sự giải thoát, thật có sự tự do.”

Sự tự do, sự giải thoát, đó là sự vui mừng hoan hỉ. Sự vô minh và sự mù quáng làm cho ta phải nhỏ lệ. Sự đau khổ của thế gian khiến cho cơi ḷng tan nát, cũng như bây giờ nó đang làm tan nát cơi ḷng của bao nhiêu người vô minh. Nhưng có một sự giải thoát nó nhắn nhủ ta như thế nầy: Nguồn cội của sự đau khổ là ở nơi ta chớ không phải ở nơi vũ trụ, ở trong sự vô minh của ta chớ không phải ở trong cơi đời. Như thế đó, khi ánh sáng chói rạng th́ có ngay sự giải thoát, niềm vui, và tiếng cười của con người liền trở nên siêu phàm thoát tục, v́ ánh sáng thiêng liêng đă tràn ngập Linh hồn y. Y đă giác ngộ, y đă trở nên minh triết, và người minh triết th́ không bao giờ buồn rầu, v́ trong Linh hồn đă được giác ngộ một cách phi phàm, sự đau khổ đă bị hoàn toàn tiêu diệt. 

 

V. - TRƯỚC THỀM THÁNH ĐIỆN

đầu trang cuối trang mục lục lời nói đầu  phần 1 2 3 4 5

 Bây giờ chúng ta đă đi đến bực thềm của Kim môn (cửa bằng vàng), những cánh cửa mà ai ai cũng có thể mở được. Những cánh cửa một khi đă mở rộng ra rồi th́ đưa con người đi vào Thánh Điện Vĩ Đại Oai Nghiêm, và những ai đă bước vào đó rồi th́ không bao giờ quay trở ra nữa. Giờ đây, nếu có thể được, chúng ta cố gắng hiểu cái điều kiện của người chí nguyện đang tiến bước lên thềm cửa mà y biết chẳng bao lâu y sẽ phải bước qua để nhập vào hàng ngũ của những kẻ phụng sự trên thế gian, đang làm việc để d́u dắt sự tiến hóa của giống ṇi, để thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loại chúng ta.

 Chúng ta hăy dừng chân lại một lúc để nh́n xét những người đang ở Sân Ngoài, nơi mà chúng ta đă nói đến ở bốn bài thuyết tŕnh đầu. Chúng ta sẽ thấy nổi bật lên một nét đặc biệt làm căn bản chung cho những ai đang ở đó. Họ khác nhau rất xa về tŕnh độ lư trí và đạo đức, khác nhau rất xa về sự tiến bộ đă hoạch đắc được, họ khác nhau trong sự thực hiện những điều kiện bắt buộc phải có, về cái khả năng có thể tiến măi lên cao; nhưng có một điều được tỏ lộ rơ ràng, một điều mà tất cả mọi người đều có: đó là sự thành thật [[16]]. Họ đều có một mục đích nhất định trước mắt. Họ hiểu một cách minh bạch rơ ràng cái điều mà họ ước vọng. Khi họ xem xét thế gian, họ có một sự quyết định thành thật ở nơi thâm sâu của ḷng họ. Đối với tôi đó dường như là một nét đặc biệt rơ ràng nhất chung cho tất cả, như tôi đă nói. Những ai trong chư huynh đă quen thuộc với thánh kinh của những xứ xa xôi sẽ nhớ rằng cái đức tánh thành thật nầy rất quan trọng; và có trước mắt ḿnh một mục đích mà ḿnh cố gắng để thực hiện được một cách quả quyết, đó là một điều quan trọng. Nếu chư huynh xem đôi ba quyển kinh sách cổ kính của các tôn giáo Ấn Độ, chư huynh sẽ thấy tật bê trễ, lười biếng bị coi như là một trong những tánh xấu nguy hiểm nhất, tánh thành thật như là một trong những đức tánh cần yếu nhất. Mặc dầu là ở trong tôn giáo nào, chư huynh cũng thấy một quan niệm duy nhất về điểm đó. Con người đă tiến đến cái tŕnh độ nầy, th́ cũng đă vượt qua ranh giới phân chia tôn giáo nầy với tôn giáo khác, y đă hiểu nơi căn bản của mọi tôn giáo, có những giáo lư cao cả giống nhau; và tất cả những người sùng đạo đều hướng về mục đích cao cả duy nhất. V́ thế cho nên y không ngạc nhiên khi thấy những kinh sách của những tôn giáo khác nhau - tất cả đều do Quần Tiên Hội ban hành - bắt buộc người chí nguyện phải có những đức tánh giống nhau và đều đồng ḷng cho rằng tánh thành thật là một trong những đức tánh cần thiết nhất cho ai muốn làm đệ tử. Ở chương II của kinh Pháp Cú Dhammapada, chư huynh sẽ thấy cái đức tánh nầy được chỉ dẫn một cách rơ ràng và có lẽ với nhiều chi tiết hơn là bất cứ đoạn nào khác. Tôi xin trích nó ra đây:

“Nếu con người thành thật bắt đầu để hành động, nếu y không hay quên lăng, nếu những việc làm mà y trong sạch, nếu y hành động một cách sáng suốt, nếu y tự chủ, nếu y sống theo giới luật th́ sự vinh quang của y sẽ tăng trưởng.

Do sự hoạt động siêng năng, do tánh thành thật, do sự khắc kỷ và tánh trinh khiết, người minh triết có thể tự xây đắp cho ḿnh một ḥn đảo mà không một trận hồng thủy nào làm ngập lụt được.

Những kẻ điên khùng đều chạy theo hư danh, đó là những người hiểu biết không chân chánh. Người minh triết ǵn giữ tánh thành thật của ḿnh như là một báu vật quí giá nhất.

Tṛ đừng theo đuổi những sự vật phù vân, những niềm vui của sự thèm khát tham lam và của t́nh yêu giả dối. Con người thành thật và ưa suy ngẫm sẽ gặt hái được rất nhiều sự vui mừng.

Khi do tánh thành thật, người có học thức đă xua đuổi được tánh khoe khoang đi rồi th́ y trở nên minh triết, y lên đứng trên những đài cao siêu của sự minh triết, và nh́n những kẻ điên khùng đang ở phía dưới. Y b́nh tĩnh nh́n đám đông đang quay cuồng, giống như một người đứng trên một ngọn núi nh́n xuống những kẻ ở đồng bằng.

 Chăm chú ở giữa đám đông người hay quên lăng, thức tỉnh giữa đám người đang ngủ say, người minh triết tiến bước như một con ngựa chạy đua, để lại ở phía sau bầy ngựa gầy ốm, vô giá trị.

 Chính nhờ tánh thành thật mà đức Maghavan trở thành chúa tể của các Thần minh. Con người ca tụng tánh thành thật, nhưng luôn luôn quở trách tánh bê trễ lười biếng.

 Vị tỳ khưu [[17]] lấy tánh thành thật làm nỗi vui mừng an lạc, và ghê sợ tật bê trễ lười biếng th́ có thể di chuyển khắp mọi nơi giống như lửa, đốt cháy những sợi dây lớn nhỏ ràng buộc ḿnh.”

 Nếu chư huynh quay lại phía sau mà nh́n tất cả cái công việc chúng ta đă miêu tả, chư huynh sẽ thấy rằng đức tánh thành thật là căn bản của mỗi giai đoạn trong công việc. Sự tinh luyện, sự kiểm soát tư tưởng, sự lập hạnh, sự biến đổi những xu hướng thấp hèn thành ra những đức tánh cao cả, trọn cả cái công việc nầy bắt buộc phải có một bản tánh thành thật đă nhận biết được mục đích của ḿnh và nhất định đạt được nó.

 Đó là cái nét đặc biệt căn bản chung cho tất cả những ai ở Sân Ngoài và cũng nên nhấn mạnh nét đặc biệt nầy nổi bật lên một cách rất rơ rệt đối với những ai con mắt đă sáng. Chư huynh đă biết rằng khi nh́n vào trạng thái của ṿng hào quang, người ta đoán được gần hết tánh nết của con người. Ngoài ra một số người trong chư huynh chắc cũng nhớ khi bàn về sự tiến hóa của nhân loại, tôi có nói rằng: Linh hồn khi mới phát triển là một vật chưa có h́nh thái rơ ràng như một đám tinh vân không có chu vi nhất định, không có giới hạn rơ ràng. Khi linh hồn càng tiến hóa, th́ cái đám tinh vân nầy càng có một h́nh dáng rơ ràng, và ṿng hào quang của con người càng có một chu vi nhất định. Thay v́ tan mờ đi trong không gian, thay v́ lần lần biến mất đi trong vùng không khí xung quanh, nó lại nổi bật lên với một chu vi rơ rệt khi cá nhân được trưởng thành. Vậy nếu chư huynh có thể lấy thần nhăn mà nh́n vào những người ở Sân Ngoài, như vậy chư huynh sẽ ngạc nhiên v́ ṿng hào quang của họ có một chu vi rơ ràng, đều đặn, biểu hiệu của sự minh bạch nội tâm mà Linh hồn cá nhân đă đạt được. Tôi nói như thế để chư huynh hiểu rằng mỗi sự tiến bộ của Linh hồn đều được ghi khắc bằng những dấu hiệu rơ ràng không bao giờ có thể lầm lạc được. Không phải do một đặc ân độc đoán mà Linh hồn có được cái địa vị ngày nay, không phải do sự ngẫu nhiên hay tùy thuộc vào một sự việc bất ngờ mà có được địa vị đó. Tŕnh độ tiến hóa của nó là một trạng thái nhất định gồm có những đức tánh và quyền năng đă được hoạch đắc rơ ràng. Người ta nhận biết được quyền năng nầy là do những dấu hiệu nhất định, những chiêm nghiệm đă phát triển nơi ḿnh khả năng có thể nh́n thấy những chất tinh vi tế nhị hơn là vật chất hồng trần, đều nhận rơ được những dấu hiệu đó. Vậy kết quả của tánh thành thật là phát triển cá nhân khiến cho ṿng hào quang có một chu vi rơ rệt. Người ta có thể nói rằng ṿng hào quang rơ ràng nầy là cái dấu hiệu bên ngoài chỉ rơ một trạng thái nội tâm chung cho tất cả những ai ở Sân Ngoài và tuy rằng cái nét đặc biệt nầy có thể nổi bật ở người nầy nhiều hơn ở người kia, nhưng tất cả những ai ở Sân Ngoài đều có nét đặc biệt đó.

Cuốn sách nhỏ rất hay, nhan đề: “Ánh Sáng trên Đường Đạo” đă nói một cách rất hữu lư rằng: Những người chí nguyện ở Sân Ngoài chỉ nhờ cuộc đời điểm đạo cho ḿnh mà thôi. Đó không phải là những cuộc Đại Điểm Đạo rơ ràng, thật sự, sau nầy mới có, không phải là những cấp bực minh bạch ở bên trong Thánh Điện, cấp đầu tiên của những cấp bậc nầy chính là sự bước chân qua những Kim Môn, những cánh cửa bằng vàng. Ở Sân Ngoài, những sự điểm đạo nhỏ liên tiếp đến dạy dỗ người chí nguyện trong khi y sống hằng ngày với thế tục. Người ta có thể nói rằng theo một ư nghĩa rất thực tế, chính đời sống là Đấng cao cả đă ban phép Điểm đạo vậy. Tất cả những biến cố đều đến tấn công thí sinh để thử sức y và phát triển những khả năng của y.

Khi đọc cuốn sách nhỏ “Ánh Sáng trên Đường Đạo” chư huynh sẽ thấy một số điều kiện mà “Những lời giảng lư” nói rằng đă được ghi ở pḥng ngoài, ở phía trước cửa Thánh Điện. Những điều nầy được bày tỏ trong một ngôn ngữ tuy thần bí nhưng ta cũng có thể hiểu được, mặc dù trong một ngôn ngữ thần bí thường có những sự khó khăn phát sanh từ cách hiểu đúng từng chữ theo nghĩa đen thay v́ t́m hiểu những sự thật bên trong mà những chữ đó muốn diễn tả ra. Và bốn Chơn Lư Cao Cả được ghi khắc trong pḥng ngoài là:

            “Trước khi con mắt nh́n thấy được, nó phải ráo lệ.

            Trước khi lỗ tai có thể nghe được, nó phải điếc, không c̣n nhạy cảm nữa.

            Trước khi lời nói có thể được thốt ra trước Chơn Sư, lưỡi phải mất khả năng làm tổn thương kẻ khác.

            Trước khi Linh hồn có thể đứng trước mặt Chơn Sư th́ chân nó phải được rửa sạch trong tâm huyết.”

Và chính cùng một Tác giả xưa kia đă truyền đạt và công bố quyển sách “Ánh Sáng trên Đường Đạo” sau nầy lại viết những lời giảng lư cho sách đó. Những lời giảng lư nầy cần được nghiên cứu thâm sâu, v́ nó giảng giải một phần lớn những sự khó khăn cố hữu của cuốn sách đó và có thể giúp cho sinh viên đừng hiểu theo nghĩa đen, v́ như vậy là nguy hiểm như tôi đă nói. Theo những lời giảng lư nầy câu thứ nhất là:

“Trước khi con mắt nh́n thấy, nó phải ráo lệ” nghĩa là Linh hồn phải ĺa bỏ đời sống của những cảm xúc để bước vào đời sống của sự hiểu biết; Linh hồn không c̣n được sống măi trong một nơi mà luôn luôn làm cho nó bị điên đảo v́ những làn sóng dữ dội phát sanh từ những giác quan, nó phải ĺa bỏ cái cảnh giới bất định đó mà đi vào cảnh giới an tịnh, không hề thay đổi của sự hiểu biết. Những con mắt là những cửa sổ của Linh hồn, những cửa sổ nầy thường bị sương mù của cuộc đời che phủ đi. Nói theo cách khác, những xúc cảm mănh liệt, vui hay buồn, bốc lên như một làn hơi sương mờ che phủ những cửa sổ của Linh hồn, cho nên Linh hồn không thể nh́n qua cửa sổ đó một cách rơ ràng. Cái sương mờ nầy phát sanh từ ngoại cảnh, chớ không phải từ nội tâm, phát sanh từ bản ngả chớ không phải từ Linh hồn, nó là kết quả của một niềm xúc cảm mạnh mẽ, chớ không phải của một sự thông hiểu về đời sống. V́ lư do đó cho nên nó được tượng trưng bằng những giọt lệ, biểu hiệu của một cảm giác mănh liệt, vui hay buồn. Con mắt của Linh hồn không thể nào nh́n rơ ràng được, cho đến ngày chúng trở nên khô lệ, cho tới ngày những cửa sổ của Linh hồn không c̣n bị sương mù nơi ngoại cảnh che phủ, cho tới ngày những cửa sổ nầy để cho ánh sáng của sự hiểu biết chiếu vào một cách rơ ràng. Người ta đă giảng giải cho chúng tôi: Như vậy không có nghĩa là người đệ tử phải trơ trơ, lănh đạm, không biết xúc cảm nữa, mà chỉ có nghĩa là: không một sức mạnh bên nào c̣n có thể làm cho y mất thăng bằng. Như vậy không có nghĩa là y không c̣n đau khổ nữa, không c̣n vui mừng nữa, bởi v́ những nỗi đau khổ hay vui mừng của y sẽ trở nên sâu xa hơn là những sự vui buồn của người thường. Như vậy chỉ có nghĩa giản dị là: sự đau khổ cũng như sự vui mừng không c̣n có thể làm cho y mất cái trạng thái thăng bằng phát sanh từ sự hiểu biết không hề bị lay chuyển mà y đă hoạch đắc được. Và sự hiểu biết nầy chính là sự hiểu biết về những sự việc trường tồn, khiến cho mọi sự giả tạm phù du không c̣n có thể thật sự án mắt của Linh hồn được.

Đối với Chơn lư thứ hai cũng vậy: “Trước khi lỗ tai có thể nghe được, nó phải điếc.” Phải đi đến cảnh giới của sự yên lặng. Và về sau người ta có thể nói rằng tai con người chỉ có thể nghe tiếng nói của các Chơn sư luôn luôn vang rền trên thế gian khi mà nó không c̣n lóng nghe tiếng ồn ào của đời sống bên ngoài nữa. Không phải là Chơn sư ngưng tiếng, v́ Ngài vẫn nói luôn luôn không ngừng. Tiếng nói của Ngài vang rền trong tâm ta. Nhưng những tiếng động đang bao vây Linh hồn của người đệ tử, ầm ĩ ồn ào đến nỗi y không thể nghe được lời nói của Chơn sư, dịu dàng hơn, tiết điệu hơn, thâm sâu hơn, xuyên qua những âm thanh thô trược phát sanh từ giác quan cùng những mối xúc cảm thấp hèn. V́ thế nên trước khi rời bỏ Sân Ngoài, người đệ tử cần phải đạt đến một cảnh giới yên lặng để có thể nghe thấy trong chốc lát cái âm thanh của Chơn lư. Và một khi đạt đến cảnh giới yên lặng nầy rồi, th́ trong một thời gian, người ta có cảm tưởng như mất hết cảm giác, v́ sự yên lặng ngự trị nơi đó, v́ lần đầu tiên, Linh hồn nhận thức được sự yên tĩnh liên tục, không bao giờ bị quấy phá.

Nơi đây, tác giả nói và nhấn mạnh vào những nỗi khó khăn và sự chiến đấu xảy ra khi lần đầu tiên ta nhận thức được sự yên lặng. Chúng ta đă quen sống ở giữa những tiếng xao động chung quanh, cho nên khi sự yên lặng bao trùm lấy Linh hồn th́ nó cũng mang lại một cảm giác trống rỗng hư vô. Giống như khi ta đi xuống một vực thẳm, không có một vật ǵ ở phía dưới để tựa chân, khi ta đi vào trong những miền tối tăm bao phủ Linh hồn như một tấm vải liệm xác chết; đó là một cảm giác hoàn toàn cô độc, triệt để trống rỗng, dường như mọi sự đều sụp đổ, dường như mọi đời sống đều bị tiêu hủy cùng với sự ngưng ngang của tiếng ồn ào của các sanh vật. Người ta nói với chúng ta rằng lúc đó, tuy chính Chơn sư có đứng đấy, cầm lấy bàn tay của người đệ tử, mà người đệ tử vẫn thấy ḿnh như đang ôm khoảng trống rỗng của không gian, dường như y không trông thấy Sư phụ y cùng tất cả những vị tiền bối đă đi trước trên con Đường Đạo, y tự thấy ḿnh bị cô đơn ở giữa khoảng không trung không bám vào đâu được, phía trên trống không, phía dưới trống không, ở xung quanh cũng trống không chẳng có ǵ cả. Và trong cái lúc im lặng đó, đời sống h́nh như ngưng lại; trong lúc im lặng đó, dường như chính Linh hồn cũng ngừng không sống nữa.

Và tiếng nói vang lên từ bờ bên kia sông, xuyên qua cái im lặng nầy; ta nghe được trong sự cô tịch, nổi bật lên giữa những tiếng ồn ào của thế gian. Một khi đă nghe tiếng nói nầy rồi, th́ lỗ tai sẽ luôn luôn nhạy cảm đối với tiết điệu du dương của nó. Không một âm thanh nào của thế gian lại có thể làm tắt tiết điệu du dương nầy mà Linh hồn đă nghe trong sự im lặng. Phải cảm thấy, phải nhận thức được hai chơn lư nầy trước khi có thể đi đến những Kim Môn, những cánh cửa bằng vàng thiệt thọ.

Người chí nguyện phải sống với hai chơn lư nầy trước khi có thể leo lên những nấc thang và đứng trước ngưỡng cửa, trước khi người ta cho phép y bước vào Thánh Điện.

Theo như người ta đă miêu tả trong sách, dường như hai chơn lư c̣n sót lại thuộc về bên trong Thánh Điện hơn là bên ngoài. Vậy mà chúng vẫn được ghi ở pḥng ngoài, v́ ở cái pḥng nhỏ nầy người ta c̣n ghi rất nhiều qui tắc chỉ có thể hoàn toàn thực hiện được ở bờ bên kia sông, những qui tắc dùng d́u dắt người chí nguyện để cho y biết phải hướng những cố gắng của ḿnh về chỗ nào để có thể tự chuẩn bị mà làm việc ở phía bên trong Thánh Điện. V́ theo sự miêu tả th́ dường như hai Chơn Lư Vĩ Đại sau nầy - liên quan đến sự có thể nói và có thể đứng trước mặt các Chơn sư - chỉ có thể được thực hiện sau khi bước qua những Kim Môn, những cánh cửa bằng vàng; tuy nhiên người tân tín đồ vẫn có thể cố gắng làm cho hai chơn lư nầy được phát triển nơi Linh hồn ḿnh ngay ở Sân Ngoài. Vậy hai chơn lư c̣n lại mà những dấu hiệu báo trước hiện ra trong người đệ tử đă đi đến Thềm Thánh Điện là ǵ?

Chơn lư thứ nhất: Có thể nói trước mặt các Chơn sư - nghĩa là Linh hồn cất tiếng kêu gọi Đấng Chí Tôn chưởng quản cung của ḿnh. Lời kêu gọi vùng lên đến chót đỉnh, rồi dội trở lại người đệ tử, vượt đi xa hơn nữa và truyền ra thế giới loài người. Người tân tín đồ cầu xin để được hiểu biết - đó là lời kêu gọi của y, và câu trả lời từ trên cao tuôn xuống cho y có quyền năng truyền bá sự hiểu biết mà y đă nhận được. Y chỉ có thể nói trước mặt các Chơn sư nếu y truyền đạt cho kẻ khác cái kiến thức mà y đă hoạch đắc được, nếu y trở thành một cái khoen trong sợi dây xích nối liền Nơi Cao Nhất với nơi thấp nhất, nếu y khiến cho những kẻ thấp hơn y hiểu biết được những chơn lư mà địa vị của y đă giúp y lănh hội được. V́ thế nên người ta nói rằng ai muốn làm tân tín đồ th́ ngay lúc đó phải trở thành kẻ phụng sự, v́ y chỉ có thể thụ hưởng nếu y bằng ḷng cho ra.

Cái quyền năng của lời nói - không phải lời nói suông bên ngoài thuộc về những cảnh giới thấp, nhưng lời nói thiệt thọ của Linh hồn nầy nói với Linh hồn kia và đă đưa đường chỉ lối cho ai đi t́m chơn lư không phải bằng những câu nói suông, mà bằng cách khiến cho họ hiểu được chơn lư mà những câu, những tiếng đă diễn tả ra một cách thật là bất toàn – cái quyền năng nói được từ Linh hồn nầy với Linh hồn kia chỉ ban cho tân tín đồ khi nào nó sẵn ḷng đem quyền năng ấy ra xử dụng để phụng sự, khi nào nó muốn trở thành một trong những ngọn lửa linh động đang di chuyển trong thế giới loài người và dạy cho họ biết điều huyền vi mà con người đang t́m kiếm.

Sau chót, cái chơn lư cuối cùng dạy ta rằng chỉ ai mà bàn chân đă được rửa sạch trong tâm huyết mới được đứng trước mặt các Chơn sư. Người ta đă nói với chúng ta rằng những giọt lệ tượng trưng cho hơi sương mờ của cuộc đời phát sanh từ những mối xúc cảm mănh liệt. Đến lượt máu của trái tim nó tượng trưng cho chính đời sống vậy. Khi bàn chân của người đệ tử được rửa sạch bằng máu của trái tim, như thế, nghĩa là y không c̣n coi đời sống của y là thuộc riêng của y nữa, mà chỉ muốn ban rải nó ra cho trọn cả thế giới hợp nhất vào đó được. Và v́ sự sống là của cải quí báu nhất của con người nên y phải ban rải nó ra trước khi có thể đứng trước mặt các Đấng đă hy sinh, đă cho ra tất cả. Y không c̣n muốn sống cho riêng ḿnh nữa, y không c̣n muốn sanh ra đời để hưởng những lợi lộc hay những kinh nghiệm mà đời có thể mang đến cho ḿnh nữa. Y đă rửa hai bàn chân của ḿnh trong ḍng máu của trái tim. Y không c̣n muốn sống cho riêng ḿnh, y coi đời sống của ḿnh như là một kho dự trữ được giao phó cho y để làm điều ích lợi cho ṇi giống, để phụng sự nhân loại. Y phải cho ra tất cả những ǵ thuộc về quyền sở hữu của y trước khi có thể đứng trước mặt các Đấng đă triệt để hy sinh.

Bây giờ chư huynh hiểu tại sao tôi đă nói rằng hai chơn lư cuối cùng nầy phải được áp dụng ở bên trong Thánh Điện hơn là ở bên ngoài, v́ sự hy sinh trọn vẹn cả đời sống, sự giải thoát ra khỏi mọi dục vọng, sự từ bỏ mọi của cải tư riêng, từ bỏ bất cứ vật nào không thể biến thành một lễ vật để hiến dâng - sự hy sinh nầy, trong cái tính chất toàn thiện, toàn mỹ của nó là dành riêng cho các vị Cao Cả nhất trong các vị đă đi đến thềm của quả vị Chơn Tiên cao siêu. Đó là một trong những sự chiến thắng cuối cùng của vị La Hán [[18]] chỉ c̣n phải vượt một bực nữa để đạt được sự minh triết hoàn toàn, để đi đến tŕnh độ không c̣n phải học hỏi, không c̣n phải thu thập điều ǵ trong hệ thống vũ trụ của chúng ta nữa. Tuy nhiên, sự biết được chơn lư nầy, về sau chơn lư đó sẽ trở thành một Sự Thật linh động, chỉ có thể giúp sức mà d́u dắt đời sống tín đồ, v́ thế cho nên ta thấy nó được ghi khắc nơi pḥng ngoài, tuy rằng trong thời kỳ chuẩn bị nầy không ai có hy vọng thực hiện được nó một cách trọn vẹn. Khi ta nhận xét về những cấp bậc nầy, chúng dẫn dắt ta đến Thềm Thánh Điện, chúng ta bắt đầu hiểu đôi chút rằng những kẻ đă đứng ngay thềm cửa, sẵn sàng bước qua những Cánh Cửa bằng Vàng, những Kim Môn, phải là những người như thế nào? Họ c̣n có nhiều khuyết điểm, họ c̣n phải hoàn thành nhiều sự việc trong những kiếp vị lai, họ c̣n phải vượt qua bốn cấp bậc vĩ đại nữa trước khi đạt được quả vị Chơn Tiên cao siêu. Nhưng chúng ta thấy rằng họ đều là những người có ư chí quả quyết, có tư cách nhất định, có đời sống tinh khiết, những dục vọng của họ tàn rồi hay sắp sửa tàn, họ tự chủ và hăng hái muốn phụng sự - những người mà đời sống cao thượng đầy tràn những ước vọng trong sạch và cao siêu.

Và bây giờ đi đến thềm cửa, chúng ta hăy thử nh́n vào phía trong đền chốc lát, để có thể hiểu một cách rơ ràng hơn sự ǵ đang chờ đợi con người ở phía sau những Cánh Cửa Vàng, để hiểu tại sao lại bắt buộc phải có những điều kiện như vậy, tại sao ở nơi Sân Ngoài, người chí nguyện phải thực hành những bài mà ta đă học. Chúng ta hăy nh́n trong chốc lát, tuy không được rơ ràng lắm, vào bốn Con Đường Đạo hay bốn cấp bậc của Con Đường Duy Nhất đang đứng xếp hàng ở phía trong Thánh Điện. Ở trước mỗi cấp bậc là một cái cửa lớn, và bốn cái cửa lớn là bốn sự Đại Điểm Đạo. Sự Điểm đạo lần thứ nhất mà chư huynh thấy được miêu tả như là sự Điểm đạo của “Con Người Nhập Lưu” - từ ngữ nầy đă được dùng trong cuốn “Tiếng Nói Vô Thinh” và trong rất nhiều tác phẩm công truyền - là sự bước qua Thềm Thánh Điện, sự bước qua rơ ràng, minh bạch, sự nhất quyết đi vào Thánh Điện, nơi đó người đệ tử đă được điểm đạo không bao giờ c̣n đi trở ra để lại quay về đời sống thế tục. Không bao giờ y c̣n ra khỏi nơi đó nữa, v́ mặc dầu y làm việc ở giữa nhân loại, y vẫn luôn luôn ở trong trung tâm Thánh Điện.

 Sự nhập lưu nầy là một cấp bậc nhất định, rơ ràng, và ở trong những tác phẩm công truyền, chư huynh sẽ thấy rằng người đệ tử đi đến tŕnh độ nầy hăy c̣n tái sinh bảy kiếp nữa. Trong một câu ghi chú trong cuốn “Tiếng Nói Vô Thinh” người ta nói rằng một người đệ tử được nhập lưu ít khi đạt được mục đích trong một kiếp sống, và thường phải cần đến bảy kiếp tái sinh nữa mới vượt qua được những cấp bậc cao nhất. Nhưng trong khi đọc sách, chúng ta nên nhớ rằng không nên hiểu những câu nầy đúng theo nghĩa đen: v́ những kiếp sống chỉ là những hậu quả và không phải bao giờ cũng được đo lường bằng những sự sanh tử trần gian. Có lẽ những kiếp sống nầy không phải là những kiếp đầu thai ở cơi trần mà là những giai đoạn tiến bộ của con người - tuy nhiên chúng có thể hiểu theo nghĩa những kiếp sống hồng trần. Và những kiếp sống chót của người đệ tử kế tiếp nhau không ngừng nghỉ. Y sống từ kiếp nầy sang kiếp khác, luôn luôn tiến hóa, bao giờ cũng thức tỉnh, không bao giờ lăng quên tiền kiếp. Trong khi những kiếp sống nối tiếp nhau như thế, tất cả những nhược điểm hăy c̣n sót lại trong bản chất con người phải được loại trừ lần lần từng cái một, một cách trọn vẹn và quả quyết. Đó không phải là những công việc làm dang dở ở Sân Ngoài, không phải là những sự cố gắng nửa chừng, những sự làm thử và bỏ dở nữa. Ở đây mỗi công việc được khởi đầu phải được hoàn thành trọn vẹn, và dạy chúng ta ở mỗi cấp bậc phải hủy diệt một số chướng ngại nhất định, một số khuyết điểm của bản tánh con người phải được loại trừ triệt để trong khi người đệ tử tiến bước về chỗ toàn thiện toàn mỹ hầu cho Đức Thượng Đế nơi y được biểu lộ hoàn toàn.

Người ta nói Ai vượt qua được sự Điểm đạo lần thứ Nh́ th́ chỉ c̣n phải tái sanh một lần nữa thôi. Y chỉ c̣n phải đầu thai một lần nữa, trước khi chấm dứt chu kỳ sanh tử cưỡng bách của y. Y có thể tự ư mà tái sanh nữa, nhưng đó là tự ư muốn như vậy để phụng sự chớ không phải c̣n bị ràng buộc vào bánh xe luân hồi đâu.

Vượt qua sự Điểm đạo lần thứ Nh́ và đạt được sự Điểm đạo lần thứ Ba, người đệ tử “không c̣n cần phải đầu thai nữa,” v́ cùng trong một kiếp nầy y sẽ lên cấp bậc thứ tư nó sẽ dẫn y đến thềm cửa Niết Bàn; và bắt đầu từ lúc nầy, không c̣n Định luật nào có thể trói buộc Linh hồn vào những cơi hạ giới, v́ tất cả những dây trói buộc y đă bị cắt đứt và Linh hồn được tự do măi măi. Cấp bậc thứ tư là cấp bậc của vị La Hán, nơi đó những sự chướng ngại cuối cùng được hoàn toàn tiêu diệt [[19]].

Chúng ta có thể cố gắng miêu tả những giai đoạn cuối cùng nầy của sự tiến hóa của nhân loại, tức là bốn cấp bậc của sự Điểm đạo không? Chúng ta có thể nhận xét - dù một cách khiếm khuyết - sự tu luyện khiến cho con người có thể vượt qua bốn cái cửa lớn đó, sự cố gắng ở bên kia ngưỡng cửa nó biến đổi hoàn toàn đời sống của con người không? Chúng ta thấy rằng thí sinh c̣n lâu lắm mới có được phẩm hạnh hoàn toàn. Một tia sáng từ bên trong Thánh Điện lọt ra ngoài và chiếu rọi vào những cuốn sách nói c̣n mười mối chướng ngại trong tính chất yếu đuối của con người cần phải bị loại trừ từng cái một. Tôi không thể giảng giải chúng một cách tỉ mỉ cùng chư huynh, v́ điều nầy sẽ dẫn chúng ta đi quá xa. Nơi đây tôi muốn miêu tả Sân Ngoài, chớ không miêu tả những điều huyền vi ở bên trong Thánh Điện. Không đi sâu vào những chi tiết, chúng ta thử đi theo những lời chỉ dẫn nầy và t́m hiểu xem tại sao những vị giữ cửa Điện lại nghiêm khắc như thế, tại sao các Ngài lại bắt chúng ta cố gắng nhiều như thế trước khi ưng thuận mở cửa Đền Thiêng cho chúng ta đi vào? Dường như người ta đă trông thấy dễ dàng rằng những điều kiện đă được miêu tả trong những bài thuyết tŕnh trước phải được thực hiện một phần nào trước khi người chí nguyện bước qua ngưỡng cửa. Một khi bước qua được một cấp bậc để đi về phía bên kia, th́ người đệ tử lại nắm được ở trong tay những quyền năng càng ngày càng lớn. Ở phía bên kia, bên trong Thánh Điện, con mắt của y đă được mở ra, y có thể sống và hành động theo một cách thức mà không bao giờ có thể thực hiện được ở phía bên ngoài thềm cửa. Cách thấy, nghe và hành động của y khiến cho y thành một người khác hẳn những người chung quanh, một người có những quyền năng mà họ không có, có một tầm mắt nh́n mà họ không ngờ được, có những kiến thức mà họ không hiểu nổi. Y phải di chuyển, làm việc giữa họ mà thật ra không phải là một người trong bọn họ nữa, v́ tuy có dự phần vào đời sống chung của họ, y là một kẻ khác biệt hẳn, do bản chất của y. Và nếu như vậy, th́ cái việc bắt buộc người đệ tử phải có một hạnh kiểm vượt mức những người thường, trước khi y được người ta trao cho những quyền năng là một việc rất công b́nh. V́ một khi đă có những quyền năng đó, chúng hoàn toàn thuộc về y, và y có thể tùy ư xử dụng chúng.

Chư huynh hăy thí dụ rằng y c̣n có những nhược điểm rất thông thường của thế tục; như là: những lỗi lầm của những kẻ xung quanh hăy c̣n làm y nổi giận, những việc thường xảy ra trong đời sống hàng ngày c̣n làm được cho y nản ḷng, bối rối; chư huynh thử thí dụ y không làm chủ được sự b́nh tĩnh của ḿnh, y không có một tấm ḷng từ bi luôn luôn tăng trưởng, một tấm ḷng thiện cảm bao la rộng răi, chư huynh thử thí dụ rằng khi bị chửi rủa, y nổi giận chớ không phát tâm từ bi, y quạu quọ chớ không tha thứ, nói tóm lại là y hẹp lượng khoan hồng và không kiên nhẫn - nếu thu nhận một người như vậy vào trong Thánh Điện, nếu đặt vào tay, dù rất ít, những quyền năng phi phàm vượt mức người thường th́ kết quả sẽ ra sao? Người ta sẽ lo ngại hay biết chắc chắn rằng những lỗi lầm bé nhỏ đó - rất thông thường đối với những người thế tục - sẽ xảy ra những tai hại kinh khủng. Nếu một người đệ tử hay nổi giận th́ những quyền năng mới được nảy nở nơi Linh hồn y, cái sức mạnh của ư chí y, cái sức mănh liệt của tư tưởng y nếu không được ngự trị th́ y sẽ là nguồn gốc của sự nguy hiểm cho các đồng loại. Thí dụ y không ḷng khoan dung, y không biết thương xót, không thông cảm với những ai c̣n có những khuyết điểm mà y đă ngự trị được, không hiểu được sự sa ngă là một việc rất dễ dàng, th́ người đă được Điểm đạo sẽ sống như thế nào giữa nhân loại? Y có thể nh́n rơ những tư tưởng, phân biệt những nhược điểm, nh́n thấy cái ṿng hào quang mà chúng ta vừa nói đến ở trên kia, và có thể đọc ở đó như đọc một cuốn sách mở rộng, biết những nét đặc biệt sâu kín của tánh nết mà con người thường phải giấu giếm nhau dưới lớp che đậy bề ngoài, người có thần nhăn nh́n thấy thực trạng của tâm hồn đồng loại ḿnh, chớ không phải dáng điệu mà họ muốn phô trương đâu, một người như vậy rồi th́ sẽ ra sao? Dĩ nhiên không phải là làm một việc chánh đáng hay hữu ích khi trao quyền năng như vậy – và đó là một quyền năng nhỏ bé nhất của kẻ đă được Điểm đạo - cho một người mà những sự thử thách vốn chính y đă trải qua chưa tập cho y biết thương xót những người yếu đuối hơn, một kẻ mà sự hồi ức lại những sự lầm lỗi cũ của chính ḿnh y không khiến y tự cúi xuống để cứu giúp và tội nghiệp cho người tội lỗi nhất trong đám đông gặp trên đường.

 Thật là một điều công bằng và tốt lành khi bắt buộc người đệ tử phải có đầy đủ những điều kiện gắt gao bất di bất dịch đó trước khi bước qua Thềm Thánh Điện. Y bắt buộc phải loại trừ một phần lớn những lỗi lầm thông thường của con người trước khi được thu nhận vào Thánh Điện oai linh là nơi chỉ để dành cho những người phụ tá đă hiến ḿnh cho công việc phụng sự và cơi ḷng tràn trề t́nh yêu thương nhân loại. Và cái công việc mà y phải hoàn thành có vẻ vĩ đại đến nỗi ở bước đầu, y phải thực hiện được một sự tiến bộ rơ ràng, đó là một điều cần thiết. V́ công việc nầy chính là việc tiêu diệt mọi dấu vết của những nhược điểm của con người, hoạch đắc tất cả những sự hiểu biết trong giới hạn vũ trụ của chúng ta, phát triển nơi bản thân những quyền năng có thể để sự hiểu biết ở trước mặt ḿnh và cần tự chú định vào một phương hướng nào, th́ ngay khi đó thu thập được tất cả những ǵ đáng hiểu.

Đó quả thật là cái trạng thái của vị Chơn Tiên. Vị Chơn Tiên là “Người không c̣n học hỏi về một điều ǵ nữa” trong thái dương hệ nầy và quả vị Chơn Tiên chỉ là đoạn chót của con Đường Đạo ở bên trong Thánh Điện mà hiện giờ chúng ta đang xem xét đây, mà chúng ta phải vượt qua trong vài kiếp ngắn ngủi – đó là một công việc vĩ đại, một sự thực hiện cao siêu đến nỗi nếu không có những người đă hoàn thành được nó trong dĩ văng, nếu không có kẻ khác đang hoàn thành nó trong hiện tại, th́ nó sẽ dường như là không sao thực hiện nổi. Theo quan điểm của con người tầm thường, không thể nào làm được khi ấn định cho năm, bảy kiếp sống ngắn ngủi phải thực hiện một sự tiến bộ phi thường, nó đem người đệ tử từ một tŕnh độ tương đối thấp kém của sự Điểm đạo lần thứ nhất tiến lên đến chót đỉnh cao siêu của các vị Chơn Tiên toàn thiện, các Ngài là những đóa hoa, là kết quả rực rỡ của sự tiến hóa của nhân loại. Và nếu đó là cái công việc khó khăn mà chúng ta phải hoàn thành, nếu trong con người của vị La Hán sắp bước qua kỳ Điểm Đạo chót không c̣n một dấu vết ǵ của sự yếu đuối và sự vô minh của thế tục, th́ thật không có ǵ là đáng ngạc nhiên khi phải cố gắng rất nhiều ngay từ khi chưa được bước qua Thềm Thánh Điện, không có ǵ là đáng ngạc nhiên nếu những nền móng mà chúng ta đă nói đến ở trên kia – chúng phải chịu đựng cái sức nặng của một ṭa lầu đài khổng lồ - th́ chúng phải thật chắc chắn vững vàng.

Chư huynh hăy tưởng tượng rằng: một khi con mắt đă được mở sáng th́ cái công việc phải làm lại có vẻ như rộng lớn, vĩ đại hơn là khi mắt c̣n bị mù quáng; đối với những người đă đi vào Đường Đạo, th́ đường nầy có vẻ như cao và dài hơn đối với con mắt lờ mờ của những kẻ chưa đi đến Thềm Thánh Điện. V́ người đệ tử nh́n thấy những vị đứng ở trên cao một cách rơ ràng hơn, y phải đo lường một cách đúng đắn hơn cái quăng đường phân cách y và các Ngài, những sự mà y đă thực hiện được thật là vô cùng mờ tối; tất cả mọi sự cố gắng lớn lao của y thật là yếu đuối và bé nhỏ dưới ánh sáng của Thần lực tuyệt vời của các Ngài; sự vô minh của y thật là không bờ bến trước ánh sáng của sự Minh triết tuyệt diệu của các Ngài. Như vậy mà giữa y và các Ngài chỉ cách nhau có bốn cấp bậc mà thôi, bốn cấp bậc phải vượt qua trong năm, bảy kiếp nhanh chóng. Nhưng những t́nh trạng đă khác biệt nhau biết bao. Chỉ riêng điều nầy cũng khiến ta có thể chứng minh được rằng có thể thành đạo được. V́ chúng ta cảm thấy ngay sau khi bước qua Thềm Thánh Điện, những ai đă thành đạo và những ai đang thành đạo, đều sống một cuộc đời rất khác biệt, cho nên cái điều không thể thực hiện ở phía ngoài có thể thực hiện được ở phía trong, và cái điều xem dường như rất khó khăn lại được hoàn thành một cách tương đối dễ dàng.

 Tuy rằng chúng ta chưa có thể được một cách trọn vẹn tất cả những điều kiện mới mẻ đang chờ đợi chúng ta ở phía bên kia ngưỡng cửa, chúng ta dường như cũng biết được vài ba điều kiện đó, chúng chứng minh rằng đời sống bên trong Thánh Điện thật là khác với đời sống bên ngoài. Cái sự kiện đầu tiên nổi bật lên, ấy là những người ở bên trong Thánh Điện đă hiểu - và chữ “hiểu” nầy bao gồm cả một thế giới. Chư huynh đă biết những câu mà tôi đă cố ư không nói đến ở chương trước, khi tôi thuật lại với chư huynh bài ca chiến thắng, do Đức Phật đă thốt ra khi Ngài tuyên bố rằng sự nô lệ đă được chấm dứt và sự giải thoát đă được thực hiện; chư huynh biết rằng lời ca nầy nói với những người ở thế gian nghe để cho họ biết cái nguyên nhân sự đau khổ của nhân loại và sự diệt khổ phát sanh từ sự Minh triết đă nhận thấy Chơn lư!

“Hỡi các người đang đau khổ, các người hăy biết rằng:

“Chính các người tự ḿnh hành tội ḿnh, tự ḿnh đày đọa ḿnh. Không có một sức mạnh nào trói buộc các người đâu. Không có một ư chí nào khác ràng buộc các người vào bánh xe sanh tử cả.”

 Ai đă bước qua Thềm Thánh Điện đều biết rằng những lời nói nầy rất đúng với sự thật. Con người tự làm khổ lấy ḿnh chớ không có sự ǵ trói buộc y cả. Hiểu biết được sự kiện nầy, con mắt người đệ tử thấy cục diện thế giới được thay đổi hẳn; và tất cả những nỗi khó khăn của Con Đường Đạo đều biến đổi trạng thái. V́ một khi chúng ta cảm thấy được những nỗi lo buồn và những sự khó khăn của cuộc đời nầy sanh ra từ sự vô minh; con người phải đau khổ, v́ y không biết được rằng y phải luân hồi từ đời nầy sang đời khác, và v́ vô minh cho nên y tiến hóa chậm chạp như vậy; một khi chúng ta biết rằng v́ y không hiểu biết cho nên đời sống đối với y không có hữu ích ǵ lắm, và y bị trói buộc vào bánh xe sinh tử luân hồi, v́ y bị mù quáng, v́ y không biết rằng y có thể được giải thoát nếu y muốn tin chắc như vậy; một khi đă hiểu được những sự kiện nầy rồi (nơi đây không phải là tận mắt nh́n của một nhà hiền triết đă được giác ngộ, mà chính là một quan niệm khá rơ ràng để khiến ta vững ḷng tin) th́ cả thế giới đều thay h́nh đổi dạng trước mắt của người đệ tử đă bước qua Thềm Thánh Điện. Và khi y quay về phía sau nh́n đám đông nhân loại, với tất cả những nỗi buồn rầu và khốn cùng của họ, mắt tràn lệ thảm và cơi ḷng tan nát v́ đau khổ; y biết rằng những nỗi đau khổ nầy sẽ chấm dứt và tiêu diệt sự vô minh đem đến sự tiêu diệt các đau khổ. Nỗi khốn cùng của loài người không c̣n có tính cách năo nùng bi đát nữa; và tuy rằng hăy c̣n buồn rầu, người đệ tử không c̣n thất vọng nữa; c̣n hơn là hy vọng, ấy là sự tin chắc; c̣n hơn là sự chờ đợi buổi b́nh minh, ấy là sự nh́n ngay thấy ở nơi bản thể ḿnh mặt trời ló dạng, huy hoàng rực rỡ, và chắc chắn về sau nầy ánh dương quang chiếu diệu cho tất cả mọi người.

C̣n nhiều sự thay đổi khác nữa nơi người đệ tử đă vượt qua Thềm Thánh Điện. Một trong những ân huệ lớn lao nhất mà sự Điểm đạo ban cho người đệ tử là có được một trạng thái ư thức luôn luôn sáng suốt không bao giờ bị đứt đoạn, sự chết cũng không có ảnh hưởng ǵ đối với ư thức đó, sự sinh cũng không làm cho nó quên lăng được. Xuyên qua những kiếp sống đang chờ đợi y, tâm thức cao cả khi đă hoạch đắc được rồi th́ không bao giờ có thể bỏ mất đi hay là mờ ám được. Sự thật là cái tâm thức cao cả của Linh hồn một khi đă phát khởi nơi con người th́ không bao giờ c̣n có thể bị mất đi, nhưng nó không thể hiện ra trong đầu óc của kẻ nào chưa bước qua Thềm Thánh Điện. C̣n ở phía bên kia, ở bên trong Thánh Điện, tâm thức cao cả là một sự hiểu biết không bao giờ đứt đoạn, nên Linh hồn có thể ngó trước và xem sau, và tự cảm thấy ḿnh mạnh mẽ v́ đă biết được Chơn Nhơn trường sanh bất tử. Chư huynh thử xét coi đời y v́ thế mà sẽ được thay đổi biết bao. Con người thường khó thoát khỏi hai mối đau khổ lớn lao của cuộc đời. Đó là ǵ vậy? - Hai mối đau khổ ghê gớm nhất đă làm tan nát và đang làm tan nát biết bao nhiêu tấm ḷng, đó là nỗi đau khổ của sự sanh ly và nỗi đau khổ của sự tử biệt - sự sanh ly do không gian, khi hàng trăm ngh́n dặm đường chia cách hai người bạn, sự tử biệt do Thần Chết buông tấm màn âm u giữa người đang sống nơi hồng trần và người đă thác. Nhưng đối với ai đă vượt qua Thềm Thánh Điện, sự sanh ly và tử biệt không c̣n nữa như khi xưa, như hồi y c̣n sống nơi thế tục. Y có thể cảm thấy sự sanh ly, tử biệt nầy đến một mức độ nào đó, v́ cái chướng ngại do sự vô minh chưa được hoàn toàn tiêu diệt, y c̣n có thể bị đau khổ v́ sự sanh ly tử biệt, nhưng sự đau đớn nầy không thể bao trùm trọn vẹn lên đời sống thiệt thọ của y, nó không c̣n có thể làm cho tâm thức bị đứt quăng. Chỉ khi nào y sống trong xác thân y mới bị chia ly; và y có thể tự ư ĺa bỏ xác thân đó để đi đến cái nơi mà không gian và thời gian không c̣n ảnh hưởng được nữa. V́ thế cho nên hai mối đau khổ lớn lao của con người từ nay bị hoàn toàn xóa bỏ trong những kiếp vị lai của y. Y không c̣n mất một người bạn nào cả, sự chết không c̣n có thể cướp mất của y những người thân yêu đă dính dấp với y nhờ những sợi dây liên lạc của đời sống thiệt thọ. Đối với ta không có sự sanh ly, tử biệt; dưới h́nh thức đáng ghê sợ nhất, hai nỗi đau khổ nầy của dĩ văng đă bị hoàn toàn tiêu diệt.

 Và như vậy chưa phải là đă hết đâu. Không những cái lương tri liên tục nầy làm cho sự phân ly không c̣n có thể xảy ra nữa, nhưng nó c̣n có nghĩa là trong những kiếp sống vị lai đang chờ đợi y, y không c̣n có thể trở lại trạng thái xưa kia của y trong dĩ văng nữa. Y sẽ không c̣n trở về với đời sống thế tục, vô tâm lăng phí nửa kiếp người v́ không biết là ḿnh đang t́m kiếm cái chi đây. Y không c̣n tái sanh trong sự vô minh, không biết đến Chơn lư, y không c̣n bị tấm màn vật chất che phủ làm cho mù quáng và không nhận thức được mục đích thiệt thọ của cuộc đời. Quả thật, y sẽ tái sanh nhưng tái sanh trong sự hiểu biết, y sẽ tái sanh để tiến bộ; và bây giờ nếu sự tiến bộ của y bị chậm lại, nếu y không tiến bước một cách liên tục, th́ đó chính là do lỗi của y. Y đă hoạch đắc được cái lương tri nó khiến cho y có thể tiến bộ được; cho nên nếu có sự ngưng trệ hay chậm chạp, th́ đó là v́ tại y, chớ không phải tại sự bắt buộc của cảnh ngộ.

Một sự thay đổi nữa phát sanh từ những mối t́nh bằng hữu mới mẻ mà người đệ tử tạo ra; không một đám mây nào có thể khuấy rối được những tấm t́nh bằng hữu nầy, sự nghi ngờ và ḷng hiềm nghi không thể phạm đến nó, nó bay lượn lên trên những đám mây mù của thế tục, ở nơi cao siêu nầy sự vật ở hạ giới không có chỗ đứng và không thể quấy nhiễu Linh hồn nữa. V́ khi đi vào Thánh Điện, được giao thiệp với các đại Giáo chủ, khi bước qua ngưỡng cửa, mắt y được trông thấy các vị Chơn sư, và chỉ nội một việc tiếp xúc thanh cao như thế cũng đủ thay đổi đời sống của y măi măi. Y đă tiếp xúc được với sự Chơn thật Vĩnh cửu th́ những sự phù du không c̣n có thể lung lạc được y như những ngày chưa biết được Thượng Đế vô thủy vô chung. Chân y từ đây đă được măi măi đứng vững trên tảng đá, và những làn sóng sẽ không c̣n có thể lôi cuốn y đi và làm cho y phải vùng vẫy dưới biển cả đang nổi sóng quay cuồng.

V́ thế ở phía bên kia thềm, dù công việc phải làm có vẻ vĩ đại đến đâu đi nữa, những điều kiện đă khác hẳn với thuở trước, cho nên người ta có thể thực hiện được công việc nầy, và chúng ta bắt đầu hiểu v́ sao xưa kia nó đă được hoàn thành, và ngày nay nó đang được hoàn thành. Chúng ta bắt đầu hiểu được rằng với những sự thay đổi lớn lao như thế, người ta có thể đi theo Con Đường Đạo đến cùng, dù nó có dài rộng, bao la bát ngát đến đâu; dù những cấp bậc trên sườn núi dắt dẫn Linh hồn lên đến những cảnh giới vô tận vô biên; người ta cũng có thể vượt qua chúng nó một cách vô cùng nhanh chóng trong những điều kiện rất khác hơn trước, khi mà tất cả những quyền năng của Linh hồn được phát triển, trong khi bóng tối tiêu tan và ánh sáng hiện ra.

Khi nhận xét những cấp bậc tối cao mà con người phải vượt qua, khi xem xét những chướng ngại cần phải được tiêu hủy, chúng ta thấy rằng những giai đoạn cuối cùng của sự yếu đuối của con người lần lần tan mất đi hầu để cho ánh sáng của Linh hồn mạnh mẽ, trầm tĩnh và trong sạch chiếu sáng. Cái huyễn tưởng về bản ngă thấp hèn tiêu tan và tất cả mọi người đều được coi như là được hợp nhất với Chơn Ngă. Sự nghi ngờ biến mất và được thay thế bằng sự hiểu biết khi thần trí đă nhận biết được Chơn lư th́ sự nghi ngờ không sao tồn tại được. Chẳng bao lâu, Linh hồn sẽ không c̣n tùy thuộc vào những ngoại vật phù du nữa. Trong khi y được tiếp xúc sâu xa với những điều thực tế linh động, th́ ngoại vật đều trở về với vị trí thật sự của nó; vẻ bề ngoài không c̣n thật là quan trọng nữa, và những sự việc xưa nay vẫn chia rẽ con người bây giờ y biết là những bóng mờ, chớ không phải là những sự thật nữa. Tất cả những sự sai biệt giữa các tôn giáo, giữa các lễ bái có ít nhiều hiệu quả, tất cả những tục lệ công truyền rất khác nhau đều thuộc về ngoại giới và chúng chỉ là những bức tường ảo ảnh dựng lên để chia rẽ các Linh hồn mà thôi. Linh hồn đang tự học sẽ nh́n thấy các mối chướng ngại tối tăm nầy sụp đổ, và những dấu vết của sự yếu đuối của con người tiêu tan và không bao giờ trở lại nữa.

Kế tiếp, những quyền năng của Linh hồn, thị giác và thính giác được phát triển, những sự hiểu biết mà từ trước đến nay không ai ngờ bỗng hiện ra tứ phía trong cái trí; cái trí trở nên hoàn toàn sáng suốt. Giác quan không c̣n có giới hạn như ở cơi trần nữa. Không c̣n có sự biệt lập của một vũ trụ như xưa kia, chỉ thỉnh thoảng mới để lọt ra ngoài chỗ nầy, chỗ kia một mảnh vụn dưới h́nh thức là sự hiểu biết mà thôi. Từ mọi phía, sự hiểu biết liền hiện ra, và trọn cả bề mặt của Linh hồn đều trở nên thọ cảm lẹ làng cho nên sự hoạch đắc sự hiểu biết giống như triều lưu sanh hóa luôn luôn dâng lên cao, như một bầu không khí chói sáng thấm nhuần Linh hồn đang tự mở rộng ra tứ phía để thu nhận bầu không khí đó.

Xa hơn nữa, ta thấy Linh hồn tự giải thoát những dục vọng cuối cùng hăy c̣n bám víu vào nó, đó là những đám mây mong manh, những bóng tối cuối cùng của đời sống hồng trần c̣n có thể ràng buộc Linh hồn. Nhưng khi ta đă đi đến sự Điểm đạo cuối cùng, sự Điểm đạo nầy thấp hơn cấp tối cao một bậc và làm cho người đệ tử thành một vị La Hán, chúng ta thấy không thể nào quan niệm được rằng ở một trạng thái cao siêu như thế mà c̣n có những mối chướng ngại và những điều không tinh khiết. Người ta đă viết một cách rất hữu lư rằng con đường của vị La Hán giống như đường của con chim bay trên không gian; giống như chim, Ngài đi mà không để dấu vết lại, dường như Ngài bay bổng mà không đụng chạm vào đâu, không gặp những chướng ngại trong khi Ngài hành động trên từng cao của không gian. Từ trên cảnh giới nầy, một cảm giác an lạc tuyệt vời được ban rải xuống. V́ người ta nói với chúng ta rằng: không một sự ǵ c̣n có thể làm cho Ngài chinh ḷng, không một sự ǵ c̣n có thể hay làm lay chuyển Ngài được nữa, những trận dông tố của trần ai không phạm đến Ngài được. Ngài sống trong một cảnh thanh tịnh vô biên, trong sự an lạc mà không một sự ǵ có thể phá khuấy được. Những ai đă biết được trạng thái đó đều rán miêu tả nó; họ đă nói về những đặc điểm của những người cao như vậy, dĩ nhiên là bằng những danh từ vụng về, thiếu thốn, như thường thấy trong ngôn ngữ của loài người, và những tiếng nói lên dường như chỉ phản chiếu trạng thái tối cao ấy một cách yếu ớt mà thôi. Họ nói rằng:

“Vị La Hán rộng lượng, khoan dung như quả địa cầu, như tiếng sét của thần Indra. Ngài giống như một cái hồ trong vắt không có bùn nhơ, Ngài không c̣n phải tái sinh nữa. Tư tưởng của Ngài yên tĩnh, lời nói và hành động của Ngài cũng b́nh tĩnh, Ngài nhờ sự thông hiểu Chơn lư mới được giải thoát, khi mà Ngài nhờ như thế nên trở thành một người trầm lặng.”

Và dường như từ sự trầm lặng nầy, chúng ta cảm thấy một cảm giác an lạc, yên tịnh, b́nh thản, bất biến ban rải xuống; không một sự ǵ có thể thay đổi hay phá rối được nó, và chúng ta hiểu tại sao một người như thế được miêu tả như sau:

 “Người nào đă hoàn thành cuộc du lịch của ḿnh và đă ĺa bỏ sự đau khổ; người nào đă tự giải thoát trên mọi phương diện và đă loại trừ mọi chướng ngại, th́ không c̣n phải đau khổ nữa.” [[20]]

 Đó là vị La Hán đứng trên chót vót của Con Đường Đạo, đó là vị trí cần phải bước thêm một bước nữa để đến tŕnh độ không c̣n cái chi để học hỏi trong Thái dương hệ nầy; đó là mục đích của Con Đường Đạo mà tất cả mọi người đều có thể noi theo; đó là đoạn chót của sự chiến đấu, và đoạn chót nầy là sự an lạc hoàn toàn.

 Trong khi miêu tả những giai đoạn của Con Đường Nhập Môn, những danh từ vụng về mà nói về những điều đang chờ đợi chúng ta ở phía bên kia những Kim Môn, những cánh cửa bằng vàng, có đôi khi tôi tỏ ra quá nghiêm khắc chăng? Có đôi khi tôi đă miêu tả Đường Đạo với những màu sắc đen tối quá chăng? Nếu có như vậy, đó là lỗi tại tôi, chớ không phải tại Con Đường Đạo; nếu có vậy th́ tại diễn giả bất tài chớ không phải tại những điều mà tôi rán miêu tả một cách khuyết điểm. V́ tuy có sự khó khăn, có sự chiến đấu và có sự đau khổ, nhưng thật vậy, ai đă vào Sân Ngoài - chớ không cần phải nói ǵ về những người đă vượt qua cửa Kim Môn - một khi đă vào đến Sân Ngoài th́ tất cả các kho tàng của trần gian cũng không c̣n quyền năng cám dỗ họ phải đi trở xuống vị trí cũ của họ? Và đối với những ai đă bước qua thềm cửa, th́ hỏi có một niềm vui nào, một lời hứa hẹn nào của trần gian lại c̣n có thể sai khiến họ quay nh́n lại cơi đời mà họ đă bỏ, dù chỉ trong giây lát? V́ những nỗi khó khăn của Con Đường Đạo đang ở trước mắt ta đây c̣n đáng giá hơn là những niềm vui của hồng trần, những sự đau khổ của con đường nầy c̣n vinh quang hơn những sự thịnh vượng của thế gian. Nếu chư huynh có thể thâu hết, trong một kiếp người, tất cả những niềm vui mà cơi trần có thể hiến dâng, nếu chư huynh để cho trọn đời chứa toàn thú vui với cái khả năng thụ hưởng không ngừng, không nghỉ, nếu trong một kiếp người, chư huynh có thể thu góp mọi thú vui của giác quan, mọi thú vui của trí thức mà con người có thể hưởng được; nếu chư huynh có thể xóa bỏ được mọi dấu vết của sự đau khổ và mệt mỏi. Nếu chư huynh có thể lấy điều đó làm một đời sống lư tưởng như là cơi đời có thể cung cấp cho chư huynh một lư tưởng như vậy; nếu chư huynh mang tất cả những thứ ấy mà so sánh với những cấp bậc của Con Đường Đạo, mặc dù ở phía ngoài nh́n vào, những cấp bậc nầy có vẻ như nghiêm khắc, khó khăn đến đâu đi nữa, đời sống đầy những thú vui hồng trần nầy có vẻ như ti tiện và đen tối, những tiết điệu du dương của cơi trần giống như những âm thanh hỗn độn nếu đem so sánh chúng với những cung đàn tuyệt diệu đang vang lên ở cơi cao siêu. V́ trên Con Đường Đạo nầy, mỗi khi tiến về phía trước th́ không làm sao c̣n lùi lại phía sau được nữa, mỗi sự đau khổ mà ta phải chịu, dù sâu xa đến đâu mặc ḷng, cũng là điều tốt lành, v́ đă dạy cho ta được bài học.

 Và khi sự vô minh được giảm bớt đi, th́ Con Đường Đạo trở nên sáng suốt hơn trước, khi mà sự yếu đuối tiêu tan đi, th́ Con Đường Đạo được trở nên yên tĩnh hơn trước; khi những làn rung động hồng trần không có thể quấy phá và làm mếch ḷng ta nữa, th́ Con Đường Đạo trở nên b́nh thản êm ả hơn. Riêng chỉ có những Đấng đă thành đạo mới có thể nói rằng ở mức cao nhất của con đường nầy có những ǵ; chỉ riêng những Đấng cao cả đang đứng ở chót đỉnh để đợi chờ chúng ta trải qua những thế kỷ mới có thể nói lên điều đó được. Nhưng những kẻ mới đặt chân lên những giai đoạn thấp đều biết rằng những nỗi buồn của Con Đường Đạo lại là những niềm vui khi ta so sánh chúng với những thú vui hồng trần và cái bông hoa bé nhỏ nhất mọc lên trên Đường Đạo có giá trị tương đương với tất cả những bảo vật ở thế gian. Và cái ánh sáng luôn luôn soi tỏ Đường Đạo là như thế đó, khi người đệ tử càng ngày càng tiến bước và chỉ một tia sáng của nó thôi cũng đủ làm cho lu mờ ánh sáng của Thái dương hệ ở trần thế. Những ai đi trên con đường nầy đều biết sự an tịnh không thể tưởng tượng được, sự hoan lạc mà không một nỗi khốn khó nào của cơi trần làm cho tiêu diệt được. Họ an hưởng một sự nhàn hạ vô biên trên một tảng đá mà không một trận địa chấn nào có thể làm cho tan vỡ và Niềm Chí Phước tức là hạnh phúc tuyệt vời luôn luôn đang ngự trị trong Thánh Điện.

 

HẾT

 

đầu trang cuối trang mục lục lời nói đầu  phần 1 2 3 4 5 



[[1]] Con đường tấn hóa của nhân loại trong chu kỳ hiện lại là phải đi bảy lần ṿng quanh một dăy hành tinh có bảy bầu. Trên mỗi bầu, con người phải ở lại nhiều triệu năm và có 49 ln ở lại như vậy: tất cả có bảy bầu; trên mỗi bầu nhân loại phải ở lại bảy lần.

[[2]] Một cuộc tuần hoàn là sự đi ṿng quanh một dăy hành tinh gồm bảy bầu.

[[3]] Lưỡi guơm thần chạm vào đâu sẽ làm tan ảo ảnh nơi đó và bắt mọi vật phải hiện nguyên h́nh.

[[4]] Yogui.

[[5]] La Voixe du Silence (Tiếng nói Vô Thinh) trang 41

[[6]-2] Tiếng nói Vô Thinh (La Voix du Silence trang 14 – 43)

[[7]] La voix du silence, trang 56. (Tiếng Nói Vô Thinh)

[[8]] Kinh Kathopanishad II 20 trong 9 cuốn kinh Upanishad, bản dịch của ông L. Marcault.

[[9]] Tiếng Nói Vô Thinh (La Voix du Silence), trang 42.

[[10]] Chhāndogya Upanishad III, 14 – 1.

[[11]] Thư viết cho dân chúng thành Corinthe III, 18.

[[12]] Kounti: Mẹ của ba vị Thần minh Ardjouna, Bhima và Souddhichthrita.

[2] Thần chú đây là một phương thức cầu đảo mà người ta đọc trong khi dâng lễ vật cúng tế. Những lời nói trong khi hành lễ của Cơ đốc giáo là những câu chân ngôn đối với người Ấn Độ.

[[14]] La Sagess Antique (Minh triết Cổ truyền) Chương X: Định luật Hy Sinh.

[[15]] Anandamayakosha.

[[16]] Nguyên văn tiếng Anh là earnestness; chúng tôi không thể t́m thấy được một danh từ tương xứng mà dịch chữ nầy cho đúng với nghĩa của nó nơi đây. Chữ nầy có nghĩa là tinh hoa của ḷng nhiệt thành, của sự chú ư, của ḷng sốt sắng, của tánh ngay thẳng, của tánh trang nghiêm, của sự siêng năng nhanh nhẹn, v.v… Người ta sẽ có được một ư niệm đúng đắn về sự thành thật nếu coi nó như là tiếng vắn tắt để chỉ định câu: “Đức tánh của một người thành thật mà làm cái công việc ấy.” Một người như vậy không c̣n là một người làm việc theo sở thích riêng của ḿnh, theo lối tài tử nữa. (Chú thích của dịch giả Pháp văn).  

[[17]] Hành khất. Tên gọi của các vị tu sĩ Phật Giáo.

 

[[18]] Xin đọc quyển “Sagesse Antique” (Minh Triết Cổ Truyền), chương XI “Ascension Humaine” (Sự tiến bộ của con người).

 

[[19]] Để khảo cứu về những giai đoạn khác nhau trong sự Điểm đạo, xin coi “Con Đường của Người Đệ Tử” và chương XI của “La Sagesse Antique” (Minh Triết Cổ Truyền): “Sự tiến hóa của con người.”

 

[[20]] Những câu trích được lấy từ kinh Dhammapada, chương VII, “Vị La Hán”.

đầu trang cuối trang mục lục lời nói đầu  phần 1 2 3 4 5

 HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  BOOKS  MAGAZINES