trang nhà l trang sách l bản tin l thiền học l tiểu sử l trang thơ l h́nh ảnh l bài vở
MỚI HỌC THAM THIỀN
( LA MÉDITATION À L’ USAGE DES COMMENÇANTS )
Tác Giả
J. I . WEDGWOOD
Dịch Giả NGUƠN HAR CAO THỊ LAN
MỤC LỤC
Mục đích của cuốn sách nhỏ này.
- Tham thiền về các thể xác, vía, trí v. v. . . .
- Những phương pháp tham thiền giống như ở trên nhưng thêm nhiều chi tiết.
- Tham thiền về ḷng Thiện cảm.
- Tham thiền để nới rộng lương tri.
-
Sự chiêm ngưỡng (Contemplation).
II.- Đi t́m Chơn Sư.
-
Sự lập hạnh . (Trau dồi đức hạnh).
III.- Những phương pháp vật chất để làm cho sự tham thiền được dễ dàng.
- Sự thở và những chi tiết khác.
- Sự cần thiết phải có một thái độ tích cực. Sự phát triển tâm linh.
MỚI HỌC THAM THIỀN
“Ngươi hăy
trở về nơi nội tâm và nh́n rơ ở đấy, nếu ngươi chưa được tốt đẹp th́ ngươi hăy
làm như một kẻ nặn tượng hằng trau chuốt cho pho tượng được đẹp, kẻ nặn tượng
cắt xén chỗ này, làm phẳng nhẵn chỗ kia; y gọt dũa đường nét này, y sửa đổi
đường nét kia được thanh cao hơn, y cứ làm như thế măi cho đến khi nào tác phẩm
của y trở thành h́nh ảnh của sự Đẹp.
Cả nhà ngươi nữa, hăy làm giống hệt như thế đi, hăy gọt bỏ những ǵ quá đáng, hăy sửa sang lại những ǵ cong quẹo, hăy mang ánh sáng rọi vào nơi nào tối tăm, hăy làm việc để mọi sự đều đẹp đẽ sáng ngời; và nhà ngươi hăy chỉ ngưng gọt dũa khi nào cái vẻ huy hoàng thiêng liêng của đức hạnh được chói sáng nơi ngươi, cho tới khi nào ngươi trông thấy được ở nội tâm sự hoàn hảo tối cao, vững chăi thành h́nh trong một ṭa Thánh điện trắng tinh”.
MỤC ĐÍCH CỦA CUỐN SÁCH NHỎ NÀY :
Một dấu hiệu đặc biệt của cái khuynh hướng muốn tiến về phía tinh thần ở trong Hội Thông Thiên Học : là càng ngày càng có nhiều hội viên muốn nhận được những lời chỉ dẫn rơ ràng về sự tham thiền thực hành. Những hội viên này thường muốn được dạy cách tham thiền và vài ba người đă vui vẻ nắm lấy cơ hội khi đă được dự vào một nhóm tham thiền chung; từ vài năm nay, những nhóm này đă đóng một vai tṛ quan hệ trong công việc của Hội ở một số xứ bộ.
Cuốn sách nhỏ này được đưa ra với hy vọng có thể giúp đỡ số học viên đông đảo và đứng đắn này muốn sống đời sống tinh thần. Những lời khuyên trong cuốn sách là dành riêng cho những hội viên Hội Thông Thiên Học, nhưng các lời khuyên này cũng hữu ích cho những người khác chưa chấp nhận cái quan niệm về đời sống thường được gọi là Thông Thiên Học. Ngoài ra, tác giả c̣n tin rằng nếu ta chưa hề học hỏi và hiểu rơ những giáo lư được đưa ra trong những sách Thông Thiên Học, nói về cách kiểm soát và sử dụng tư tưởng và các mối xúc động, nếu người chí nguyện học về Huyền bí học mà chưa vượt qua cái giai đoạn học hỏi một cách tài tử th́ dù y có muốn tập tham thiền một cách đúng đắn cũng không ích lợi ǵ cả.
Trong khi chờ đợi, nếu người hội viên mới tập đọc và suy ngẫm theo những cuốn sách gợi ḷng mộ đạo hay tập tham thiền theo phương pháp cũ đă được chỉ dạy trong những tôn giáo công truyền, như thế có lẽ sẽ c̣n ích lợi hơn.
C̣n đối với các sinh viên đă tiến xa và đang thực hành những phương pháp tham thiền khác nhau, th́ tác giả không chỉ dạy ǵ cả.
I
THAM THIỀN LÀ G̀ ?
mục lục chú thích
Tham thiền nghĩa là cố gắng để làm cho một phần nào của cái lương tri siêu h́nh được thâm nhập vào lương tri ta khi ta đang thức, nghĩa là thâm nhập vào trí thông minh của ta khi ta đang ở trong trạng thái hoạt động b́nh thường; tham thiền là cố gắng dùng tấm ḷng nhiệt thành ước nguyện của ḿnh mà tạo ra một con kinh để cho ảnh hưởng Thiêng Liêng của cái thể cao cả nhất “chính là con người thiệt thọ” có thể soi sáng phàm nhơn. Đó cũng là cái trí thông minh và t́nh cảm cố vươn lên về một lư tưởng, là mở rộng cái hầm tối tăm thường giam nhốt phàm ngă để nhận lấy cái ảnh hưởng của lư tưởng đó. Bà H.P. BLAVATSKY nói :
“Tham Thiền là sự ước nguyện nồng nhiệt và tuyệt diệu của con người với nội tâm hướng về cái vô cùng tận”.
Cái lư tưởng được lựa chọn có thể là một lư tưởng trừu tượng [2] - thí dụ một tánh tốt như ḷng thiện cảm hay lẽ công b́nh; lư tưởng có thể là một ư niệm về ánh sáng Nội tâm, là cái Chất Tinh Hoa Thiêng Liêng tức là cái sự thật cao siêu nhất trong bản tính con người; lư tưởng cũng có thể là một ư niệm mờ mịt và mơ hồ về một điều ǵ cao thượng nhất ở nơi ta. Có khi lư tưởng là một vị Chơn Sư, một vị Giáo Chủ Thiêng Liêng; thật ra th́ lư tưởng có thể hiện h́nh ở nơi bất cứ một người nào mà chúng ta cảm thấy xứng đáng để cho chúng ta tôn kính và thán phục. V́ vậy nên đề tài và đường lối tham thiền hết sức khác nhau, tùy theo bản chất con người và cái “cung” [3] của y. Nhưng ở mỗi trường hợp th́ đó chính là Linh Hồn tự tiến lên cao về phía Nguồn Cội Thiêng Liêng của nó, đó là cái phàm ngă riêng rẽ muốn được hợp nhất với cái Đại Ngă của Vũ Trụ.
Bước đầu tiên của sự tham thiền nhắm gieo cái tư tưởng này làm sao để nó trở thành một tư tưởng quen thuộc : xác thân chỉ là một thứ đồ dùng để cho tinh thần sử dụng.
Những ai vừa mới tiếp xúc được với tư tưởng Thông Thiên Học th́ thoạt đầu thấy thật khó ḷng mà đổi ngược lại cái quan điểm của họ về vấn đề này, đối với họ linh hồn và tinh thần là những điều không có thực. Do một cuốn sách hay một đồ h́nh nào đó, họ đă học được tên của những cảnh giới và những thể xác, vía, trí v.v. . . mà những tác giả Thông Thiên Học đă nói đến để cố gắng tŕnh bày một cách rơ rệt và xác đáng như khoa học một ư niệm đại khái về những sự bí mật của bản thể con người. Có lẽ muốn nhớ lại những danh từ đó, trí nhớ của họ phải cố gắng, nhưng dù sao, đối với họ, xác thân là sự thật duy nhất có thể rờ mó được, c̣n cái bản thể vô h́nh th́ chỉ là một ư niệm mờ mịt mơ hồ thuộc về lư trí mà thôi. Tuy nhiên, lần lần, một cách mà ta không thể nhận thấy rơ được, cảm giác này bị tiêu tan đi, và một cảm giác khác bắt đầu hiện ra trong khối óc hồng trần : những vật vô h́nh quả là có thật; cảm giác này làm sống động cái điều trước kia chỉ là một ư niệm suông về lư trí. Ta không cần phải t́m kiếm duyên do ở đâu xa.
Đọc những sách Thông Thiên Học là tự ḿnh tiếp xúc với những thần lực hết sức khích động trong cảnh giới của những khuôn mẫu tuyệt luân làm bằng chất trí; khi ta chú ư vào những thể vô h́nh th́ ta thường khêu gợi ở các thể này sự tự tri giác. V́ ta chú ư và học hỏi về cơi Trung giới nên ta được thức tỉnh dần dần ở cơi đó khi ta ngủ. Khi ta đứng trong ṿng hào quang của những người tiến hóa về mặt tâm linh th́ những thể cao cả của chúng ta cũng được kích thích để trở nên hoạt động hơn. Kết quả của sự phát triển tâm linh bên trong như thế là : tâm linh này bắt đầu khiến cho cái tâm linh phàm trần phải thay đổi, sự hiểu biết của Chơn Ngă Cao Siêu lần lần thấm nhuần khối óc hồng trần và ta sẽ thấy thái độ của ta đối với đời sống được thay đổi đi rất nhiều.
Thật dễ mà nhận thấy rằng lương tri ta đă được mở rộng : ta có những đường lối suy nghĩ và cảm xúc mới mẻ; khi ta càng được giác ngộ th́ ở trong đời sống, cái hoàn cảnh chung quanh ta bỗng có một ư nghĩa mới mẻ; những chơn lư Thông Thiên Học trước kia chỉ là những lư thuyết của lư trí nay đă biến thành những kinh nghiệm tinh thần.
Đó là sự giải thích vắn tắt về sự phát triển lần lần của lương tri; sự phát triển này là một trong những kinh nghiệm đầu tiên của đa số những hội viên đứng đắn của hội Thông Thiên Học. Chúng tôi xin nhắc nhở qua rằng những năm đầu tiên tiếp xúc với Thông Thiên Học - (trước khi học viên đi theo một con đường phát triển đặc biệt mà hội có thể đưa ra) - có công dụng không những để thử thách tấm ḷng bền bĩ của hội viên yêu mến quyến luyến Thông Thiên Học, mà c̣n là thời gian cần thiết để cho những thể vô h́nh của y được thay đổi, do đó y có thể nhờ trực giác mà cảm thấy rằng y là Chơn Ngă Cao Cả đang sử dụng xác thân như là một dụng cụ hồng trần.
Cái đường lối phát triển và thức tỉnh này có thể thực hiện một cách mau chóng hơn. “Tiếng nói Vô Thinh” nói : “ Nhà ngươi hăy giúp đỡ Thiên Nhiên, hăy làm việc cùng với Thiên Nhiên, và rồi Thiên Nhiên sẽ coi ngươi như kẻ sáng tạo và sẽ chịu qui phục nhà ngươi” . Một nhà thông thái thời nay cũng phát biểu một sự thật giống như thế khi ông ta nói : “ Muốn chiến thắng Thiên Nhiên th́ ta phải vâng lời nó”. Chúng ta chỉ việc học hỏi những định luật của Thiên Nhiên, rồi khi ta lựa chọn và áp dụng những định luật ấy một cách khéo léo th́ những luật này sẽ trở thành những tên đày tớ dễ sai khiến. Cái điều có thể thực hiện được một cách thong thả lần lần trong nhiều thế kỷ, th́ bây giờ có thể được kích động cho mau chóng do sự cố ư, sự cố gắng thông minh và nhắm trúng hướng. V́ vậy khi học viên bắt đầu học tham thiền lần thứ nhất th́ y có thể nhận thức được con người Cao Siêu là Chơn Ngă ở nơi y.
Tác giả cuốn sách bé nhỏ này đă áp dụng cái phương pháp sẽ nói sau đây và đă thu được kết quả tốt đẹp, măi cho đến ngày y không cần phải tiếp tục cách tham thiền như thế nữa.
THAM THIỀN VỀ CÁC THỂ XÁC, VÍA, TRÍ, v.v
mục lục
chú thích
Học viên hăy bắt đầu nghĩ đến xác thân; rồi y hăy nghĩ đến những phương pháp để có thể điều khiển và làm chủ xác thân, y hăy lấy tư tưởng mà tự tách ḿnh rời khỏi xác thân y, hăy coi nó như là một dụng cụ, một thứ đồ dùng để chuyên chở, và y hăy tưởng tượng rằng y đang sống trong thể vía trong một vài lúc. Rồi y hăy nghĩ rằng y có thể làm chủ những cảm xúc và những ham muốn của ḿnh; rồi y hăy cố gắng rời bỏ thể vía và nhận thấy rằng y không phải là cái thể vía này đầy sóng gió, xôn xao với những mối đam mê, dục vọng và xúc động đối chọi nhau. Y hăy tưởng tượng y đang sống ở thể trí, y hăy tưởng tượng rằng y có thể làm chủ tư tưởng của ḿnh, y có thể định trí vào một đề tài nào mà y ưa thích. Lúc đó, y lại cố gắng rời bỏ thể trí. Bấy giờ học viên tự để cho ḿnh tự do vượt lên cái bầu không khí trong sạch của tinh thần, nơi đó có sự an lạc ngàn đời ngự trị, y nghỉ ngơi ở đó một lát; rồi y hăy nhiệt liệt cố gắng mà nhận thức rằng : Đây mới thật là Đại Ngă.
Rồi học viên hăy đi trở xuống, mang sự an lạc của tinh thần vào những thể xác, vía, trí của y. Y hăy tưởng tượng rằng ṿng hào quang của thể trí y đang chiếu sáng ra chung quanh y và y để cho cái ảnh hưởng của sự an lạc được lan tràn nơi đó, khi đó y hăy quả quyết xác nhận y là Chơn Ngă đang sử dụng thể trí này như là một dụng cụ để giúp việc cho y. Rồi y lại đi xuống thể vía, y lại để cho sự an lạc chói sáng xuyên qua ṿng hào quang của y, và y lại quả quyết rằng y chính là kẻ sử dụng những mối quan hệ xúc cảm như là những tên tôi tớ; rồi y hăy trở về với xác thân, coi nó như là một thứ đồ dùng, nó phải là một trung tâm an lạc ở bất cứ nơi nào trong cơi thế gian này.
Thoạt đầu, cách tập luyện như thế có vẻ lạ lùng và khô khan, v́ dù sao th́ xác thân cũng vẫn là một sự thật vĩ đại và ta luôn luôn có xu hướng coi tư tưởng và t́nh cảm như là sản phẩm của khối óc hồng trần, kẻ mới tập luyện phải nhớ rằng y đang tập luyện để cởi bỏ một thói quen mà cái trí đă có từ biết bao nhiêu năm và v́ vậy nên y không thể nào thu hoạch được ngay những kết quả. Có lẽ phải chờ đợi lâu lắm để cho trực giác của y xác định một cách hết sức vững chắc rằng ở nơi y có một Quyền Lực Cao siêu hướng dẫn những hành động của y và bước đường đời của y. Dĩ nhiên, y có thể sợ rằng đă tự thôi miên ḿnh, đă thong thả và lần lần tự lừa phỉnh ḿnh để tin ở những điều tưởng tượng, không hề có căn bản đúng thực. Đối với một trí óc vững vàng th́ những giai đoạn đầu tiên thật là khó khăn nhất, v́ y luôn luôn cẩn thận, y e sợ không dám dấn bước vào cơi bí ẩn mà y chưa biết; y cũng có xu hướng muốn đi thụt lùi trở lại khi y nghi ngờ là có sự nguy hiểm. Tuy nhiên thật là một việc làm hợp lư khi ta thử luyện tập theo một cách thức đă được các Đấng cao cả thời xưa truyền dạy lại, đă được nhiều tôn giáo chánh đại khuyên nên làm theo, đă được những người thời nay trí óc rất lành mạnh thành thực chứng minh và ủng hộ. Nếu ta thực hành một cách kiên nhẫn, đứng đắn phần nào th́ thế nào cũng có kết quả. Giá trị của những kết quả này, thời gian phải dùng có lâu hay mau chóng, đó đều tùy thuộc vào tính nết, bản chất sự cố gắng và khả năng riêng của mỗi học viên.
PHƯƠNG
PHÁP THAM THIỀN GIỐNG
NHƯ Ở TRÊN, NHƯNG THÊM NHIỀU CHI TIẾT
mục lục
chú thích
Khi người mới tập tham thiền đă được quen thuộc với cách tham thiền nói trên, th́ y có thể thêm vào đó những chi tiết tỉ mỉ hơn, tùy theo sự ưa thích của bản tính y. Thí dụ như cây đàn dương cầm với người nhạc sĩ : cây đàn phát ra những âm thanh và bản nhạc có nhịp điệu, thứ tự lớp lang; cũng giống thế, khối óc và xác thân dùng để diễn tả tư tưởng, t́nh cảm và sự hoạt động có tổ chức. Nhưng chính người nhạc sĩ đă tự diễn tả xuyên qua cây đàn; cũng giống thế, xác thân với những hoạt động hữu ích của nó, chỉ diễn tả điều ǵ mà Chơn Ngă Cao Siêu muốn tỏ lộ.
Khi dùng tư tưởng mà tự tách ḿnh rời khỏi xác thân và nh́n xét xác thân một cách lănh đạm lạnh lùng dưới ánh sáng của cái trí biết phân biện, học viên phải nhận thấy một sự thật này : xác thân chỉ là một vận cụ, một thứ đồ dùng, một lớp áo làm bằng thịt. Muốn có thể tiếp xúc với cơi trần, cái lương tri, tức là sự biểu lộ của tinh thần, bắt buộc phải tự giam ḿnh vào trong một cái khám làm bằng vật chất cơi hồng trần và được liên lạc chặc chẽ với cơi đó. V́ chỉ nhờ một vận cụ làm bằng xác thịt th́ lương tri mới có thể do sự rung động mà giao tiếp với vật chất cơi trần được.
Tinh thần làm nảy nở những quyền năng ẩn tàng của ḿnh, khích động cho chúng từ trạng thái tĩnh đến trạng thái hoạt động mănh liệt, nhờ vô số những kinh nghiệm có thể thu nhận được ở cơi trần và nhờ sự đào luyện lần lần xác thân để nó có thể đáp ứng được với tinh thần.
Rồi học viên xem xét coi y có thể điều khiển và làm chủ xác thân bằng cách nào; xác thân tuân theo những mệnh lệnh của Trí khôn như thế nào, Trí khôn này là Chơn Ngă điều khiển xác thân. Dùng tư tưởng mà tự phân tách ḿnh rời khỏi xác thân như thế, học viên hăy tưởng tượng trong một lúc rằng y đang sống trong thể vía của ḿnh.
Rồi y tự nói với ḿnh rằng thể vía không phải là Chơn Ngă của y, y có thể chế ngự những mối xúc cảm của ḿnh, làm chủ những dục vọng của ḿnh và khiến cho những t́nh cảm của ḿnh hoạt động cho có mực thước. Những mối xúc động của y chỉ là một khía cạnh của lương tri y được biểu lộ xuyên qua thể vía; thể vía này được hạn định và giam hăm lương tri; lương tri này phải ngự nơi vật chất cơi Trung giới th́ mới có thể tiếp xúc với cơi ấy được. Thể vía này bị những mối xúc cảm, những đam mê và dục vọng làm cho xao động, vậy thể vía không phải là y. Trong những lúc yên tịnh nhất, con người biết rằng y cao hơn những mối xúc động luôn luôn nổi sóng gió. Những cơn giận dữ, ganh ghét, sợ hăi, ích kỷ, thù hận của y đều không phải là y, đó chỉ là những mối xúc động mà y không thể kiểm soát nổi, giống như những con chó săn bị tuột xích. Tự trong tâm khảm y, y biết rằng nếu y kiểm soát được đa số những mối xúc động này, th́ rồi với thời gian tất cả các xúc động khác cũng sẽ trở nên có chừng mực, nếu y rán kiên nhẫn và cố gắng thật t́nh; như vậy, y sẽ làm chủ được những mối xúc động của ḿnh.
Do thế, tự tách ḿnh rời xa khỏi những mối xúc động của chính ḿnh, đứng trên cao mà nh́n xuống toàn thể phạm vi hoạt động của chúng, con người có thể tưởng tượng rằng y đang sống ở thể vía.
Người muốn tập tham thiền thấy không khó khăn ǵ khi dùng tư tưởng tự tách ḿnh ra khỏi xác thân và thể vía của ḿnh : luân lư thông thường đă dạy y cách kiểm soát các hành động của ḿnh, cách làm chủ những mối xúc động mănh liệt của ḿnh; nhưng chắc là người ta chưa hề dạy cho y biết nhiều về quyền năng của tư tưởng. V́ thế nên lúc ban đầu y thấy thật khó khăn mà có thể tin chắc rằng y có thể làm chủ được tư tưởng ḿnh.
Tuy nhiên y có thể định trí vào một vấn đề nào mà y ưa thích, và nếu y kiên nhẫn, y có thể học cách định trí vào một vấn đề nhất định. Rồi dần dần, y có thể làm chủ cái trí nhiều đến nỗi y có thể loại bỏ ra ngoài mọi tư tưởng không xứng đáng.
Như thế, lần trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, y có thể tiến măi lên đến trạng thái được trông thấy, được chiêm ngưỡng Đấng Tối Cao, Ngài tuyệt đối thiêng liêng, tuyệt đối có thực, không lời nào có thể tả cho xiết được; y sẽ tiến lên đến ṭa thánh điện tối cao của chính bản thể ḿnh, cái bàn thờ trên đó SHEKINAH [4] thiêng liêng tự biểu lộ và rồi y sẽ mang theo cái ánh sáng đó để đi xuống cơi ngoại giới của giác quan.
Khi nào nhờ sự tham thiền, nhờ suốt ngày cứ nhớ măi điều này luôn luôn trong trí, người ta có thể tự coi ḿnh là Chơn Ngă cao cả do sự trung gian của xác thân ḿnh mà làm việc ở cơi trần, th́ người ta có thể theo những đường lối tham thiền phức tạp và có tính cách khoa học hơn. Lúc đó học viên phải bắt đầu làm việc với một sự hiểu biết trọn vẹn hơn về những giai đoạn và những chi tiết khác nhau của sự tham thiền, phải coi sự tham thiền như là một phương pháp để được an ủi, để tinh tiến về tinh thần và cũng là một phương pháp để chống đối với sự hay thay đổi của t́nh cảm và của cái trí.
Sự tham thiền thường có ba mục tiêu. Sự định trí, sự tham thiền và sự chiêm ngưỡng; c̣n có thể chia ra làm nhiều mục tiêu nhỏ hơn nữa mà ở đây chúng ta không cần nói đến. Tuy nhiên học viên phải nhớ rằng sự tham thiền là một khoa học cần phải cố gắng suốt đời mới làm được v́ vậy y chẳng nên hy vọng đi đến mức chiêm ngưỡng ngay ở lúc đầu.
Định trí nghĩa là hướng cái trí vào một tư tưởng rồi giữ cho cái trí cứ ở măi trên tư tưởng ấy. Ông PATANJALI, tác giả những câu Châm Ngôn cổ điển, định nghĩa pháp môn Du Già như là “sự ngăn cấm không cho tư tưởng thay đổi”.
Người ta có thể lấy định nghĩa này mà áp dụng cho sự định trí, tuy rằng PATANJALI, c̣n đi xa hơn thế trong ư nghĩ của ông, để bao gồm cả sự tiêu hủy cái khả năng có thể tạo ra những h́nh ảnh làm bằng chất trí và mọi dấu hiệu rơ rệt khác của tư tưởng, như thế là đi từ giai đoạn định trí thông thường đến sự chiêm ngưỡng.
Vậy th́ muốn có thể định trí được, cần phải làm chủ cái trí và do sự luyện tập mà lần lần học được cách thu nhỏ phạm vi hoạt động của nó cho đến khi có thể định nó vào một vấn đề duy nhất mà thôi. Người ta lựa chọn một tư tưởng hay một vật nào đó để định trí vào, và ở bước đầu tiên người ta phải loại bỏ tất cả các điều ǵ khác ra ngoài cái trí, phải loại cái làn sóng của tư tưởng xa lạ đối với đề tài này khi chúng lần lần hiện ra trong trí, giống như những h́nh ảnh lấp loáng của màn hát bóng vậy. Ở trong những giai đoạn đầu th́ phần nhiều học viên phải tập luyện theo cái cách cứ loại bỏ măi những tư tưởng và đấy là một cách rèn luyện rất tốt, nên tập nhiều. Nhưng c̣n có một phương pháp khác hợp lư hơn, để có thể định trí được: ta hăy hết sức thích thú đề tài, hăy đắm ḿnh vào đó cho đến nỗi mọi tư tưởng khác phải biến đi trong trí. Điều này chúng ta vẫn thường làm luôn trong đời sống hằng ngày mà không biết, v́ đă quá quen thuộc đi rồi : khi cần viết một lá thư, tính toán sổ sách, quyết định một điều ǵ quan hệ, khi phải giải quyết một vấn đề th́ trí ta bị những sự việc đó thu hút hoàn toàn cho đến nỗi ta ở trong trạng thái định trí ít hay nhiều. Học viên phải tập được cách định trí như vậy mỗi khi y muốn và cái phương pháp tốt nhất để thành công là nên tập nhận xét và chú ư vào những đồ vật ở ngoại giới.
Học viên hăy lấy bất cứ một đồ vật nào, một cây viết, một tờ giấy chậm, một bông hoa, một lá cây, rồi y hăy ghi nhớ lấy tất cả chi tiết bên ngoài về h́nh thể, cách cấu tạo mà thường không ai để ư đến, y hăy kê khai và xếp loại các đặc tính và rồi y sẽ thấy ngay rằng đấy là một sự luyện tập rất thích thú. Nếu y có thể lấy tư tưởng mà phân tách hay tổng hợp cái cách chế tạo hay phát triển của đồ vật th́ lại c̣n hứng thú hơn nữa. Thật ra th́ trong thiên nhiên, không có cái ǵ gọi là đáng nhàm chán cả; khi ta nhàm chán một cái ǵ, đó thường do lỗi tại ta không biết cách chú ư nên ta không thưởng thức vẻ kỳ diệu cùng sự đẹp đẽ của vật đó.
Muốn dễ định trí, ta hăy tập nói to lên tất cả những tư tưởng hiện ra trong trí; thí dụ : “ cây viết này màu đen; ở một vài chỗ nó phản chiếu ánh sáng tự nơi cửa sổ chiếu đến, cây viết này h́nh ống tṛn, dài mười lăm phân tây, trên mặt nó có những sọc chéo : h́nh vẽ có những đường nét rất khít nhau, trông giống như những nhánh cây. . .”, tùy theo ư muốn của ḿnh.
Theo cách đó, học viên học được cách loại bỏ ra khỏi trí ḿnh cái thế giới rộng răi bên ngoài để tự giam ḿnh trong một thế giới nhỏ bé hơn mà chính y đă lựa chọn. Khi y thành công th́ lúc đó y đă tương đối biết định trí ở một mức nào rồi, v́ dĩ nhiên là c̣n sót lại nhiều tư tưởng tạp nhạp khác lởn vởn trong óc , tuy rằng tất cả đều liên quan đến cây viết này. V́ nói lớn tiếng nên y đă làm cho ḍng tư tưởng chảy chậm lại và ngăn cản không cho cái trí ra khỏi đề tài. Do sự luyện tập học viên sẽ lần lần học được cách thu hẹp hơn nữa cái phạm vi của tư tưởng ḿnh, măi cho đến khi có thể thật định trí vào một điểm duy nhất.
Sự luyện tập nói trên có phần nào giống một bài tập thể thao; cần phải cố gắng thật nhiều và ngoài ra nó c̣n có vẻ khô khan, đáng nhàm chán v́ nó không khêu gợi mối xúc cảm nào cả.
V́ thế nên cùng trong một lúc, chúng ta có thể tập một lối định trí khác nữa, nhưng trước khi miêu tả phương pháp này, cần phải nói rằng học viên phải khá thành thạo về cách tập định trí như trên đă nói. Học viên phải khá khéo léo trong cách luyện tập nói trên, rồi mới có thể thành công trong việc nhắm mắt mà tưởng tượng ra đồ vật làm sao cho thật đúng sự thực (visualisation) : đó là cái khả năng có thể vẽ lại trong trí ḿnh một đồ vật nào đó, với tất cả những chi tiết, tuy ta không có sẵn ngay vật ấy ở trước mắt. Ngoài ra, sự tưởng tượng làm sao cho đúng này là một phần cố hữu cần thiết cho rất nhiều công việc mà những sinh viên thành thạo về các cách thức huyền bí học cần phải làm; thí dụ như tự ư tạo ra những h́nh tư tưởng hay là tạo ra những dấu hiệu trong chất trí khi đang hành lễ.
V́ vậy người học viên thật đứng đắn sẽ không bỏ bê ngành hoạt động này, lấy cớ rằng nó khó khăn và đ̣i hỏi nhiều cố gắng. Y phải học ngay cách vẽ trong trí h́nh dáng những đồ vật, học nhận xét và coi kỹ rất tỉ mỉ một đồ vật rồi nhắm mắt lại, cố gắng vẽ ra h́nh ảnh của vật ấy trong trí ḿnh.
Cái phương pháp thứ hai mà chúng tôi vừa nói th́ thường chủ trương sự định trí vào một tư tưởng chứ không phải vào một đồ vật hữu h́nh. Nếu học viên lựa chọn một đức tính để tham thiền th́ có điều ích lợi là y khêu gợi được ở nơi ḿnh tấm ḷng hứng khởi và ḷng mộ đạo, đây là một điểm rất quan hệ trong những giai đoạn luyện tập đầu tiên; sự bền chí và kiên nhẫn của học viên được mang ra thử thách rất nhiều. Hơn thế nữa, kết quả của sự cố gắng này là làm cho cái đức tính đang tập luyện được thấm nhuần vào tính nết của học viên. Ở trường hợp này th́ sự định trí chỉ nhắm vào t́nh cảm và không c̣n có tính cách hoàn toàn thuộc về lư trí nữa. Học viên cố gắng tạo ra ở nơi ḿnh cái đức tính mà y đă lựa chọn, thí dụ như ḷng thiện cảm, và khi y cứ dùng sức mạnh của ư chí mà tŕ chí măi vào cái tính tốt duy nhất đó, th́ rồi với thời gian, y sẽ thành công và cảm thấy ḿnh quả thật là có ḷng thiện cảm. Tập trung cảm t́nh của ḿnh vào một điểm duy nhất th́ dễ dàng hơn là tập trung tư tưởng ḿnh vào đó, v́ tư tưởng th́ tinh vi, tế nhị hơn, hiếu động hơn và khó cầm giữ hơn; nhưng nếu ta thành công tập trung rốt ráo cảm t́nh lại, th́ rồi cái trí cũng theo đó mà được tập trung lại một phần nào.
Sau khi đă học hỏi như vậy về sự định trí, bây giờ chúng ta có thể đi vào cái phần thứ hai của vấn đề, nghĩa là sự tham thiền thực sự. Tham thiền nghĩa là xem xét về một vấn đề, xem xét nó về đủ mọi mặt, đủ mọi h́nh thức, trong đủ mọi mối liên quan.
Thật ra th́ giai đoạn tham thiền không tiếp theo ngay giai đoạn định trí vào một điểm duy nhất mà chúng ta vừa nói ở trên : khi cái trí định lại được phần nào để xua đuổi ra ngoài mọi tư tưởng xa lạ với vấn đề duy nhất được mang ra tham thiền ngay. Tuy nhiên, sự định trí thật sự th́ cần thiết để có thể tiến tới mọi phương pháp tham thiền khác.
Nói vài ḍng về sự tham thiền th́ không lợi ích ǵ, chúng ta hăy đi ngay vào vài phương pháp tham thiền thực hành, như vậy bản chất và phương pháp của sự tham thiền được giảng giải rơ ràng hơn là những lư thuyết suông.
Vừa rồi chúng ta đă nói đến ḷng thiện cảm, vậy chúng ta hăy lấy đó làm đề tài tham thiền
Nên nghĩ rằng ḷng thiện cảm cũng là một thuộc tính của lương tri Thượng Đế, đứng ngang hàng với mọi đức tính khác. Rồi cố gắng hiểu cái bản chất và ḷng thiện cảm trong thế gian. Nên coi đó như là một sức mạnh nối liền hai cá nhân riêng biệt. Khi so sánh ḷng thiện cảm với t́nh thương th́ ta thấy ḷng thiện cảm bao gồm cái khả năng có thể hiểu biết kẻ khác và đặt ḿnh vào địa vị kẻ khác; c̣n ở t́nh thương th́ không bắt buộc phải có sự thông cảm đó, v́ t́nh thương có thể chỉ là một ư nồng nhiệt muốn hiến ḿnh cho kẻ khác, và t́nh thương này sẽ trở nên hoàn hảo hơn khi một sự hiểu biết đầy thiện cảm bổ túc cho nó. Ngoài ra, để nói cho rơ hơn, ḷng thiện cảm phải có một duyên do bên trong thúc đẩy, đó là t́nh thương vậy.
Hăy tưởng tượng ḷng thiện cảm của Thượng Đế được ban rải khắp thế gian nhờ sự trung gian của con Người Lư Tưởng - Đức Christ hay Đức Chơn Sư - ḷng thiện cảm này nhắm bủa rải lên chính Chơn Ngă của chúng ta.
Khi đă tiến đến mức độ này rồi, học viên phải do một ước nguyện mănh liệt và có hiệu quả mà đắm ḿnh vào cái ḍng ảnh hưởng tuyệt vời này phát sinh tự nơi Đức Chơn Sư và như thế y được tiếp xúc ngay với Đấng mà y thờ phụng (có thể rằng lúc đó y đạt được trạng thái của sự chiêm ngưỡng). Lúc đó, y phải nghĩ đến sự thực hành ḷng thiện cảm trong đời sống hàng ngày, trong khi y giao tiếp với bạn bè thân yêu, cũng như với những kẻ mà y cần phải đối đăi một cách ḥa thuận hơn, y hăy lần lượt tưởng tượng ra mỗi người bạn và ban rải cho mỗi người cái ảnh hưởng thiện cảm tự cơi cao đă bủa rải xuống cho y. Dưới đây, c̣n có cách tham thiền khác, khó hơn dành cho những ai không thể định trí lâu vào tư tưởng duy nhất
Học viên phải nâng cao tư tưởng ḿnh lên và nh́n ngắm sự rộng răi bao la của vũ trụ. H́nh ảnh bầu trời đầy sao, cái ánh sáng êm dịu của buổi hoàng hôn hay cái ư niệm về vũ trụ càn khôn được chứa đựng trong hạt nguyên tử vô cùng nhỏ bé; các điều đó sẽ giúp y trong việc nâng cao tư tưởng lên; khi muốn lên cao, nếu y muốn th́ y có thể theo phương pháp nói trên, đi từ thể thấp đến thể cao hơn (xác, vía, trí . . .). Rồi nhờ một ước nguyện tối cao, y hăy hướng tư tưởng lên Đức Thái Dương Thượng Đế và tưởng rằng toàn thể Thái Dương Hệ đều nằm trong ranh giới của lương tri Ngài : “ Chúng ta sống, cử động, và tồn tại ở nơi Bản Thể Ngài”. Rồi y sẽ hướng tư tưởng vào cái ư niệm đă được nói đến trong tập sách nhỏ này của bà Annie Besant : “ Những trạng thái của tâm hồn” (On Moods) [5]. Dĩ nhiên là người ta cứ tưởng tượng rằng những nhân viên cao cấp nhất trong Quần Thiên Hội th́ rất xa cách chúng ta, cái nguyện vọng rụt rè của chúng ta khó ḷng mà tiếp xúc được với các Ngài, v́ các Ngài rất xa lạ đối với những chuyện bé nhỏ vụn vặt của con người : sự thật th́ trái ngược lại, v́ chúng ta thường được tiếp xúc một cách chặc chẽ nhất với Lương tri của Thượng Đế bao gồm vạn vật.
Học viên hăy tự giúp ḿnh bằng cách tưởng tượng rằng khi cái xu hướng tinh thần càng nảy nở nơi y th́ cái ṿng hào quang nơi y cũng được lớn lên lần lần. Y hăy tưởng tượng đến ṿng hào quang của con người tầm thường, ṿng hào quang của những người học tṛ và đệ tử đă được điểm đạo, ṿng hào quang của Chơn Sư và những sự tiếp xúc chặt chẽ giữa lương tri Chơn Sư và lương tri các đệ tử Ngài, cùng với những kẻ khác mà Ngài hằng giúp đỡ; học viên hăy nghĩ đến hào quang của Đức Phật; theo tục truyền th́ hào quang này rộng đến tám cây số xa chỗ Đức Phật đang ngồi. Do tư tưởng, y lần lần đi lên cao như vậy, rồi sau cùng có thể tưởng tượng đến Đấng Cao Cả mà hào quang hay phạm vi của lương tri Ngài bao gồm cả toàn thể địa cầu của chúng ta, và một Đấng Cao Cả hơn thế nữa th́ có hào quang bao trùm suốt cả Thái Dương Hệ chúng ta. Thật là rất đúng khi ta nói rằng mỗi việc làm, mỗi tư tưởng của chúng ta đều là một thành phần của chính Ngài; trí nhớ của chúng ta cũng là một phần trí nhớ Ngài, v́ trí nhớ này không phải chỉ gồm có những kỷ niệm mà thôi; nó c̣n có thể tiếp xúc với những h́nh ảnh làm bằng chất Tiên thiên khí (clichés akashiques) trong thiên nhiên nơi đó Thượng Đế tự biểu lộ.
Lúc ấy học viên sẽ nghĩ đến vài ba tính tốt mà người ta có thể coi như là các thuộc tính của Thượng Đế được biểu lộ xuyên qua vũ trụ của Ngài - tính Công b́nh, sự Mỹ lệ, t́nh Thương yêu. Y sẽ tưởng tượng xem tính Công b́nh này của Thượng Đế Tối Cao tự biểu lộ ở nơi những định luật bất di dịch của thiên nhiên, định luật giữ ǵn năng lực, định lư của ông NEWTON chủ trương rằng sự hành động và sự phản động th́ mạnh yếu bằng nhau và đi ngược chiều nhau. Học viên hăy nghĩ đến ḷng tin thực sự về Nhân quả phải biết rằng kẻ nào giơ tay giáng mạnh đánh ta một cái th́ chính là cái dĩ văng của ta được sống trở lại đó và nhờ những tư tưởng ấy, y hăy b́nh thản chịu đựng những ǵ xảy ra với y hiện giờ hay có thể xảy ra sau này. Y cũng hăy nghĩ đến vô số những sự giao thiệp trói buộc người này với người khác, đến cái lưới Trời nó là Thiên cơ trong Vũ trụ, và y hăy nh́n thấy cái định luật bất di dịch của sự công bằng tuyệt đối ở nơi những mối giao tiếp rắc rối phức tạp đó.
Rồi đi vào phạm vi của sự Mỹ lệ, y có thể học hỏi về sự toàn hảo của Cơ Trời, cái Cơ của Thượng Đế, Ngài là vị Kiến Trúc Sư Cao Cả gây dựng Vũ trụ, rồi y hăy xem xét một cách hết sức chăm chú tất cả vạn vật thiên nhiên đă được tạo ra và y sẽ có thể nhận thấy cái tính phổ biến đại đồng của cái vẻ Mỹ lệ hay Điều ḥa của Đấng Tối Cao.
Rồi y hăy rời bỏ cái vẻ đẹp của Thiên nhiên, y đừng nh́n ngắm nó nữa và hăy nh́n ngắm cái vẻ đẹp trong các việc làm của con người, có thể dùng trí tưởng tượng mà bay lên cao và ngắm các tác phẩm mỹ thuật của con người rất gần cận với phạm vi Mỹ lệ Thiêng liêng của Thượng Đế . V́ thật ra những vật liệu mà bàn tay của nhà nghệ sĩ đă nhào nặn nên, th́ cũng chứa đựng những quyền năng Thiêng liêng của Thượng Đế trong Thiên nhiên. Cho nên về âm nhạc, các âm thanh kết hợp lại thành những ṭa lâu đài hùng vĩ, phản chiếu xuyên qua biết bao nhiêu màu sắc, những nguồn thần lực khuôn mẫu của Thiên nhiên, nhờ sự trung gian của các Thiên Thần Âm Nhạc, tỏ lộ cho con người thấy mănh lực của Tiếng Thánh Ngữ Ẩn Tàng và giúp con người đi trở về nước Thiên Đàng tức là Di Sản Thiêng Liêng của y.
Tất cả những mối giao thiệp của con người tràn đầy t́nh thương yêu, tŕu mến đều phát sinh tự tấm ḷng từ bi của Đấng Tối Cao. Đối với con mắt của tinh thần th́ vẻ đẹp của người đàn bà không khêu gợi những dục vọng ô trược, nhưng lại khiến ta kính trọng ở nơi nàng một đứa con của Thượng Đế và một phản ảnh của cái vẻ Mỹ Lệ Tối Cao của Ngài. Trong khắp vũ trụ, chỉ có một t́nh thương yêu duy nhất mà thôi, Thượng Đế Đấng Từ Phụ Thiêng Liêng, mang giao phó t́nh thương này cho các con của Ngài giữ ǵn, đó là cái thần lực nguyên thủy duy nhất; trong cái trạng thái sáng tạo sơ khai của nó, th́ nó đă phát sinh ra vô số h́nh hài, và ở trong trạng thái cao siêu nhất của nó, th́ nó đă hợp nhất các linh hồn lại bằng cách thu hút chúng vào sự hợp nhất và sự duy nhất của Đời Sống Độc Nhất Vô Nhị.
SỰ CHIÊM NGƯỠNG (Contemplation)
mục lục
chú thích
Mới thoạt đầu th́ những cách tham thiền mà chúng ta vừa mới nói ở trên có thể chỉ là những cách luyện tập có tính cách lư trí, chúng có hứng thú nhiều hay ít đối với người mới bắt đầu muốn học tham thiền, đó là tùy theo khuynh hướng và bản chất của học viên; những sự tập luyện như thế có thể khêu gợi t́nh cảm đến một mức độ nào. Nhưng khi y càng kiên tâm cố gắng và đi sâu hơn nữa vào những vẻ kỳ diệu và sự đẹp đẽ của những ư niệm cao cả mà y đang chiêm ngưỡng th́ rồi lần lần y sẽ hoạch đắc được phần nào cái kinh nghiệm tinh thần cá nhân nó bắt được một cái cầu chạy ngang qua vực thẳm ngăn cách con người khoa học với con người Minh Triết, và rồi y sẽ cảm nhận được phần nào sự an lạc nội tâm, sự hứng khởi của tâm hồn mà Thánh ALPHONSE DE LIGUORI đă nói khi Ngài định nghĩa “Sự tham thiền giống như một ḷ lửa đầy ơn phước trong đó những linh hồn được bừng cháy v́ T́nh Thương yêu Thiêng Liêng của Thượng Đế”. Sự tham thiền làm điều ḥa những thể của chúng ta (chúng ta thường làm việc với các thể ấy, sự tham thiền cũng khiến cho ánh sáng của tinh thần bủa rải xuống để soi sáng những góc cạnh tối tăm của lương tri ta trong khi ta thức chớ không ngủ. Sự tham thiền khiến cho phàm ngă ta bớt xao động kể cả trí khôn, những mối xúc động cùng sự hoạt động không ngừng của khối óc và khi làm cho các thể thấp rung động theo cùng một điệu nhịp, th́ sự tham thiền cũng khiến cho Chơn nhơn ảnh hưởng đến Phàm nhơn. Khi học viên càng đi xa măi như thế để càng có nhiều kinh nghiệm tinh thần, th́ y sẽ thấy mở rộng ra trước mắt nhiều trạng thái tâm linh khác nữa.
Y giữ cho nguyện vọng của y được gắn chặt với lư tưởng y, rồi y sẽ lần lần nhận thức được cái ảnh hưởng của lư tưởng này bủa rải lên y; và nếu y hết sức cố gắng để đi lên tới Đấng mà y hằng mộ mến th́ cánh cửa Thiên Đàng sẽ hé mở trong chốc lát : y sẽ được hợp nhất với lư tưởng của y và khi thực hiện được lư tưởng này rồi th́ sự chói chang huy hoàng sẽ chảy tràn trề vào y. Đó là những giai đoạn của sự Chiêm Ngưỡng và sự hợp nhất. Chiêm ngưỡng là sự cố gắng để vươn lên cao, sau khi đă vượt khỏi những h́nh ảnh cụ thể của cái trí; c̣n sự hợp nhất là sự thực hiện được cái trạng thái xuất thần khi những giới hạn của Phàm ngă và cả cho đến cái bóng mờ của sự chia rẽ đều bị tiêu tan đi trong sự hợp nhất hoàn toàn giữa mục tiêu và kẻ đi t́m kiếm. Không sao có thể miêu tả một các tỉ mỉ hơn những kinh nghiệm như thế, v́ chúng vượt khỏi mọi khả năng của ngôn ngữ. Những từ ngữ th́ có thể được sử dụng như những tấm bảng dùng để chỉ đường, để chỉ dạy về đường dẫn tới những cảnh huy hoàng tuyệt diệu và để chỉ dẫn phương hướng cho kẻ hành hương biết lối mà tiến bước thôi
II
ĐI T̀M
CHƠN SƯ
mục lục
chú thích
Những đường lối tham thiền vừa phác họa ở trên sẽ là cái nền tảng chắc chắn cho người mới bắt đầu tu học; nếu được thực hành một cách siêng năng, đứng đắn th́ những cách tham thiền này nhất định sẽ mang lại những kết quả tốt đẹp. Dĩ nhiên là cái giá trị của những kết quả này là tùy thuộc vào người hành đạo. Nhưng người ta biết lợi dụng một vài sự dễ dàng dành riêng cho các hội viên Hội Thông Thiên Học th́ người ta có thể thu ngắn lại các thời gian nhập đạo, tức là thời gian bước vào đời sống nội tâm với những kinh nghiệm tinh thần.
Trong nhóm những hội viên này, người hội viên đứng đắn chẳng bao lâu sẽ nhận thấy cái ch́a khóa chánh đại của cả ṭa lâu đài tinh thần của chúng ta nằm ngay trong cái ư niệm về Chơn sư; chính thần lực của các Ngài là nguồn sống của Hội Thông Thiên Học. Người ta nói rằng hội được thành lập bởi các vị Chơn tiên trong Quần Thiên Hội để các Ngài sử dụng một cách đặc biệt trong thế gian. Nếu điều này đúng thực th́ các hội viên Hội Thông Thiên Học gặp được những cơ hội tốt đẹp, vô cùng sáng lạn huy hoàng; vậy người mới nhập hội hăy tự ḿnh chứng minh lấy cái sự thực quan trọng này, cũng như các hội viên khác cũng đă chứng minh được như thế từ trước.
Nhắc lại lời của một vị Chơn Sư, bà BESANT nói khi một người trở thành hội viên Hội Thông Thiên Học, th́ y được nối liền với vị Chơn Sư bằng một sợi dây mảnh mai. Sợi dây là con đường liên lạc với Chơn Sư, được làm bằng chất từ khí; do sự cố gắng anh dũng, ḷng tận tâm và công việc phụng sự vô tư lợi, học viên có thể làm cho sợi dây đó mạnh mẽ và nở rộng ra cho tới khi nó trở thành một vệt sáng linh động. Các Chơn Sư thâu nhận làm đệ tử người nào có những đức tính đặc biệt cần thiết. Người học viên đứng đắn chẳng bao giờ nên nản ḷng v́ thấy ít người có cái đặc ân quí hóa ấy, v́ Chơn Sư chú ư đến rất nhiều người, tuy họ c̣n lâu mới tiến đến cấp bậc đệ tử được; thỉnh thoảng Ngài vẫn giúp họ một cách tổng quát hay là một cách chú ư đặc biệt. Quả thật là người ta nói rằng thần lực của Chơn Sư hoạt động một cách liên tiếp ở phía sau Hội Thông Thiên Học, cho nên các hội viên muốn thu nhận lấy thần lực này th́ họ có thể trở thành những con kênh để thần lực chảy xuyên qua, khiến họ có thể nhân danh các Ngài mà làm được những công việc vĩ đại hơn là nếu họ làm việc tự sức họ.
Người học viên đứng đắn đă hiểu được tất cả những điều này th́ y phác họa chương tŕnh tập luyện nơi nội tâm y, chắc chắn y sẽ coi sự đi tới Chơn Sư như là một lư tưởng tối cao, có thể đạt được nhờ ḷng ước nguyện thiêng liêng của y. Y sẽ đến Chơn Sư bằng cách nào ? Trước hết, y phải phụng sự một cách chân thành và siêng năng trong đời sống riêng tư hằng ngày cũng như trong Hội Thông Thiên Học, một tổ chức của Chơn Sư ở cơi trần. Đó là điều dĩ nhiên; lát nữa chúng ta sẽ trở về với vấn đề này; nhưng rồi học viên phải tiến bước như thế nào ?
Các bước kế tiếp của y th́ tùy thuộc vào bản tính y. Y có thể tưởng tượng ra một con người lư tưởng, thu gồm nơi ḿnh những tính tốt và những nét đặc biệt về đức hạnh mà y ưa thích nhất; y cố gắng nhân danh con người lư tưởng này mà hành động; trong khi tham thiền, y cố gắng tiến lên con người lư tưởng ấy. Vài ba người c̣n lựa chọn một phương pháp cụ thể[6] hơn : họ cố gắng tiến đến các Đấng Cao Cả bằng cách giao tiếp với những học tṛ và những vị đệ tử đă được điểm đạo của các Ngài ở cơi trần.
Thí dụ chúng ta hăy chọn những người đă được toàn thể nh́n nhận là những vị lănh đạo phong trào Thông Thiên Học. Nhiều người trong số chúng ta đều coi các vị lănh đạo này là các vị đại diện của các Chơn Sư, các Ngài đang đứng ở phía sau Hội; các vị đại diện này là những con kênh xuyên qua đó cái ảnh hưởng mănh liệt của các Ngài được ban rải xuống Hội. Thật ra th́ một số người không ưa thích cái thái độ “Tôn thờ anh hùng cá nhân” , không thích mến mộ, thờ phụng những con người; than ôi, nguyên do của sự không ưa thích này là những sự thất vọng đă trải qua trong dĩ văng, là những mối hy vọng đă bị cắt đứt; c̣n ở nhiều trường hợp khác th́ sự không ưa thích tôn thờ cá nhân này là một khuynh hướng cố hữu tự nhiên của tính người. Quả thật là như vậy đó, con người thường có nhiều điều khuyết điểm : dĩ nhiên là học viên không nên bắt chước những khuyết điểm này, mà cũng chẳng nên chú ư quá đến chúng mà trở nên bối rối, v́ cái điều mà học viên tôn thờ ở cơi hữu h́nh này, đó chẳng phải là cái lư tưởng thuần túy thôi hay sao ? “ Há các ngươi lại chẳng biết rằng thân thể các ngươi là đền thờ của Đức Thánh Linh ngài đang ngự nơi các ngươi và chính Thượng Đế đă ban phát Đức Thánh Linh đó cho các ngươi hay sao ?” (Thơ gởi cho dân cư thành CORINTHE, VI,19).
Những nét đặc biệt mà chúng ta tán thưởng ở nơi một người th́ đó chính là sự biểu lộ của Thượng Đế chiếu diệu xuyên qua y, và sự thán phục của chúng ta có nghĩa là nội tâm ta đă đáp ứng, đă trả lời sự kêu gọi của cái lư tưởng mà chúng ta thấy đang tỏ lộ nơi kẻ khác. Vậy chúng ta có thể không cần biết đến những tật xấu của đồng loại; chúng ta có thể biết ơn mỗi khi nhận thấy được ở nơi họ những tia chớp nhoáng của Aùnh Sáng Thiêng Liêng; nhưng chúng ta không phải đi quá mức, mà cũng đừng đặt để họ lên bệ thờ.
Phương pháp đi t́m kiếm Chơn Sư có một điều lợi ích là nó mang lại cho học viên một lư tưởng mà y có thể luôn luôn chiêm ngưỡng được, một lư tưởng rơ rệt mà y có thể rờ mó được. Nhiều người giống như thi sĩ Lamartine, họ kêu lớn lên rằng họ cần phải có một vị Thượng Đế gần cận, có cá tính, một Thượng Đế với những cánh tay có thể ôm lấy nhân loại đau thương, một vị Thượng Đế mà những kẻ tội lỗi đang hối hận có thể ôm bàn chân Ngài mà hôn được.
Theo một đường lối khác, cũng cái tư tưởng nói trên đă được thường diễn tả trong câu này mà mọi người đều biết :” Kẻ nào không thương yêu người anh em của nó mà nó thường trông thấy, th́ làm sao nó có thể thương yêu Đức Thượng Đế mà nó chưa hề trông thấy bao giờ ?” (Phúc âm theo Thánh Jean, IV, 20). Mỗi người đệ tử hoặc người chí nguyện muốn được điểm đạo, đă được Chơn Sư thâu nhận đàng hoàng, và cao hơn nữa, mỗi kẻ thắng trận đă bước qua cánh cửa điểm đạo th́ đều là một con kênh để cho ảnh hưởng của Chơn Sư chảy xuyên qua; người ta có thể đi đến Chơn Sư nhờ sự trung gian của người đệ tử đó. Chơn Sư đă giao phó cho y một phần trách nhiệm rơ rệt, và người đệ tử giống như một tiền đồn của công việc của Chơn Sư tại thế gian. V́ vậy nên ai giúp đỡ người đệ tử th́ chính là giúp đỡ Chơn Sư phần nào, dù rằng đó chỉ là sự giúp đỡ về những điều thật bé nhỏ, vụn vặt, thí dụ làm cho công việc của người đệ tử được dễ dàng, chăm nom về sự tiện nghi vật chất của y, không kể đến những sự việc to tát hơn nữa.
Người học viên có tấm ḷng quả quyết nhất định xoay mặt về phía cái mục tiêu cần phải đạt được, th́ sẽ hiểu rơ ràng sự quan hệ của tất cả các việc này. Thí dụ y có nhiều cách tiếp xúc với Bà Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học Thế Giới. Những cuốn sách hay, những bài báo của bà viết ra, những bài diễn thuyết của bà trong phạm vi lư trí. Bức h́nh của bà sẽ giúp học viên khi tham thiền nghĩ đến bà và đi đến gần bà; trong suốt ngày, vào những lúc nhất định, y sẽ định trí và nghĩ đến h́nh ảnh bà, gởi cho bà những tư tưởng mến thương, trung thành, mến mộ, biết ơn và dũng mănh. Tuy nhiên, y phải hết sức cẩn thận về hai điểm này : trước hết là coi chừng trong tâm trí y phải trong sạch, tư tưởng phải cao thượng, khi y nghĩ đến bà; khối óc của y cũng không được chứa đựng những tư tưởng thấp hèn và phù phiếm : v́ vậy cho nên trước tiên phải dành ra vài ba phút để rửa ḷng cho trong sạch và tạo ra sự điều ḥa.
Điểm thứ hai là y phải loại bỏ mọi sự chờ đợi để được giúp đỡ, được hưởng lợi lộc hay đặc ân của bà trao lại cho, v́ như thế là y đă ích kỷ. Khi tham thiền phải nhớ luôn luôn trong trí rằng nếu y muốn tiến lại gần lư tưởng để chiếm đoạt một cách tư riêng, hay để tự ḿnh được thỏa măn sung sướng - nếu y vô tâm mà có một thái độ muốn trở nên hùng mạnh hơn hoặc muốn có một kết quả ích kỷ - th́ sự cố gắng sẽ không đem lại sự thành công trong ư muốn : điều cần thiết phải là một hành động có nguyện vọng trong sạch và vị tha, một sự hứng khởi để bay vọt lên đến Đấng mà y thờ phụng, không có một tư tưởng nào khác với cái tư tưởng muốn tự hiến ḿnh. Chỉ khi nào tư tưởng của học viên được thật sạch sẽ, không hề bị nhơ bẩn v́ ḷng tư kỷ th́ y mới có thể tiến lên một mức độ khá cao để mở tâm trí đón nhận cái ảnh hưởng cao siêu chảy tràn vào.
Sự cố gắng theo đường lối này có thể mang lại một thành công rất lớn lao; v́ định luật th́ bất di dịch, và khi lư tưởng ở sát gần bên ta th́ ḷng hứng thú lại nhiệt liệt và cái kết quả cũng theo đó mà tăng tiến.
Nếu học viên giữ cho ư muốn của ḿnh được hết sức trong sạch và nếu trong trí y, tư tưởng của y được luôn luôn hướng về phía Chơn Sư, th́ một ngày kia, y sẽ nhận thấy rằng cái ảnh hưởng mà y thường tiếp xúc, dường như từ nơi đâu mà chảy xuyên qua Đấng hiện thân của lư tưởng y, chớ không phải là ảnh hưởng này phát sinh tự ngay nơi Đấng cao cả đó, như thế y sẽ lần lần càng ngày càng tiến lên cao để nhận thức ngay được sự hiện diện của Chơn Sư.
Như vậy, lúc thoạt đầu, đối với y th́ các Chơn Sư chỉ là một ư niệm của cái trí, một kết quả tự nhiên của lư luận, trong cái hệ thống triết lư của nó nhưng rồi lần lần khi mà các thể thanh bai (vía, trí, . . .) của y có thể càng ngày càng đáp ứng được với những ảnh hưởng cao siêu, th́ các vị Chơn Sư sẽ trở thành một sự thực linh động trong đời sống của y, một sự thực mà trái tim y và cả khối óc y cũng đều nh́n nhận và cảm thấy.
SỰ LẬP HẠNH (trau dồi đức hạnh)
mục lục
chú thích
Không cần phải nói dài về cái khía cạnh lập hạnh của sự tham thiền v́ phần này đă được bao gồm trong những điều đă nói trên. Cái kết quả của sự tham thiền về một tính tốt là sẽ khiến cho con người lần lần có được tính tốt ấy, khiến cho những thể xác, vía, trí của y có thể rung động để đáp ứng với tánh tốt đó và để khiến cho thể ấy có được cái thói quen đáp ứng như thế, v́ khi một tư tưởng được nhắc đi nhắc lại hoài th́ lần sau nó sẽ được hiện ra một cách dễ dàng hơn.
Một pho Thánh Kinh Ấn Độ đă nói rất đúng rằng : “ Con người nghĩ đến cái ǵ th́ y sẽ trở nên cái đó. V́ vậy, nhà ngươi hăy nghĩ đến Thượng Đế Trường Tồn Vĩnh Cửu”. Muốn được như vậy phải đặc biệt sử dụng cái khả năng của khối óc để tạo ra những h́nh ảnh; thêm vào đó cần phải kiên nhẫn và thành thực cố gắng thực hành cái đức tính đă được lựa chọn. Nếu học viên thiếu can đảm, y phải tự tưởng tượng đặt ḿnh vào một trường hợp cần phải can đảm và kết thúc câu chuyện tưởng tượng làm sao cho thật hùng dũng. Rồi khi nào đời sống hằng ngày đưa những cơ hội cần phải can đảm th́ cái tư tưởng về sự can đảm liền hiện ra ngay trong trí y một cách tự nhiên; y chỉ cần hơi cố gắng can đảm, như thế cũng đủ bù đắp sự khiếm khuyết thuở ban đầu.
Ta nên lần lượt lấy hết đức tính này đến đức tính khác để làm đề tài tham thiền và tự rèn luyện bằng cách tập rèn luyện lư trí cùng cái quyền năng của trí tưởng tượng để có thể tùy ư ḿnh mà cảm nhận được những đức tính đó. Có một lời chỉ dẫn hữu ích đối với người học viên muốn trừ bỏ các tính xấu của ḿnh. Cái thói quen muốn nghĩ hoài về những tật xấu của ḿnh th́ không khiến cho tinh thần lành mạnh chút nào cả; trái lại thói quen này thường làm ta thối chí, tạo nên một trạng thái u uất giống như một bức tường giam hăm và ngăn cấm những ảnh hưởng thiêng liêng.
Trong phương pháp thực hành, ta càng quên phứt những tật xấu đi th́ càng hay và hăy tập trung ḷng ước nguyện và sự cố gắng của ḿnh trọn vẹn vào công việc lập hạnh để có những tính tốt đối lập với các tật xấu đó. Có một vị vừa viết văn vừa đi giảng đạo nổi tiếng, đă mạnh bạo nói lên sự thực này : Quư bạn hăy nhớ rằng người ta không thể nào cùng một lúc mà nh́n thấy cả hai mặt của một đồng tiền. Khi nào quư bạn cảm thấy thối chí v́ phải chiến đấu với Phàm ngă thấp hèn và hoàn toàn nhàm chán chính bản thân ḿnh, tự ḿnh lại ghét ḿnh như một con người đáng trách, th́ quư bạn hăy nên tự bắt buộc ḿnh nh́n cái khía cạnh bên kia tức là khía cạnh tốt đẹp của ḿnh và suy nghĩ nhiệt liệt theo cái đường lối đẹp đó; ấy là một đường lối luyện tập cao quư nhất cho trí bạn. Bạn hăy nói: “ Ta thuộc về Thượng Đế. Chơn Ngă thiệt thọ của ta là cái Tinh thần Thiêng Liêng của Ngài”. . . tác phẩm “Ánh Sáng trên những vấn đề khó giải quyết của đời sống” tác giả là Đức Phó Giáo Chủ “Wilberforce”.
Muốn thành công trong đời sống tinh thần th́ chẳng nên chiến đấu quyết liệt với Phàm ngă thấp hèn, mà chỉ nên tiến nhiều trong sự hiểu biết và sự thưởng thức những điều cao cả. V́ một khi người ta đă biết khá đủ về niềm hạnh phúc và nỗi vui mừng của đời sống cao cả th́ những dục vọng thấp hèn liền phai mờ đi và không c̣n quyến rủ được ta nữa. Một vị Đại Giáo Chủ đă nói rằng : sau khi phạm lỗi, cái phương pháp hối hận tốt lành nhất là can đảm nh́n thẳng vào tương lai, không hề bị tuyệt vọng, nhưng quả quyết không bao giờ tái phạm vào lỗi đó nữa.
Tuy rằng phần quan trọng nhất của sự tham thiền là hướng dẫn ư chí, tư tưởng và t́nh cảm, nhưng dĩ nhiên người ta không thể bỏ qua xác thân được, v́ thế nên những lời chỉ dẫn liên quan đến cơi hồng trần th́ không phải là thừa. Quả thực đó là một việc mà người học viên phải nghĩ đến, sau khi học xong phần lư thuyết và bắt đầu học thực hành tham thiền.
V́ một vài tư tưởng và một vài mối xúc động thường tự diễn tả bằng những cử động và điệu bộ đặc biệt của xác thân, nên do một phương pháp trái ngược lại, một vài cách ngồi của xác thân cũng có thể nảy sinh những trạng thái tâm lư thuộc về lư trí hay cảm t́nh và có thể giúp cho học viên ở măi trong trạng thái đó. Trong trường hợp này, cần phải làm cho xác thân rung động cùng một nhịp điệu với các thể cao (vía, trí . . .), phải điều ḥa xác thân với các thể đó và với những ảnh hưởng của những sức mạnh thiên nhiên tự bên ngoài vào.
Khi bắt đầu tham thiền học viên có thể lựa chọn một trong hai cách ngồi mà những người thành thạo về tham thiền thường cho là tốt lành : có thể ngồi trong một chiếc ghế bành (fauteuil) thong thả, thân ḿnh giữ cho thật thẳng; chỗ để dựa lưng không nên quá nghiêng về phía sau; hai bàn tay nắm lấy nhau và đặt trên đầu gối; hoặc những bàn tay rời nhau ra và mỗi bàn tay đặt nhẹ lên đầu gối : hai bàn chân để duỗi ra song song, hay là bàn chân phải vắt chéo lên bàn chân trái.
Cách ngồi phải cho thong thả, dễ dàng, đầu phải thật thẳng nhưng đừng cứng ngắc mà cũng đừng cúi xuống ngực, nhắm mắt và ngậm miệng lại, và theo như lời khuyên của một văn sĩ Ấn Độ nổi tiếng về những tác phẩm viết về pháp môn Du Già, nên giữ cho xương sống thật thẳng v́ rất nhiều thần lực chảy xuyên qua xương sống.
Hoặc có thể ngồi trên bộ ván, trên đi văng (divan) hay ngồi dưới đất chân xếp bằng theo lối phương Đông. Những người thành thạo trong việc tham thiền khuyên nên giữ cho chân tay dính với nhau (nghĩa là bàn tay phải nắm lấy bàn chân trái, c̣n bàn tay trái nắm lấy bàn chân phải) để tránh sự hao hụt về thần lực nó thường theo lẽ tự nhiên mà tuôn ra ở các đầu ngón chân, ngón tay vân vân. Cách ngồi theo lối phương Đông, chân vắt chéo (ngồi kiết già) c̣n điều lợi này nữa : theo lời người ta nói th́ thần lực được tuôn ra sẽ tỏa xung quanh xác thân như một cái bao, bọc ngoài và che chở. Nhưng cái kiểu ngồi này thực là bất tiện đối với phần đông người Tây phương tuy rằng ở Đông phương đó là cách ngồi tự nhiên, Đông phương là nguồn cội của mọi giáo lư Du Già thời nay, nữ văn sĩ Alice C. AMES trong cuốn sách “Tham thiền” (Méditation) của bà đă nói một cách duyên dáng rằng : “ Những nỗi khó khăn buổi đầu tiên th́ rất nhiều, nhưng chúng c̣n tăng thêm gấp bội v́ người ta cứ tưởng là cần phải ngồi theo lối Đông phương đủ các kiểu kỳ quái để làm khổ xác thân; nhưng thực ra xác thân phải được ở trong một t́nh trạng nghỉ ngơi hoàn toàn để ta có thể quên được nó đi”.
Ngoại trừ trong những trường hợp hết sức hiếm hoi, ta chẳng nên nằm mà tham thiền v́ như vậy, ta thường hay ngủ. Hơn nữa, nằm như thế th́ óc không có thể đáp ứng một cách điều ḥa với những làn sóng rung động cao cả của những thể vô h́nh (vía, trí v.v. . .) nếu máu chảy chậm lại; v́ thế người ta thường khuyên rằng trước khi tham thiền buổi sáng, ta nên tắm nước lạnh hay đi chơi bách bộ bước mau.
Những cách ngồi mà người ta vừa khuyên ở trên, không những khiến ta thở được bằng bụng một cách sâu xa, mà c̣n khêu động cho lối thở này được phát sinh, giống như lối thở của những ca sĩ biết luyện tập đúng phép. Ông George FOX, một tín đồ Thiên Chúa Tân Giáo (Quaker) cùng với một số người theo Vô vi chủ nghĩa (Quiétistes) nói họ đă biết cách “thở ở bên trong”. Chính cái lối tham thiền thực hành của ông FOX đă chứng minh rằng khi xác thân nhờ sự tham thiền mà điều ḥa được th́ ta sẽ thở một cách sâu xa hơn, đều đặn hơn, nhịp nhàng hơn cho đến khi hơi thở lần lần trở nên thong thả và yên ổn để rồi không c̣n được chú ư đến nữa. Một khi ta đă ghi chú được cái hậu quả này rồi, th́ ở trong phương pháp Du Già Luyện xác (Hatha Yoga) sự việc lại diễn ra một cách trái ngược lại và người ta t́m cách điều ḥa những sự hoạt động của cái trí, bằng cách thở theo một phương pháp đă được ấn định sẵn. Nhưng học viên cần phải biết rằng có sự nguy hiểm nếu tập thở một cách mù quáng theo những đường lối quá độ được dạy trong những sách Huê Kỳ “Tư Tưởng Mới” và ở trong những sách báo Tây Phương viết về Pháp Môn Du Già.
Trước hết, trong sự phát triển tâm linh, luyện tập ngược chiều “từ dưới lên trên” th́ thực là nguy hiểm, khi ta mang xác thân ḿnh ra mà thí nghiệm, thay v́ chú ư đến giáo lư thâm sâu này trong cuốn Tiếng nói Vô thinh : “ Cái trí là kẻ phá hoại sự thực. Người đệ tử phải giết kẻ Phá Hoại ấy đi”. Người học viên nên học cách làm chủ tư tưởng của ḿnh theo giáo lư của Pháp Môn Đại Du Già (Raja Yoga) th́ hơn, và hăy phó thác sự phát triển của xác thân ḿnh và sự xây dựng các thể tâm linh của ḿnh cho những buổi tập tham thiền, chúng sẽ mang lại những kết quả tự nhiên. Hơn thế nữa, có những điều một xác thân phương Đông có thể luyện tập được, nhưng một xác thân phương Tây không thể luyện tập được. Vài ba cách tập thở th́ rất nguy hiểm và có những hậu quả hết sức tai hại. Người ta có thể nói qua rằng không có ǵ là nguy hiểm nếu chỉ thở giản dị và sâu xa, nếu không có sự cố gắng quá sức, không có sự căng thẳng quá đổi nơi trái tim và phổi, và nếu không cố gắng để tập trung tư tưởng vào những luân xa [7] trong thân thể. Người học viên có thể đốt chút nhang thơm và nhờ đó bầu không khí được trở nên thanh khiết hơn; theo quan điểm Huyền bí học, y cũng có thể trang trí nơi tham thiền bằng những màu sắc tươi sáng, những bức tranh đẹp, bông hoa hay những thứ khác với mục đích nâng cao tinh thần và t́nh cảm.
Y cũng nên tuân theo một vài qui luật về cách ăn uống, phải triệt để kiêng rượu và thịt, nếu sức khỏe của y không v́ thế mà bị giảm sút. Ngựi ta không thể vừa uống rượu, vừa tham thiền một cách nhiệt liệt mà không làm cho đầu óc sưng lên; vả lại vấn đề này đă được nói một cách chi tiết trong sách báo Thông Thiên Học : xin đọc cuốn “Con người và những thể xác, vía, trí v.v” của y - (L’homme et ses corps) do bà Annie Besant viết.
Một điểm khác không nên coi thường là phải tham thiền vào những lúc nào trong một ngày. Tuy không phải là nhất định bắt buộc nhưng ta nên tham thiền cho thật đúng giờ, phần lớn của nỗi khó khăn đầu tiên khi ta tham thiền là các thể (xác, vía, trí v. v) của ta đă quen phản ứng một cách máy móc khi ta cố gắng làm cho chúng có những thói quen mới mẻ; các thể c̣n có khi được gọi các con tinh chất (élémentals) và sự phản ứng của chúng tuy mù quáng, vâng theo linh tính, nhưng cũng rất mạnh mẽ.
Theo người ta nói th́ trong một ngày có ba lúc liên quan mật thiết với khoa biểu tượng học của Hội Tam điểm (Franc Maconnerie) và rất thuận lợi thu nhận thần lực : đó là lúc mặt trời mọc, lúc mặt trời đúng ngọ và lúc mặt trời lặn. Các nhà thần bí thời xưa thường lựa chọn những lúc đó; nhưng dĩ nhiên, ta có thể thay đổi chút đỉnh cho thích hợp với lối sống “văn minh” bây giờ. Ngoài ba lúc đó ra nếu có thể th́ ta cũng nên định trí mỗi giờ, khi thức chớ không ngủ, định trí mà cố gắng cảm nhận thấy rằng ta đang sống đây với tư cách một Con Người Thiêng Liêng. Cách luyện tập như thế sẽ dẫn ta đến một trạng thái mà khoa học thần bí Thiên Chúa Giáo gọi là “ sự tĩnh tâm bên trong” và mục tiêu của học viên là tập luyện cho trí ḿnh có thói quen tự nhiên xoay về phía những tư tưởng thiêng liêng.
Không nên tham thiền sau khi ăn xong hay tham thiền về khuya : trong trường hợp thứ nhất, tư tưởng vận động và thu hút máu không thể làm việc để giúp sự tiêu hóa được nữa; ở trường hợp thứ hai, lúc đó các thể (xác, vía, trí v.v) đă mệt mỏi và cái phách dễ rớt ra ngoài; hơn nữa ảnh hưởng của mặt trăng rất mạnh lúc khuya, nên người ta thường hay gặp những điều không tốt lành.
SỰ CẦN THIẾT PHẢI CÓ MỘT THÁI ĐỘ TÍCH CỰC.
SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LINH.
mục lục
chú thích
Hệ thống tham thiền được tŕnh bày nơi đây với học viên nhằm phát triển con người về tinh thần, lư trí, hạnh kiểm cùng sự kiểm soát trí khôn và t́nh cảm. Nó không nhắm phát triển phép thần thông “từ dưới đi lên” . Nhưng nó có thể tự nhiên khêu gợi được một trực giác về tâm linh ở nơi những người nào khá nhạy cảm. Sự phát triển tâm linh này làm cho con người càng ngày càng nhạy cảm đối với hoàn cảnh xung quanh : đối với những người và những nơi chốn; con người nhớ được phần nào những kinh nghiệm của ḿnh ở cơi Trung giới khi ngủ; Chơn nhơn trực tiếp điều khiển Phàm nhơn một cách dễ dàng hơn; con người có thể nh́n nhận được ảnh hưởng của các Chơn Sư cùng những người đă tiến hóa về tinh thần v.v. .
Người học viên đang t́m cách phát triển theo một phương pháp tích cực th́ phải thận trọng xa lánh điều này : sự phát triển tính đồng bóng thụ động và tuân theo sự chỉ dẫn của một hồn ma dẫn dắt ta, đó là kết quả của lối tham thiền tiêu cực. V́ mặc dầu khoa Chiêu hồn học (spritisme) [8] có giá trị như thế nào, hai hệ thống này hoàn toàn khác biệt không đi đôi với nhau được. Thí dụ như trong một số sách nói về pháp môn Du Già được sửa đổi để làm vừa ḷng những người Tây phương, người học viên khi bắt đầu tham thiền nên ngước mắt lên càng cao càng hay và cứ giữ mắt ngước cao như thế măi. Hậu quả của sự luyện tập này là bắt buộc con mắt phải cố gắng mệt mỏi và làm cho khối óc phải mệt đừ; điều này gây ra một trạng thái thụ động tự ḿnh lại thôi miên ḿnh (tự kỷ ám thị), kế tiếp ta có thể xuất thần phần nào và vài ba phép lạ hiện ra khi dùng một khối pha lê (cristal) th́ ta cũng đạt được kết quả giống thế.
Học viên cảm thấy khá bối rối khi y biết trong một cuốn sách người ta khuyên nên mở tâm trí để đón nhận những ảnh hưởng thiêng liêng mà vẫn giữ được thái độ tích cực. Có sự khó khăn là v́ người ta lầm lẫn hai giai đoạn khác biệt với nhau. Mới thoạt đầu th́ cần phải có một sự cố gắng tích cực, rồi kế tiếp về sau mới là trạng thái thụ động. Sự cố gắng tích cực nhiệt liệt nâng cao lương tri lên cho nó hoạt động ở những mức độ cao của những thể vía, trí v. v . . . nói một cách khác và khi xem xét sự việc theo một quan điểm khác th́ sự cố gắng nhiệt liệt này làm cho các thể vía, trí v. v. . . được điều ḥa, chúng tiếp xúc với nhau cùng một nhịp điệu khiến cho ảnh hưởng cao siêu có thể tuôn chảy xuống được. Chỉ lúc đó người ta mới có thể ngừng không cố gắng vươn lên nữa và nghỉ ngơi trong niềm an lạc đă đạt được. Có thể nói rằng câu:“ mở tâm trí ra để đón nhận ảnh hưởng cao cả” chỉ có nghĩa là giữ làm sao cho tâm trí cứ ở măi trong trạng thái an lạc tích cực và nhiệt liệt ở một mức độ cao siêu và thiêng liêng. Một hôm tác giả cuốn này được nghe thấy Đức Giám Mục Robert Hugh Benson dùng một h́nh ảnh rơ rệt để làm nổi bật lên một sự việc như thế : đó là h́nh ảnh một con chim hải âu đang thẳng cánh lượn trên trời cao cho thật thăng bằng trước cơn giông tố. Ai nh́n chim th́ tưởng chim đang thụ động, không làm ǵ cả và đứng im; tuy nhiên người ta biết rằng chim phải cố gắng không ngừng rất nhiều mới dang cánh ra như vậy được.
Dĩ nhiên sự yên tịnh nhiệt liệt đó là một trạng thái đạt được sau nhiều năm bền chí cố gắng, khác hẳn cái thái độ của nhiều người cứ tưởng rằng họ có thể tiến lên đến những mức độ vô cùng cao siêu thiêng liêng bằng cách nằm dài trong một cái giường êm ấm hay trong bồn tắm đầy nước nóng. Những người đó coi sự tham thiền như là sự mệt mỏi của xác thân, tư tưởng hay lười biếng vẩn vơ xung quanh một đề tài dễ chịu và yên tĩnh. Ta không thể nào chiếm đoạt nước Thiên Đàng theo lối ấy đâu.
Muốn tham thiền thực sự, th́ phải cố gắng nhiệt liệt chớ không phải là chỉ nhận thấy một sự dễ chịu nửa thức nửa ngủ với xác thân được an nghỉ; v́ thế nên những ai hài ḷng khi đọc qua loa những giáo lư trong các sách “tư tưởng mới” th́ có thể cứ yên ổn tiếp tục lâu dài những lối luyện tập của họ như họ hằng ưa thích; nhưng ai là người muốn tập định trí một cách đứng đắn, thực sự, th́ lúc mới bắt đầu không nên tham thiền lâu quá 5 hay 10 phút liên tiếp nếu không th́ khối óc bị mỏi mệt. Rồi rất từ từ ta có thể nối dài sự tham thiền lên tới 15, 20 và 30 phút.
Ngoài ra, học viên phải nhớ rằng sự định trí tự nhiên làm cho các bắp thịt trong thân thể bị căng thẳng. Bằng cớ của sự tự động này là sự tham thiền thường hay cau lông mày. Bắp thịt bị căng thẳng như thế không những làm cho xác thân mệt mỏi nhiều mà c̣n ngăn cản không cho thần lực thiêng liêng chảy xuống. V́ vậy trong khi tham thiền cũng như ở vào nhiều lúc trong một ngày, khi đang làm công việc thường xuyên, người học viên phải thỉnh thoảng chú ư đến xác thân và “ xả hơi” thong thả cho đỡ mệt.
Những người bản tính mạnh mẽ và nồng nhiệt thường nói và viết một cách khó khăn để diễn tả ư tưởng ḿnh, v́ như thế họ bắt khối óc phải căng thẳng đột nhiên và quá mạnh. Họ phải học cách làm cho khối óc vận chuyển lần lần từ chút một, đúng như ta châm điện vào b́nh một cách thong thả; một lúc xả hơi nghỉ ngơi hoàn toàn sẽ khiến họ vượt được sự khó khăn này.
Cũng giống như một diễn giả khi trí óc mệt mỏi v́ làm việc quá độ th́ ḍng tư tưởng bị đứt quăng hoặc ông ấy quên phứt đi một chữ không sao có thể nhớ lại được nữa; lúc đó thái độ khôn ngoan nhất là phải nghỉ “xả hơi” đàng hoàng trong một lúc, phải nghỉ ngơi hoàn toàn, chớ đừng quá cố gắng để nhớ lại v́ sự cố gắng này chỉ làm cho khối óc bị căng thẳng thêm mà thôi. Học viên cũng phải nhớ rằng sự định trí không phải là một sự cố gắng của xác thân. Khi mà tinh thần trụ vào một ư nghĩ th́ tức là có sự định trí rồi. Thật khó lấy lời nói mà diễn tả một sự việc ta chỉ có thể hiểu được nhờ kinh nghiệm bản thân nhưng định trí không phải là cố gắng giữ măi tinh thần định vào một tư tưởng nào đó, nhưng chính là ta phải để cho tinh thần được nghỉ ngơi trên tư tưởng ấy một cách yên lặng và ổn định hoàn toàn. Ngoài ra, học viên phải thấm nhuần ư nghĩ này - và áp dụng nó vào kinh nghiệm nội tâm của chính ḿnh theo đúng giá trị của nó. Trung tâm của tư tưởng là thể trí chớ không phải là khối óc; ngoài ra, ngay ở những buổi ban đầu, dường như ta phải cố gắng để làm cho khối óc được yên ổn; thật ra, sự định trí liên quan đến thể trí chớ không liên quan đến xác thân.
Người học viên Thông Thiên Học phải luôn luôn nhớ rằng trong bất cứ việc ǵ y làm, cái lư do tốt đẹp và công bằng là một điều tối quan trọng, và y chỉ có thể tiến lên cao đến các Chơn Sư nhờ những hành động vị tha và vô ngă do ḷng thành thực muốn giúp đỡ nhân loại. Trong những giai đoạn đầu, ḷng người chí nguyện không cần phải tràn đầy t́nh thương yêu nồng nhiệt đối với toàn thể nhân loại. Chúng ta dám nói rằng y chỉ cần t́m cách hành động một cách không ích kỷ đối với những người gần cận xung quanh là đủ rồi : v́ nếu y bền chí, y sẽ càng ngày càng trở nên nhạy cảm đối với tiếng kêu cứu đau thương của toàn thể nhân loại.
Tuy nhiên, người Thông Thiên Học đă bắt đầu hiểu được phần nào đời sống tinh thần th́ nên biết rằng sự tham thiền và sự giúp đời phải bổ túc lẫn cho nhau; hợp nhất với nhau chúng cho ta những kết quả tốt lành nhất. Người ta không gia nhập Hội Thông Thiên Học để được lợi lộc : chúng ta là học viên Thông Thiên Học v́ những giáo lư của sự Minh triết Trường tồn Vĩnh cữu đă thấm nhuần sâu xa vào trái tim chúng ta và đang sửa đổi lại đời sống của chúng ta. Dấu hiệu của con người tinh thần là ban rải tràn trề mọi sự cho kẻ khác, chớ không đ̣i hỏi kẻ khác phải cho ḿnh cái ǵ; chỉ như vậy ta mới t́m thấy hạnh phúc thực sự. V́ thế, đối với Hội Thông Thiên Học, ta phải có thái độ và tự hỏi như thế này : “tôi có làm ǵ để giúp đời ?”
Khi người hội viên mới gia nhập Hội Thông Thiên Học th́ y gặp những dịp để giúp đời; y đón nhận những dịp phụng sự này như thế nào [9] ? do đó người ta có thể đánh giá cái khả năng và giá trị của y. Những sự giúp đỡ nhỏ nhặt được làm một cách trung thành th́ quan hệ hơn là những công cuộc lớn lao mà người ta dự phần vào một cách đột nhiên theo ư thích trong chốt lát. Người học viên có thể tiến bộ là kẻ trung thành trong những công việc nhỏ nhặt như sẵn sàng rửa cửa kính, đốt ḷ sưởi của pḥng nhóm của chi bộ, sẵn sàng làm những công việc nhỏ bé, lặt vặt trong các buổi nhóm, y luôn luôn có mặt rất đúng giờ ở chi bộ cũng như ở mọi buổi nhóm mà y hứa sẽ tham dự, y sẵn sàng tự rèn luyện để có thể viết văn và diễn thuyết. Về điểm này, tưởng không cần phải nói dài hơn nữa. Chỉ nói qua một lời cho người học viên đứng đắn cũng đủ hiểu, và câu chuyện ngụ ngôn về những tài năng và những nén bạc thực rất thật thích hợp với công việc Thông Thiên Học [10].
Phải phụng sự theo lối đó ta mới có thể thấy con đường dẫn đến Chơn Sư . V́ câu châm ngôn của người học viên phải là tự ư và vui ḷng phụng sự. Và ở trong niềm vui phụng sự các nhu cầu của kẻ khác, y học quên ḿnh và quên sự tiến bộ riêng của ḿnh. Y hăy t́m cách làm mọi công việc phụng sự nhân danh Chơn Sư , y hăy làm việc như vậy một cách kiên nhẫn và đều đặn; y hăy tiếp tục tiến bước cho tới ngày y đối diện được với Chơn Sư và cảm thấy được ở nơi tâm khảm y nỗi vui vô tả của kẻ tự hiến ḿnh cho Đấng ḿnh hằng tôn kính.
Tuy nhiên, ta chớ nên tưởng rằng trong sự giao thiệp giữa Chơn Sư và đệ tử, có một sự ǵ bó buộc hoặc làm tiêu hủy cá tính của người học tṛ, nhận ch́m cá tính này trong ḍng thần lực của Chơn Sư. Trái ngược lại, ảnh hưởng của Chơn Sư không phải là một sức mạnh bên ngoài thôi miên ta, mà chính là một sự giác ngộ vô cùng tuyệt diệu, từ bên trong chiếu ra, đó là một sức mạnh ta không chống cưỡng lại được v́ nó hết sức thích hợp với cái nguyện vọng cao siêu nhất của người học tṛ, làm tỏ lộ rơ ràng cái bản chất thiêng liêng của chính y. Theo ư nghĩa đúng thực nhất, Chơn Sư chính là một con kênh ban rải đời sống thiêng liêng và đời sống phát sinh ở nơi người học tṛ được hoạt động. Thật vậy, người học viên nào học về khoa học th́ có thể so sánh sự việc này một cách rất giống với cách tạo ra luồng điện. V́ bản thể của thầy và tṛ đều giống nhau nên ảnh hưởng của Chơn Sư mới kích thích đến tột độ những đức tính cao thượng và trong trắng nhất ở nơi người học tṛ.
T́nh thương yêu của Chơn Sư đối với người đệ tử th́ giống như ánh sáng mặt trời khiến cho nụ bông sen hé nở để đón nhận khí trời tươi mát buổi b́nh minh, và người ta có thể nói đúng rằng một nụ cười của Chơn Sư khiến cho lương tri của người học tṛ được nới rộng đến nỗi dù có tham thiền một cách uyên bác hơn nhiều tháng về tính chất của t́nh thương yêu, người học tṛ cũng không thể tự sức ḿnh mà đạt được sự nới rộng như thế đó.
Cầu mong sao cho những lời khuyên vắn tắt trên đây về sự tham thiền có thể dẫn dắt vài ba linh hồn đến sự hiểu biết các vị Đại Giáo Chủ mà nhân danh Ngài phụng sự nhân loại.
Cầu mong Đấng Chí Tôn khêu gợi trong chúng ta cái ngọn lửa t́nh thương của Ngài và ngọn lửa của ḷng từ ái ngàn đời.
.I.WEDGWOOD
trang nhà l trang sách l bản tin l thiền học l tiểu sử l trang thơ l h́nh ảnh l bài vở
MỤC LỤC
Mới học tham thiền.
Mục đích của cuốn sách nhỏ này.
- Những bước đầu.
- Tham thiền về các thể xác, vía, trí v. v. . . .
- Những phương pháp tham thiền giống như ở trên nhưng thêm nhiều chi tiết.
- Sự định trí.
- Tham thiền về một đức tính.
- Sự tham thiền.
- Tham thiền về ḷng Thiện cảm.
- Tham thiền để nới rộng lương tri.
- Sự chiêm ngưỡng (Contemplation).
II.- Đi t́m Chơn Sư.
- Sự lập hạnh . (Trau dồi đức hạnh).
III.- Những phương pháp vật chất để làm cho sự tham thiền được dễ dàng.
- Cách ngồi.
- Sự thở và những chi tiết khác.
- Những giờ tham thiền.
- Sự cần thiết phải có một thái độ tích cực. Sự phát triển tâm linh.
- Xả thiền.
Chú thích
[1] PLOTIN : một nhà hiền triết Tây Phương thời xưa.
[2] TRỪU TƯỢNG : mắt không trông thấy, tay không rờ thấy được, nhưng có thể lấy cái trí mà hiểu được (lời giải của dịch giả).
[3] RAYON : Cung; có 7 cung : cung Ư chí, cung Bác ái v.v
[4] Tấm màn vật chất đầu tiên, rất mảnh mai mịn màng che phủ lên Thượng Đế tuyệt đối, chất tiên sinh khí sáng ngời.
[5] Có đăng báo “Revue Théosophique” năm thứ 15, 1904-1905.
[6] cụ thể : rơ rang
[7] Luân xa : những trung tâm thu nhận và ban rải thần lực trong thân thể (centres). Giống như những bánh xe xoay tṛn (chakras).
[8] Đó là hệ thống tiêu cực (méthode passive négative) của Khoa chiêu hồn và hệ thống tích cực (méthode active, affirmative) của Thông Thiên Học.
[9] Nghĩa là y sẽ nắm lấy cơ hội để phụng sự hoặc y sẽ bỏ qua cơ hội mà không làm ǵ cả. (Giải của dịch giả).
[10] Chữ Pháp “talents” có hai nghĩa : tài năng và nén bạc. Chuyện ngụ ngôn “Les talents như sau : Một ông chủ khi vắng lâu ngày, có trao cho đầy tớ mỗi đứa một nén bạc. Kẻ đầy tớ siêng năng th́ t́m cách làm cho nén bạc sanh lợi. Kẻ đầy tớ lười biếng th́ cứ giữ nguyên nén bạc. Đại ư chuyện này khuyên ta phải làm nảy nở tài năng trời đă phú thác cho ta. (Lời giải của dịch giả).
trang nhà l trang sách l bản tin l thiền học l tiểu sử l trang thơ l h́nh ảnh l bài vở
Bản quyền Copyright @
www.thongthienhoc.com 2001
Mọi bản sao hay trích dẫn kính xin quí vị đề rơ nơi xuất xứ chân thành cám
ơn.
Xin giữ nguyên bản. Mọi sự liên hệ xin
liên lạc e-mail sau:
nhusee@yahoo.com