|
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES
|
|
|
Dịch giả:
Nguyễn văn Minh và Huỳnh văn Tuất
ÁNH ĐẠO
TÙNG THƯ
“Đức Giám Mục Leadbeater người đă giáo huấn tôi, và ban ân cho tôi nhiều hơn là tôi có thể đền đáp lại”.
J.J. VAN DER LEEW
Tôi viết các trang nầy khi tâm thức Chơn Ngă bừng
sáng nơi tôi khiến
trong khoảnh khắc tôi nhận ngay được bao kiến thức, nhưng các kiến
thức này cần rất nhiều ngày để trở thành sự thật và nhiều trang giấy
để được giải bày.
Tôi không có công ǵ trong việc truyền bá các giáo lư nầy; tôi nhận
được – cũng như chúng ta nhận được mọi điều trên CON ĐƯỜNG ĐẠO – rồi
chỉ phổ biến lại với hy vọng các giáo lư ấy giúp ích mọi người cũng
như đă giúp tôi.
LỜI GIẢI
Trong h́nh kế bên, các độc giả thấy ba con ngựa kéo một chiếc xe đưa
Chơn Nhơn về Quê cũ.
Chơn Nhơn ấy là chúng ta. Chúng ta đang phản bổn, huờn nguyên nghĩa
là đang tiến trên con đường trở về quê hương của chúng ta ở một cơi
thiêng liêng. Chúng ta là những “cùng tử” đang trở về quê Cha như đă
nói trong kinh Pháp Hoa.
Trên con đường tiến hóa nầy, chúng ta phải nhờ sức ba con ngựa, như
trên con đường thỉnh kinh, Tam Tạng phải có ba đồ đệ pḥ tŕ.
Ba con ngựa hay ba đồ đệ nầy tượng trưng ba thể mà chúng ta dùng để
sống ở các cơi biểu hiện:
-
thể xác ở cơi Trần
-
thể vía ở cơi Trung giới, sau khi từ giả cơi Trần
-
thể trí ở cơi Thượng giới, sau khi từ giả cơi Trung giới và trước
khi luân hồi trở xuống trần gian.
Đặc tính các thể nầy được tả rất khéo trong truyện Tây Du: thể xác
là Sa Tăng ngớ ngẩn; thể vía là Bát Giới háo sắc, mê ngủ, lười
biếng, ham ăn giống như lợn; thể trí là Tôn Hành Giả lăng xăng nhảy
nhót như khỉ, lại c̣n ngạo mạn, khinh dễ Phật Trời đến dám đại náo
Thiên Cung. V́ vậy các nhân vật nầy phải được dạy dỗ, huấn luyện
nhiều năm để cải tà, qui chánh, và theo pḥ Tam Tạng thỉnh kinh.
Các thể của chúng ta cũng thế, chúng cũng cần được huấn luyện nhiều
năm mới chịu phục vụ Chơn Nhơn trên con đường tiến hóa. Sự huấn
luyện nầy rất khó khăn v́ lúc đầu, Chơn Nhơn quên nguồn gốc thiêng
liêng của ḿnh. Trong giai đoạn nầy, nó tự đồng hóa với ba thể nên
chỉ biết nuông chiều, thỏa măn chúng. Nhưng một ngày kia, nó giác
ngộ, biết chúng không phải là ḿnh mà chỉ là những dụng cụ, là ba
con ngựa của ḿnh. Chừng đó, Chơn Nhơn tách ra, bước lên địa vị Chủ
Nhơn và bắt đầu huấn luyện chúng. Sự huấn luyện nầy thường biến
thành những trận chiến đấu gay go giữa Chơn Nhơn và phàm ngă do ba
thể ương ngạnh tạo thành, và chỉ chấm dứt khi nào ba thể đă thuần.
Đến đây con đường tiến hóa chuyển sang một giai đoạn mới trong đó
con người sống với tâm thức Chơn Nhơn để tiến đến sự điểm đạo lần
thứ nhất.
Trên đây là một vài điều nên biết qua để đọc quyển sách nầy được dễ.
Dịch giả -----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
THẢM KỊCH CỦA LINH HỒN BỊ ĐÀY
Con đường
Huyền Bí Học thường được gọi là con Đường Đau Khổ.
Thật ra,
không có lư do nào để xem đó là con Đường Đau Khổ thay v́ con Đường
Vui Sướng, v́ cùng một kết quả, có khi phàm ngă thấp hèn đau khổ mà
Chơn Ngă cao thượng lại vui.
Tánh cách
vui vẻ hay cực nhọc của các kinh nghiệm tùy phương diện quan sát của
chúng ta. Trên con Đường Huyền Bí Học, mục đích cấp thời là thực
hiện sự ḥa hợp giữa Phàm Ngă với Chơn Nhơn, và sự hợp nhất nầy chỉ
có thể thực hiện vào kỳ Điểm Đạo lần thứ nhất. Trong lịch sử linh
hồn con người, kể từ lúc được cá thể hóa, không có biến cố nào quan
trọng bằng sự Điểm Đạo v́ sự kiện nầy là bước đầu của một đời sống
mới, đời sống ư thức trong con Người Thật hay Chơn Nhơn.
SỰ THỨC
TỈNH CỦA LINH HỒN
Trong cuộc
hành hương ở cơi vật chất nầy, bao giờ con người c̣n tự đồng hóa
hoàn toàn với các thể của ḿnh và bị các thể nầy chủ trị th́ con
người quên hẳn bản chất thiêng liêng thật sự của ḿnh và chưa đau
khổ, v́ những sự thỏa măn của họ mang tính cách thú dục. Nhưng khi
linh hồn bị giam hăm trong khám đường trần thế bắt đầu nhớ đến quê
hương thiêng liêng đă rời bỏ từ lâu, khi nhờ ảnh hưởng của t́nh
thương, của mỹ lệ và của đức hạnh, linh hồn ư thức được chân tánh
của ḿnh th́ lúc đó đau khổ mới phát sanh. Chừng đó chúng ta mới
nhận thấy ḿnh giống Prométhée bị xiềng chặt vào khối vật chất.
Chúng ta phải ư thức được thật sự ḿnh là ai, nhiên hậu mới biết
được rằng ḿnh bị giam cầm và lưu đày. Khi một người ĺa quê từ thuở
nhỏ để sống lưu vong trong nhiều năm nơi đất khách, quê người trong
sự thiếu thốn và cơ cực của cảnh lưu đày, lớn lên anh chỉ có thể nhớ
mang máng thuở xưa anh có sống ở một nơi xinh đẹp hơn. Có thể một
ngày kia, khi nghe được một giọng hát quen từ thuở bé, anh băn khoăn
trực nhớ những chi đă mất, lúc đó, với một sự đau khổ đột ngột, anh
nhận thấy rằng minh là một kẻ lưu đày đă ĺa bỏ biết bao nhiêu điều
yêu mến. Kỷ niệm nầy khiến anh khao khát trở về quê hương ḿnh, và
sự ham muốn đó càng ngày càng trở nên nồng nhiệt. Chỉ đến lúc đó th́
sự đau khổ và sự chiến đấu mới bắt đầu; đau khổ - v́ anh biết đă mất
rất nhiều, chiến đấu – v́ anh thử cố gắng thu lại những chi đă mất.
Sự thức
tỉnh của linh hồn cũng giống như thế, trong lúc nó tiến triển, nó
đem lại cho chúng ta cả vui lẫn khổ. Vui, v́ bao giờ con người c̣n
sống một đời đầy thú dục của các thể, y cũng nếm qua được ít nhiều
khoái lạc; khổ, v́ khi nhớ lại chân tánh và quê hương ḿnh, y cố
gắng chiến đấu đêm ngày để thoát ra khỏi áp lực
nặng nề của thế giới vật chất đang chủ trị và đồng hóa y với
các thể. V́ trước kia, y không ngờ rằng các thể nầy là những giới
hạn chật hẹp nên nay chúng mới trở thành cái áo choàng Nessus bám
chặt vào vai và y phải gắng sức nhiều mới mong gỡ được. Bây giờ, y
mới thấy ḿnh được hợp thành do hai nhân vật; một mặt, y ư thức được
Chơn ngă hằng gọi y không dứt trở về quê hương thiêng liêng, mặt
khác, bản chất thú dục kết chặt y với các thể và chế ngự y.
SỰ CHIẾN
ĐẤU TRONG CON NGƯỜI
Không có
vấn đề nào, không có khó khăn nào trong đời sống của con người quan
trọng hơn sự ư thức ta là hai nhân vật kết hợp. V́ thế mà Thánh
Paul, quằn quại trong sự tranh đấu giữa thể xác và linh hồn, than
một cách thống khổ: “Tôi không làm điều thiện mà tôi muốn, trái lại,
tôi lại làm điều ác mà tôi không ưa. Vậy nếu tôi làm điều mà tôi
không muốn, th́ không phải chính là tôi làm, mà do tội lỗi trú ẩn
nơi tôi. Tôi nhận được một định luật nơi tôi: khi nào tôi muốn làm
điều phải, điều ác đến kế bên. Trong nội tâm, tôi cố vui theo luật
trời, nhưng xác thân tôi lại tuân theo một luật khác trái hẳn lại và
xô tôi vào ṿng tội lỗi. Tôi thật hết sức khổ sở ! Ai giải thoát tôi
ra khỏi cái xác chết nầy?” Trong quyển sách “Các lời thú tội” của
Thánh Augustin, sự chiến đấu nội tâm nầy được mô tả một cách thấm
thía hơn: “Một bên th́ ḷng ngưỡng mộ sự vinh quang của Ngài nâng
tôi lên để hợp nhất với Ngài, một bên th́ sức nặng của sự yếu hèn
kéo mạnh tôi xuống để xô dập tôi vào chỗ đê tiện, nơi tôi cố gắng
vượt lên. Và sức nặng đó không chi khác hơn là những dục vọng xác
thịt của tôi”. Và tiếp theo: “Trong tâm tôi, nỗi vui giả tạm và buồn
tênh chiến đấu luôn với các nỗi buồn sung sướng và tôi không biết sự
chiến thắng sẽ nghiêng về bên nào”. Đó là kinh nghgiệm thiên thu của
con người chiến đấu, sự kinh nghiệm mà triết gia Goethe diễn tả rất
đúng khi than: “Hỡi ôi ! hai linh hồn đang sống trong người tôi”. Đó
là kinh nghiệm của bất luận người chí nguyện nào dấn thân trên con
Đường Huyền bí Học, đó cũng là kinh nghiệm của bất cứ một người nào
cố gắng sống một cách thanh cao để vâng theo mệnh lệnh của Chơn Nhơn
nhưng bị các ham muốn của phàm ngă tŕ kéo xuống. Sự tranh đấu đó
không dung tha một ai cả. Con rắn nhiều đầu nầy gây hấn dưới trăm
ngàn h́nh thức, khiến đời sống của sinh viên huyền bí học trở thành
một thảm kịch vô cùng đau khổ, trong đó các thể phung phí sinh lực
nhiều và trở nên suy nhược. Trong đời sống của con người, có chi khó
chịu bằng suy tưởng một đàng rồi sau đó lại hành động một nẻo? Bởi
thế chúng ta cảm thấy tự khinh lấy ḿnh, sự khinh khi mà Hamlet nói
c̣n “đắng hơn là máu”, và thất vọng v́ không khi nào sống được theo
ư muốn của ḿnh. Và trong thảm kịch ấy, điều bi thảm hơn hết là nó
không hữu ích mấy; nó chỉ là kết quả của sự ngu dốt về các hoạt động
của tâm thức của chúng ta.
V̀ KHÔNG
HIỂU BIẾT NGUYÊN LAI
Sau cùng
con người tự t́m ra được ḿnh. Đây là một chơn lư kỳ lạ nhưng thông
thường: sự thèm khát hiểu biết của con người khởi đầu bằng một điều
xa xăm và kết thúc bằng một vịêc gần gũi. Người thượng cổ đă nghiên
cứu ṿm trời cao nhưng chỉ có người cận đại mới bắt đầu thám hiểm
tâm hồn ḿnh.
Phần đông
người đời thấy chính ḿnh là một sự huyền bí, có kẻ không ngờ rằng
sự huyền bí nầy lại có được.
Chúng ta
hăy thử hỏi một người thường rằng họ thật sự là ai; họ cảm giác, suy
tư hay hành động th́ điều chi xảy ra, và cái chi tạo thành sự tranh
đấu giữa điều phải và điều quấy mà họ nhận thấy nơi tâm họ, th́ họ
chẳng những không trả lời được mà họ c̣n cho những câu hỏi trên là
kỳ dị. Thật không có chi lạ bằng thấy một con người trọn đời, chịu
đựng mọi điều khổ nhọc để chỉ hưởng những khoái lạc tạm bợ, nặng nề
mà không hỏi v́ sao ḿnh phải sống !
Khi gặp
một người đi lang thang cực khổ và thiếu thốn đủ điều, nếu chúng ta
hỏi y đi đâu và y trả lời không biết th́ chúng ta sẽ cho y là một kẻ
điên. Trường hợp nầy giống hệt trường hợp phần đông thiên hạ trong
đời sống hằng ngày; họ đi trên đường đời từ thuở trắng răng đến lúc
bạc đầu mà không hề hỏi ḿnh đi đâu; hoặc nếu có hỏi, họ cũng hỏi
một cách qua loa và không cố gắng t́m câu giải đáp.
Nhưng
trong cuộc hành hương dài đăng đẳng đến một ngày kia, linh hồn không
thể tiếp tục sống mà không biết đến lư do của đời sống ḿnh; đến một
ngày kia v́ thế giới xung quanh không cung cấp được một sự thỏa măn
lâu dài, linh hồn ngưng đeo đuổi ảo tưởng một cách cuồng nhiệt như
bấy lâu và dừng chân v́ kiệt sức trong sự yên lặng và cô đơn. Đến
giờ phút nầy, linh hồn không buồn nh́n các ảo tưởng chung quanh nữa
và quay mắt vào cảnh giới nội tâm, cảnh giới của Chơn Ngă, và t́m
được nơi đây một chơn lư bất di bất dịch và một thế giới mới lạ hoàn
toàn. Lúc đó, và chỉ lúc đó mà thôi, những câu hỏi về đời sống sẽ
được giải đáp, nhưng như EMERSON đă nói, linh hồn không bao giờ trả
lời bằng lời nói, mà bằng đối tượng của các cuộc sưu tầm của chúng
ta.
CHÂN TÁNH
CỦA CHÚNG TA
Trong thời
gian chiến đấu, chúng ta tự đặt nhiều câu hỏi về mục đích của đời
sống, nhưng khi các câu trả lời đến, chúng không đáp ngay câu hỏi,
mà lại diễn biến theo kinh nghiệm của sự thật.
Bởi thế,
về con người huyền bí, câu trả lời không phải là sự mô tả cách thức
cấu tạo con người, mà lại là sự khám phá cái Chơn Ngă thân mật và
cảnh giới của Chơn Ngă. Trong cảnh giới nầy, xuyên qua sự chiến đấu
hằng ngày giữa hai nguyên lư Chơn Ngă và Phàm Nhơn, chúng ta thấy
hiện ra một chơn lư tuyệt đẹp.
Thiêng
liêng là đặc tánh của con người, v́ con người là con của Đức Thượng
Đế nên được chia sớt bản tánh của Đấng Cha trọn lành. Quê hương thật
của con người là Cảnh giới Thiêng liêng, nơi đó y sống và hoạt động
từ “vĩnh cửu nầy đến vĩnh cửu khác”. Trong cảnh giới nầy, Chơn Nhơn
có những hoạt động đặc biệt, và sống một cuộc đời an lạc và vinh
quang ngoài sức hiểu biết của con người. Tuy nhiên, có một bài học
hay một kinh nghiệm mà Chơn Nhơn không thể t́m trong cảnh giới ấy
nên nó phải chuyển tâm thức đến những cơi biểu hiện, để ư thức trong
ngoại cảnh phức tạp, cái “Ngă” với cái “Phi Ngă”. Và chỉ nơi đó mà
thôi, nhờ các thể tạo thành bằng chất của ngoại cảnh liên hệ, Chơn
Nhơn mới nhận định được cái Ngă của ḿnh, cái Ngă của một cá thể
riêng biệt. Trong quê hương thật sự của Chơn Nhơn, không có sự phân
biệt giữa cái Ngă và cái Phi Ngă, và các phần tử đều ḥa hợp trong
tâm thức chung của toàn thể. V́ thế, quan niệm về cái Ta riêng biệt
không thể hoạch đắc được tại cơi thiêng liêng nầy. Chỉ trong các
cảnh giới biểu hiện là cảnh giới vật chất, t́nh cảm và tri thức, nhờ
sự đối chiếu giữa chủ thể và khách thể, Chơn Nhơn mới ư thức được cá
thể riêng của ḿnh. Như vậy, chính v́ muốn học hỏi mà Chơn Nhơn mới
giáng xuống các cơi biểu hiện và mượn những chất của các cơi nầy để
tạo thành các thể. Đó là sự thiên di của linh hồn đến các cơi tối
tăm được diễn tả một cách tượng trưng trong lịch sử của sự Sáng Tạo
Vũ Trụ. Thiên Đàng nguyên thủy không phải là một trạng thái lâu dài,
tuy rằng nó rất tốt đẹp và điều ḥa. Linh hồn cần phải nếm qua những
quả Thiện, quả Ác và quả Hiểu Biết, dù rằng phải xa ĺa Thiên Đàng.
V́ tự xét cần phải hiểu biết các cơi vật chất, linh hồn mặc vào
“những áo da” là những thể vật chất, và phải chịu đựng những điều
kiện nặng trọc của đời sống vật chất. Sự lưu vong nầy rất dài và sẽ
kết thúc bằng sự cứu rỗi và sự phục sinh khi nào linh hồn ư thức
được trở lại bản tánh thiêng liêng của ḿnh, nghĩa là khi nào Đấng
Chí Tôn hiện nơi tâm con người. Lúc đó, linh hồn trở về Thiên Đàng
với một tâm thức rộng răi hơn, phong phú hơn nhờ hưởng được nhiều
kinh nghiệm của các kiếp ở cơi biểu hiện.
THẢM TRẠNG
CỦA LINH HỒN
Như thế,
chúng ta có thể xem các kiếp luân hồi kế tiếp của linh hồn trong các
cơi biểu hiện như là một lối hoạt động đặc biệt của Chơn Nhơn, nhằm
mục đích hoạch đắc những kinh nghiệm không thể thu thập được bằng
cách nào khác hơn. Sự giam hăm tâm thức thiêng liêng trong ba thể
(thể xác, thể vía và thể trí) là một bi kịch, một sự sa đọa vào vật
chất, đó là nguyên nhân của tất cả những nỗi buồn khổ mà linh hồn
phải chịu suốt cuộc hành hương của ḿnh. Bởi v́ khi linh hồn kư thác
một phần tâm thức của ḿnh vào ba thể là những dụng cụ phục vụ, phần
nầy lại đồng hóa với các thể và lầm tưởng ḿnh là các thể. Do đó,
phần tâm thức nầy tách ra khỏi tâm thức vô biên của Chơn Nhơn để
sống riêng rẽ với các thể và trở thành một cá thể cách biệt và chống
đối với mọi sinh vật: cá thể ấy là Phàm Nhơn.
Đó là sự
tích của chàng NARCISSE đẹp trai: thấy bóng ḿnh soi dưới nước,
NARCISSE toan ôm bóng ấy vào ḷng nên nhào sâu dưới ḍng sông. Tâm
thức ta cũng thế: khi nhập vào ba thể, nó đồng hóa với các thể, tách
khỏi Chơn Ngă cố hữu và quên hẳn nó là con của Thượng Đế nên nó cũng
ch́m sâu trong biển vật chất.
Đó là tấn
kịch dài nhiều thế kỷ của linh hồn lưu vong, sa đọa và quên hẳn di
sản thiêng liêng của ḿnh v́ trót phục lụy một cách vô ư thức các
thể là những dụng cụ của ḿnh. Thảm kịch này được tượng trưng bằng
sự tích SOPHIA bị bọn cướp bắt giam, chưởi mắng và sỉ nhục cho đến
lúc được Đấng Ki Tô
[1] đến giải thoát để đưa về quê
thiêng liêng.
Làm sao có
thể tưởng tượng một tấn kịch thê thảm hơn, một sự sa đọa nhơ nhớp
hơn t́nh trạng của một linh hồn thuộc hàng quí tộc vinh sang và
thiêng liêng nhất, mà nay lại quên nguồn gốc để hạ ḿnh làm nô lệ
cho vật chất trong một đời sống xấu xa, ô nhục ! Nhưng thỉnh thoảng
ta mới nghĩ đến thảm kịch nầy khi nhơn loại hiện ra rất xấu xa trong
sự hận thù, hung bạo, tục tằn, vô minh, thiển cận hay điên cuồng và
chừng ấy, ta mới ư thức được một cách đau khổ sự đồi trụy của Chơn
Ngă bất diệt ở nơi ta.
CẦN THAY
ĐỔI THÁI ĐỘ
Nếu chúng
ta cảm giác ở ta có hai nhơn vật – một cái Ta cao thượng bên trong
và một cái Ta thấp hèn bên ngoài – là v́ chúng ta vô minh.
Con người không phải hai mà là một. Chúng ta là cái Ta thiêng liêng
và chỉ là cái Ta đó mà thôi. Cảnh giới nó là cảnh giới của chúng ta,
đời sống của nó là đời sống của chúng ta. Nhưng khi kư thác tâm thức
thiêng liêng của chúng ta vào các thể dùng để thu thập kinh nghiệm,
chúng ta lại đồng hóa với các thể và quên hẳn chúng ta là ai. V́
vậy, tâm thức bị tù hăm trong ba thể và chỉ biết chạy theo các dục
vọng của chúng để trở thành cái mà chúng ta gọi là cái Ta thấp hèn
hay Phàm Ngă. Tiếng nói của nội tâm, tiếng nói chính của chúng ta từ
nay được xem như là tiếng gọi của Chơn Nhơn, và giữa Chơn Nhơn và
Phàm Ngă, một sự chiến đấu nổi lên gây biết bao đau khổ. Nguyên nhân
các đau khổ nầy là sự vô minh nên chúng sẽ đương nhiên chấm dứt phần
nào khi chúng ta biết được bản chất chơn thật của chúng ta. Chúng ta
cần phải thay đổi hẳn thái độ. Trước hết, cho rằng ở ta có hai nhơn
vật là một quan niệm sai lầm. Chúng ta măi cho rằng linh hồn hay
Chơn Nhơn với tất cả những chi được xem là quí báu đều thuộc về một
nhơn vật đứng trên cao vời vợi, c̣n chúng ta là bản chất đê hèn, là
Phàm Ngă, chúng ta lặn hụp dưới hố sâu. Đoạn, chúng ta mới cố gắng
vượt lên để đoạt các tài sản quí báu đó, cố gắng một cách gian lao
v́ chúng ta tưởng tài sản ấy là hoàn toàn xa lạ. Các cố gắng ấy
thường được cho là “kinh khủng”. Về cảm hứng thanh cao, kiến thức kỳ
diệu, năng lực tâm linh hay t́nh cảm bác ái, chúng ta cũng nói từ
Chơn Nhơn giáng xuống. Chúng ta măi phạm một điều sai lầm căn bản là
đồng hóa ḿnh với những chi không phải là ḿnh, và đề cập mọi vấn đề
tâm linh với sự sai lầm ấy. Điều kiện thành công trước tiên trong
lănh vực tâm linh là tin một cách tuyệt đối rằng chúng ta là Chơn
Nhơn; điều kiện thứ nh́, cũng quan trọng và chánh yếu không kém, là
tin ở quyền năng của Chơn Nhơn và can đảm sử dụng các quyền năng nầy
một cách tự nhiên. Thay v́ xem tâm thức thường nhật của chúng ta là
tự nhiên và b́nh thường, và ngước mắt nh́n Chơn Nhơn như một nhơn
vật cao cả không thể tiến gần, chúng ta phải xem tâm thức thường
nhật ấy là dị thường và trái với trật tự thiên nhiên. Đời sống của
Chơn Nhơn phải là đời sống hằng ngày của chúng ta.
SỰ CÁCH
BIỆT LÀ MỘT TRẠNG THÁI DỊ THƯỜNG
Chúng ta
không sao tưởng tượng được các cố gắng lớn lao và liên tục nhằm duy
tŕ các ảo tưởng rằng ta là phàm ngă riêng tư. Từ sáng đến chiều,
chúng ta xác nhận, bảo vệ cái phàm ngă thân yêu ấy mỗi khi nó bị
công kích, chúng ta săn đón cách nào để cho không ai quên nó, khinh
thường nó hay thiếu lễ độ đối với nó. Mặt khác chúng ta c̣n cố gắng
thực hiện những điều nó mong muốn riêng để nó hiêu hiêu cách biệt
mọi người.
Khi Chơn
Nhơn đồng hóa với các thể vô thường dùng để biểu hiện nó, th́ các ảo
tưởng về cái Ta riêng biệt xuất hiện. V́ vậy, khi tâm thức của Chơn
Ngă giáng xuống các thể th́ nó không nhập vào được mà dường như bị
vặn lại để bao ngoài các thể trong một trạng thái dị thường trái hẳn
với thiên nhiên. Nó giống như một sợi dây cao su cột vào một vật ǵ
và bị kéo giăn. Nếu thả ra th́ dây cao su trở về trạng thái điều ḥa
lúc trước. Cũng thế, tâm thức của chúng ta đang bị cột chằng với các
thể, ta hăy mở nó ra, hăy giải thoát nó. Nói khác đi, chúng ta chỉ
cần từ bỏ cái ảo tưởng biệt lập mà chúng ta rất mến yêu th́ cái tâm
thức riêng rẽ đă tạo ra phàm nhơn sẽ tự nhiên trở về với cái Ta lớn
hơn là Con Người Thật. Chúng ta thường nói đến sự cố gắng vô biên để
vươn lên tâm thức thiêng liêng, nhưng chúng ta đâu có để ư đến các
nỗ lực kinh khủng đang duy tŕ cái Ta riêng biệt. Đúng ra, chúng ta
duy tŕ cái ảo tưởng đó mà chúng ta không dè. Xác nhận cái Ta riêng
rẽ một cách bất lợi cho những kẻ chung quanh, thâu đoạt những điều
chúng ta ham muốn và giữ ǵn những điều chiếm hữu, tất cả những việc
đó trở thành bản tánh thứ nh́ của chúng ta khiến chúng ta không để ư
đến các nỗ lực to lớn ấy nó nhằm xác nhận và phô trương phàm ngă.
Vậy chúng
ta cần chấm dứt các nỗ lực sai lầm ấy để chúng đừng giam hăm chúng
ta làm nô lệ cho các cơi vật chất và ngăn cản không cho chúng thấy
sự thật về các cơi nầy. Chúng ta hăy xác nhận, quả quyết và duy tŕ
sự thiêng liêng của Chơn Nhơn. Trong sự xác nhận đó, không thể có
một sự kiêu căng hay một sự chia rẽ nào, v́ đặc tánh của hai cơi
thật của chúng ta là sự hợp nhất, trong đó, không thể có sự tự măn
và sự vĩ đại cá nhơn. Sự ngạo mạn là một thứ cây chỉ có thể nẩy nở ở
các cơi vật chất nặng trược mà thôi; ở quê hương của chúng ta, nó
không thể mọc được.
Giải thoát tâm thức ta ra khỏi áp lực của các thể, nhận thức các
quyền năng mà chúng ta sẵn có với tư cách là Chơn Nhơn, nhất quyết
không để bị ràng buộc trở lại trong mạng lưới của đời sống vật chất,
đó là phương cách duy nhất để đạt mục đích của chúng ta là chấm dứt
sự chiến đấu khốc liệt giữa Chơn Nhơn và Phàm Nhơn, nó đầu độc đời
sống của bao nhiêu người chí nguyện đang nghiêm trang vươn lên sự
Điểm Đạo, từ cái Ta đê hèn đến cái Ta khả kính.
THỎA HIỆP
KHÔNG ĐỦ, CẦN PHẢI HÀNH ĐỘNG
Đọc một tư
tưởng hay, học một tư tưởng qui chưa đủ, chúng ta c̣n phải mang ra
thực hành mới hưởng lợi được. Trong những trang sau đây, chúng ta sẽ
thử thực hiện một kinh nghiệm là nh́n nhận chúng ta là Chơn Nhơn
trong tâm thức thật của ḿnh và cố giải thoát tâm thức đó ra khỏi
mọi giới hạn để đưa nó vào cơi của sự an vui và sự tự tại thiêng
liêng, nghĩa là vào cơi thật của nó.
Vào thời
đại của chúng ta, phải hành động chớ không nên nói suông. Ư tưởng
nầy rất thông thường và rất đúng, cần được áp dụng một vài loại diễn
thuyết hay sách mà tác giả hay diễn giả không chỉ tŕnh bày để mọi
người thưởng thức, mà c̣n cố đưa họ vào những vùng bí ẩn, trong đó
họ sẽ được dẫn đường, chỉ nẻo nhưng họ phải tự ḿnh đi lấy mới được.
Những bài diễn thuyết và những sách của chúng tôi thuộc về loại nầy
nên cần được đem ra thật hành. Các độc giả và thính giả phải nhận
thấy nơi tâm thức riêng của ḿnh những điều đă được tŕnh bày. Chúng
ta sẽ áp dụng phương cách đó để tự t́m lấy cái Chơn Ngă của ḿnh.
Chúng ta không nên xem các trang nầy như ngắm một ngoại cảnh, trái
lại, chúng ta cố ḥa đồng và thực hiện trong tâm thức, các điều được
đọc trong đó.
CON DƯỜNG DẮT ĐẾN CHƠN NHƠN
Khi chúng
ta suy nghĩ về chúng ta và ghi nhận những ư tưởng hiện ra trong trí,
chúng ta sẽ nhận thấy các ư tưởng ấy phản chiếu h́nh dạng và tên
tuổi của chúng ta như trong một tấm gương soi. Ấy là cái ảo ảnh thứ
nhứt cần vượt qua, v́ bao giờ chúng ta c̣n trụ tâm vào h́nh dạng nầy
là thể xác, chúng ta sẽ đồng hóa với nó, và đó chính là cái điều
phải tránh. V́ khi chúng ta tự đồng hóa với thể xác hay với đối phần
thanh nhẹ của nó là thể phách, chúng ta sẽ bị bắt buộc chạy theo các
dục vọng và các điều kiện sinh sống của nó. Do đó, nẩy sanh sự yếu
đuối, bịnh hoạn, sự nặng nề hay trơ ĺ khiến ta không thể đáp lại
lời kêu gọi của nội tâm.
BIẾN ĐỔI
TRONG THỂ XÁC
Mọi việc
sẽ thay đổi hẳn khi chúng ta diệt được cái ảo tưởng rằng ḿnh là thể
xác, và nhận thấy rằng thể xác chẳng qua là một đứa tớ hay
một dụng cụ để chúng ta sử dụng ở cơi trần. Chừng đó vị trí của
chúng ta sẽ thay đổi lại. Thay v́ đồng hóa với thể xác và để cơi
trần chế ngự chúng ta qua sự trung gian của nó, chúng ta sẽ chế ngự
lại cơi trần xuyên qua thể xác đă tùng phục chúng ta. Cái trọng tâm
nay được di chuyển từ thể xác đến tâm thức. Chúng ta phải cảm giác
rằng chúng ta đặt trung tâm của tâm thức phía sau thể xác và từ đó,
chúng ta hành động bằng thể xác nhưng không ḥa đồng với nó. Khi ta
thay đổi thái độ đối với thể xác như vậy, ta thực hiện một sự thay
đổi sâu xa ở con người. Giống như mạt sắt tụ hợp và xếp đặt theo
những lực tuyến trong từ trường của viên đá nam châm, những phần tử
của thể xác và thể phách cũng được sắp xếp theo ảnh hưởng chỉ đạo
duy nhứt của Ư chí bên trong, thay v́ ở trong trạng thái hỗn loạn
rất dễ bị ngoại cảnh chi phối. Chúng ta phải cảm giác như thế, phải
nhận thấy sự thay đổi ấy, một sự thay đổi quan trọng tạo nên do sự
xác nhận rằng ta không phải là thể xác mà thể xác là vật sở hữu của
ta. Kể từ nay, chúng ta phải cảm giác rằng một phần lớn năng lực và
vật thực cung cấp cho thể phách và thể xác là do ở nội tâm chứ không
phải lấy ở ngoại cảnh. Sự thay đổi toàn vẹn nầy cần được lănh hội và
cảm xúc hơn là sự xét bàn và thảo luận. Chúng ta phải cảm thấy thể
xác rung động cùng một tiết điệu với tâm thức và tùng phục qui lệ và
địều kiện của nội tâm hơn là của ngoại cảnh.
Dù hoạt
động hằng ngày của chúng ta có ra sao chăng nữa, chúng ta cần phải
giữ thái độ đó. Chúng ta phải luôn luôn cảm thấy rằng trong mọi hoạt
động, chính chúng ta sử dụng một cách ư thức thể xác, chứ thể xác
không tự nó hoạt động được. Sau đó, chúng ta buộc nó có những tập
quán rất đều trong sự ăn, ngủ và thể dục để nó trở thành một dụng cụ
hoàn toàn. Nếu các bắp thịt của chúng ta không được luyện tập hằng
ngày th́ chúng ta làm sao có thể mong có được một thân thể dẻo dai
và bén nhạy? Sức khỏe cần hơn là chúng ta thường tưởng. Chúng ta c̣n
nên dùng thức ăn chọn lọc để thể xác được linh hoạt và dễ dạy. Thay
v́ đụng chi ăn nấy, chúng ta nên chọn lựa những thức ăn nào có thể
giúp thân thể trở thành một dụng cụ tinh khiết, khỏe mạnh và thanh
bai. Trong lúc ăn, chúng ta phải ư thức rằng các thức ăn được phân
phối trong thể xác chính từ bên trong. Hăy thực hiện việc đó và kinh
nghiệm lấy hơn là xem như một đề tài học hỏi. Nên có cảm tưởng rằng
chúng ta ăn một cách ư thức và với mỗi miếng ăn, chúng ta chuyển
chất bổ vào cơ thể bằng một phương thức tâm linh. Những tín đồ Thiên
Chúa Giáo có chân trong một giáo hội hiểu rơ giá trị của các thánh
lễ do Đấng Ki Tô đặt ra, và ư nghĩa của lễ ban thánh thể; họ cũng
biết cách thức đặc biệt dùng bánh và rượu vang sau buổi lễ nầy. Các
thức ăn cần được ăn với cách thức ấy v́ rằng tất cả mọi vật đều được
Đấng Ki Tô ban phép lành và sự sống của Ngài đều ẩn trong vạn vật,
tuy rằng sự Hiện Diện của Ngài được biểu hiện một cách toàn vẹn hơn
trong bánh thánh và rượu vang.
Với cách
thức nầy, cũng như với nhiều cách thức khác, chúng ta cố tinh lọc
thể phách và thể xác (cách thức nầy được các triết gia về phái luyện
kim biết rơ và gọi là sự phục sinh), để chúng trở thành những dụng
cụ hoàn toàn cho Chơn Nhơn. Sự biến đổi nầy rất thường thấy và một
khi được thực hiện, nó sẽ đập tan cái áp lực của thể xác trên tâm
thức; chừng đó thể xác sẽ là một dụng cụ thích nghi và hữu hiệu.
BIẾN ĐỔI
TRONG THỂ VÍA
Bây giờ
chúng ta đă thay đổi thái độ đối với với thể xác nên tâm thức ta
đương nhiên rút khỏi thể nầy. Lẽ tự nhiên là: nó không rút ra trọn
vẹn (v́ như thế chúng ta sẽ buồn ngủ hoặc lâm vào trạng thái xuất
thần), nhưng nó không c̣n bị giới hạn trong thể xác nữa và vươn cao
lên, nhờ đó chúng ta mới có thể sử dụng thể xác để hoạt động.
Khi chúng
ta đă rút tâm thức ra khỏi thể xác rồi, chúng ta phải thực hiện một
sự biến đổi trong thể t́nh cảm là thể vía, cũng như chúng ta đă làm
đối với thể xác. Chúng ta cũng gặp lại các nỗi khó khăn trước. Bấy
lâu, chúng ta đă để thể vía tùy thuộc cơi t́nh cảm nên cơi nầy từ
bên ngoài cấu tạo thể vía chúng ta với các ham muốn và xúc động của
nó.. Lư do là chúng ta chưa phân biệt được giữa cái “Ngă” và cái
“Phi Ngă” ở cảnh giới “bên trong” là cảnh giới của t́nh cảm và tư
tưởng, và cho rằng các t́nh cảm và tư tưởng của chúng ta “phát sinh
ngay trong chúng ta”, trong lúc chúng từ bên ngoài đến hay ít ra
cũng bắt nguồn từ bên ngoài. Theo sự quan sát của những người có huệ
nhăn, th́ màu sắc của một thể vía như thế phân phối không đồng đều
và thay đổi nhanh chóng theo ảnh hưởng bên ngoài. T́nh trạng nầy cần
phải thay đổi. Chúng ta phải xem cái vía và sử dụng nó như là một
thể dùng để biểu hiện ở cơi Trung Giới. Chơn Nhơn phải luôn luôn xem
chừng thể vía và cấu tạo nó từ bên trong bằng cách chuyển cho nó
những t́nh cảm do nội tâm chọn lọc.
Quí vị thử
cảm thấy sự thay đổi nầy nơi ḿnh. Quí vị thử cảm thấy thể vía ḿnh
không c̣n các dục vọng và cảm xúc đê hèn, và với tư cách Chơn Nhơn,
hăy chọn những t́nh cảm tốt đẹp để tô điểm nó như là một vật sở hữu.
Quí vị hăy cảm xúc những t́nh cảm đó, hăy ư thức chúng tỏa chung
quanh thể vía. Trước tiên, quí vị hăy cảm thấy ḷng thấm đượm t́nh
thương, một t́nh thương bao la ôm ấp muôn loài vạn vật, thay v́ thứ
t́nh thương ích kỷ chỉ muốn chiếm đoạt cho riêng ḿnh. Quí vị hăy
cảm thấy ḷng sùng bái – sùng bái Đức Chơn Sư, các công nghiệp vĩ
đại và các điều cao cả - tràn ngập thể vía. Kế đó, quí vị hăy nghĩ
đến các người đau khổ và cảm thấy linh hồn từ bi của ḿnh đến an ủi
họ trên khắp thế gian. Sau cùng, quí vị hăy có những hoài băo tâm
linh, quí vị hăy cảm thấy ḷng hướng lên những điều cao thượng một
cách nồng nhiệt và thể vía ḿnh sáng rực trong trạng thái nầy. Khi
quí vị, là Chơn Nhơn, đă quyết định những t́nh cảm nào sẽ là của
ḿnh, và đưa các t́nh cảm thanh cao ấy vào thể vía một cách ư thức,
th́ thể vía sẽ có một trạng thái mới. Không c̣n chứa chấp những t́nh
cảm phất phơ, mập mờ và luôn luôn thay đổi, nó hiện ra sáng chói,
luôn luôn phát huy những t́nh cảm cao đẹp do quí vị chọn lựa và rung
động nhịp nhàng với các cảm xúc nội tâm. Bây giờ, người có huệ nhăn
thấy nó khác hẳn lúc trước. Màu sắc nó không c̣n lờ mờ và phân từ
vùng nữa mà trái lại chiếu rực rỡ từ trung tâm thành những ṿng đẹp
đẽ. Nó đă được biến đổi như thể xác.
Sự biến
đổi nầy cũng có thể so sánh với một mớ mạt sắt trong một từ trường.
Bây giờ thể vía đă có Ư chí làm trung tâm chỉ đạo và trở thành một
đứa tớ ngoan. Không một kích thích hay một cám dỗ bên ngoài nào có
thể gợi ở nó những cảm giác hoặc dục vọng mà chúng ta không muốn. Nó
không c̣n dính liền với cơi Trung giới mà được tách rời ra để liên
kết với Chơn Nhơn. T́nh thế đă thay đổi hẳn; từ nay, thể vía sinh
hoạt dưới sự hướng dẫn của nội tâm và sẽ phát huy liên tục các t́nh
cảm thanh cao để tô điểm cuộc đời.
Khi biến
đổi thể vía được như thế, chúng ta tiến thêm một bước nữa đến sự
chấm dứt cuộc chiến đấu giữa Phàm Ngă và Chơn Nhơn, trước kia rất
gay go, v́ trong lúc c̣n vô minh, chúng ta đă để cho các thể chế ngự
một phần tâm thức của ḿnh. Khi ta đặt thể vía dưới sự chỉ đạo của
nội tâm, tâm thức của chúng ta được di chuyển một lần nữa; bấy lâu,
nó bị liên kết vào thể vía, nay nó được giải thoát và đưa lên gần
cảnh giới của nó. Nhờ vậy, thể vía được chăm nom và điều khiển từ
bên trong và sẵn sàng vâng lệnh của chúng ta.
BIẾN ĐỔI
TRONG THỂ TRÍ
Bây giờ
đến lượt thể trí. Về một vài phương diện, sự biến đổi thể trí quan
trọng hơn tất cả, v́ nó chấp chứa một nguy cơ rất lớn đối với chúng
ta mà chúng ta không ngờ.
Chúng ta
không khi nào hành động hay nói năng mà chẳng suy nghĩ hay tưởng
tượng trước hành động hay lời nói ấy, nhưng chúng ta không lưu ư
đến. Những hoạt động trí thức rất nhanh, tâm thức của chúng ta lại
là một lănh vực c̣n rất mới lạ, nên chúng ta không biết được những
điều xảy ra trong đó. Tuy nhiên, chúng ta không thể giơ tay lên mà
không suy nghĩ trước về cử chỉ nầy. Vậy khi hành động, chúng ta tạo
trước một h́nh ảnh, và v́ h́nh ảnh nầy có tánh cách sáng tạo nên nó
tự thực hiện và trở thành hành động. Trong chúng ta, tư tưởng là sự
biểu hiện của Đấng Thánh Linh của Chúa Sáng Tạo. Nói khác đi, Năng
Lực Sáng Tạo tối thượng biểu lộ trong quan năng suy tưởng. Khi suy
tưởng, chúng ta tạo một h́nh ảnh và chuyển vào h́nh ảnh đó Năng Lực
Sáng Tạo thiêng liêng, v́ đó mà hành động phát sanh. Đôi khi, tư
tưởng cần được lập lại nhiều lần để nó có đủ năng lực cần thiết. Khi
một tư tưởng được lập đi, lập lại như thế, nó sẽ tạo nên tập quán và
buộc ràng, cưỡng bách chúng ta.
Thật ra,
nếu chúng ta tạo h́nh tư tưởng từ nội tâm một cách ư thức th́ vô hại,
Nguy cơ, một nguy cơ kinh khủng đe dọa đời sống của chúng ta, là
chúng ta để ngoại cảnh tạo các h́nh ảnh ấy – thường là rất xấu – và
dồn chất thanh khí sáng tạo; v́ vậy các h́nh tư tưởng nầy chứa đầy
năng lực và cần t́m cách
trút vơi để thi hành chức vụ của chúng.
Chính sự
hoạt động hỗn loạn nầy gây chiến đấu nội tại và các khó khăn tâm
linh khiến cho thể trí thay v́ phục vụ chúng ta lại sai khiến chúng
ta. Bao giờ chúng ta c̣n cho phép thể trí tạo h́nh tư tưởng theo tác
động bên ngoài th́ chúng ta nguy mất và cuộc chiến đấu tiếp diễn
không ngừng.
TAI HẠI
CỦA MỘT TRÍ TƯỞNG TƯỢNG HỖN LOẠN
Chúng ta
hăy lấy ví dụ một người nghiện rượu. Người nầy biết rơ các tai hại
của tật xấu ấy; gia đ́nh nghèo khổ, tiền lương phung phí, vợ con
thiếu hụt, và trong lúc sáng suốt, anh quyết định chừa rượu. Nhưng
khi đi qua quán rượu, anh thấy người ta ra vào và đôi khi, c̣n ngửi
cả mùi rượu. Đến đây chưa có cám dỗ và cũng chưa có đấu tranh. Nhưng
trong một khoảnh khắc, anh thấy anh uống rượu và tạo một h́nh tư
tưởng của anh đang thỏa thích với rượu. Anh nghĩ rằng sự tưởng tượng
nầy thỏa măn được sự thèm của anh, nhưng thật sự, nó lại làm cho anh
thèm thêm. Sau khi tưởng tượng như vậy, anh mới kêu gọi ư chí và nói:
“Tôi không muốn uống rượu”, nhưng sự việc đă trễ rồi, và sự chiến
đấu trở thành vô ích. Thường th́ như vậy; khi h́nh tư tưởng được tạo
th́ hành động xảy ra. Có thể rằng h́nh tư tưởng nầy c̣n yếu và người
nghiện có thể hủy diệt nó, nhưng anh cũng phải chiến đấu, phí sức và
đau khổ. Phương cách tốt nhất là đừng tạo h́nh tư tưởng nói trên và
can thiệp khi sự can thiệp c̣n hữu hiệu.
Trí tưởng
tượng hỗn loạn nầy gây nhiều đau khổ hơn chúng ta tưởng. Biết bao
trường hợp vướng vấp, sa ngă, nhất là về sắc dục, đều do trí tưởng
tượng hỗn loạn, chứ không phải v́ ư chí ươn hèn. Người ta có thể có
những ham muốn nồng nhiệt, nhưng chính tư tưởng sáng tạo mới gây
hành động. Phần đông người đời không hiểu hoạt động của tư tưởng, và
không thấy, không rờ chúng được, nên cho chúng là vô hại. Đó là một
nguy cơ to lớn. Người mê đắm sắc dục có thể nh́n kẻ ḿnh ham muốn mà
không sao, y cũng có thể nhớ tưởng đến kẻ ấy với điều kiện là đừng
tưởng tượng các khoái cảm gây nên do sự thỏa măn. Chỉ khi nào y tạo
ra h́nh ảnh của chính y đang hưởng lạc, và cho phép dục vọng tăng
cường h́nh ảnh nầy th́ y mới lâm nguy.
Khi một
người bị bao quanh bởi các món y ham muốn, y có thể khỏi phải chiến
đấu nhọc nhằn nếu y đừng để trí tưởng tượng phản ứng trước những món
ấy. Chúng ta cần nhân định rằng các món cám dỗ nầy tư chúng, chúng
không có một quyền lực nào, trừ phi khi ta để trí tưởng tượng của ta
sáng tạo những h́nh ảnh bất hảo. Một khi quyền năng sáng tạo của ta
hoạt động sai rồi th́ sự chiến đấu sẽ diễn ra. Chừng đó, chúng ta
nhớ đến cái mà chúng ta gọi là ư chí để cố gắng chiến đấu với các
tai hại do chính chúng ta tạo thành. Các cố gắng khó khăn và bấn
loạn nầy không phải là Ư chí như người ta thường hiểu.
SỬ DỤNG Ư
CHÍ
Trong
quyển sách nổi tiếng về sức mạnh của trí tưởng tượng gây quyền năng
sáng tạo của tư tưởng, ông Coué quả quyết rằng trong sự tranh đấu
với Ư chí trí tưởng tượng lúc nào cũng thắng; tác giả nói đúng nếu ư
chí được hiểu như là một sự kháng cự khó khăn và bấn loạn. Ví dụ:
lúc tập cỡi xe đạp, chúng ta thấy đứng sựng trước mặt ta một thân
cây nhưng ta lại đâm thẳng vào để té ầm xuống. Tại sao ta đâm vào
cây? Là v́ trí tưởng tượng hỗn loạn của chúng ta tạo h́nh ảnh ta
đụng vào cây, rồi chúng ta lại tăng cường h́nh ảnh đó bằng sự sợ
hăi. Kế đó, chúng ta mới nghĩ phải chống cự cách nào để tránh cây.
Sự kháng cự nầy đă trễ và chỉ có hại, v́ nó làm trí tưởng tượng càng
thêm hỗn loạn.
Nếu chúng
ta sử dụng ư chí đúng cách, chúng ta không khi nào lại để cho trí
tưởng tượng phản ứng trước thân cây. Chúng ta lưu ư thấy cây nầy và
b́nh tĩnh ghi nhớ sự hiện diện của nó mà vẫn giữ trong trí tưởng
tượng h́nh ảnh con đường thênh thang, trống trải. Như vậy thân cây
sẽ không làm bận trí ta và chúng ta sẽ b́nh yên đạp xe tiến thẳng
trên đường.
Một câu
chuyện cổ thuật ba người xạ thủ nhắm bắn một con chim đang đậu trên
cành. Người thứ nhất nh́n thấy cành cây và bắn hụt con chim; người
thứ nh́ nh́n con chim và chỉ bắn mũi tên phớt nó; người thứ ba khi
nhắm con chim (chắc đây là một con chim rất b́nh tĩnh), th́ không
nh́n cành cây hay con chim, mà chỉ nhắm mắt chim và y bắn trúng.
Quyền năng của Ư chí cũng giống như thế, nó chỉ chú vào mục đích
phải đạt mà thôi. Nếu người nghiện rượu nói lúc năy biết vận dụng Ư
chí, th́ y chỉ có một ư tưởng duy nhất là tiếp tục con đường của y;
nhờ đó, y có thể đi ngang qua quán rượu mà khỏi bị cám dỗ và chiến
đấu. Đó mới chính là năng lực của Ư chí thật sự, nó giúp chúng ta
tập trung trọn vẹn tâm trí vào một mục phiêu nhất định. Tác dụng của
Ư chí không phải làm việc nầy hay tránh việc nọ, tác dụng của nó là
giữ trong tâm thức một ư định duy nhất mà thôi.
MỘT ĐIỂM
QUAN TRỌNG VỀ THỂ TRÍ
Như vậy,
thể trí có một sự quan trọng đặc biệt. Chúng ta không thể để nó kết
tạo một h́nh ảnh nào mà không có sự chấp thuận của ta là Chơn Nhơn.
Quí vị hăy loại ra khỏi thể trí mọi h́nh ảnh, mọi tư tưởng bất hảo.
Quí vị hăy huấn luyện nó như các thể khác để nó trở nên nhạy cảm và
phục lụy nội tâm thay v́ tùy thuộc ngoại cảnh. Sau sự thay đổi nầy,
người có huệ nhăn thấy thể trí hiện rực rỡ dưới ánh sáng của nội tâm
và ḥa đồng với tâm thức Chơn Nhơn.
Nhưng như
thế chưa đủ, v́ với cách đó, chúng ta chỉ ngăn cản thể trí không cho
trở thành một chướng ngại vật trên con đường tiến hóa, chỉ có thế
thôi. Chúng ta c̣n phải biến đổi năng lực sáng tạo của thể trí thành
những năng lực tốt đẹp. Thể trí trở thành vô hại chưa đủ, nó c̣n
phải phục vụ chúng ta. Nó phải sáng tạo và tăng cường bằng cảm xúc,
các tư tưởng xét cần thực hiện trong đời sống hằng ngày. Mục đích
của sự tiến hóa chúng ta là sự toàn thiện, không phải toàn thiện một
cách ích kỷ, mà với nguyện vọng làm vơi nhẹ phần nào gánh nặng của
trần gian. Vậy thay v́ cấu tạo trong trí ta những ǵ ta cố tránh như
chúng ta thường làm một cách vô ư thức, chúng ta hăy tưởng tượng con
người toàn thiện mà chúng ta sẽ trở thành. Với tất cả năng lực sáng
tạo của thể trí, chúng ta hăy tưởng tượng ḿnh là con người thiêng
liêng về các phương diện bác ái, ư chí, tư tưởng sáng tạo trong lời
nói và việc làm. Chúng ta hăy để h́nh ảnh nầy tràn ngập thể trí và
tăng cường nó bằng các xúc động thanh cao của sự an lạc, ḷng bác
ái, sự cung hiến và các nguyện vọng tâm linh. H́nh ảnh nầy sẽ đào
luyện con người thiêng liêng nhờ năng lực sáng tạo của trí tưởng
tượng. Năng lực nầy lúc trước gây cho chúng ta bao nhiêu đau khổ,
th́ bây giờ hữu ích bấy nhiêu, v́ khi chúng ta sử dụng trí tưởng
tượng một cách ư thức rồi chúng ta không c̣n là đứa tớ của nó nữa.
Nó không c̣n sai khiến chúng ta mà trở thành một dụng cụ của chúng
ta. Một năng lực thù nay trở thành năng lực bạn.
Năng lực
sáng tạo của trí tưởng tượng trong vai tṛ kiến tạo thật vô biên.
Chúng ta có thể sử dụng năng lực ấy không những trong cách ăn ở và
trong hành động hằng ngày mà cả trong công việc làm và trong các tṛ
tiêu khiển, một khi chúng ta biến thể trí thành một kẻ phục dịch
hiền lành. Bây giờ, quí vị hăy chuyển tâm thức ra khỏi thể trí và đặt nó dưới quyền sử dụng của Chơn Nhơn, cũng như quí vị đă từng làm đối với các thể xác và thể vía. Kể từ nay, ba thể tuân theo mệnh lệnh của chúng ta; trong các giới ảo tưởng, đó là ba con ngựa đang kéo chiếc xe do Chơn Nhơn cầm cương điều khiển. Chúng không c̣n buông lung chạy đâu tùy thích nữa mà ngoan ngoăn theo con đường do Chơn Nhơn đă chọn. Như vậy Chơn Nhơn đă giải thoát tâm thức ra khỏi sự trói buộc của ba thể và đưa nó vào cảnh giới của chính ḿnh, nơi đây Chơn Nhơn có thể luôn luôn sử dụng các thể như là kẻ phục dịch rất ngoan
THẾ GIỚI CỦA CHƠN NHƠN
Một khi
được giải thoát khỏi ba thể, tâm thức ta tự nhiên sẽ trở về ḥa hợp
với con người thật là Chơn Nhơn.
Quí vị c̣n
phải cố gắng tiến thêm một bước nữa để ư thức không chút mảy may
nghi ngờ, rằng ḿnh là Chơn Nhơn, là linh hồn thiêng liêng bị lưu
đày từ lâu. Quí vị hăy đưa linh hồn về quê hương của ḿnh, hăy bước
vào cơi đó là cơi sở hữu của ḿnh, và trong khoảnh khắc, quí vị tự
nhận ra ḿnh là cái Ta thiêng liêng ḥa đồng với bản tánh thiêng
liêng của vạn vật. Đến lúc đó, chơn tánh của chúng ta hiện ra rất rơ
rệt và sự tranh đấu gay go giữa Chơn Nhơn và Phàm Nhơn chấm dứt. Tâm
thức bị giam cầm và lưu đày đă quay về với tâm thức chung mà lúc
trước nó bị tách rời. Con người bây giờ là Một. Cái Ta thiêng liêng
bên trong đă được giải thoát khỏi ba thể và biết sử dụng chúng một
cách ư thức để làm dụng cụ.
Quí vị
không nên chỉ hướng suông tâm thức về Chơn Nhơn bằng tư tưởng. Quí
vị cũng không nên chỉ bằng ḷng dùng trí thông minh nh́n nhận rằng
ḿnh là Chơn Nhơn. Quí vị hăy thực hiện việc đó. Quí vị phải là Chơn
Nhơn, phải sống trong cảnh giới riêng biệt của Chơn Nhơn. Nếu quí vị
thành công trong việc tách rời tâm thức khỏi các thể th́ quí vị sẽ
đưa tâm thức nầy dễ dàng về với Chơn Nhơn v́ nó là của Chơn Nhơn, và
cảnh giới của Chơn Nhơn lại là quê hương thật của ḿnh.
Khi mới
bước vào quê hương mà chúng ta đă ĺa bỏ từ lâu, chúng ta nhận thấy
một cảm giác tự tại và an vui kỳ diệu. Tuy nhiên lúc đầu, giống như
một người bị giam cầm nhiều năm tại một nơi âm u và bị chói ḷa
trước ánh sáng mặt trời, khi trở lại cơi của chúng ta sau một cuộc
lưu đày nhiều thế kỷ trong khám đường vật chất, chúng ta hơi bỡ ngỡ
v́ ánh sáng nhiều quá và cũng v́ mọi giới hạn xưa đều không c̣n.
Trong cảnh giới nầy, tất cả đều là ánh sáng và an vui: Chơn Nhơn sẽ
phiêu diêu trong một hạnh phúc và một sự huy hoàng tuyệt vời nên
không bao giờ muốn trở về cơi thế vô thường, hư ảo. Bây giờ, chúng
ta biết ḿnh là ai và khi nhận thấy ḿnh và quê hương ḿnh vô cùng
mỹ lệ và thiêng liêng th́ dù mùi trần có cám dỗ thế nào, chúng ta
cũng không thể cho ḿnh là các thể. Sự mê hoặc kềm hăm xưa đă tiêu
tan và lần thứ nhất, chúng ta biết được thế nào là cái tâm an lạc và
vô ngại.
Thật lạ
thay khi tất cả bỗng trở thành giản dị ! Trong cơi của Chơn Nhơn
chúng ta hành thiện một cách tự nhiên và quá khứ của chúng ta hiện
ra phức tạp, rắc rối đến không sao hiểu nỗi.
Như vậy,
chúng ta có đủ can đảm nh́n nhận chân tánh của ḿnh, th́ tất cả mọi
tranh đấu, mọi cố gắng đều biến mất; đời sống trở nên đơn giản, b́nh
dị và ngày tháng sẽ trôi qua trong sự điều ḥa.
ĐỜI SỐNG
CỦA CHƠN NHƠN
Một trong
các điều làm cho chúng ta ngạc nhiên khi chúng ta tự biết ḿnh là
Chơn Nhơn là nhận thấy Chơn Nhơn có một đời sống vinh quang vượt cao
trên đời sống trần gian.
Cho đến
những người biết Phàm Nhơn là sự biểu hiện tạm thời của Chơn Nhơn,
họ cũng hiểu lầm rằng sự biểu hiện tạm thời đó đối với Chơn Nhơn là
một điều rất quan trọng. Sự thật th́ quăng đời ở trần gian chẳng qua
là một hoạt động phụ thuộc của Chơn Nhơn. Ở cơi của ḿnh, Chơn Nhơn
có một đời sống rất huy hoàng, nhưng làm sao có thể diễn tả đời sống
nầy bằng lời lẽ trần gian và các điều thuộc thế giới hữu h́nh !
Trên cơi
của ḿnh, Chơn Nhơn tích cực tham gia vào Đại Công Nghiệp của Đấng
Tạo Hóa: cùng với các Thiên Thần và các Đấng Cao Cả khác, Chơn Nhơn
góp sức vào việc tạo lập các cảnh giới cần cho sự duy tŕ vũ trụ nầy.
Công nghiệp của Đức Thượng Đế là sáng tạo, và Chơn Nhơn v́ là thiêng
liêng cũng theo đuổi công tŕnh sáng tạo đó. Chỉ nghệ thuật mới có
thể diễn tả được sự nghiệp thật sự của con người thiêng liêng, và
chúng ta phải nhờ tài diễn tả của các thi sĩ và nhạc sĩ nếu chúng ta
muốn có một ư niệm về sự nghiệp nầy.
Như trong
tập thơ của Shelley tựa “Prométhée giải thoát”, chúng ta thấy phảng
phất hoạt động của Chơn Nhơn qua bài thơ “Hợp ca các Đấng Thánh Linh
và Thời Gian”:
“Hăy tạo
lập một màn tiết điệu huyền bí, - từ cơi thâm sâu của trời cao và từ
các cơi xa xôi của hoàn vũ – hăy đến, hỡi các Thánh Linh vạn nặng và
an lạc – hăy đến để ban hân hoan, vũ điệu và lời ca tràn ngập khắp
nơi – giông như lượn sóng của muôn ngàn sông rạch cùng nhau tuôn
trào ra đại dương huy hoàng và ḥa hợp!”. Và tiếp theo đó, “Hợp ca
các Đấng Thánh Linh” hát:
“Và lời ca
sẽ kiến tạo – trong không gian mênh mông và trống rỗng – một cơi
dùng làm dụng cụ cho Đấng Thánh Linh Minh Triết”.
Lời ca,
tiếng nhạc, âm thanh họa chăng mời gợi được ư niệm về công nghiệp
của Chơn Nhơn, tuy rằng nơi cơi của Chơn Nhơn không có chi giống với
cái mà tại trần thế chúng ta gọi là âm thanh. Nói chung, công nghiệp
nầy tương tự một đại ḥa tấu, mà nhạc điệu và âm giai là những sinh
vật sống động, luôn luôn ca hát để diễn tả bản tánh của ḿnh và sáng
tạo không ngừng với quyền năng sở hữu. Chúng ta c̣n có thể so sánh
công nghiệp nầy với một khuôn lụa sáng ngời, trong đó những sinh vật
giống như các điểm rực rỡ nối liền nhau bằng những lằn sáng chói.
Nhưng không cái chi có thể diễn tả được sự hân hoan thuần khiết, sự
toàn phúc tuyệt vời và cảm giác sung sướng của Chơn Nhơn được tắm
ḿnh trong ánh sáng của một “cảnh đẹp tuyệt vời chưa một ai nh́n
ngắm”.
Một đoạn
của Cựu Ước Kinh có nói rằng khi thế giới được tạo lập th́ “các Con
của Đức Thượng Đế reo vang vui mừng”. Lời nầy gợi h́nh ảnh của Chơn
Nhơn, con thật sự của Đức Thượng Đế, đang phát huy hạnh phúc trong
cơi của ḿnh . . .
Tất cả
công nghiệp giống như một nghi lễ bao la, một Thánh Ca khả kính phụ
họa sự sáng tạo đang duy tŕ các cơi. Điều mà nơi thế gian chúng ta
gọi là nghi lễ, chỉ là vang bóng của một nghi thức chân xác và vĩ
đại mà Chơn Nhơn biết rơ trong cơi riêng của ḿnh. V́ thế mà nghi lễ
của các tôn giáo lớn và của Hội Tam Điểm (Franc-Maçonnerie) khiến
chúng ta nhớ lại quê hương chúng ta; trong các nghi lễ nầy, phảng
phất đâu đây những ḥa điệu lẻ loi của một bài ca tuyệt diệu hằng
vang lên ở quê hương của chúng ta.
ĐỜI SỐNG
CỦA CHÚNG TA TẠI THẾ GIAN
Khi chúng
ta đạt đến tâm thức Chơn Nhơn, đời sống trần gian mà chúng ta tưởng
là vô cùng quan trọng, hiện ra hư ảo gần như một giấc chiêm bao. Đối
với Chơn Nhơn, đời sống phàm trần chẳng qua là một phận sự bắt buộc,
một bài học về cái ta riêng rẽ. Do đó, Chơn Nhơn phải ĺa quê hương
và chỉ những cảnh giới nặng đặc mới có đủ năng lực kháng cự và phân
ly để phát triển cá nhân tính hay ư niệm về cái “Ta” rất cần cho
Linh hồn.
Từ cơi của
Chơn Nhơn, khi nh́n xuống trần gian, ta thấy ḷng b́nh thản vô cùng
v́ đời sống trần gian hiện ra không c̣n quan trọng nữa và chỉ được
Chơn Nhơn lưu tâm một ít mà thôi. Chúng ta giống như một nhà chính
trị, quá bận rộn với công việc quốc gia, nên chỉ có thể dành đôi
chút th́ giờ cho những việc hoạt động riêng tư, nhỏ nhặt.
SẮC ĐẸP
CỦA CHƠN NHƠN
Cơi của
Chơn Nhơn không có các h́nh dạng và màu sắc của cơi trần, nhưng muốn
tả cơi ấy, chúng ta phải dùng màu sắc và h́nh dạng nầy. Vậy chúng ta
thử tả h́nh dáng của Chơn Nhơn, mặc dù Chơn Nhơn biểu hiện khác hẳn
các sắc tướng của cơi hiện tượng. Do đó, quí vị cần thận trọng khi
chúng tôi tả Chơn Nhơn như một người huy hoàng tột bực, nhưng h́nh
dáng nầy thay đổi tùy thiên tài và sứ mạng của Chơn Nhơn trong Đại
Công Nghiệp. Tôi biết được một Chơn Nhơn như pho tượng Apollo của
người Hi Lạp, được trổ trong đá hoa sáng chói và siêu nhiên. Linh
cảm là đặc điểm của vi nầy. Một Chơn Nhơn khác hơi giống tượng Thần
Déméter tại Viện Bảo Tàng “British Museum”, gương mặt trang nghiêm,
b́nh thản và an tĩnh đang trầm ngâm nghĩ ngợi về cơi thuộc phần vụ
Ngài chăm nom và bảo trợ. Mỗi Chơn Nhơn đều có một h́nh dáng riêng
sáng ngời và tuyệt đẹp, tùy sứ mạng hay thiên tài của ḿnh.
Khi đă đưa
tâm thức chúng ta vào cơi của Chơn Nhơn, và nhận biết rơ chân tướng
thanh cao của ḿnh, chúng ta không bao giờ c̣n cho ta là cái bóng
của chân tướng ấy; khi đă biết ḿnh là cái Ta thiêng liêng bên
trong, th́ không khi nào dù trong khoảnh khắc, ta c̣n ảo tưởng rằng
chúng ta là thể xác và có ở một nơi nào trên cao một cái Ta thiêng
liêng. Kể từ bây giờ, vị trí của chúng ta đổi ngược lại: khi đề cập
đến ḿnh, chúng ta nói đến một Đấng tuyệt vời là chúng ta, chớ không
phải nói đến các thể trong đó chúng ta chỉ tạm đặt một ít tâm thức
mà thôi.
LÀM THẾ
NÀO ĐỂ CÓ MĂI TÂM THỨC CHƠN NHƠN?
V́ trong
một thời gian rất dài, chúng ta tiến hóa như một kẻ bị đày trong
ngoại cảnh tối tăm, nên xu hướng chung của chúng ta là đồng hóa với
các thể, dù rằng chúng ta tự nhận được chúng ta là Chơn Nhơn.
Chúng ta
thường vấp phải lỗi lầm nầy: sau khi đă cảm xúc được một kích động
tâm linh ngắn ngủi nhưng dồi dào trong một buổi lễ hay một buổi tham
thiền, chúng ta ngồi tiếc: “Chà, thật là tuyệt diệu, tôi tiếc rằng
kích động đó đă qua”. Quí vị nên lưu ư đến sự lầm lạc nầy. Khi quí
vị cảm giác được một điều cao thượng, th́ phải nói: Thật là tuyệt
diệu và tôi sẽ giữ măi cảm xúc nầy ở tôi”. Hai lời nói trên khác
nhau nhiều. Sự yếu đuối của chúng ta là sau khi chứng nghiệm được
một cảm xúc quí báu, chúng ta lại cam chịu để nó mất đi. Quí vị đừng
khi nào cam chịu như thế. Quí vị nên cưỡng lại và nói: “Tôi không để
cảm xúc nầy thoát đi; tôi giữ măi các điều thực hiện thiêng liêng
nầy; Ta, cái Ta thiêng liêng, tôi quyết giữ nó lại”. Và ta có thể
giữ lại v́ những người khác đă giữ được. Vả lại, nếu một ngày kia,
tất cả chúng ta sẽ sử dụng được các quyền năng thiêng liêng của ḿnh
và cũng sẽ có tâm thức Chơn Nhơn mà bây giờ chúng ta chỉ thấy thoáng
qua trong chốc lát, th́ tại sao ta không thực hiện các điều đó ngay
bây giờ ?
Biết rằng
ḿnh là Chơn Nhơn, và đời sống của ḿnh vui tươi, an lạc. Quí vị hăy
quyết định sống đời sống đó. Quí vị đừng trở lại cảnh tối tăm của sự
tù đày. Tại sao trở lại cuộc đời của phàm ngă, cái kiếp sống ngục
tù, chật hẹp và đen tối khi quí vị có thể sống ở cơi ánh sáng của
Đời sống thiêng liêng? Tại sao khộng lưu lại đây, làm việc nơi đây,
sống tại đây?
Biết ta là
Chơn Nhơn, chúng ta nên hiểu rơ quyền năng của Chơn Nhơn.
Trước tiên
là t́nh bác ái, một trạng thái của Chơn Nhơn. Cái quyền năng hợp
nhất nầy được gọi theo danh từ Thông Thiên Học là Bouddhi (Bồ Đề
Tâm). Khi tâm thức của Chơn Nhơn nhập vào ba thể và bị lệ thuộc phàm
nhơn, th́ ban đầu chúng ta có cảm giác ta là một sinh vật cách biệt
hẳn với cảnh vật xung quanh. Nhưng khi chúng ta trở lại với Chơn
Nhơn th́ cái ảo tưởng biệt lập đó biến mất, và chúng ta ư thức rơ
ràng được sự hợp nhất. Lúc đó, mầu nhiệm thay, tuy vẫn biết ḿnh là
một cá thể, chúng ta lại chia sớt đời sống của mọi người, của vạn
vật. Chúng ta là sự sống của thảo mộc đang nẩy mầm, của nước trong
biển cả, của gió mây, của ánh sáng, của muôn loài. Năng lực của t́nh
yêu là thế; trên con Đường
chí thiện, đó là năng lực quyết định duy nhất. Cái sức mạnh nó
đưa chúng ta đến sự Hợp Nhất thiêng liêng không phải là ư chí, cũng
không phải là tư tưởng mà là t́nh thương yêu. Thương yêu là hợp
nhất, và càng hợp nhất th́ chúng ta cảm thấy thương yêu mọi người,
cả cỏ cây, kim thạch. Hơn nữa, khi chúng ta tiến đến sự hợp nhất với
Sự Sống thiêng liêng th́ Sự Sống nầy lôi cuốn chúng ta như đá nam
châm. Quí vị nên cố gắng cảm thấy quyền năng thương yêu của Chơn
Nhơn bao trùm vạn vật và tan ḥa tâm thức ḿnh trong tâm thức bao la
của Vũ trụ.
Bắt đầu,
quí vị nên cảm thấy tâm thức riêng rẽ của ḿnh như là một phần tâm
thức của Đức Sư Phụ và cố ḥa hợp trọn vẹn với Ngài. Sự hợp nhất
nầy, quí vị đừng chiêm ngưỡng nó mà phải cảm xúc nó, nó phải là một
sự thật hiển nhiên khiến quí vị cảm thấy rằng ḿnh là một phần của
Sư Phụ. Nhờ thế, quí vị sẽ nhận định rằng t́nh thương là năng lực
quyết định duy nhất trên Con Đường Đạo. Sức mạnh của t́nh thương,
ḷng sùng bái các Sư Phụ và cái mức độ ḥa hợp với Ngài, đó là những
điều giúp chúng ta được các Ngài thu làm đệ tử.
Cũng theo
cách thức ấy, nhưng trong một phạm vi vô cùng rộng lớn hơn, tâm thức
chúng ta sẽ mở rộng mênh mông khi chúng ta cố gắng ḥa hợp với tâm
thức của Quần Tiên Hội. Tâm thức nầy, tuy được kết tạo bởi nhiều
Đấng Cao Cả, nhưng chỉ được điều động do một ư chí duy nhất, ư chí
của Đức Ngọc Đế. Khi chúng ta ư thức được đôi chút sức hợp nhất kỳ
diệu của nó, chúng ta sẽ hướng măi về nó để dần dần tiến đến sự Điểm
Đạo lần thứ nhất.
T́nh
thương như đá nam châm, nó thu hút chúng ta vào ḷng vạn vật để đưa
chúng ta đến mục đích của sự tiến hóa là sự hợp nhất thiêng liêng.
Lúc nào
chúng ta hiểu được như thế, chúng ta sẽ lănh hội được ư nghĩa của
câu châm ngôn huyền bí: “Tăng trưởng như một đóa hoa”. Dưới sức nóng
và ánh sáng mặt trời, đóa hoa tươi nở, nó khao khát mặt trời và
hướng về mặt trời. Chính t́nh thương mặt trời của hoa làm cho nó nở,
t́nh thương của linh hồn đối với Thái Dương thiêng liêng cũng thế,
nó giúp linh hồn tăng trưởng. Sự tăng trưởng nầy không có cho khó
nhọc, và không cần được khuyến khích, thúc đẩy ǵ cả v́ chúng ta ḥa
hợp một cách tự nhiên với những ǵ ta thương mến. Do đó, t́nh thương
chúng ta phải bao la, rộng răi để bao gồm vạn vật, v́ trong vạn vật
đều có sự sống thiêng liêng mà chúng ta đang t́m. Nếu chúng ta loại
trừ một sắc tướng nào, chúng ta sẽ loại bỏ luôn chính sự sống thiêng
liêng ở trong đó, và như thế, sự hợp nhất sẽ bị trở ngại. Trong tâm
quí vị, đấng Ky Tô phải trở thành trung tâm ḥa hợp vạn vật; trong
t́nh thương Ngài. Quí vị hăy cảm thấy t́nh thương vạn vật và từ sự
yêu thương Chúa, quí vị sẽ đi đến chỗ thương yêu mọi người, mọi vật.
Chừng đó, chúng ta sẽ hiểu ư nghĩa thâm sâu của lời sau đây của Đấng
Ky Tô: “Một khi các người làm điều chi cho một em bé nhỏ nhứt trong
các em ta, chính là các người đă làm điều đó cho ta vậy”.
Lần nầy
cũng thế, muốn thực hiện được t́nh thương của Chơn Nhơn, chiêm
ngưỡng suông, nhận thức suông không đủ, chúng ta phải cảm xúc t́nh
thương đó, phải trở thành t́nh thương đó để nó đưa chúng ta lâng
lâng trên trời xanh đến mục đích tối cao. Đó là một quyền năng mà
chúng ta phải tập sử dụng một cách ư thức.
Ư CHÍ CỦA
CHƠN NHƠN
Chơn Nhơn
có một quyền năng khác mà chúng ta phải học để nhận thức rằng nó
thuộc về ḿnh, đó là Ư Chí
mà Thông Thiên Học gọi là Atma. Đừng lầm lẫn quyền năng thiêng
liêng nầy với cái khiếu yếu ớt mà chúng ta thường gọi là “Ư Chí”.
Tôi chưa biết một danh từ nào bị hiểu sai hay bị lạm dụng như thế.
Chúng ta dùng nó khi chúng ta muốn: “ước mong” hay “ham muốn”. Chúng
ta thường nói: “Người ấy có một ư chí yếu đuối”, nhưng nói thế th́
sai. Khi chúng ta nói: “Các ư chí chống đối” th́ ta hiểu đó là sự va
chạm giữa điều ham muốn ích kỷ. Cũng như chúng tôi đă lưu ư ở đoạn
trước, các ông Coué và Baudouin dùng danh từ ư chí để chỉ sự kháng
cự khó khăn và bấn loạn, và chính v́ thế mà vấn đề bị đặt sai trong
quyển sách của hai ông.
Chúng ta
hăy loại bỏ ư tưởng rằng ư chí “động tác”, rằng nhờ ư chí mà chúng
ta đạt được kết quả. Động tác, thực hiện, không phải là phần vụ của
ư chí mà thuộc một trạng thái khác của Chơn Nhơn; đó là sự hoạt động
sáng tạo. Ư chí là một Đế vương muốn “điều nầy việc nọ được làm”
nhưng tự ḿnh th́ không làm lấy việc đó. Định nghĩa theo tâm lư học
th́ ư chí là quan năng tập trung tâm thức vào một việc nhất định.
Như thế, chúng ta thấy rằng ư chí là một năng lực rất thanh thản,
b́nh tĩnh và yên lặng; tóm tắt, đó là năng lực trụ vào một điều và
loại hẳn các việc khác. Năng lực ấy là một quyền lực phi thường mà
ít ai hiểu được.
KHÔNG CÓ
MỘT Ư CHÍ YẾU ĐUỐI
CHỈ CÓ MỘT
SỰ TƯỞNG TƯỢNG VÔ KỶ LUẬT
Muốn hiểu
rơ hơn, chúng ta nên phân tách vài trường hợp trong đó Ư chí thường
được cho là yếu đuối. Ví dụ chúng ta quyết định thức dậy vào sáu giờ
mỗi buổi sáng. Vào giờ nói trên, chúng ta thức dậy với cảm giác c̣n
buồn ngủ và mệt mỏi. Nếu chúng ta biết cách sử dụng ư chí, chúng ta
chỉ chăm chú vào một ư tưởng duy nhất là việc thức dậy và cương
quyết loại trừ các ư tưởng khác, th́ sẽ không có sự chiến đấu. Nhưng
thường chúng ta đâu có làm thế, trái lại chúng ta để trí tưởng tượng
xen vào để h́nh dung ḿnh lạnh run khi rời bỏ chiếc nệm ấm và rất
sung sướng được nằm ngủ trên giường. Những h́nh tư tưởng nầy rất tai
hại v́ chính do áp lực sáng tạo của chúng nó mà ta nằm lại ngủ thêm.
Mỗi khi trí tưởng tượng đă hoạt động như thế rồi, chúng ta có kháng
cự đi nữa th́ cũng vô hiệu. Ví dụ chúng ta có thắng th́ chúng ta
cũng đă gây ra một trận chiến đấu gay go mà chúng ta có thể tránh dễ
dàng nếu chúng ta hiểu rơ vai tṛ thực sự của Ư chí. Vậy khi chúng
ta thất bại nằm lại trên giường, đó không phải do ư chí yếu ớt, mà
v́ trí tưởng tượng ngông cuồng. Việc sử dụng tư tưởng đúng cách là
kềm giữ tư tưởng sáng tạo tập trung, bất động vào một ư tưởng duy
nhất – ư tưởng thức dậy – và loại ra tất cả tư tưởng khác. Như vậy,
chúng ta sẽ không cho phép trí tưởng tượng nghĩ đến các khổ sở khi
phải ra khỏi giường và sự sung sướng được nằm trở lại. Chừng đó,
chúng ta sẽ ngồi dậy và vui vẻ ra khỏi giường. Hamlet nói: “Trên màu
sắc tự nhiên của sự quyết định, tư tưởng phóng vào cái bóng tái nhợt
và ươn yếu”. Lời nói nầy là một sự thật tâm lư thấm thía. Ư chí là
quyền năng chú định tâm thức vào đối tượng đă chọn và loại ra tất cả
ư nghĩ và cảm xúc chống đối.
Một ví dụ
khác: hầu hết phần đông chúng ta biết rơ cái cảm giác khó chịu khi
chúng ta sắp sửa từ trên cao lao ḿnh xuống nước. Chúng ta đă quyết
nhảy, nhưng đến đúng lúc nhảy, chúng ta lùi lại để tập trung can
đảm. Chúng ta lưỡng lự v́ chúng ta tưởng tượng rằng nhảy là nguy
hiểm và tốt hơn đừng nhảy. Nếu chúng ta đừng tưởng tượng như thế và
tập trung tư tưởng vào một điểm duy nhất là sự nhảy, ta sẽ nhảy
không chút khó khăn.
VIỆC SỬ
DỤNG Ư CHÍ TRONG HUYỀN MÔN HỌC
Khi chúng
ta hiểu rơ thế nào là ư chí th́ nguyên do các cuộc thất bại hiện ra
rơ ràng. Chúng ta thất bại v́ đến lúc hành động th́ chúng ta cho
phép trí tưởng tượng tạo đủ thứ h́nh tư tưởng chống đối, và tăng
cường h́nh tư tưởng nầy bằng t́nh cảm hay dục vọng khiến chúng trở
thành những chướng ngại vật mạnh mẽ. Do đó, cuộc chiến đấu nổi lên
với các tai hại của nó là đau khổ, phí sức và thất bại. Sử dụng đúng
cách Ư chí là tập trung tâm thức bất động vào một mục tiêu duy nhất
cho đến lúc thành công. Khi nào chúng ta cảm thấy và thực hiện được
quyền năng thực sự của Ư chí, dù chỉ có một lần th́ không thể nào
nói nó yếu đuối được. Thật là một quyền năng thiêng liêng mà khi
chúng ta hiểu rơ chức vụ và ư nghĩa, chúng ta sẽ hoàn thành dễ dàng
sứ mệnh của chúng ta.
Vậy chúng
ta hăy hướng tâm thức vào mục tiêu của chúng ta là sự toàn thiện để
phụng sự thế gian. Đó phải là khát vọng duy nhất, quyến rủ và không
thể chấp nhận một trở lực nào. Quí vị có thể nghĩ đó là một sự ham
muốn ích kỷ, khi quí vị chưa vào cảnh giới của Chơn Nhơn và chưa ư
thức được sự hợp nhất. Khi quí vị hiểu rằng sự sáng tạo là một –
tuyệt đối và bất dịch – lúc đó quí vị mới nhân định sự cứu rổi cá
nhân không bao giờ có được. Sự cứu rổi (hay là sự toàn thiện) là sự
hợp nhất với sự sống thiêng liêng hiện diện trong vạn vật: bởi thế
không khi nào sự cứu rổi lại có thể dành riêng cho một vài người. Sự
chiến thắng của một người là sự chiến thắng của tất cả. Khi một
người đạt được quả vị Tiên Thánh, th́ với y, tất cả nhân loại, tất
cả sự sáng tạo đều chiến thắng, một dây liên lạc mới được thành lập
giữa Đức Thượng Đế và nhân loại, và một quyền lực mới được phát sinh
để làm vơi bớt các đau khổ của con người. Trong Hài kịch Thiêng
liêng (Divine Comédie) của Dante, khi một linh hồn được giải thoát
khỏi Hỏa ngục và bước lên Thiên đàng, th́ trọn Hỏa ngục đều hớn hở.
Việc đó thật rất đúng v́ sự thành công của bất luận một người nào là
một sự vui mừng cho tất cả chớ không phải thuộc riêng cho một cá
nhân. Mơ ước sự toàn thiện tức mong từ bỏ ảo tưởng về cái ta riêng
rẽ để chấp nhận sự thật về đời sống đại đồng. Sự ích kỷ và sự toàn
thiện không thể cùng đi chung với nhau.
Quí vị hăy
cố gắng sử dụng cái quyền năng rất thiêng liêng này mà chúng ta ai
ai cũng có sẵn để phụng sự Đại công nghiệp. Quí vị hăy tập trung tâm
thức vào ư tưởng toàn thiện và để ư tưởng này chủ trị các hành động.
Lúc đầu, việc này có lẽ khó nhọc, v́ vừa làm công việc hằng ngày,
vừa kềm tâm thức hướng lên những điều cao thượng, quả thật là một
điều khó; tuy nhiên không bao lâu chúng ta sẽ quen và chừng đó, ư
chí đạt sự toàn thiện sẽ trở thành một tiềm lực thường nhật trên đó
các hoạt động hằng ngày sẽ hiện lên như trên một tấm lụa huy hoàng.
CHÚNG TA
LÀ CON ĐƯỜNG ĐẠO
Kể từ nay,
về một phương diện nào, chúng ta đă là toàn thiện và thiêng liêng.
Cái Ta thật của chúng ta không phải là cái hiện tại thoáng qua và vô
thường, mà là trọn cái quá khứ và vị lai; đó mới là con người toàn
vẹn chứa sẵn nơi ḿnh trọn một chu kỳ tiến hóa. Chúng ta vừa là con
người cỗ lỗ, vừa là con người hoàn toàn, và mục đích các cố gắng của
chúng ta đă thật sự nằm sẵn trong chúng ta.
Bí quyết của sự tiến hóa là
trở thành con người này. Có thế, chúng ta mới hiểu được câu
phương châm huyền bí “Chúng ta phải tự trở thành Con Đường Đạo”. Đó
là tất cả sự thật; tuy nhiên, muốn hiểu được nó, chúng ta phải nhận
định với tâm thức Chơn Nhơn rằng sự toàn thiện không phải là một mục
đích xa lạ có thể đạt từ bên ngoài, mà là một sứ mạng nội tâm nhằm
thực hiện Chơn Nhơn. Khi đă hiểu rơ ư nghĩa của câu: “Tự chúng ta
trở thành Con Đường Đạo”, chúng ta sẽ biết rơ rằng không có điều chi
ở thế gian này có thể ngăn cách chúng ta với mục đích thiêng liêng
mà chúng ta đă biết và không bao giờ quên. Chúng ta như đă nhận thấy
sự thiêng liêng của ḿnh và đă ư thức được rằng mục đích của chúng
ta nằm ngay trong con người ḿnh.
QUYỀN NĂNG
CỦA TƯ TƯỞNG SÁNG TẠO
Đă hiểu
biết t́nh Bác ái và Ư chí, và những quyền năng của Chơn Nhơn, chúng
ta nên xem qua quyền năng thứ ba của nó là
quyền năng sáng tạo mà Thông Thiên Học gọi là Manas (Trí tuệ).
Nơi chúng ta, tư tưởng là sự biểu hiện của Đấng Chúa Thánh Linh,
cũng như Ư chí là sự biểu hiện của Đấng Chúa Cha, và t́nh Bác ái là
sự biểu hiện của Đấng Chúa Con. Đấng Chúa Thánh Linh là Chúa Sáng
Tạo và khi nào chúng ta thực hiện được quyền năng đó th́ chúng ta
cảm thấy hứng khởi, thích động tác và sáng tạo. Chỉ một ḿnh tư
tưởng mới có thể hành động, sáng tạo và thực hiện các mệnh lệnh của
Ư chí. Nếu Ư chí là Vua th́ tư tưởng là Thủ Tướng, v́ vậy, các hoạt
động của tư tưởng sáng tạo phải luôn luôn đặt dưới sự điều khiển của
Ư chí. Quyền năng sáng tạo của tư tưởng không có giới hạn. Khi chúng
ta hiểu được nó th́ chúng ta ư thức rằng v́ là Chơn Nhơn, chúng ta
có thể “làm được tất cả”, có thể thi hành mọi mệnh lệnh của Ư chí.
Như vậy, tư tưởng sáng tạo phát sinh mọi hành động cụ thể và do đó,
cần được điều khiển một cách ư thức, nếu không, nó sẽ bị phàm nhơn
sai khiến và trở nên nguy hiểm.
SỬ DỤNG BA
QUYỀN NĂNG
Đó là ba
quyền năng của Chơn Nhơn (tuy nói là ba nhưng là một, v́ chúng là ba
trạng thái hợp nhất của một đơn vị tam phân). Đă hiểu rơ ba quyền
năng và tác dụng của chúng, bây giờ chúng ta thử sử dụng chúng một
lượt như là một đơn vị thuần nhất. Quí vị hăy hướng ư chí vào sự
toàn thiện để phụng sự đời, hăy dùng t́nh thương để ḥa ḿnh vào sự
toàn thiện và dùng tư tưởng để sáng tạo và thực hiện sự toàn thiện
đó. Cách sử dụng này chắc chắn sẽ mang lại kết quả, v́ quyền năng
của Chơn Nhơn là thiêng liêng và vô biên. Chúng ta phải hành động
như vậy không phải chỉ trong những lúc rảnh rang, mà bất kỳ lúc nào,
dù phải bận công việc hằng ngày đến đâu. Bí quyết của các thành công
tâm linh là ở chỗ đó. Đă nhận ra ḿnh là Chơn Nhơn và đă ư thức được
quyền năng của Chơn Nhơn, chúng ta chẳng nên để sa vào tâm thức phàm
nhơn nữa; trái lại chúng ta hăy giữ mức đă đạt được, dù phải cố gắng
đến đâu. Chúng ta không nên vươn lên để rồi lại té xuống. Thỉnh
thoảng, khi một sự phấn khởi hay một sự thực hiện tâm linh nổi lên ở
ḷng ta như trong lúc tham thiền chẳng hạn, chúng ta hăy bám vào
t́nh trạng ấy, hăy đứng vững vàng ở mức độ ấy. Trong lúc đầu, sự cố
gắng có thể là một cực h́nh, nhưng rồi nó sẽ trở thành một thói quen
và chúng ta sẽ làm công việc hằng ngày với một tâm trạng phiêu diêu
ở mức độ mà chúng ta vừa đạt được. Tóm lại, chúng ta đang sống ở cơi
cố hữu của ta chứ không phải là một nơi xa lạ mà chúng ta cố t́m
cách tiến vào. Cơi đó là quê hương thiêng liêng của ta mà chúng ta
đă quên trong một thời gian.
Đă tự nhận
ḿnh là Chơn Nhơn, chúng ta có thể từ trên cơi cao nh́n xem ba thể
và quyết định rằng trong các cảnh giới của ảo tưởng, chúng sẽ là
những kẻ tôi đ̣i và chỉ có thế thôi. Chúng ta sẽ không hạ thấp chúng
xuống nữa, và cũng không để tâm thức phàm tục kềm giữ và chủ trị tâm
thức Chơn Nhơn. Chúng ta phải ngự trên đỉnh núi cao để từ đây, ngắm
không gian mênh mông của sự sống; chúng ta phải hành động, suy tư và
cảm xúc từ đỉnh núi nầy. Chúng ta có thể và phải đến nơi đó.
Trên đỉnh
núi ấy, quí vị hăy tưởng tượng ba thể của ḿnh, quí vị hăy thấy thể
trí cởi bỏ những h́nh ảnh tầm thường, vô ích, và
từ
nội tâm, quí vị hăy
chuyển đến nó h́nh tư tưởng của sự toàn thiện
nhằm phụng sự thế gian,
quí vị hăy giữ ǵn h́nh tư tưởng nầy và đừng khi nào để nó tan ră,
bởi v́ từ đây về sau, chính nó sẽ hướng dẫn đời sống của quí vị. Quí
vị hăy giữ thể trí được như thế và quyết định trong tương lai, dù bị
cám dỗ đến đâu đi chăng nữa, nó không được chấp nhận một h́nh tư
tưởng nào mà không có sự thỏa hiệp của quí vị.
Tiếp đó,
quí vị hăy nh́n xuống thể vía là thể t́nh cảm. Quí vị hăy quyết định
nó sẽ dồi dào sinh lực do các cảm xúc của Chơn Nhơn. Nó phải được
tràn ngập t́nh thương, ḷng sùng tín, thiện cảm và hoài vọng tâm
linh. Quí vị hăy nh́n nó chói rạng các cảm xúc ấy và không khi nào
để nó chịu ảnh hưởng bên
ngoài. Như thế, nó sẽ rung động với sự sống mới.
Bây giờ,
quí vị nh́n lại thể phách và thể xác, và cũng quyết định rằng trong
tương lai, chúng phải là những dụng cụ của Ư chí. Quí vị hăy xem
cách thức Ư chí biểu hiện qua thể xác, cảm giác năng lực thiêng
liêng của Chơn Nhơn tuôn trào trong nó và cảm thấy nó được phục sinh
do ảnh hưởng bên trong. Đó là bí quyết phục sinh thể xác. Khi quí vị
để nó trở thành một thể vận chuyển Atma như thế, nó sẽ được đổi mới,
trở nên tinh khiết, khỏe mạnh, và thoát khỏi các bệnh tật và đau khổ
mà trước kia nó phải chịu v́ c̣n lệ thuộc vật chất. Quí vị hăy giải
thoát thể xác khỏi cảnh nô lệ đó, để nó sống trong cơi trần mà vẫn
thoát trần. Nó phải được ḥa hợp với Chơn nhơn thay v́ kết chặt với
trần thế. Các thể của quí vị phải tùy thuộc
Chơn Nhơn và nhận các quyền năng của Chơn Nhơn. Chúng phải là
những vận hà cho các quyền năng nầy, nhưng về phần quí vị, quí vị
phải ngự trên đỉnh núi mà ngắm xem các cơi.
Chừng đó,
một sự an lạc thiêng liêng sẽ đến cùng quí vị và các nỗi khó nhọc sẽ
tiêu tan. Làm sao các khó khăn nầy c̣n có thể có được khi quí vị đă
t́m thấy thiên tính của ḿnh, biết ḿnh là Chơn Nhơn và không c̣n
đồng hóa với các thể? Bây giờ, quí vị chỉ c̣n nghĩ đến sự toàn thiện
và tư tưởng nầy sẽ chi phối trọn thể trí với một sự b́nh an hoàn
toàn, v́ theo một định luật th́ không thể có hai h́nh tư tưởng cùng
tác động một lượt trong thể trí. Với h́nh tư tưởng hoàn thiện ấy,
quí vị vẫn làm công việc hằng ngày, nhưng tránh được những điều xấu
xa không cho thâm nhập vào thể trí nữa. Trong tương lai, quí vị hăy
luôn luôn đặt trọng tâm ở đời sống nội tâm, đừng cho các thể ảnh
hưởng tâm thức cốt để ư thức về Chơn Nhơn lúc nào cũng được sáng tỏ.
Quí vị hăy ra lịnh rằng ḿnh đă trở về quê hương thiêng liêng và ở
lại đó măi măi. Quí vị đừng ngần ngại cho ḿnh là thiêng liêng, quí
vị không có kiêu căng đâu, v́ kiêu căng là trạng thái của sự chia rẽ
mà quí vị bây giờ đă cảm thấy tan ḥa trong một tâm thức mênh mông,
và biết mọi t́nh cảm, tư tưởng và hành động đều bắt nguồn từ sự sống
của Chơn Nhơn, nó tuôn trào xuống thế gian xuyên qua quí vị là những
vận hà.
Và trong
tâm thức đó, quí vị hăy cảm thấy ḥa hợp với Đức Sư Phụ và thấy Ngài
hiện ra với một niềm hân hoan khôn tả. Trước sự hiện diện của Ngài,
vạn vật đều trở nên an lạc, c̣n chúng ta chỉ có một ước vọng duy
nhất là được đến gần Ngài và cố gắng trở nên thanh cao như Ngài
thanh cao và thiêng liêng như Ngài thiêng liêng.
V́ thế,
con đường của Chơn Nhơn cũng là con đường Điểm Đạo. Sự Điểm Đạo là
sự ḥa hợp thường xuyên giữa tâm thức đă nhập trong các thể, và Tâm
Thức Mẹ đă bị bỏ quên từ lâu. Đó là bước đầu của một đời sống mới,
đời sống ư thức của Chơn Nhơn tác động qua sự trung gian của ba thể.
Những đức
tánh cần thiết cho sự Điểm Đạo được kể như thế nầy hay thế nọ, nhưng
khi chúng ta đạt được tâm thức Chơn Nhơn một cách thường trực, chúng
ta đương nhiên sẽ có cùng một lúc các đức tánh khác. Tâm thức Chơn
nhơn giúp chúng ta Phân biện dễ dàng bởi v́ ngự trên cơi của Chơn
Nhơn, chúng ta nh́n thấy sự sống dưới một quang cảnh chính xác. Tâm
thức Chơn Nhơn loại trừ mọi ham muốn bởi v́ khi tâm thức thoát ra và
làm chủ các thể th́ các thể không c̣n chạy theo những ham muốn riêng
mà trở lại phục vụ Chơn Nhơn. Tâm thức Chơn Nhơn sẽ đưa ta đến một
đời sống thanh cao v́ lối sống của chúng ta không c̣n tùy tâm thức
các thể mà được đặt dưới sự hướng dẫn của Chơn Nhơn. Tâm thức của
Chơn Nhơn c̣n chứa đựng t́nh thương trong ư nghĩa rộng răi nhất của
danh từ nầy, v́ cảnh giới của Chơn Nhơn là cảnh giới của sự Hợp
Nhất; chúng ta không thể đạt đến tâm thức Chơn Nhơn nếu không thấy
ḿnh ḥa hợp với muôn loài.
Ngoài ra,
khi chúng ta tập sống với Chơn Nhơn, chẳng những chúng ta đạt
được mục tiêu trực tiếp của cuộc tiến hóa là sự Điểm Đạo, mà
chúng ta c̣n hưởng được một phần thưởng khác là sống một đời sống
mới, vui tươi, hùng dũng và luôn luôn b́nh an.
Tất cả
chúng ta có thể nh́n nhận ra ḿnh và sử dụng quyền năng của ḿnh. Đó
không phải là một việc lạ mà chúng ta phải t́m ở đâu xa, chúng ta
chỉ bước một cách dễ dàng vào cơi cố hữu của ḿnh và hưởng những
quyền sở hữu của ḿnh.
Vậy chúng
ta hăy vui mừng lên v́ nguồn gốc thiêng liêng của chúng ta và hăy
hưởng những quyền năng phát sinh từ nguồn gốc ấy. Chúng ta hăy cương
quyết trở về quê hương của chúng ta mà chúng ta đă xa cách từ lâu để
sống một cuộc đời lưu đày trong bao nhiêu năm ở các cơi tối tăm và
đau khổ.
Nguyện cầu
các Đấng Chơn Sư mà chúng con đang phụng sự ban ân huệ cho chúng
con; nguyện cầu T́nh thương của các Ngài nâng đỡ, hộ tŕ chúng con
cho đến ngày chúng con đạt được sự Toàn Thiện và sự Vinh Quang của
các Ngài.
Có thám
hiểm cảnh giới Tâm thức, chúng ta mới biết được ta là Chơn Nhơn,
đang sống trong cơi của Chơn Nhơn và dùng ba thể để biểu hiện ở các
cơi thấp, chớ không phải là dụng cụ của ba thể. Các người chí nguyện
phải tập sống với Chơn Nhơn theo cách thức tŕnh bày trong quyển nầy
cho đến khi có thể giữ măi Tâm thức Chơn Nhơn ở ḷng ḿnh. Lư tưởng
của chúng ta là khi đưa tâm hồn đến mức độ Chơn Nhơn th́ hăy cố lưu
lại đó chứ đừng để bị lôi cuốn xuống các hố nô lệ do các thể tạo
thành. Có người thành công ngay lần đầu, những người khác th́ vấp
ngă khi một việc khó khăn xảy ra đột ngột. Dù trong trường hợp nào,
chúng ta cần tập giữ vững tâm thức Chơn Nhơn để kiện toàn các thành
công đă đạt hay để củng cố một t́nh trạng lung lay.
Trong các
chương trước, chúng tôi phải nhiều lần giải thích dài ḍng cách thức
tập luyện nầy nên e nó có vẻ rườm rà, phức tạp. V́ vậy chúng tôi
thấy cần ghi lại các điểm chính cho những ai muốn đạt tâm thức Chơn
Nhơn. Cách thức đạt tâm thức nầy th́ nhiều, nhưng cách được mô tả
trong quyển sách nhỏ nầy đă tỏ ra hữu hiệu và đă từng giúp ích cho
nhiều người tâm trạng khác nhau. Chúng tôi tưởng nên gọi nó là một
sự tập luyện hơn là một sự tham thiền, tuy rằng sự tham thiền nào
cũng là một sự tập luyện. Nếu sự tập luyện nầy được thực hiện trong
một nhóm đông, th́ một người nên đọc nhỏ bài tập sau đây để cho các
cố gắng đều được phát sinh một lượt. Cũng như trong các buổi tham
thiền, sự thoải mái thân thể quan trọng hơn là các tư thế khó khăn
thường thấy ở phương Đông mà chúng ta không quen; chúng ta cần chọn
một chỗ vắng vẻ để khỏi bị quấy rầy và tập theo các chỉ dẫn ghi sau.
THAM THIỀN
VỀ CHƠN NHƠN
Nếu nhiều
người tụ họp để tập th́ trước hết phải nghĩ đến sự ḥa hợp của nhóm
và cảm xúc được sự ḥa hợp ấy.
Kế đó, hăy
nghĩ đến một lư tưởng cao thượng, đến Đấng Chơn Sư th́ tốt hơn, và
cố gắng cảm thấy t́nh thương mến và ḷng chiêm ngưỡng Ngài thấm đượm
ḷng ḿnh.
Bây giờ,
hăy suy nghĩ về thể xác: thể xác là một kẻ tôi đ̣i, có phận sự phục
vụ ḿnh tại thế gian; hăy cảm thấy nó khỏe mạnh, cường tráng và nhận
sinh lực từ một nguồn bên trong.
Đoạn, hăy
đưa thể xác và thể phách ra khỏi tâm thức và hăy nh́n xem thể vía.
Hăy loại tất cả các xúc cảm và dục vọng thấp kém ra khỏi nó và
chuyển qua nó các t́nh cảm thanh cao: t́nh yêu vạn vật, ḷng sùng
mến Đấng Chí Tôn, sự xót thương những người đau khổ và sau cùng,
những hứng khởi tâm linh. Làm sao cho các t́nh cảm nầy phát huy
không ngừng từ thể vía.
Tiếp theo,
ta cũng đưa thể vía ra khỏi tâm thức và hăy nh́n xem thể trí. Thể
trí không c̣n một h́nh tư tưởng xấu xa nào và chói rực rỡ ánh sáng
của Thượng Trí. Hăy tạo trong thể trí h́nh ảnh của chính ḿnh, con
người hoàn thiện trong ba trạng thái t́nh thương, ư chí và tư tưởng
sáng tạo, và để h́nh ảnh nầy choán đầy thể trí.
Sau rốt,
hăy đưa thể trí ra khỏi tâm thức, với cảm tưởng rằng ba thể là những
dụng cụ toàn hảo của Chơn Nhơn.
Bây giờ,
hăy ư thức ḿnh là Chơn Nhơn, hăy đưa tâm thức ḿnh về với Chơn Nhơn
và sống trong cảnh giới riêng của nó, một cảnh giới xinh tươi và an
lạc. Hăy cảm xúc sự b́nh an, sự tự tại, hăy nh́n sự huy hoàng của
cảnh giới ḿnh và nhớ rằng đó là quê hương thật sự của ḿnh.
Kế đó, hăy
thực hiện các quyền năng của Chơn Nhơn, trước tiên là t́nh thương,
quan năng hợp nhất với vạn vật.
Hăy cảm
thấy ḿnh hợp nhất với Sư Phụ và trở thành một phần của tâm thức
Ngài.
Hăy cố
gắng hợp nhất với Quần Tiên Hội và cảm thấy tâm thức hùng dũng nầy
bao trùm trọn thế gian, chứa đựng vạn vật và ḥa hợp tất cả làm một.
Hăy cảm
thấy ḿnh là một với vạn vật đang sống với cảnh vật, với nhân loại.
Hăy cảm thấy ḷng tràn ngập t́nh yêu đối với mọi sinh vật và tâm
thức ḿnh ḥa hợp vào tâm thức đại đồng.
Trong sự
hợp nhất nầy, hăy cảm thấy ḷng an lạc và hứng khởi đến mức thấy
ḿnh nhập vào tâm vạn vật, và cảm xúc t́nh thương của Đức Ki Tô; hăy
cảm thấy ḿnh là một phần của Sự Sống và T́nh Thương của Ngài.
Bây giờ,
hăy thực hiện Ư chí của Chơn Nhơn hay Atma, hăy cảm thấy Ư chí nầy
mạnh mẽ vô cùng và tràn ngập tâm thức ḿnh như ánh sáng của một linh
đăng rực rỡ.
Hăy tập
trung Ư chí vào một mục tiêu duy nhất; sự toàn thiện để phục vụ thế
gian, và để mục tiêu duy nhất nầy thấm đượm tâm thức ḿnh đến nỗi
ḿnh trở thành mục tiêu ấy.
Sau đó,
hăy thực hiện năng lực sáng tạo của Chơn Nhơn là Manas (Trí Tuệ).
Hăy cảm thấy năng lực sáng tạo đó vô biên, hăy dùng sức mạnh ấy tạo
nên ư niệm toàn thiện
rồi củng cố ư niệm nầy hầu tiến đến sự thực hiện.
Tiếp theo,
hăy sử dụng một lượt ba quyền năng: Ư chí để chọn mục tiêu duy nhất
(sự toàn thiện để phục vụ thế gian), t́nh thương để tiến đến mục
tiêu nầy và nhập làm một với nó, và tư tưởng để sáng tạo và thực
hiện mục tiêu. Chúng ta nên làm như thế trọn ngày.
Bây giờ
chúng ta hăy ư thức ḿnh là Chơn Nhơn; hăy nh́n xem sự mỹ lệ của
cảnh giới ḿnh, sự mỹ lệ chính của riêng ḿnh trong cảnh giới đó, và
quyết định duy tŕ tâm thức Chơn Nhơn nầy, mặc dù các trở ngại xảy
trong ngày.
Rồi chúng
ta hăy nh́n xuống ba thể, nh́n nhưng không quay xuống với chúng.
Trước tiên là thể trí; hăy hướng vào nó ánh sáng của Thượng Trí và
tạo nơi nó h́nh ảnh của ḿnh là con người toàn hảo.
Kế đó, hăy
nh́n thể vía và chuyển đến nó những t́nh cảm của Chơn Nhơn là t́nh
yêu vạn vật, ḷng sùng bái Chơn Sư, ḷng xót thương những kẻ khốn
cùng và các hứng khởi tâm linh. Thể vía phải phát huy liên tục các
t́nh cảm cao quí ấy.
Sau cùng,
hăy nh́n xuống thể phách và thể xác: hăy nhận thấy chúng nó là sự
biểu hiện của Ư chí hay Atma, và quyết định rằng nó được thanh
khiết, cường tráng và dồi dào sinh lực do một nguồn sống bên trong.
Hăy ǵn
giữ ba thể như thế để trở thành những con kinh toàn vẹn khả dĩ
chuyển vận và phát huy những quyền năng của Chơn Nhơn.
Luôn luôn
và bất cứ hoàn cảnh nào, hăy xem ḿnh là Chơn Nhơn và duy tŕ tâm
thức Chơn Nhơn.
Để chấm
dứt, hăy ban ân lành cho thế gian ở chung quanh ḿnh, làm vậy, chúng
ta sử dụng ngay các quyền năng mà chúng ta vừa thực hiện được.
Tập xong,
đừng vội quay về tâm thức phàm ngă mà hăy cố gắng giữ tâm thức Chơn
Nhơn nầy trọn ngày. Quí vị cứ làm lụng như thường nhưng lúc nào cũng
lưu tâm đến nó.
[1]
V́ quyển sách
nầy được viết cho người Âu Châu nên tác giả thường nói đến
Thiên Chúa Giáo (Lời dịch giả)
|
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES