| 
			 | 
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES
| 
			 | 
 
LUÂN HỒI 
(REINCARNATION) 
Tác giả 
Annie Besant 
 
 | 
			 | 
	NHÀ 
	XUẤT BẢN THÔNG THIÊN HỌC 
	- 
	Adyar, Chennai 600 020, 
	Ấn bản lần nhất                 
	1892
	Ấn bản lần hai                   
	1897
	Ấn bản lần ba, có hiệu 
	đính 1898
Ấn 
	bản lần tư, có hiệu đính  1905
đầu trang phần 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 cuối trang mục lục
1- Dẫn nhập
2 - Ư nghĩa của 
	Luân Hồi
3 - Luân Hồi là ǵ
4- Luân Hồi không 
	phải là ǵ
5 - Phương pháp 
	Luân Hồi
6 - Mục tiêu của 
	Luân Hồi
7 - Nguyên nhân 
	của Luân Hồi
8 - Bằng chứng về 
	Luân Hồi
9 - Những lư lẽ 
	phản đối Luân Hồi
10 - Lời cuối cùng
đầu trang phần 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 cuối trang mục lục
	
Nếu một chân lư 
	mới khó ḷng được thiên hạ lắng nghe trong cuộc khẩu chiến đánh dấu nền văn 
	minh hiện đại của ta th́ sự thật ấy c̣n khó được lắng nghe hơn nữa nếu nó 
	chỉ trở nên mới lạ do sức mạnh của tuổi tác. Nếu ta có thể líếc nh́n qua 
	lịch sử trí thức của loài người mở ra trước mắt ta trong cả trăm ngàn năm 
	th́ có một khoảng trống khiến cho một ư tưởng nào đó phổ biến trên khắp thế 
	giới chiếm được ưu thế mà chỉ mất có vài trăm năm phổ biến trong một số nhỏ 
	các quốc gia và chỉ gây ảnh hưởng chút ít đối với chúng ta. Nhưng khi cái 
	khoảng trống ấy – chỉ là một vết rạn nứt riêng phần trong quá khứ dài dằng 
	dặc – bao gồm sự phát triển tri thức của Âu Tây, và được người Âu Tây khảo 
	sát th́ nó lại có một tầm quan trọng quá khổ so với thời khoảng tương đối 
	của nó cũng như trọng lượng tương đối của nó khi lập luận. Cho dù Âu châu có 
	thể đóng góp nhiều điều có giá trị cho kho tàng trí tuệ của loài người th́ 
	những người Âu Tây của chúng ta cũng thường đánh giá nó quá cao và quên mất 
	rằng cái thời gian rất ngắn ngủi nhằm thành tựu được trí thức ở Âu Tây không 
	thể được coi một cách hợp lư là vượt xa toàn bộ thành quả trí tuệ của các 
	giống dân phi Âu Tây đă thu thập được trải qua cả ngàn thế kỷ. Cái quá khứ 
	mới gần đây của chúng ta cứ lù lù trước mắt như thể một tấm kính ảnh giơ lên 
	trước mắt ta khiến ta không thấy được mặt trời, nó che giấu quá khứ của thế 
	giới trước tầm nh́n trí tuệ của ta; đây là một nguy cơ mà ta nên cảnh giác. 
	Người khôn ngoan sẵn sàng lắng nghe những người có thói quen suy tư xa lạ 
	nhất với chính ḿnh v́ hiểu rằng nhờ thế biết đâu họ lại chẳng thoáng nh́n 
	được một khía cạnh chân lư mới mẻ nào đó, thay v́ một lần nữa chỉ thấy được 
	sự phản ánh của cái khía cạnh đă quen thuộc rồi. Những thói quen chủng tộc, 
	những truyền thống và môi trường xung quanh con người giống như những cặp 
	kính màu mà họ nh́n mặt trời Chân lư thông qua đó; mỗi mắt kính khiến cho 
	chùm tia sáng mặt trời có một màu sắc riêng và tia sáng trắng truyền qua 
	thành màu đỏ, màu xanh lơ, màu vàng tùy ư. V́ ta không thể nào vứt bỏ đi cặp 
	mắt kính ấy để có được ánh quang huy thuần túy không nhuốm màu cho nên khôn 
	ngoan ra th́ ta tổ hợp các tia sáng màu lại để có được ánh sáng trắng.
Thế mà Luân Hồi là 
	một sự thật đă ảnh hưởng tới tâm trí của vô số triệu người trong nhân loại 
	chúng ta, nó đă uốn nắn tư tưởng của đại đa số mọi người trong vô vàn thế kỷ. 
	Nó đă bị gạt bỏ ra khỏi tâm trí của người Âu Tây trong Thời đại Đen tối, và 
	như vậy nó không c̣n ảnh hưởng tới sự phát triển trí tuệ và đạo đức của ta 
	nữa – nhân tiện xin nói, nó đă gây tổn thương rất nhiều cho sự phát triển ấy. 
	Đó là v́  trong vài trăm năm vừa 
	qua thỉnh thoảng nó cũng lóe lên qua tâm trí của một số bậc vĩ nhân Âu Tây 
	coi như là một lời giải thích khả hữu về một số vấn đề gây rối trí nhất 
	trong cuộc đời. Và trong những năm gần đây v́ việc phát triển nó rơ ràng là 
	một phần cốt yếu của Giáo lư Bí truyền, cho nên nó đă được thường xuyên thảo 
	luận và thường xuyên được truyền bá trong đám học viên biết suy tư về những 
	điều bí nhiệm của cuộc sống và sự tiến hóa.
Dĩ nhiên th́ chẳng 
	có ǵ phải nghi ngờ việc các tôn giáo lớn trong lịch sử Đông phương đều bao 
	gồm giáo lư về Luân Hồi là một giáo điều căn bản. Ở Ấn Độ cũng như ở Ai Cập, 
	Luân Hồi là nền tảng của luân lư. Trong đám người Do Thái, những tín đồ giả 
	nhân giả nghĩa Pharisees cũng thường chấp nhận nó[1] 
	và niềm tin b́nh dân xuất hiện trong nhiều câu của kinh Tân Ước khi Thánh 
	John Tiền hô được coi là sự tái sinh luân hồi của Elijah hoặc khi các đệ tử 
	thắc mắc người sinh ra đă mù phải chịu tội của tổ phụ ḿnh hay chịu tội 
	trước kia của chính ḿnh. Kinh Zohar cũng lại nói tới các linh hồn phải chịu 
	sự chuyển kiếp. “Mọi linh hồn đều phải chịu sự tuần hoàn (đầu thai) nhưng 
	người ta không biết được đường lối của Đấng Thiêng Liêng. Xin hăy được phước 
	như thế! Họ không biết cách thức, họ bị phán xét trong mọi lúc, trước khi họ 
	đến với thế giới này và sau khi họ đă rời bỏ nó”[2]. 
	Kether Malkuth rơ rệt là cũng có ư giống như vậy theo cách Josephus truyền 
	đạt khi dạy rằng: “Nếu linh hồn thanh khiết th́ nó sẽ được ân sủng và vui vẻ 
	trong những ngày cuối cùng; nhưng nếu nó bị chối bỏ th́ nó sẽ đi lang thang 
	một thời gian trong đau khổ và tuyệt vọng”[3]. 
	Cũng vậy, ta thấy giáo lư đó cũng được các Đức Cha Giáo hội lỗi lạc giảng 
	dạy và Ruffinus[4] 
	có phát biểu rằng thời sơ khai nói chung đều tin vào Luân Hồi. Ta không cần 
	nói rằng môn đồ phái triết học Ngộ đạo và phái Tân Platon đều coi nó là một 
	phần bất khả phân ly trong giáo lư của ḿnh. Nếu ta liếc nh́n sang Tây bán 
	cầu th́ ta thấy Luân Hồi đă bén rễ vững chắc, là niềm tin thâm căn cố đế 
	trong nhiều bộ lạc Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Người dân Mayas với sự liên hệ rất thú 
	vị về ngôn ngữ và biểu tượng hệ với cổ Ai Cập, vẫn bảo tồn được giáo lư đó 
	theo truyền thống mà những cuộc khảo cứu của vợ chồng Tiến sĩ Le Plongeon đă 
	chứng tỏ. Ngoài ra ta c̣n phải kể thêm vài bộ lạc khác là di tích của những 
	quốc gia đă một thời oanh liệt; dù đă bị tiêu vong th́ họ vẫn c̣n bảo tồn 
	niềm tin của tổ tiên đă từng một thời gắn bó với những dân tộc hùng mạnh 
	nhất của Cựu thế giới.
Ta khó ḷng mà 
	trông mong rằng giáo huấn có mức cổ xưa như thế với một tổ phụ có mức tri 
	thức hoành tráng như thế mà lại bị lăng quên trong tâm trí loài người; do đó 
	ta thấy rằng sự lu mờ mà nó phải chịu cách đây vài thế kỷ có tính chất riêng 
	phần và chỉ ảnh hưởng tới một bộ phận nhỏ của loài người. Sự vô minh đang 
	tràn ngập Âu Tây đă quét đi niềm tin vào Luân Hồi cũng như đă quét đi mọi 
	triết lư, mọi siêu h́nh học, mọi khoa học. Âu châu thời Trung cổ không hiến 
	một mảnh đất để cho đơm bông kết trái bất cứ một quan niệm triết lư có tầm 
	mức rộng lớn nào về bản chất và số phận của con người. Nhưng ở phương Đông 
	vốn được thừa hưởng một nền văn minh tinh tế đầy diễm phúc khi Âu châu c̣n 
	đắm ch́m trong sự dă man, phương Đông đă từng có các triết gia và thi nhân 
	trong khi phương Tây c̣n đang thất học th́ ở phương Đông giáo lư vĩ đại đó 
	vẫn chi phối không bị phản bác cho dù trong khoa siêu h́nh học tinh vi của 
	người Bà la môn hay trong khoa đạo đức cao thượng vốn qui y theo Đức Phật và 
	Chánh Pháp.
Nhưng trong khi 
	một sự kiện của Thiên nhiên có thể nhất thời bị lờ đi ở một bộ phận nào đó 
	trên thế giới th́ nó vẫn không thể bị tiêu diệt, và khi bị đắm ch́m trong 
	nhất thời th́ nó sẽ lại tự khẳng định trước mắt loài người. Điều này đă được 
	chứng tỏ trở lại trong lịch sử về giáo lư Luân Hồi ở Âu Tây khi nó thỉnh 
	thoảng lại tái xuất hiện, được truy nguyên từ khi giáo hội Thiên Chúa thành 
	lập cho tới tận thời nay khi người ta đă chấp nhận nó tăng trưởng.
Khi Ki Tô giáo lần 
	đầu tiên được truyền bá ở Âu châu th́ tư tưởng nội môn của các vị lănh đạo 
	đă thấm đượm sự thật này. Giáo hội đă hoài công nhổ tận gốc nó và trong 
	nhiều giáo phái khác nhau nó vẫn nẩy mầm vượt cả thời Erigena và Benaventura 
	là những người ủng hộ nó thời Trung cổ. Mọi linh hồn vĩ đại có trực giác như 
	Paracelsus, Boehme và Swedenborg đều tin theo nó. Những nhà khai sáng người 
	Ư, Giordano Bruno và Campanella đều chấp nhận nó. Những triết gia xuất sắc 
	nhất người Đức đều được nó làm cho phong phú. Schopenhauer, Lessing, Hegel, 
	Leibnitz, Herder và Fichte trẻ tuổi đều tha thiết ủng hộ nó. Hệ thống nhân 
	loại học của Kant và Schelling cung ứng những điểm tiếp xúc với nó. Helmont 
	trẻ tuổi trong tác phẩm Về Cuộc Cách Mạng Trong Loài Động Vật có dẫn chứng 
	tới hai trăm vấn đề mà các lập luận đều có thể được nêu ra để bênh vực cho 
	việc linh hồn trở về những cơ thể con người theo các ư tưởng của Do Thái 
	giáo. Trong số các tư tưởng gia người Anh th́ các môn đồ phái Platon ở 
	Cambridge bênh vực nó với nhiều học thức và sự sắc sảo, rơ rệt nhất là Henry 
	More; c̣n đối với Cudworth và Hume th́ nó được xếp vào hàng ngũ thuyết bất 
	tử hợp lư nhất. Tác phẩm Ánh Sáng Phương Đông của Glanvil dành một bộ khảo 
	luận kỳ diệu cho nó. Nó làm mê mẫn tâm trí của Fourier và Leroux. Tác phẩm 
	Có nhiều Đường lối của Linh hồn của Andre Pezzani triển khai hệ thống ư 
	tưởng chuộc tội của Công giáo La Mă[5].
Người nào có đọc 
	Schopenhauer ắt quen thuộc với khía cạnh Luân Hồi trong triết lư của ông. V́ 
	người Đức vĩ đại ấy đă thấm nhuần tư tưởng Đông phương do nghiên cứu Áo 
	Nghĩa Thư cho nên ắt phải rất là kỳ lạ nếu ḥn đá tảng ấy của triết học Ấn 
	Độ lại không có chỗ đứng trong hệ thống của ông. Schopenhauer đâu phải là 
	triết gia duy nhất trong những người Đức trí thức và thần bí chấp nhận Luân 
	Hồi là một yếu tố cần thiết cho Thiên nhiên. Ư kiến của Fichte, Herder, 
	Lessing chắc chắn là đều có trọng lượng nào đó trong thế giới tư tưởng, và 
	những người này thấy Luân Hồi là một giải pháp cho những vấn đề mà bằng 
	không th́ chẳng giải quyết được. Quả thật thế giới trí thức không phải là 
	một Nhà nước độc tài và không ai có thể áp đặt ư kiến của ḿnh lên đồng môn 
	bằng thẩm quyền cá nhân; song le ở đó người ta chỉ cân nhắc ư kiến hơn là 
	tính toán, và những người trí thức có học hơn và nhiều quyền lực hơn thuộc 
	thế giới phương Tây mặc dù chỉ là một thiểu số vẫn có thể yêu cầu người ta 
	phải kính cẩn lắng nghe ḿnh cố ư đề xướng ra điều đó đối với tất cả những 
	người nào mà tâm trí không bị truyền thống hiện đại ràng buộc đến mức không 
	thể thẩm định được giá trị của những lập luận nêu ra để ủng hộ một sự thật 
	không phải là thời thượng.
Thật thú vị khi ta 
	lưu ư thấy rằng chỉ nội ư tưởng Luân Hồi thôi cũng không c̣n bị phương Tây – 
	ít ra là trong đám người có giáo dục – coi là phi lư nữa. Nó đang dần dần có 
	được vị thế của một giả thuyết khả hữu, được xem xét theo công trạng của nó 
	dựa vào việc nó có thể giải thích những hiện tượng gây rối trí và xét theo 
	biểu kiến là không quan hệ ǵ. V́ bản thân tôi coi nó là một sự kiện đă được 
	chứng minh cho nên đúng hơn th́ tôi muốn tŕnh bày nó ở những trang sách 
	dưới dạng một giả thuyết có thể đúng, soi sáng hơn bất kỳ thuyết nào khác 
	cho những vấn đề tối tăm thuộc cấu tạo của con người, tính t́nh của y, sự 
	tiến hóa và số phận của y. Một Chơn sư có dạy rằng Luân Hồi và Nhân Quả là 
	hai giáo lư mà phương Tây cần nhất; do đó bất cứ người nào tin vào Chơn sư 
	đều không thể không đề xuất một phác họa cho bạn đọc b́nh thường biết được 
	giáo huấn trung tâm này của Triết lư Bí truyền.
đầu trang phần 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 cuối trang mục lục
	
Ta hăy bắt đầu 
	bằng việc hiểu rơ Luân Hồi nghĩa là ǵ. Xét theo từ nguyên của từ ngữ này 
	th́ ta có thể bao gồm việc bất kỳ sự gia nhập lập đi lập lại nào vào một lớp 
	vỏ thể chất bằng xương bằng thịt. Nó chắc chắn là có hàm ư một điều ǵ đó 
	tương đối thường trụ nhập vào ở trong những điều ǵ đó tương đối vô thường 
	và nối tiếp nhau. Nhưng từ ngữ này chẳng cho ta biết ǵ về bản chất của cái 
	điều ǵ đó tương đối thường trụ và những điều ǵ đó tương đối vô thường 
	ngoại trừ việc những nơi cư trú vô thường ấy làm bằng “xác thịt”. Một từ ngữ 
	khác thường được dùng đồng nghĩa với Luân Hồi đó là từ ngữ Chuyển Kiếp, gợi 
	ra một khía cạnh khác của tác vụ này; ở đây nơi cư trú bị lờ đi và người ta 
	nhấn mạnh tới sự di chuyển của Linh hồn tức là điều tương đối thường trụ. 
	Khi kết hợp hai ư này lại với nhau để mô tả trọn cả ư tưởng ấy ta ắt có Linh 
	hồn nhập vào “những thể xác” liên tiếp bằng xương bằng thịt, và mặc dù từ 
	ngữ “linh hồn” cũng dễ bị phản đối kịch liệt v́ nó mơ hồ theo ư nghĩa thần 
	học th́ nhất thời nó cũng tượng trưng cho tâm trí hầu hết mọi người một dạng 
	tồn tại vốn trường tồn so với cái khung thể chất mà nó gắn bó trong buổi 
	sinh thời.
Theo nghĩa tổng 
	quát này vốn không dính dáng ǵ tới bất kỳ giáo huấn công truyền hoặc bí 
	truyền đặc biệt nào th́ Luân Hồi và Chuyển Kiếp là những từ ngữ để biểu thị 
	một thuyết về sự tồn tại theo đó một dạng vật chất hữu h́nh là nơi cư trú 
	của một nguyên thể tinh vi hơn nguyên thể này sống lâu hơn cái khuôn thể 
	chất của nó và khi cái khuôn đó chết đi th́ nó lại chuyển sang (ngay tức 
	khắc hoặc sau một thời gian) cư trú trong một cái khung khác. Có lẽ chưa bao 
	giờ giáo lư này dưới dạng cao siêu nhất lại được tŕnh bày rơ ràng hoặc hay 
	ho hơn qua lời khích lệ trứ danh của đấng 
	
“Những cơ thể này 
	của Đấng hiện thể (Ngài vốn vĩnh hằng, bất diệt và vô biên) đều được biết là 
	hữu hạn . . . Kẻ nào coi là người giết chóc và kẻ nào nghĩ rằng ḿnh bị giết 
	th́ cả hai kẻ ấy đều vô minh. Đấng ấy đâu có giết mà cũng chẳng bị giết. 
	Đấng ấy vốn bất sinh cho nên bất tử; đấng ấy cũng đâu có từng hiện hữu cho 
	nên đâu có bị ngưng hiện hữu; vốn không do ai sinh ra, trường tồn, vĩnh hằng 
	và hẳng hữu cho nên đấng đó không bị giết khi cơ thể bị tiêu diệt. Ai biết 
	ngài là bất diệt, bất sinh, bất giảm, hỡi Partha làm sao mà con người có thể 
	giết được hoặc khiến cho ḿnh bị giết được? Cũng giống như một người cởi 
	những bộ áo đă rách ṃn ra để khoác lấy những bộ áo mới, cũng thế chủ nhân 
	ông trong cơ thể vứt bỏ những cơ thể đă bị ṃn mỏi để nhập vào những cơ thể 
	khác mới tinh. Vũ khí không thể băm vằm ngài ra được, lửa không thể thiêu 
	đốt ngài, nước không làm cho ngài ướt, gió không làm cho ngài khô. Ngài vốn 
	không phân chia được, không thiêu đốt được và quả thật cũng không bị ướt 
	hoặc bị khô; ngài được gọi là trường tồn, thấm nhuần tất cả, ổn định, bất 
	biến, hằng hữu, vô hiện, bất khả tư nghị, bất di bất dịch; do đó khi biết 
	rằng ngài như vậy th́ con đừng lấy ǵ làm buồn”[6].
Vậy là theo Triết 
	lư Đông phương th́ thuyết Luân Hồi khẳng định rằng có tồn tại một Nguyên thể 
	sống động và biệt lập ngă tính ngự trong thể xác con người làm cho nó linh 
	hoạt và khi cơ thể ấy chết đi th́ nó chuyển sang một cơ thể khác sau một 
	thời gian dài hoặc ngắn. Như vậy các kiếp sống liên tiếp trong cơ thể được 
	nối liền với nhau giống như những viên ngọc trai được xỏ vào một sợi chỉ, 
	sợi chỉ này là Nguyên thể sống động c̣n các viên ngọc trai trên đó là những 
	kiếp người riêng rẻ.
đầu trang phần 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 cuối trang mục lục
	
Sau khi đă lĩnh 
	hội được ư tưởng Luân Hồi là việc có một điều ǵ đó sống động ngự trong một 
	chuỗi liên tiếp các cơ thể con người th́ chúng ta tự nhiên ắt thắc mắc: Cái 
	điều sống động này là ǵ, cái Nguyên thể trường tồn luân hồi ấy là thế nào 
	nhỉ? V́ việc ta hiểu được trọn cả giáo huấn ắt tùy thuộc vào việc hiểu rốt 
	ráo được lời giải đáp cho thắc mắc này, cho nên ta cũng thấy là phí phạm 
	thời gian khi bàn dông dài một chút về những t́nh huống dẫn tới và loanh 
	quanh so với kiếp nhập thế đầu tiên của cái Nguyên thể sống động này nhập 
	vào h́nh thể con người. Muốn hiểu được rốt ráo sự nhập thể này th́ ta phải 
	truy nguyên các bước tiến hóa của con người.
Những người nào đă 
	đọc quyển Cẩm nang đầu tiên ắt nhớ rằng trong đó mô tả Chơn thần tức 
	Atma-Buddhi là “dây cót của mọi cuộc tiến hóa, là nguyên động lực thúc đẩy ở 
	tận gốc rễ mọi vật”[7]. 
	Những người nào c̣n chưa quen với tên gọi chuyên môn này ắt lĩnh hội được ư 
	tưởng mà nhà Thông Thiên Học truyền đạt qua tên gọi đó nếu họ nghĩ tới Sự 
	Sống Đại Đồng Vũ Trụ, là Cội Rễ của vạn hữu dần dần triển khai mọi biểu lộ 
	của riêng ḿnh ra thành đủ thứ h́nh dạng tạo nên thế giới của chúng ta. Ở 
	đây ta không thể truy nguyên trở lại câu chuyện về trái đất của ta trong 
	những giai đoạn trước kia của cơ tiến hóa vô lượng kiếp: tôi hi vọng rằng 
	điều này sẽ được thực hiện ở một trong những Cẩm nang thuộc loạt sách này. 
	Nhưng chúng ta ở đây phải bằng ḷng với việc xét tới sợi chỉ đó ngay từ lúc 
	bắt đầu giai đoạn hiện nay khi mầm mống ắt trở thành con người đă xuất hiện 
	rồi do kết quả của sự tiến hóa trước kia trên bầu hành tinh này. Trong những 
	quyển sách thuộc bộ Giáo Lư Bí Truyền, H.P.Blavatsky có tŕnh bày tỉ mỉ về 
	cơ tiến hóa, và tôi khuyên học viên rốt ráo và tha thiết hăy tham khảo tác 
	phẩm ấy. Chỉ cần nói rằng h́nh dáng thể chất của điều ắt trở thành con người 
	đă được triển khai chậm chậm và rất từ từ, hai Giống Dân Chính đă trải qua 
	trọn cả sự phát triển của ḿnh và Giống Dân Chính thứ Ba đă đi được nửa lộ 
	tŕnh trước khi loài người đạt tới mức hoàn chỉnh xét về bản chất thể chất 
	tức thú tính. Gọi bản chất này là bản chất thú tính rất đúng v́ nó bao hàm 
	những ǵ mà con người có chung với con thú – một xác phàm, một thể phách, 
	sinh lực, các đam mê, khao khát và ham muốn – bản chất này được các lực 
	thuộc trái đất và các lực khác của vũ trụ kiến tạo nên qua hàng triệu năm. 
	Nó được Sự Sống Vũ Trụ ấp ủ, bao bọc, thấm nhuần; đây là “Lực ẩn đằng sau Cơ 
	Tiến Hóa”, là sự sống mà con người vào bất cứ thời đại nào cũng được gọi là 
	Thiêng Liêng.
Một B́nh luận 
	Huyền bí mà Giáo Lư Bí Truyền trích dẫn khi nói đến giai đoạn tiến hóa này 
	có đề cập tới “những song trùng thể tinh vi” (astral doubles) được tiến hóa 
	ra thành thể xác của con người. Vậy là mô tả được t́nh h́nh vào lúc đó khi 
	ta đạt tới mức ấy:
H́nh tướng (rupa) 
	đă trở thành hiện thể của các Chơn thần (nguyên khí thứ 6 và thứ 7) v́ đă 
	hoàn tất chu kỳ chuyển tiếp trong ba cuộc tuần hoàn trước. Thế rồi các song 
	trùng thể tinh vi trở thành những con người thuộc Giống Dân thứ Nhất của 
	cuộc tuần hoàn này. Nhưng chúng chưa hoàn chỉnh và vẫn c̣n chưa có giác 
	quan.
Ở đây ta có thể 
	nói rằng có hai cực của sự biểu lộ Sự Sống đang tiến hóa: phần Thú tính với 
	mọi tiềm năng trên cơi thấp nhưng tất nhiên là không có trí, vô lương tâm, 
	la cà không có mục đích trên trái đất, hướng về phía trước một cách vô ư 
	thức do có lực thúc đẩy bên trong bao giờ cũng xô đẩy nó về phía trước; lực 
	này là phần Thiêng liêng, bản thân nó quá cao về bản chất thuần túy tinh anh 
	nên không thể đạt được ư thức trên các cơi thấp, và do đó không thể bắc cầu 
	qua vực thẳm ngăn cách nó với bộ óc thú tính mà nó làm linh hoạt nhưng không 
	thể soi sáng được. Cơ thể ấy phải trở thành con người, là một tạo vật có 
	tiềm năng mầu nhiệm, là một nhạc cụ với những dây đàn sẵn sàng được gẩy lên 
	trổi thành nhạc, đâu là cái quyền năng biến những tiềm năng ấy thành hiện 
	thực, đâu là cái ngón đàn thiên tài sẽ khơi dậy được bản nhạc du dương và 
	gửi nó đi rộn ràng trong không gian?
Khi đă đến lúc th́ 
	đáp án ắt xuất phát từ cơi trí tuệ. Trong khi cơ tiến hóa lưỡng bội nêu trên 
	(chơn thần và thể chất) đang tiếp tục trên bầu hành tinh ta th́ có một đường 
	lối tiến hóa thứ ba cũng tiếp diễn nơi một bầu cao hơn mà nó phải đạt tới 
	mục tiêu nơi con người. Đường lối này là tiến hóa về tri thức và những chủ 
	thể tiến hóa ấy là lớp thấp thỏi thuộc các Con của Trí tuệ, các thực thể 
	thông tuệ hữu ngă thức mà tên gọi của họ đă hàm ư như thế. Các Con của Trí 
	tuệ này được gọi bằng nhiều tên khác nhau: các Tinh quân Ánh sáng, Dhyan 
	Chohans, Kumaras, Rồng Minh triết, Tổ phụ Thái dương v.v. . . Đây là những 
	tên gọi ẩn dụ và đầy thi vị mà học viên sẽ làm quen và cảm thấy hấp dẫn 
	trong quá tŕnh đọc tới nó, nhưng chúng cũng gây ra nhiều rắc rối và lẫn lộn 
	cho kẻ sơ cơ vốn không hiểu nổi liệu ḿnh đang giao tiếp với một lớp thực 
	thể duy nhất hay cả tá thực thể. Thật ra th́ tên gọi này bao gồm nhiều cấp. 
	Nhưng điều duy nhất mà kẻ sơ cơ cần lĩnh hội đó là vào một giai đoạn tiến 
	hóa nào đó, có một vài thực thể thông tuệ hữu ngă thức đă nhập vào, nhập thể 
	nơi con người; họ đă trải qua một quá khứ lâu dài tiến hóa về trí thức và 
	thấy con người thể chất là một công cụ thích hợp sẵn sàng để cho họ tiến hóa 
	thêm nữa.
Sự giáng lâm của 
	các Con của Trí tuệ này được tŕnh bày một cách thi vị trong những câu kinh 
	của quyển Thiền Thư[8].
“Các Con của Minh 
	triết, các Con của Đêm tối sẵn sàng luân hồi đă giáng lâm . . . Giống dân 
	thứ Ba đă sẵn sàng rồi. Các Hỏa Đức Tinh quân phán: Chúng ta sẽ ngự nơi 
	Giống dân này . . . Giống dân thứ Ba trở thành Hiện thể của các Tinh quân 
	Minh triết”.
Các Tinh quân Minh 
	triết này nhập thế với vai tṛ các bậc đạo sư và trở thành Tổ phụ của các 
	Chơn ngă con người luân hồi, c̣n các Tổ phụ Thái dương thuộc cấp thấp hơn 
	bản thân họ trở thành Chơn ngă luân hồi của các giống dân lănh đạo. Đó chính 
	là cái Trí hoặc đúng hơn là những cái Trí nơi con người, là Manas tức Nguyên 
	khí thứ Năm mà đôi khi ta mô tả là Hồn Người tức Hồn có Lư tính. Tôi thích 
	gọi Chơn ngă luân hồi là Chủ thể Suy tư hơn là cái Trí nơi con người, v́ từ 
	ngữ Chủ thể Suy tư gợi ra một thực thể cá biệt, c̣n từ ngữ cái Trí gợi ra 
	một sự tổng quát mơ hồ.
Thật là thú vị và 
	đầy ư nghĩa khi ta thấy từ ngữ con người xuyên suốt nhiều ngôn ngữ đều có từ 
	nguyên là Manas hoặc Man tức là suy nghĩ. Trong quyển từ điển
	Từ nguyên Từ điển, bên dưới mục 
	từ “Con người”, Skeat có tŕnh bày từ ngữ đó bằng tiếng Anh, tiếng Thụy 
	điển, tiếng Đan mạch, tiếng Đức, tiếng Iceland, tiếng Gothic, tiếng La tinh 
	(mas có nghĩa là nhiều người) đều phái sinh từ gốc tiếng Bắc phạn là Man và 
	do đó định nghĩa con người là một “con thú biết suy tư”. Như vậy bất cứ khi 
	nào ta nói tới Con người th́ ta đang nói tới Chủ thể Suy tư và lại ngược 
	ḍng quá khứ trở về cái thời kỳ mà các Chủ thể Suy tư này “giáng lâm”, nghĩa 
	là nhập thế trong một thể xác được kiến tạo để tiếp nhận họ khi con thú 
	không có giác quan trở thành một thực thể biết suy tư nhờ có Manas nhập vào 
	nó và ngự trong nó. Thế là Chơn nhơn đă khoác lấy “lớp áo bằng da thịt” của 
	ḿnh sau khi sa đọa vào vật chất hồng trần để cho ḿnh có thể ăn được trái 
	Cây Tri thức Thiện Ác và nhờ đó trở thành một vị “Thượng Đế”.
Chơn nhơn là cầu 
	nối giữa phần Thiêng liêng và phần Thú tính mà chúng ta coi như có bản thể 
	liên thông với nhau, thế nhưng vẫn chia ĺa nhau v́ thiếu sự hiệp thông mật 
	thiết. Một tay của Chơn nhơn vươn lên trên hướng về Chơn thần Thiêng liêng, 
	hướng về Tinh thần mà ḿnh vốn là ḍng dơi của nó, phấn đấu tiến lên để cho 
	ḿnh có thể đồng hóa được cái bản chất cao siêu, để cho trí tuệ của ḿnh trở 
	thành trí tuệ tâm linh, để cho sự hiểu biết của ḿnh trở thành minh triết. 
	Tay kia của Chơn nhơn lại tḥ xuống túm lấy phần Thú tính mà nó phải mang y 
	đi chinh phục các cơi thấp, y có thể rèn luyện và chinh phục nó cho những 
	mục đích của riêng ḿnh, biến nó thành một công cụ hoàn hảo để biểu lộ sự 
	sống cao siêu hơn. Nhiệm vụ trước mắt y c̣n lâu dài, đầu tiên y phải nâng 
	được phần Thú tính lên tới phần Thiêng liêng, tới cái loại Vật chất tinh vi 
	để nhập vào Tinh thần, sau khi đă băng qua ṿng cung đi xuống và bây giờ 
	đang leo lên qua ṿng cung đi lên th́ y phải dẫn dắt cuộc sống để nó mang 
	lại đủ mọi thành quả sau một cuộc lưu đày dài lâu rời xa chỗ ở chân thực của 
	ḿnh. Cuối cùng y c̣n phải hiệp nhất trở lại cái khía cạnh riêng rẻ của Đấng 
	Nhất Như để cho Tinh thần có được ngă thức trên mọi cơi với Vật chất là biểu 
	lộ toàn bích của nó. Để hoàn thành nhiệm vụ cao cả ấy th́ y phải sử dụng 
	công cụ là luân hồi.
Vậy th́ Chơn nhơn 
	ấy mới là Chơn ngă của ta và ta ắt sai lầm khi nghĩ rằng thể xác là “bản 
	ngă” cho nên mới xiển dương quá đáng cái “lớp áo bằng da thịt” tạm bợ này. 
	Điều ấy cũng chẳng khác nào người ta coi cái áo là bản thân ḿnh c̣n chính 
	ḿnh chỉ là một thứ phụ tùng cho bộ quần áo đó. V́ quần áo của ta chỉ tồn 
	tại để phục vụ cho ta chứ ta không tồn tại để phục vụ chúng, và chúng chỉ là 
	những món đồ cần thiết theo thời tiết, theo nhu cầu tiện nghi và theo tập 
	tục; cho nên cũng giống như thế, cơ thể của ta cũng chỉ cần thiết cho ta v́ 
	có những t́nh huống xung quanh ta cần tới chúng và chúng phải phục vụ cho ta 
	chứ không được đè đầu cưỡi cổ ta. Một số người Ấn Độ không bao giờ bảo các 
	nhu cầu của cơ thể là nhu cầu của ḿnh: họ nói “cái xác tôi đang đói”, “cái 
	xác tôi đang mệt” chứ không nói “tôi đói” hoặc “tôi mệt”. Và mặc dù câu này 
	nghe cũng chướng tai thậm chí có vẻ hoang đường nhưng nó đúng với sự thật 
	hơn v́ ta tự đồng hóa ḿnh với xác của ḿnh rồi. Nếu chúng ta có thói quen 
	đồng nhất hóa ḿnh về tư tưởng không phải với cái chỗ ở ḿnh ngự trong đó mà 
	với Chơn ngă vốn ngự trong chỗ ở ấy th́ cuộc sống ắt trở nên một điều ǵ vĩ 
	đại và thanh thản hơn. Ta ắt rũ bỏ được những chuyện rắc rối giống như ta 
	lấy bàn chải chải bụi ra khỏi quần áo của ḿnh và ta ắt nhận ra được rằng 
	tầm mức mà mọi chuyện ảnh hưởng tới ta không phải nơi sự đau khổ hoặc vui 
	sướng mà chúng mang lại cho các hiện thể của ta song ở nơi sự tiến bộ hay 
	tŕ trệ mà chúng mang lại cho Chơn nhơn ngự trong ta. V́ mọi chuyện đều chỉ 
	là vấn đề trải nghiệm và học tập cho nên ta có thể học được nhiều bài học từ 
	mỗi chuyện ấy, bằng cách t́m ra trong mỗi nỗi đau sự minh triết ẩn tàng 
	trong đó chẳng khác nào những cánh hoa e ấp cuộn lại bên trong nụ hoa. Theo 
	sự minh giải của luân hồi th́ ta sẽ nh́n đời bằng một cặp mắt khác, v́ cuộc 
	đời trở thành một trường học dành cho Chơn ngă bất tử bên trong ta, Chơn ngă 
	t́m được sự phát triển trong trường học ấy; Chơn ngă vốn đă hiện hữu, đang 
	tồn tại và sẽ tồn tại v́ chưa bao giờ đến ngày tận số.
Vậy th́ kẻ sơ cơ 
	nên nhớ kỹ ư tưởng cho rằng Chủ thể Suy tư là Chơn nhơn, Biệt ngă, Chơn ngă 
	luân hồi và Chơn ngă này t́m cách hiệp nhất với Chơn thần 
	thiêng liêng trong khi vẫn đang rèn luyện và tẩy trược phàm ngă đầy 
	thú tính mà nó phải liên kết với khi phải sống trong trần thế. Khi hiệp nhất 
	với Chơn thần thiêng liêng, một điểm linh quang của Sự Sống Vũ Trụ và không 
	thể tách rời khỏi Chơn thần th́ Chủ thể Suy tư trở thành Chơn ngă Tâm linh 
	tức Chơn nhơn Thiêng liêng[9].
Đôi khi ta nói Chủ 
	thể Suy tư là hiện thể của Chơn thần, có thể nói là cái khung tinh vi của 
	Chơn thần giúp cho Chơn thần có thể tác động trên mọi cơi; v́ vậy ta thường 
	thấy các tác giả Thông Thiên Học bảo rằng Tam nguyên thượng, tức Ba ngôi nơi 
	Con người là cái luân hồi, và cách diễn tả đó có thể được thông qua mặc dù 
	nó rất mơ hồ miễn là học viên nhớ cho rằng Chơn thần có tính cách Đại đồng 
	Vũ trụ chứ không đặc thù và chỉ v́ chúng ta vô minh cho nên chúng ta mới bị 
	gạt gẫm chia rẽ bản thân ḿnh với các huynh đệ của ḿnh và thấy Ánh sáng nơi 
	bản thân ḿnh không giống với Ánh sáng nơi người khác[10]. 
	Chơn thần có tính cách Đại đồng Vũ trụ nên không khác nhau dù ngự nơi những 
	con người hoặc cá thể khác nhau. Nói cho nghiêm xác th́ thật ra chỉ có Chủ 
	thể Suy tư mới luân hồi và ta dính dáng tới Chủ thể Suy tư tức Biệt ngă này.
Thế mà nơi Chủ thể 
	Suy tư này có đủ mọi quyền năng mà ta xếp vào loại Tâm trí. Nó có kư ức, 
	trực giác, ư chí. Nó thu thập được đủ mọi kinh nghiệm của các kiếp sống trên 
	trần thế mà nó đă trải qua và tích lũy kho chứa kiến thức này để chuyển hóa 
	chúng bên trong bản thân, dùng khoa luyện kim thiêng liêng để biến kiến thức  
	thành ra tinh hoa của kinh nghiệm tức là Minh triết. Ngay cả trong 
	quăng đời ngắn ngủi khi sống trên trần thế ta cũng phân biệt được kiến thức 
	mà ta thu thập và minh triết mà ta dần dần chưng cất được từ kiến thức ấy (tiếc 
	thay rất là hiếm hoi). Minh triết là thành quả của kinh nghiệm trọn cả đời, 
	là đỉnh cao sở hữu của người có tuổi. Và theo một ư nghĩa phong phú, đầy đủ 
	hơn th́ Minh triết là thành quả của kiến thức mà ta đă thu thập được trong 
	nhiều kiếp; do kinh nghiệm tích lũy được cho nên y mới đủ kiên nhẫn để cho 
	công tŕnh của ḿnh được hoàn chỉnh sao cho về lâu về dài th́ Chơn nhơn 
	thiêng liêng là thành quả vinh diệu của biết bao thế kỷ tiến hóa. Vậy th́ 
	Chủ thể Suy tư tích trữ các kinh nghiệm gặt hái được qua mọi kiếp trong quá 
	khứ, thu lượm được qua nhiều kiếp luân hồi; đây là một di sản mà mỗi người 
	đều chắc chắn sẽ có được khi y học cách vươn lên trên sự nô lệ của các giác 
	quan, thoát ra khỏi cơn băo táp và căng thẳng thần kinh của cuộc sống thế 
	tục nhập vào vùng thanh trong tức cơi cao mà Chơn ngă ta ngự nơi đó.
đầu trang phần 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 cuối trang mục lục
	
Trong Tiết trước 
	ta đă thấy rằng “h́nh tướng” bên ngoài của con người, bản chất vật thể của y 
	được kiến tạo chầm chậm qua hai Giống dân rưởi cho tới khi nó sẵn sàng tiếp 
	nhận Con của Trí tuệ[11]. 
	Đây là bản chất mà ta gọi là thú tính và nó bao gồm bốn bộ phận có thể phân 
	biệt được với nhau, tức là bốn nguyên khí I- xác phàm, II- thể phách, III- 
	sinh khí, IV- bản chất đam mê bao gồm các đam mê, khao khát và ham muốn. Đây 
	quả thật là con người thú tính khác với đám bà con là loài thú thuần túy do 
	ảnh hưởng mà Chủ thể Suy tư tác động lên nó, Chủ thể Suy tư này giáng lâm để 
	dạy dỗ và làm cho nó được cao cả. Dẹp bỏ Chủ thể Suy tư đi (giống như trường 
	hợp kẻ đần độn bẩm sinh) th́ ta chỉ c̣n lại một con thú mặc dù nó mang xác 
	người.
Thế mà Chủ thể Suy 
	tư liên kết với và làm linh hoạt người thú ấy bèn truyền thụ cho bản chất 
	thấp hèn những năng lực của riêng ḿnh khiến cho người thú ấy có thể biểu lộ 
	được, những năng lực ấy hoạt động thông qua bộ óc người; chúng ta nhận ra 
	chúng là trí năo tức hạ trí. Ở phương Tây, sự phát triển trí năo này được 
	coi là điểm phân biệt giữa con thú và con người theo cách nói b́nh thường. 
	Điều mà nhà Thông Thiên Học coi chỉ là hạ trí tức trí năo th́ người phương 
	Tây b́nh thường lại coi là chính cái trí và v́ thế mới có nhiều lẫn lộn khi 
	nhà Thông Thiên Học và người không phải Thông Thiên Học gặp gỡ nhau. Chúng 
	tôi xin nói rằng Chủ thể Suy tư khi phấn đấu đạt tới và gây ảnh hưởng lên 
	người thú th́ đă phóng ra một Tia tác động lên bộ óc để thông qua bộ óc đó 
	biểu lộ được đến mức tối đa những quyền năng trí tuệ mà bộ óc đó có thể 
	thông dịch được nhờ vào cấu h́nh và phẩm chất thể chất khác của nó. Tia này 
	làm cho các phân tử thuộc tế bào thần kinh trong bộ óc rung động (chẳng khác 
	nào một tia sáng làm xao xuyến những phân tử thuộc tế bào thần kinh của vơng 
	mạc) và như vậy nó sinh ra ư thức trên cơi trần. Lư trí, phán đoán, kư ức, ư 
	chí, thiết kế thi công – những năng lực mà ta biết biểu lộ ra khi bộ óc hoạt 
	động được trọn vẹn – tất cả những thứ đó đều là thành phần của cái Tia mà 
	Chủ thể Suy tư phóng ra, bị biến đổi theo những điều kiện vật chất mà nó 
	phải tác động thông qua đó. Những điều kiện này bao gồm các tế bào thần kinh 
	lành mạnh phát triển thăng bằng của từng nhóm tế bào thần kinh riêng biệt 
	một, được cung ứng đầy đủ máu có chứa chất dinh dưỡng để cho tế bào đồng hóa 
	được thế chỗ cho chất bị loại đi, máu đó c̣n mang oxy và dễ dàng phóng thích 
	oxy ra khỏi hiện thể của ḿnh. Nếu những điều kiện này không hội đủ th́ bộ 
	óc không hoạt động được và các quá tŕnh tư duy không thể được tiến hành 
	thông qua bộ óc ấy cũng chẳng khác nào ta không thể tạo ra một bản nhạc du 
	dương từ một cây đàn organ đă bị bễ ống gió. Bộ óc không tạo ra được tư 
	tưởng cũng như đàn organ không tạo ra được bản nhạc du dương; trong cả hai 
	trường hợp th́ đều có người tác dụng vào đấy thông qua khí cụ ấy. Nhưng 
	người tác dụng có khả năng biểu lộ ra (về mặt tư tưởng hoặc về mặt bản nhạc 
	du dương) bị hạn chế do năng lực của khí cụ.
Học viên rất cần 
	thẩm định minh bạch sự khác nhau này giữa Chủ thể Suy tư và người thú mà bộ 
	óc của người thú chịu tác động của Chủ thể Suy tư, v́ bất kỳ sự lẫn lộn nào 
	giữa hai thực thể này sẽ khiến ta không hiểu được giáo lư về Luân Hồi. Đó là 
	v́ trong khi Chủ thể Suy tư luân hồi th́ người thú lại không luân hồi.
Ở đây quả thật khó 
	khăn này là nguyên nhân dẫn tới biết bao nhiêu khó khăn khác. Người thú được 
	sinh ra và Chơn nhơn liên kết với người thú; Chơn nhơn hoạt động thông qua 
	bộ óc của người thú hết kiếp này sang kiếp khác mà vẫn chỉ là một Chơn nhơn 
	thôi. Nó lần lượt làm linh hoạt những người thú Sashital Dev, Gaius Glabrio, 
	Johanna Wirther, William Johnson (cứ cho là như vậy đi) và nơi mỗi người thú 
	nó đều thu thập được kinh nghiệm, đều thu lượm được kiến thức qua mỗi người 
	thú và đan dệt vật liệu đó thành ra Bản thể vĩnh hằng của chính ḿnh. Người 
	thú chỉ có được sự bất tử chỉ khi hiệp nhất được với Chơn ngă; Sashital Dev 
	không luân hồi thành ra Gaius Glabrio, rồi thành Johanna Wirther và đơm bông 
	kết trái thành William Johnson ở nước Anh vào thế kỷ 13; chỉ có một Con của 
	Trí tuệ lần lượt ngự trong mỗi người thú này thu thập kinh nghiệm mới mẻ, 
	tri thức mới mẻ từ mỗi chỗ ở đó. Chỉ Chơn ngă luân hồi ấy mới có thể ngoái 
	nh́n lại đường lối luân hồi của ḿnh, nhớ lại mỗi kiếp trên trần thế, câu 
	chuyện mỗi cuộc hành hương đi từ cái nôi tới nấm mồ, trọn cả vở tuồng diễn 
	ra hết hồi này sang hồi khác, hết thế kỷ này đến thế kỷ khác. Ta hăy xét 
	những diễn viên tưởng tượng của ḿnh, William Johnson vào thế kỷ 19 không 
	thể ngoái nh́n lại, không thể nhớ được những kiếp luân hồi của ḿnh v́ trước 
	kia y đă có bao giờ được sinh ra đâu, mắt y có bao giờ thấy được ánh sáng 
	của thời xa xăm đâu. Nhưng tính t́nh bẩm sinh của William Johnson (cái tính 
	t́nh mà y mang theo khi đến với cuộc đời) chính là tính t́nh đă được rèn 
	giũa và tôi luyện bởi Johanna Wirther ở Đức, Gaius Glabrio ở Rome và 
	Sashital Dev ở Hindustan, và cũng như nhiều người khác là bậc tiền bối trên 
	trần thế của y ở nhiều xứ sở trong nhiều nền văn minh. Y đang thêm những nét 
	chấm phá mới cho công tŕnh của biết bao thời đại này bằng vào cuộc sống 
	hằng ngày của ḿnh để cho nó qua tay y và khác đi một chút (thấp hèn hơn 
	hoặc cao thượng hơn) để sang tay cho kẻ thừa kế và tiếp nối y trên sân khấu 
	cuộc đời; theo một ư nghĩa rất thực mặc dù không phải nơi ngoại giới th́ kẻ 
	đó cũng là chính y chứ không c̣n ai nữa.
Như vậy, thắc mắc 
	vốn tự nhiên xuất hiện trong tâm trí và thường được nêu ra là: “Tại sao tôi 
	không nhớ lại những kiếp quá khứ của ḿnh?” th́ quả thực là dựa vào những 
	quan niệm sai lầm về thuyết luân hồi. Chơn ngă nhớ chứ, nhưng người thú tức 
	phàm ngă c̣n chưa hiệp nhất trọn vẹn với Chơn ngă th́ không thể nhớ được một 
	quá khứ mà cá nhân y đâu có chia xẻ. Trí nhớ trong bộ óc chỉ chứa phần ghi 
	lại những biến cố có dính dáng tới bộ óc đó thôi và bộ óc của William 
	Johnson hiện nay đâu phải là bộ óc của Johnson Wirther, của Gaius Glabrio 
	hoặc của Sashital Dev. William Johnson chỉ có thể nhớ những kiếp quá khứ 
	liên kết với ḿnh khi bộ óc của y có thể rung động hưởng ứng với những rung 
	động vi tế phóng xuống nó thông qua cái Tia vốn là cầu nối giữa phàm ngă phù 
	du và CHƠN NGĂ vĩnh hằng. Muốn làm được như vậy th́ y phải hiệp nhất mật 
	thiết với Chơn ngă ấy, phải sống với ư thức ḿnh không phải là William 
	Johnson mà là một Con của Trí tuệ, c̣n William Johnson chỉ là căn nhà tạm bợ 
	mà ḿnh đang sống trong đó v́ những mục đích riêng. Thay v́ sống với ư thức 
	của bộ óc th́ y phải sống với ư thức cao siêu; thay v́ nghĩ Chơn ngă đang ở 
	bên ngoài, là một điều ǵ đó ở bên ngoài ḿnh, c̣n William Johnson phù du 
	mới là “ḿnh”, th́ y phải đồng nhất hóa ḿnh với Chủ thể Suy tư, phải coi 
	William Johnson là cơ quan ở bên ngoài, hữu dụng để làm việc trên cơi vật 
	chất, phải được giáo dục và rèn luyện tới mức hữu hiệu cao nhất, sự hữu hiệu 
	đó bao gồm việc bộ óc của William Johnson phải nhanh chóng hưởng ứng với chủ 
	nhân ông chân thực.
Khi ta dần dần 
	tiến hành công việc khó khăn để cho con người xác thịt tiếp thu ảnh hưởng 
	của các cơi cao, khi Chơn ngă càng ngày càng có thể ảnh hưởng lên chỗ trú 
	xác thịt của nó, th́ những sự thoáng thấy các kiếp đă qua sẽ lóe lên trong 
	tâm thức hạ đẳng; những điều này càng ngày sẽ càng ít giống như tia lóe lên 
	và càng giống như những linh ảnh thường trụ cho tới khi cuối cùng sợi chỉ kư 
	ức liên tục mang lại ư thức về biệt ngă nhận ra quá khứ ấy chính là “của tôi”. 
	Lúc bấy giờ kiếp hiện tại được coi chỉ là lớp áo cuối cùng mà Chơn ngă đă 
	khoác lấy. Ta không c̣n đồng nhất hóa nó với Chơn ngă ấy nữa cũng như một 
	cái áo mà người ta mặc vào đâu có được y coi là một bộ phận của ḿnh. Người 
	ta không coi cái áo là bộ phận của ḿnh v́ y có thể cởi nó ra một cách hữu 
	thức và thấy nó tách biệt với chính ḿnh. Khi Chơn nhơn thực hiện được điều 
	đó với thể xác một cách hữu thức trên cơi này th́ sự chắc chắn trở nên hoàn 
	tất.
Lúc bấy giờ lớp áo 
	– “cái áo bằng da bằng thịt”, thể phách, sinh khí, bản chất đam mê – không 
	c̣n luân hồi nữa, các yếu tố của nó tan ră trở về với kho chứa mà chúng 
	thuộc về đó nơi các cơi thấp. Mọi thứ tốt đẹp nhất nơi William Johnson đều 
	theo chân Chơn ngă chuyển vào một thời kỳ an dưỡng cực lạc cho tới khi xung 
	lực đẩy nó ra khỏi sinh hoạt trên trần thế đă cạn kiệt th́ nó lại rớt xuống 
	cơi trần.
đầu trang phần 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 cuối trang mục lục
	
Giờ đây sau khi đă 
	có được ư niệm rơ ràng về Chơn ngă luân hồi tức Chủ thể Suy tư và phân biệt 
	được nó với người thú tức phàm nhơn phù du th́ học viên phải ra sức t́m hiểu 
	về phương pháp Luân Hồi.
Ta sẽ thẩm định 
	chính xác nhất được phương pháp này bằng cách xét tới cơi mà Chủ thể Suy tư 
	thuộc về cơi đó và Lực mà nó tác động với lực ấy. Chủ thể Suy tư chính là 
	cái gọi là Nguyên khí thứ Năm nơi con người, Nguyên khí thứ Năm nơi tiểu vũ 
	trụ tức con người tương ứng với Cơi thứ Năm trong đại vũ trụ tức vũ trụ bên 
	ngoài con người. Các cơi này là biến dị của Nguyên chất bản sơ theo Triết lư 
	Bí truyền và tâm thức hoạt động trên mỗi cơi thông qua những điều kiện của 
	mỗi cơi đó (bất chấp những điều kiện đó là ǵ đi chăng nữa). Nguyên chất là 
	một từ ngữ được dùng để diễn tả Bản thể dưới dạng ngoại giới sơ khai nhất, 
	là biểu lộ bản sơ của khía cạnh tuần hoàn thuộc ĐẤNG NHẤT NHƯ, là lớp màn 
	mỏng đầu tiên của Càn khôn tương lai vào lúc ban sơ mờ mờ mịt mịt của vạn 
	vật biểu hiện. Nguyên chất này chứa trong nó tiềm năng của mọi thứ kể cả 
	Tinh thần tinh vi nhất lẫn Vật chất thô trược nhất. Theo định đề của Triết 
	lư Bí truyền th́ có một Nguyên chất tức Nguyên thể ban sơ và Càn khôn được 
	triển khai ra từ đó; dưới dạng tinh vi nhất đó là Tinh thần, Năng lượng, 
	Lực; dưới dạng thô trược nhất đó là Vật chất rắn đặc nhất; h́nh tướng thiên 
	biến vạn hóa trong mọi thế giới đều là Nguyên thể này được tụ tập lại thành 
	ra các khối ít nhiều thô trược, thấm nhuần ít nhiều Thần lực. Một cơi chỉ có 
	nghĩa là một tŕnh độ tồn tại mà cái nguyên thể Tinh thần-Vật chất biến 
	thiên trong đó ở một mức độ giới hạn nào đó và tác động theo một vài “định 
	luật” nào đó. Nnư vậy cơi hồng trần chỉ có nghĩa là cái thế giới mà ta nh́n 
	thấy được, nghe thấy được, sờ mó thấy được, ngửi thấy mùi được, nếm thấy vị 
	được; nhờ vào các giác quan, ta có thể tiếp xúc được với cơi hồng trần tức 
	là nguyên thể Tinh thần-Vật chất - Khoa học gọi đó là Lực và Vật chất dường 
	như thể tách rời được Lực ra khỏi Vật chất – cho dù dưới dạng chất đặc, chất 
	lỏng hay chất hơi v.v. . . Cũng như thế đối với các cơi khác, mỗi cơi đều 
	phân biệt được do đặc trưng của nguyên thể Tinh thần-Vật chất ấy. Tâm thức 
	biểu hiện trên mỗi cơi này tức là hoạt động thông qua nguyên thể Tinh 
	thần-Vật chất của cơi ấy. Ngoài phát biểu thô thiển và súc tích nêu trên ta 
	c̣n phải thêm vào một sự kiện nữa đó là: các cơi không giống như ta nói ở 
	trên tức là giống như các lớp vỏ củ hành, lớp này chồng lên lớp kia mà các 
	cơi giống như không khí và chất dĩ thái trong thể xác ta, nghĩa là chúng 
	lồng vào nhau, đan xen vào nhau.
Tương ứng với các 
	cơi này là bảy nguyên khí, đồng khí tương cầu với bảy cơi trong Càn khôn. 
	Chủ thể Suy tư là nguyên khí thứ năm trong số bảy nguyên khí.
Thế mà nguyên khí 
	thứ năm nơi con người lại tương ứng với cơi thứ năm trong Càn khôn, cơi 
	Mahat, tức Trí tuệ Vũ trụ, tức Thiết kế Thi công Thiêng liêng; từ cơi này 
	trực tiếp xuất phát ra cái Lực uốn nắn, dẫn dắt, điều động vốn là bản thể 
	của mọi thứ biến dị mà ta gọi là lực trên cơi hồng trần[12]. 
	Mọi thế giới h́nh tướng (cho dù là h́nh tướng tinh vi hay thô trược) đều 
	được triển khai bởi và thông qua Lực này của Trí tuệ Vũ trụ bằng cách tụ tập 
	và tách rời các nguyên tử, tích hợp chúng thành ra các h́nh tướng, làm cho 
	chúng tan ră ra trở lại, xây dựng rồi lại đập đổ, kiến tạo rồi lại phá hủy, 
	hút rồi lại đẩy. Đó là Lực Nhất Như theo quan điểm của triết gia, là nhiều 
	lực theo quan sát của nhà khoa học, nhưng thật ra chỉ là một xét về bản thể 
	và có biểu lộ thiên h́nh vạn trạng. Như vậy xuất phát từ cơi thứ năm ta có 
	mọi sự sáng tạo ra h́nh tướng (ta dùng từ sáng tạo theo nghĩa uốn nắn vật 
	liệu đă tồn tại trước đó, tạo h́nh cho nó thành ra các h́nh tướng mới. Trong 
	Triết lư Bí truyền, Lực Tư Tưởng này là cội nguồn như nhất của h́nh tướng; 
	H. P. Blavatsky gọi nó là “quyền năng bí nhiệm của tư tưởng khiến nó có thể 
	tạo ra những kết quả nhận thức được nơi ngoại giới như thể phép lạ do năng 
	lượng cố hữu của chính ḿnh[13].
Cũng như trong cơi 
	thứ năm của Vũ trụ, nguyên khí thứ năm của con người cũng như thế; nơi Chủ 
	thể Suy tư có Thần lực giúp tạo ra vạn vật và ta sẽ t́m được bí quyết của 
	phương pháp luân hồi nơi chính quyền năng sáng tạo này của tư tưởng.
Những người nào 
	muốn chứng tỏ cho ḿnh thấy tư tưởng sinh ra các h́nh ảnh tức là các “h́nh 
	tư tưởng” – sao cho phát biểu “tư tưởng là một sự vật” đúng hoàn toàn theo 
	nghĩa đen – có thể thấy điều mà họ t́m kiếm qua những phần ghi chép giờ đây 
	đă được phổ biến rộng răi về cái gọi là các cuộc thôi miên. H́nh tư tưởng 
	của một ư tưởng có thể được phóng chiếu lên một tờ giấy để trắng và một 
	người bị thôi miên đâm ra thấy được h́nh tư tưởng trên đó; hoặc nó có thể 
	được làm cho mang tính chất ngoại giới đến nỗi người bị thôi miên sẽ trông 
	thấy và cảm nhận được nó dường như thể đó là một vật có thật trên cơi trần. 
	Lại nữa, một “người đồng cốt” ắt thấy tư tưởng của người khác giống như “một 
	vong linh” trong tâm trí của một người     
	hiện diện, tư tưởng này lấy h́nh ảnh trong hào quang của y tức là bầu 
	từ khí bao xung quanh y. Hoặc một nhà thần nhăn trong lúc xuất thần hoặc 
	tỉnh táo ắt nhận ra và mô tả được một h́nh ảnh cố t́nh tạo ra do một người 
	hiện diện ở đó nhưng không thốt nên lời nào, song ư chí được vận dụng để 
	phác họa h́nh ảnh rơ rệt trong tư tưởng. Mọi người biết “h́nh dung” tốt đều 
	có thần nhăn đến một mức nào đó và bằng cách thực hiện cá nhân, họ có thể 
	chứng tỏ cho ḿnh thấy khả năng uốn nắn vật chất tinh vi bằng ư chí. Lại 
	nữa, vật chất trung giới kém tinh vi hơn cũng có thể được uốn nắn như vậy; 
	H. P. Blavatsky ở trang trại Eddy đă uốn nắn h́nh ảnh trung giới được phóng 
	chiếu ra từ người đồng cốt sao cho nó giống như những người mà chỉ có bà mới 
	biết chứ những người khác có mặt nơi đó đều không biết. Ta không thể coi 
	điều này là kỳ lạ nếu ta nhớ rằng thói quen tư tưởng thậm chí đă uốn nắn 
	xiết bao vật chất thô trược cấu thành thể xác của ta cho đến khi tính t́nh 
	của người có tuổi được in dấu lên khuôn mặt của y, nét đẹp đó không ở nơi 
	h́nh tướng hoặc sắc da mà ở nơi dung mạo biểu hiện cái mặt nạ được uốn nắn 
	theo Chơn ngă nội tâm. Bất kỳ đường lối tư tưởng quen thuộc nào dù là thói 
	xấu hay tính tốt đều ghi dấu lên các đặc điểm của thể xác và chúng ta chẳng 
	cần dùng thần nhăn để xem xét hào quang th́ cũng nói lên được liệu thái độ 
	tâm trí của người ta là hào phóng hay chụp giựt, dễ tin hay đa nghi, yêu 
	thương hay thù ghét. Đây là một sự thật rất thông thường đến nỗi nó chẳng 
	gây được ấn tượng nào cho ta. Thế nhưng ư nghĩa của nó cũng đủ rồi bởi v́ 
	nếu vật chất thô trược của thể xác mà c̣n bị các lực tư tưởng uốn nắn được 
	như thế th́ cái ǵ khó tin hoặc thậm chí kỳ quặc đâu nơi ư tưởng cho rằng 
	các dạng vật chất tinh vi hơn cũng dễ được uốn nắn như thế và sẽ ngoan ngoăn 
	mang h́nh dáng mà chúng được uốn nắn bởi ngón nghề khéo léo của Nghệ sĩ bất 
	tử, tức là Chơn nhơn suy tư?
Vậy th́ ở đây ta 
	chủ trương rằng Manas xét về bản chất cố hữu là một năng lượng tạo h́nh và 
	sự nối tiếp các diễn biến để biểu lộ được một sự vật nơi ngoại giới là như 
	sau: Manas tạo ra một tư tưởng và tư tưởng này có h́nh tướng trong thế giới 
	trí tuệ; nó chuyển sang cơi kama-manas, ở đó nó trở nên thô trược; thế rồi 
	nó lại chuyển sang cơi trung giới nơi nó c̣n thô trược hơn nữa cho nên nhà 
	thần nhăn nh́n thấy được nó. Nếu được một người có ư chí lăo luyện cố t́nh 
	điều khiển th́ nó có thể tức khắc chuyển xuống cơi trần và ở đó nó khoác lấy 
	vật chất của cơi trần, như vậy là mắt phàm cũng thấy nó nơi ngoại giới; 
	trong khi đó thường thường th́ nó vẫn ở trên cơi trung giới đóng vai tṛ cái 
	khuôn để cho sự sống nơi ngoại giới sẽ được xây dựng vào đó khi có dịp xảy 
	ra thu hút nó tới nơi nào thuận lợi. Một Chơn sư đă viết rằng bậc Cao đồ có 
	thể phóng chiếu và làm hiện h́nh nơi thế giới hữu h́nh những h́nh tướng mà 
	óc tưởng tượng của ngài đă kiến tạo ra từ vật chất vũ trụ trơ ĺ nơi thế 
	giới vô h́nh. Bậc Cao đồ không tạo ra điều ǵ mới mà chỉ vận dụng và chế 
	biến vật liệu được Thiên nhiên tích trữ sẵn xung quanh ngài, vật liệu này đă 
	qua tay mọi h́nh tướng trong suốt thời kỳ vĩnh hằng. Ngài chỉ việc chọn cái 
	vật liệu mà ngài cần và khiến cho nó tồn tại nơi ngoại giới trở lại[14].
Có lẽ việc đề cập 
	tới những sự thật mà ai cũng biết trên cơi trần có thể giúp cho bạn đọc nhận 
	ra được cái vô h́nh trở thành cái hữu h́nh như thế nào. Tôi có nói một h́nh 
	tướng dần dần trở nên thô trược khi nó chuyển từ cơi manas sang cơi 
	kama-manas, từ cơi kama-manas sang cơi trung giới, từ cơi trung giới sang 
	cơi trần. Ta hăy nghĩ tới một b́nh chứa làm bằng thủy tinh, xét theo biểu 
	kiến là trống rỗng nhưng thực ra th́ chứa đầy các chất khí mà mắt thường 
	không thấy được; đó là khí hydro và khí oxy; một tia lửa điện tạo ra sự hóa 
	hợp khiến cho “nước” tồn tại nhưng ở dưới dạng thể hơi; khi b́nh chứa được 
	làm nguội đi th́ dần dần mắt ta thấy được hơi nước lờ mờ; đến lúc nguội thêm 
	nữa th́ hơi nước ngưng tụ thành ra những giọt nước đọng lại trên b́nh thủy 
	tinh; khi nguội thêm nữa th́ nước đóng băng lại trở thành một lớp mỏng tinh 
	thể nước đá ở thể rắn. Cũng như thế khi tia lửa điện manas lóe lên th́ nó tổ 
	hợp vật chất tinh vi thành ra một h́nh tư tưởng, h́nh tư tưởng này thô trược 
	đi thành ra h́nh tướng kama-manas (tương tự như hơi nước ở thể hơi của ta), 
	h́nh tướng kama-manas thô trược đi thành ra h́nh tướng trung giới (tương tự 
	như nước lỏng của ta) và cứ như thế thành ra h́nh tướng trên cơi trần (tương 
	tự như nước đá của ta). Học viên Triết lư Bí truyền nên biết rằng khi tiến 
	hóa trong Thiên nhiên th́ vạn vật đi theo chuỗi thứ tự đều đặn và y sẽ làm 
	quen với việc hiểu được những phân trạng thái vật chất trên cơi trần cũng 
	tương tự như các trạng thái trên các cơi khác nhau thuộc thế giới “vô h́nh”. 
	Nhưng đối với những người không phải Thông Thiên Học th́ minh họa nêu trên 
	chỉ được đưa ra để tŕnh bày một h́nh ảnh cụ thể trên cơi trần về quá tŕnh 
	thô trược hóa cho thấy cái vô h́nh có thể ngưng tụ thành cái hữu h́nh như 
	thế nào.
Tuy nhiên thật ra 
	th́ quá tŕnh ngưng tụ từ vật chất loăng thành ra vật chất thô là một trong 
	những sự kiện thông thường nhất theo kinh nghiệm của ta. Thế giới thực vật 
	tăng trưởng bằng cách thu hút những chất khí từ bầu khí quyển và biến những 
	vật liệu này thành ra chất lỏng và chất đặc. Hoạt động của sinh lực biểu 
	hiện qua việc thường xuyên kiến tạo các h́nh tướng không thấy được thành ra 
	các h́nh tướng thấy được; cho dù quá tŕnh tư tưởng nêu trên là đúng hay sai 
	th́ chẳng có điều ǵ trong đó mà xét theo cố hữu là không thể có được hoặc 
	thậm chí phi thường. Sự thật của nó chỉ là vấn đề bằng chứng và ở đây bằng 
	chứng của những người có thể nh́n thấy được h́nh tư tưởng trên các cơi khác 
	nhau chắc chắn là có giá trị hơn bằng chứng của những người khhông thấy 
	được. Lời rêu rao của cả trăm kẻ mù chối bỏ một vật mà mắt thường thấy được 
	không thể có trọng lượng hơn lời xác nhận của một người có thể thấy được 
	bằng mắt phàm và làm chứng là ḿnh có thấy. Về vấn đề này th́ nhà Thông 
	Thiên Học có thể vui ḷng chờ đợi v́ biết rằng sự thật không thể bị uốn cong 
	do bị chối bỏ và thế gian sẽ dần dần đổi ư biết rằng có tồn tại các h́nh tư 
	tưởng cũng như nó đă từng đổi ư – sau một thời kỳ chế nhạo tương tự - v́ 
	biết rằng có tồn tại một số sự thật mà Mesmer khẳng định vào cuối thế kỷ thứ 
	18.
Lúc bấy giờ người 
	ta sẽ khám phá ra rằng các diễn biến xuất phát từ cơi manas hoặc cơi 
	kama-manas dưới dạng các ư tưởng hoặc các ư nghĩ đam mê, xúc động v.v. . . , 
	thế rồi chúng khoác lấy h́nh tướng nơi cơi trung giới và cuối cùng xuất hiện 
	nơi ngoại giới trên cơi trần dưới dạng các hành vi hoặc biến cố sao cho 
	những thứ đó chỉ là hậu quả của những nguyên nhân tâm trí đă tồn tại trước 
	đó rồi. Thế mà theo Triết lư Bí truyền th́ xác phàm chính là một hậu quả như 
	vậy; nó được uốn nắn theo thể phách (đến lúc này th́ bạn đọc ắt đă đủ quen 
	thuộc thuật ngữ này rồi). Ta phải lĩnh hội rơ rệt được ư tưởng có một thể 
	bằng chất dĩ thái được dùng làm cái khuôn để cho vật chất thô trược hơn có 
	thể kiến tạo vào đó, và nếu ta muốn hiểu được phương pháp luân hồi th́ ngay 
	lúc này ta phải chấp nhận quan niệm xác phàm là kết quả của việc xây dựng 
	các phân tử thô trược vào trong một cái khuôn dĩ thái đă tồn tại trước đó 
	rồi.
Bây giờ ta hăy 
	quay lại ư tưởng về Chủ thể Suy tư, tạo ra các h́nh tư tưởng chắc chắn là 
	hoạt động thông qua hạ trí tức kama-manas nơi người thường v́ ta không hi 
	vọng ǵ chỉ trong một lúc mà t́m ra được nhiều dấu vết về hoạt động thuần 
	túy manas. Trong sinh hoạt hằng ngày, ta suy nghĩ và thế là tạo ra h́nh tư 
	tưởng: “Một con người không ngừng chất đầy ḍng tâm linh của ḿnh trong 
	không gian bằng một thế giới của riêng ḿnh, lúc nhúc đám con cháu của những 
	hoang tưởng, ham muốn, thôi thúc và đam mê của ḿnh[15].
(Việc xét tới hậu 
	quả của h́nh tư tưởng này đối với những người khác là đề tài Nhân Quả và sẽ 
	được bàn tới sau). Những h́nh tư tưởng này vẫn lẩn quẩn trong hào quang của 
	y tức bầu từ khí của y, và khi thời gian trôi qua th́ việc chúng gia tăng số 
	lượng sẽ tác động lên y với lực ngày càng được tích lũy lại; việc lập đi lập 
	lại tư tưởng cùng với các loại h́nh tư tưởng thêm sức cho chúng hết ngày này 
	sang ngày khác có năng lượng được tích lũy thêm cho đến khi một loại h́nh tư 
	tưởng nào đó khống chế sinh hoạt trí tuệ của y đến mức con người chẳng thà 
	đáp ứng với sự thôi thúc của h́nh tư tưởng ấy c̣n hơn là quyết định tạo ra 
	một h́nh tư tưởng mới, và cái mà ta gọi là thói quen chính là sự phản ánh 
	nơi ngoại giới của việc này khi lực được tích tụ đă thâm căn cố đế. “Tính 
	t́nh” được xây dựng như thế và nếu ta quen thân với bất cứ người nào có tính 
	t́nh chín chắn th́ ta có thể khẳng định một cách khá chắc chắn y sẽ hành 
	động như thế nào trong bất kỳ bối cảnh nào cho sẵn.
Khi đến lúc chết 
	th́ các thể tinh vi chia tay với xác phàm, thể phách dần dần tan ră theo xác 
	phàm. Thể tư tưởng bắt nguồn từ sinh hoạt quá khứ c̣n trường tồn được một 
	thời gian đáng kể và trải qua đủ thứ quá tŕnh củng cố kinh nghiệm, đồng hóa 
	nhiều tư tưởng đă biến dị và chuyển giao kết quả cho thể nguyên nhân rồi mới 
	đến lượt nó bị tan ră. Khi đă gần đến lúc luân hồi th́ thể nguyên nhân tức 
	Chơn ngă luân hồi bèn kiến tạo một thể trí mới và một thể vía mới, c̣n các 
	Nghiệp quả Tinh quân cung cấp một cái khuôn thích hợp để biểu diễn Nghiệp 
	quả cần phải thanh toán và thể phách được kiến tạo theo cái khuôn đó. V́ bộ 
	óc cũng như phần c̣n lại của xác phàm đều được kiến tạo vào thể phách cho 
	nên bộ óc đó phải có cấu h́nh là biểu hiện trên cơi trần (cho dù bất toàn 
	xiết bao) của những thói quen và phẩm chất trí tuệ của con người nhập thế 
	lúc ấy, xác phàm phải thích ứng để vận dụng được những năng lực mà giờ đây y 
	có đủ kinh nghiệm để biểu hiện trên cơi trần.
Ta hăy xét một ví 
	dụ là trường hợp thực hành một loại h́nh tư tưởng thuộc tính xấu hoặc đức 
	tính, chẳng hạn như một tính t́nh ích kỷ hoặc một tính t́nh vị tha. Một 
	người không ngừng sinh ra những h́nh tư tưởng ích kỷ, chỉ ham muốn cho bản 
	thân, ước vọng cho bản thân, mưu đồ cho bản thân; nhưng h́nh tư tưởng này 
	vây xung quanh y phản tác động lên y và y có khuynh hướng tán tận lương tâm 
	v́ chỉ biết phục vụ cho chính ḿnh bất chấp quyền lợi của người khác chỉ bo 
	bo với những mục đích của riêng ḿnh. Y chết đi th́ tính t́nh y kết tinh lại 
	thành ra loại h́nh ích kỷ, nó cứ trường tồn măi và đến đúng lúc th́ lại sinh 
	ra thể phách mới dùng làm cái khuôn cho thể xác kế tiếp. Khi bị thu hút về 
	một gia đ́nh thuộc loại tương tự mà thể xác của cha mẹ có thể cung cấp vật 
	liệu mang hơi hám của những đặc trưng giống như thế th́ xác phàm mới của y 
	sẽ được kiến tạo vào cái khuôn dĩ thái, bộ óc được thành h́nh trên cơi trần 
	thích hợp để biểu lộ những khuynh hướng thú tính chỉ biết thỏa măn cho riêng 
	ḿnh tương ứng với việc thiếu cơ sở vật thể nhằm biểu lộ được những đức tính 
	đối với xă hội. Trong trường hợp cực đoan, ích kỷ, dai dẳng và tán tận lương 
	tâm chỉ nội trong một kiếp, ta có nguyên nhân tạo dựng nên “loại h́nh bộ óc 
	tội phạm” cho kiếp kế tiếp và đứa trẻ chào đời với cái khí cụ có phẩm chất 
	tồi tàn này mà Chủ thể Suy tư bất tử hầu như không thể rút ra được một nốt 
	nhạc du dương thanh khiết và êm ái nào cho dù y có cố gắng đến đâu đi nữa. 
	Trọn cả cuộc đời mà Tia Manas nhập thế qua phàm ngă này ắt bị mờ tối đi, đứt 
	quăng, vẫy vùng qua đám mây trung giới. Đôi khi mặc dù hoàn cảnh bất lợi, 
	phẩm chất chói lọi rực rỡ vẫn chiếu sáng và biến đổi thể xác đến một chừng 
	mực nào đó và khi quằn quại phấn đấu, thỉnh thoảng th́ bản chất thấp hèn 
	cũng bị chế ngự và cho dù chậm chạp th́ y vẫn tiến bộ được một hai bước đau 
	thương. Nhưng suốt đời y th́ quá khứ vẫn đè nặng trĩu lên hiện tại và cái 
	chén đă đầy tràn trong những ngày xa xăm quên lăng phải được đôi môi rung 
	rẩy của y uống cạn cho đến giọt cuối cùng.
Trong trường hợp 
	giả định thứ nh́ một người không ngừng sinh ra những h́nh tư tưởng vị tha, 
	muốn giúp đỡ người khác, có những kế hoạch đầy yêu thương v́ phúc lợi của 
	người khác, tha thiết mong ước cho người khác được hạnh phúc. Những h́nh tư 
	tưởng này cũng tụ tập xung quanh y, phản tác động lên y và y có khuynh hướng 
	thường xuyên vị tha, có thói quen đặt phúc lợi của người khác lên trên ích 
	lợi của chính ḿnh; thế là khi y từ trần tính t́nh y đă trở nên vị tha một 
	cách thâm căn cố đế. Khi trở lại cơi trần, h́nh tư tưởng mẫu vốn tiêu biểu 
	cho những đặc trưng trước kia của y cũng bị thu hút vào một gia đ́nh thích 
	hợp để cung cấp vật liệu thuộc loại thanh khiết, quen đáp ứng với những thôi 
	thúc của Chơn nhơn. Những vật liệu này được kiến tạo vào cái khuôn dĩ thái 
	sẽ sinh ra một bộ óc phàm thích hợp để biểu lộ những khuynh hướng xả thân do 
	đó thiếu cơ sở vật thể để biểu lộ những bản năng đầy thú tính. Như vậy ở 
	đây, trong trường hợp cực đoan là thói quen xả thân qua một kiếp thôi, ta có 
	nguyên nhân để xây dựng nên loại h́nh bộ óc đầy hảo ư và nhân ái cho kiếp 
	tới; đứa trẻ chào đời với cái khí cụ có phẩm chất rực rỡ này sẽ xao xuyến 
	với sự tiếp xúc nhẹ nhất của Chủ thể Suy tư bất tử, tỏa ra những điệu nhạc 
	du dương thiêng liêng yêu thương và phụng sự cho tới khi thế gian ngỡ ngàng 
	trước sự vinh diệu của một đời người vốn là kết quả dường như chỉ do bản 
	chất trào dâng vô điều kiện hơn là đỉnh cao của một sự phấn đấu cố t́nh thực 
	hiện. Nhưng cái bản chất vương giả ấy trào dâng ra thành sự ban phúc chỉ là 
	biểu tượng bên ngoài của những cuộc xung đột dai dẳng đă được giao chiến một 
	cách dũng cảm trong quá khứ xa xăm mà hiện tại không hề biết tới nhưng kẻ 
	Chinh phục trong nội giới th́ có biết, và một ngày nào đó th́ y cũng cho 
	phàm ngă mà ḿnh đang làm linh hoạt cũng biết được.
Như vậy sự tiến 
	hóa của con người diễn ra từng bước một, tính t́nh được uốn nắn qua hết phàm 
	ngă này đến phàm ngă khác, những việc được và mất vốn ghi lại nghiêm xác nơi 
	những h́nh tướng trung giới và thượng giới, những h́nh tướng này sẽ chi phối 
	những sự biểu lộ tiếp theo trên cơi trần. Như vậy, mọi đức tính đều là dấu 
	hiệu và biểu tượng bên ngoài của một bước tiến đă được thực hiện bằng cách 
	chiến thắng đi chiến thắng lại đối với bản chất thấp hèn và cái “phẩm chất 
	bẩm sinh” tức là đặc trưng trí tuệ hoặc đạo đức của một đứa trẻ sơ sinh 
	chính là bằng chứng không chối căi được về sự phấn đấu trong quá khứ với 
	những chiến thắng cũng như thất bại trong quá khứ. Đây là một giáo lư ắt làm 
	cho kẻ biếng nhác về trí tuệ và hèn nhát về đạo đức phải bị dội ngược nhưng 
	lại là một giáo huấn khích lệ và đầy phấn khởi đối với những kẻ nào không 
	muốn ḿnh được trợ cấp qua bất kỳ ḷng từ thiện nào dù của con người hay của 
	đấng thiêng liêng mà chỉ bằng ḷng với tất cả những ǵ ḿnh có được qua sự 
	lao động vất vả và kiên nhẫn.
Edward Carpenter 
	trong tác phẩm Hướng về Dân chủ, đă tŕnh bày sự thật này một cách rất cao 
	cả qua bài thơ “Bí mật của Thời gian và quỉ Sa tăng”.
Cũng như mọi thuật 
	khác, thuật sáng tạo phải được học hỏi.
Bạn kiến tạo cơ 
	thể ḿnh chầm chậm qua nhiều năm tháng
Và quyền năng mà 
	giờ đây bạn đang kiến tạo vào cơ thể này th́ bạn đă thu hoạch được trong quá 
	khứ nơi những cơ thể khác.
Như vậy trong 
	tương lai bạn sẽ lại sử dụng quyền năng mà giờ đây bạn đang thu hoạch.
Nhưng quyền năng 
	kiến tạo cơ thể bao gồm mọi quyền năng.
Hăy cảnh giác xem 
	cách thức mà bạn mưu t́m điều này hoặc điều khác cho riêng ḿnh.
Tôi không nói là 
	đừng mưu t́m mà hăy cảnh giác về cách thức mà bạn mưu t́m.
Đó là v́ người 
	chiến sĩ khi bước vào chiến dịch đâu có mưu t́m cái đồ trang bị nào mới mẻ 
	mà ḿnh mang được trên lưng, song t́m xem ḿnh có thể bỏ lại cái ǵ đằng 
	sau.
V́ y thừa biết 
	rằng mọi thứ thêm vào mà y không thể thoải mái sử dụng và vận dụng th́ chỉ 
	gây chướng ngại cho ḿnh.
Như vậy, nếu bạn 
	mưu t́m danh vọng, thoải mái, vui sướng hoặc bất cứ thứ ǵ cho bản thân th́ 
	h́nh ảnh của sự vật mà bạn mưu t́m sẽ trở lại đeo bám theo bạn và bạn sẽ 
	phải c̣ng lưng cơng nó đi.
Những h́nh ảnh và 
	quyền năng mà bạn đă khơi dậy như thế sẽ được tụ tập lại để tạo ra cho bạn 
	một cơ thể mới yêu sách được cấp dưỡng và thỏa măn.
Và nếu ngay bây 
	giờ bạn không thể vứt bỏ được cái h́nh ảnh ấy đi th́ đến lúc đó bạn sẽ không 
	thể vứt bỏ được cái cơ thể ấy đi mà cứ phải c̣ng lưng cơng nó theo.
Vậy th́ bạn hăy 
	liệu hồn kẻo nó sẽ trở thành nhà tù và nấm mồ của ḿnh thay v́ là chỗ ở chấp 
	cánh cho bạn bay lên và là dinh thự đầy hoan lạc.
Và bạn sẽ chỉ chia 
	tay với nó vào lúc Chết nếu bạn chưa bao giờ chế ngự được nó?
Đó là v́ khi nô lệ 
	cho những sự vật của giác quan, bạn đă khoác lấy một cơ thể mà ḿnh không 
	làm chủ được, bạn bị kết án chui vào nấm nhà mồ sống động nếu cái cơ thể đó 
	chưa bị tiêu diệt. Nhưng giờ đây do đau đớn và khốn khổ bạn có thể thoát ra 
	được cái nhà mồ ấy và nhờ có kinh nghiệm đă thu hoạch được, bạn sẽ xây dựng 
	cho minh một cơ thể mới tốt đẹp hơn.
Cứ như thế biết 
	bao nhiêu lần măi cho tới khi bạn dang rộng cánh để có được mọi quyền năng 
	ma quỉ và thiên thần tập trung trong xác thịt của ḿnh. 
Và những cơ thể mà 
	bạn khoác lấy sẽ qui phục bạn nếu những dây đai lửa có bao xung quanh bạn 
	th́ bạn cũng vứt nó sang một bên.
V́ những đau khổ 
	mà bạn chịu đựng trong cơ thể này sẽ biến thành những quyền năng mà bạn vận 
	dụng được trong cơ thể kế tiếp.
Đây là những sự 
	thật vĩ đại được tuyên cáo một cách long trọng. 
Và một ngày nào đó 
	thiên hạ ở phương Tây ắt sẽ tin vào chúng cũng như thiên hạ ở phương Đông đă 
	và măi măi tin vào chúng.
Trải qua hàng ngàn 
	thế hệ Chủ thể Suy tư bất tử đă kiên nhẫn lao động vất vả như thế với sứ 
	mệnh dẫn dắt người thú tiến lên cho tới khi nó thích hợp để hiệp nhất với 
	phần Thiêng liêng. Từ một kiếp sống, biết đâu y chỉ dành được một mẩu nhỏ 
	trong công tŕnh của ḿnh, thế nhưng cái mô h́nh cuối cùng cũng thuộc một 
	loại ít thú tính hơn mức khi y giáng trần để thể hiện công tŕnh nhập thế đó 
	qua xác phàm. Dựa vào cái mô h́nh được cải tiến chút ít đó, con người kiếp 
	tới lại được uốn nắn để lúc y chết đi lại có được một cái khuôn ít thú tính 
	hơn một chút phục vụ cho thể xác kiếp tới nữa; cứ như thế trở đi trở lại, 
	chết đời này sang đời khác, hết thiên niên kỷ này sang thiên niên kỷ khác; 
	với nhiều lần thoái hóa trở đi trở lại; nhiều lần thất bại được dũng cảm 
	chuyển bại thành thắng, nhiều vết thương c̣n chưa lành, thế nhưng xét chung 
	th́ vẫn tiến lên trên, xét chung th́ vẫn tiến tới trước; phần thú tính bớt 
	đi, phần nhân tính tăng lên: đó là câu chuyện tiến hóa của con người, đó là 
	nhiệm vụ được hoàn thành chầm chậm của Chơn ngă khi nó tự nâng ḿnh lên tới 
	mức con người thiêng liêng. Ở một giai đoạn nào đó trong quá tŕnh tiến bộ 
	này, phàm ngă bắt đầu trở nên trong sáng đáp ứng được với những rung động 
	của Chủ thể Suy tư, và lờ mờ cảm thấy được rằng ḿnh là một điều ǵ đó c̣n 
	hơn cả một sinh linh cô lập và liên kết với một điều gi đó thường trụ bất tử. 
	Phàm ngă có thể chưa hoàn toàn nhận ra được mục tiêu của ḿnh nhưng bắt đầu 
	xao xuyến và rộn ràng khi tiếp xúc với Ánh sáng giống như nụ hoa rung rẩy 
	vào lúc xuân sang trong những bọc hoa để chuẩn bị nở rộ bung ra trong ánh 
	quang huy. Ư thức về tính vĩnh hằng bẩm sinh này và sự ngỡ ngàng về cứu cánh 
	ấy đă được diễn tả tuyệt vời qua một trong những bài thơ của Walt Whitman:
Khi quay mặt về 
	phương Tây xuất phát từ bờ biển
T́m hiểu không mệt 
	mỏi để mưu cầu điều ǵ c̣n chưa được t́m ra,
Th́ tôi tuy là một 
	đứa trẻ mà đă là một ông cụ đứng trước sóng biển bâng khuâng hướng về nhà mẹ, 
	nh́n xa xa thấy vùng đất định cư.
Khi cất mắt nh́n 
	ra khỏi bờ biển ở biển miền Tây của tôi th́ ṿng tṛn hầu như được nối ra.
V́ nơi xuất phát 
	là miền Tây, từ 
Từ Á châu, từ 
	phương Bắc, từ Thượng Đế th́ sân khấu đă trở thành vị anh hùng.
Từ phương 
Tôi đă đi lang 
	thang miết v́ tôi đă đi ṿng quanh trái đất.
Giờ đây tôi lại 
	giáp mặt với quê hương, rất hài ḷng và hoan hỉ.
(Nhưng cái nơi mà 
	tôi xuất phát từ lâu rồi ở đâu đấy nhỉ? Và tại sao tôi vẫn chưa t́m ra được 
	nó?)
đầu trang phần 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 cuối trang mục lục
	
Ta đă thấy rằng 
	nói chung th́ mục đích của luân hồi là rèn luyện người thú cho tới khi nó 
	trở thành công cụ toàn bích của phần Thiêng liêng, và tác nhân trong việc 
	rèn luyện này chính là Chơn ngă luân hồi. Ta hăy truy nguyên một cách ngắn 
	gọn con đường đạt tới mục đích này.
Khi Con của Trí 
	tuệ (Manasaputra) giáng lâm để cấp phần hồn cho người thú th́ 
	chỗ ở bằng vật chất của họ chưa đạt tới mức thô trược tối đa. Khi tác 
	động thông qua đó, Chủ thể Suy tư trước hết tạo ra cái gọi là phẩm chất 
	thông linh tương phản với phẩm chất trí thức; phần tâm linh khi bước đầu 
	tiếp xúc với vật chất cơi trung giới được phiên dịch thành ra phần thông 
	linh rồi dần dần mới trở thành phần trí thức, nghĩa là biết lư luận, có lư 
	trí, biết cân nhắc cố ư do tiếp xúc lâu dài với vật chất thuộc loại thô 
	trược hơn. Thoạt đầu có tính cách trực giác, thần nhăn, giao tiếp với đồng 
	loại bằng chuyển di tư tưởng; khi nó phải làm việc với những vật liệu thô 
	trược hơn và gây cho các hạt nặng hơn những rung động nào đó th́ trực giác 
	bị biến thành lư luận, và sự chuyển di tư tưởng biến thành ngôn ngữ. Ta hiểu 
	được điều này rơ nhất bằng cách quan niệm ra những rung động được lập nên 
	trong vật chất càng ngày càng thô trược, những rung động ít thô trược hơn 
	được phiên dịch thành các tính chất thông linh, c̣n những rung động thô 
	trược hơn được phiên dịch thành những phẩm tính thuần lư. Phần thông linh là 
	những năng lực nhanh hơn, tinh vi hơn, trực tiếp hơn, bao gồm thần nhăn, 
	thần nhĩ, dạng trực giác thấp, khả năng truyền đạt và tiếp nhận các ấn tượng 
	tư tưởng mà không có lời nói; phần thuần lư chậm hơn và bao gồm mọi quá 
	tŕnh trí năo với đặc trưng là lư luận có cân nhắc, rèn giũa ra một chuỗi 
	xích lư luận, dùng búa rèn nó lại từng mắt xích một và công tŕnh lao động 
	trí tuệ này cần có điều kiện là ngôn ngữ cầu kỳ. Khi quá tŕnh này đă hoàn 
	hảo th́ bộ óc đạt tới mức trí thức cao nhất, nhanh chóng đáp ứng với những 
	xung lực dục vọng khi chúng đạt tới bộ óc và tức khắc phiên dịch chúng thành 
	ra những điều tương tự về trí thức; bấy giờ đă đến lúc có được bước tiến mới 
	lớn lao kế tiếp là rèn luyện bộ óc để nó trực tiếp đáp ứng với những rung 
	động tinh vi hơn, và chuyển chúng vào ư thức của bộ óc không cần có quá 
	tŕnh tŕ hoăn là phiên dịch. Bấy giờ việc vận dụng thần thông trở thành một 
	phần trong trang cụ hữu thức của con người đă phát triển, và người ta dùng 
	nó một cách b́nh thường, không nỗ lực hoặc căng thẳng, thế là trí năo và 
	thông linh được hiệp nhất với nhau, ta có được trở lại mọi thần thông “cộng 
	thêm với kinh nghiệm trí thức”. Sự mờ tối đi tạm thời do tích tụ vật chất 
	thô trược nhất xung quanh con người đang phát triển, dần dần giảm bớt đi khi 
	vật chất trở nên mềm dẻo và trong sáng, thế là vật chất thô trược được “cứu 
	chuộc”, nghĩa là được rèn luyện thành một hiện thể toàn bích để biểu lộ Tinh 
	thần. “Nền văn minh đă từng phát triển phần thể chất và phần trí thức gây 
	thiệt hại cho phần thông linh và phần tâm linh”[16], 
	nhưng nếu không có sự phát triển này th́ người thú không thể trở nên thiêng 
	liêng, tức là “thực thể thất bội toàn bích” vốn là mục đích tiến hóa của sự 
	luân hồi.
Nơi loài người, ta 
	đang ở trên ṿng cung đi lên, trí thức đơn thuần đang đạt tới những khả năng 
	cao nhất và xét về mọi mặt cũng thấy xuất hiện các dấu hiệu của hoạt động 
	thông linh khi được phát triển vượt khỏi mức trí thức chứ không tụt hậu so 
	với mức trí thức th́ các hoạt động thông linh là dấu hiệu của việc Chơn nhơn 
	bắt đầu chiến thắng. Nơi một số người trong nhân loại chúng ta, sự chiến 
	thắng này đă đạt đỉnh cao rồi và ta gọi các bậc đó là chư La Hán, Mahatmas 
	và Chơn sư; đối với các Ngài thể xác chỉ c̣n là hiện thể của Chơn nhơn, Chơn 
	nhơn không c̣n bị giam cầm hoặc hạn chế trong cơ thể mà ḿnh ngự nơi đó, 
	nhưng đối với Chơn nhơn th́ cơ thể là công cụ thuận lợi để làm việc trên cơi 
	trần, nó ngoan ngoăn hưởng ứng mọi xung lực của chủ nhân ông và đặt vào tầm 
	sử dụng của Chơn nhơn những quyền năng và năng lực nơi thế giới vật chất thô 
	trược mà bằng không một Thực thể tâm linh chẳng thể đạt được. Một Tinh thần 
	có thể hoạt động trên cơi tâm linh nhưng nó lại vô tri vô giác trên mọi cơi 
	khác, không thể hoạt động được do nó có bản chất tinh vi ở trên các cơi vật 
	chất thô trược. Một đấng Thông tuệ tâm linh có thể hoạt động trên các cơi 
	tâm linh và trí tuệ nhưng vẫn c̣n quá tinh vi nên không thể hoạt động trên 
	cơi thô trược. Chỉ có “thực thể thất bội toàn bích”, nhờ vào việc nhập thế 
	th́ nó mới chinh phục được hết vật chất này tới vật chất khác mới có thể 
	hoạt động được trên mọi cơi. Đây là ư nghĩa của quả vị La Hán; La Hán là một 
	đấng Thông tuệ tâm linh đă chinh phục, chế ngự và rèn luyện được vật chất 
	cho tới khi cơ thể của ngài chẳng qua chỉ là biểu hiện vật thể của chính 
	ngài, và ngài sẵn sàng cho bước kế tiếp để biến ngài thành ra một “Chơn sư”, 
	tức là đấng Ki Tô khải hoàn. 
Tự nhiên là nơi 
	một thực thể thất bội toàn bích như thế có tụ tập đủ mọi thần lực của vũ 
	trụ: tâm linh, thông linh và vật chất. Cũng như cơ thể sống động của con 
	người ở qui mô nhỏ có các lực mà ta thấy trong vũ trụ vật lư, cũng thế khi 
	bản chất tâm linh và thông linh hiển lộ các xung lực của ḿnh th́ các thần 
	lực của vũ trụ thông linh và tâm linh có thể tác động lên vũ trụ vật lư. V́ 
	thế cho nên xét theo biểu kiến mới có thể tạo ra được những hậu quả hầu như 
	là “phép lạ” mà nguyên nhân của nó lại ẩn tàng nhưng không phải v́ thế mà 
	chẳng có nguyên nhân; cũng như việc đóng một mạch điện có thể tạo ra một vụ 
	nổ ở cách xa nơi đóng điện nhiều dặm, cũng vậy tác động của ư chí lăo luyện 
	có thể hiển lộ thành các hiện tượng vật chất trên một cơi ở dưới xa mức của 
	nó. Sự vô minh của con người khiến y cho đó là siêu tự nhiên; c̣n sự hiểu 
	biết rút gọn mọi chuyện ấy thành ra chuyện tự nhiên. Đó là v́ Thiên nhiên 
	chẳng qua chỉ là một khía cạnh của TỔNG THỂ, các khía cạnh đang biểu lộ vào 
	lúc đó.
Ở đây ta có thể 
	thắc mắc rằng: và nếu ta đạt được mục đích này th́ cứu cánh đó phục vụ cho 
	cái ǵ? Ở mức này có nhiều Con đường trải ra trước mắt Chơn nhơn khải hoàn. 
	Ngài đă chạm tới đỉnh cao thành tựu mà ta có thể đạt được trên thế giới này; 
	muốn tiến bộ thêm nữa ngài phải chuyển sang các bầu tồn tại khác; Niết Bàn 
	mở rộng ra trước mắt ngài với đầy tràn tri thức tâm linh, cái Linh ảnh Thánh 
	thiện mà Ki Tô hữu có nghe nói thoáng qua, sự an b́nh mà ta không tài nào 
	hiểu nổi. Một Con đường duy nhất, Con đường xả bỏ, tự nguyện chấp nhận sống 
	trên trần thế v́ mục đích phụng sự cho loài người, đó là Con đường mà Đức 
	Quan Âm đă nói tới khi ngài dứt khoát bước chân trên đó: “Chẳng bao giờ tôi 
	mưu t́m, tiếp nhận sự giải thoát cá nhân riêng tư, tôi chẳng bao giờ nhập 
	vào sự an b́nh tối hậu một ḿnh mà măi măi ở khắp mọi nơi, tôi sẽ sống và 
	phấn đấu để cứu chuộc đại đồng vũ trụ mọi sinh linh trên khắp thế gian[17].
Bản chất và chủ 
	đích của sự lựa chọn này cũng được nói tới trong quyển Kim Huấn Thư mà H. P. 
	Blavatsky có trích dịch nhiều đoạn ra tiếng Anh rất hay. Kẻ chinh phục ca 
	khúc khải hoàn; “tâm trí của y giống như một đại dương b́nh thản và vô biên, 
	trải rộng ra trong không gian vô bờ bến. Y nắm chặt trong tay sự sống và sự 
	chết”. Thế rồi lại nổi lên một thắc mắc: 
Bây giờ chắc chắn 
	là y đă đạt được phần thưởng lớn rồi! Hỡi kẻ đă chinh phục được đại Hăo 
	huyền, liệu y có dùng những năng khiếu mà nó ban cấp cho ḿnh để được an 
	dưỡng và cực lạc cho riêng ḿnh với những phúc lợi và vinh diệu mà ḿnh đă 
	đạt được?
Nhưng câu trả lời 
	vang rơ lên: 
Hỡi kẻ ứng viên 
	mưu cầu kho tri thức ẩn tàng của Thiên nhiên! Nếu người ta muốn theo gót 
	đấng Như Lai thánh thiện th́ những năng khiếu và quyền năng đó không dành 
	cho bản thân . . . Nên biết rằng luồng tri thức siêu nhân loại và Minh triết 
	của Thiên thần mà ngươi đă đạt được phải từ kênh dẫn A lại da của chính 
	ngươi  tuôn đổ vào một ḷng kênh 
	dẫn khác. Hỡi Narjol, nên biết rằng ngươi là Con đường Bí mật, và nước trong 
	lành của nó phải được dùng làm cho sóng Biển đắng nghét trở nên ngọt ngào 
	hơn v́ đó là biển động của ḷng phiền năo do nước mắt của con người tạo ra. 
	Số phận của ngươi là sống qua các kiếp tương lai mà không được con người 
	biết ơn và nhận thức. Ngươi bị lèn chặt thành ra một tảng đá cùng với vô vàn 
	tảng đá khác tạo thành “Bức tường Che chắn”, đó là tương lai của ngươi nếu 
	ngươi băng qua cánh cổng số bảy. Được xây dựng do bàn tay của nhiều bậc Chơn 
	sư Từ bi, được dựng nên do sự cực h́nh của các ngài, do máu của các ngài 
	đông đặc lại, bức tường đó che chở cho loài người v́ con người chính là 
	người đă bảo vệ nó khỏi bị khốn khổ và phiền năo thêm nữa . . . Ḷng từ bi 
	ắt nói rằng: “Liệu có thể nào có được cực lạc khi mọi chúng sinh c̣n đau khổ? 
	Liệu ngươi có thể được cứu chuộc khi tai vẫn nghe trọn cả thế giới khóc 
	than? Bây giờ ngươi dă nghe thấy điều được nói ra rồi. Ngươi sẽ đạt tới bước 
	thứ bảy băng qua cánh cổng tri thức tối hậu nhưng chỉ chuốc lấy phiền năo 
	nếu ngươi không theo gót bậc Như Lai đă bước đi như một bậc tiền bối của 
	ngươi, vẫn c̣n vị tha cho tới cứu cánh vô tận. Ngươi đă giác ngộ rồi vậy, 
	hăy lựa chọn con đường của ḿnh[18].
Sự chọn lựa chấp 
	nhận nhập thế cho tới khi loài Người đă đạt tới đỉnh cao của ḿnh chính là 
	thành tựu của bậc Chơn sư, của Con người toàn bích. Minh triết của ngài, 
	quyền năng của ngài đều được đặt dưới chân Nhân loại để phục vụ nó, giúp đỡ 
	nó, dẫn dắt nó trên con đường mà chính Ngài đă bước đi. Vậy th́ đây là cứu 
	cánh vượt ngoài tầm luân hồi đối với các linh hồn dũng mănh có thể thực hiện 
	SỰ XẢ BỎ VĨ ĐẠI! Các ngài trở thành các đấng cứu thế, là phần triển vọng và 
	vinh quang của loài người. Sự luân hồi đă xây dựng nên thực thể thất bội 
	toàn bích và sự chiến thắng cá thể của ngài lại phụ giúp cho sự cứu chuộc 
	Nhân loại xét chung.
đầu trang phần 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 cuối trang mục lục
	
Nguyên nhân căn 
	bản của Luân Hồi cũng như của mọi sự biểu lộ đó là ham muốn cuộc sống hoạt 
	động, khao khát kiếp tồn tại hữu t́nh. Một số bản chất căn bản của thiên 
	nhiên rơ rệt là đang hoạt động nhưng không thể hiểu được về nguồn gốc và lư 
	do của nó vốn biểu lộ thành ra “luật tuần hoàn”. Một sự luân phiên chẳng hạn 
	như Ngày và Đêm, Sống và Chết, Ngủ và Thức, là một sự kiện thông thường có 
	tính cách đại đồng vũ trụ hoàn toàn, và không có ngoại lệ nào cho nên thật 
	là dễ hiểu khi ta thấy đó là một trong những định luật tuần hoàn căn bản của 
	vũ trụ[19]. 
	Sự tiêu trưởng ở khắp mọi nơi, nhịp điệu vốn là kỳ tâm thu và tâm trương của 
	Trái tim vũ trụ biểu hiện về mọi phương diện. Nhưng ta không hiểu được lư do 
	của nó, ta không biết tại sao chúng lại như thế, ta chỉ có thể thấy rằng 
	chúng vốn như thế. Và trong Triết lư Bí truyền, ta nhận ra cũng định luật 
	này mở rộng thành sự phân thân và tái hấp thu của các vũ trụ, là Ngày và Đêm 
	của Brahma, là kỳ thở ra và hít vào của đại Thần khí.
V́ thế cho nên 
	người Ấn Độ đă h́nh dung thần Dục vọng là xung lực biểu lộ. Lại nữa, trong 
	Rig Phệ đà (x, 129), 
Kẻ nào mà Buddhi 
	không bị ràng buộc ở khắp nơi, đă chế ngự được bản ngă, đă chết đi các dục 
	vọng th́ do xả bỏ kẻ đó đă đạt được sự hoàn hảo tối cao v́ đă thoát ṿng 
	Nghiệp quả[22].
Cũng vậy trong 
	Udanavarga, tức là một phiên bản thuộc Phật giáo Bắc tông của Pháp Cú kinh 
	được dịch từ tiếng Tây Tạng ta cũng thấy trổi lên thông điệp đó:
Kẻ nào bị dục vọng 
	xiềng xích th́ khó ḷng mà thoát khỏi chúng, Đức Thế Tôn đă từng dạy như 
	thế. Kẻ kiên định không màng hạnh phúc của dục vọng, nhất quyết dẹp bỏ dục 
	vọng th́ chẳng bao lâu sẽ đến được Niết Bàn[23].
Lại nữa khi mưu 
	t́m sự tồn tại họ cứ trở đi trở lại nhập vào tử cung; các sinh linh cứ đến 
	rồi lại đi, hết trạng thái tồn tại này nối tiếp trạng thái tồn tại khác. 
	Thật khó ḷng dẹp bỏ sự tồn tại nơi thế giới này; kẻ nào dẹp bỏ ḷng tham 
	dục th́ kẻ đó đă nhổ bật gốc rễ của sự tồn tại, kẻ đó không c̣n phải bị 
	chuyển kiếp v́ y không c̣n tham dục nữa[24].
Trong kinh điển 
	của Giáo hội Phật giáo 
Kẻ nào đă đạt tới 
	thành tựu th́ không c̣n run sợ nữa, kẻ đó không c̣n khao khát và tội lỗi 
	nữa, kẻ đó đă nhổ bỏ mọi chông gai của cuộc đời: đây sẽ là thể xác cuối cùng 
	của y. Kẻ nào không c̣n khao khát và luyến ái nữa, kẻ đó sẽ hiểu được mọi 
	lời lẽ và cách thuyết giải chúng, kẻ đó sẽ biết được thứ tự của các chữ cái 
	(chữ nào đứng trước chữ nào đứng sau), kẻ đó sẽ nhận thể xác cuối cùng của 
	ḿnh và sẽ được gọi là bậc hiền triết, vĩ nhân. “Ta đă chinh phục được tất 
	cả, ta đă biết hết tất cả; trong bất cứ t́nh huống nào của cuộc sống ta đều 
	không bị ô nhiễm, ta đă bỏ lại tất cả và nhờ diệt được dục ta đă giải 
	thoát”.
Đó là lời hiệu 
	triệu khải hoàn khi Đức Phật Thích Ca đắc Phật quả[25]:
Khi mưu t́m kẻ làm 
	ra đền thờ tạm này, ta sẽ phải đi qua một lộ tŕnh nhiều kiếp sống chừng nào 
	ta c̣n chưa t́m ra người ấy; và cứ phải tái sinh măi th́ thật là đau khổ. 
	Nhưng giờ đây ta đă thấy người làm ra đền thờ tạm rồi th́ ta không c̣n phải 
	làm đền thờ tạm lại nữa. Mọi cái đ̣n tay nhà đều bị gỡ ra, cái đà trên nóc 
	nhà bị tách đi, tâm trí khi đến gần Đấng Vĩnh Hằng th́ đă đạt được sự tuyệt 
	diệt mọi dục vọng[26].
Khi học viên nhận 
	ra được bản chất của dục vọng th́ y ắt hiểu được tại sao cần phải diệt dục 
	để làm hoàn thiện Chơn nhơn. Cho đến khi đă gặt hái được hết vụ gặt kinh 
	nghiệm th́ cần phải có dục vọng v́ kinh nghiệm gặt hái đó cần được nuôi 
	dưỡng bằng dục vọng, và sự tăng trưởng mới có thể được nuôi dưỡng và bảo 
	dưỡng. Do đó trong khi vẫn c̣n thiếu kinh nghiệm th́ ḷng khao khát dục vọng 
	vẫn khôn nguôi và Chơn ngă sẽ trở lại trần thế hoài hoài. Nhưng xiềng xích 
	của nó phải rơi rụng đi từng cái một khi Chơn ngă đă đạt tới mức hoàn thiện 
	được đền thờ tạm của ḿnh v́ dục vọng có tính cách phàm nhân và do đó ích 
	kỷ, cho nên khi dục vọng c̣n thôi thúc hành động th́ sự thanh trong của hành 
	động c̣n bị ô nhiễm. Quả vị La Hán là hoạt động không ngừng, không v́ bất kỳ 
	lợi ích cá nhân nào, bậc La Hán phải “soi sáng cho mọi người nhưng không 
	tiếp nhận ánh sáng từ ai hết”[27]. 
	V́ thế cho nên trên bước đường leo lên, hết dục vọng này đến dục vọng kia 
	phải được buông bỏ, ḷng ham muốn hưởng thụ của phàm ngă, muốn vui sướng cho 
	phàm ngă, muốn thủ lợi cho phàm ngă, muốn yêu thương theo kiểu phàm ngă, 
	muốn thành đạt cho phàm ngă, cuối cùng và tinh vi hơn hết là ḷng ham muốn 
	cho phàm ngă được hoàn hảo, tất cả những ǵ thuộc phàm ngă phải bị mất đi 
	trong cái TỰ NGĂ NHẤT NHƯ, đó là TỰ NGĂ của chúng sinh. Và ở đây cần có hai 
	điều cảnh giác kẻo hiểu lầm. Một là ta không được giết đi t́nh yêu thương cá 
	nhân mà phải mở rộng nó ra cho đến khi trở thành t́nh yêu thương đại đồng vũ 
	trụ; ta không được yêu thương người thân thương nhất ít hơn mà tất cả phải 
	trở thành kẻ thân thương của ta sao cho nỗi phiền muộn của bất cứ đứa con 
	nào của người khác cũng giày ṿ tâm hồn ta giống như nỗi phiền muộn của đứa 
	con trẻ thuộc chính ta và cũng khơi dậy nơi ta hoạt động trợ giúp bằng nhau. 
	T́nh yêu thương phải được nâng lên cho bằng nhau chứ không được cào bằng 
	xuống. Tâm hồn ta phải không được băng giá mà phải hừng hực v́ tất cả. Việc 
	không nhận ra được điều này cũng như sự khó khăn ghê gớm của nhiệm vụ ấy khi 
	ta thấu hiểu được nó, đă dẫn tới việc bóp nghẹt t́nh thương thay v́ làm cho 
	nó tăng trưởng. Việc yêu thương trào dâng chứ không phải thiếu yêu thương 
	mới cứu chuộc được thế gian. Bậc Mahatma là Đại dương Từ bi chứ không phải 
	là một khối băng hà.
Ta cũng dễ hiểu 
	được tại sao việc mở rộng này phải có trước việc thành tựu quả vị Chơn sư, 
	v́ Chơn sư có được quyền năng để phục vụ cho ích lợi của mọi người chứ không 
	phải để nâng cao bất kỳ gia đ́nh hoặc quốc gia đặc biệt nào. Ngài là Đấng 
	Phụng sự Nhân loại, và ngài trợ giúp theo kiểu nơi đâu cần th́ ngài đáp ứng 
	chứ không phải theo kiểu thân thuộc. Ngoài quyền năng siêu nhân loại ngài 
	c̣n phải có ḷng vô tư siêu nhân loại và sự yêu thương cá nhân không bao giờ 
	được phép làm lệch cán cân Công lư. Vượt trên mọi người khác, ngài phải phục 
	tùng chánh pháp v́ bất cứ sự lệch lạc ra khỏi đường lối của nó ắt cũng mang 
	lại những hậu quả tỉ lệ với sự lớn lao mà ngài đă đạt được tới đỉnh cao đó.
Ngài phải là một 
	thần lực phục vụ cho điều thiện, và điều thiện phải được tuôn đổ vào những 
	kênh dẫn cần nó nhất chứ không phải những kênh dẫn được đào ra do ḷng yêu 
	thương cá nhân hoặc sự ưu ái chủng tộc. V́ thế cho nên điều kiện làm đệ tử 
	là phải được rèn luyện lâu dài, phải chịu khổ hạnh cá nhân và phải chịu cô 
	độc.
Hai là: hành động 
	không được dừng lại v́ đệ tử không c̣n mưu t́m thành quả của hành động dưới 
	dạng phần thưởng. “Không hành động qua một hành vi từ bi ắt là hành động với 
	một tội lỗi chết người”[28]. 
	“Liệu bạn có thể kiêng không hành động hay chăng? Không phải như thế mà linh 
	hồn bạn được giải thoát đâu. Muốn đạt Niết Bàn th́ người ta phải đạt được sự 
	Tự tri và Tự tri là những hành vi yêu thương của đứa trẻ thơ”[29]. 
	Nhưng trong khi ta phải tiến hành việc hành động với trọn cả những cố gắng 
	thuộc khả năng của con người th́ ta không nên có ḷng ham muốn thành quả của 
	hành động dưới dạng thỏa măn cho phàm ngă. Một nghĩa cử phải được thực hiện 
	v́ nó có ích, có lợi cho người khác chứ không phải v́ được người khác khen 
	thưởng hoặc chính ḿnh tự tán thán, thậm chí cũng không v́ ḷng ao ước tinh 
	vi hơn là tự cải thiện ḿnh. Ở đây cũng chính v́ không nhận ra được sự phân 
	biệt giữa hành động và ḷng ham muốn kết quả của hành động đă gây ra sự 
	ngưng trệ và thụ động vốn đặc trưng cho các quốc gia Đông phương v́ ḷng ích 
	kỷ tâm linh và sự lănh đạm tâm linh đều gây ra sự suy tàn.
Cũng như ḷng khao 
	khát sự tồn tại hữu t́nh nói chung là nguyên nhân của sự luân hồi trong vũ 
	trụ, cũng vậy nguyên nhân quyết định mọi sự luân hồi cá thể đều là ḷng khao 
	khát nếm trải trở lại kiếp tồn tại trên cơi trần. Khi ta đă sống cuộc đời 
	dài trên cơi trần và đă tích tụ được nhiều kinh nghiệm th́ ḷng mong muốn 
	được tồn tại trên cơi trần nhất thời đă thỏa thuê và ta lại ham muốn được an 
	dưỡng. Lúc bấy  giờ sẽ có thời 
	kỳ thoát xác trong đó Chơn ngă có thể nói là lại trở về với chính ḿnh, 
	không c̣n cấp năng lượng ra bên ngoài trên cơi trần nữa mà uốn cong mọi năng 
	lượng của ḿnh vào các hoạt động nơi nội giới, duyệt lại kho kinh nghiệm đă 
	tích trữ được, vụ gặt của kiếp sống trên cơi trần vừa mới chấm dứt, tách rời 
	và phân loại chúng, đồng hóa những kinh nghiệm nào có thể đồng hóa được, vứt 
	bỏ những kinh nghiệm lạc hậu và vô ích. Đây là công việc của thời kỳ 
	Devachan, là thời gian cần thiết để đồng hóa và đạt được sự thăng bằng. Cũng 
	như người công nhân đi ra ngoài thu lượm vật liệu cho công việc của ḿnh, 
	sau khi thu gom xong bèn trở về nhà lọc lựa và xếp đặt chúng để rồi tiến 
	hành chế tạo chúng thành ra một tác phẩm nghệ thuật nào đó hoặc một đồ vật 
	có ích lợi nào đó; cũng vậy sau khi đă thu lượm được kho vật liệu từ các 
	kinh nghiệm trong kiếp sống, Chủ thể Suy tư phải đan dệt chúng thành ra mảnh 
	lưới kiếp tồn tại thiên niên của ḿnh. Y không c̣n có thể bận bịu trong cơn 
	xoáy lốc của kiếp sống trên trần thế cũng như một người công nhân không thể 
	cứ măi măi đi thu gom vật liệu mà chẳng bao giờ mà chẳng bao giờ chế tác vật 
	liệu thành ra các món đồ; hoặc cũng như một người đâu có thể cứ ăn thức ăn 
	vào măi mà chẳng bao giờ tiêu hóa thức ăn và đồng hóa nó để kiến tạo thành 
	các mô trong cơ thể ḿnh. Sự an dưỡng cần thiết giữa các thời kỳ hoạt động 
	thuộc đủ mọi kiểu tồn tại khiến cho Devachan là hoàn toàn cần thiết và ắt 
	quở trách sự nôn nóng mà những nhà Thông Thiên Học thiếu hiểu biết thường 
	bực ḿnh với ư là “phí thời giờ”. Nên nhớ rằng bản thân sự an dưỡng là một 
	việc mà ta không thể làm được ở bên ngoài. “Manu mệt mỏi và xơ xác (Chơn ngă 
	biết suy tư)” cần có sự an dưỡng ấy, và chỉ khi “Chơn ngă đă an dưỡng rồi” 
	th́ nó mới sẵn sàng và thích hợp để luân hồi. Chúng ta không có được năng 
	lượng cần thiết để đảm đương gánh nặng xác thịt một lần nữa chừng nào mà cái 
	thời kỳ bồi dưỡng này c̣n chưa khiến cho Chơn nhơn có thể một lần nữa tích 
	tụ được các thần lực của sự sống trí tuệ cũng như tâm linh. Chỉ khi ta ắt 
	đến gần lúc kết liễu chu kỳ tái sinh th́ Chơn ngă do đă tăng trưởng qua hằng 
	thiên niên kỷ kinh nghiệm mới có thể được chuẩn bị cho sự căng thẳng khủng 
	khiếp của những kiếp sống tái đi tái lại nhanh chóng vào giai đoạn cuối cùng 
	mà “không cần có kỳ nghỉ Devachan”[30], 
	lúc đó Chơn ngă mới leo lên bảy nấc thang cuối cùng của cái thang tồn tại mà 
	không mỏi ră rời bắp thịt do cơ bắp đă được rèn luyện cứng cỏi trong thời 
	gian dài leo lên ở quá khứ.
Nơi Devachan ta có 
	thể thực hiện một loại tiến bộ ngoài quá tŕnh đồng hóa cần thiết mà ta vừa 
	mới nói, đây đă là điều kiện để tiến bộ thêm nữa rồi. H. P. Blavatsky có 
	dạy: “Theo một ư nghĩa nào đó ta có thể có thêm được hiểu biết, nghĩa là ta 
	có thể phát triển thêm nữa bất kỳ năng khiếu nào mà ta ưa thích và đă phấn 
	đấu trong buổi sinh thời miễn là nó có liên quan tới những sự việc trừu 
	tượng và lư tưởng, chẳng hạn như âm nhạc, hội họa, thi ca v.v. . . v́ 
	Devachan chỉ là sự tiếp nối đầy lư tưởng nơi nội giới của sinh hoạt trên cơi 
	trần[31].
Điều này có thể 
	giải thích sự thần đồng mầu nhiệm mà đôi khi được biểu hiện đặc biệt trong 
	âm nhạc vượt xa bất kỳ mức nào mà người ta biết đă đạt được trước kia trong 
	lịch sử của nghệ thuật này thuộc giống dân Aryan. Cho dù thế nào đi chăng 
	nữa th́ ta nên nhớ kỹ rằng việc quyết tâm theo đuổi tư tưởng trừu tượng hoặc 
	những mơ ước lư tưởng tạo ra một khuynh hướng cho trạng thái Devachan biến 
	nó thành ra một trạng thái hoạt động cũng như thụ động về mặt tiến bộ. Trong 
	khi Devachan có bản chất là thế giới hậu quả, song le trong chừng mực này 
	th́ nó lại vay mượn từ thế giới nguyên nhân (mặc dù cũng đúng là) cái xung 
	lực phải được cung cấp ở đây vốn khiến cho ṿng luân hồi sẽ quay theo con 
	đường ḥa b́nh ấy. Ở Devachan người ta không phát khởi một nguyên nhân hoặc 
	khởi xướng một nỗ lực, nhưng nó cho phép ta tiếp tục những nỗ lực nhằm tới 
	các cơi tồn tại cao nhất mà con người có thể đạt được trong buổi sinh thời. 
	Ta cũng dễ hiểu tại sao khả năng này có được v́ những đỉnh cao lư tưởng và 
	trừu tượng được soi sáng bởi ánh quang huy của manas và điều đó sẽ chói lọi 
	chứ không mờ nhạt đi khi Manas-Taijasi (Manas chiếu sáng rực rỡ) bay vút lên 
	tận cơi của riêng ḿnh mà không bị xiềng xích.
Trong t́nh huống 
	này có nảy sinh một thắc mắc thú vị: khi thời kỳ an dưỡng đă qua rồi, các 
	lực mang Chơn ngă thoát ra khỏi cuộc sống trần tục đă cạn kiệt rồi, th́ ḷng 
	mong muốn tồn tại hữu t́nh trên cơi trần lại được hồi sinh và Chơn ngă sẵn 
	sàng băng qua “ngưỡng cửa Devachan” để chuyển sang cơi luân hồi. Bây giờ cái 
	ǵ sẽ hướng dẫn Chơn ngă đi tới giống dân, quốc gia, gia đ́nh đặc biệt mà 
	thông qua đó y phải t́m được đền thờ tạm mới mẻ bằng xác thịt của ḿnh, và 
	điều ǵ đă xác định giới tính mà y phải khoác lấy? Phải chăng là ái lực? 
	Phải chăng là chọn lựa tự do? Phải chăng là tất yếu? Không có một thắc mắc 
	nào dễ dàng buộc ra khỏi miệng kẻ t́m hiểu hơn những thắc mắc ấy.
Chính luật Nghiệp 
	quả dẫn dắt y không thể sai lầm hướng về giống dân và quốc gia mà y phải t́m 
	thấy trong đó những đặc trưng tổng quát tạo ra một cơ thể và cung ứng một 
	môi trường xă hội thích hợp để biểu lộ được tính t́nh tổng quát mà Chơn ngă 
	đă kiến tạo trong những kiếp trước trên trần thế và để gặt hái được vụ mùa 
	mà y đă gieo.
Ngjhiệp quả với 
	đạo quân Ngũ uẩn chờ trước ngưỡng cửa Devachan mà Chơn ngă phải xuất lộ từ 
	đó để nhập thế một lần nữa. Chính vào lúc này mà số phận tương lai của Chơn 
	ngă giờ đây đang an dưỡng sẽ được cân nhắc trên cán cân báo phục công bằng 
	v́ giờ đây nó lại một lần nữa chịu ảnh hưởng của luật Nghiệp quả hoạt động. 
	Chính trong sự tái sinh này đă sẵn sàng cho nó một sự tái sinh được tuyển 
	lựa và chuẩn bị bởi những sắc lệnh bí nhiệm, nghiêm khắc nhưng mang tính 
	công bằng và minh triết; theo ĐỊNH LUẬT không thể sai lầm này th́ tội lỗi 
	của kiếp trước thuộc Chơn ngă phải bị trừng phạt. Chỉ có điều là Chơn ngă 
	không bị quẳng vào một địa ngục tưởng tượng với những ngọn lửa đầy kịch tính 
	và lũ quỉ dị hợm đầu trâu mặt ngựa mà thật ra nó bị quẳng xuống cơi trần, 
	cơi giới mà nó đă gây tội, và bây giờ nó phải chuộc tội cho mọi tư tưởng và 
	hành vi xấu xa. Nó gieo cái ǵ th́ phải gặt cái ấy. Sự luân hồi sẽ tụ tập 
	xung quanh nó tất cả những Chơn ngă nào đă chịu đau khổ hoặc là trực tiếp 
	hoặc là gián tiếp dưới tay hoặc thậm chí do công cụ vô ư thức của phàm ngă 
	trong quá khứ. Nữ thần Báo phục sẽ quẳng họ ra cản đường phàm nhơn mới nhưng 
	vẫn che giấu “Chơn ngă cũ, vĩnh hằng” . . 
	. “Phàm nhơn” mới này chẳng khá ǵ hơn một bộ quần áo mới với những 
	đặc trưng riêng biệt về màu sắc, h́nh dáng và tính chất; nhưng Chơn nhơn mặc 
	bộ quần áo đó cũng chính là tên tội phạm thời xưa[32].
Như vậy có thể nói 
	thông qua một phàm ngă hiếu chiến trong một kiếp nào đó, Chơn ngă đă dựng 
	nên những nguyên nhân có khuynh hướng lôi kéo y tái sinh vào một giống dân 
	và quốc gia trải qua một thời kỳ chinh chiến trong lịch sử của ḿnh; Chơn 
	ngă của một người La Mă thuộc loại ưa chinh chiến, thực dân, ắt bị lôi kéo 
	chẳng hạn như về nước Anh dưới thời Nữ hoàng Elizabeth, một quốc gia và thời 
	đại mà tính di truyền thể chất sẽ cung ứng một thể xác, c̣n các lực lượng xă 
	hội sẽ cung ứng một môi trường xung quanh thích hợp để biểu lộ được tính 
	t́nh mà y đă kiến tạo trước đó mười lăm thế kỷ.
Một sợi dây khác 
	trong sợi dây thừng Nghiệp quả và là một trong những sợi chắc chắn nhất 
	chính là khuynh hướng chiếm ưu thế và xu hướng của kiếp sống vừa mới kết 
	liễu. Những khuynh hướng chiếm ưu thế và quyết tâm đi theo bất kỳ đường lối 
	tư tưởng và hành động nào sẽ tái xuất hiện thành các tính t́nh bẩm sinh. Một 
	người có ư chí mạnh mẽ, kiên cường, đặt mục đích cho ḿnh thu tóm được của 
	cải, suốt cuộc đời y đi theo quyết tâm đó một cách không ăn năn và không cắn 
	rứt lương tâm th́ trong một kiếp tới y sẽ rất có thể là một trong những 
	người mà ngạn ngữ thường nói là ‘may mắn’: “Sờ vào cái ǵ th́ cái đó là cơ 
	hội bằng vàng”. V́ thế cho nên thật vô cùng quan trọng khi ta chọn lựa lư 
	tưởng và mục đích sống của ḿnh v́ lư tưởng trong một kiếp này sẽ trở thành 
	hoàn cảnh trong kiếp tới. Nếu lư tưởng là ích kỷ, đê hèn và duy vật th́ kiếp 
	tới của ta sẽ đưa ta vào một môi trường khiến cho ta tóm bắt được chúng dễ 
	dàng. Cũng giống như một ư chí sắt đá sẽ thôi thúc ta đi t́m của cải ở cơi 
	này, cũng vậy nó c̣n vươn rộng bàn tay nhám nhúa của ḿnh băng qua vực thẳm 
	giữa sự chết và sự tái sinh để tóm lấy cứu cánh mà nó quyết tâm cho bằng 
	được; nó không chịu chùn gân và nới lỏng sự căng thẳng trong thời kỳ trung 
	gian nơi cơi Devachan mà vẫn thu thập mọi năng lượng cùng với công việc 
	trong vật chất tế vi sao cho khi trên đường trở lại trần thế, Chơn ngă thấy 
	đă có một đền thờ tạm được xây dựng bằng cái ham muốn mạnh mẽ và đam mê ấy 
	thích hợp để hoàn thành mục tiêu được tiên liệu. Con người gieo cái ǵ th́ 
	sẽ gặt cái ấy; y làm chủ vận mệnh của ḿnh và nếu y muốn xây dựng để thành 
	công nơi thế tục đặng được hưởng xa hoa trên cơi trần th́ chẳng ai dám bảo 
	là y không thể đạt được. Chỉ có do kinh nghiệm th́ y mới học được rằng quyền 
	lực, của cải và sự xa hoa chẳng qua là kết quả của Tử Hải, cơ thể có thể đắm 
	đuối trong quyền lực, của cải và xa hoa nhưng Chơn ngă lại rùng ḿnh không 
	dám chui vào đó; Chơn ngă không thỏa măn với đám cám gạo chỉ thích hợp làm 
	thức ăn cho lũ heo; và cuối cùng khi thú tính nơi y đă được no nê phè phỡn 
	c̣n nhân tính bị bỏ đói th́ mặc dù ở nơi xứ xa xăm mà đôi chân bướng bỉnh 
	của y đă kéo lê y tới đó; y vẫn dơi con mắt hướng nh́n về chỗ ở chân thực 
	với đầy sự nhớ nhung và trải qua nhiều kiếp sống y vẫn phấn đấu hướng về đó 
	với mọi sức lực mà đă từng một lần được dùng để chinh phục người ta th́ nay 
	lại được chế ngự để đem phụng sự người khác, và con người dũng mănh đă dựng 
	nên sức mạnh của ḿnh để làm chủ được những người khác th́ bây giờ lại xoay 
	chuyển sức mạnh đó để làm chủ được bản thân và rèn luyện bản thân ngoan 
	ngoăn tuân theo Luật Bác Ái.
Thắc mắc “điều ǵ 
	xác định giới tính” là một câu khó trả lời ngay cả chỉ bằng cách gợi ư và 
	người ta chưa tŕnh bày thông tin dứt khoát về vấn đề này. Bản thân Chơn ngă 
	không có giới tính và trong quá tŕnh luân hồi vô số kiếp, mỗi Chơn ngă đều 
	ngụ trong các thể xác nam và nữ. V́ việc kiến tạo loài người toàn bích chính 
	là mục tiêu của luân hồi và những yếu tố âm dương phải được quân b́nh hoàn 
	toàn nơi loài người toàn bích cho nên ta cũng dễ hiểu khi thông qua kinh 
	nghiệm Chơn ngă phải phát triển những đặc trưng này đến mức trọn vẹn nhất 
	nơi các đối tượng thể chất thích ứng và do đó cần phải có sự luân phiên giới 
	tính. Ta cũng có thể quan sát thấy rằng trong giai đoạn tiến bộ hiện nay của 
	con người th́ việc tiến bộ ấy được thực hiện qua quá tŕnh tổng hợp và ta 
	thấy những loại h́nh cao cả của mỗi giới tính đều bộc lộ một số đặc trưng mà 
	trong lịch sử đă phát triển nơi giới tính kia sao cho sự dũng mănh, kiên 
	cường, can đảm được phát triển theo đường lối nam tính lại được gắn bó với 
	sự dịu dàng, thanh khiết, nhẫn nhục được phát triển theo đường lối nữ tính 
	và chúng ta có thể thoáng thấy được liệu nhân loại sẽ ra sao khi “các cặp 
	đối lập” đă tách rời nhau trong quá tŕnh tiến hóa lại một lần nữa đạt thành 
	quả hiệp nhất trở lại. Trong khi đó, dường như rất có thể là kinh nghiệm 
	trong giới tính thường xuyên uốn nắn cán cân của quá tŕnh tiến hóa, cung 
	cấp những phẩm tính c̣n thiếu ở một giai đoạn đă định nào đó và Nghiệp quả 
	của việc gây hại do giới tính này tạo ra cho giới tính kia sẽ lôi kéo kẻ gây 
	tội trở lại chịu đựng hậu quả nơi cái giới tính bị gây hại để cho y nếm mùi 
	hậu quả của những nguyên nhân mà chính y đă phát khởi.
Như vậy, Nghiệp 
	quả vạch ra đường lối tạo thành con đường dẫn tới kiếp nhập thế mới của Chơn 
	ngă, Nghiệp quả này là tổng thể các nguyên nhân mà chính Chơn ngă đă phát 
	động. Tuy nhiên khi nghiên cứu tác dụng của nghiệp lực này, có một điều mà 
	ta không được bỏ qua: do có tầm nh́n trong sáng hơn và có điều kiện vượt xa 
	hơn phàm ngă cho nên Chơn ngă sẵn sàng chấp nhận điều mà phàm ngă có thể 
	vùng vằng khi không chịu tự nguyện đón nhận. Trường học kinh nghiệm đâu phải 
	là một nơi lúc nào cũng dễ chịu và đối với sự hiểu biết hạn hẹp của phàm ngă 
	th́ ắt phải có nhiều kinh nghiệm trên cơi trần dường như là đau khổ, bất 
	công và vô ích một cách không cần thiết. Trước khi đắm ch́m vào thể xác v́ 
	đă “ăn cháo lú”, Chơn ngă c̣n thấy được những nguyên nhân mà rốt cuộc tạo ra 
	t́nh huống khiến y phải bước vào nhập thế trong t́nh huống ấy. Và trong t́nh 
	huống đó cũng có nhiều cơ hội để tăng trưởng; do đó nó cũng dễ hiểu ra được 
	mọi sự phiền năo và đau khổ thoáng qua đều nhẹ tênh tênh trên cán cân Nghệp 
	quả và đối với cái tầm nh́n xa trông rộng th́ những niềm vui và những nỗi 
	buồn trên trần thế có đáng chi đâu. Đó là v́ mỗi kiếp sống chẳng qua chỉ là 
	một bước trong sự tiến bộ miên viễn của mỗi Chơn ngă luân hồi vốn là một hồn 
	thiêng tiến hóa từ ngoài vào trong, từ vật chất lên Tâm linh để đến cuối mỗi 
	giai đoạn sẽ đạt được sự hiệp nhất tuyệt đối với Nguyên thể Thiêng liêng. Số 
	phận của mỗi Chơn ngă là tiến từ sức mạnh này sang sức mạnh khác, từ vẻ đẹp 
	và sự hoàn hảo của cơi này sang vẻ đẹp và sự hoàn hảo nhiều hơn nữa của cơi 
	khác, càng ngày càng có thêm sự vinh diệu mới mẻ, tri thức mới mẻ và quyền 
	năng mới mẻ trong mỗi chu kỳ[33].
Và với một số phận 
	như thế th́ có chi là khó chịu khi nó phải trải qua sự đau khổ nhất thời 
	hoặc thậm chí sự quằn quại của một kiếp sống đen tối?
đầu trang phần 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 cuối trang mục lục
	
Bẳng chứng về luân 
	hồi không đạt tới mức có thể chứng minh được một cách tổng quát và hoàn 
	chỉnh, nhưng xét về bản chất của vấn đề này th́ chúng tạo ra một giả định 
	mạnh mẽ hết sức. Lư thuyết mà chúng bênh vực đưa ra được lời giải thích thỏa 
	đáng duy nhất về sự thịnh suy của một quốc gia, về sự kiện trong cuộc tiến 
	hóa của cá nhân, về đủ thứ năng lực của con người, về các chu kỳ lập đi lập 
	lại trong lịch sử, về những tính chất độc đáo có một không hai của con 
	người. Mặc dù tôi biết chắc rằng luân hồi là một sự thật trong thiên nhiên, 
	nhưng ở đây tôi cũng bằng ḷng chỉ giới thiệu nó là một giả thuyết hợp lư để 
	kiểm chứng hơn là một định lư đă được chứng minh. Đó là v́ tôi đang viết cho 
	những người muốn t́m bằng chứng qua những sự kiện trong cuộc sống và lịch sử 
	của loài người cho nên đối với họ thoạt nh́n th́ luân hồi không vượt khỏi 
	mức chỉ là một giả thuyết hợp lư. C̣n kẻ nào đă biết là nó đúng sự thật đâu 
	cần tới lập luận của tôi.
1. Có một số người 
	c̣n sống cũng như một số người hiện nay không có mặt trên cơi trần, họ nhớ 
	được các kiếp đă qua của ḿnh và có thể nhớ lại những diễn biến ấy giống như 
	nhớ lại được những diễn biến ngay trong kiếp này. Kư ức – vốn là cầu nối 
	giữa các giai đoạn kinh nghiệm khác nhau của thực thể hữu thức và mang theo 
	ḿnh cái ư thức về chơn ngă cũng như về phàm ngă – đối với họ trải rộng qua 
	ngưỡng cổng các lần sinh ra và chết đi trong quá khứ và những đêm (chết) 
	cũng không phá vỡ được sợi dây xích kư ức đó hơn là những đêm (ngủ) phá vỡ 
	được sợi dây xích ngăn cách những ngày trong kiếp sống b́nh thường. Những 
	diễn biến trong các kiếp quá khứ của họ là những kinh nghiệm có thật đối với 
	bản ngă sống động của họ dường như thể chúng mới xảy ra cách đây vài năm, và 
	bảo họ rằng họ có kinh nghiệm ấy th́ đối với họ đó là một quan niệm điên 
	khùng chẳng khác nào việc bạn khăng khăng cho rằng những diễn biến mà họ 
	trải qua cách đây mười năm xảy ra đối với người khác chứ không phải đối với 
	chính họ. Họ ắt không tranh luận với bạn nhưng chỉ nhún vai và bỏ lơ đi đề 
	tài đó v́ bạn không thể căi lư với một người không biết ǵ về kinh nghiệm 
	của chính bạn. Mặt khác, chứng cớ của một người và những sự kiện trong phạm 
	vi hiểu biết của chính y không thể chứng tỏ được thực tại của những sự kiện 
	này cho người thứ nh́, do đó bằng chứng này không phải là chứng cớ thuyết 
	phục đối với bất kỳ người nào không phải là người trải nghiệm. Sự chắc chắn 
	cuối cùng về sự thật của luân hồi chỉ dành cho kẻ nào có kư ức làm chứng cho 
	quá khứ của chính ḿnh; giá trị của bằng chứng đó đối với người nghe c̣n tùy 
	thuộc vào ư kiến của người nghe về tính lành mạnh trí thức và giá trị đạo 
	đức của người nói. Nếu người nói là một người chẳng những b́nh thường lành 
	mạnh trong những sự việc thường nhật mà c̣n có sức mạnh trí thức tối cao, 
	nếu đó là một người chẳng những có đạo đức b́nh thường mà c̣n có đạo đức cao 
	tột về mặt thanh khiết, chân thật và chính xác; th́ trong t́nh huống đó, 
	việc y cố t́nh phát biểu rằng ḿnh có nhớ những diễn biến xảy ra trong cuộc 
	đời của chính ḿnh chẳng hạn như cách đây vài thế kỷ và y c̣n liên hệ được 
	những diễn biến đó với môi trường địa phương xung quanh một cách tỉ mỉ, th́ 
	rất có thể điều này gây ảnh hưởng lớn lao tới những người quen thuộc với sự 
	liêm khiết và năng lực của y; đó chỉ là bằng chứng gián tiếp nhưng thuộc 
	loại đáng tin cậy.
2. Giới thực vật, 
	động vật, nhân loại đều chứng tỏ có những dấu hiệu chịu tác động của “luật 
	di truyền” với khuynh hướng cha mẹ truyền cho con cháu những đặc tính tổ 
	chức của chính ḿnh. Mặc dù có nhiều sự khác nhau bề ngoài nhưng ta vẫn nhận 
	ra được một cây sồi, một con chó, một con người khắp nơi trên thế giới. Tất 
	cả đều được sinh ra và tăng trưởng theo những đường lối xác định; từ hai tế 
	bào một nam tính và một nữ tính, mỗi sinh vật đều tiến triển và phát triển 
	theo những đường lối có đặc tính của cha ông. Thế hệ con cháu mô phỏng lại 
	những đặc điểm riêng biệt của cha ông và cho dù các ḍng thuộc cùng một loại 
	h́nh có thể khác nhau rất nhiều song chúng ta vẫn nhận ra những đặc tính 
	thống nhất chúng lại. Chúng ta thống nhất gọi tên là “chó”, cái con chó 
	thuộc ḍng St. Bernard hoặc chó kiểng toyterrier, chó săn lợn rừng hay chó 
	săn xám ḍng Ư, cũng như ta thống nhất gọi tên là “người” dù đó là người 
	Veddah hay người Anh, người thổ dân bản xứ châu Úc hay người Rajput. Nhưng 
	khi ta xét tới những năng lực trí thức và đạo đức chẳng hạn như các biến thể 
	của loài chó và loài người th́ ta đâm choáng váng trước một sự khác nhau rất 
	to lớn. Nơi con chó th́ những năng lực đó thay đổi tương đối trong một phạm 
	vi hẹp; nó có thể khôn khéo hoặc ngu đần, nhiều thói xấu hoặc đáng tin cậy, 
	nhưng sự khác nhau giữa con chó khôn ngoan và con chó ngu đần tương đối 
	không lớn lắm. Song nơi con người th́ có một khoảng khổng lồ ngăn cách mức 
	thấp nhất với mức cao nhất cho dù xét về mặt trí thức. Một số người chỉ có 
	thể đếm 1 – 2 – 3 . . . và nhiều số, trong khi những người khác có thể tính 
	toán những khoảng cách mà ta phải tính theo hàng năm ánh sáng. Trong số mọi 
	chủng loại có mặt trên trái đất chỉ nơi con người và nơi con người thôi th́ 
	ta mới thấy có một sự thống nhất lớn lao như thế về thể chất và một sự cách 
	ly rộng lớn như thế về trí thức và đạo đức. Tôi công nhận là tính di truyền 
	thể chất giải thích được một khía cạnh nhưng tôi cần có một yếu tố mới nào 
	đó không có mặt nơi con thú để giải thích được khía cạnh kia. Sự luân hồi (với 
	một Chơn ngă trường tồn về mặt trí thức và đạo đức, học hỏi qua kinh nghiệm, 
	phát triển trong hàng thiên niên kỷ) hiến ra một nguyên nhân thỏa đáng; và 
	nguyên nhân này cũng giải thích được tại sao con người lại tiến bộ (xét theo 
	quan điểm trí thức và đạo đức) trong khi con thú vẫn dậm chân tại chỗ nếu 
	không được con người nuôi dưỡng và rèn luyện nhân tạo. Xét theo những ǵ mà 
	sử sách ghi lại được th́ những con thú hoang đă từng sống như chúng ta đang 
	sống hiện nay, đó là những loài thú săn mồi, bầy đàn trâu ḅ, bộ tộc khỉ 
	vượn, cộng đồng kiến v.v. . . Chúng sống rồi chết đi hết đời này sang đời 
	khác, lập lại những thói quen của cha mẹ, trôi giạt theo lối ṃn của tổ tiên 
	chứ không tiến hóa lên đời sống xă hội cao hơn. Chúng cũng có tính di truyền 
	thể chất như con người, nhưng di truyền thể chất không thể 
	cung cấp cho chúng kinh nghiệm tích lũy khiến cho Chơn ngă trường tồn 
	có thể leo lên được, xây dựng được những nền văn minh vĩ đại, thu thập được 
	kiến thức, càng ngày càng vươn lên cao sao cho không ai có thể vạch ra được 
	một giới hạn mà loài người không thể tăng trưởng vượt quá mức đó. Chính yếu 
	tố trường tồn này (vốn thiếu nơi con thú và có mặt nơi con người) mới giải 
	thích được tại sao con thú lại tương đối dậm chân tại chỗ c̣n con người lại 
	tiến bộ được. Không có một kho chứa cá thể nào để cho con thú tích lũy kinh 
	nghiệm trong đó; nhưng con người v́ tích lũy được tinh hoa kinh nghiệm nơi 
	Chơn ngă bất tử cho nên hết đời này sang đời khác cứ khởi sự với cái kho 
	chứa mà ḿnh sở hữu ấy và do đó có khả năng tiếp tục tăng trưởng cá thể. Đó 
	là v́ nếu không có tâm thức th́ làm sao truyền đạt được kinh nghiệm ư thức? 
	Những thói quen thể chất vốn làm biến đổi cơ thể có thể được truyền thừa về 
	mặt thể chất chẳng hạn như khuynh hướng bản năng chạy nước kiệu của con ngựa, 
	việc đánh hơi chỉ đường của con chó v.v. . . Những sự kiện này vốn nổi tiếng 
	nơi con thú cũng như nơi con người. Cũng đáng chú ư nữa là sự kiện con thú 
	vốn dậm chân tại chỗ về trí thức và đạo đức so với sự tiến bộ của con người. 
	Có một sự kiện khác cũng đáng chú ư là không một ảnh hưởng bên ngoài nào có 
	thể gây ấn tượng bao gồm những quan niệm sơ cấp tác động lên bộ óc những 
	người kém tiến hóa trong khi bộ óc của những người tiến hóa hơn đồng hóa 
	ngay tức khắc những quan niệm ấy khi chúng được tŕnh bày ra. Muốn có được 
	một nhận thức về trí thức hoặc đạo đức th́ cần phải có một điều ǵ đó hơn 
	mức chỉ là một khí cụ bộ óc, và không một sự rèn luyện nào có thể cung cấp 
	cho ta được điều này, sự rèn luyện có thể khiến cho khí cụ đó tinh vi hơn 
	nhưng cần phải có sự thôi thúc của Chơn ngă th́ khí cụ đó mới hưởng ứng được 
	với sự kích động từ bên ngoài. Ta cũng không thể phản bác sự thật này khi 
	nói rằng một đứa trẻ Âu Tây bị cách ly với việc giao tiếp con người được 
	thấy là mang đầy thú tính và ít có nhân tính khi được thả ra; đó là v́ cơ 
	quan thể chất cũng cần được các ảnh hưởng thể chất tác dụng lành mạnh lên nó 
	nếu ta muốn dùng nó trên cơi trần, và nếu ta giải thể nó bằng cách đối xử 
	không tự nhiên th́ nó cũng không thể đáp ứng được với bất kỳ thôi thúc nào 
	của Chơn ngă cũng giống như một chiếc dương cầm bị bỏ rỉ sét trong bầu không 
	khí ẩm thấp không thể trổi lên những nốt nhạc du dương v́ những sợi dây đàn 
	đă bị hư hỏng.
3. Trong giới hạn 
	của một gia đ́nh th́ cũng có vài đặc tính di truyền không ngừng tái xuất 
	hiện và có một “sự giống nhau về gia đ́nh” nào đó thống nhất các thành viên 
	của gia đ́nh lại, sự giống nhau về thể chất này thật là rơ ràng và được coi 
	là bằng chứng của luật di truyền. Nếu chỉ xét như thế th́ cũng đúng thôi. 
	Nhưng luật ấy giải thích thế nào về sự khác nhau đáng ngạc nhiên nơi năng 
	lực trí thức và tính cách đạo đức mà ta thấy trong phạm vi hạn hẹp của chỉ 
	một môi trường gia đ́nh trong đám con cái của cùng một cha mẹ? Trong gia 
	đ́nh gồm những người tịch lặng, yêu cuộc sống gia đ́nh, định cư ở một nơi 
	hết đời này sang đời khác th́ lại nảy ṇi ra một chàng trai với tính khí 
	quậy phá đầy hoang dă mà không một kỷ luật nào có thể 
	uốn nắn được và không một dỗ dành nào có thể níu tay lại được. Làm 
	thế nào mà một loại h́nh như vậy lại xuất hiện trong một môi trường như thế 
	nếu bản chất trí thức và đạo đức được nảy sinh ra từ nguồn cội tổ tiên? Hoặc 
	một “kẻ vô lại” sinh ra trong một gia đ́nh quí tộc và thanh khiết làm quặn 
	đau nỗi ḷng của những kẻ yêu thương y, làm điếm nhục thanh danh chưa hề ô 
	uế, y ở đâu ra vậy? Hoặc là một đóa hoa trinh trắng thánh thiện phơi bày vẻ 
	đẹp rực rỡ của ḿnh ngay giữa môi trường gia đ́nh dơ dáy và thô tục, điều ǵ 
	đă ném hạt giống của cái cây tuyệt vời ấy xuống mảnh đất tồi bại như thế? Ở 
	đây trong mọi trường hợp th́ sự luân hồi đều mang lại cho ta manh mối v́ nó 
	coi các phẩm tính trí thức và đạo đức vốn ở nơi Chơn ngă bất tử chứ không ở 
	nơi cái xác do cha mẹ sinh ra. Ta thấy anh em rất giống nhau về thể chất 
	nhưng tính cách về trí thức và đạo đức lại khác nhau một trời một vực như 
	nước với lửa. Tính di truyền có thể giải thích được mặt này nhưng không thể 
	giải thích được mặt kia. [Tôi không quên “luật phản phục” cũng như vấn đề 
	làm thế nào mà các loại h́nh tương kỵ như vậy lại chui vào cùng một gia đ́nh 
	nếu ta bảo rằng Chơn ngă bị thu hút về môi trường thích hợp với ḿnh, nhưng 
	những điều này sẽ được bàn tới ở mục lư lẽ phản đối luân hồi]. Sự luân hồi 
	bước vào để điền kín cái chỗ trống ấy và như vậy làm cho thuyết tăng trưởng 
	của con người được hoàn chỉnh.
4. Vấn đề giống 
	như vậy lại càng nổi bật hơn nơi trường hợp những anh em sinh đôi trong đó 
	các đứa trẻ chẳng những có tổ tiên giống hệt nhau mà c̣n có hoàn cảnh trước 
	khi sinh ra giống hệt nhau. Thế nhưng trẻ sinh đôi thường kết hợp sự giống 
	nhau hoàn chỉnh nhất về thể xác với sự khác nhau rất nhiều về trí thức và 
	đạo đức. Và c̣n một vấn đề quan trọng nữa liên quan tới trẻ sinh đôi là 
	trong buổi ấu thơ ta thường không phân biệt được chúng với nhau, ngay cả cặp 
	mắt sắc xảo của người mẹ và người bảo mẫu cũng không phân biệt nổi. Thế mà 
	sau này khi chúng lớn lên, khi Manas đă hoạt động thông qua cái khung thể 
	chất th́ Manas biến đổi nó nhiều đến nổi sự giống nhau về thể chất giảm đi 
	c̣n sự khác nhau về tính t́nh lại ghi dấu trên những đặc điểm di động.
5. Hiện tượng thần 
	đồng cũng đ̣i hỏi khoa học phải giải thích một chút. Tại sao Mozart mới có 
	bốn tuổi mà đă bộc lộ được kiến thức chẳng ai dạy ḿnh? Chẳng những ông có 
	khiếu về nhạc du dương mà c̣n có “bản năng” tạo ra những lời phổ nhạc cho 
	những khúc nhạc du dương được tŕnh bày với ông, những lời phổ nhạc ấy tuân 
	theo những định luật phức tạp về hài âm mà một nhạc sĩ phải kiên nhẫn học 
	hỏi biết bao lâu. “Người ta bảo rằng ông vốn sinh trưởng trong một gia đ́nh 
	có truyền thống âm nhạc”. Chắc chắn rồi, bằng không th́ ta khó ḷng mà hiểu 
	được làm sao cung cấp được cho ông cái công cụ thể chất tinh vi cần thiết để 
	ông biểu lộ được  thiên tài siêu 
	việt của ḿnh; nhưng nếu bảo rằng gia đ́nh cung cấp cho ông thiên tài ấy 
	cũng như cái bộ máy thể chất để biểu lộ thiên tài th́ người ta lại thắc mắc 
	muốn biết tại sao có biết bao nhiêu người cùng chia xẻ quyền sở hữu cái công 
	cụ âm nhạc thể chất ấy mà ngoại trừ ông ra th́ chẳng có ai chứng tỏ được khả 
	năng trào dâng lên thành những bản nhạc giao hưởng, những bản sonate, những 
	khúc nhạc kịch mà cái đại khối ấy tuôn đổ ra như thác quí báu xiết bao từ 
	cái nguồn nước hầu như vô tận. Làm thế nào hậu quả lại có thể tuôn ra từ một 
	nguyên nhân bất cập như vậy? Đó là v́ trong trọn cả gia đ́nh Mozart chỉ có 
	mỗi một Mozart thôi. Và ta có thể trích dẫn nhiều trường hợp khác nữa trong 
	đó đứa trẻ c̣n vượt cả thầy giáo của ḿnh, dễ dàng làm được điều mà các bậc 
	thầy phải h́ hục hoàn thành và nhanh chóng làm được điều mà các bậc thầy 
	không tài nào làm nổi.
6. Thần đồng chẳng 
	qua là một dạng biểu lộ của thiên tài và bản thân thiên tài cần được giải 
	thích. Nó ở đâu ra vậy, thật khó mà truy nguyên nó c̣n hơn cả theo dơi dấu 
	chim trên bầu trời. Plato, Dante, Bruno, Shakespeare, 
Liệu ai dám giải 
	thích bằng phương pháp di truiyền sự giáng sinh của một thiên tài đạo đức vĩ 
	đại như Lăo Tử, Đức Phật, Zarathusthra hoặc Chúa Giê su hay không? Phải 
	chăng cái gốc rễ thiêng liêng làm trổ ra các tinh hoa nhân loại này phải 
	được đào xới nơi mảnh đất tổ tiên trên cơi trần mà nguồn cội của các kiếp 
	sống đầy diễm phúc ấy chỉ là một cái giếng nhỏ của nhân loại tầm thường? Ở 
	đâu ra sự minh triết không được dạy dỗ, sự giác ngộ tâm linh cũng như tri 
	thức của các ngài về những nỗi phiền năo và nhu cầu của loài người? Con 
	người đă bị lóa mắt v́ giáo huấn của các ngài đến nổi họ mơ rằng đó là một 
	sự khải huyền của một đấng Thiêng liêng siêu tự nhiên trong khi ấy chỉ là 
	thành quả chín muồi của hàng trăm kiếp làm người. Những người nào bác bỏ một 
	đấng Thêng liêng siêu tự nhiên th́ hoặc là phải chấp nhận sự luân hồi hoặc 
	là phải chấp nhận không thể giải quyết được vấn đề nguồn gốc của các ngài. 
	Nếu sự di truyền có thể tạo ra Đức Phật và Đức Ki Tô th́ nó ắt c̣n phải cung 
	cấp cho ta nhiều Đức Phật và đấng Ki Tô hơn nữa.
7. Chúng ta cũng 
	phải đi đến kết luận ấy khi chú ư tới những sự khác nhau ghê gớm của người 
	ta qua năng lực đồng hóa đủ thứ kiến thức.
Ta hăy xét hai 
	người có một khả năng trí thức nào đó khéo léo hơn là ngu đần. Ta hăy giới 
	thiệu với mỗi người đó cùng một hệ thống triết lư. Một người nhanh chóng 
	lĩnh hội được các nguyên tắc chính yếu của nó, c̣n người kai vẫn thụ động và 
	trơ trơ đối với nó. Ta hăy giới thiệu cũng với hai người này một hệ thống 
	khác nữa th́ địa vị tương đối của họ sẽ bị đảo lộn lại. Một người có “khuynh 
	hướng” theo một dạng tư tưởng này c̣n người kia hướng theo một dạng tư tưởng 
	khác. Hai học viên bị thu hút bởi Thông Thiên Học và bắt đầu nghiên cứu nó; 
	chỉ mới hết một năm th́  người 
	này đă quen thuộc với những quan niệm chính yếu của nó và có thể ứng dụng 
	được những quan niệm ấy, c̣n người kia th́ phấn đấu loay quay trong một mê 
	lộ. Đối với người này th́ mỗi nguyên tắc đều dường như là quen thuộc khi y 
	được tŕnh bày, c̣n đối với người kia th́ mỗi nguyên tắc ấy thật là mới mẻ 
	kỳ lạ và không thể hiểu nổi. Người tin vào luân hồi hiểu rằng giáo huấn này 
	là xưa cũ đối với người này nhưng lại mới mẻ đối với người kia; người này 
	học nhanh v́ ư nhớ, chẳng qua y chỉ phục hồi lại kiến thức trong quá khứ; 
	người kia học chậm v́ kinh nghiệm của y không bao hàm những sự thật này của 
	thiên nhiên và y đang lần đầu tiên vất vả để thụ đắc chúng.
8. Có liên quan 
	mật thiết tới viêc nhanh chóng khôi phục được kiến thức trong quá khứ, đó là 
	trực giác vốn nhận thức được sự thật đúng là sự thật khi nó được tŕnh bày 
	chứ không cần cái quá tŕnh chậm chạp lập luận để đi tới viêc tin chắc. Trực 
	giác ấy chỉ nhận ra một sự kiện đă quen thuộc trong một kiếp quá khứ mặc dù 
	mới lần đầu tiên gặp trong kiếp này. Nó có đặc điểm là không cần được củng 
	cố bằng lập luận, niềm tin chắc nội tâm xuất hiện ngay khi nhận thức được sự 
	kiện; người ta có thể mưu t́m và kiến tạo những lập luận chứng tỏ thực tại 
	những sự kiện ấy v́ ích lợi của những người khác chứ bản thân họ th́ không 
	cần tới sự thỏa măn của một kẻ tin tưởng. Công việc đó đă được thực hiện rồi 
	đối với chính y trong kinh nghiệm trước kia và y không cần phải đi trở lại 
	con đường xưa cũ ấy nữa.
9. Không có một 
	thuyết nào khác về kiếp tồn tại của con người giải quyết được giống như luân 
	hồi về vấn đề bất b́nh đẳng trong hoàn cảnh, năng lực và cơ hội; bằng không 
	th́ ta chẳng thấy được bằng chứng theo đó sự công bằng là một yếu tố trong 
	cuộc sống, c̣n con người chẳng qua chỉ là tṛ chơi cho sự ưu ái của một đấng 
	Tạo hóa vô trách nhiệm hoặc tṛ chơi của những lực mù quáng thuộc Thiên 
	nhiên vô hồn. Một đứa trẻ được sinh ra với bộ óc thích hợp để trở thành công 
	cụ của mọi nỗi đam mê đầy thú tính, “bộ óc tội phạm”, là hiện thể của các 
	ham muốn xấu xa, của bản năng đầy thú tính; nó là đứa con của một kẻ ăn cắp 
	và một cô gái điếm, ḍng máu ấy tuôn chảy từ một cội nguồn ô uế nhiễm độc, 
	môi trường xung quanh dạy cho nó những bài học tồi bại, uốn nắn nó theo 
	những đường lối xấu xa. Một đứa trẻ khác sinh ra với bộ óc được uốn nắn cao 
	thượng thích hợp để biểu lộ trí năng xuất sắc nhất có rất ít nền tảng vật 
	thể dùng làm cơ sở và công cụ cho những đam mê đầy thú tính; nó là con của 
	những bậc cha mẹ thanh khiết và biết suy tư, thể chất của nó       
	được kiến tạo bằng vật liệu tốt, môi trường xung quanh nó thúc đẩy nó 
	theo con đường hành xử đúng đắn, rèn luyện nó hành động rộng lượng và tốt 
	bụng, giúp nó ức chế mọi tư tưởng thấp hèn và tồi bại. Do cơ thể và môi 
	trường xung quanh th́ kẻ này bị tiền định sống một cuộc đời tội phạm hoặc 
	cùng lắm nếu phần Thiêng liêng nơi y biểu lộ ra được th́ y cũng phải phấn 
	đấu ghê gớm chống lại nghịch cảnh đè bẹp, cho dù sự phấn đấu này cuối cùng 
	là chiến thắng th́ bản thân kẻ thắng trận cũng kiệt sức, què quặt, tâm hồn 
	tan nát. C̣n cũng do thể chất và môi trường xung quanh th́ một kẻ khác lại 
	được tiền định sống một cuộc đời hoạt động ban phúc, y chẳng phải phần đấu 
	chống lại điều ác gh́ kéo y xuống mà phần đấu vươn lên tới điều thiện cao 
	thượng hơn thu hút y đi lên. Ở đâu ra những số phận khác nhau đến như thế 
	nếu những con người này lần đầu tiên bước vào sân khấu cuộc đời? Liệu ta có 
	dám bảo rằng một đấng Thiên hựu hữu thức và cai trị tất cả nào đó tạo ra hai 
	cuộc đời này, lưu đày một kẻ đến mức thoái hóa tối đa và ban phúc cho kẻ kia 
	đến mức năng lực cao siêu nhất? Nếu thế th́ Nhân loại đang bơ vơ lạc lỏng 
	than khóc trong nanh vuốt của một sự bất công khôn ḍ chỉ c̣n có nước rùng 
	ḿnh tuân phục nhưng nó ắt không c̣n nói tới Công bằng hoặc Bác ái nữa, coi 
	như đó là thuộc tính của đấng Thiêng liêng mà nó tôn thờ. Nếu kết quả như 
	vậy mà lại xảy ra do các lực mù quáng trong Thiên nhiên th́ con người cũng 
	chới với trong gọng kềm của những nguyên nhân mà ḿnh không thể ḍ t́m hoặc 
	kiểm soát nổi và trong khi loài người 
	nhẫn nhục chịu đựng th́ quấn quanh tâm hồn y vẫn có một con rắn nhe 
	răng nanh đầy nọc độc uất hận trước sự bất công, những số phận tốt và đen 
	đủi đă chạy ra từ những ṿng quay xổ số của một thứ may rủi mù quáng. Những 
	số phận đó trút xuống đầu con người mà họ không có quyền chấp nhận hoặc bác 
	bỏ. Nhưng nếu luân hồi là đúng sự thật th́ sự Công bằng vẫn ngự trị trên thế 
	gian và số phận con người vẫn nằm trong tay y. Nếu chiều theo những tư tưởng 
	và hành vi độc ác gây ra những điều sai trái đối với người khác, tán tận 
	lương tâm đeo đuổi những mục tiêu ích kỷ th́ những điều đó sẽ kiến tạo cho 
	Chơn nhơn luân hồi một bộ óc vốn là công cụ thích hợp để cho chúng biểu lộ 
	ra nhiều hơn, một bộ óc mà mọi khuynh hướng xấu đều dễ dàng ngựa quen đường 
	cũ c̣n những lực tốt đẹp th́ chỉ hoài công khi mưu t́m một cơ quan thể chất 
	để biểu hiện ra được. Một bản chất có trang bị thể chất xấu như thế sẽ bị 
	thu hút về môi trường thích hợp nơi mà có đủ mọi cơ hội để cho hành động xấu 
	đó được thể hiện ra và các bậc cha mẹ có thân xác đă nhiễm độc có thể cung 
	cấp vật liệu thể chất thích hợp để dùng làm cơ sở cho sự biểu lộ ấy. Khủng 
	khiếp ư? Đúng vậy, cũng khủng khiếp như việc cứ say sưa kéo dài sẽ dẫn tới 
	việc hủy hoại cơ thể và bộ óc. Nhưng ở đâu có sự công bằng, có định luật 
	không thể vi phạm được th́ ở đó có hi vọng v́ lúc bấy giờ ta không chỉ là 
	những cọng rơm bị cơn gió vô t́nh cuốn đi mà ta làm chủ được số phận của 
	ḿnh, v́ có hiểu biết nên ta có thể vận dụng được những định luật ấy, chúng 
	không bao giờ phản bội ta và sẽ trợ giúp cho ta thay v́ đối địch với ta. Đó 
	là v́ nếu con người có thể xây dựng điều xấu xa th́ cũng có thể kiến tạo 
	điều tốt đẹp và kết quả ngược lại với những ǵ mà ta vừa phác họa cũng có 
	thể được tạo ra. Kiên quyết chống lại tư tưởng và hành vi sai trái, kiên 
	nhẫn phụng sự người khác, tận tụy với hết tấm ḷng ḿnh v́ những cứu cánh vị 
	tha; những thứ đó sẽ xây dựng cho Chơn nhơn luân hồi một bộ óc vốn là công 
	cụ thích hợp để chúng càng dễ biểu lộ ra hơn, trong đó mọi khuynh hướng tốt 
	sẽ dễ dàng đơm hoa kết trái, trong đó các lực xấu xa sẽ hoài công mưu t́m 
	một cơ quan thể chất để biểu hiện ra được. Một bản chất như thế cũng được 
	thu hút về môi trường có nhan nhăn những cơ hội để làm điều tốt, có các bậc 
	cha mẹ xứng đáng để kiến tạo nên đền thờ tạm thể chất này. Nhưng trong mỗi 
	trường hợp th́ đền thờ tạm đều được xây dựng theo kế hoạch mà kiến trúc sư 
	Chơn ngă xây cất và y chịu trách nhiệm về công tŕnh của ḿnh[34].
Lại nữa, luân hồi 
	giải thích cho ta hiểu được sự tương phản ghê gớm giữa những hoài băo và khả 
	năng của con người. Ta thấy một tâm trí tha thiết bị giam hăm trong một thể 
	xác bất lực nhất và ta biết rằng giờ đây nó bị hạn chế do trong một kiếp 
	trước nó đă lười biếng không chịu vận dụng năng lực của ḿnh. Ta thấy một 
	người khác mơ ước thành tựu được những điều cao siêu nhất, tha thiết phấn 
	đấu thật cảm động để lĩnh hội được những quan niệm tinh vi nhất trong khi 
	đáng thương thay y không thể đồng hóa được những ư tưởng sơ cấp nhất và căn 
	bản nhất trong triết lư mà y muốn quán triệt hoặc không đáp ứng được những 
	yêu cầu khiêm tốn nhất của một kiếp sống khá hữu ích và vị tha. Chúng ta 
	thấy rằng những cơ hội trong quá khứ đă bị bỏ lỡ, những khả năng thành tựu 
	lớn lao đă bị coi thường hoặc cố t́nh vứt bỏ, v́ vậy giờ đây con đường đi 
	lên của Chơn ngă mới bị trắc trở và sức mạnh của y mới bị què quặt; linh hồn 
	mơ ước có được sự hiểu biết với ḷng tha thiết đầy tuyệt vọng và thê thảm, 
	đâu có quyền năng bên ngoài nào chối bỏ nó, nhưng nó không thể đạt được v́ 
	nó không thể thấy được cho dù điều ấy nằm ngay dưới chân nó.
Có một gợi ư khác 
	có thể hấp dẫn đối với kẻ nào tin rằng có một đấng Thiên hựu cai trị tất cả, 
	ngài sáng tạo ra hồn người. Phải chăng dường như tưởng tượng rằng đấng 
	Thiêng liêng chiều ư tạo vật của ḿnh khi vận dụng năng lượng sáng tạo giống 
	như kẻ tùy tùng chỉ chực chờ những cơn đam mê và dâm dục của con người để 
	tạo ra một hồn người ngụ trong cái xác vốn là sản phẩm của một hành vi đồi 
	bại nào đó của một cặp nam nữ đă sa đà vào những đam mê không kềm chế được 
	bản thân? Việc thường xuyên tạo ra những hồn mới để ngụ trong những h́nh 
	tướng mà sự tồn tại của chúng lại lệ thuộc vào những cơn ngẫu hứng của con 
	người. Phải chăng có một điều ǵ đó thật là ghê tởm đối với những người biết 
	tôn trọng lư tưởng về một đấng Thiêng liêng. Thế nhưng không c̣n phương án 
	nào khác nếu người ta tin rằng con người là phần hồn – hoặc có linh hồn theo 
	như họ diễn tả nhiều nhất – mà lại bác bỏ sự luân hồi.
10. Có một lập 
	luận khác chỉ hấp dẫn đối với kẻ nào tin vào sự bất tử của con người: đó là 
	một điều ǵ bắt đầu trong thời gian cũng phải kết thúc trong thời gian. Mọi 
	điều hữu thủy đều phải hữu chung và mệnh đề tương quan cần thiết của sự bất 
	tử sau khi chết ắt là trước khi sinh ra phải có sự tồn tại đời đời. Chính v́ 
	thế mà Hume có tuyên bố rằng chuyển kiếp là thuyết duy nhất về linh hồn mà 
	triết học có thể nghe lọt tai được v́ “cái ǵ bất diệt ắt phải không thể 
	sinh ra được”. Tư tưởng vốn vươn lên tới được phẩm giá của triết học th́ 
	hoặc là phải chấp nhận sự luân hồi hoặc là cho rằng kiếp sống cá thể chấm 
	dứt vào lúc chết.
11. Thế nhưng lại 
	nữa, chẳng lẽ không có được điều ǵ khá phi lư nếu cho rằng đấng Thông tuệ 
	tâm linh nơi con người vốn bất tử mà lại giả sử rằng một đấng Thông tuệ như 
	thế giáng trần, ngụ trong chẳng hạn thể xác của một người sơ khai rồi rời bỏ 
	nó và chẳng bao giờ trở lại để học vô số bài học mà cuộc sống trần tục này 
	có thể dạy được nhưng chưa kịp dạy cho y. Ta thấy con người c̣n có thể thành 
	tựu được biết bao nhiêu sự tăng trưởng về trí tuệ và đạo đức so với tŕnh độ 
	của một kẻ chưa văn minh. Tại sao một đấng Thông tuệ như thế mà cuối cùng 
	lại từ trần khi chưa quán triệt được hết mọi bài học? Biệt phái một đấng 
	Thông tuệ thiếu kinh nghiệm như thế lên một cơi sinh hoạt tâm linh cao siêu 
	nào đó cũng chẳng khác ǵ gửi một đứa trẻ thuộc lớp thấp nhất trong trường 
	tiểu học lên học Đại học. Óc phân biệt phải trái b́nh thường cũng yêu cầu nó 
	trở lại hết học kỳ này tới học kỳ khác, sau mỗi kỳ nghỉ hè cho tới khi nó 
	lên được lớp cao nhất rồi tốt nghiệp lớp đó v́ đă học hết được những ǵ mà 
	trường phải dạy cho nó th́ mới chuyển sang sinh hoạt thoải mái hơn và học 
	vấn thâm sâu hơn ở bậc Đại học.
12. Sự tương tự 
	gợi cho ta thấy trong một chu kỳ sống th́ các yếu tố vô thường và thường trụ 
	cùng nhau tồn tại. Lá cây trổ ra, chín vàng rồi rụng xuống; trong khi đang 
	c̣n sống, chúng thu hút chất dinh dưỡng, biến chất dinh dưỡng thành ra chất 
	liệu hữu dụng cho cái cây, truyền đạt thành quả năng lượng sống của ḿnh cho 
	cái cây rồi mới chết. Chúng không mọc lên trở lại nữa nhưng cái cây vẫn 
	trường tồn và cứ mỗi mùa xuân th́ một đợt lá mới lại mọc ra. Kiếp sống phàm 
	ngă cũng như thế, nó thu lượm kinh nghiệm, chuyển hóa kinh nghiệm thành ra 
	những giá trị trường cửu, truyền giá trị đó cho cái cây sống lâu bền mà nó 
	sinh ra từ đấy rồi mới chịu nhắm mắt buông tay: sau khi mùa đông qua rồi th́ 
	Chơn ngă lại sinh ra phàm ngă mới để làm công việc tương tự, để kiến tạo, 
	nuôi dưỡng sự tăng trưởng của cái cây Chơn nhơn. Và thế là trong khắp cả 
	thiên nhiên ta đều thấy cái vô thường phục vụ cho cái thường trụ, làm việc 
	v́ sự tăng trưởng của cuộc sống trường cửu hơn mà bản thân nó chỉ là sự biểu 
	hiện phù du.
13. Các chu kỳ lập 
	đi lập lại trong lịch sử cho ta thấy một số lớn người xét chung đă luân hồi. 
	Ta thấy vào cuối mỗi chu kỳ mười lăm thế kỷ lại tái xuất hiện những loại 
	h́nh thông tuệ và loại tính t́nh đánh dấu sự bắt đầu của chu kỳ ấy. Nếu biết 
	được ư tưởng này, học viên hăy thử so sánh thời kỳ Augustus trong lịch sử La 
	Mă với thời kỳ Nữ hoàng 
14. Ta chỉ giải 
	thích được sự thịnh suy của các giống dân hay nhất là dựa vào giả thuyết 
	luân hồi. Ta lưu ư thấy rằng một số giống dân bị mai một cho dù người ta đă 
	cố hết sức chận đứng đà suy thoái của chúng; phụ nữ trong giống dân đó bị vô 
	sinh cho nên dân số cứ đều đều giảm đi và việc chúng bị tuyệt chủng chỉ c̣n 
	là vấn đề thời gian. Nhà luân hồi học ắt bảo rằng: “Các Chơn ngă đang rời bỏ 
	giống dân ấy; mọi thứ có thể học được qua biểu hiện đặc thù ấy đă được học 
	hết rồi; các Chơn ngă đă từng một thời làm linh hoạt đám con trẻ trong giống 
	dân ấy giờ đây chuyển sang giống dân khác; không c̣n Chơn ngă ấu trĩ nào để 
	băn khoăn về những bài học kinh nghiệm làm người buổi sơ khai nhất; v́ thế 
	cho nên trên cơi nguyên nhân không có nhu cầu và do đó nó tất nhiên phải 
	biến mất”. Cũng vậy, ta thấy rằng khi một giống dân đă đạt tới tột đỉnh 
	thành tựu th́ sự suy thoái từ từ sẽ bắt đầu; cùng lúc đó một giống dân khác 
	bắt đầu tăng trưởng và tiến bộ lên khi giống dân kia suy thoái đi. Đó là v́ 
	các Chơn ngă tiên tiến sau khi đă dùng một loại h́nh giống dân hết mức khả 
	năng của nó th́ lại thấy có một loại h́nh khác với những khả năng cao hơn; 
	do đó họ để mặc cho các Chơn ngă chậm tiến hơn nhập thế trong loại h́nh thứ 
	nhất c̣n bản thân họ chuyển sang nhập thế trong giống dân non trẻ hơn; như 
	vậy sự truyền thừa sẽ được tiếp tục, các Chơn ngă càng ngày càng chậm tiến 
	cứ nhập thế trong loại   
	h́nh đầu tiên do đó loại h́nh này từ từ suy thoái cho đến khi đạt tới giai 
	đoạn nêu trên khi ta thấy có những dấu hiệu gần tuyệt chủng. Ta có thể nêu 
	ra nhiều bằng chứng khác nữa về thực tại của luân hồi, nhưng trong khuôn khổ 
	giới hạn này th́ như thế cũng đủ rồi. Khi có thêm kiến thức, học viên thiết 
	tha và chuyên cần có thể nêu thêm nhiều bằng chứng khác.
đầu trang phần 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 cuối trang mục lục
	
Việc phát biểu 
	những lời phản đối ở đây được viện dẫn theo những người chống đối và t́m 
	hiểu khi họ nêu lên, và nó chỉ được coi là một mẫu trong số những lư lẽ mà 
	ta thường gặp nhất.
1.
	Việc Mất Trí Nhớ. Điều này đă 
	được bàn luận rốt ráo trong đề mục LUÂN HỒI KHÔNG PHẢI LÀ CÁI G̀, và ở đây 
	ta không cần lập lại lời giải thích đó nữa.
2.
	Sự Gia tăng Dân số. Người ta 
	thường thắc mắc nếu số Chơn nhơn là một con số cố định th́ phải giả thích ra 
	sao việc gia tăng dân số? Sự gia tăng dân số hoàn toàn ăn khớp với sự gia 
	tăng số lượng Chơn ngă đang nhập thế xét v́ số lượng này có tỉ lệ nhỏ so với 
	tổng số Chơn ngă không nhập thế. Xin rút gọn lời giải đáp này thành một dạng 
	cụ thể hơn: Chẳng hạn như nếu có ba ngàn Chơn ngă cần phải nhập thế; có một 
	trăm Chơn ngă đang nhập thế rồi, c̣n lại hai ngàn chín trăm Chơn ngă không 
	nhập thế; một thời kỳ một ngàn năm trăm năm trôi qua trước khi một trăm Chơn 
	ngă đầu tiên nhập thế trở lại và cũng như thế đối với cũng một trăm Chơn ngă 
	kế tiếp. Chỉ cần rút ngắn một chút thời kỳ không nhập thế của một số Chơn 
	ngă th́ cũng gia tăng rất nhiều số Chơn ngă đang nhập thế. Những người nào 
	nêu lên sự phản đối này thường coi như đương nhiên là tỉ lệ Chơn ngă không 
	nhập thế so với Chơn ngă đang nhập thế vào khoảng 50% và 50% trong khi số 
	Chơn ngă không nhập thế lớn hơn nhiều so với số Chơn ngă đang nhập thế. Bầu 
	hành tinh chỉ là một sảnh đường nhỏ trong một thị trấn lớn thu hút thính giả 
	bước vào đó nghe từ tất cả dân số của thị trấn. Có thể là có lúc nó bị trống 
	rỗng hết một nửa và có lúc th́ đặc nghẹt người nhưng chuyện đó không làm 
	thay đổi ǵ tổng số dân của thị trấn. Cũng vậy hành tinh nhỏ bé của ta có 
	thể dân cư thưa thớt hoặc bị nạn nhân măn, nhưng số lớn Chơn ngă mà nó thu 
	hút được để cho dân số của nó lên đến mức nhân măn thực ra vẫn hầu như không 
	cạn kiệt.
3.
	Luân hồi lờ đi Luật Di Truyền. 
	Ngược lại, nó c̣n áp đặt Luật Di Truyền trên cơi trần nữa. Nó thừa nhận rằng 
	khi cung cấp vật liệu thể chất, có thể nói là cha mẹ đóng dấu ấn của riêng 
	ḿnh lên vật liệu đó sao cho các phân tử được xây dựng vào cơ thể đứa trẻ 
	mang theo thói quen rung động một cách nhất định và ḥa hợp với nhau theo 
	kiểu đặc thù. Do đó mới truyền được các bệnh di truyền, mới truyền được 
	những tật nho nhỏ về tác phong, thói quen, cử chỉ v.v. . . Kẻ phản đối ắt 
	tiếp tục: “Nhưng đâu phải chỉ có thế. Những sự giống nhau về trí tuệ cũng 
	được truyền thừa, các đặc tính về trí tuệ cũng như về thể chất”. Điều này 
	đúng trong một phạm vi nào đó nhưng không vượt quá mức được coi là đương 
	nhiên bởi những kẻ nào muốn giải thích mọi chuyện qua sự vận hành của một 
	định luật đơn nhất. Cha mẹ đóng góp các nguyên tử của thể phách cũng như của 
	thể xác và cả những yếu tố dục vọng nữa – nhất là của người mẹ - và những 
	thứ này tác động lên các phân tử của bộ óc cũng như các phân tử của phần c̣n 
	lại trong cơ thể, do đó khiến cho nơi đứa trẻ tái xuất hiện những đặc trưng 
	sinh lực và đam mê của cha mẹ, làm biến đổi sự biểu lộ của Chủ thể Suy tư, 
	Manas tức Chơn ngă luân hồi. Thuyết luân hồi công nhận mọi cách thức ảnh 
	hưởng này của cha mẹ đối với con cái, nhưng trong khi chấp nhận những thứ đó 
	đến mức tối đa th́ nó đâu có bỏ qua mọi tác động độc lập vẫn là bằng chứng 
	tồn tại nổi bật không kém so với ảnh hưởng của cha mẹ đối với Tứ Nguyên Hạ; 
	và như vậy Thông Thiên Học giải thích trọn vẹn được những điều khác nhau và 
	những điều giống nhau trong khi di truyền chỉ giải thích có một phần theo 
	biểu kiến; nhấn mạnh tới những điều giống nhau và lờ đi những sự khác nhau.
4. Đối với lời phê 
	b́nh vừa qua th́ người ta trả lời rằng sự phản phục cũng đủ giải thích được 
	sự khác nhau, người ta giải thích thiên tài qua sự phản phục cũng như giải 
	thích mọi loại h́nh khác hẳn tổ phụ trực hệ. Nhưng nếu thiên tài là một 
	trường hợp phản phục th́ chúng ta cũng phải nhận ra được vị tổ tiên được phú 
	cho thiên tài ấy v́ nó phải làm nổi bật lên người có thiên tài so với đám 
	đông. Cho dù khoảng cách thời gian có dài đến đâu đi nữa th́ thiên tài cũng 
	chỉ xuất hiện được trong những gia đ́nh mà nó biểu lộ rồi. Nếu Shakespeare 
	là một ví dụ về sự phản phục (cách thế di truyền) th́ ông phản phục của ai? 
	Chính sự kiện một thiên tài đột nhiên làm rạng rỡ thanh danh cho một gia 
	đ́nh từ trước đến nay vốn vô danh tiểu tốt cũng bác bỏ cái giả thuyết về 
	phản phục rồi v́ bản thân sự vô danh tiểu tốt bảo đảm là không có thiên tài. 
	Người ta cũng có thể nhận xét rằng khi một đứa con hư sinh ra trong một gia 
	đ́nh nề nếp th́ người ta gán cho nó là phản phục, lời giải thích này chỉ 
	thuần là phỏng đoán chứ không có một chút xíu bằng chứng nào ủng hộ nó. Nếu 
	người ta xác lập thiên tài là sự phản phục th́ bằng cách tương tự ta cũng có 
	thể lập luận như vậy trong những trường hợp khác; nhưng khi giả định ấy 
	ngược lại lời giải thích trong trường hợp mà ta có thể dễ dàng kiểm chứng 
	được nó có đúng hay không, th́ ta đă ít chú ư tới nó trong những trường hợp 
	mà hầu như tất nhiên là ta không thể kiểm chứng được.
5. Việc một đứa 
	con hư xuất hiện trong một gia đ́nh nề nếp và một đứa con ngoan xuất hiện 
	trong một gia đ́nh bê bối, điều đó ngược lại với thuyết cho rằng Chơn ngă bị 
	thu hút về phía những người nào có thể cung cấp cho nó một cơ thể và môi 
	trường thích hợp. Thoạt nh́n th́ lời phản đối này dường như là xác đáng, 
	nhưng nó lại bỏ qua vấn đề rất quan trọng là những mối liên hệ nghiệp quả. 
	Triết lư Bí truyền dạy rằng số phận tương lai của các Chơn ngă quấn quít với 
	nhau do những mối quan hệ mà chúng ta lập nên trong bất kỳ cuộc sống nào 
	trên trần thế. Yêu và ghét, phục vụ và làm hại, đồng chí hướng cả về mặt tốt 
	lẫn mặt xấu, tất cả đều có khuynh hướng thu hút các Chơn ngă tụ tập lại với 
	nhau trong cuộc sống trên cơi trần v́ chúng phải cùng nhau thanh toán những 
	hậu quả mà chúng đă cùng nhau gây ra. V́ thế trên cơi này mới có sự thù ghét 
	thiếu tự nhiên gây choáng váng mà ta thấy đôi khi tồn tại giữa cha mẹ và con 
	cái, anh chị em với nhau – những sự thù ghét này không thể giải thích được 
	v́ chúng mang đầy ác ư, có những đặc tính kỳ quặc, mua thù chuốc oán mà một 
	số người không nhớ được nhưng rơ ràng là điều sai trái đó vẫn cứ ám ảnh 
	khống chế. Cũng v́ thế cho nên có những sự ràng buộc không chia cách được 
	nối kết các tâm hồn lại với nhau mặc dù ngh́n trùng xa cách rất nhiều về 
	thời gian, những mối liên kết với sức mạnh không có nguyên nhân trong kiếp 
	này ắt vạch ra một sự khởi đầu vượt ngoài cánh cổng của sự chào đời.
đầu trang phần 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 cuối trang mục lục
	
Và đến đây ta phải 
	kết thúc phần bàn luận bất toàn về một đề tài quá rộng lớn và quá sâu sắc 
	đối với một văn tài kém cỏi như tôi. Sự phác họa này chẳng qua chỉ được coi 
	là việc sơ bộ dẫn nhập vào chuyện một trong những vấn đề trọng đại nhất của 
	kiếp người, biết đâu đó là việc nghiên cứu có tầm quan trọng sống c̣n hơn 
	cho giai đoạn văn minh hiện nay của ta hơn hẳn bất cứ việc nghiên cứu nào mà 
	tâm trí con người có thể đảm đương được. Cả cuộc đời sẽ thay đổi dung mạo 
	khi sự luân hồi trở thành một niềm tin chắc chắn thâm căn cố đế vượt ngoài 
	sự lập luận, vươn lên trên mọi sự bàn căi. Mỗi ngày trong cuộc đời chỉ là 
	một trang trong vở tuồng vĩ đại của kiếp sống, mỗi nỗi phiền muộn chỉ là một 
	bóng râm thoáng qua do đám mây đi ngang che khuất; mỗi niềm vui chỉ là một 
	tia nắng chớp lóe phản chiếu ra từ một cái gương xoay tít; mỗi lần chết đi 
	chỉ là việc dọn nhà ra khỏi một căn nhà xuống cấp. Sức mạnh của một tuổi trẻ 
	vĩnh hằng bắt đầu từ từ xâm nhập vào cuộc sống đang khơi hoạt lên; sự b́nh 
	tĩnh của một ḷng thanh thản mênh mang ấp ủ những đợt sóng nhồi trong tư 
	tưởng con người đang vật vă; sự vinh quang chói lọi của trí Thông tuệ bất tử 
	xuyên suốt đám mây vật chất nặng nề đen tối và sự An b́nh bất diệt mà không 
	điều ǵ quấy rầy được tỏa chiếu sự trắng tinh thuần khiết lên cho tinh thần 
	chiến thắng. Hết đỉnh cao tâm linh này tới đỉnh cao tâm linh khác, nâng bước 
	họ lên đến tột đỉnh mây xanh vô hạn, đưa họ leo lên bầu trời vô biên và làm 
	mờ đi khoảng cách bao la vây quanh Tương lai, thênh thang và không thể tưởng 
	tượng nổi ngay cả đối với tinh thần nơi chính con người. Thế rồi bị “lóa mắt 
	đi v́ ánh sáng chói lọi”, được cuốn trong một nỗi niềm hi vọng quá sâu sắc 
	đến mức chẳng thể biết được niềm vui, quá chắc chắn đến mức chẳng thể cho là 
	khải hoàn, quá rộng lớn đến mức chẳng thể thốt nên lời, con Người nhập vào 
	Toàn thức mà tâm thức ta thật là vô nghĩa cho tới khi Thời gain Vĩnh hằng 
	lại xao xuyến với lời hiệu triệu: HĂY XUẤT HÀNH V̀ NGÀY CỦA BRAHMA ĐANG LÓ 
	DẠNG VÀ BÁNH XE MỚI LẠI BẮT ĐẦU QUAY!
	
	VẠN VẬT THÁI B̀NH
đầu trang phần 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 cuối trang mục lục
			
			
			
			
			[1] 
			Josephus, Antig., xviii. i, 
			tiết 3 có nói kẻ đạo đức “sẽ có quyền phục sinh và sống trở lại”.
			
			
			
			
			[2] 
			Zohar, ii, xấp thứ 99, phần 
			tiếp theo được trích dẫn trong quyển Qabbalah của Myer, trang 198.
			
			
			
			
			[3] 
			Trích dẫn trong Qabbalah của 
			Myer, trang 198.
			
			
			
			
			[4] 
			Thư gửi cho Anastasius do E. 
			D. Walker trích dẫn trong quyển
			Luân Hồi: Nghiên cứu về một 
			Sự Thật bị lăng quên.
			
			
			
			
			[5] 
			E. D. Walker, sách đă dẫn 
			trang 65 – 66.
			
			
			
			
			[6] 
			Theo bản dịch của Annie 
			Besant, bài Thuyết pháp ii, 18-25. 
			
			
			
			
			[7] 
			Trang 63.
			
			
			
			
			[8] 
			Giáo Lư Bí Truyền, III, 
			168-179, ấn bản 1962. 
			
			
			
			
			[9] 
			Bảy Nguyên khí của Con người, 
			tác giả Annie Besant, trang 60.
			
			
			
			
			[10]
			Như trên, trang 68. 
			Mối quan hệ giữa ba Nguyên Khí Cao đă được giải thích rơ ràng trong 
			quyển sách nhỏ này, nó đă xuất hiện thoạt đầu trong tạp chí Lucifer 
			dưới dạng một loạt các bài báo mà ta giả sử rằng những người đọc 
			quyển Cẩm nang hiện nay đều đă nghiên cứu tới nó.
			
			
			
			
			[11]
			Xem phần trước.
			
			
			
			
			[12]
			Cơi này thường được 
			gọi là cơi thứ ba v́ bắt đầu đếm từ Atma là cơi thứ nhất th́ nó là 
			cơi thứ ba. Nó được gọi bằng con số nào th́ không quan trọng nếu học 
			viên hiểu cho rằng nó có quan hệ với phần c̣n lại như thế nào.
			
			
			
			
			[13]
			Giáo Lư Bí Truyền, I, 
			trang 333, ấn bản 1962.
			
			
			
			
			[14]
			Thế Giới Huyền Bí, 
			trang 88, ấn bản lần thứ năm.
			
			
			
			
			[15]
			Lời của một Chơn sư 
			trong quyển Thế Giới Huyền Bí, trang 90.
			
			
			
			
			[16]
			Giáo Lư Bí Truyền, 
			III, trang 318, ấn bản 1962.
			
			
			
			
			[17]
			Trích dẫn theo Tuyển 
			tập Kinh điển Thiêng liêng của Moncure D. 
			
			
			
			
			[18]
			Tiếng Nói Vô Thinh, 
			trang 283, 285, 289, 290, 293, 370-310.
			
			
			
			
			[19]
			Giáo Lư Bí Truyền, I, 
			trang 82, ấn bản 1962. 
			
			
			
			
			[21]
			Giáo Lư Bí Truyền, 
			III, trang 168, ấn bản 1962.
			
			
			
			
			[22]
			Bài thuyết pháp số 
			xviii, 49.
			
			
			
			
			[23]
			Bản dịch của 
			W.W.Rockhill, trang 10.
			
			
			
			
			[24]
			Bản dịch của 
			W.W.Rockhill, trang 15.
			
			
			
			
			[25]
			Chương xxiv, trang 
			351-353.
			
			
			
			
			[26]
			Chương xi trang 
			153-154.
			
			
			
			
			[27]
			Tiếng Nói Vô Thinh, 
			trang 67. 
			
			
			
			
			[28]
			Tiếng Nói Vô Thinh, 
			trang 31. 
			
			
			
			
			[29]
			Như trên.
			
			
			
			
			[30]
			Ch́a khóa Thông Thiên 
			Học, trang 139-141. 
			
			
			
			
			[31]
			Ch́a khóa Thông Thiên 
			Học, trang 156. 
			
			
			
			
			[32]
			Ch́a khóa Thông Thiên 
			Học, trang 141-142. 
			
			
			
			
			[33]
			Ch́a Khóa Thông Thiên 
			Học, trang 155. 
			
			
			
			
			[34]
			Ta không bao giờ được 
			quên rằng địa vị và của cải ở thế gian v. v. . . không ăn khớp với 
			môi trường tốt và xấu xung quanh. Trong trường hợp cực đoan đầu tiên 
			mà bản văn có phác họa, môi trường xung quanh rơ rệt là xấu, nhưng 
			trong trường hợp thứ nh́ môi trường xung quanh của Chơn ngă cũng có 
			thể đầy những rắc rối tục lụy chỉ v́ y phải có quyền được cơ hội 
			tăng trưởng.
			
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES