Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  BOOKS  MAGAZINES


ĐẠO LƯ THỰC HÀNH
(Phương Pháp Tập Luyện đặng thành một vị Thiện nhân)
 Đạo Học Tùng Thơ - In lần thứ hai - 1967
Tác giả: BẠCH LIÊN

MỤC LỤC

mục lục đầu sách cuối sách chương 1 chương 2 chương 3

 Vài lời nói đầu (Xuất bản kỳ I)

Vài lời nói đầu (Xuất bản kỳ II)

Bài tựa của quyển II

CHƯƠNG THỨ NHỨT

Con người là ai?

Con người xuống cơi trần làm chi?

Chung quanh ta là những Luật Trời

Những Luật Trời mà con người cần phải biết

Làm thế nào học hỏi những luật nầy

Những thể của con người hay là những dụng cụ để học hỏi cơ Trời

Bảy cơi của Thái dương hệ chúng ta

Bảy cơi của không gian

Phận sự của bảy thể

A.     Những thể hư hoại

B.     Ba thể trường tồn

Những thể của ta dùng thường ngày

Tại sao gọi con người là Tiểu Thiên Địa

Ba Ngôi của con người

Ai gây ra tội lỗi

1.- Tánh nết của xác thịt

2.- Tánh nết cái Vía

3.- Tánh nết cái Trí

Tam bành lục tặc là chi?

Tại sao con người phạm tội?

 

CHƯƠNG THỨ NH̀

Ta phải tự thức tỉnh cách nào?

Tại sao phải tinh luyện ba thể: Thân, Vía, Trí?

Phương pháp tinh luyện ba thể Thân, Vía, Trí

I.- Tinh luyện xác thân.

   a) Chọn lựa thực phẩm

       Những món ăn tinh khiết

       Những món ăn nên dùng

       Nên tránh

       V́ sao chúng ta phải tinh luyện xác thân

b)  Có tiết độ

                II.- Tinh luyện cái Vía

                III.- Tinh luyện cái Trí

                      Định trí

Nền tảng của sự định trí

Những cách định trí

Đề pḥng

Điều cần hơn hết là phải bền chí, thiếu can đảm th́ sẽ thất bại.

Sự chọn lựa tư tưởng

Hậu quả của một tư tưởng xấu

 

 

Hậu quả của một tư tưởng lành

Tư tưởng biến thành sự hành động

Tư tưởng trong 5 phút có thể phá hoại 5 năm công phu luyện tập.

Dầu gây dựng lại cũng đă mất thời giờ, hăy giữ ǵn cho lắm.

Cách diệt trừ tư tưởng xấu

Phải làm sao bây giờ?

Kiểm soát tư tưởng

Tai hại của sự mở trí mà không mở tâm

Tham thiền (Méditation)

Vấn đề tham thiền

Những sự hữu ích của sự tham thiền

Mục đích của sự tham thiền

Tham thiền mỗi ngày mấy lần

Cách ngồi tham thiền

Pḥng riêng để tham thiền

Phải tham thiền luôn luôn đừng gián đoạn

Đề pḥng

Hườn hư

Đại định (Contemplation)

Hai thứ đại định

Trạng thái của cái Trí trống không lúc nầy

Tiếng Nói Vô Thinh

Công phu hằng ngày

I.- Tham thiền đặng làm chủ ba thể: Thân, Vía, Trí

            1) Xác thân          

                     2) Cái Vía

                     3) Cái Trí

                     4) Tôi là Chơn Nhơn

II.- Tham thiền một tánh tốt

Cách luyện tập một tánh tốt

Phải kiên nhẫn, phải bền chí.

Đừng sợ thất bại

Thời gian tham thiền

Trong những giờ làm việc

Trưa đúng ngọ

Chiều hay tối

Tự tỉnh

Chí công mài sắt chầy ngày nên kim.

                              PHỤ TRƯƠNG

Những lời chứng minh về màu sắc của những h́nh tư tưởng

 

 

 

                    

CHƯƠNG THỨ BA

Lập hạnh là điều tối cần

1.- Chuyện Socrate thâu Xénophon làm đệ tử

 

NHỮNG ĐỨC TÁNH CẦN TẬP

 

Tháng thứ nhứt

  TỪ BI BÁC ÁI

Phải thực hành những điều đă suy nghĩ

NHỮNG GƯƠNG BÁC ÁI

1.- Chuyện Thái tử Điệc ga du

2.- Không yêu nhau mới loạn

 

Tháng thứ 2

BỐ THÍ

Tại sao ta không nên từ bỏ một sự bố thí nào

                       NHỮNG GƯƠNG BỐ THÍ

1.- Trọng nghĩa khinh tài

2.- Mua nghĩa

3.- Thác rồi mà c̣n làm việc phước thiện ở trần

4.- Ảnh hưởng của những việc từ thiện

 

Tháng thứ 3

  HY SANH

NHỮNG GƯƠNG HY SANH

1.-Chuyện vua Bắc ma ca

2.- Một gương hy sanh của bà Blavatsky

3.- Gương hy sanh của một gia đ́nh Bà la môn

4.- Gương hy sanh tại Thừa Thiên

 

Tháng thứ 4

CHƠN THẬT

NHỮNG GƯƠNG CHƠN THẬT

                       CHỮ TÍN

1.- Một cái đỉnh

2.- Chuyện thanh gươm

3.- Mẹ hiền dạy con

 

Tháng thứ 5

THĂNG BẰNG

NHỮNG GƯƠNG THĂNG BẰNG

1.- Đầy th́ đổ

2.- Tài và bất tài

3.- Trung dung

 

Tháng thứ 6

L̉NG KHOAN DUNG

NHỮNG GƯƠNG KHOAN DUNG

1.- Chuyện nàng tỳ nữ Bra ri ti

2.- Không nên câu nệ

 

 

 

Tháng thứ 7

CAN ĐẢM

NHỮNG GƯƠNG CAN ĐẢM

1.- Trí, trung, dũng

2.- Bọ ngựa chống xe

 

Tháng thứ 8

THANH KHIẾT

NHỮNG GƯƠNG THANH KHIẾT

1.-Chuyện những người không tu luyện,

          chỉ có làm tṛn bổn phận mà giác ngộ

2.- Chuyện nàng kỹ nữ và vị đạo sĩ  Sa ni da sen

3.- Không nên coi bề ngoài mà xét đoán

4.- Ông quan thanh bạch

5.- Của báu

 

Tháng thứ 9

KIÊN NHẪN

NHỮNG GƯƠNG KIÊN NHẪN

1.- Học bắn cung

2.- Phải bền chí

      Chuyện năm trăm cổ xe

3.- Ngu Công dọn núi

 

Tháng thứ 10

 KHÔN KHÉO

 NHỮNG GƯƠNG KHÔN KHÉO

1.- Câu nói của người đánh cá

2.- Vua tôi bàn việc

3.- Can ǵ mà phá đi

4.- Cách cư xử ở đời

5.- Người vợ hiền minh

6.- Cách trị dân

 

Tháng thứ 11

     TỰ TÍN

CHUYỆN NHỮNG NGƯỜI CÓ ĐỨC TIN

1.- Mất đức tin bỏ mạng

2.- Đi trên mặt nước

3.- Cầu ở ḿnh hơn cầu ở người

4.- Cậy ở người không bằng chắc ở ḿnh

 

Tháng thứ 12

MẶC (NÍN THINH)

NHỮNG GƯƠNG CẨN NGÔN

1.- Chuyện Phật dạy Ra hầu la

2.- Chuyện bảy cô vợ lẽ. 

 

 

VÀI LỜI NÓI ĐẦU

(Xuất bản kỳ nhứt)

CÙNG QUÍ BẠN HỘI VIÊN HỘI THÔNG THIÊN HỌC VIỆT NAM

 và NHỮNG BẠN ÁI MỘ CHƠN LƯ

 

QUÍ BẠN THÂN MẾN,

Đức Phật tóm tắt giáo lư của Ngài trong ba câu nầy:

LÁNH DỮ,

LÀM LÀNH,

RỬA L̉NG CHO TRONG SẠCH

Mới nghe qua thật dễ quá, không có chi là lạ, là mới mẻ, không có chi là phi thường, ai ai cũng chắc ḿnh làm được. Nào dè khi đem ra thực hành th́ thấy không biết bao nhiêu sự khó khăn nổi dậy, đủ cả tứ phía, đàn áp con người làm cho phải thất bại. Chừng đó mới biết câu nầy rất đúng với sự thật: “Tôi không làm những điều tôi muốn, mà tôi lại làm những điều mà tôi không muốn”.

Từ ngàn xưa trong các bạn tu hành, những người thành công là những người có tánh cương quyết, có chí nhẫn nại, biết rơ cội rễ của “Tam bành lục tặc” và hành đúng những phương pháp để chặt đứt những dây chướng ngại, nên vén được bức màn vô minh bao phủ vạn vật.

Rút những sự học hỏi và kinh nghiệm của tôi trên ba mươi năm, tôi xin hiến cho quí bạn một phương pháp đă từng giúp những người tu hành mở mang ḷng từ bi bác ái và các đức tánh khác. Nhờ như thế chúng ta mới có thể thực hiện được mục đích thứ nhứt của Hội Thông Thiên Học là gầy dựng t́nh huynh đệ đại đồng giữa các dân tộc, không phân biệt sắc da, ṇi giống, nam nữ, đảng phái và giai cấp.

Quí bạn hành theo đó cho đúng công phu nghĩa là đúng giờ khắc, không bỏ qua ngày nào th́ nội trong sáu tháng đă khởi sự thấy kết quả, tức là thấy sự thay đổi chút đỉnh trong tâm trí theo chiều hướng cơ trời. Quí bạn sẽ mến cái lành, cái đẹp. Từ đó quí bạn sẽ có đức tin vững vàng mà bước tới. Mười lăm năm sau quí bạn sẽ thành một người mới, nếu quí bạn không ĺa đạo, không để cho cuộc đời lôi cuốn. Tôi nói như thế là v́ trên đường đạo, mỗi chặng đều có những chướng ngại vật dựng lên để cản trở, người ta gọi là những sự thử ḷng. Phải thắng chúng nó mới vững bước đi xa, đúng với câu “Trường đồ tri mă lực, sự cửu kiến nhơn tâm”. Không có lửa đỏ sao biết tuổi vàng.

Có những sự thử ḷng mới biết sức chịu đựng của ḿnh tới bực nào; mới biết chỗ hay chỗ dở của ḿnh đặng bồi bổ thêm. Có kinh nghiệm rồi mới có thể dắt dẫn kẻ khác tránh khỏi những bẫy cạm, mới biết thương những người c̣n yếu đuối chưa trèo được lên cao, mới hiểu rằng ta là một phần tử của nhân loại th́ những tội lỗi và những sự nhục nhă của nhơn loại là những tội lỗi và những sự nhục nhă của ta. Nghiệp quả của ta kết chặt với nghiệp quả của nhơn loại.

Thế nên thắng được các sự thử thách tức là tự chủ, thắng bản ngă, làm chủ phàm nhơn. Đây là bước đầu tiên rất cần yếu cho sự tu tập. Lần lần sẽ đi đến mức minh tâm kiến tánh.

Mười lăm năm ! mới nghe qua th́ thật là lâu lắm, nhưng nó đến bây giờ. Chúng ta hăy hồi tưởng lại hồi mới bảy tuổi cắp sách vào trường, tới nay mấy chục năm đă qua xem như chớp mắt. Ta hăy tính sổ lại những tội và phước của ta đă làm th́ hai dá cân, chắc chắn dá tội nặng hơn dá phước.

Quí bạn đă biết chúng sanh không thoát khỏi bốn vách: sanh, lăo, bịnh, tử. Bỏ xác rồi ai ai cũng nắm hai tay trắng mà xuống mồ. Chừng tái sanh lại cũng hai bàn tay trắng, ta chỉ đem theo ḿnh những mầm tánh tốt, tánh xấu với quả lành, quả ác của ta đă gây ra kiếp trước mà thôi.

V́ thế tốt hơn là chúng ta gieo giống tốt ngay bây giờ đặng ngày sau gặt lấy quả ngon lành. Sự thật là ta định số mạng cho ta, tốt hay xấu, nên hay hư, chớ Trời không có thưởng ai mà cũng không phạt ai cả. Chúng ta có bổn phận tiến mau tới khuôn mẫu của Đức Thượng Đế đă định sẵn cho vũ trụ nầy, tức là trở nên trọn sáng, trọn lành. Trái lại nếu chạy theo những cuộc phù hoa mộng ảo th́ gây ra không biết bao nhiêu nghiệp chướng buộc trói con người vào bánh xe luân hồi. Rồi từ đó không biết phải trải qua mấy muôn mấy triệu năm nữa mới t́m lại được con đường “Phản bổn Hườn Nguyên”.

Hỡi các bạn thanh niên và học sanh nam nữ !

Tôi viết cuốn nầy chẳng phải để riêng cho quí bạn mộ đạo tu hành, mà luôn luôn tôi vẫn nhớ tới quí bạn, v́ quí bạn là tương lai của đất nước, quí bạn là những yếu tố có thể định đoạt vận mạng Hưng vong của một quốc gia, của một dân tộc. Tài năng của quí bạn là một khí cụ rất nguy hiểm nếu quí bạn dùng mà không đúng chỗ. Quí bạn phải nhờ tánh t́nh tốt của quí bạn hướng dẫn cho đúng với nhịp điều ḥa của vũ trụ, tức là cơ trời. Tánh t́nh của quí bạn là cây kim chỉ nam cũng gọi là la bàn; mất nó quí bạn sẽ lạc vào nẻo tối tăm mà không ngờ. Chừng quí bạn sa hầm sụp hố th́ chuyện đă rồi, ăn năn không kịp.

Vậy th́ quí bạn thực hành những tời tôi chỉ bảo sau đây, chắc chắn nó sẽ đem lại cho quí bạn một cái kết quả rất tốt đẹp là tâm và trí của quí bạn lần lần trở nên sáng suốt hơn trước, mau hay chậm, ít hay nhiều, tùy theo sự cố gắng và sự nhẫn nại của quí bạn; nói tóm lại là công phu luyện tập. Dầu sao cũng có, tôi dám quả quyết như vậy. Trong khi nhiều người thành công th́ chẳng có lư do nào mà khi quí bạn thực hành in như vậy lại không thấy sự hiệu nghiệm nào cả.

Nhưng tôi yêu cầu tất cả quí bạn thân mến ba điều sau đây:

Một là: Nếu quí bạn có thất bại th́ chớ nên ngă ḷng. Vấp té rồi đừng ngồi đó than van rên siết, mất ngày giờ và vô ích. Hăy chổi dây, thoa bóp chơn tay rồi tiếp tục đi tới, lấy sự thất bại làm một bài học hay, một bài học khôn ngoan, sau khỏi lầm lạc nữa. Chỉ có thất bại là khi nào nửa chừng ta bỏ cuộc, tục gọi là “bán đồ nhi phế”.

Hai là: Nếu quí bạn thấy cuốn nầy chưa giúp ích cho quí bạn được bây giờ, th́ hăy trao cho người khác muốn xem coi hay là cất nó vào tủ. Tới một ngày kia sau khi quí bạn đă mỏi mệt trên con đường tranh đấu, quí bạn hăy giở nó ra xem lại, chừng đó quí bạn sẽ thấy nó là một người bằng hữu rất chân thành, chỉ lo mưu hạnh phúc cho quí bạn, một hạnh phúc chơn thật, vĩnh viễn, trường tồn, thoát khỏi tay tàn phá của thời gian.

Ba là: Nếu quí bạn có thắc mắc điều chi trong khi tu tập, xin hăy gởi thơ cho tôi, tôi sẽ giải lại; đừng ngại chi cả.

Xin chúc quí bạn mau thành công đắc quả, đặng d́u dắt nhơn sanh ra khỏi chốn trầm luân khổ hải.

 

VẠN VẬT THÁI B̀NH

Châu đốc, ngày 8 tháng 3  năm 1955

BẠCH LIÊN

PHẠM NGỌC ĐA11 Nguyễn đ́nh Chiểu, Châu Đốc.

----------

VÀI LỜI NÓI ĐẦU

Xuất bản kỳ nh́

Cơ trời là sự tiến hóa không ngừng nghỉ và chia ra nhiều chu kỳ khác nhau.

Chín năm nữa, năm 1975, một chu kỳ mới gọi là kỷ nguyên Huyền bí học sẽ mở màn.

Thiên đ́nh sẽ cho vén lên một góc màn vô minh nữa đặng cho con người hiểu thêm một vài bí mật của Tạo công. Nhờ vậy con người mới trở nên sáng suốt hơn trước.

Nhưng từ ngàn xưa, Tiên Thánh đều dạy rằng muốn tiến mau th́ con người phải tự biết ḿnh và phải thực hành những phương pháp làm chủ vật chất đặng điều khiển nó và biến đổi nó ra những khí cụ tốt lành để sử dụng trong khi học hỏi các cơi Trời.

Các Ngài tiết lộ cho chúng ta biết rằng cả chục ngàn năm trước các Ngài vẫn ở trong giai đoạn tiến hóa mà chúng ta đương trải qua hiện thời. Nhưng nhờ kiên gan bền chí các Ngài ra công luyện tập cho nên mới mau thành Chánh quả và bước qua hàng Siêu Phàm Nhập Thánh. Các Ngài đă vạch rơ con đường của các Ngài đă đi cho chúng ta thấy đặng chúng ta nối gót theo các Ngài.

Thế nên năm 1955 tôi mới viết cuốn Đạo Lư Thực Hành không ngoài mục đích cung hiến cho quí bạn ái mộ chơn lư những tài liệu để khảo cứu khoa học của đời sống và cải thiện từ tư tưởng, ư muốn cho tới việc làm của ḿnh theo những lời bực Cao minh đă chỉ dạy. Nói cho đúng, tôi chỉ chia sớt sự học hỏi của tôi với quí bạn.

11 năm đă qua. Sau khi xem lại kỹ lưỡng quyển nầy tôi bèn thêm vô nhiều đoạn, nhứt là về cách Định Trí và Tham Thiền, đồng thời cũng loại ra những chi tiết nào tuy rằng hữu ích thật song chưa thấy cần thiết lắm cho những người mới tu tập.

Cầu xin quyển Đạo Lư Thực Hành mới sửa đổi kỳ nầy giúp thêm một chút ánh sáng cho khách lữ hành đi t́m cửa Đạo.

Đó là nguyện vọng của tôi mấy chục năm nay vậy.

“Trước kia tôi dự định in làm hai quyển, nay thấy hai quyển nhập lại làm một tiện hơn. Thế nên tôi để y nguyên bài tựa quyển II. Xin chư quí bạn lượng thứ”.

 

BẠCH LIÊN

Châu đốc, ngày mồng ba tháng bảy năm Bính Ngọ

(18-Août-1966)

 

Bài tỰa cỦa quyỂn II

 

Từ ngàn xưa, người hiền đức luôn luôn được thiên hạ tôn trọng và trên Thiên Đ́nh chọn lựa những người có ḷng từ bi, bác ái quên ḿnh, giúp đời, thâu nhận làm đệ tử và dạy dỗ đặng ngày sau trở nên những đấng cứu thế. Tại sao bực hiền nhơn vẫn được ưu đăi?  Bởi v́ người có tài mà không có đức th́ kiêu căng tự phụ coi người chẳng ra chi, lo thỏa thích ḷng ham muốn th́ gây ra tai hại cho đời chẳng nhỏ, có khi hậu quả lưu tới cả ngàn năm sau. Một lẽ nữa, con người càng tiến hóa th́ càng kiểm soát được những lực của vũ trụ ở chung quanh ḿnh và đem ra áp dụng vào đời sống của quần chúng. Tỷ như thuở xưa là hơi nước và điển, và ngày nay là nguyên tử lực [1]. Người ta mới biết có một phần nhỏ nhen của điển lực và nguyên tử lực mà sức mạnh của nó đă ghê gớm lắm rồi. C̣n nhiều lực khác dữ tợn phi thường không ai tưởng tượng nổi và hiện giờ người thế chưa khám phá ra được. Như lực của dĩ thái (éther) gọi là Wrill, đưa vô đá th́ đá tan ra tro bụi trong chớp mắt. Tuy vậy nó cũng có quyền năng làm mất sức nặng của mọi vật, tùy theo cách ta xử dụng. Một khối sắt mấy trăm tấn bị lực nầy rút mất sức nặng th́ nhẹ như bong bóng, người ta dời đi chỗ nào cũng được. Đem tới chỗ nhứt định rồi người ta cho lực nầy vô th́ sắt trở lại nặng như cũ. Trên hết các lực là Fohat, lực nầy có thể làm cho địa cầu tan ra tro mạt. 75025 năm trước Chúa giáng sanh, châu Át lăn tích (Atlantide) bị lực nầy nhận ch́m xuống biển và ngày nay c̣n để lại vài di tích là cù lao A-so (Açores) và Ca-na-ri (Canaries). Chỗ châu Át lăn tích nằm bây giờ là Đại Tây Dương (Océan Atlantique). Nguyên do là các vị đạo sĩ ỷ tài hiển lộng thần thông làm những điều tàn ác, làm cho Trời giận đất hờn mà họ không chịu hối cải. Chung cuộc cả bọn họ và những kẻ xu quyền phụ thế đều chôn thân vào bụng cá sau khi bị cảnh cáo nhiều lần mà không chừa thói dữ. Thấy như thế chúng ta hiểu rằng, người thế dầu tài ba lỗi lạc tới đâu cũng không qua Trời được. Nếu chúng ta chưa có thể làm một cái trứng gà ấp nở ra con và một cái hột giống gieo xuống đất mọc lên cây, nếu ta c̣n già, c̣n bịnh, c̣n chết và luân hồi th́ tự tỉnh lo tu đức trau ḿnh, sớm chừng nào tốt chừng nấy. Tài đức cân phân th́ rất tốt, đức thắng tài càng hay. Trái lại nếu tài thắng đức th́ nguy cơ thấy trước mắt, con người sẽ làm hại hơn là làm lợi cho đời. Nếu ỷ tài th́ mắc họa chẳng sai.

Cụ Nguyễn Du kết luận truyện Kiều rất đúng với Đạo Đức:

 

“Có tài mà cậy chi tài,

Chữ tài liền với chữ tai một vần.

Đă mang lấy nghiệp vào thân,

Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.

Thiện căn ở tại ḷng ta,

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

 

Thật ra ít ai nghĩ tới điều nầy lắm. Người ta chỉ lo sung sướng trước mắt, chớ không lo hậu quả về sau. Không bao nhiêu người chịu nghe chơn lư. Mặc dầu trong t́nh thế hiện tại, tiếng nói đạo đức dường như tiếng nói trong sa mạc, chúng tôi vẫn đinh ninh rằng: cái chi thuận với ḷng Trời, cái chi là Chơn Lư đều được vĩnh viễn trường tồn và có tiếng dội trong chơn tâm của con người, và luôn luôn cái chi chơn thật th́ c̣n, cái chi không chơn thật th́ mất. Chung cuộc Chơn Lư bao giờ cũng thắng.

Cho hay, muôn việc đều tại ḷng người, nếu con người muốn th́ nội trong năm phút thế gian biến thành cảnh Thiên Đường hay cũng nội trong năm phút nó sẽ hóa ra cơi Địa ngục.

V́ vậy chúng tôi hằng cầu nguyện cho ai nấy đều thực hiện được Chơn Tánh, diệt trừ ḷng tham dục, bủa khắp bốn phương Đức Từ Bi Bác Ái đặng cho bốn biển thái b́nh, nhà nhà no ấm.

Ấy là chỗ chí nguyện của chúng tôi từ bấy lâu nay vậy.
 

BẠCH LIÊN


CHƯƠNG THỨ NHỨT

mục lục đầu sách cuối sách chương 1 chương 2 chương 3

CON NGƯỜI LÀ AI?

 

Con người có phải là xác thân hữu h́nh, hữu hoại, chịu bốn cái khổ: sanh, lăo, bịnh, tử nầy chăng?

Không, không phải thế. Tục thường nói: “Hồn ĺa khỏi xác” tức là cái xác nầy không phải thật là con người rồi.

Cũng có người nói “Tôi có một linh hồn”. Cũng không phải nữa.

Phải nói: “Tôi là linh hồn” c̣n có ư đúng hơn một chút. Sự thật con người là Chơn thần. Nói một cách khác dễ hiểu hơn, con người là Con của Đức Thượng Đế. Nhưng mà đứa con nầy ở trong thời kỳ ấu xuân chưa đến lúc trưởng thành, chưa vận dụng được hết quyền năng c̣n tiềm tàng trong ḿnh như Đức Thượng Đế vậy.

 

CON NGƯỜI XUỐNG CƠI TRẦN LÀM CHI?

 

Con người xuống cơi trần làm chi đây để mang đủ thứ bịnh tật và các điều phiền năo?

Con người xuống cơi trần đặng học hỏi những luật trời hầu ngày sau khi toàn năng toàn thiện rồi th́ sanh hóa một bầu Vũ trụ khác, tức là một Thái dương hệ khác cũng như bầu Vũ trụ ḿnh đương ở hiện giờ.

Những sự đau khổ, các thứ bịnh tật vốn của con người tự gây ra, v́ nhân nào sanh quả nấy [2]. Đó là những bài học dạy con người khôn ngoan hơn trước. Tới chừng nào con người chịu hành động theo thiên ư th́ chừng ấy các vụ khó khăn đều dứt tuyệt. MỤC ĐÍCH CUỘC ĐỜI LÀ SỰ TIẾN HÓA KHÔNG NGHỈ KHÔNG NGỪNG, TỪ CHỖ CHƯA TRỌN LÀNH ĐẾN CHỖ TRỌN LÀNH, TỪ CHỖ PHÂN CHIA ĐẾN CHỖ HIỆP NHẤT [3].

Con người không phải chỉ sanh ra cơi đời đặng lớn lên lập thân danh, gầy dựng gia đ́nh, nối ḍng giống rồi chờ ngày đem thân bảy thước vùi sâu dưới ba tấc đất. Nếu quả thật chỉ bao nhiêu mà thôi th́ cuộc đời rất vô vị, không có mục đích chi cả.

TẠI CON NGƯỜI CHƯA BIẾT M̀NH LÀ AI? XUỐNG CƠI TRẦN LÀM CHI? Cho nên mới nuôi tánh ích kỷ, xâu xé lẫn nhau, chém giết lẫn nhau, đánh đập lẫn nhau cũng chẳng qua chỉ v́ miếng ăn, đất ở, chỗ đứng, nơi ngồi. Dường như con người quên phức rằng: TỚI MỘT NGÀY KIA M̀NH PHẢI BỎ XÁC, MẶC DẦU LUÔN LUÔN THẤY TRƯỚC MẮT VẠN VẬT ĐẾU THAY H̀NH ĐỔI DẠNG. Chừng tới số phần rồi th́ phủi sạch công danh, sự nghiệp, nắm hai tay trắng mà xuống mồ. Tới kiếp sau đi đầu thai lại cũng hai tay trắng mà thôi.

 

CHUNG QUANH TA LÀ NHỮNG LUẬT TRỜI

 

Ta sanh ra trên một cơi đời chịu ảnh hưởng không biết bao nhiêu là luật mà ta không thấy được và cũng chưa biết được nhiều. Ta chỉ thấy một điều là khi ta vi phạm th́ có sự phản động lại làm cho ta đau khổ hoặc về tinh thần hoặc về thể chất, có khi cũng bỏ mạng nữa.

Cái điều mà ta gọi là “Khoa học” là những luật trời mà các nhà bác học khám phá ra rồi sắp đặt lại cho có hệ thống. Dường như người ta quên rằng những luật đó đă có sẵn từ thuở Tạo thiên lập địa, chớ không phải mới có hai thế kỷ nay, và cũng không phải các nhà bác học bày ra những luật đó rồi bắt buộc Tạo vật phải tuân theo mạng lịnh của mấy ổng. Có một điều chắc chắn là nếu mấy ổng làm sái luật trời th́ sẽ thất bại trong công cuộc thí nghiệm chẳng sai.  Nhưng c̣n biết bao nhiêu điều bí ẩn khác của Tạo công mà con người chưa t́m ra. Lần hồi con người sẽ vén được nhiều góc của bức màn vô minh, chừng đó cái quan niệm của con người về Đức Thượng Đế sẽ đổi hẳn và con người sẽ kính cẩn nói rằng “Cái chi của Trời làm đều tốt đẹp cả”.

 

NHỮNG LUẬT TRỜI MÀ CON NGƯỜI CẦN PHẢI BIẾT

 

Những luật trời mà con người cần phải học cho rành rẽ đặng áp dụng vào đời sống của ḿnh mới tiến mau là Luật Nhân quả, Luật Luân hồi, Luật Hi sinh, Luật Sanh hóa, Luật Tiến hóa, Luật Phong hóa v.v. . .

Trước hết phải biết luật Nhân quả chi phối vạn vật trong vũ trụ và kiếp sống của ta là một xâu chuỗi Nhân và Quả nối tiếp với nhau và liên lạc với nhau như bóng với h́nh.

Đây là những việc nhỏ mọn mà ta thấy hằng ngày, trước mắt. Ta ăn uống, đồ ăn uống làm ra máu huyết xương thịt. Đồ ăn là Nhân, máu huyết xương thịt là Quả. Cố gắng học hỏi th́ trí hóa mở mang. Trí hóa mở mang là Quả của cái Nhân cố gắng học hỏi. Té lỗ đầu, té là Nhân, lỗ đầu là Quả. Uống rượu say nằm đường. Nằm đường là cái Quả của Nhân uống rượu say. Kiếp này là kết quả của kiếp trước, kiếp sau là kết quả của kiếp nầy. Nghĩa là kiếp trước ta gieo Nhân nào, ngày nay ta gặt quả nấy, rồi kiếp sau gặt hái cái Quả của Nhân ta gieo kiếp nầy. Trồng dưa đặng dưa, trồng đậu đặng đậu. Không hề khi nào gieo lúa mà ớt mọc lên bao giờ. Nhưng gieo nhân lành hay nhân dữ cũng phải đầu thai lại đặng hưởng quả tốt hay quả xấu của ḿnh đă tạo ra. Đó là Luật Luân hồi theo Luật Nhân quả. Muốn thoát đọa luân hồi th́ phải hy sinh v́ thương đời, không c̣n lo mưu hạnh phúc riêng cho ḿnh nữa. Những quả lành của ḿnh tạo ra sẽ nhập vô kho thần lực của Đức Thượng Đế dùng cứu vớt những người c̣n lặn hụp trong chốn trầm luân khổ hải. Tới chừng đó ta đă thoát ra khỏi ṿng sanh tử dưới phàm gian và bước vào cơi siêu phàm nhập Thánh.

Ba Luật Nhân quả, Luân hồi, Hy sinh đều liên quan mật thiết với nhau, mới nghe qua rất dễ, nhưng chúng nó rất vô cùng phức tạp, học từ kiếp nầy qua kiếp kia chưa rồi, v́ Luật Tiến hóa, Luật Sanh hóa phải phục tùng Luật Nhân quả.

 

LÀM THẾ NÀO HỌC HỎI NHỮNG LUẬT NẦY

 

Mấy luật nầy thuộc về những luật vô h́nh, ta không thấy được, không mó được th́ phải làm sao bây giờ. Thật vậy, ta chỉ thấy những hậu quả rồi suy ra nguyên nhân, chớ kỳ thật có nhiều việc ta không biết nguyên nhân xảy ra hồi nào mà cái hậu quả ngày nay như thế đó. Nhưng quí bạn chớ lo. Tạo công vô cùng khéo léo. Ngài sanh ra xác thân có ngũ quan đặng tiếp xúc với những việc xảy ra ở cơi trần th́ Ngài cũng cho ta những quan khác để học hỏi những luật đó. Những quan nầy ở trong những thể khác hơn xác thân.

 

NHỮNG THỂ CỦA CON NGƯỜI

hay là

NHỮNG DỤNG CỤ ĐỂ HỌC HỎI CƠ TRỜI

 

Những thể đó là:

1.- Xác thân (Corps physique),

2.- Phách (Corps éthérique),

3.- Vía (Corps astral),

4.- Hạ trí (Corps mental inférieur),

5.- Thượng trí hay là Nhân thể

      (Corps mental supérieur ou corps causal),

6.- Kim thân (Corps bouddhique),

7.- Tiên thể (Corps atmique),

                 Bảy thể nầy xỏ rế với nhau.    

Cái phách ở trong ḿnh ló ra ngoài xác thân lối năm ly và chiếu ra những làn sáng lối một tấc.

Cái vía cũng ở trong ḿnh và ló ra ngoài xác thân, bực trung lối bốn tấc rưởi, v.v. . .

Càng tiến hóa th́ trừ Xác thân và cái Phách ra, cái Vía, Hạ trí, Thượng trí, Kim thân, Tiên thể cáng ngày càng nở lớn ra. Người ta nói hào quang của Đức Phật khi xưa tủa ra tới tám ngàn thước và hiện giờ hào quang của Đức Ngọc Đế bao trùm quả Địa cầu nầy.

Trong chu kỳ tiến hóa nầy, ngoại trừ một số rất ít đệ tử được ba lần điểm đạo dùng được Thượng trí trọn vẹn th́ hết thảy bốn ngàn triệu linh hồn mới dùng được một phần của Hạ trí và Thượng trí, c̣n Kim thân và Tiên thể chỉ là một đám sương mù chưa có h́nh dạng.

 

BẢY CƠI CỦA THÁI DƯƠNG HỆ CHÚNG TA

 

Tại sao con người có tới bảy thể? Bởi v́ chung quanh ta c̣n nhiều cơi mà ta không thấy và không biết ra sao. Không có mấy thể đó th́ ta không thể nào học hỏi mấy cơi nầy được.

Mấy cơi nầy là:

1.- Cơi Hạ giới hay Phàm trần (Plan Physique) là Thế giới hoạt động,

2.- Cơi Trung giới (Plan Astral) là Thế giới t́nh cảm hay là Dục giới,

3.- Cơi Thượng giới (Plan Mental) là Thế giới tư tưởng hay là cơi Trí tuệ,

4.- Cơi Bồ Đề (Plan Bouddhique) là Thế giới Trực giác,

5.- Cơi Niết Bàn (Plan Atmique ou Nirvana) hay là Thế giới Thiêng liêng,

6.- Cơi Đại Niết Bàn (Plan Anupadaka ou Paranirvana) là Thế giới Đại Thiêng liêng,

7.- Cơi Tối Đại Niết Bàn (Plan Adi ou Mahaparanirvana) là Thế giới Tối Đại Thiêng liêng.

Bảy cơi nầy đều ở một chỗ với nhau và trước mắt ta đây, nhưng ta không thấy là tại ta chưa mở được những quan gọi là Thần nhăn, Thiên nhăn, Huệ nhăn [4].

Muốn hiểu rơ tại sao bảy cơi ở chung một chỗ với nhau được, xin quí bạn đọc kỹ mấy lời giải sau đây:

Mỗi cơi đều làm bằng một khí căn bản, bảy cơi th́ có bảy chất.

Xin gọi tên bảy chất khí căn bản đó như sau:

1.- Chất khí làm cơi Hạ giới là Hồng trần.

2.- Chất khí làm cơi Trung giới là Thanh khí.

3.- Chất khí làm cơi Thượng giới là Thượng Thanh khí.

4.- Chất khí làm cơi Bồ Đề là Thái Thanh khí.

5.- Chất khí làm cơi Niết Bàn là Âm Dương khí.

6.- Chất khí làm cơi Đại Niết Bàn là Linh khí.

7.- Chất khí làm cơi Tối Đại Niết Bàn là Nguơn khí.

Bảy chất khi căn bản ấy do một gốc mà ra, gốc đó là Hỗn Nguơn Nhất khí (Mulaprakriti).

Nguyên tắc chung là như thế nầy: Chất khí ở cảnh cao chừng nào th́ màu sắc đẹp đẽ, mịn màng và rung động mau lẹ hơn những chất khí ở mấy cảnh thấp hơn nó chừng nấy và chun ngang qua mấy chất khí nầy nữa. Chất khí ở mấy cảnh thấp hơn rung động chậm chạp và màu sắc rất tối. V́ mấy lẽ trên đây chất Thanh khí chun qua chất Hồng trần. Chất Thượng Thanh khí chun qua chất Thanh khí và chất Hồng trần. Chất Thái Thanh khí, chất Thanh khí và Hồng trần v.v. . .

Thế nên nhân vật ở Trung giới cũng như hồn ma đi qua đi lại ngang ḿnh chúng ta luôn luôn ngày đêm mà chúng ta không hay biết, mà họ cũng không thấy chúng ta ra sao. Họ cũng không ngờ có chúng ta nữa.

Tôi tưởng cũng phải nói thêm, mỗi cơi chia ra bảy cảnh. Như tại cơi Trần ḿnh đây chất đặc, như cát; chất lỏng, như nước và chất hơi, như không khí; mỗi cảnh đều ở riêng. C̣n bốn cảnh nữa, làm bằng bốn chất tinh khí hay là dĩ thái (éther).

Cơi Thượng giới chia ra làm hai:

Bốn cảnh thấp: Cảnh thứ bảy, cảnh thứ sáu, cảnh thứ năm, cảnh thứ tư gọi là cơi Hạ thiên (Ciel Inférieur ou Monde Roupa).

Nơi đây tư tưởng c̣n có h́nh dạng.

Ba cảnh cao: Cảnh thứ ba, cảnh thứ nh́, cảnh thứ nhứt gọi là cơi Thượng thiên (Ciel Supérieur ou Monde Aroupa).

Nơi đây tư tưởng xẹt ra từng lằn chớ không có h́nh dạng nữa.

Tại sao cơi thứ năm bắt trên kể xuống gọi là Thượng giới?

Bởi v́ bảy cơi trời chia ra làm khu vực:

A.- Khu vực thứ nhứt gồm:

1.- Cơi Tối Đại Niết Bàn

2.- Cơi Đại Niết Bàn (là chỗ Thượng Đế ngự. Nó cũng là trường tấn hóa của các vị được từ sáu lần điểm đạo sắp lên).

B.- Khu vực thứ nh́ gồm:

3.- Cơi Niết Bàn

4.- Cơi Bồ Đề

5.- Cơi Thượng thiên (3 cảnh cao) cơi Thượng giới là trường tấn hóa của những vị được danh đề Tiên tịch (từ một lần điểm đạo cho tới năm lần).

C. – Khu vực thứ ba gồm:

6.- Cơi Hạ thiên (4 cảnh thấp) cơi Thượng giới,

7.- Cơi Trung giới,

8.- Cơi Hạ giới là trường tấn hóa của người thường và các loài thú vật, thảo mộc, kim thạch và các tinh chất. Tôi gọi cơi thứ năm là Thượng giới v́ nó là cơi cao hơn hết mà người phàm lên được.

 

BẢY CƠI CỦA KHÔNG GIAN

 

Trên không gian cũng có bảy cơi:

Tối Đại Niết Bàn – Đại Niết Bàn – Niết Bàn – Bồ Đề - Thượng giới – Trung giới và Hạ giới hay Hồng trần như bảy cơi của Thái dương hệ của ḿnh đây, nhưng chúng nó cao hơn nhiều và mặc dầu có liên lạc với bảy cơi trời của ḿnh.

 

PHẬN SỰ CỦA BẢY THỂ

 

Bây giờ ta phải biết phận sự của bảy thể th́ mới thấy sự ích lợi của chúng nó là thế nào.

1.- Xác thân làm bằng ba chất khí thấp của cơi trần: chất đặc, chất lỏng và chất hơi. Nó để giúp ta hành động trên mặt địa cầu. Nó có một quan là mắt để xem xét.

2.- Phách làm bằng bốn chất dĩ thái. Nó có hai phận sự:

(a) Rút sanh lực vô ḿnh [5] đặng nuôi các tế bào và làm tiêu hóa vật thực. Nó màu xám xanh hay màu xám tím.

(b) Nó làm một cái cầu bắc cho cái Vía thông đồng với xác thịt. Nó đem cho cái Vía những sự nhận thức của ngũ quan xác thịt đặng cái Vía làm ra những cảm giác, và truyền qua cho cái óc và bộ thần kinh hệ những sự nhận thức của cái Vía, cái Trí, Thượng trí v.v. . .

Nó dính với xác thịt nhờ một sợi từ điển. Khi con người thác, sợi dây từ điển nầy đứt, nó ĺa khỏi xác, sanh lực vô ḿnh không đặng nữa. Các tế bào khởi sự ră ra lần lần, và một ít lâu nó cũng tan ra dĩ thái. Nó có một luân xa, mở ra rồi th́ thấy được bốn cảnh dĩ thái; ấy là Minh nhăn.

3.- Cái Vía làm bằng bảy chất Thanh khí nên có thể biểu lộ đủ hết các thứ t́nh cảm, từ thứ thật cao thượng cho đến thứ thật đê hèn.

Nó có một luân xa khi mở ra trọn vẹn th́ thấy được cơi Trung giới và dân sự tại đó. Quan nầy gọi là Thần nhăn.

4.- Hạ trí làm bằng bốn chất Thượng Thanh khí thấp, chất thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy. Nó để sanh những tư tưởng cụ thể, hữu h́nh và để ghi nhớ, tưởng tượng, phân biệt, xét đoán, học hỏi. Nó có một luân xa mở ra rồi th́ thấy được cơi Hạ thiên. Ấy là Hạ thiên nhăn.

5.- Thượng trí làm bằng ba chất Thương Thanh khí cao: chất thứ ba, chất thứ nh́ và chất thứ nhứt. Nó để sanh ra những tư tưởng trừu tượng, vô h́nh. Gọi nó là Nhân thể, v́ nó chứa đựng tinh hoa những sự học hỏi và kinh nghiệm của con người từ đời nầy qua đời kia bằng những lằn rung động ghi vào hột nguyên tử trường tồn, cũng như đĩa hát máy, và những tinh hoa nầy là những nguyên nhân sẽ sanh ra những hậu quả.

Nó có một luân xa, mở ra rồi thấy được cơi Thượng thiên. Ấy là Thượng thiên nhăn.

6.- Kim thân làm bằng bảy chất Thái Thanh khí. Nó là thể Bác ái và Trực giác một lượt.

Nó có một luân xa, mở ra được th́ thấy được cơi Bồ Đề. Ấy là Huệ nhăn.

7.- Tiên thể làm bằng bảy chất Âm Dương khí. Nó là thể Thiêng liêng và Hiệp đồng. Dùng nó được mới biết “Vạn vật nhứt thể”, ḿnh với vạn vật là một. Nó có một luân xa, mở ra rồi th́ thấy cơi Niết Bàn. Xin gọi là Huệ nhăn luôn thể.  

C̣n hai thể dùng ở cơi Tối Đại Niết Bàn và Đại Niết Bàn phải tới bực La Hán sắp lên mới hiểu rơ.

Nói tóm lại:

Các Xác và cái Phách thuộc về cơi Trần, cái Vía thuộc về cơi Trung giới.

Hạ trí và Thượng trí thuộc về cơi Thượng giới. Kim thân thuộc về cơi Bồ Đề. Tiên thể thuộc về cơi Niết Bàn.

Không có cái Phách sanh lực vô ḿnh không được, xác thân tan ră.

Không có cái Vía, con người không biết cảm xúc và không thể đi đứng và học hỏi ở cơi Trung giới.

Không có Hạ trí, con người không thể suy nghĩ, tưởng tượng, phân biện, xét đoán, nhớ nhung và không thể vô ra cơi Hạ thiên đặng học hỏi.

Không có Thượng trí, con người không thể suy nghĩ những việc siêu phàm, những việc cao xa, trừu tượng và không thể ghi nhớ những sự đă học và kinh nghiệm mấy kiếp trước mà cũng không vào ra cơi Thượng thiên đặng học hỏi.

Không có Kim thân, con người không thể mở ḷng bác ái, không dùng được trực giác và cũng không biết cơi Bồ Đề ra sao.

Không có Tiên thể, con người không thể nào nhập vào cơi Niết Bàn được.

Bảy thể nầy chia ra làm hai loại:

a)    Những thể hư hoại và

b)    Những thể trường tồn.

A.- NHỮNG THỂ HƯ HOẠI

Bốn thể thấp:

Xác

Phách

Vía

Trí

là những thể hư hoại. Chúng nó để dùng trong một kiếp mà thôi. Sau khi con người thác rồi một ít lâu th́ chúng nó đều tan ră. Kiếp sau khi trở xuống cơi trần đầu thai lại một lần nữa th́ con người có bốn thể mới khác; nhưng chúng nó đồng bản tánh với bốn thể nầy, hoặc tinh vi hơn hoặc thô kịch hơn đây là tùy theo luật “Nhân quả báo ứng” chớ không có chi là lạ.

B.- BA THỂ TRƯỜNG TỒN

Ba thể Trường tồn là: Thượng trí, Kim thân và Tiên thể. Chúng nó c̣n măi và theo con người từ đời nầy qua đời kia không mắc vào ṿng sanh tử luân hồi.

 

NHỮNG THỂ CỦA TA DÙNG THƯỜNG NGÀY

Những thể là những kẻ tùy tùng trời ban cho ta để giúp ta trong công việc hằng ngày.

Có bốn thể mà ta thường dùng trong mỗi giờ, mỗi phút ấy là:

a)    Xác thân

b)    Phách

c)     Vía

d)    Hạ trí

C̣n Thượng trí và Kim thân th́ ít khi dùng tới. Mỗi lần ta tư tưởng th́ ta dùng cái Trí, cảm xúc th́ dùng cái Vía, hoạt động th́ dùng cái Xác. Nhưng cách nầy khác hơn cách dùng cái Vía hay cái Trí làm một thể riêng, đi đứng, chuyện văn hoặc làm công việc trên cơi Trung giới hay cơi Thượng giới cũng như ḿnh đương sống ở đây vậy.

Thí dụ: Lúc ḿnh ngủ, ḿnh bỏ cái Phách ở trên giường với xác thịt, rồi ở trong cái Vía qua cơi Trung giới, chừng về nhập xác th́ thức dậy.

Có phương pháp luyện tập, lúc thức dậy muốn ĺa khỏi xác rồi ở trong cái Vía qua cơi Trung giới dạo chơi hay hoạt động giờ nào cũng được. Phép đó gọi là xuất thần hay xuất vía tiếng Pháp là Dédoublement personnel, sortie en astral, voyage en astral . . .

Nhưng chớ nên ham, nó nguy hiểm lắm, một khi tấm ḷng chưa được trong sạch và chưa được Chơn sư hay là một vị Cao đồ của Chơn sư d́u dắt.

 

TẠI SAO GỌI CON NGƯỜI LÀ TIỂU THIÊN ĐỊA

Bây giờ ḿnh mới rơ hồi xưa nói “Con người là Tiểu Thiên Địa” rất đúng, v́ lẽ trong thân ḿnh con người có đủ những chất khí tạo lập vũ trụ; nhưng con người c̣n giống Đức Thượng Đế v́ lẽ khác là con người cũng phân làm ba ngôi như Ngài vậy.

Ba ngôi của Đức Thượng Đế là:

1.- Ngôi thứ nhứt – Brahma  – Dieu, le Père – Đức Chúa Cha.

2.- Ngôi thứ nh́ – Vishnou – Dieu, le Fils – Đức Chúa Con.

3.- Ngôi thứ ba – Shiva – Dieu, le Saint Esprit – Đức Chúa Thánh Thần

 

BA NGÔI CỦA CON NGƯỜI

1.- Ngôi thứ nhứt – Chơn thần – Monade – Esprit

2.- Ngôi thứ nh́ – Chơn nhơn – Ego-Individualité – Soi Supérieur

3.- Ngôi thứ ba – Phàm nhơn – Personnalité, Soi inférieur.

Tại sao con người chia làm ba ngôi?

Chơn thần ở tại cơi Đại Niết Bàn; càng xuống thấp, khí càng thấp Chơn thần hoạt động không được dễ dàng nên mới sanh ra Chơn nhơn thế cho ḿnh đặng kinh nghiệm từ cơi Niết Bàn, Bồ Đề cho tới Thượng thiên (ba cảnh cao Thượng giới). Những học hỏi của Chơn nhơn sau dâng cho Chơn thần.

Chơn nhơn cũng khó xuống thấp, nên sanh ra Phàm nhơn đặng hoạt động từ cơi Hạ thiên xuống tới cơi Trần. Tinh hoa những sự kinh nghiệm mỗi kiếp của Phàm nhơn đều giao lại cho Chơn nhơn. Chơn nhơn có sự sinh hoạt riêng. Giữa Chơn thần và Chơn nhơn, giữa Chơn nhơn và Phàm nhơn đều có dây liên lạc với nhau. Nhưng hầu hết trong nhơn loại hiện kim, đường thông thương giữa Chơn nhơn và Phàm nhơn bị bít hết chín phần mười bởi những tư tưởng và những ư muốn quấy quá, không khác nào một con đường bị gai góc mọc cao nghều nghệu, khó bề lui tới. Vậy ta có bổn phận mở đường thông thương giữa Chơn nhơn và Phàm nhơn đặng cho Chơn nhơn dễ bề điều khiển Phàm nhơn theo chiều hướng của cơ tiến hóa.

NÓI TÓM LẠI: Chơn thần là một điểm linh quang của Thượng Đế, Chơn nhơn là một phân thân của Chơn thần.

C̣n Phàm nhơn là một phân thân của Chơn nhơn. Trong ḿnh con người có đủ âm dương, tinh thần và vật chất, và cũng chia làm ba ngôi như Thượng Đế, nên gọi con người là Tiểu Thiên Địa rất đúng.

 

AI GÂY RA TỘI LỖI?

Con người sanh ra ở cơi trần th́ sự lầm lạc là lẽ tự nhiên. Nhưng đó là lúc đi đầu thai làm người mới có cả trăm kiếp. Tới ngày nay con người đă trải qua muôn kiếp luân hồi rồi, th́ đáng lẽ phải khôn ngoan hơn, không c̣n gây tội lỗi nhiều nữa và phải tiến hóa rất mau. Nhưng tại sao ḷng dạ con người không được tốt đẹp như ư trời đă muốn. Ta hăy t́m ra nguyên nhân th́ sự sửa chữa mới có hiệu quả, cũng như muốn trị bịnh phải trị tận gốc. Bịnh nào thuộc về vật chất th́ nên trị bằng thuốc vật chất, bịnh nào thuộc về tinh thần th́ phải trị bằng thuốc tinh thần, th́ mới mong tiêu trừ nghiệp chướng.

Vậy th́ ai gây ra tội lỗi đây?

Ấy là ba thể Thân, Vía, Trí của chúng ta.

Mới nghe qua chắc quí bạn lấy làm lạ lắm, song đây là sự thật một trăm phần trăm.

Muốn biết tại sao thế, th́ ta nên hiểu tánh nết của ba thể Thân, Vía, Trí.

Những thể của ta làm bằng những tế bào. Sống lẻ loi một ḿnh th́ các tế bào đều cô lập. Trái lại khi hiệp làm một thân ḿnh th́ chúng nó có một sự sống chung và một ư muốn chung; ư muốn của chúng nó làm ra những tánh nết của chúng nó.

 

1.- TÁNH NẾT CỦA XÁC THỊT

Xác thịt vẫn biếng nhác, ưa lánh nặng t́m nhẹ. Nó chịu ở không cả ngày chẳng động đến móng tay, và thích nhất chơi bời, ngủ nghê và món ngon vật lạ. Khi có một việc làm đặng giúp người th́ nó viện đủ lẽ để thối thác. Nó nói nó mệt nhọc hoặc bận việc chi đó, nó muốn ai làm thế cho nó để nó thong thả.

 

2.- TÁNH NẾT CÁI VÍA

Cái Vía có nhiều sự ham muốn ước ao, tính ra không biết mấy chục. Nó giục con người nóng nảy quạo quọ, giận hờn, oán ghét, thô lỗ, cộc cằn, mắng nhiếc, chê bai, tham lam, ích kỷ, nói vu, nói hành, đắm mê vật dục, bày mưu kế hại người đoạt của, ngă ḷng, nản chí, v.v. . .

Không phải nó muốn làm hại con người, song tại nó ưa thích những sự rung động dữ dội và thay đổi liền liền. Nó không thích những sự rung động nhẹ nhàng, nó không biết mấy tánh tốt như từ bi, bác ái, hy sinh, can đảm là làm sao v.v. . .

 

3.- TÁNH NẾT CÁI TRÍ

Cái Trí xao động không ngớt. Nó tưởng cái nầy rồi tưởng cái kia liền liền. Nó không chịu định vào một chỗ nào cho lâu. Nó giống con khỉ ở trên cây, buông nhánh nầy rồi bắt nhánh kia. Nó rất kiêu căng tự phụ, cho ai cũng dở hơn nó, thua nó . . . Nó cao hơn thiên hạ, làm cái ǵ cũng được. Nó chia rẽ “Người” với “Ta”. Nó chê bai những việc của người khác làm, nó chỉ khen những điều của nó tính toán là giỏi thôi.

Trong quyển “Tiếng nói của tâm hồn” hay là “Tiếng nói vô thinh” (La voix du Silence) chương thứ ba có dạy như vầy: “Cái Trí là kẻ diệt phá sự chơn thật lớn lao. Đệ tử hăy trừ khử kẻ phá hoại đó đi”.

 

TAM BÀNH LỤC TẶC LÀ CHI?

 

Thường ta thường nói, người tu hành thường bị “Tam bành lục tặc” phá.

Hiểu mấy lẽ trên đây rồi chúng ta thấy “Tam bành lục tặc” là tánh nết của ba thể: Thân, Vía, Trí chớ không có chi lạ. Tam độc Tham, sân, si cũng là ư muốn của cái Vía hiệp với cái Trí rồi bắt buộc con người làm theo.

Trong lúc ta ngồi yên chẳng tưởng cái chi cả thì nghe trong ḷng tiếng nói, nhắc nhở chúng ta chuyện nầy, chuyện kia đă qua rồi, hoặc lo lắng việc sẽ tới [6]. Bây giờ ta mới phân biệt “Ta” và tiếng nói đó. Tiếng nói đó không phải là Ta, nó là cái Trí giục ta làm những điều nó ưa thích. Những người mới tập tham thiền, đều biết lúc ban sơ khi mới ngồi th́ bắt ngáp, bắt ngứa ngáy chỗ nầy chỗ kia, nhứt là trên mặt, sau lưng, hoặc tưởng một hai phút rồi nhớ Đông nhớ Tây, quên phức vấn đề đang suy nghĩ đây. Chừng giựt ḿnh mới biết ḿnh đă đi lạc đường, trở lại lối cũ th́ đă mất hết một hai phút, tư tưởng đă gián đoạn rồi. Đây là cái Trí đă phá ta. Khi ta bắt nó chăm chỉ vào một việc trong vài phút th́ nó bực tức lắm, nó kiếm thế thoát ra. Nếu ta ơ hờ th́ nó gạt ta được. Phải kềm chế nó luôn luôn cho tới khi nào nó ngoan ngoăn vâng lời ta. Nói đến đây tôi mới nhớ lại bộ truyện Tây Du. Hồi nhỏ tôi rất thích tài phép của Tề Thiên Đại Thánh lắm.

Chừng lớn lên học đạo rồi mới biết lúc c̣n thơ ḿnh tin dị đoan chớ bộ truyện Tây Du tức là thân ḿnh ta đây.

Tam Tạng là Chơn nhơn.

Chơn nhơn có ba đồ đệ: Tề thiên tức là h́nh bóng cái Trí.

Bát Giái tức là h́nh bóng cái Vía.

Sa Tăng tức là h́nh bóng xác thân.

Kim Cô tức là phép định trí. Tam Tạng niệm chú cẩn cô tức là ngồi nhập định không cho cái trí lao chao nên nó bức rức lắm. Thầy của Ngộ Không là Ông Cụ Bồ Đề Tổ Sư. Bồ Đề Tổ Sư là h́nh bóng của Đức Minh Tríêt và Trực giác. Cái Trí cần phải có Đức Minh Triết và Trực giác d́u dắt mới khôn ngoan sáng suốt.

Như ư bổng là sức tưởng tượng của cái trí. Cái trí tưởng cái chi th́ cái đó có trước mặt. Quả thật đời Đường Thái Tông có một nhà sư tên Trần huyền Trang qua Thiên trước thỉnh kinh . . . Ngài chịu nhiều nỗi gian lao khổ cực. Ngài trở về Trung nguyên vào đầu mùa xuân năm 645 đem theo 525 bộ kinh Phật bằng lá buông gồm các thứ kinh của Ba Tạng: Kinh, Luật, Luận.

Ngài tịch tại chùa Hồng Phước, nếu tôi nhớ không lầm lúc đó Ngài được 65 tuổi. Ngài có viết quyển Tây du kư. Quyển nầy có dịch ra tiếng Pháp. Quí bạn muốn hiểu thêm xin đọc hai quyển nầy: “Sur les traces du Bouddha” par Réné Grousset và “Voyage d’un pellerin chinois dans l’inde des Bouddhas” par Henri Vatentino.

Có nhiều bộ truyện Tàu nói bóng dáng về sự luyện đạo, nếu tin theo nghĩa từ chữ mà làm th́ thường mang tai họa. Phải đề pḥng cho lắm.

 

TẠI SAO CON NGƯỜI PHẠM TỘI?

Ta biết rằng ba thể của ta gây ra tội lỗi chớ không phải Ta, nhưng tại sao Ta lại làm mấy việc đó, đây là điều mà ai ai cũng muốn biết. Ấy là tại ta đồng hóa với ba thể: Thân, Vía, Trí.

Ta tưởng Xác thân là Ta;

                Cái Vía là Ta;

                Cái Trí là Ta.

Chúng ta thường nói: “Tôi ăn, tôi uống, tôi đi làm việc, tôi muốn, tôi tưởng” nhưng sự thật là:

Xác thân ta ăn, xác thân ta uống, xác thân ta đi, xác thân ta làm việc. Và trong một trăm lần, hầu hết chín mươi tám lần, cái Vía muốn, cái Trí tưởng.

C̣n ta muốn và tưởng có hai lần.

Ba thể nầy thường ham muốn quấy quá, chúng nó giục con người lầm là ḿnh muốn, đặng làm cho chúng nó được thỏa thích.

Hiện giờ ta tỉnh hay mê đây? Ta phải công nhận là trong 24 giờ ta mê hết 23 giờ rưởi chỉ tỉnh có nửa giờ, mà nửa giờ nầy chia ra làm nhiều lần, mỗi lần vài phút, chớ không phải là tỉnh luôn 30 phút trọn vẹn.

Ta hăy suy nghĩ một điều nầy th́ rơ:

Một việc xảy đến cho ta, tức th́ có sự phản động liền. Mà ai phản động đây? Có phải là ta chăng? Trong một trăm lần chắc chắn dám chắc hết chín mươi chín lần do sự phản động của ba thể: Thân, Vía, Trí chớ không phải là ta đâu.

Chúng tự động như chớp nhoáng rồi bắt buộc Ta làm theo ư chúng.

Thường thường ta ngoan ngoăn vâng theo v́ Ta lầm ư chúng là ư Ta; có khi ta cũng sửa đổi được, nhưng một chút đỉnh mà thôi, và đó là một điều rất hiếm có.

Thế nên, mới có sự ăn năn hối hận và ta phải luân hồi đặng đền bồi tội lỗi đă mang. Bởi ta chưa dùng được trực giác nên ta không biết hậu quả những tư tưởng, ư muốn, lời nói và việc làm của Ta gây ra cho Ta và cho đời. Trong đạo đức gọi là chưa Minh tâm, Kiến tánh; nói một cách khác, ta chưa thức tỉnh trong tư tưởng, ư muốn, lới nói và việc làm. Ta c̣n mê muội tối tăm mà ta không dè. Ta bị cái Trí, cái Vía và Xác thân lôi cuốn, ta c̣n ở dưới quyền sai khiến của chúng mà ta hiu hiu tự đắc rằng ta giỏi, ta khéo, ta hay, nhưng mà chung cuộc ta bị buộc vào bánh xe luân hồi măi.

 

CHƯƠNG THỨ NH̀

mục lục đầu sách cuối sách chương 1 chương 2 chương 3

 

 

TA PHẢI TỰ THỨC TỈNH CÁCH NÀO?

 

Phật bảo “Tự giác nhi giác tha”, ta phải khai sáng cho ta trước, rồi ta mới khai sáng cho đời sau, ta chưa sáng suốt mà tự phụ ra dạy đời th́ không khác nào người mù dắt kẻ đui, có bữa cả hai đều sa hầm sụp hố.

Muốn tự thức tỉnh, trước nhứt phải tinh luyện ba thể: Thân, Vía, Trí.

 

TẠI SAO PHẢI TINH LUYỆN BA THỂ: THÂN, VÍA, TRÍ

Ta đă thấy muôn vàn tội lỗi đều do ba thể: Thân, Vía, Trí gây ra. Vậy th́ muốn tránh các điều ác và làm các điều thiện th́ ta phải luyện tập chúng nó theo mạng lịnh của Chơn nhơn. Đó gọi là tự chủ hay tinh luyện ba thể. Sự tinh luyện ba thể c̣n có sự hữu ích khác nữa là: ta dùng chúng nó đặng học hỏi các cơi trời dễ dàng, ta tiến hóa rất mau lẹ.

Về điều nầy phải lấy khoa học cắt nghĩa, quí bạn mới thấy rơ:

Chung quanh chúng ta, mọi vật đều rung động, cái nầy khác cái kia là tại cái nầy rung động mau, cái kia rung động chậm; hoặc trái lại, chớ không có chi lạ. Từ 32 lần rung động trong một giây đồng hồ cho tới 32.768 lần th́ lỗ tai ta nghe được. Trên số đó hay dưới số đó th́ ta hết nghe. Con mắt con người thấy ánh sáng khi nó rung động 35.184.372.088.832 lần trong một giây. Trên số đó hay dưới số đó th́ không thấy. Biết như vậy ta mới hiểu tại mấy chất khí làm những cơi Trung giới, Thượng giới v.v. . . rung động mau quá nên con mắt ta không đáp ứng được cho nên không thấy mấy cơi đó chớ không có chi là huyền bí.

Bây giờ xin lấy một thí dụ khác. Hai vật rung động đồng bực với nhau th́ cảm thông với nhau được. Cũng như hai cây đờn lên dây đồng bực với nhau rồi, khảy một cây th́ dây của cây đờn kia cũng rung động vậy.

Quí bạn có chơi máy thu thanh th́ biết, khi quí bạn bắt đúng chỗ 31 thước th́ tự nhiên thâu được những làn sóng điện 31 thước đánh ra. Nhưng c̣n vấn đề nầy rất quan trọng là: âm thanh thâu nghe được rơ ràng, trong trẻo hay không là do những bộ phận của cái máy thâu thanh tinh xảo nhiều hay ít, chín mười đèn hay bốn năm đèn và có nhiều hay ít bộ phận lọc v.v. . .

Xác thân ta là cái máy biến điện, các cơ thể đều do những nguyên tử cấu thành. Đem phân tách những nguyên tử th́ người ta thấy:

1.- Chính giữa là một cái Hột hay là Nhân (noyau).

      Nhân gồm: (a) những Dương tử (protons)

                   và (b) những Trung ḥa tử (neutrons)

2.- Chung quanh Nhân là những hột điển âm, Âm điện tử (Electrons) xây tṛn không khác nào những hành tinh xây chung quanh mặt trời.

Nếu ta biết cách biến đổi Xác thân, cái Vía và cái Trí ta ra những máy thâu được những làn sóng Hồng trần, những làn sóng T́nh cảm và những làn sóng Tư tưởng th́ ta ngồi một chỗ có thể hiểu được những cách ăn mặc, vận động, ư muốn và tư tưởng của hết thảy tất cả các hạng người trong bốn ngàn triệu linh hồn trên thế gian. Chẳng phải thế mà thôi, ta c̣n thâu được những làn rung động trên mấy cơi Trung giới, Thượng giới tức là ta hiểu được cách sanh hoạt trên mấy cơi đó và cách cấu tạo chúng nó nữa.

Không nói ra tưởng các bạn cũng biết các nhà khoa học đời nay cần dùng những khí cụ đặng giúp sức cho giác quan nhứt là thị giác. Hễ khí cụ tinh xảo chừng nào th́ sự khảo xét của các Ngài được đích xác và tinh tường chừng nấy. Ta có thể nói: “Sự tiến triển của khoa học hiện thời lệ thuộc sự hoàn hảo của khí cụ và phương pháp tối tân, nghĩa là khí cụ tinh xảo và phương pháp tối tân bao nhiêu th́ khoa học tiến triển bấy nhiêu”.

Ông Plotin cũng có nói như vầy trong bài tự ngôn cuốn “L’ornement des noces spirituellesde Ruysbroeck, l’Admirable” trương 20: “Trước hết phải làm cho cơ quan của thị giác giống in như vật nó phải chiêm vọng. Không khi nào con mắt thấy được  mặt trời nếu trước hết nó không thấy h́nh dạng của mặt trời; cũng thế ấy linh hồn không hề thấy được diễm sắc nếu trước hết nó không trở nên tốt đẹp và thiêng liêng mới thấy được sự tốt đẹp và Đức Thượng Đế”.

 

PHƯƠNG PHÁP TINH LUYỆN BA THỂ: THÂN, VÍA, TRÍ

 

Tinh luyện ba thể là bước đầu của phương pháp gọi là Hiệp thiên đạo dẫn, tiếng Thiên trước gọi là Dô Ga (Yoga: Union à Dieu). Hiệp thiên đạo dẫn cũng có nghĩa là thăng bằng nữa (Equilibre). Ta phải hiệp với Đức Thượng Đế ở trong ḿnh ta, ta mới biết được Đức Thượng Đế ở ngoài, mà Đức Thượng Đế ở trong ḿnh ta là Chơn thần vậy.

Những người luyện phép Hiệp thiên dẫn đạo tới mức hoàn thiện thành những vị siêu phàm ḿnh gọi là Tiên, là Phật.

 

1.- TINH LUYỆN XÁC THÂN

Xác thân không khác nào con ngựa của ta cỡi để đưa ta đi một khoảng đường đời. Ta phải chăm nom nó cho đúng phép vệ sinh th́ mới mong nó giúp ích cho ta được lâu dài.

Theo luật tiến hóa, h́nh dạng nào không phát triển theo cho kịp với linh hồn ở trong th́ linh hồn phải bỏ nó đặng lấy h́nh dạng mới khác hợp với tŕnh độ của ḿnh. Biết như thế ta có bổn phận phải luyện cho nó trở nên tinh khiết, nhứt là khối óc và bộ thần kinh cho được mảnh mai.

Xác thân cũng là một ḷ tạo hóa chứa không biết bao nhiêu sự bí mật mà con người chưa khám phá ra hết.

Sự sanh hóa tinh trùng, sự kết hợp tinh trùng với noăn bào làm ra một người da đen hay da đỏ, da trắng hay da vàng; mặt mũi ngộ nghĩnh hay xấu xa, khôn ngoan hay đần độn, hiền lương hay hung dữ toàn là những vấn đề mà đời nay chưa có thể giải quyết cho đúng với sự thật.

Phép tinh luyện xác thân gồm có hai điểm sau đây:

1.- Chọn lựa thực phẩm.

2.- Có tiết độ.

 

A.- CHỌN LỰA THỰC PHẨM

Ta biết rằng đồ ăn làm ra máu huyết, xương thịt, gân cốt. Sự tinh khiết của máu huyết tùy thuộc sự tinh khiết của đồ ăn. Đồ ăn trược th́ thân thể sẽ yếu đuối và mắc bịnh hoạn.

Thịt cá có tinh khiết không? Điều nầy quả thật là không rồi. Thịt cá nhiễm từ điển và tánh t́nh của thú vật lại chứa nhiều chất độc hại ngầm. Dùng nó th́ từ điển của nó pha lẫn từ điển của ta, nó thêm sức cho các tánh xấu của ta và cơ thể ta lại mắc bịnh hoạn mà ta không ngờ. Thịt chỉ đường cho các bịnh hiểm nghèo như ung thư, dịch tả, kiết lỵ v.v. . .

 

NHỮNG MÓN ĂN TINH KHIẾT

 

Những món ăn tinh khiết đều lấy trong thảo mộc, ngoại trừ vài thứ như: muối, sữa (sữa ḅ, sữa dê, sữa trừu).

Vẫn có những thứ cây gọi là những “cây Ḅ sữa” cho những sữa thảo mộc, nhưng mà ít ai biết dùng nó và cũng khó kiếm chúng trong thời đại nầy.

 

NHỮNG MÓN ĂN NÊN DÙNG

Nên ăn gạo lức, đường vàng, đường mở gà, đường phèn, đường thẻ, muối đen và các thứ rau trái thường dùng, tóm lại những đồ ăn thuộc về thảo mộc.

Ngày nay người ta bán toàn là gạo trắng xay máy, nó đă mất hết cám là chất bổ dưỡng nhất và chứa nhiều chất cần thiết cho sanh mạng như: sinh tố A – B – D – E – PP và những khoáng chất.

Đường mía hay là đường củ cải lọc cho tới mức trắng tinh th́ không khác nào gạo trắng nhà máy.

 

NÊN TRÁNH

Thuốc lá hại phổi, sanh ra bịnh ung thư và làm cho con người mất nhiều cảm giác tốt đẹp. Thuốc lá và rượu phá hư hai hạch rất quí báu trong đầu là: Hạch mũi (corps pituitaire ou hyphophyse) và Hạch óc (glande pinéale). Hạch nầy để luyện Thần nhăn, Thiên nhăn và chuyển di tư tưởng.

Thuốc phiện và các chất ma túy c̣n nguy hiểm hơn cả muôn lần thuốc lá. Ngoài việc đầu độc xác thân chúng c̣n hại tới cái Phách và cái Vía về phương diện tinh thần nữa.

 

V̀ SAO CHÚNG TA PHẢI TINH LUYỆN XÁC THÂN

Chúng ta phải tinh luyện xác thân v́ một lư do duy nhất và cao cả hơn hết là: Xác thân con người càng ngày càng tiến hóa, càng ngày nó càng trở nên mảnh mai, nhạy cảm và tốt đẹp hơn xưa.

Không đợi so sánh chúng ta với những người thượng cổ, chúng ta chỉ xem qua thân h́nh cùa các giống dân tộc trên mặt địa cầu ngày nay như: da đỏ, da đen, da vàng, da trắng th́ chúng ta thấy sự khác biệt về vẻ đẹp hiện ra rơ ràng. Tuy nhiên, cũng thời thân thể con người nhưng không hề có hai cái xác mà cách cấu tạo các cơ quan đều in hệt nhau. Luôn luôn cách phối hợp các tế bào đặng làm ra những cơ quan của thân h́nh nầy vẫn khác chút đỉnh với cách phối hợp các tế bào đặng làm ra những cơ quan của thân h́nh kia.

V́ vậy mới có những loại máu huyết khác nhau và những màu da không giống nhau. Đây là sự bí mật của Tạo công mà con người chưa khám phá ta được.

Xác thân càng tinh tấn th́ nó càng thâu nhận được những làn sóng rung động mau lẹ từ những cơi cao đưa xuống; nhờ thế mà ta càng mau sáng suốt và càng mau tiến tới mục đích của Trời đă định sẵn cho con người.

Nếu ta làm cho nó nặng nề với rượu thịt và khói thuốc th́ ta làm nghịch với ḷng Trời. Ta không tuân theo Thiên mạng và ta tự hại ḿnh nữa v́ ta mang nhiều thứ bịnh hoạn mà ta có thể tránh.

Ngày nay ai ai nghe nói tới vi trùng cũng “rùn ḿnh mọc ốc”, nhưng thật ra nếu ta suy nghĩ một chút th́ ta thấy rằng: “Vi trùng không đáng sợ mà đáng sợ là chỗ vi trùng nhập vào”. Nếu máu huyết của ta thật trong sạch th́ bao nhiêu vi trùng vô ḿnh ta đều bị giết chết hết, đâu c̣n sanh sản được đặng phá hại ta.

 

B.- TIẾT ĐỘ

Trong mọi việc không nên thái quá mà cũng không nên bất cập. Phải có tiết độ.

Thức ngủ có giờ giấc, không ngủ quá 8 giờ mỗi ngày (đây nói về người lớn, c̣n trẻ nhỏ phải ngủ nhiều hơn).

Phải vận động thân thể có chừng mực. Đi bộ, cỡi xe máy, cỡi ngựa, bơi lội, tập thể dục đều tốt, nhưng mỗi môn phải thích ứng với tuổi tác và sức khỏe. Không nên làm cái chi quá sức chịu đựng của ḿnh mà phải lănh cái hậu quả rất tai hại về sau.

Giữ bực trung là điều tốt hơn hết, nhứt là phải tránh xa sắc dục. Trong chu kỳ nầy sự giao hiệp của nam nữ là một phương tiện, c̣n mục đích thật của nó là cấu tạo một xác thân để cho một linh hồn nhập vào đặng tiếp tục sự tiến hóa của ḿnh đă bỏ dở kiếp trước, chớ không phải v́ sự khoái lạc của xác thịt.

Trước kia v́ vô minh chúng ta phạm nhiều tội lỗi về đường t́nh ái, ngày nay hiểu rơ luật trời rồi th́ nên tu tỉnh lại tức khắc và tuân theo Thiên mạng.

Tôi không cho đây là một việc dễ làm đâu, tôi biết nó là chuyện cực kỳ khó khăn, nhưng tôi nói rằng nếu có ư chí cương quyết th́ sẽ thành công. Phải tập, dầu là trễ c̣n hơn không làm ǵ hết.

Lạm dụng luật sanh hóa th́ mất nhiều tinh thần và tiêu hao khí lực. Thân thể mau gầy ṃn, tiều tụy, một khi không c̣n đủ sức chịu đựng với thời tiết phong sương th́ sẽ làm mồi cho các bịnh tật và chưa đúng số mà ta đă bỏ ḿnh rồi, nghĩa là con người tự sát.

Nguy hiểm hơn hết là bịnh hoa liểu làm hại xác thân và giảm thọ con người mà nọc độc c̣n di truyền cho ṇi giống tới hai ba thế hệ sau cũng chưa ắt dứt hẳn.

Xưa kia thành Sodome [7] bị lửa trời thiêu đốt chỉ v́ dân chúng quá trụy lạc, buông lung theo thói xa hoa phóng túng, kiêu sa dâm dật, và lấy sự khoái lạc của xác thịt mà làm thú vui.

Xe trước gẫy, xe sau phải tránh, nếu xe sau cứ chạy theo vết xe trước măi th́ e cho cái ngày họa tới bên ḿnh tưởng không c̣n xa đâu.

Dầu cho hối cải cũng mất một thời gian khá lâu, có khi vài ngàn năm mới trở lại mức quân b́nh như trước.

 

II.- TINH LUYỆN CÁI VÍA

Nguyên tắc của nó là: Tưởng điều lành, muốn điều lành, nghe điều lành, thấy điều lành, nói điều lành.

Thế nên: Trước nhứt không nên xem những tranh ảnh, tiểu thuyết và phim có tánh cách khêu gợi dục t́nh, trộm cướp giết người. Trái lại nên đọc truyện ca tụng những đức tánh: từ bi, bác ái, hy sinh, can đảm, khiêm tốn, khoan dung và những truyện cang thường luân lư như: trung, hiếu, tiết, nghĩa, liêm, chánh, thanh, cần. (Quí bạn xem tới chương thứ ba “Luyện tập 12 đức tánh” th́ rơ) và xin ghi nhớ măi điều nầy trong ḷng. “Cái Vía ở dưới quyền sai khiến của cái Trí. Hễ luyện cái Trí cho tinh tấn thanh cao th́ tự nhiên cái Vía sẽ hóa ra tốt đẹp nhẹ nhàng”.

 

III.- TINH LUYỆN CÁI TRÍ

Phương pháp tinh luyện cái Trí gồm ba điểm chánh như sau đây:

1). Định trí

2). Sự chọn lựa tư tưởng

3). Tham thiền.

Nhưng mà Định trí và Tham thiền là hai giai đoạn trong bốn giai đoạn mà Ấn giáo gọi chung bằng một danh từ là Sammyana.

4 giai đoạn của Sammyana là:

1.- Giai đoạn thứ nhứt là Pratyahara = Sự kiểm soát hoàn toàn giác quan

2.- Giai đoạn thứ nh́ là Dharana = Định trí

3.- Giai đoạn thứ ba là Dhyana = Tham thiền

4.- Giai đoạn thứ tư là Samadhi = Đại định.

 

Pratyahara – KiỂm soát hoàn toàn giác quan.

Kiểm soát hoàn toàn giác quan tức là tinh luyện cái Vía. Nếu ta chưa làm chủ nó được th́ trong lúc ta mới vừa ngồi thiền th́ nó đ̣i hỏi ta phải cung cấp cho nó đủ những thứ mà nó cần dùng – nó lôi ta đi bên nầy, rồi nó kéo ta qua bên kia. Ta không ngồi yên được đầu. Dầu ta cố gắng ngồi cho tới 10 giờ đồng hồ cũng vô ích.

Ta nên biết rằng cái Trí điều khiển cái Vía và xác thân được. Thế nên, nếu ta làm chủ được cái Trí rồi th́ những tư tưởng, những ư muốn và những hành động đều ở dưới quyền kiểm soát của ta.

V́ vậy phải tập Định trí trước nhứt. Thành công rồi tham thiền mới có hiệu quả mau lẹ.

Mới bước vào đàng tu niệm mà vội ngồi Thiền liền, tức là chưa chuẩn bị, e cho bước đầu tiên phải vấp té rồi th́ buồn ư ngă ḷng. Tốt hơn là tụng kinh, v́ tụng kinh là một cách định trí và thay đổi tư tưởng của ḿnh ra tốt. Về sau, khỏi cần phải tụng kinh nữa đúng với câu: “Ḷng mê Pháp hoa chuyển”, “Ḷng ngộ chuyển Pháp hoa”. Phải tự biết ḿnh, phải tuần tự tiến và vượt qua những chướng ngại th́ ngày thành công sẽ không c̣n xa đâu.

 

ĐỊNH TRÍ

Muốn mở trí đặng trở nên thông minh th́ phải học hỏi cho rộng sâu, suy nghĩ cho thật lâu và thật nhiều. Những người nào mà cái Trí lao chao th́ rất khó thành công. Không chủ ư th́ làm sao nhớ dai, làm sao hiểu lẹ. Tôi xin đem một ví dụ nầy cho quí bạn xem: Một miếng giấy để ngoài trời, dầu nắng gắt thế mấy nó cũng không hề cháy. Nếu đem để dưới tiêu điểm (foyer) của một tụ quang kính (loupe) trong một hai phút th́ nó phát cháy v́ sức nóng của mặt trời đều gồm vô đó.

Sự định trí cũng như thế. Muốn giải quyết một vấn đề nào th́ phải suy nghĩ về vấn đề đó cả giờ, cả ngày, cả tháng và cả năm nầy qua năm kia, nếu cần. Tới một ngày kia ánh sáng sẽ hiện ra.

Đây là hai bằng chứng cụ thể:

 

1.- Bằng chứng thứ nhứt “ông ARCHIMÈDE”,

Thuở xưa vua Syracuse là Hiéron nghi ngờ cái mũ triều thiên bằng vàng của ngài đặt thợ kim hoàn làm có pha bạc. Ngài bèn bảo ông Archimède suy nghĩ cách nào khám phá sự gian lận đó mà phải để y nguyên cái mũ. Archimède suy nghĩ lâu lắm mà chưa t́m ra giải pháp nào cả. Một bữa kia, ông đương tắm, thấy sao tay chơn ông vô nước th́ mất sức nặng của nó rất nhiều. Ông giơ chơn lên một cách dễ dàng. Trong lúc đó trí hóa ông vụt mở ra sáng suốt, ông t́m ra nguyên lư mà ngày nay học sinh trường Trung học đều biết là “Vật nào thả xuống nước cũng bị một sức đẩy từ dưới lên trên, mạnh bẳng trọng lượng của nước bị đùa trôi”.

Ông mừng quá chạy ra đường quên mặc quần áo, vừa chạy vừa la lên “Eurêka, Eurêka, Tôi t́m được. Tôi t́m được”.

Khi quân Rô manh (Romains) công phá thành Syracuse th́ ông ra tay ngăn chống. Trọn ba năm ông đánh bại đạo quân của Marcellus. Ông bày ra máy bắn tên và đá đi rất xa, và ông bố trí những tấm kiếng cách nào mà thâu được lửa trời đốt cháy chiến thuyền quân nghịch. Nhưng quân Rô manh thừa cơ hăm thành Syracuse. Marcellus ra lịnh không cho ai được xâm phạm đến ḿnh ông. Nhưng than ôi! trong lúc ông đem hết tâm trí vào sự suy nghĩ một vấn đề, ông không hay thành tŕ đă thất thủ. Một tên lính Rô manh không biết ông, thấy ông không trả lời câu hỏi của nó, nó bèn nổi giận đâm ông chết tươi. Thật sự định trí tới mức đó rồi th́ trước mắt không c̣n thấy chi cả và bên tai dầu chiêng trống vang rền cũng không nghe th́ làm sao trả lời cho một câu hỏi tầm thường được. Thấy như vậy ta mới biết, từ xưa đến nay, trong cơn binh lửa, mạng con người như chỉ mành treo chuông, sống thác có thể ở trong tay quân lính.

 

2.- Bằng chứng thứ nh́.

       - Ông THOMAS EDISON (1847-1931)

Ông làm việc năm ngày năm đêm không nghỉ không ngừng mới hoàn thành ống quay bằng sáp của máy hát do ông phát minh.

Ông thí nghiệm 1.200 lần và tốn hết 40 ngàn trương giấy trước khi hoàn thành sự phát minh bóng đèn điện.

Về sự làm những dây trong bóng đèn điện, ông tốn không biết bao nhiêu công phu. Ông dùng những vật liệu sau đây: cạt bon (carbone), bạch kim (platine), irridium và 60 thứ cây cỏ sau rốt mới tới tre Nhựt bổn. Trong lúc ông làm dây bóng đèn điện với những sợi chỉ tre Nhựt bổn, ông vẫn t́m kiếm luôn luôn trong pḥng thí nghiệm. Cuối cùng ông phát minh ra được một thứ sợi gọi là Filamentérité, ấy là một thứ sên lu lôi hổn hợp (mixture de cellulose).

Thứ nầy thay thế cho sợi chỉ tre.

Người ta hỏi bí quyết thành công của ông là cái chi. Ông trả lời: “LÀM VIỆC CHO NHIỀU VÀ SUY NGHĨ LUÔN LUÔN” (TRAVAILLER BEAUCOUP ET RÉFLÉCHIR SANS CESSE).

 

NỀN TẢNG CỦA SỰ ĐỊNH TRÍ

Bây giờ trở lại vấn đề định trí. Phải tập luyện cái Trí lần lần và trước nhứt phải biết nền tảng của sự định trí là cái chi rồi sau phải tới mức của ông Archimède và của ông Edison th́ trí hóa mới mở mang sáng suốt.

Nền tảng của sự định trí là sự chú ư vào những công việc của ta làm hằng ngày.

Đọc sách, học bài, quét nhà, gánh nước, vo gạo, may áo, bửa củi, nấu ăn, rửa chén, đánh giày . . . th́ chăm chỉ vào đó, đừng để cái trí bắt nhớ cái nầy cái kia. Nếu nó kéo ḿnh đi th́ ḿnh phải níu nó lại và buộc nó ở một chỗ. Trong lúc làm việc đừng nói chuyện bá vơ hay nói những chuyện tầm phào, trừ ra việc cần thiết lắm mới nên nói.

Nhiều chuyện nhỏ mới nhập thành chuyện lớn . . . phải tập làm những chuyện nhỏ mọn trước, rồi mới thực hành được những chuyện lớn sau. Không tập nhảy mà phóng ḿnh qua mương hai thước bề ngang th́ e phải rớt xuống nước một cái đùng, ướt ḿnh mẫy hết.

Đừng cho rằng lau bàn ghế, đánh nón, đánh giày . . . là nhẹ thể ḿnh. Không, hễ gặp việc nào vừa sức ḿnh th́ cứ làm, đó là một sự tập làm chủ cái trí và tập cho ḿnh trở nên khéo léo và hữu dụng sau nầy.

 

NHỮNG CÁCH ĐỊNH TRÍ

Có nhiều cách định trí, nhưng cả thảy đều nhắm vào một mục đích là không cho cái trí bỏ vị trí của ḿnh đă buộc nó ở đó. Phải tập làm sao cho nó giống như tên lính gác đứng ngay một chỗ, không được nhúc nhích chừng đó mới thành công. Cái trí phải tưởng một việc mà thôi. Hết việc nầy rồi mới tới việc khác.

Tôi chỉ vài cách định trí, quí bạn coi cách nào hạp th́ đem ra thực hành.

1). Đọc một hàng chữ rồi kiếm coi trong đó có bao nhiêu chữ và mỗi chữ bao nhiêu nguyên âm bao nhiêu phụ âm. Lập lại nhiều lần như vậy với nhiều câu liên tiếp khác nhau, hết câu nầy tới câu kia.

2). Hốt một nắm gạo rồi đếm coi có mấy hột. Nhiều lần như vậy.

3). Múc nửa ly nước để trên bàn rồi ngó mực nước, hai ba phút như vậy, nhưng đừng cho mỏi mắt.

4). Đọc sách th́ chớ nên đọc mau.

Đọc bốn hàng thôi rồi suy nghĩ coi tác giả muốn nói chi trong bốn hàng đó. Xong rồi sẽ bắt qua bốn hàng khác. Mới xem qua th́ thấy phương pháp nầy chậm lắm, nhưng kỳ thật nó mở trí con người mau lắm mà con người không hay. Ban đầu phải chịu khó tập cho cái trí suy nghĩ thật lâu, sau có thói quen rồi th́ nó hành động lẹ làng, đọc đâu hiểu đó.

Trái lại đọc mau quá, khi tới trương chót th́ đă quên mấy trương giữa và mấy trương đầu nói cái ǵ rồi.

5). Những bạn nào có học qua những lớp của trường Tiểu học, nhất là từ Trung học tới Đại học th́ sau tập định trí và tham thiền về phương diện đạo đức dễ hơn các bạn khác. Bởi v́ trong lúc các bạn học bài và ḍ bài th́ các bạn định trí, c̣n khi các bạn suy nghĩ đặng làm một bài Luận văn hoặc t́m giải đáp cho những bài toán về số học, đại số, h́nh học và vật lư th́ các bạn tham thiền mà các bạn không ngờ, cũng như ông Jourdain làm văn xuôi mà không biết điều đó vậy.

6). Trong cuốn “Dưới Chơn Thầy” có hai câu nầy dạy về cách định trí.

a) Phải chăm chỉ vào mỗi phần việc của con làm đặng cho nó hết sức khéo léo.

b) Dầu tay con làm việc ǵ cũng vậy, con phải hết sức chú ư vào đó.

5.000 năm trước, Arjuna há chẳng nói với sư phụ là đức Sri Krishna như vầy hay sao? “Bạch sư phụ, Krishna! Cái trí thật là loạn động, buông lung, mănh liệt, hung hăn, khó mà kềm hăm nó, cũng như khó mà kềm hăm gió vậy”.

Sư phụ Krishna mới trả lời rằng: “Hỡi người chiến sĩ vơ trang đầy đủ kia! Lẽ cố nhiên là cái trí nghịch ngợm và khó trị, nhưng mà người ta có thể thắng phục nó nhờ sự luyện tập không ngừng nghỉ và nhờ tánh lănh đạm”.

Không c̣n cách nào khác nữa: Lănh đạm đây là không chịu thụ hưởng kết quả của việc của ḿnh đă làm, tức là đoạn tuyệt, dứt bỏ. Phật giáo gọi là Xả.

7). Có một cách lănh đạm nữa là ngồi xem tư tưởng vô trong óc mà không phản ứng chi cả. Một chập th́ chúng nó đi mất bởi v́ ta không để ư tới chúng nó; không có đồ ăn, chúng nó buộc ḷng phải ra đi.

8). Người ta cũng có thể niệm mỗi ngày nhiều lần một câu thần chú và nhờ ảnh hưởng của câu thần chú nầy mà lâu ngày cái trí hóa ra yên tịnh v.v. . .

Nhưng tôi xin lập lại một lần nữa là phải Bền chí. Phải thực hành mỗi ngày đừng chểnh mảng, nhiều năm, nhiều năm như vậy . . . Nếu biết phương pháp mà không thực hành th́ cũng như không biết ǵ hết.

 

ĐỀ PH̉NG

Không nên định trí cho đến khi choáng váng mặt mày. Đó là điểm bất thường báo trước rằng cái óc không sức chịu đựng nổi sự bắt buộc làm việc của cái trí. Phải ngưng liền, nếu căi lời tiếp tục như thế măi, sẽ đau óc, loạn trí, hóa điên khùng.

Phải tập lần lần. Tuần đầu mỗi lần định trí 2 phút. Tuần thứ nh́, thứ ba 3 phút. Tuần thứ tư và năm 4 phút. Tuần thứ sáu và thứ bảy 5 phút, luôn tới tuần thứ mười. Tuần thứ mười một tới tuần thứ hai mươi, 6 - 7 phút. Tuần thứ hai mươi tới tuần thứ năm mươi hai nghĩa là cuối một năm, từ 10 tới 15 phút. Quen rồi lên 30 phút. Chớ tưởng định trí 3 phút ít lắm. Không, thật sự ban đầu trong 3 phút định trí, chỉ tồn có một phút bởi v́ hai phút kia bị cái trí xao lăng rồi. Có kinh nghiệm mới biết định trí là khó khăn bực nào. Ấy là kim cô niệt đầu con khỉ. Bắt cái trí chủ ư vào một việc không khác nào nhốt một con thú vào chuồng, nó chạy lung tung, khi th́ cụng đầu vào song, khi th́ chen ḿnh vô kẽ đặng t́m lối thoát ra.

 

ĐiỀu cẦn ích hơn hẾt là phẢi bỀn chí,

THIẾU CAN ĐẢM TH̀ SẼ THẤT BẠI.

Một khi làm chủ được cái trí trong kiếp nầy th́ kiếp sau làm chủ cái trí mới cũng dễ dàng, v́ một người biết cỡi ngựa th́ con ngựa nào cũng cỡi được, huống chi cái trí kiếp sau là cái trí kiếp nầy đổi mới lại.

 

SỰ CHỌN LỰA TƯ TƯỞNG

Sự chọn lựa tư tưởng c̣n cần thiết và quan trọng hơn sự chọn lựa đồ ăn uống của xác thịt v́ tư tưởng có thể sửa đổi số mạng con người, không những kiếp nầy mà tới mấy kiếp sau nữa. Muốn biết tại làm sao phải chọn lựa tư tưởng th́ trước hết phải rơ sự lợi và sự hại của tư tưởng là thế nào.

 

SỰ LỢI VÀ SỰ HẠI CỦA TƯ TƯỞNG

Tư tưởng có h́nh dạng và màu sắc. Màu sắc nầy tốt đẹp hay xấu xa tùy theo bản tánh của tư tưởng lành hay dữ.

Một khi sanh ra rồi th́ tư tưởng bay vô trí người nầy rồi qua trí người khác. Mỗi lần nó vô trí ai th́ nó giục trí đó sanh ra một h́nh tưởng như nó vậy.

Bây giờ ta hăy xem hiệu quả của một tư tưởng tốt và hiệu quả của một tư tưởng xấu coi thế nào.

 

HIỆU QUẢ CỦA MỘT TƯ TƯỞNG XẤU

Mỗi lần ta sanh ra một tư tưởng quấy, ta phạm ba tội một lượt.

a). Trước nhứt ta hại ta; v́ cái trí ta rút vô những tư tưởng quấy khác đồng bản tánh với tư tưởng xấu của ta mới sanh ra làm cho một phần thượng thanh khí tốt của ta bay ra ngoài. Nếu ngày nầy qua ngày nọ ta cứ nuôi những tư tưởng xấu như thế măi th́ cái trí ta chứa đầy những chất khí nặng nề, đen tối. Người có mắt thánh ḍm vô thấy một cảnh tượng rất đau thương.

b). Kế đó, ta hại những người ở xung quanh ta, bởi v́ tư tưởng xấu của ta tới giục họ làm quấy và đồng thời nó đánh thức mầm những tánh xấu c̣n ở ẩn trong ḷng họ. Không có tư tưởng xấu nầy lại khêu gợi th́ những mầm xấu đó sẽ héo ṃn và tiêu lần, cũng như những hột mà không đem vùi xuống đất và không vun phân tưới nước th́ chúng sẽ lần lần khô héo, không mọc lên được. Trái lại nếu ta nuôi dưỡng chúng th́ chúng sẽ thành những cây cao lớn, trổ bông sanh trái. Ông Leadbeater có nói: “Tôi đă thấy một tư tưởng quấy đến phá hại trọn đời của một người và kéo luôn ảnh hưởng tới kiếp sau nữa”.

c). Sau rốt ta thêm một sự khó cho đời.

V́ vô minh mà mỗi ngày thiên hạ rải trên không chẳng biết chục ngàn triệu h́nh tư tưởng, hầu hết là những h́nh tư tưởng xấu xa, ích kỷ, tham lam, tật đố. Những h́nh tư tưởng một loại và đồng bản tánh với nhau th́ hiệp lại và làm thành một h́nh tư tưởng rất lớn gọi là Liên hiệp tư tưởng (Egrégore). Có thứ Liên hiệp tư tưởng sống tới cả muôn năm.

Những Liên hiệp tư tưởng Hiền lương là những vị Phúc thần chúng nó đi thuyết phục người ta làm lành và ăn ở thuận theo ḷng trời. C̣n những Liên hiệp tư tưởng Ác độc là những bọn Hung thần, chúng nó đi xúi giục người ta làm quấy, phá hại đời và đi ngược với cơ tiến hóa. Chính là những bọn Hung thần nầy gây ra những vụ sát nhơn, trộm cướp, nạn chiến tranh, giặc giả, hạn hán, lụt lội làm cho thất mùa, đói khó và sanh ra những chứng bịnh hiểm nghèo, gieo thảm họa cho dân chúng.

Lấy đấy suy ra th́ biết rằng: theo luận điệu tư tưởng và tánh t́nh dân tộc chẳng những mỗi nước có một h́nh Liên hiệp tư tưởng, mà mỗi tỉnh, mỗi quận, mỗi tổng, mỗi làng, mỗi xóm, mỗi nhà đều có Liên hiệp tư tưởng riêng và khác nhau nữa.

Bởi khi xưa chúng ta gieo những tư tưởng không lành cho nên ngày nay phải gánh lấy một phần quả chung của nhơn loại (Cộng nghiệp), mặc dầu nó rất nhỏ, trong lúc đó chúng ta cũng phải trả những quả riêng của chúng ta nữa (Biệt nghiệp).

Thế gian bị những tư tưởng xấu xa làm cho đau khổ khá nhiều rồi, nay ta sanh thêm một tư tưởng quấy nữa tức là ta thêm một sự khổ nữa cho đời. Đó không khác nào lửa đang cháy phừng phừng mà ta thảy vô một cây củi, tức là thêm sức cho nó cháy lâu tàn.

 

HẬU QUẢ CỦA MỘT TƯ TƯỞNG LÀNH

Trái lại khi ta sanh ra một tư tưởng tốt th́ ta làm được ba việc lợi ích một lượt.

1). Trước nhứt ta giúp cho ta, v́ khi ta tư tưởng tốt, cái trí ta rút những tư tưởng đồng bản tánh với nó vô, đồng thời một phần chất thượng thanh khí xấu bay ra ngoài. Nếu ta tưởng luôn luôn những điều lành, cái trí ta sẽ chứa đầy những chất khí nhẹ nhàng, màu sắc tươi tốt, không khác nào một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp ai thấy cũng phải dừng bước ngắm xem.

2). Kế đó ta giúp những người ở xung quanh ta, v́ tư tưởng tốt của ta tới khuyên bảo họ làm lành và làm nẩy nở những mầm của những tánh tốt c̣n tiềm tàng trong ḷng họ.

3). Sau rốt ta giúp ích cho đời, v́ tư tưởng lành của ta là một viên kiện tướng mộ vào đạo binh cứu thế để quét sạch mây mù và đưa người tầm đạo qua bờ giác.

 

TƯ TƯỞNG BIẾN THÀNH SỰ HÀNH ĐỘNG

Một người nuôi măi trong trí những tư tưởng thấp hèn th́ tới một ngày kia nếu có dịp, va sẽ hành động như kẻ vô lương không c̣n ngày giờ suy nghĩ kịp nữa. Điều đó làm cho va ngạc nhiên v́ va không ngờ ḿnh tồi tệ đến thế. Nhưng đây, nuôi một thứ tư tưởng măi giống như nhỏ nước trong ly, từng giọt. Ban đầu không thấy chi cả, nhưng tới một ngày kia, khi cái ly đầy rồi mà c̣n nhỏ thêm một giọt nữa, tức th́ nước tràn ra ngoài.

Cũng thế ấy, trái lại một người nuôi những tư tưởng cao thượng măi th́ sẽ hành động như một bậc vĩ nhân, một bậc siêu phàm khi dịp tốt đưa đến.

V́ mấy lẽ trên đây, nếu trong trí ta sanh ra một tư tưởng quấy nào rồi ta phải diệt nó liền v́ không biết nó biến ra sự hành động giờ phút nào.

 

TƯ TƯỞNG TRONG NĂM PHÚT CÓ THỂ PHÁ HOẠI NĂM NĂM CÔNG PHU LUYỆN TẬP, DẦU GẦY DỰNG LẠI ĐƯỢC CŨNG ĐĂ MẤT TH̀ GIỜ, HĂY GIỮ G̀N CHO LẮM.

 

Tư tưởng là cội rễ của Luân hồi Quả báo. Con người tưởng cái chi th́ sẽ thành cái đó. Bây giờ đây quí bạn có thấy sự chọn lựa tư tưởng cần thiết là thế nào chăng? Cái trí ta không phải là một miếng vườn hoang ai muốn tới gieo giống chi cũng được, không khéo th́ thay v́ lúa bắp và những cây trái ngọt ngon, những gai góc sẽ mọc đầy, chừng muốn ruồng phá th́ phải mất th́ giờ và công của. Nó cũng không phải là ngă ba đường cái, hay là cái quán trọ, tư tưởng nầy tới nghỉ chơn vài phút rồi ra đi, kế tư tưởng khác tới viếng rồi cũng dời gót, ngày nầy qua ngày kia, kiếp nầy qua kiếp nọ.

Nếu ta để như thế, sự tiến hóa của ta sẽ chậm chạp và ta sẽ bị liệt vào hàng người trễ bước.

Vậy th́ chúng ta phải sản xuất và thâu dụng những tư tưởng thành cao như Từ bi, Bác ái, Can đảm, Hy sinh v́ hạnh phúc của nhơn loại chớ không phải v́ tư lợi cá nhơn chút nào.

Trái lại những tư tưởng ích kỷ thấp hèn, đam mê vật dục, ta phải đuổi chúng nó ra khỏi cái trí lập tức.

 

CÁCH DIỆT TRỪ TƯ TƯỞNG XẤU

Một khi một tư tưởng xấu nảy sanh ra trong trí ta rồi th́ ta thấy nó cứ lập đi lập lại măi, v́ đó là bản tánh của nó. Điều nầy làm cho ta bực tức lắm. Thái độ của ta lúc nầy là nắm nó thảy tuốt ra ngoài đường không khác nào cách ta đối phó với một địch thủ lợi hại. Nhưng ta tống nó ra mạnh bao nhiêu th́ nó càng nhảy vô mạnh bấy nhiêu. Ta tấn công, nó phản công, trong mười phút ta không thắng nó được mà ta đă đuối sức rồi. Ta phải chịu thua nó.

Vẫn biết ta bền chí làm như vậy trong năm năm th́ ta có thể diệt một tư tưởng quấy được song kết cuộc trong trí ta có một chỗ bị tê liệt. Nếu năm năm mới trừ được một tư tưởng quấy th́ phải mấy ngàn kiếp mới diệt được hết những tư tưởng xấu xa.

 

LÀM SAO BÂY GIỜ

Từ ngàn xưa, Tiên Thánh chỉ cho các đệ tử một phương pháp mà thôi, phương pháp duy nhứt để chiến thắng kẻ diệt phá sự chơn thật; ấy là dùng TƯ TƯỞNG LÀNH đánh đổ tư tưởng quấy đối lập.

Thí dụ: Một tư tưởng nóng nảy sanh ra trong trí ta. Ta nói: “Tôi không nóng nảy, tôi không nóng nảy”. Trong ba bốn phút ta mệt ngất, mà tư tưởng nóng nảy vẫn ở đó. Ai có thí nghiệm điều nầy th́ biết.

Phải nói: “LUÔN LUÔN TÔI VUI VẺ VÀ ÔN H̉A” lập hai ba lần như vậy th́ tư tưởng vui vẻ và ôn ḥa hất tư tưởng nóng nảy văng ra ngoài mà ta không nhọc sức chút nào. Ta thành công chắc chắn. Thế nên muốn trừ tư tưởng tham lam th́ dùng tư tưởng thanh liêm vô tư lợi, muốn trừ tư tưởng xảo trá gạt gẫm th́ dùng tư tưởng chơn chánh ngay thật, muốn trừ tư tưởng nịnh hót th́ dùng tư tưởng trung tín. Nói tóm lại, tư tưởng siêng năng đánh đổ tư tưởng biếng nhác, tư tưởng yêu thương dẹp yên tư tưởng oán ghét, tư tưởng hiền lương xua đuổi tư tưởng hung bạo, tư tưởng khiêm tốn chiến thắng tư tưởng phách lối, kiêu căng, c̣n tư tưởng chơn lư trừ tuyệt tư tưởng dị đoan.

Nguyên tắc nầy là: TRONG TRÍ TA KHÔNG THỂ CHỨA MỘT LƯỢT HAI TƯ TƯỞNG ĐỐI LẬP VỚI NHAU ĐƯỢC, HỄ CÁI NẦY ĐẾN TH̀ CÁI KIA PHẢI ĐI”.

 

KIỂM SOÁT TƯ TƯỞNG

V́ mấy lẽ trên đây cho nên giờ phút nào ta cũng phải lo kiểm soát tư tưởng thâm nhập hay nảy sanh trong trí ta một cách nghiêm nhặt. Lúc ban đầu ta phải xua đuổi tư tưởng quấy ra khỏi trí, nhưng tới một ngày kia sau khi tham thiền đă đúng công phu rồi th́ cái trí chứa đầy những tư tưởng tốt, chừng đó nó sẽ tự động; những tư tưởng xấu vừa đụng tới nó th́ dội ngược ra cũng như những mũi tên bay tới trúng vách thành đồng th́ rơi xuống đất. Tới tŕnh độ nầy th́ tâm và trí nhập một, nó vẫn yên lặng chờ nghe tiếng nói của Chơn nhơn. Ta không c̣n nhọc ḷng xua đuổi những tư tưởng xấu nữa và trong trí ta không nảy sanh một tư tưởng nào hay một t́nh cảm nào mà không có ư ta muốn. Ta đă thành công trong những bước đầu tiên trên con đường đạo hạnh.

Người nào kiểm soát tư tưởng được th́ mới làm đệ tử Chơn sư được.

 

TAI HẠI CỦA SỰ MỞ TRÍ MÀ KHÔNG MỞ TÂM

Tập định trí quen rồi th́ tư tưởng rất mạnh. Các nhà thôi miên thành công là nhờ có thói quen tập trung tư tưởng vào một việc. Nhưng chúng ta đừng quên rằng tư tưởng là con dao hai lưỡi, nó giúp người thành công mau lẹ, mà nó hại người cũng dễ dàng, tùy cách ta xử dụng nó.

Ta phải lo mở Trí và mở Tâm một lượt. Mở Trí mà không mở Tâm th́ sẽ lo phụng sự ḷng ích kỷ của ḿnh, hăm hại kẻ vô cớ, làm những điều tàn ác không thể tưởng tượng được. Những sự bất công nầy là mầm mống của sự loạn lạc làm mất cả trật tự và thăng bằng. Các sự đau khổ của con người đều do nó mà sanh ra. Muốn tiến mau và giúp ích cho đời th́ Tâm và Trí phải điều ḥa. Mà muốn mở Tâm th́ phải tập mở những tánh tốt tức là Tu thân.

Từ ngàn xưa các vị Thánh nhơn đều lấy sự Tu thân làm căn bản. Các ngài nhờ tham thiền những đức tánh mà đi đến kết quả tốt đẹp.

 

THAM THIỀN (Méditation)

Tham thiền là ǵ?

Theo nghĩa chánh của nó th́ tham thiền là sự tập trung tư tưởng vào một đối tượng đặng phá tan bức màn bao phủ nó, đạt đến sự sống của nó rồi đem sự sống của ḿnh ḥa hợp với sự sống nầy.

Về sau định nghĩa nầy được nới rộng ra.

Tham thiền có nghĩa là:

a)    Tập trung tư tưởng vào một đối tượng mà ḿnh sùng bái.

b)    Chú ư vào một vấn đề cần đến ánh sáng thiêng liêng, đặng giải quyết nó.

c)     Suy nghĩ sâu xa về một vật mà người ta muốn biết sự sống của nó và đồng hóa với sự sống nầy chớ không phải quan sát bề ngoài mà thôi.

d)    Xem xét một vấn đề đủ các phương diện đặng biết những sự liên quan của nó với những vấn đề khác v.v. . .

Tham thiền gồm hai phương diện chánh:

Một là: mở Trí

Hai là: mở Tâm

 

VẤN ĐỀ THAM THIÊN

Vấn đề tham thiền th́ nhiều. Người ta có thể tham thiền về:

1.- Một đấng Cao Cả như Đức Phật, Đức Bồ Tát hay là một Chơn sư.

2.- Chơn ngă . . .

3.- Một đức tánh.

4.- Một câu chơn ngôn, một câu thần chú.

5.- Một đoạn kinh.

6.- Một vật.

7.- Hoặc để giải quyết một vấn đề v.v. . .

Từ xưa đến nay những sự phát minh, những sự sáng chế như viễn vọng kính, điện, phi cơ, tiềm thủy đỉnh, đại bác, radio, hỏa tiễn, radar, vô tuyến truyền h́nh, vệ tinh, những máy móc điện tử, các thứ thuốc mới: như các thứ trụ sanh, các thứ sanh tố v.v. . . . đều do sự tham thiền mà ra cả; người ngoài đời cho là do sự suy nghĩ, tính toán, t́m kiếm.

 

NHỮNG ĐIỀU HỮU ÍCH CỦA SỰ THAM THIỀN

Tôi xin chỉ cho quí bạn xem điều nầy mới thấy tham thiền hữu ích là như thế nào. Vẫn biết ta phải đem tư tưởng tốt đánh đổ tư tưởng xấu đối lập. Nhưng có khi tư tưởng xấu đến xúi giục ta hành động chớp nhoáng, ta không kịp suy nghĩ nữa. Sau khi hành động, ta ăn năn lắm, nhưng việc cũng đă muộn rồi.

Thế nên mỗi ngày ta phải suy nghĩ về một tánh tốt nào đó. Cứ làm như vậy trọn tháng. Rồi tháng kế đó tập một đức tánh khác cứ như thế trọn năm th́ được 12 đức tánh.

Thí dụ mỗi ngày ta nuôi 10 tư tưởng tốt về một đức tánh nào th́ trọn tháng ta ghi trong trí ta 300 tư tưởng tốt về đức tánh đó rồi và trọn năm 365 ngày th́ được 3650 tư tưởng tốt thuộc về 12 đức tánh. Qua năm sau ta cũng lập lại 12 đức tánh đó nữa, lần nầy ta thấy tâm và trí của ta khởi sự mở rộng. Tập như vậy trong 10 năm th́ ta nuôi được 36.500 tư tưởng tốt. Ta sẽ thành một người mới, một người biết thuận theo lẽ Trời, lo lánh dữ làm lành và phân biệt được lẽ tà chánh dễ dàng hơn người chưa biết tu.

Trong chương thứ ba tôi có giải về 12 đức tánh cần thiết, quí bạn xem đến sẽ rơ. Bây giờ tôi xin nói về mục đích của sự tham thiền và những điều phải biết trong khi luyện tập.

 

MỤC ĐÍCH CỦA SỰ THAM THIỀN

Tham thiền có nhiều mục đích mà mười cái chánh là:

1.- Thắng phục cái trí và rèn luyện nó thành một khí cụ tốt nhứt cho Chơn nhơn.

2.- Giúp cho phàm nhơn đương hoạt động ở cơi trần và Chơn nhơn ở trong địa hạt của ḿnh (từ cơi Niết Bàn xuống tới cơi Thượng Thiên thấy rơ và hiểu rơ nhiều phương diện khác của chơn lư).

3.- Mở rộng đường thông thương của Phàm nhơn và Chơn nhơn.

4.- Ít nữa là mỗi ngày một lần, con người nhớ đến những việc thanh khiết, cao siêu và tư tưởng vượt qua cuộc đời phù hoa mộng ảo lên tới cơi Tinh Thần Siêu Việt.

5.- Không bao lâu nó tập cho con người có thói quen tưởng tới những việc siêu h́nh mỗi khi tâm và trí rảnh rang.

6.- Nó là phương pháp tập thể thao cái Vía và cái Trí, nhờ vậy hai thể nầy trở nên mạnh mẽ và sáng suốt, thần lực lưu thông dễ dàng.

7.- Lợi dụng nó đặng mở mang những tánh tốt.

8.- Đem tâm con người lên mấy cảnh cao, nhờ vậy khi trở về nhập xác con người sẽ sáng suốt thêm.

9.- Nhờ nó mà vạn vật được hưởng ân huệ của Tiên Thánh ở trên mấy cơi cao ban xuống.

10.- Nó là bước đầu tiên giúp cho con người có thần nhăn, huệ nhăn và hiểu được những sự bí mật của Tạo công.

Người tham thiền mỗi ngày có sức mạnh lạ lùng không ai biết mà cũng không ai tưởng tượng được.

 

THAM THIỀN MỖI NGÀY MẤY LẦN

Ban sơ mỗi ngày nên tham thiền ba lần:

1.- Sớm mai khi mới thức dậy và đă rửa mặt, súc miệng.

2.- Trưa 12 giờ.

3.- Chiều trong khoảng 6 giờ rưởi tới 7 giờ.

Ba giờ nầy từ điển trên không trung rất tốt. Từ 10 giờ tối tới 3 giờ sáng không nên tham thiền, v́ trong khoảng nầy thần lực đă kém nhiều và mặt trăng làm chủ. Nếu tham thiền có hại cho Vía, Trí chớ không có lợi.

Phải để bụng trống tham thiền, sau khi dùng bữa hay mới ăn no mà tham thiền th́ bị phát ách, bởi v́ trong lúc tập trung tư tưởng, thần lực gom vô trí óc, không c̣n đủ sức mà tiêu hóa đồ ăn. . .

 

NGƯỜI TU HÀNH ĂN NGỌ LÀ V̀ HAI LẼ:

 1.- Để bụng trống đặng tham thiền nhập định.

2.- Để cho các chất độc trong ḿnh bài tiết ra ngoài.

 

CÁCH NGỒI THAM THIỀN

Phải ngồi thong thả. Bên Thiên Trước người ta có thói quen ngồi kiết già, ḿnh chớ nên bắt chước theo, không ích chi cả. Phải ngồi xếp bằng trên ván, trên bộ ngựa và ngay thẳng lưng; đây là điều cần thiết để thần lực lưu thông dễ dàng theo ba đường gân trong xương sống. I đa bên trái, Banh ga la (Pingala) bên tay mặt và Sút hum na (Soushumna) ở chính giữa.

Xin quí bạn nhớ rằng tham thiền đặng luyện cái Trí chớ không phải luyện xác thịt.

Lúc ban sơ mới tập nên nhắm mắt và lỗ tai nên bịt g̣n đặng đừng nghe và đừng thấy. Hễ nghe và thấy cái nào th́ cái Trí bắt chú ư tới đó, như thế hóa ra xao lăng.

 

PH̉NG RIÊNG ĐỂ THAM THIỀN

Nên có pḥng riêng để tham thiền. Trong đó nên thường đốt nhang trầm và treo những h́nh ảnh đạo đức. Không nên cho người không có tâm đạo vào đó: chẳng phải ta ích kỷ song họ tới gieo tư tưởng không tốt th́ chúng nó sẽ khuấy rối ḿnh. Không có, cũng không hề chi, ngồi chỗ nào cũng được, tùy thích.

 

PHẢI THAM THIỀN LUÔN LUÔN ĐỪNG GIÁN ĐOẠN

Muốn thấy kết quả tốt đẹp phải tham thiền mỗi bữa cho đúng giờ, đừng bỏ qua ngày nào, trừ ra lúc bịnh hoạn không thể ngồi được th́ niệm những câu chơn ngôn. Đó là tập cho có thói quen ngày sau giờ phút nào đi, đứng, nằm, ngồi cũng phải tham thiền luôn luôn.

Tại sao thế? Bởi v́ mỗi giờ phút đều có sự thay đổi những nguyên tử ở trong cái Vía và cái Trí ta luôn luôn. Tham thiền là chọn lựa những nguyên tử tốt để làm cái Vía và cái Trí của ta; cũng như ta chọn lựa đồ ăn tinh khiết để nuôi xác thân; nhờ thế chúng nó mới trở nên mạnh mẽ và tốt đẹp.

Nhưng nếu trọn ngày, 16 giờ (bỏ 8 giờ giấc ngủ ra) ta tham thiền có nửa giờ c̣n 15 giờ rưởi kia ta không ở trong pḥng nhập định th́ sự thay đổi những nguyên tử trong cái Vía và cái Trí của ta thế nào? Ta nên nhớ ta chưa trọn lành th́ tự nhiên ta có những ư muốn quấy quá, ích kỷ, mong lợi cho ḿnh hơn là những tư tưởng giúp đời, xả thân vong kỷ. Cái Vía và cái Trí của ta sẽ chứa đầy những nguyên tử xấu hạp với bản tánh của tư tưởng và ư muốn đó. Ta sẽ tiến rất chậm. Cũng như một hồ nước dơ trọn ngày ta xả nước có nửa giờ rồi nghỉ, mà trong lúc nghỉ đó ta để nước dơ khác chảy vô hồ nữa th́ tới chừng nào cái hồ mới cạn. Thế nên ta phải để tâm trí nghĩ đến những việc cao thượng và kiểm soát tư tưởng luôn luôn.

 

ĐỀ PH̉NG

Trong lúc tham thiền mà thấy trong xương sống nóng rần, nhứt là gần xương khu, th́ ngừng liền. Đó là điềm luồng hỏa hầu khởi sự đi. Luồng hỏa hầu nầy dữ tợn phi thường, nó đi tới đâu đốt các tánh xấu tới đó và hại lớn là sự giao hiệp.

Phải ngưng tham thiền vài bữa. Nếu ngồi lại mà cũng nóng rần, nên dứt luôn, lo sửa tánh tốt.

Bên Thiên Trước trong lúc tham thiền đại định, các vị đạo sĩ Dô ghi (Yogui) bay bổng lên cao, trong một chập hạ xuống. Lúc tham thiền hơi thở ban đầu nhẹ nhàng, sau dường như dứt hẳn. Đừng sợ, một chập sẽ thở lại.

Có khi hồn lên tới cơi Thương Giới, chừng trở về nhập xác té ngữa ra hay là ngă chúi tới đằng trước. Muốn đề pḥng, tốt hơn là đừng ngồi trên ghế, phải ngồi trên bộ ngựa, dựa vách và để một cái gối trước mặt.

Sau khi dứt tham thiền, lấy tay vỗ trán và chà vài cái rồi xây ḿnh từ bên mặt qua bên trái và từ bên trái qua bên mặt vài lần đặng khỏi choáng váng.

 

HƯỜN HƯ [8]

Làm việc cả ngày mệt nhọc, phải tập hườn hư đặng bồi bổ sức lực lại. Hườn hư tức là để cái trí trống không, chẳng tưởng tới cái chi cả, đó là một cách định trí.

CÁCH TẬP: Nằm ngữa, bỏ hai tay xuôi theo ḿnh, nhắm mắt, trong trí đừng tưởng cái chi hết. Việc nầy rất khó, nhưng phải tập cho quen. Ban đầu không tưởng một giây, sau hai giây, lần lần tới nửa phút, một phút; tới hai phút đă khá rồi. Hễ hườn hư hai phút được  th́ ba phút, bốn phút, năm phút dễ dàng.

Tập hườn hư cho thành công rồi th́ được nhiều điều lợi như:

-         một là: tập cái Trí vâng theo mạng lịnh của ḿnh.

-         hai là: dưỡng sức khỏe (sau khi làm việc mệt nhọc).

-         ba là: nằm xuống ngủ liền không thao thức, trằn trọc.

-         bốn là: sau để tập Đại định và có thể nghe tiếng gọi của Chơn nhơn trong lúc tham thiền.

 

ĐẠI ĐỊNH (Contemplation)

Từ lúc bắt đầu tham thiền cho tới khi Đại định được th́ phải trải qua một thời gian khá lâu, từ 15 hoặc 20 năm hoặc trên nữa. Thật ra không nhứt định là bao lâu, 2 năm, 3 năm hoặc 3 – 40 năm v́ điều nầy tùy thuộc công phu kiếp trước và công phu kiếp nầy. Nếu mới khởi sự tu kiếp nầy hay là mới tu có một hai kiếp, th́ thời gian nầy phải kéo dài ra bởi v́ không phải dễ mà làm chủ cái Trí đâu. Nếu chưa điều khiển được cái Trí th́ không thể nào tham thiền được, nói chi là tới Đại định. Phải đi từ chỗ thấp lên chỗ cao, từ cái dễ đến cái khó, và trải qua từ cấp bực cũng như một đứa trẻ 6 tuổi mới cấp sách vô trường Tiểu học th́ ngồi lớp Năm rồi mới lần lần lên tới bực Trung học và Đại học. Không bao giờ có một đứa trẻ mới 6 – 7 tuổi mà hiểu được những bài vở của ban Đại học, mà dầu có thật một em nhỏ như vậy đi nữa th́ ấy cũng là một ngoại lệ bởi v́ cậu nầy kiếp trước đă xuất thân Trường Đại học và kiếp nầy c̣n nhớ những điều cậu đă học. Đây là một câu chuyện bất thường bởi v́ mỗi người khi đầu thai lại th́ đều quên hết những chuyện kiếp trước của ḿnh.

Bây giờ xin trở lại câu chuyện Đại định.

 

HAI THỨ ĐẠI ĐỊNH

Có hai thứ Đại định:

1.- Một thứ là Đại định “Có ư thức”, nghĩa là tâm thức hướng về những vật ở ngoại giới – tiếng Phạn là Sampragnata Samadhi.

2.- Một thứ là Đại định “Không có ư thức”, nghĩa là tâm thức hướng vô trong – tiếng Phạn là Asampragnata Samadhi.

 

HAI CÁCH ĐI TỚI ĐẠI ĐỊNH

Có hai cách đi tới Đại định:

1.- Cách thứ nhứt để cho người trí thức.

Trong lúc tham thiền, khi đi tới điểm chót của lư luận rồi th́ cái trí không c̣n giúp ích chi được nữa, hăy trụ vào điểm chót đó. Đừng nghĩ ngợi cái chi nữa, để cái trí trống không rồi chờ đợi.

2.- Cách thứ nh́ để cho người sùng đạo.

Dừng sức tưởng tượng tạo ra trong trí h́nh ảnh của một đấng cao cả như: Đức Phật, Đức Bồ Tát hoặc một vị Chơn sư . . .  đem tâm ḿnh nhập vô tâm của Ngài rồi trụ vào đó mà chiêm ngưỡng ngây ngất, nghĩa là không tưởng cái chi ngoài việc đó. Lâu chừng nào tốt chừng nấy.

 

TRẠNG THÁI CỦA CÁI TRÍ TRỐNG KHÔNG LÚC NẦY

Ta nên hiểu: Trong lúc nầy cái Trí trống không thuộc về trạng thái hoạt động.

Ta hăy xem con diều hay con ó đương lơ lửng trên không trung, ta thấy nó x̣e cánh ra mà không đập cánh như lúc nó bay. Tuy nhiên không phải nó làm biếng đâu, trong lúc nầy nó gom hết sức lực đặng giữ vững thăng bằng. Nó c̣n làm việc hơn lúc nó bay nữa.

Trạng thái trống không của người luyện đạo khác hẳn trạng thái trống không của người đồng cốt. Đồng cốt để cái Trí trống không một cách thụ động đặng chờ người khuất mặt nhập xác.

Trái lại trong lúc để cái Trí trống không mà người luyện Đạo thấy một ảnh hưởng lạ muốn ám ảnh ḿnh th́ đuổi nó đi lập tức. Đây có nghĩa là trong lúc tập luyện vẫn tỉnh táo chớ không phải hôn mê.

 

TIẾNG NÓI VÔ THINH

Đại định một thời gian th́ tới một ngày kia con người tiến tới một trạng thái gọi là bị mây mù bao phủ, tiếng Phạn là Dharma Megha, nghĩa là Vầng Mây Chơn Lư. Các nhà học đạo Tây phương gọi là Đám Mây Trên Đỉnh Núi hay là Đám Mây Trên Thánh Điện. Trong thâm tâm, con người biết rằng ḿnh không bị lẻ loi nhưng mà không thấy chi cả. Dường như anh bị treo lơ lửng trên một chỗ trống không, tối tăm mờ mịt, vô cùng kinh khủng bởi v́ anh chỉ có một ḿnh và in như đă chết rồi. Nhưng anh đừng sợ chi cả. Anh hăy b́nh tĩnh và nói “Tôi là Thượng Đế”. Đâu đâu cũng có sự sống của Thượng Đế. Ngài ngự khắp mọi nơi, tức th́ mây mù ta mất lần lần. Tâm thức cao siêu của anh vụt mở ra.

Trong lúc đó một tiếng vang lừng nổi lên phá tan cảnh tịch mịch, ấy là Tiếng Nói Vô Thinh, tiếng nói của Chơn sư hay là tiếng nói của Chơn ngă.

Chẳng những anh nghe được Tiếng Nói Vô Thinh mà anh c̣n thấy được sự tốt đẹp của Chơn ngă nữa.

- Có tiêu chuẩn nào để biết ḿnh đi đến mức Đại định chăng? Có, ấy là muốn tưởng th́ tưởng, không tưởng th́ thôi, cái Trí không hề xao động. Chưa tới mức nầy th́ không bao giờ Đại định được. Thế nên mỗi ngày phải tập Hườn hư đó là bước đầu tiên đi đến Đại định. Người đệ tử lúc nào cũng qú dưới chơn của Sư phụ ḿnh.

Tôi xin lưu ư quí bạn về điểm nầy – những lời giải trước đây là Toát yếu của những Nguyên tắc Căn bản về sự Định trí và Tham thiền. Tuy vắn tắt song vẫn đầy đủ cho những người mới học Đạo, những chỗ khó khăn đều giải ra.

Tôi tưởng cũng phải nói thêm rằng ngày sau khi quí bạn có đủ những điều kiện do luật Trời qui định, th́ quí bạn sẽ được Chơn sư thâu quí bạn làm đệ tử và chỉ cho quí bạn cách tham thiền riêng hạp với quí bạn đặng quí bạn tiến tới mau. Nó vốn khẩu khẩu tương truyền.

Không bao giờ hai vị đệ tử tham thiền in như nhau.

Không có một sự tham thiền nào đề chung cho tất cả mọi người từ đầu tới cuối. Nó phải thay đổi tùy theo những giai đoạn tiến hóa. Cũng không ai cầm bút diễn tả được cái hay cái đẹp của sự tham thiền, mỗi người phải thực hành rồi tự hiểu lấy, cũng như những món ăn, không ăn th́ không hề biết mùi vị của chúng ra thế nào cả.

Những cách tham thiền chỉ trong sách vở là những cách tham thiền tổng quát, chúng nó giống như những tấm bảng chỉ đường cho những khách lữ hành biết chỗ nào hiểm nguy phải tránh, phải đi cách nào và đi đến đâu th́ đề pḥng đặng để tiến, chỉ có thế thôi.

 

CÔNG PHU HẰNG NGÀY

Tôi xin nói vài lời về việc Công phu hằng ngày, nghĩa là một cách tổng quát rồi quí bạn mới nhập môn coi theo đó đặng áp dụng vào trường hợp của riêng ḿnh.

 

3 lần mỗi ngày

Mỗi ngày công phu ba lần.

Sớm mai khi mới thức dậy; Trưa, đúng ngọ; Chiều hay Tối trong khoảng từ 6 giờ rưởi tới 10 giờ (22 giờ), luôn luôn phải trước bữa ăn hoặc cách xa hai giờ sau khi dùng bữa.

I. SỚM MAI

Sau khi thức dậy (không định được mấy giờ, điều nầy tùy thuộc tuổi tác và công việc làm ăn, nhưng thức được 5 giờ rưởi sáng càng tốt) rửa mặt, súc miệng, thay đổi y phục rồi – ngồi xếp bằng ngay thẳng lưng trên ván, trên bộ ngựa . . . tùy tiện, nhắm mắt lại rồi thực hành những điều sau đây:

 

A. – Trước nhứt. cẦu nguyỆn, đọc nho nhỏ hay đọc trong ḷng hai bài Kinh nầy. Bài đầu hoặc bằng chữ Phạn hoặc bằng tiếng Việt tùy ư.

 

3 lần

1) Bài Kinh cầu nguyện chữ Phạn

AUM ! Saha nau avatu sahanau bhunaktu.

Saha Viryam karavavahai tejasvi.

Navadhitam astu mavidvishavahai.

AUM ! Shanti ! Shanti !

 

2) Bài Kinh cầu nguyện chữ Việt

AUM ! Cầu xin các Đấng Chơn sư ban ân lành, che chở cho chúng con, và giúp cho chúng con được thông minh sáng suốt chuyên tâm học Đạo để đi đến đài Minh Triết và giác ngộ thiêng liêng. Chúng con cầu xin cho t́nh Bác ái được phổ biến khắp cả mọi nơi và cầu nguyện cho vạn vật được Thái b́nh. AUM !

 

3) Bài Kinh cầu nguyện chữ Việt

a.- Cầu xin những quyền lực của ánh sáng mang sự giác ngộ đến cho nhơn loại.

b.- Cầu xin Tinh thần Ḥa b́nh bủa rải khắp thế gian.

c.- Cầu xin ở khắp nơi, những người có thiện chí gặp nhau trong một Tinh thần cộng tác.

d.- Cầu xin thần lực hộ tŕ những sự cố gắng của các Đấng Cao Cả.

 

B. – Tưởng đến Chơn thần

 

Cầu nguyện xong th́ tưởng đến cội rễ của ḿnh là Chơn thần. Hăy niệm nho nhỏ hay niệm trong ḷng 3 lần câu nầy.

“Hỡi Atman (Átman) ! Chơn linh cao cả, toàn năng, toàn thiện, vô sở bất tại ! Ngài là tôi, tôi là Ngài. Ngài như thế nào tôi như thế ấy”.

 

Ngoài ra, mỗi giờ nên niệm câu nầy 2 – 3 lần, nhiều nữa càng tốt. Câu nầy sẽ mở rộng đường thông thương giữa Chơn nhơn và Phàm nhơn dễ dàng. Con người sẽ tiến mau v́ biết được bản tánh thiêng liêng của ḿnh.

 

C.- Tham thiền

 

Nên dùng hai cách:

1)    Tham thiền đặng làm chủ ba thể: Thân, Vía, Trí.

2)    Tham thiền một tánh tốt

 

I. THAM THIỀN ĐẶNG LÀM CHỦ BA THỂ: THÂN, VÍA, TRÍ

 

Trong các cách tham thiền đầu tiên, duy có cách nầy đáng cho ta chú ư hơn hết và đáng thực hành hơn hết, v́ đây là cái gốc. Một khi làm chủ được ba thể rồi th́ bước mau tới cửa Đạo, nơi đó người ta mới chỉ cho sanh viên thấy cơ tiến hóa Thái dương hệ tức là tiếng chót của khoa học. Sanh viên sẽ biết cái nguyên nhân và học tập cách tạo ra h́nh thể của vạn vật, hay là sự sống chớ không phải cứ quan sát h́nh thể và chỉ biết vật chất mà thôi, thay v́ phải t́m hiểu tinh thần ở bên trong nó nuôi sự sống và điều khiển vật chất. Muốn tham thiền cách nầy th́ trước hết phải xem xét xác thân xong rồi th́ bỏ nó qua một bên, kế nghĩ tới cái Vía. Hết cái Vía tới cái Trí. Cuối cùng ta đi đến Chơn nhơn ở cơi Thượng Thiên.

 

  1.- XÁC THÂN

Xem xét xác thân, rồi nói trong ḷng như vầy:

Xác thân nầy không phải thật là tôi đâu. Nó chẳng qua là một khí cụ của trời sanh để cho tôi dùng đặng hoạt động ở cơi Trần. Nó là đứa tôi tớ của tôi. Nó vẫn tráng kiện, tinh tấn, có tiết độ và siêng năng, ngoan ngoăn vâng lời, không bao giờ ương ngạnh.

Xong rồi để nó qua một bên và nghĩ tới cái Vía.

 

2.- CÁI VÍA

Cái Vía cũng không phải thật là tôi. Nó là lớp áo thứ nh́ của tôi mặc để học hỏi ở cơi Trung giới và biểu hiện những t́nh cảm và những ư muốn thanh cao, tốt đẹp.

Nó chiếu ra những làn hào quang của những đức tánh từ bi bác ái, nhẫn nại, khoan dung, bất vụ lợi và hy sinh triệt để. Nó thuận ḥa với tất cả mọi người bất kể là ai.

 

3.- CÁI TRÍ

Cái Trí cũng không phải thật là tôi nữa. Nó là lớp áo thứ ba của tôi mặc để học hỏi và kinh nghiệm ở cơi Trần và cơi Hạ Thiên.

Từ đây nó chỉ được phép sanh ra những h́nh dạng nào mà ư tôi quyết định. Nó sáng suốt minh mẫn và không c̣n ứng đáp với cảnh vật ở trước mặt nó hay là những làn sóng rung động từ ngoài đưa đến.

Nó yên lặng và thanh tịnh như mặt nước hồ thu và tiếp nhận một cách đúng đắn trực giác ở mấy cơi cao đưa xuống.

 

4.- TÔI LÀ CHƠN NHƠN

Xong rồi bỏ cái Trí qua một bên rồi quả quyết trong ḷng như vầy: “Tôi là Chơn nhơn, tôi ở quê hương của tôi là cơi Thượng Thiên vô cùng tốt đẹp.

Thân, Vía, Trí là ba thể mà tôi thường dùng hằng ngày. Tôi là chủ nhơn ông, chúng nó là những tay chơn bộ hạ của tôi.

Tôi làm Một với vạn vật. Các giống dân tộc trên địa cầu vốn là Huynh đệ của tôi, tôi phải lo giúp đỡ và phụng sự họ tùy theo khả năng của tôi”.

 

II. THAM THIỀN MỘT TÁNH TỐT

Trước nhứt ta nên biết: Có một luật thiên nhiên như sau đây:

“Khi ta tưởng tới một tánh nào đó măi th́ trong một thời gian sau ta sẽ có tánh đó”. Nó sẽ là thành phần của tánh nết ta, nó biểu lộ ra một cách tự động mà ta không ngờ, thật đúng với câu “Con người tưởng điều ǵ th́ sẽ thành ra điều đó”.

Hiểu định luật nầy rồi th́ ta có thể rèn luyện những tánh tốt một cách chắc chắn và tránh xa các tánh xấu.

Muốn đừng nhiễm tánh xấu th́ đừng tưởng tới nó, đừng nhớ tới nó, đừng nghĩ tới nó, đừng nói tới nó, tức là đừng cho nó vô trí ta. Nếu rủi nó nhập vô rồi th́ phải lập tức đuổi nó ra, bằng cách tưởng tới tánh tốt đối lập với nó. Chỉ có phương pháp nầy là hay hơn hết để diệt trừ những tư tưởng xấu.

 

CÁCH LUYỆN TẬP MỘT TÁNH TỐT

Sau khi tham thiền đặng làm chủ ba thể rồi th́ ta hăy ngồi suy nghĩ tới đức tánh mà ta muốn có, trong 5 – 7 phút tùy theo sức chủ ư của ta.

Ta xem xét đủ hết các khía cạnh của nó rồi nói: Tôi có đức tánh . . . , nó là thành phần của tôi (Xin quí bạn xem những bài giải vắn tắt về 12 đức tánh trong chương thứ ba).

 

PHẢI KIÊN NHẪN, PHẢI BỀN CHÍ

Mỗi buổi sáng nào cũng phải tập như vậy, đừng bỏ qua bữa nào cả, nếu quí bạn mới tập có một tuần lễ, kế nghỉ hai ba tháng, lần sau quí bạn khởi sự lại trong vài ngày, kế nghỉ nữa. Cả năm cứ làm như vậy măi th́ cái kết quả sẽ ra thế nào?

Mỗi lần tập th́ quí bạn tạo ra một h́nh tư tưởng của các đức tánh đó. Quí bạn nên nhớ, h́nh tư tưởng là một sanh vật, cũng như một con thú, có đồ ăn nó mới sống lâu, không có đồ ăn nó sẽ chết mất. Quí bạn mới nuôi dưỡng nó có một tuần lễ, mà mỗi ngày có vài phút đồng hồ rồi nghỉ cả tháng không cho nó đồ ăn nữa th́ tự nhiên nó sẽ ốm rồi chết đi, nó chết tức là nó ră ra chất Thượng Thanh Khí như trước.

Lần nào cũng như lần nấy, h́nh tư tưởng có c̣n sống dai đâu mà giúp được quí bạn.

Tham thiền như thế đó đừng nói một năm, dầu có mười năm đi nữa cũng không đem lại hiệu quả tốt đẹp nào cả.

Có người tham thiền được một ít lần mà không thấy sự thay đổi trong tâm tánh bèn ngă ḷng bỏ luôn rồi nói: “Phương pháp đó rất dở không hiệu nghiệm ǵ hết”. Sự thật không phải tại phương pháp mà tại ông bạn đó không làm như lời đă chỉ bảo, không hành động đúng theo luật của thiên nhiên.

Chắc chắn quí bạn đă biết. Trọn một đời chưa ắt dứt được một tật xấu mà cũng không hẳn tập được một tánh tốt chỉ v́ tại không biết hay là không tuân theo phương pháp chỉ định.

Sự lập hạnh đ̣i hỏi một thời gian khá lâu. 15 – 20 năm rồi kéo dài từ kiếp nầy qua kiếp kia cho tới khi con người trở nên trọn sáng trọn lành làm một vị Chơn Tiên.

Hăy bền chí ! Hăy kiên nhẫn !

 

ĐỪNG SỢ THẤT BẠI

Trong lúc ban đầu luôn luôn có sự thất bại, nhưng đừng sợ, đừng ngă ḷng, cứ lo tiến tới. Có thất bại, sau ta mới trở nên khôn ngoan hơn trước. Thí dụ quí bạn đương tập tánh “Ngay Thật” trong tháng nầy, bổng có một việc đưa đến làm cho quí bạn không giữ lời hứa được, quí bạn phạm tội nói dối. Quí bạn sẽ ăn năn và nói: “Bậy quá, ta phải ngay thật một chút chớ”. Trải qua nhiều lần như vậy, tới một ngày kia, khi mở miệng muốn tráo trở th́ quí bạn nhớ ngay tới tánh “Ngay Thật” liền. Quí bạn ngập ngừng, sau khi đó, tật nói dối không c̣n ám ảnh quí bạn một cách mạnh mẽ như trước nữa. Quí bạn thắng lần thứ nhứt th́ sẽ thắng lần thứ hai, lần thứ ba, mặc dầu tật xấu chống lại một cách dữ dội trước khi đầu hàng.

Từ đó về sau tánh “Ngay Thật” là thành phần tánh nết của quí bạn rồi. Quí bạn sẽ luôn luôn ngay thật, ngoại trừ vài trường hợp hiếm có, tức là “bất đắc dĩ không thể nói thật được”.

Về mấy tánh tốt khác cũng vậy, xin quí bạn nhớ rằng: Không có đủ những đức tánh của luật Trời qui định th́ không thể nào được Chơn sư thâu làm đệ tử và cửa Đạo vẫn đóng chặt. Quí bạn nào có đọc quyển “Dưới Chơn Thầy”, “Con đường của người đệ tử”, “Trước thềm Thánh điện”, “Người phụng sự”, “Trước thềm đạo” . . . đều biết rơ điều nầy.

Trong chu kỳ tiến hóa nầy, về phương diện luân lư đạo đức, hầu hết nhơn loại giống như những trẻ nít mới 6 – 7 tuổi, cần phải học tập, cần phải được dẫn dắt, dạy dỗ và giác ngộ luôn luôn.

Phải có ư chí cứng cỏi th́ chúng ta mới thắng được các chướng ngại chẳng chầy th́ kíp.

Đừng quên rằng chúng ta là những vị Tiểu Thượng Đế  có sẵn trong ḿnh tất cả những quyền năng của Đức Thượng Đế. Chỉ cần có một điều phải ra công luyện tập đặng mở mang và xử dụng chúng nó theo ư chúng muốn.

Ai có gan dạ, ai giỏi chịu đựng th́ tới trước, ai nhút nhát yếu đuối th́ tới sau. Chung cuộc ai ai cũng tới mục đích của Đức Thượng Đế đă định sẵn cho con người trong vũ trụ nầy.

Nhưng mà ai chậm trễ, ham vui chơi, không lo bổn phận th́ sẽ chịu không biết bao nhiêu nỗi thất vọng, đau khổ, có khi kéo dài cả chục muôn hay cả chục triệu năm như vậy, trong khi đó những bạn đồng hành đă qua hạng Siêu phàm nhập Thánh lâu lắm rồi.

Chỉ có bao nhiêu đó là sự khác biệt giữa những Linh hồn tiến hóa không đồng bực với nhau.

 

THỜI GIAN THAM THIỀN

Không nhứt định được phải bao lâu. Việc đó c̣n tùy thuộc sự tiến hóa của mỗi người. Hai cách tham thiền nói trên đây, mới nghe qua th́ nhiều nhưng khi đem ra thực hành th́ lối 10 – 15 phút đă đủ hết. Ban đầu th́ khó khăn thật, song khi có thói quen rồi th́ lần lần nó sẽ hóa ra dễ dàng.

 

TRONG NHỮNG GIỜ LÀM VIỆC

Trong những giờ làm việc tại Công hay Tư sở chúng ta nên giữ thái độ của người đă đạt được chơn lư, nghĩa là chúng ta có bổn phận phụng sự đồng bào mà không bao giờ vụ lợi. Mỗi việc nào cũng phải làm cho chính chắn, chu đáo, hoàn tất, không hề bao giờ có việc “chấm câu ăn tiền” như tục thường nói. Việc nào cũng là thiêng liêng cả. Chúng ta làm đây là làm cho Đức Thượng Đế và không bao giờ tưởng tới công quả. Trong Đạo đức gọi là trong Hữu vi có Vô vi.

Chúng ta tập tánh đoạn tuyệt, rồi lần lần những việc làm của chúng ta, dầu là tốt đẹp thế mấy cũng không c̣n trói buộc chúng ta vào bánh xe Luân hồi nữa.

Trời sẽ ban thưởng chúng ta một cách khác là cho tâm trí của chúng ta càng ngày càng thêm mở mang sáng suốt và chúng ta có nhiều cơ hội giúp đời hơn trước. Nhờ thế mà chúng ta mới mau thành chánh quả làm một vị Chơn Tiên.

 

II. TRƯA ĐÚNG NGỌ

Cũng tham thiền như sớm mai, nếu không tiện th́ nhớ tới đức tánh đương tập và niệm nhiều lần câu:

“AUM ! Hỡi Atman (Át măn) Chơn linh cao cả, toàn năng, toàn thiện, vô sở bất tại. Ngài là tôi, tôi là Ngài. Ngài như thế nào tôi như thế ấy”.

 

III. CHIỀU HAY TỐI

[Trong khoảng từ 6 giờ rưởi (18 giờ 30) tới 9 giờ rưởi (21 giờ 30) ].

Cũng tham thiền như buổi sớm mai.

Mỗi ngày nên xem những kinh sách Đạo đức và những báo chí khoa học đặng mở mang kiến thức. Phải lo mở tâm và mở trí một lượt. Tâm trí điều ḥa rồi mới giữ được thăng bằng, sẽ tiến mau tới cửa Đạo và giúp đời một cách hữu hiệu.

 

TỰ TỈNH

Tối trước khi đi ngủ nên kiểm soát  lại những tư tưởng và những hành vi của ḿnh trọn ngày. Nhưng phải bắt đầu từ tối trở ngược lại sáng, chớ không phải từ sáng đến tối. Phương pháp nầy mở mau lẹ trí nhớ. Thí dụ 10 giờ rưởi (22 giờ 30) ta đi ngủ th́ hồi 10 giờ ta ngồi suy nghĩ coi hồi 9 giờ rưởi ta tưởng cái chi, làm cái chi, rồi hồi 9 giờ, 8 giờ 30 - 8 giờ . . .  cho tới lúc 6 giờ sáng khi ta mới thức dậy. Nếu ta làm được việc lành th́ nên cố gắng làm thêm nhiều nữa. Trái lại nếu có lỗi lầm th́ ăn năn rồi suy nghĩ đặng sửa đổi cách tư tưởng, hành động hầu sau nầy không gây ra oan trái nữa. Sám hối rất tốt song đừng nhớ tới măi lỗi cũ như cách người ta đă chỉ bảo bấy lâu nay. Bởi v́ nhớ tới lỗi cũ chừng nào th́ càng dễ phạm lại lỗi đó chừng nấy, e không phải một lần mà c̣n nhiều lần nữa. Đừng buồn bực, đừng tức tối, không ích chi cả. Cái chi qua rồi, đă qua, chúng ta không sửa đổi quá khứ được. Hăy lo gầy dựng tương lai là điều cần thiết và tối quan trọng. Hăy dùng những tư tưởng và những hành vi tốt đẹp đặng sửa đổi số mạng của chúng ta kiếp nầy và kiếp sau nữa.

 

CHÍ CÔNG MÀI SẮT CHẦY NGÀY NÊN KIM

Hỡi quí bạn thân mến ! tôi lập lại nơi đây một cách vụng về những điều mà chúng tôi đă học hỏi với mấy vị Sư Huynh của chúng tôi. Cầu xin những lời giáo huấn nầy giúp đỡ được quí bạn phần nào cũng như bấy lâu nay nó là cây kim chỉ nam của anh em chúng tôi vậy.

Lành thay ! Lành thay ! Lành thay !

BẠCH LIÊN

PHỤ TRƯƠNG

 

NHỮNG LỜI CHỨNG MINH VỀ MÀU SẮC

 CỦA NHỮNG H̀NH TƯ TƯỞNG

 

Tôi xin đem hai đoạn sau nầy trong cuốn “Phương pháp Khoa học kim thời của sự Truyền Từ điển, Thôi miên, Gợi cảm của ông Paul C. Jagot trương 152, (Méthode scientifique moderne de Magnétisme, Hypnotisme, Suggestion page 152) để chứng về màu sắc của h́nh tư tưởng.

. . .  “Les théosophes, qui ont poussé très loin l’étude de certaines manifestations psychiques ont pu établir, grâce à certains clairvoyants, les loi de l’émission radiante qui contours extrêmement variés, émanent, disent-ils, de notre être pensant. La qualité de nos pensées détermine la couleur de ces formes, leur nature correspond aux contours et leur précision à la nettelé de ces derniers.

Or, nous avons reçu, de personnes auxquelles toute étude théosophique ou occultiste est étrangère, la description de formes colorées tout à fait semblables à cettes qui illustrent les écrits des maîtres de la théosophie sur le sujet !”

 

Xin dịch đại ư:

. . . “Những người Thông Thiên Học nghiên cứu rất sâu xa về những hiện tượng tâm linh, nhờ vài người có thần nhăn họ xác định được những luật của sự phát xạ của tư tưởng. Họ nói rằng chúng ta sanh ra những h́nh tư tưởng có màu sắc nhưng mà châu vi của những h́nh nầy khác biệt nhau rất xa. Phẩm của những tư tưởng qui định màu sắc của h́nh tư tưởng, bản tánh của tư tưởng làm ra châu vi và sự rơ rệt của châu vi tùy thuộc sự minh bạch của tư tưởng”.

Th́ ra, chúng tôi lại được những người không hề khảo cứu về Thông Thiên Học hay là huyền bí học trạng tả cho chúng tôi nghe những h́nh có màu sắc giống hệt những h́nh tư tưởng của các nhà lănh tụ phái Thông Thiên Học đă vẽ trong những sách của họ viết ra !”

*

Đọc đoạn trên chắc chắn quí bạn đă biết, những bạn của ông Paul C. Jagot đều có thần nhăn. Mấy vị ấy chứng minh rằng: Những lời của phái Thông Thiên Học nói về tư tưởng có h́nh dạng và màu sắc vẫn đúng với Chơn lư.

 

Tỷ như trong cái Vía của người tiến hóa th́:

Màu lục chỉ về tánh thiện cảm và thích nghi.

Màu hường là có ḷng từ ái.

Màu xanh là có ḷng mến Đạo.

Màu vàng là dấu hiệu khôn ngoan.

Màu tím ở trên đầu chứng tỏ được trạng thái mở mang về phần tinh thần.

CHƯƠNG THỨ BA

mục lục đầu sách cuối sách chương 1 chương 2 chương 3

LẬP HẠNH LÀ ĐIỀU KIỆN TỐI CẦN

Từ xưa đến nay và cho tới muôn đời sau, lập hạnh là điều kiện tối cần của người đời và nhứt là những người muốn tầm chơn lư.

Đức Phật dạy đạo Bát Chánh.

Đấng Christ bảo: “Hăy trọn lành như Cha các ngươi ở trên trời trọn lành vậy”.

Đức Khổng Tử khuyên: “Tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ”.

Con người có thể làm một vị thượng tướng trong tay cầm bá vạn hùng binh, trăm trận trăm thắng, nhưng mà ḿnh thắng lấy ḿnh là một việc c̣n khó khăn gấp trăm lần chiến thắng kẻ nghịch. Ḿnh thắng phục ḿnh được rồi ḿnh sẽ thắng phục được Tạo vật. Trước khi nói đến sự luyện tập tánh t́nh tôi xin hiến quí bạn câu chuyện dưới đây:

 

CHUYỆN SOCRATE THÂU XÉNOPHON LÀM ĐỆ TỬ

Một ngày kia Socrate đi dạo trong thành Nhă điển (Athènes) [9], bổng gặp một thanh niên mặt mày sáng láng. Ngài định thâu nạp cậu nầy làm đệ tử. Ngài bèn lấy gậy chận đường cậu lại và hỏi: “Cậu biết ở đâu bán bánh ḿ và thịt không?” Xénophon bèn đáp: “Tôi biết lắm, Ngài kiếm mấy món đó tại chợ A gô ra (Agora)”. Socrate không hạ cây gậy xuống và hỏi thêm: “C̣n người ta mua giầy dép và quần áo chỗ nào?”. Xénophon bèn chỉ mấy người bán hàng cho Socrate. Socrate mới nói: “Tốt lắm. Cậu đă biết nhiều chuyện hữu ích rồi, bây giờ đây cậu có rơ ở đâu mà người ta học hỏi đặng làm một vị thiện nhân không?”.

Chuyện nầy Xénophon làm thinh và thẹn đỏ mặt. Socrate bèn nói: “Nếu mà cậu dốt chuyện trọng yếu hơn hết th́ mấy cái c̣n lại cậu biết có ích ǵ không?”

“Cậu để trí thức của cậu làm ǵ nếu cậu không biết dùng nó đặng làm việc thiện? Nó ở với cậu cũng như một khí cụ nằm trong tay một người không kinh nghiệm. Va quơ bậy quơ bạ, nó sẽ phạm vào tay chơn va, chớ va không tiến tới trong nghề nghiệp chút nào”

Khi thấy Xénophon đứng sững sờ trước mặt ḿnh và hổ thẹn v́ bấy lâu nay bỏ luống môn học thức chánh đáng. Socrate bèn nói: “Thôi cậu hăy theo tôi, chúng ta sẽ nghiên cứu khoa học làm kẻ thiện nhân”.

Từ đó Xénophon theo Socrate học tập và sau trở nên một bực vĩ nhân đă làm rạng danh cho quê hương là xứ Hi Lạp.

*

Học đạo không khác nào cất một cái nhà, trước hết phải lo đấp nền tảng cho vững chắc, chẳng vậy, nếu một trận giông thổi tới không biết ngày giờ nào th́ nó sẽ sụp đổ tan tành. Nền đạo là đức hạnh.

Người đời có thể luyện được phép kêu mưa hú gió, sái đậu thành binh, sai thần khiến quỉ, chỉ đá hóa vàng, song nếu không có đủ đức hạnh của luật trời qui định th́ không hề khi nào được đứng tên trong bộ Tiên Ban. Người có thần thông thường ỷ tài làm quấy, thế nên phải bị muôn kiếp trầm luân.

Vậy th́ chúng ta phải lo tu tâm luyện tánh trước nhứt và chớ nên ham phép tắc mà kêu cái họa đến cho ḿnh.

12 đức tánh cần thiết cho người học đạo là:

1. TỪ BI BÁC ÁI             7. CAN ĐẢM

2. BỐ THÍ                      8. THANH KHIẾT

3. HY SINH                    9. BỀN CHÍ

4. CHƠN THẬT               10. KHÔN KHÉO

5. THĂNG BẰNG             11. TỰ TÍN

6. KHOAN DUNG            12. MẶC

 

Mỗi tháng tập một đức tánh, trong một năm đủ 12 đức tánh. Khởi sự tháng nào cũng được. Nếu tháng đầu tập tánh TỪ BI BÁC ÁI th́ tháng kế BỐ THÍ, tháng thứ ba HY SINH v. v. . . Hết tánh MẶC rồi qua năm sau trở lại TỪ BI BÁC ÁI như cũ. Phải tập 15 năm như vậy. Nếu hành đúng công phu như tôi đă nói trong bài tựa th́ hết ba năm đầu đă khởi sự thấy cái kết quả rồi. Xin quí bạn chớ ngă ḷng. Luyện tập tánh t́nh là vấn đề thời gian, không biết phương pháp th́ trọn một kiếp e chưa tập được hai tánh tốt và dứt bỏ một tánh xấu. Không khéo th́ kiếp nầy qua kiếp kia tiến có vài bước trong khi đó người biết đạo đă đi xa cả trăm cây số rồi.

Luyện tập tánh t́nh tốt là gầy dựng một cái gia tài vĩnh viễn trường tồn, chớ những vàng bạc châu báu của ta gom góp trong mấy chục năm xài được lâu lắm là một đời. Có khi chưa bỏ xác nó đă về tay người khác rồi. C̣n gia tài thiêng liêng nầy theo ta đời đời kiếp kiếp, không rời bỏ ta. Kiếp nầy ta luyện tập được đức tánh nào th́ kiếp sau ta sanh ra đă có sẵn đức tánh đó trong ḷng ta. Thế nên ta thấy có nhiều đứa nhỏ mới ba bốn tuổi tự nhiên siêng năng, hiền hậu, ngay thật, biết bố thí v. v. . . Ấy là nhờ mấy kiếp trước chúng nó đă tập được những tánh tốt nầy rồi.

 

Lời dặn cần kiếp: Quí bạn nên đọc hết 12 đức tánh. Nếu đương tập tánh Bố thí mà gặp dịp th́ cũng phải Can đảm, Hy sinh hay Khoan dung vậy. Không nên câu chấp và nhớ luôn luôn, ta phải TỰ TÍN [10] mới đoạt được mục đích. Dám chắc mỗi ngày ta đều có cơ hội để tỏ ra thành thật, ôn ḥa, chất phác, khiêm tốn v. v. . . .

 

NHỮNG ĐỨC TÁNH PHẢI TẬP

 

THÁNG THỨ NHỨT

TỪ BI BÁC ÁI

Có ḷng Từ bi Bác ái tức là thương yêu muôn loài vạn vật, phá vách tường tranh chấp giữa Ta với Người. Ḷng thương nầy phải như Trời cao bể rộng, vô tận vô biên, không phân biệt thân hay sơ, đồng chủng hay ngoại bang và bao hàm tất cả chúng sanh trong vũ trụ. Người có ḷng Từ bi Bác ái đă hiểu rơ cơ Trời và biết rằng ngày nay thiên hạ tấn hóa không đồng bực với nhau là tại phàm nhơn của mỗi người mỗi khác, có người sanh trước, có người sanh sau, có người siêng năng, có người biếng nhác, có người đă giàu kinh nghiệm, có kẻ lại bơ thờ. Bề ngoài th́ như thế mà bên trong cả thảy đều đồng bản tánh thiêng liêng với nhau và đều là Chơn thần toàn năng toàn thiện cả.

Ḷng Tứ bi Bác ái của con người khởi đầu trong t́nh mẹ thương con và bao giờ cũng sẵn sàng hy sinh cho nó.

Khi xưa Đức Phật Thích Ca có dạy: “Tất cả phương tiện thi hành trong kiếp nầy đặng đắc quả không bằng một phần mười sáu của ḷng từ bi bác ái. Nảy sanh ḷng từ bi bác ái một lần là một việc c̣n cao quí hơn sự bố thí cho kẻ nghèo ba lần mỗi ngày với cả trăm bát đầy thực phẩm.

Ngài cũng nói: “Nếu các con muốn phụng sự Ta, hăy phụng sự kẻ đau ốm bịnh hoạn”.

Đức Jésus Christ cũng có dạy: “Các con giúp đỡ một em nhỏ mọn của Ta, tức là giúp đỡ Ta vậy”.

Một người chỉ tỏ được ḷng bác ái cao cả là khi nào va hy sinh cho các bằng hữu của va.

Ḷng từ bi bác ái là nguyên động lực của nhiều tánh tốt như bố thí, hy sinh, khoan dung và can đảm. . .

Đức Đế quân K. H. cũng có nói: “Có mấy tánh tốt khác mà thiếu ḷng từ bi bác ái th́ cũng như nước đổ xuống cát bị rút đi mất hết”. Thật vậy, mặc dầu có tánh ngay thẳng, siêng năng, cần mẫn, can đảm mà không dạ nhơn từ th́ hóa ra gắt hiểm, cộc cằn không ai chịu nỗi cách ăn thói ở của ḿnh và trọn đời ḿnh cũng không thể làm bạn thân với ai được lâu, mà cũng không giúp ai được nhiều.

Muốn mở ḷng từ bi bác ái th́ ta phải lập làm những việc nhỏ mọn hằng ngày cho quen đặng sau gặp việc lớn lao mới đủ sức thực hành. Trọn ngày trước mặt ta thiếu chi những việc làm có tánh cách từ bi bác ái.

Một con thú đương đói, ta hăy cho nó ăn; một cành bông ngă xuống, ta hăy nâng lên; một miểng chai, một vỏ chuối nằm giữa đường ta hăy lượm bỏ vô giỏ rác; một con kiến té xuống nước, ta hăy vớt nó liền. Ḱa một người ăn xin qua đường, ta hăy giúp họ tùy theo phương tiện của ta, nhứt là an ủi người, đừng cho người tủi ḷng v́ cảnh cơ hàn hay tàn tật. T́m công việc làm cho người thất nghiệp, bảo hộ những mẹ góa con côi, lo thuốc men cho những người bịnh hoạn tứ cố vô thân, binh vực những kẻ yếu đuối bị hiếp đáp vô cớ, khuyên nhủ trẻ em rán sức học hành và trau dồi hạnh kiểm, đừng sát chim chóc hay hành hạ hại thú vật vô tội . . .

“Đầu cành chim đậu xin đừng bắn,

Trong ổ con đương ngóng mẹ về”.

Đó là những việc phước thiện mà ai ai cũng có thể làm được. Nếu làm chưa rồi th́ chớ nên mong mỏi tu hành trong một kiếp mà thành Tiên, thành Phật, đặng độ tất cả chúng sanh. Chuyện đó c̣n xa với lắm.

 

PHẢI THỰC HÀNH NHỮNG ĐIỀU ĐĂ SUY NGHĨ

 

Suy nghĩ về đức tánh nào th́ phải thực hành về đức tánh đó trong sự giao thiệp và trong công việc hằng ngày của ta. Cái kết quả tốt đẹp không phải ở nơi suy nghĩ việc phải mà ở nơi thực hành việc phải, không v́ tư lợi.

Tục ngữ Pháp có câu: “Đường đi âm phủ lót đầy những hảo ư” (Le chemin de l’enfer est pavé de bonnes intentions).

 

NHỮNG GƯƠNG BÁC ÁI

1.- CHUYỆN THÁI TỬ ĐIỆC GA DU

Ngày kia anh em trong Tăng già có việc rầy rà với nhau nên chia ra hai phe, không phe nào nhịn phe nào. Phật thấy vậy mới thuật sự tích của một vị Thái tử tên Điệc Ga Du như vầy: [11]

Thuở xưa có một vị hoàng đế xứ Cô Sa La tên là Điệc Gơ Ti bị vua xứ Ca Si là Bra ma đạt ta chiếm đoạt giang sơn, nên giả làm một ông thầy tu dắt vợ qua trốn tại thành Bê na rết. Qua đó ít lâu, hoàng hậu sanh đặng một đứa con trai đặt tên là Điệc Ga Du. Điệc Ga Du lớn lên thông minh xuất chúng. Vua mới dạy Điệc Ga Du lánh ḿnh đi nơi khác và sợ e ở đó có ngày sẽ bị hại. Thật vậy, một ngày kia vua Điệc Gơ Ti bị một viên quan cựu thần của ngài khi trước nh́n được nên đi tố giác với vua Bra ma đạt ta. Vua Bra ma đạt ta truyền lịnh bắt hai vợ chồng vua Điệc Gơ Ti xiềng lại, dẫn đi cùng đường rồi dạy đem ra ngọ môn chặt làm bốn khúc. Ngày đó Thái tử Điệc Ga Du trở về thăm cha mẹ. Hay tin ấy, Thái tử mới trà trộn theo bá tánh đến chốn pháp trường. Vua Điệc Gơ Ti thấy con bèn động ḷng sa nước mắt, song làm bộ day mặt chỗ khác rồi nói lớn rằng: “Điệc Ga Du con ôi ! con đừng ngó xa lắm mà cũng đừng ngó gần lắm. Chẳng phải lấy oán trả oán mà oán đó tiêu, phải lấy ơn đáp oán th́ oán mới dứt”.

Khi vua và hoàng hậu bị hành h́nh rồi, Thái tử Điệc Ga Du trốn vào rừng t́m kế báo thù. Một ít lâu Thái tử bèn thay h́nh đổi dạng ra xin làm tên nài chăn voi cho vua. Thái tử tiếng tốt, đờn hay và giọng ca lảnh lót lắm. Tiếng đồn thấu tới tai vua, vua mới đ̣i vào ca hát cho vua nghe. Vua đẹp ư mới cho Thái tử hầu hạ một bên ḿnh vua luôn luôn.

Một bữa kia Thái tử theo hầu vua đi săn. Quần thần ham săn thịt mới bỏ vua ở lại một ḿnh với Thái tử. Vua mệt mỏi bèn kê đầu lên vế Thái tử mà ngủ. Thái tử nghĩ rằng: “Lăo nầy độc ác, đă thâu đoạt hết giang sơn của cha mẹ ta mà chưa vừa ḷng, lại c̣n bắt cha mẹ ta giết đi. Ngày nay số lăo đă tới, vậy ta phải chém đầu lăo đặng trả thù cho cha mẹ ta”. Thái tử nghĩ như vậy bèn rút gươm ra toan giết vua.

Bổng chốc nhớ lại lời vua cha dặn trước khi thác rẳng:

Không nên ngó xa lắm, không nên ngó gần quá. Chẳng phải lấy oán trả oán mà oán đó tiêu, phải lấy ơn đáp oán thí oán mới dứt”.

Thái tử bèn đút gươm vô vỏ. Ba lần vừa rút gươm ra th́ ba lần nghe văng vẳng bên tai lời vua cha dặn. Lúc ấy vua Bra ma đạt ta nằm chiêm bao thấy Thái tử muốn giết ḿnh. Vua liền giựt ḿnh mở mắt ra, Thái tử bèn nắm đầu vua rút gươm ra nói rằng:

Ta là Thái Tử Điệc Ga Du, con của vua Điệc Gơ Ti đây. Khi trước ngươi chiếm đoạt giang sơn của cha mẹ ta mà c̣n bắt cha mẹ ta hành h́nh. Ngày nay số ngươi đă tới. Vậy ta phải chém đầu ngươi đặng báo oán”.

Vua Bra ma đạt ta nghe vậy kinh hồn thất phách, rung rẩy lập cập qú xuống nói rằng: “Xin Thái tử nhiêu dung tánh mạng cho tôi”.

Thái tử nói rằng: “Không phải là ta tha ngươi đâu, ấy là ngươi tha ta mới phải”. Vua đáp rằng: “Vậy th́ ngài hăy tha tôi trước rồi tôi sẽ tha ngài sau”. Thái tử buông vua ra. Vua với thái tử nắm tay nhau và thề không hề làm hại nhau nữa. Vua bèn hỏi Thái tử: “Tại sao Thái tử không giết trẩm trong lúc ngủ”. Thái tử đáp rằng: “Muôn tâu bệ hạ, trước khi thác phụ hoàng tôi có dặn tôi ba điều nầy.

1)   Con đừng ngó xa lắm;

2)   Con đừng ngó gần lắm;

3)   Chẳng phải lấy oán trả oán mà oán đó tiêu, phải lấy ơn đáp oán th́ oán mới dứt.

Vua bèn hỏi:  Ba câu đó nghĩa chi vậy?

Thái tử trả lời rằng:

1)   Con đừng ngó xa lắm nghĩa là dặn tôi trong ḷng đừng cố oán lâu ngày.

2)   Con đừng ngó gần lắm nghĩa là dặn tôi chớ nên vội dứt t́nh bằng hữu.

3)   Bệ hạ đă sát hại cha mẹ tôi, nếu bây giờ tôi giết bệ hạ, th́ bầy tôi trung của bệ hạ sẽ giết lại tôi, rồi quần thần của tôi sẽ báo cừu cho tôi nữa.

Hễ lấy oán trả oán th́ oán đó bao giờ mới tiêu. Ngày nay bệ hạ dung tánh mạng tôi và tôi không thích khách bệ hạ th́ thù oán khi xưa đă dứt.

Vua Bra ma đạt ta nghe vậy gật đầu ngẫm nghĩ rằng: “Hay thật ! Lạ lùng thật !” Thái tử Điệc Ga Du rất thông minh nên hiểu nổi mấy lời cha ḿnh bảo. Vua bèn gả công chúa cho Thái tử và trả hết thành tŕ, binh lính, khí giới, kho tàng của vua đă chiếm đoạt khi trước cho Thái tử, rồi tôn Thái tử lên làm vua xứ Cô Sa La.

Khi hội Tăng già nghe chuyện Thái tử Điệc Ga Du rồi từ đó về sau không hề xích mích với nhau nữa.

LỜI BÀN: Bài nầy rất phù hợp với câu Oan gia nghi giải bất nghi kết, oan gia nên gỡ oán, chớ không nên kết. Người đời đều nhờ lẫn nhau, ai biết sau đây ḿnh có việc phải tới cầu lụy người mà ḿnh đang oán giận bây giờ chăng? Vậy th́ hăy lấy ḷng khoan dung đại độ mà tha lỗi cho người. Giờ nào ḿnh cũng an lành và ngủ yên giấc.

Phật thường nói: “Người nào hại ta th́ ta ban ơn lành lại cho người đó, người nào làm quấy với ta bao nhiêu th́ ta làm phải lại với người đó bấy nhiêu. Em Phật là Đê-hoa-đạt-ta ba phen kiếm thế giết Phật, song hại không được mà Phật không hề chấp nhứt. Có một lần Đê hoa đạt ta xúi vua Ác gia ta sa trui [12] sai nhiều người đến thích khách Phật. Song mấy người nầy nghe Phật thuyết pháp th́ qui y với Phật liền. Một lần khác kẻ nghịch Đê hoa đạt ta leo đứng trên núi Đồ Quật [13] rinh một cục đá lớn, nhắm ngay Phật thảy xuống. Nhưng cục đá đó bể hai và văng ra hai bên; có một miểng trúng chơn Phật chảy máu. Một lần nữa Đê hoa đạt ta thả con voi dữ Nalagiri ra đặng nó vật Phật đi. Song con voi chạy gần tới Phật th́ nó hóa ra hiền, đứng sửng trước mặt Phật. Bởi v́ Phật làm gương cho người thấy nên Phật thốt ra điều chi, ai ai cũng đều cúi đầu bái phục.

 

2. – KHÔNG YÊU NHAU MỚI LOẠN

 

Thánh nhơn trị thiên hạ tất phải biết loạn từ đâu mà ra th́ trị thiên hạ mới được. Không biết loạn tự đâu ra th́ không trị nổi được thiên hạ. Ví như thầy thuốc chữa bịnh cho người ta, tất phải biết bịnh căn tự đâu khởi ra th́ mới chữa được, chớ không biết th́ chữa không nổi được bịnh. Người loạn có khác ǵ thế?

Loạn tự đâu mà sanh ra? Sanh ra bởi không yêu nhau.

-  Con không hiếu với cha, tôi không trung với vua, thế là loạn đấy. Con chỉ yêu đến thân con không yêu đến cha, cho nên làm thiệt cha để lợi ḿnh; em chỉ yêu thân em, không yêu đến anh, cho nên làm thiệt anh để lợi ḿnh; bầy tôi chỉ biết yêu thân ḿnh, mà không biết yêu vua cho nên làm thiệt vua để lợi ḿnh. Thế là loạn đấy.

Tuy đến cả cha mẹ không thương con, anh mà không thương em, vua mà không thương bầy tôi, thế cũng là loạn. Cha chỉ yêu thân cha, không yêu đến con, cho nên phải làm thiệt con, để ḿnh được lợi; anh chỉ yêu thân anh, không yêu đến em, cho nên làm thiệt em để ḿnh được lợi; vua chỉ yêu thân vua, không yêu bầy tôi cho nên làm thiệt hại bầy tôi để ḿnh được lợi.

Tại sao mà sanh ra những điều ấy? Có phải chỉ tại không yêu nhau cả phải không? Đến cả quân trộm vặt cũng vậy. Thằng trộm chỉ biết yêu nhà ḿnh, không yêu nhà người khác, cho nên ăn trộm nhà người khác để lợi cho nhà ḿnh; thằng giặc chỉ biết yêu thân ḿnh chẳng yêu thân người khác, cho nên sát hại thân người khác để lợi thân ḿnh. Tại sao mà sanh ra như thế? Có phải chỉ tại không yêu nhau cả mà thôi không?

Cho đến các quan khuynh loát nhau, các nước đánh lẫn nhau, cũng tại các quan chỉ biết yêu nhà ḿnh, không yêu nhà khác cho nên hại nhà khác để lợi cho ḿnh, các nước chỉ yêu nước ḿnh, chẳng yêu nước khác cho nên đánh nước khác để lợi cho nước ḿnh.

Ấy thiên hạ sanh ra loạn là bởi như thế cả. Nếu biết yêu nhau, th́ c̣n ai nỡ hại ai, mà thiên hạ làm ǵ chẳng b́nh trị.

MẶC TỬ

 

LỜI BÀN: Đại ư bài nầy rút lại một câu là: loạn mà sanh ra được, là chỉ tại cái ḷng không yêu nhau hết cả. Cầu lợi cho ḿnh tức là muốn hại người, mà hại người tất ghét người; ghét người tất người ghét lại mà thành ra không ai được b́nh yên, ai cũng chỉ lo toan tranh cướp lấy lẫn của nhau mà thôi. Vậy muốn cho khỏi loạn, tất phải   làm sao cho thiên hạ biết yêu nhau, yêu người cũng như yêu ḿnh. Đó chính là cái cốt yếu của MẶC TỬ, là cái ư kiêm ái, yêu cả loài người, không phân biệt thân sơ ǵ cả.

Ư MẶC TỬ đây cũng giống như ư của MẠNH TỬ nói rằng “Ở đời ai nấy đều con cái thân yêu cha mẹ, kẻ dưới tôn kính người trên, th́ tự khắc thiên hạ b́nh trị !” nhưng có phần thống thiết hơn, v́ nói đến cả quân thần cũng có khi không thương yêu thần tử cho nên sanh loạn. Cái thuyết ấy kể tuy quá đáng, nhưng ở những đời ai ai cũng chỉ tự tư tự lợi, có nói quá đi như vậy, th́ mới mong người tỉnh lại ít nhiều chăng.

CỔ HỌC TINH HOA

 

THÁNG THỨ HAI

 

CÔNG PHU MỖI NGÀY

Từ tháng đầu tiên sắp sau, công phu mỗi ngày đều giống in nhau, chỉ có tập đức tánh trong tháng là khác nhau mà thôi.

 

BỐ THÍ

Bố thí để tỏ ḷng thương xót và giúp đỡ những người cô đơn, hoạn nạn, nghèo khó, bịnh hoạn, dốt nát, tật nguyền v .v . . .  Có bao nhiêu cách thức đau khổ th́ có bấy nhiêu cách bố thí. Phải tùy duyên, tùy phận, không nhứt định được. Có thể bố thí từ lời nói tới việc làm, từ đồng tiền đồng bạc cho tới thuốc men quần áo. Dầu sao bố thí tự nơi tâm ḿnh mà ra th́ quí hơn hết. Không ai buộc ḿnh làm quá sức ḿnh. 

Bố thí đặng diệt tánh tham lam, ích kỷ v́ tánh ích kỷ xúi giục con người thâu vô cho nhiều, tom góp hết về cho ḿnh chớ không chịu phát ra. Hồi mới thoát kiếp thú đi đầu thai làm người tánh ích kỷ giúp cho ta tiến tới. Nó làm cho con người có tánh siêng năng, cần mẫn, nỗ lực, sáng kiến, làm lụng. Nhưng tới một mức kia nó hết hữu ích  mà trở lại thành tai hại. Nó ngăn cản bước đường tiến hóa của con người. Phải trừ khử ngay liền và phăng tới gốc rễ nó.

Quí bạn chớ quên rằng chúng ta là Chơn thần. Xuống cơi trần ở tạm một thời gian đặng học hỏi. Không có cái chi tại thế được vĩnh viễn trường tồn. Vợ đẹp hầu xinh, con ngoan cháu hiền, nhà cao cửa rộng, ngọc ngà châu báu, chức tước oai quyền ở với ta lâu lắm là một đời mà thôi. Trong vài chục năm, những điều mà ta quí mến hơn hết có thể về tay người khác. Chung qui ta nắm hai tay trắng mà xuống mồ ! Ngày nay ta giàu sang là nhờ kiếp trước đă gieo giống lành. Nếu kiếp nầy ta biết dùng tiền dư giả của ta để giúp ích cho kẻ khác th́ qua đời sau ta c̣n gặp nhiều cơ hội tốt tiến tới dễ dàng. Trái lại nếu ỷ thế bốc lột th́ ta sẽ gặt lấy quả xấu, v́ ta đă gieo nhân chẳng lành, dẫu ta chạy trốn ngă nào cũng không khỏi.

Vậy th́ ta phải tập bố thí, ban đầu ít sau nhiều. Bố thí v́ biết bổn phận phải làm và v́ đă mở ḷng nhơn chớ không mong hưởng hạnh phúc về sau hay được danh thơm tiếng tốt. Hễ thi ân th́ bất cầu báo, cầu báo th́ bất thi ân. Nếu bố thí mà trông người trả ơn hay mong mỏi Trời ban phước lộc th́ không khác nào một cuộc đổi chác bán buôn. Hễ tay mặt đưa món hàng ra th́ tay trái thâu tiền vô. Tục gọi: “Tiền trao, cháo múc”. Như thế đâu phải là bố thí. Quả thật: “Khó giúp nhau mới thảo, giàu tư trợ ai màng”. Luôn luôn cách cho c̣n hơn của cho. Trong việc bố thí phải thận trọng từ chút, đừng v́ lẽ ǵ, hoặc vô t́nh hay cố ư mà làm cho người ta đau khổ, e mất đức b́nh sanh.

Than ôi ! Nếu ngày nay ta c̣n thấy nhiều cảnh thương tâm xảy ra mỗi ngày th́ ấy là tại cách tổ chức của xă hội trái hẳn luật Trời và tại con người c̣n thiếu ḷng nhơn. Ngày nào diệt được tánh ích kỷ, ngày đó thiên hạ mới thái b́nh an cư lạc nghiệp.

Hăy coi gương mặt nhựt. Không có nó soi sáng th́ chúng ta ở trong chốn tối tăm, vạn vật đều chết hết, không có chi sanh sản được. Nhưng người thế đă không tỏ dấu biết ơn chút nào mà có khi c̣n nguyền rủa là khác. Mặc dầu như vậy, mặt nhựt vẫn ban rải ánh sáng không nghỉ, không ngừng mà vẫn không hề trách móc ai. Ta hăy bắt chước gương mặt nhựt, nếu muốn mau thành đạo.

 

TẠI SAO TA KHÔNG NÊN TỪ BỎ MỘT SỰ BỐ THÍ NÀO?

Tôi đă từng chứng kiến vài lần chuyện nầy. Một người đói khó đi xin ăn. Một vị có học thức lại thuộc hạng khá giả thấy vậy nói: “Tại kiếp số nó như vậy, nó phải chịu, bố thí làm ǵ?” Nói rồi day mặt chỗ khác bỏ đi luôn.

Vâng. Người đó vô phước gieo giống chẳng lành kiếp trước nên ngày nay phải lănh lấy cái quả không tốt. Nhưng ta gặp tức là Trời bảo ta thay mặt cho Ngài đặng giúp đỡ và hầu hạ cho va thấy ḷng từ bi bác ái vô lượng vô biên của Ngài. Sự giúp đỡ có nghĩa là: sự đau khổ của va đă chuộc tội cho va rồi nên trời mới cứu va. Đó là cho va một bài học hay đặng cho va nhớ v́ chưng kiếp trước va ích kỷ không thương xót ai, gây ra tội ác nên ngày nay quả báo trả lại. Bây giờ va được người ta thương yêu, săn sóc, lo lắng, va sanh ḷng cảm mến ăn năn lỗi cũ và từ đây sẽ hóa ra nhơn từ hơn trước. Luật nhơn quả không phải là luật báo oán, nó là ông thầy dạy đời rất hay.

Hiểu như vậy rồi mà ta không tuân lịnh Trời bỏ qua cơ hội tốt cứu trợ người th́ chắc chắn sẽ có người khác thay thế cho ta hoặc là Trời sẽ ra tay giúp đỡ chừng đó người c̣n vô minh cho là chuyện phi thường. Không có cái chi cản nổi sức Trời hay là làm nghịch với Ngài được lâu. Ta thờ ơ lănh đạm, từ chối sứ mạng th́ gây ra quả xấu làm cho ngày sau ta bị lẻ loi khi ta lâm vào cảnh khốn cùng. Chừng đó ta sẽ bị bỏ rơi, không ai đoái hoài in như lúc ta chẳng thèm ngó ngàng tới kẻ đói khó. Có vay th́ có trả.

Có người nói: “Khi khốn khổ gặp tôi, chưa chắc quả của va tới chừng đó th́ dứt”. Tôi không nói dứt hay là không dứt. Đó là việc của nhơn quả chớ không phải là việc của ḿnh. Nếu Trời không cho va hưởng quả tốt th́ dù ḿnh muốn giúp va cách nào cũng có những sự trở ngại tự nhiên mà ta vượt qua không nổi v́ chúng nó mạnh hơn ư muốn và sức của ta; ta phải khoanh tay chịu phép.

Hiện giờ ta có bổn phận phải bố thí, phải nhơn từ, thương yêu chúng sanh và giúp đỡ kẻ cô thế, tật nguyền, tùy phương tiện. Trời không hề buộc ta làm quá sức ta. Nếu mỗi người đều nói thây kệ nó, quả ai nấy chịu th́ không có những cơ quan phước thiện, không có những cô nhi viện, không có những nhà dưỡng lăo, không có những dưỡng đường v . v. . . và các đấng Giáo chủ cũng không ra đời dạy đạo.

Quí bạn hăy suy nghĩ coi có phải vậy chăng?

 

NHỮNG GƯƠNG BỐ THÍ

 

1.- TRỌNG NGHĨA KHINH TÀI

Ông Phạm Trọng Yêm, người nhà Tống, làm quan đến Tể tướng mà vẫn nghèo suốt đời. Tính ông trọng nghĩa khinh tài, thích làm việc bố thí, nhứt là đối với người trong họ, lại càng hậu lắm. Ông để dành lương bổng, mua một thửa đất làm nghĩa trang để cứu người nghèo trong họ. Phàm việc tang tóc, cưới xin của họ, ông đều lo hậu giúp đỡ hết.

Con ông là Thuần Nhân, đức tánh cũng như ông. Lúc ông làm quan ở Khai Phong, để dành được năm trăm thùng thóc, sai Thuần Nhân đem về quê. Thuần Nhân đi đến Đan Dương, gặp người bạn cũ của cha là Thạch Man Khanh, nhà đă cùng quẩn, chẳng may gặp ba cái tang một lúc. Thuần Nhân giúp cho cả năm trăm thúng thóc. Hai con gái Man Khanh lớn tuổi mà chưa gả bán gầy dựng, không chỗ nương dựa. Thuần Nhân cho nốt cả cái thuyền.

Đến lúc về nhà cha hỏi: “Con đi có gặp ai không?”

Thuần Nhân thưa: “Con đến Đan Dương, có gặp Thạch Man Khanh nhà nghèo khổ, lại một lúc liền ba cái tang, hai con gái lớn không có ǵ gầy dựng, con có thiện tiện cho cả năm trăm thùng thóc mà c̣n chưa đủ”.

Ông bảo: “Thế sao con không cho nốt cái thuyền?”

Thuần Nhân thưa: “”Con cũng cho cả cái thuyền rồi”.

Ông khen phải. Rồi nói: “Có như thế mới đáng là con của ta”.

 

PHẠM TRỌNG YÊM truyện

 

LỜI BÀN: Làm quan đến bực Tể tướng mà nhà vẫn nghèo. Thế là thanh liêm đáng khen. Để dành được đồng nào lại đem bố thí cho kẻ nghèo khổ, thế là nhân đức đáng khen hơn nữa. Có năm trăm thùng thóc cho cả, thế là thương người đáng khen. C̣n chiếc thuyền ḿnh đi cũng cho nốt, thế là quên ḿnh đáng khen hơn nữa. Rơ ràng cha nào con nấy, hai cha con ông Phạm Trọng Yêm thật là có ḷng nhân ái, hiểu thấu cái nghĩa cứu kẻ khốn cùng, giúp người tai nạn là việc vui ḷng nhứt ở đời.

 

CỔ HỌC TINH HOA

 

1.- MUA NGHĨA

 

Mạnh Thường Quân nhà giàu cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Huyền sang đất Tiết đ̣i nợ. Lúc sắp đi Phùng Huyền hỏi: “Tiền nợ thu được, có định mua ǵ về không?” . . . Mạnh Thường Quân nói: “Ngươi xem trong nhà ta c̣n thiếu thứ ǵ th́ mua”.

Khi lên đất Tiết, Phùng Huyên cho gọi dân lại, bảo rằng: “Các ngươi công nợ bao nhiêu, Thường Quân đều cho cả”. Rồi đem văn tự ra đốt sạch.

Lúc về Phùng Huyên thưa rằng: “Nhà Tướng công châu báu đầy kho, chó ngựa đầy chuồng, người đẹp đầy nhà, không c̣n thiếu ǵ nữa. Chỉ c̣n thiếu một cái ‘nghĩa’, tôi trộm phép v́ Tướng công mua về”.

Mạnh Thường Quân nghe thấy nói thế, cũng không hỏi ǵ đến tiền nữa.

Sau Mạnh Thường Quân phải băi quan về ở đất Tiết, dân đất Tiết nhớ đến ơn xưa, ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân bấy giờ mới ngoảnh lại bảo Phùng Huyên rằng: “Trước tiên sinh v́ tôi mua nghĩa, nghĩa ấy ngày nay tôi mới trông thấy.”

 

LỜI BÀN: Của là trọng mà nghĩa lại càng trọng hơn. V́ của có khi hết chớ nghĩa c̣n măi măi. Người ta ở đời lúc đă giàu có thường hay vơ vét gian tham, tưởng như thế là được lâu dài, bền chặt. Nhưng ta nên hiểu cái lẽ “Tài vi oán phủ” nghĩa là của là kho oán, lắm khi chỉ v́ lắm của mà gây nên những chuyện làm cho thiên hạ bất b́nh, ghét bỏ, thù oán, ghen hờn cho nên người ta lúc giàu có cũng nên ăn ở làm sao mua chuộc lấy chút “nghĩa” để pḥng khi suy biến c̣n có chốn nương nhờ. Việc nghĩa tức là việc phải, việc nghĩa tức là việc từ thiện, việc nghĩa tức là ích chung, việc nghĩa tức là việc công b́nh, ơn đức, chỉ có việc nghĩa dễ thấm ḷng người và làm cho người nhớ dai mà thôi.

 

CỔ HỌC TINH HOA

 

3.- THÁC RỒI MÀ C̉N LÀM VIỆC PHƯỚC THIỆN Ở TRẦN

Ông Dr. Minot J. Savage trong Ainstées Magazine tháng Mars 1902, Volume IX, trương 119, có thuật chuyện nầy tóm tắt ra sau đây:

“Cách đây vài năm tại thành Boston có một vị mục sư tân giáo rất danh tiếng, lo giúp đỡ những nhà nghèo khổ. Ông và vợ ông săn sóc những người cô độc, những người mà không ai tha thiết đến. Lúc già rồi, ông mục sư có một người bạn đồng nghiệp tới tiếp sức với ông. Chẳng bao lâu, ông mục sự, vợ ông và người bạn đồng nghiệp đều từ trần, chỉ tồn c̣n có vợ của ông bạn đồng nghiệp lo nối chí của ba vị kia. Hai vợ chồng ông mục sư tuy thác rồi song cũng c̣n chiếu cố những người trong giáo khu của ḿnh, mặc dầu có nhiều người dời chỗ đi nơi xa. Hai ông bà không hề quên họ và coi chừng họ luôn luôn. Một khi họ thiếu thốn hay cần dùng cái chi th́ hai ông bà cho bà góa phụ hay đặng tới giúp họ. Nhiều năm như vậy, những việc phước thiện nầy làm âm thầm trong bóng tối, không quảng cáo, không danh vọng không người khen. Tiền bạc và công phu tốn nhiều lắm, nhưng chỉ có hai người bạn thiết rơ được sự bí mật nầy mà thôi.

Góa phụ ở một thành không xa Boston. Khi bà được lịnh đi Boston lại số nhà mấy, đường nào, gặp những ai, cần dùng cái chi, bà đến đó th́ in như vậy, một trăm lần không trật một lần. Có một khi người ta dạy bà phải tới một cái thành kia ở nước khác, bà không biết tên người mà bà phải t́m đặng giúp, song đến đó th́ bà gặp người đó liền. Trong nhiều trường hợp th́ sự cần dùng là tiền bạc, cũng có khi thức tỉnh một người nào đó đặng cứu y, không cho làm những chuyện tội lỗi nữa.

Có một chuyện đáng ghi nhớ hơn hết như vầy:

“Con gái ông mục sư được bà góa phụ bảo rằng ông thân cô có dặn cô phải bỏ hai chục đô la trong bao thư rồi gởi tới một địa chỉ ở thành kia mà cô chưa từng nghe nói lần nào. Cô dần dừ v́ sợ gởi theo cách đó mất tiền, cô tính mua một cái chi phiếu th́ được lịnh phải gởi đi lập tức, bởi v́ trường hợp nầy gấp rút, không thể tŕ hưỡn được. Cô bèn lấy hai tấm giấy 10 mỹ kim bỏ vô thơ gởi đi.

Ông Dr. Minot J. Savage có hân hạnh được đọc bức thư trả lời đặng tiền và cám ơn, viết bằng viết ch́ một cách khó khăn, không trúng mẹo luật. Ấy là một người đàn bà bị chồng đánh đập và ruồng bỏ. Cô nầy rán hết sức làm đặng nuôi ḿnh và hai đứa con thơ. Cô đă kiệt sức, cô mới cầm cái bàn của cô, ấy là món đồ chót, cô lấy tiền mua than củi sửa soạn để tự vận với hai đứa con, kế cô được số bạc gởi tới”.

Đọc bài nầy ta thấy hai vợ chồng ông mục sư và bạn ông cứu giúp những người ở trong giáo khu ḿnh mà c̣n lo lắng cho người ở nước khác và thành thị khác. Quí hóa thay tấm ḷng từ thiện như thế ! Hai chục mỹ kim cứu được ba mạng người, công đức ấy rất lớn.

Nhưng có điều ta muốn hiểu là: Ông mục sư làm thế nào mà ra lịnh cho bà góa phụ biết đặng thi hành. Có nhiều phương thế, hoặc hiện hồn về hoặc dùng cách chiêm bao cho thấy v. v. . . . Hiện hồn về thường th́ nhọc sức lắm, chiêm bao cũng có khi quên, không biết dùng cách nào.

C̣n làm sao mà mấy vị từ thiện nầy biết người ta đau khổ về tinh thần hay về vật chất đặng kêu bà góa phụ tới giúp. Nói ra coi bộ dễ lắm, song kỳ thật đó là việc khó khăn vô cùng, v́ người chết chỉ thấy cái vía người sống chớ không biết được thiếu thốn tiền bạc hay là cần dùng cái chi. Nhưng dầu sao những việc từ thiện cảm hóa người rất mau và làm nẩy nở những tánh tốt ở trong ḷng con người.

 

4.- ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG VIỆC TỪ THIỆN

C̣n một chuyện nữa rất hay như sau đây:

Một chị thợ may khốn khổ kia ở trong một xóm tồi tệ và tanh hôi nhứt tại thành Luân đôn, v́ nơi đó thiếu ánh sáng mặt trời và không khí. Học lực của chị c̣n thấp thỏi mà công việc của chị rất nhọc nhằn, tuy vậy ḷng chị rất tốt, hay thương xót và cứu giúp tất cả mọi người. Trong xóm đó không có nhà nào nghèo hơn nhà của chị mà trái lại mấy căn pḥng của chị ở sạch sẽ và vén khéo hơn hết. Khi mấy người hàng xóm đau, chị không có tiền đem cho, song chị chạy tới ân cần chăm nom, an ủi và giúp đỡ luôn luôn. Thường bữa, chiều đi làm về th́ chị lại nhà người bịnh ở tới nửa đêm săn sóc, không quản nhọc nhằn. Chị không hề bỏ một người nào. Mấy chị em lao động ở xóm đó rất cảm cảnh vô cùng, cả thảy đều kính mến và thương yêu chị thợ may và đồng coi chị như một vị Phúc Thần. Chính là chị thợ may làm nẩy nở trong ḷng họ những đức tánh như Hy sanh và T́nh yêu thương trong sạch, không có một mảy ích kỷ xen vào. Nhờ mấy đức tánh nầy mà khi họ lên tới cảnh thứ bảy cơi Thiên Đường th́ tỉnh táo. Không có chị thợ may th́ họ c̣n mê mang như mấy kiếp trước, v́ họ thuộc về hạng người “trễ bước”. Sự tấn hóa của họ c̣n chậm lắm. Từ đây về sau họ sẽ đi mau v́ nhờ chị thợ may giúp cho họ mở mang về đường tinh thần.

(Lời tường thuật của Đức Leadbeater).

 

V́ nguyên nhân nầy mà các nhà Tôn giáo đều chú trọng về sự “Bố thí”. Nhưng làm từ thiện v́ thương đời, chớ không có trông mong hưởng phước như chị thợ may nầy th́ mới cao quí. Ví như có tánh ích kỷ xen vào th́ việc làm sẽ giảm hết ba phần giá trị và nó sẽ buộc con người vào bánh xe Luân hồi măi.

 

THÁNG THỨ BA

HY SANH

 

Người thứ nhứt của nhơn loại đă hy sanh hạnh phúc trăm kiếp luân hồi đặng tu hành tới bực Phật là Đức Gô ta ma. Trên quả địa cầu nầy chưa có ai sánh kịp Ngài. Trong kiếp chót, Ngài bỏ ngai vàng điện ngọc vào chốn rừng sâu chịu sáu năm khổ hạnh đặng t́m phương pháp diệt khổ cho quần sanh [14].

Bực cao cả là Ngài c̣n bực thấp thỏi như ta th́ thế nào?

Mỗi người trong chúng ta đều có hy sanh không nhiều th́ ít, hoặc vô tâm hoặc hữu ư. Trước nhứt hy sanh cho gia đ́nh, kế đó hy sanh cho xă hội và quê hương rồi sau rốt mới hy sanh cho nhơn loại đại đồng, từ hy sanh v́ ích kỷ cho đến hy sanh v́ ḷng từ bi bác ái.

Hy sanh luôn luôn kèm theo sự đau khổ của xác thân, v́ tinh thần cứ vui mà cho ra măi c̣n vật chất th́ cứ lo tom góp vô và sợ tan ră tiêu mất đi. Tinh thần và vật chất phải cân xứng và đi đôi với nhau măi. Tinh thần hy sanh cái xấu xa, cái hư hoại đặng lấy cái tốt đẹp bền bĩ hơn, cứ như vậy tiến tới. Ḍm xung quanh ta th́ thấy các loài đều hy sanh lẫn cho nhau, sắt đá hy sanh cho cây cỏ, cây cỏ hy sanh cho loài cầm thú, cầm thú hy sanh cho con người. Ban sơ, con người v́ tánh ích kỷ bắt buộc kẻ khác hy sanh cho ḿnh, chừng tinh thần mở mang rồi th́ lần lần quên ḿnh, hy sanh lại cho kẻ khác. Tới bực sau nầy con người mới tiến mau trên con đường giải thoát. Phải tập hy sanh những điều nhỏ mọn hằng ngày sau quen rồi mới dám hy sanh v́ đại cuộc. Sự hy sanh của Chơn Thần vô bờ bến, không thể nào hạn định được ngày giờ hay trường hợp. Đấng Tạo hóa hy sanh th́ mới có Vũ trụ nầy, nếu ta không tập hy sanh th́ không khi nào tấn hóa được, nhưng nên nhớ kỹ điều nầy: “Hy sanh không v́ Tư lợi”.

 

NHỮNG GƯƠNG HY SANH

 

1.- CHUYỆN VUA BẮC MA CA (Padmaka)

Thuở xưa có một ông vua rất hùng dũng, rất minh chánh tên Bắc Ma Ca, trị v́ tại thành Bê na rết (Bénarès). Tàu gọi là Ba la nại.

Ngày kia th́nh ĺnh một tai nạn khủng khiếp xảy đến cho kinh thành. Dân chúng bị một chứng bịnh lạ lùng, da vàng như nghệ. Dầu họ ra phơi ḿnh ngoài nắng chang chang, họ cũng lạnh run cầm cập. Vua thấy vậy động ḷng xót thương mới t́m phương cứu chữa. Ngài hỏi ư kiến mấy vị lương y danh tiếng trong nước. Ngài đi phân phát thuốc men và chính Ngài đích thân đi săn sóc bịnh nhơn nữa. Nhưng than ôi !vô hiệu quả: bịnh truyền nhiễm càng ngày càng lan ra. Vua lấy làm buồn bực. Ngày kia có một ông lương y già tóc bạc phơ phơ, chống gậy đến xin ra mắt vua và nói rằng: “Muôn tâu Hoàng thượng, tôi biết một phương thuốc cứu an trăm họ trong thành nầy”. Vua nghe lật đật hỏi: “Thưa Lăo trượng, món thuốc nào vậy, xin Ngài chỉ dùm”.

- Ấy là con cá Rô hi ta (Rohita). Nếu bắt đặng nó đem làm thịt phát cho bá tánh, mỗi người ăn một miếng nhỏ xíu, th́ bịnh truyền nhiễm dứt liền theo tay. Vua mừng rỡ bèn cám ơn ông lương y rồi sai người đi khắp sông, biển, kinh, rạch, t́m con cá Rô hi ta. Song luống công vô ích, không ai thấy tăm dạng con cá đó cả. Vua càng sầu thảm hơn nữa. Có khi sớm mai và chiều, vua nghe những tiếng của bịnh nhơn rên siết thở than: “Bệ hạ ôi ! Chúng tôi đau khổ lắm ! Hăy cứu chúng tôi với”. Ngài bèn khóc than thảm thiết, rồi Ngài ngồi suy nghĩ: “Giàu sang mà chi; ngai vàng bệ ngọc mà chi; kiếp sống nầy mà chi; không thể cứu giúp những người bị đau khổ”. Ngài bèn cho đ̣i Đông cung Thái tử tới dạy rằng: “Ngày nay cha truyền ngôi cho con đặng con trị v́ thiên hạ. Cha cho con hết thảy vàng bạc và ngọc ngà châu báu trong kho tàng”. Nói rồi Ngài lên trên nóc đền đem hương hoa cúng Thánh thần rồi khấn nguyện như vầy: “Ngày nay tôi xét lại kiếp sống của tôi vô ích. Vậy tôi xin hy sanh nó, cầu xin nó cứu được dân chúng đương bị bịnh hành khổ. Cầu xin cho tôi hóa ra con cá Rô hi ta lội trong con sông đang chảy qua Hoàng thành”. Vái rồi vua gieo ḿnh xuống nước tức th́ biến thành con cá Rô hi ta. Người ta chài lên làm thịt. Trong lúc người ta cầm dao bầm xẻ thân Ngài đặng phân phát cho dân chúng, Ngài đâu có biết đau đớn, trong ḷng chỉ xót thương sanh linh mà thôi. Bịnh truyền nhiễm tiêu mất.

Trên không nghe có tiếng Thiên thần ca hát : “Hỡi dân chúng thành Ba na lại, ấy là vua Bắc Ma Ca hy sanh đặng cứu các ngươi đó. Hăy vui mừng đi”. Từ đó dân chúng truyền tụng công đức nhà vua không ngớt.

 

Rút trong cuốn Đời sống của Đức Phật do theo kinh sách của Cổ Ấn Độ, trương 117. (La vie du Bouddha d’après les textes de l’Inde ancienne par A. Ferdinand Herold).

 

2.- MỘT GƯƠNG HY SANH CỦA BÀ BLAVATSKY

Đọc bài hy sanh trên nầy rồi, tôi nhớ lại một câu chuyện hy sanh khác như là tầm thường mà xét cho kỹ ít người làm được, như sau đây:

Lối năm 1877, bà Blavatsky mua giấy tàu hạng nhứt đi từ Liverpool (một thành của Anh quốc) qua Nhiêu Do (New York). Lúc bà sửa soạn bước lên tàu th́ thấy một người đàn bà nghèo khổ dắt hai đứa con nhỏ ngồi trên bờ đê để bảo hộ hải cảng khóc than thảm thiết. Bà bèn lại gần hỏi thăm th́ cô kia đáp rằng: “Thưa bà, chồng tôi ở Mỹ châu gởi tiền về cho tôi đặng đi qua bển. Tôi lấy tiền đó đủ mua giấy tàu đi trên bông (pont) cho ba mẹ con tôi. Hồi nảy tôi đem giấy tàu tŕnh cho hăng th́ người ta nói giấy đó là giấy giả, không có giá trị chi cả”.

- Vậy cô có biết ai lường gạt cô không?

-  Thưa không, tôi đến đây tứ bề lạ lùng, không có ai giúp đỡ một đồng xu nào cả.

Bà Blavatsky bèn lật đật lại hăng tàu đổi giấy hạng nhứt của bà ra bốn giấy đi trên bông cho bà và ba mẹ con cô kia, v́ bà chỉ đem theo ḿnh có vài ba Mỹ kim mà thôi.

Mới nghe qua không thấy cái chi là lạ, nhưng muốn biết giá trị của sự hy sanh đó th́ phải hiểu ba điều nầy:

Một là: Tánh ư của bà Blavatsky và địa vị của bà trong đường đạo đức.

Hai là: Tuổi tác và sức khỏe của bà.

Ba là: T́nh cảnh của những người đi trên bông tàu vượt biển Đại Tây Dương qua Mỹ châu thuở đó.

Bà Blavatsky là một vị La hán, thân thể của bà rất nhẹ nhàng, một tiếng động mạnh cũng làm cho bà rất khó chịu trong ḿnh rồi.

Bà đă trọng tuổi, sức yếu và thường bịnh hoạn.

Thuở đó, phần đông những người đi trên bông thuộc về hạng thô lỗ cộc cằn, say sưa vất vả, họ ĺa quê hương qua Mỹ đặng kiếm việc làm. Trong lúc vượt biển họ phải chịu nắng mưa, sương gió, cực khổ không biết là bao nhiêu, v́ tàu hồi thế kỷ 19 không phải tàu như bây giờ. Người thường đi chung lộn với bọn họ cũng là bực bội lắm, c̣n đối với bà Blavatsky th́ sự khó chịu đó có lẽ tăng lên gấp trăm lần người thường. Nhưng bà không quản tới mấy điều đó, bà chỉ có một mục đích giúp cho vợ chồng cô đó sum vầy nhau, nương cậy nhau, hai đứa con có cha nó bảo bọc khỏi bị đói rách cực khổ.

Ai có kinh nghiệm rồi mới biết đó là một sự hy sanh rất lớn lao, mà muốn làm được một việc như thế th́ phải hy sanh trong những sự nhỏ mọn hằng ngày.

 

3.- GƯƠNG HY SANH CỦA MỘT GIA Đ̀NH BÀ LA MÔN

Người có ḷng bác ái coi người cũng như ḿnh, giúp người do ḷng thương người, một t́nh thương lai láng tràn ngập linh hồn.

Ḷng thương ấy sánh như ḷng của người mẹ đối với con. Chỉ v́ con, lo cho con chớ chẳng tưởng đến ḿnh. Miễn cho con đặng no ấm, mạnh giỏi, c̣n thân ḿnh đói lạnh, ốm đau cũng chẳng màng.

Lo sự đau khổ của người mà quên sự đau khổ của ḿnh mới thật là hy sanh.

Dưới đây là một câu chuyện làm gương mẫu hoàn toàn của việc ấy.

Sau trận giặc Cu ru sết tra (Kurukshétra), năm anh em Băn đa qua (Pāndava) làm một cuộc lễ bố thí cho những người nghèo.

Thật là một cuộc đại bố thí. Tất cả nhơn dân đều hoan nghinh nhiệt liệt ḷng quảng đại của thí chủ, v́ vàng bạc, ngọc ngà, châu báu đem ra bố thí vô số, từ trước đến giờ chưa có sự làm phước nào được vinh quang như thế. Khi cuộc lễ vừa xong, bổng có một con chồn nhỏ chạy đến, phân nửa ḿnh nó màu vàng hực, c̣n phân nửa màu nâu. Nó nhào lăn tṛn xuống đất trong cái pḥng để dùng làm nơi bố thí, đoạn nó nói với những người bao vây xung quanh nó rằng: “Các ông ca tụng một cuộc bố thí như thế là vĩ đại, các ông nói dối, đó nào có phải một cuộc đại bố thí đâu?” [15]. Các người đứng xung quanh nghe nó nói đều la lên và hỏi rằng: “Nhà ngươi nói rằng cuộc lễ nầy không phải là một cuộc đại bố thí. Nhà ngươi có biết người ta đă phân phát cho kẻ nghèo khổ vàng bạc là bao nhiêu và hiện thời thiên hạ đều giàu và hưởng hạnh phúc dường nào chăng? Ấy là một sự phóng tài rất vinh quang xưa nay chưa từng có một người nào dám làm như thế”. Con chồn bèn đáp: “Cách ít lâu đây, trong một tiểu thôn nọ, có một gia đ́nh Bà la môn gồm một người chồng, một người vợ, đứa con trai và con dâu. Họ rất nghèo khổ, họ sống nhờ một số tiền nhỏ mọn của người ta biếu cho là v́ ông chồng giảng dạy đạo đức cho những người lối xóm. Lúc đó trong xứ xảy ra tai nạn đói khó v́ thất mùa kéo dài đến ba năm, và người Bà la môn kia phải chịu khốn đốn hơn trước nữa.

Cả nhà phải nhịn đói nhiều ngày rồi. Một buổi sớm mai kia người cha kiếm về được một ít bột lúa mạch, chia ra bốn phần ăn. Khi sắp ăn th́ có người đến gơ cửa. Người cha mở cửa ra gặp một người khách lạ. Theo tục lệ xứ Ấn Độ, người khách đến nhà ḿnh th́ phải đăi họ như Thần thánh, nên người chủ đối đăi với người ấy hết sức kính trọng.

Người chủ mời ông khách vào nhà và nói rằng: “Tôi rất hân hạnh được tiếp rước ngài”. Người chủ mới nhường phần ăn của ḿnh cho người khách ăn. Ông khách ăn lau láu và nói: “Ông đây mới thật là làm cho tôi chết đói, v́ đă mười ngày rồi tôi không có ǵ ăn cả mà với vài ba miếng ăn như vầy có thấm vào đâu, nó chỉ làm tăng sự đói của tôi thêm nữa”. Lúc ấy người vợ mới nói với chồng: “Ḿnh lấy phần ăn của tôi đây dưng cho ông ấy !”. Song người chồng không nhận. Người vợ giục thúc măi và nói rằng: “Chúng ta đây là người nghèo nhưng chúng ta có được cái nhà, bổn phận chúng ta là cho ông ấy ăn. Phận tôi là vợ, tôi phải cho ông ấy phần ăn của tôi là v́ ḿnh (trỏ người chồng) không c̣n ǵ mà cho ông ấy nữa ! Nói rồi người vợ đem phần của ḿnh dưng luôn cho ông khách. Ông nầy ăn rồi cũng c̣n kêu đói kịch liệt. Đoạn người con trai mới thưa với cha: “Cha lấy phần ăn của con dưng luôn cho khách, v́ bổn phận con phải luôn luôn giúp đỡ cha để cho cha làm tṛn bổn phận”. Ông khách cũng ăn luôn và dường như cũng chưa đủ no; tới phiên con dâu cũng dưng phần ăn của ḿnh và ông khách cũng ăn luôn. Ăn xong người ấy mới hết kêu đói, đoạn ban ơn lành cho bốn người rồi từ giả ra đi ngay.

Đêm đó cả nhà v́ đói mà chết hết. C̣n một chút bột rơi rớt xuống đất, khi tôi đến, tôi lăn tṛn trên đó th́ phân nửa ḿnh tôi hóa ra vàng hực như các ông thấy đây vậy. Từ ngày đó tôi đi khắp thế gian ước ao gặp được một sự hy sanh như thế nữa mà tôi t́m hoài không gặp, v́ vậy mà phân nửa ḿnh tôi chưa được thành màu vàng trọn. Bởi thế cho nên tôi cho cuộc bố thí nầy chưa phải là một sự hy sanh.

BẠCH NGỌC

 

4.- GƯƠNG HY SANH TẠI THỪA THIÊN

Trong trận lụt rất to lớn vừa qua đă xảy ra tại Thừa Thiên (Trung Việt) – một trận lụt bảy tám mươi năm nay chưa từng thấy – có anh Tôn Thất Trí một thanh niên Phật tử, 20 tuổi, học sinh lớp đệ tam chuyên khoa (1ère année du cycle secondaire) hỏng bằng Thành Chung, trường Tư thục Nguyễn Du, đă nêu một gương hy sanh cao cả. Anh ấy là con của ông Tôn Thất Khánh và bà Nguyễn thị Hai ở nhà số 9 Kiệt 1 đường chợ xép, kinh thành nội (Huế). Gia đ́nh anh gồm một mẹ 44 tuổi, một bà d́, một người anh, hai em gái. Nhà tranh, phên tre, thấp thỏi. Đêm 29 tháng 9 năm 1953, nước vào nhà lên đến ngực, anh Tôn Thất Trí d́u mẹ và d́, cơng hai em và chồng đồ đạc đến một nhà ngói cao ráo ở gần. Đến 5 giờ sáng ngày 24 tháng 11 năm 1953 nước lên cao hai thước rưởi, anh nghe xung quanh thiên hạ kêu cầu cứu, anh đứng ngồi không yên, nên thưa với mẹ: “Thưa mẹ, con nghe thiên hạ kêu cầu cứu, con không an tâm, không lẽ ḿnh làm trai thanh niên mà lại ngồi khoanh tay để ngó họ chết. Mẹ cho con đi cứu họ”. Bà mẹ cản anh, sau anh t́m cơ hội về nhà lấy chồng sách vở, anh bơi đến các vườn chuối lặn xuống dưới nước chặt được  bốn cây chuối đem lên kết bè để đi cứu người. Buổi mai ấy anh không uống được một hớp nước nóng, không ăn được một miếng cơm lót dạ, anh để thời giờ đi cứu gia đ́nh nầy sang gia đ́nh khác. Có điều đáng thương nhứt là trọn thời gian đi cứu người anh không đi trên bè để chống, mà vừa lội vừa đẩy bè để nhường chỗ cho các nạn nhơn ngồi.

Người ta không biết đích xác anh đă cứu những mấy mạng người, nhưng đến lần cuối cùng phần đông đều chứng kiến anh cứu một người đàn bà có mang. Lúc bấy giờ anh định lội về nhà để tạm nghỉ và thay quần áo; nhưng khi nghe có tiếng một người đàn bà kêu cứu: “Anh ơi, nhờ anh cứu giùm tôi, một người hóa hai, v́ tôi gần sanh”. Anh Trí cầm ḷng không đặng, rán lội đẩy bè đến cứu, sau khi đưa người đàn bà ấy lên đến Thượng Thành, anh liền lội đẩy bè trở về nhưng được hơn nửa đường đuối sức anh ch́m luôn. Lúc đó hơn 8 giờ mai. Người em gái anh đăm đăm nh́n theo bóng anh, bỗng thấy mất dạng la lên, nước cuồn cuộn chảy không ai dám ra lặn vớt anh lên. Măi đến 10 giờ người ta bắt đầu lội t́m thây anh mà không thấy đâu cả. May có anh Phụ, 20 tuổi ở gần nhà anh Trí, bị ch́m, hụt chơn té xuống nước đạp nhằm thây anh vớt lên. Anh Trí đă chết !

Ủy ban cứu trợ nạn nhơn Băo lụt Thừa Thiên có giúp cho gia đ́nh người bất hạnh 1.500$00 để lo việc an táng trong ngày 26-11-1953 gần núi Ngự B́nh. Các khuôn tỉnh Hội Phật học Thừa Thiên ở Kinh thành nội đều có thiết lễ cầu siêu. Thiên hạ đến đi đưa đám người hy sanh cao cả rất đông.

Bà Nguyễn thị Hai buôn bán ở chợ xép để nuôi bốn con, gia cảnh bần hàn. Ông chồng đă để bà bốn năm nay (để lấy hầu) bà cũng là người vợ hầu của ông Khánh. Bà lo nuôi con ăn học. Nay người con đầu đă đi Thủ Đức học lớp sĩ quan trừ bị ngày 21-11-53, giờ c̣n hai gái; gái lớn giúp mẹ buôn bán, gái nhỏ học lớp năm trường Bồ Đề. Nhưng hiện nay hàng hóa trôi cả. Bà Hai phải dẹp hàng, v́ không có vốn dọn lại. Bà trông mong thường ngày sự trợ cấp của Chánh phủ. Trong nhà hiện thời căn giữa có thiết lập bàn thờ Phật, tượng Phật do A Từ họa.
 

THÁNG THỨ TƯ

CHƠN THẬT

 

Chơn thật đây là chơn thật từ trong tư tưởng cho đến lời nói và việc làm.

Trong Đạo Bát Chánh, Phật để Chánh Tư duy trước Chánh ngữ và Chánh nghiệp v́ luôn luôn lời nói và việc làm đều do tư tưởng mà ra. Nếu tư tưởng lành th́ bao giờ lời nói và việc làm cũng đượm nhuần t́nh bác ái.

Ta phải tập tánh phân biện từ chút và trong tư tưởng trước nhứt, v́ trong đời có không biết bao nhiêu tư tưởng lầm lạc, không biết bao nhiêu sự dị đoan phi lư: nếu nhắm mắt tin càn th́ có những thành kiến bao bọc cái trí và thay h́nh đổi dạng chơn lư cũng như ánh sáng mặt trời rọi ngang qua tấm kiếng vàng th́ tự nhiên hóa ra vàng chớ không c̣n trong trắng như trước nữa. Thế nên không phải nhiều người đồng tưởng in một chuyện mà chuyện đó đúng với chơn lư, bởi v́ tại một người đầu tiên tưởng như vậy rồi lôi cuốn mấy người khác cũng tưởng như họ. Về đức tánh PHẢI HẾT SỨC NGAY THẬT, cuốn Dưới Chơn Thầy dạy rất kỹ lưỡng. Ta không nên nghi ngờ, không nên định dẹo và phải suy nghĩ cho thiên hạ những điều mà ta biết quả có thật. Không biết th́ nên làm thinh, và đừng lấy ḿnh làm khuôn vàng thước ngọc mà đo người khác.

Một trong những việc mà Chơn sư bắt buộc đệ tử phải làm là ghi chép những điều ḿnh thật biết là bao nhiêu và những điều ḿnh nghe rồi tin theo chớ chưa kinh nghiệm là bao nhiêu. Nếu ḿnh làm thử th́ ḿnh sẽ thấy rốt cuộc sự hiểu biết thật của ḿnh chưa có ǵ là đáng kể cả. Đây xin lấy sự học trong trường mà nói: “Những môn Sử kư, Địa dư, Lư, Hóa, Vạn vật mà ta học, hết chín phần mười ta chưa kinh nghiệm được; ta chỉ tin theo tác giả những quyển sách của ta đọc hoặc những bài của ta học mà thôi.

Những sự học hỏi của ta trên đường đạo cũng thế ấy. Tuy vậy ta có thể đặt đức tin những điều ta học, một khi ta biết những người dạy ta học vẫn chơn thật. Ta cũng nên hiểu, Chơn sư không hề lầm lạc bao giờ. Ở đời có những việc ta phải tin trước rồi sẽ thí nghiệm sau. Cũng như số học: Nếu một đứa trẻ không tin Bảng cửu chương th́ làm sao làm toán nhơn được.

Tập đức tánh chơn thật rất khó. Có nhiều điều chơn thật ta muốn tỏ ra mà không thể tỏ, đúng với câu: “Không phải những chơn lư nào cũng nên nói trắng ra”.

Tới đây ta mới thấy, ta tự biết ta là điều kiện tối cần và phải phân biệt luôn luôn đặng coi cái nào hữu ích nhiều, cái nào hữu ích ít; không khéo những điều chơn thật mà ta nói ra làm cho kẻ khác đau ḷng. Trước hết là ta phải dung người và bao giờ cũng đừng tha thứ cho ḿnh và luôn luôn nhớ điều nầy: “Mấy anh ở trong bóng tối tục gọi là Bàn môn tả đạo, muốn phá ai th́ dùng ảo tưởng, mà những phép nầy tới trước mặt người hết sức chơn thật th́ hiện nguyên h́nh không làm hại được.

 

NHỮNG GƯƠNG CHƠN THẬT

 

CHỮ TÍN

1.    – CÁI ĐỈNH

Nước Lỗ có một cái đỉnh rất quí. Nước Tề bắt phải đem dâng. Vua Lỗ tiếc lắm, cho làm một cái đỉnh giả đưa sang.

Vua Tề bảo: “Phải có Nhạc Chính Tử đem đỉnh sang nói th́ ta mới tin”.

Vua Lỗ cho gọi Nhạc Chính Tử đến, bảo đi.

Nhạc Chính Tử hỏi: “Sao không đưa cái đỉnh thật?”

Vua Lỗ nói: “Ta quí cái đỉnh ấy lắm”.

Nhạc Chính Tử thưa: “Nhà vua quí cái đỉnh ấy thế nào, th́ tôi quí cái đức “Tín” của tôi như thế ấy”.

Sau vua Lỗ phải đưa đỉnh thật. Nhạc Chính Tử mới chịu đi.

HÀN TỬ

 

2.- THANH GƯƠM

Quí Trác là con của vua nước Ngô, đi du lịch các nước. Khi qua nước Từ, vào thăm vua Từ. Vua Từ thấy Quí Trác có thanh gươm báu, muốn xin mà chưa dám nói. Quí Trác trong bụng cũng định cho, mà chưa dâng được, v́ cuộc du lịch chưa xong. Khi ở nước Tấn về th́ vua Từ đă mất rồi, Quí Trác không biết làm thế nào, đành phải đem thanh gươm đến treo chỗ gốc cây bên mộ vua Từ, rồi mới về.

SỬ KƯ

LỜI BÀN: Nhạc Chính Tử không chịu đem cái đỉnh giả.

Quí Trác không chịu về không cho gươm, đều là những người biết trọng chữ “tín”. Giả không nói là thật đă là quí, mới hứa trong bụng cố làm cho được, lại quí hơn nữa. Ôi ! xưa nay chữ “tín” có giá biết ngần nào. Chữ “tín” liệt vô trong ngũ thường, người ở đời giao thiệp cốt lấy chữ tín làm chủ. Cho nên cổ nhân có những câu như “Nhân vô tín bất lập” (Khổng Tử), nghĩa là người không có tín th́ không đứng được ở đời, “Tín vi quốc chi bảo” (Tấn văn Công) nghĩa là tín là cái của báu của cả nước.

 

CỔ HỌC TINH HOA

 

3.- MẸ HIỀN DẠY CON

Thầy Mạnh Tử thuở nhỏ nhà ở gần nghĩa địa, thấy người ta đào, chôn, lăn, khóc, về nhà cũng bắt chước đào, chôn, lăn, khóc. Bà mẹ thấy thế nói: “Chỗ nầy không phải chỗ con ta ở được”. Rồi dọn nhà ra gần chợ.

Thầy Mạnh Tử ở gần chợ, thấy người buôn bán điên đảo, về nhà cũng bắt chước nô nghịch một cách điên đảo. Bà mẹ thấy thế lại nói: “Chỗ nầy cũng không phải chỗ con ta ở được”. Bèn dọn nhà đến ở cạnh trường học.

Thầy Mạnh Tử ở gần trường học, thấy trẻ đua nhau học tập, lễ phép, cắp sách vở, về nhà cũng bắt chước học tập, lễ phép, cắp sách vở. Bấy giờ bà mẹ mới vui ḷng nói: “Chỗ nầy là chỗ con ta ở được đây”.

Một hôm, thầy Mạnh Tử thấy nhà hàng xóm giết lợn, về hỏi mẹ: “Người ta giết lợn làm ǵ thế?” Bà mẹ nói đùa “Để cho con ăn đấy”. Nói xong, bà nghĩ lại, hối rằng: “Ta nói nhỡ mồm rồi. Con ta thơ ấu, trí thức mới mở mang mà ta nói dối nó, th́ chẳng ra ta dạy nó nói dối hay sao?” Rồi bà đi mua thịt lợn đem về cho con ăn thật.

Lại một hôm thầy Mạnh Tử đang đi học, bỏ học về nhà chơi. Bà mẹ đang ngồi dệt cửi, trông thấy, liền cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung mà nói rằng: “Con đang đi học mà bỏ học, th́ cũng như ta đang dệt tấm vải nầy mà cắt đứt đi vậy”. Từ hôm đó, thầy Mạnh Tử học tập rất chuyên cần. Rồi về sau thành một bậc đại hiền. Thế chẳng là nhờ có cái công giáo dục quí báu hay sao?

LIỆT NỮ TRUYỆN

 

LỜI BÀN: Mẹ thầy Mạnh thực là biết dạy con. Mấy lần dọn nhà thế là hiểu cái lẽ: gần mực th́ đen gần đèn th́ rạng – Nói lỡ lời phải mua thịt cho con ăn, thế là hiểu cái lẽ chớ nên nói dối trẻ - Thấy con bỏ học mà cầm dao cắt đứt tấm vải làm thí dụ, thế là hiểu cái lẽ: học hành cốt phải chuyên cần. Người ta đă nói: Người mẹ là thầy giáo thứ nhứt của trẻ, nên người mẹ phải biết cách dạy dỗ mới được. Dạy con từ thuở c̣n thơ, cái buổi đầu là buổi khó, mà cái buổi ấy là ở trong tay người mẹ, người mẹ tức là người có trách nhiệm gia đ́nh giáo dục rất to, không kém ǵ cha, mà có lẽ c̣n hơn.

 

CỔ HỌC TINH HOA

 

THÁNG THỨ NĂM

THĂNG BẰNG

 

Thăng bằng là đứng vững vàng không nghiêng về một bên nào, không chênh lệch. Trong trời đất mọi việc đều thăng bằng và điều ḥa. Thử xem bốn mùa, xuân th́ đầm ấm, hè th́ nóng nực, thu th́ mát mẻ, đông th́ lạnh lẽo. Thời tiết sái một chút th́ thảo mộc hư hao, con người bịnh hoạn. Ta đă từng thấy trước mắt, đất mất thăng bằng đất sụp, nhà mất thăng bằng nhà nghiêng, nước mất thăng bằng nước đổ, thân mất thăng bằng thân bịnh, tâm mất thăng bằng tâm xao xuyến.

Đường đạo cũng vậy. Nó bén như dao cạo. Muốn đi trên đó phải đề khí khinh thân, giữ vững thăng bằng mới không sợ đứt chơn vấp té.

Một tánh tốt thực hành quá mức trung b́nh th́ thành ra một tánh xấu. Tỷ như tánh chơn thật. Bổn phận ta không được phép nói dối; nhưng không phải v́ cớ đó mà mọi việc ta phải nói trắng ra cho thiên hạ đều biết. Nếu phanh phui ra th́ mang tật không kín miệng hay thèo lẻo. Bán rao tánh không tốt của người th́ sanh ra thù oán, gây ra những chuyện bất ḥa, khó ăn ở đời.

Gan dạ rất tốt, nhưng quá gan dạ th́ đâm ra liều lĩnh; quá cẩn thận thành ra nhút nhát, quá yêu thương thành ra yếu đuối.

Khi xưa Phật dạy đạo Bát Chánh tức là khuyên con người theo con đường Trung đạo. Đạo Trung Dung của đức Khổng Tử cũng không ngoài lẽ đó.

Nhưng có một điều nên nhớ, chúng ta c̣n ở trong ṿng tương đối, sự tiến hóa của con người bất đồng th́ có trắng tự nhiên phải có đen, có lành phải có dữ, có ngày phải có đêm, có tṛn phải có khuyết. Đó là để giữ vững thăng bằng. Mất thăng bằng th́ phải có sự phản động lại liền. Luật động và phản động làm ra luật Nhân quả mà người ta gọi “Gieo giống chi, gặt giống nấy”.

Thế nên ta phải thận trọng luôn luôn, đừng thái quá mà cũng đừng bất cập.

 

NHỮNG GƯƠNG THĂNG BẰNG

 

1.- ĐẦY TH̀ ĐỔ

Đức Khổng Tử vào xem miếu Hoàn Công nước Lỗ, có một cái lọ đứng nghiêng. Ngài hỏi người coi miếu. Người ấy nói rằng: “Đó là một vật quí của nhà vua thường để bên chỗ ngồi chơi để làm gương”.

Khổng Tử nói: Ta nghe nhà vua có vật quí để làm gương, vật đó bỏ không th́ đứng nghiêng, đổ nước vừa vặn th́ đứng ngay mà đầy quá th́ lại đổ, có lẽ là vật nầy chăng? Ngài bèn sai học tṛ đổ nước vào. Quả nhiên, nước đổ vừa th́ lọ đứng ngay, nước đổ đầy th́ lọ đổ, bỏ không th́ lọ lại đứng nghiêng. Ngài chép miệng than rằng: “Hỡi ôi ! ở đời chẳng có cái ǵ đầy mà không đổ”.

Thầy Tăng Tử nói: “Dám hỏi có cách ǵ đầy mà không đổ không”.

Ngài nói: “Thông minh thánh trí nên giữ bằng cách ngu độn, công lao to hơn thiên hạ nên giữ bằng cách khiêm cung; sức khỏe hơn đời nên giữ bằng cách nhút nhát; giàu có bốn biển nên giữ bằng thói nhún nhường. Đó là cách đổ bớt đi để giữ cho khỏi quá đầy th́ đổ”.

TUÂN TỬ

CỔ HỌC TINH HOA

 

2.- TÀI VÀ BẤT TÀI

Một hôm Trang Tử cùng với học tṛ đi chơi ở trong núi. Thấy một cây to, cành lá rườm rà, có người đốn gỗ, chống búa đứng ở bên, mà không chặt. Trang Tử hỏi: “Sao không chặt cây nầy thế?”

- Người đốn gỗ đáp: “Cây nầy tuy thế mà gỗ xấu không dùng được việc”.

Trang Tử nói: “Cây nầy chỉ v́ không ra ǵ mà sống lâu được măi”.

Ra khỏi núi, Trang Tử vào chơi nhà một người quen. Chủ nhà vui mừng, bảo người nhà đem chim nhạn làm thịt.

Người nhà hỏi: “Một con gáy được, một con không gáy, th́ làm thịt con nào?”

Chủ bảo: “Làm con không gáy”.

Hôm sau, học tṛ hỏi Trang Tử rằng:

“Cái cây ở núi v́ bất tài mà được sống lâu, con nhạn ở nhà chủ v́ bất tài mà phải bị giết chết. Giá như tiên sinh th́ xử vào địa vị tài hay bất tài?”

Trang Tử cười rồi nói: “Ta xử vào trong cái khoảng giữa tài và bất tài. Như vậy th́ tránh khỏi tai nạn, song không phải là kế vẹn toàn. Chỉ những bậc đạo đức cao siêu, không quản khen chê, lúc như rồng, lúc như rắn, không rơ hẳn ra tài hay bất tài, lúc lên, lúc xuống, chỉ cốt lấy đức ḥa làm mực, siêu việt cả muôn vật, tuy là người mà lại khác người . . . Những bậc như thế, th́ c̣n ǵ lụy đến thân được. C̣n thói đời thường t́nh nào có thế? Hợp với người, th́ có lúc ĺa tan; làm nên việc th́ có người nghị luận; ngay thẳng th́ bị đè nén, tôn trọng th́ bị chê bai; làm th́ có người phá; giỏi th́ có kẻ khen; không ra ǵ thiên hạ lại khinh bỉ . . . Nhân t́nh như thế, làm thế nào được? Thương ôi, các người nên ghi lấy: chỉ có đạo đức mới khỏi lụy mà thôi.

 

TRANG TỬ THUYẾT

 

LỜI BÀN: Tài cũng khổ; quân tử đa nạn, tài liền với tai. Bất tài cũng khổ; khôn sống dại mái, dại để người ăn. Vậy con người ta phải làm thế nào, cho ở vào cái khoảng giữa tài và bất tài, th́ mới gọi là khôn khéo nghĩa là thông minh thánh trí mà như người ngu th́ mới sinh tồn được. Tuy vậy, vẫn chưa bằng người có đạo đức, nghĩa là người chỉ lấy một cái bụng ăn ở theo thiên lương mà ra ngoài ṿng được cái tài, bao bọc được hết cả thiên hạ mà không ǵ lụy đến tấm thân. Thế mới hay: chữ “tâm” kia mới thực là thu liễm được cái tài mà bổ cứu được cái bất tài vậy.

 

CỔ HỌC TINH HOA
 

4.- TRUNG DUNG

Cuốn nầy gồm những lời tâm phát của đức Khổng Tử do học tṛ ngài truyền lại rồi sau Tử Tư là cháu Ngài chép thành sách, gồm có 33 chương.

“Ông Tử Tư dẫn những lời của của Khổng Phu Tử đă giảng về đạo Trung Dung. Ngài nói rằng: Trung ḥa là cái tính t́nh tự nhiên của trời đất, mà trung dung là cái đức hạnh của người ta. Trung là giữa, không lệch về bên nào; Dung là thường. Đạo Trung Dung th́ ai cũng có thể theo được, thế mà không mấy người chịu theo. Khác nào như ai cũng ăn uống cả, nhưng ít người ăn uống mà biết rơ mùi vậy. Chỉ có thánh nhân mới theo được mà thôi, v́ theo đạo ấy cốt phải có ba cái đạo đức là Trí, Nhân và Dũng. Trí là để biết rơ cái sự lư, Nhân là để hiểu điều lành mà làm, Dũng là để có cái khí cường kiện mà làm theo điều lành cho đến cùng.

“Ông Tử Tư lại dẫn lời của Khổng Phu Tử nói về chữ “thành”. “Thành là đạo trời, học cho đến thành là đạo người. Đạo người là phải cố gắng hết sức để cho đến bậc chí thành. PHẢI HỌC CHO RỘNG, XÉT CHO KỸ, NGHĨ NGỢI CHO SÂU, BIỆN BẠCH ĐIỀU PHẢI TRÁI CHO RƠ VÀ DỐC L̉NG LÀM ĐIỀU THIỆN CHO ĐẾN CÙNG. Hễ ai làm được như thế rồi ngu thành ra sáng, yếu thành ra mạnh, tức là dần dần lên tới bậc chí thánh. Ở trong thiên hạ duy có bậc chí thánh tức là bậc thánh th́ mới rơ cái tính của Trời; biết rơ cái tính của Trời th́ biết rơ cái tính của người; biết rơ cái tính của người th́ biết rơ cái tính của vạn vật; biết rơ cái tính của vạn vật th́ khả dĩ giúp được sự hóa dục của trời đất và có công ngang với trời đất.

“Sách Trung Dung nói cái đạo của thánh nhân căn bản ở trời rồi giải diễn ra hết mọi lẽ, khiến người ta giữ ḿnh cho kính cẩn trong khi hành động và khi im lặng một ḿnh. Suy cái lư ấy ra cho đến sự nhân nghĩa, để khiến cho thiên hạ được b́nh trị và lại tin cái công hiệu linh diệu của đạo ấy cho đến chỗ tinh thần vô thinh, vô sắc mới thôi. Thật là một triết lư rất cao”.

(Trần trọng Kim, Nho Giáo, quyển I, trang 279-285)

 

THÁNG THỨ SÁU

 

L̉NG KHOAN DUNG

 

Các linh hồn tấn hóa không đồng bực với nhau, th́ tự nhiên có người giỏi, người dở, người khôn, người dại, người thông minh, người ngu muội, lư luận có hay có dở, hành động có cao quí có hèn hạ. Vậy ta nên khoan dung cho tất cả mọi người. Nếu ư kiến của người không đồng với ta th́ chớ nên vội chê bai, trách móc hoặc phiền hà, hăy t́m kiếm nguyên nhân coi sự sai dị ở đâu? Tại sao chỗ ấy của người không in của ta?

Mỗi giống dân tộc trên địa cầu đều có tánh t́nh, ngôn ngữ, phong tục, tập quán và tín ngưỡng khác nhau mà ta phải luôn luôn kính trọng. Ta chưa trọn lành th́ nên lấy sự lỗi lầm của người làm một bài học hay để giúp ta trở nên khôn ngoan và thận trọng. Nếu có thể th́ ta nên khuyên nhủ hoặc giúp đỡ chớ không nên nhạo báng chê bai. Ta hơn người về phương diện nầy mà ta thua người về phương diện khác th́ sự khoan dung là một bổn phận chớ không phải một việc đáng khen.

Người thật ḷng khoan dung th́ không câu nệ làm việc chung chạ với những người  mà ḿnh không có cảm t́nh hay không thích ư.

Ta phải để công việc giúp đời trên t́nh cảm. Không nên tưởng phải có ḿnh nhúng tay vào mọi việc mới hoàn thành, c̣n giao cho người khác th́ hư hỏng hay lôi thôi.

Dầu cho bạn ḿnh làm hay người khác làm cũng vậy, hễ thành công th́ vui mừng, v́ nhơn loại nhờ đó mà tiến lên một bực. Không nên tỏ vẻ buồn bực v́ chưng người khác chớ không phải ḿnh đă làm được một việc lớn lao hữu ích. Đó là tỏ dấu ḿnh c̣n tánh ích kỷ, ganh hiền ghét ngỏ, như thế rất c̣n xa cửa đạo.

Người đời thường hay thổi lông t́m vít, chỉ thấy cọng rơm trong con mắt người khác mà quên phức khúc cây lớn đương nằm trong con ngươi của ḿnh. Ngày nào ta chưa truy ra sự hành động của thiên hạ, th́ ngày đó sự xét đoán của ta vẫn c̣n có chỗ sai lầm.

Đấng Christ đă dạy khi xưa: “Đừng xét đoán ai cả, đặng sau khỏi bị xét đoán lại”.

Nếu quả thật ta tài đức vẹn toàn th́ không hề chê bai, nhục mạ ai bao giờ. Ta phải t́m chỗ ḥa hợp được với người th́ mới mong có thể giúp đỡ người trong muôn một.

Theo luật Nhân Quả, cười người tức là ta cười ta, ta mắng người tức là ta mắng ta, ta hại người tức là ta hại ta. Thế nên khoan dung là thượng sách v́ không c̣n gây oan trái về sau.

 

NHỮNG GƯƠNG KHOAN DUNG

 

1.- CHUYỆN NÀNG TỲ NỮ BRA RI TI (Prakriti)

Tỳ nữ Bra ri ti đương múc nước giếng bỗng gặp A nan đa đi ngang qua đó xin nàng nước uống. Tỳ nữ bèn nói rằng: “Thưa ngài ! Tôi vẫn thuộc về hạng thấp hèn, nếu tôi múc nước cho ngài th́ nước đó hóa ra dơ dáy”. A nan đa đáp rằng: “Tôi xin nước uống chớ không hỏi nàng thuộc về hạng nào”. Tỳ nữ nghe vậy cả mừng bèn dâng nước cho A nan đa uống. A nan đa uống rồi từ giả ra đi. Chẳng dè khi ngài đi rồi tỳ nữ lại sanh ḷng tríu mến ngài vô hạn. Nàng hỏi thăm mới biết A nan đa là đệ tử của Phật, nàng mới lại năn nỉ Phật, xin Phật cho phép nàng theo hầu hạ A nan đa. Phật bèn nói rằng: “Con không biết ư của con đâu, con không phải thương cái xác A nan đa mà chính là con thương ḷng tốt của va. Vậy th́ con hăy lấy ḷng tử tế mà ở với thiên hạ.

Một vị hoàng đế ăn ở nhân từ với đứa tôi mọi th́ đáng kính trọng lắm.

C̣n một đứa tôi mọi quên sự đau đớn khổ sở của nó, cứ lấy ḷng trung tín, thuần hậu ở với mọi người, không ghen ghét oán giận những kẻ hành hạ nó, mà nó lại c̣n thương xót cái cử chỉ kiêu căng xấc xược của mấy kẻ ấy, th́ nó đáng khen, và đáng kính hơn vị hoàng đế kia nữa.

Con tuy thuộc về hạng thấp hèn song nếu con ăn ở cho công b́nh, chánh trực, nhơn từ, đức hạnh th́ danh con sẽ chói rạng như một vị Nữ vương. Con sẽ làm gương cho hàng quí tộc soi lấy”.

Tỳ nữ nghe rồi trong ḷng phới phở, xin nhập môn học đạo và dứt hết ḷng tà niệm.

 

LỜI BÀN: Các linh hồn vốn là anh em với nhau, song đầu thai xuống trần mà kẻ sang người nghèo, kẻ giáu người nghèo, là bởi sự tấn hóa không đồng bậc với nhau. Người nào mấy kiếp trước gây ra nhiều quả tốt th́ kiếp nầy được sung sướng tấm thân, c̣n người nào mấy kiếp trước gây những quả xấu th́ kiếp nầy phải khổ cực. Cái giai cấp dưới trần không có công b́nh. Không phải mỗi người đầu thai vô nhà giàu sang ḷng dạ đều tốt hết hay là thông minh hết, c̣n những người đầu thai vào nhà tầm thường tánh t́nh đều xấu xa và ngu muội hết.

Theo luật Quả Báo, một người giàu có, tánh t́nh gắt hiểm xấu xa, song v́ háo danh mà đem tiền của bố thí cho thiên hạ th́ kiếp sau cũng được giàu có mà tánh t́nh cũng xấu xa như kiếp trước. C̣n một người khác thông minh mà không làm tội chi ác, kiếp sau đầu thai vào nhà tầm thường song trí hóa cũng thông minh như xưa. Nói tóm lại, quả báo của tánh t́nh trả cho tánh t́nh, quả báo việc làm trả cho xác thịt.

Phật biết rơ luật Luân Hồi, Quả Báo, nên không phân biệt giai cấp mà Ngài cũng chẳng biểu con người triệt bỏ giai cấp. Khi Phật thâu nhận nàng tỳ nữ Bra ri ti làm đệ tử th́ người Bà la môn nổi lên phản đối rất dữ dội, nói rằng làm như thế là nhục cho Đạo. Vua xứ Cô Sa La (Kosala) là Ba Sê Na Di (Présénajit) bấy lâu thường ủng hộ Phật, lúc đó cũng tới tỏ dấu bất b́nh.

Phật bèn thuật chuyện nầy cho vua và mấy thầy Bà la môn nghe:

“Thuở xưa, tại mé sông Hằng hà (Gange) có một đám rừng rậm rạp. Trong rừng có một vị tên là Tri Săng Cu (Trisangku) làm chúa bọn Thủ đà la. Ngài có học kinh Huê Đà (Phệ Đà) kiếp trước cho nên kiếp nầy ngài nhớ lại hết. Ngài mới đem kinh ấy dạy cho con Ngài là Đông cung Thái tử.

Khi Ngài thấy Thái tử đă thông thạo việc cúng tế th́ Ngài mới đi đến nhà một ông thầy Bà la môn xin làm xui cưới con gái ông tên là Bra ri ti cho Thái tử. Ông thầy Bà la môn nổi giận khoát mắng rằng: Đồ khốn kiếp ! đi đi cho rảnh. Ngươi là bực thấp hèn hơn hết trong loài người, ngươi dám tới đây nói chuyện với ông thầy Bà la môn thông thạo kinh Phệ Đà sao? Ngươi dám đèo bồng như thế hả?

Chúa Tri Săng Cu đáp rằng: Người Bà la môn với người Thủ đà la có khác nhau như vàng khác với đá, hay là ban ngày khác với ban đêm đâu. Người Bà la môn không phải trên trời rớt xuống. Họ cũng ở trong ḿnh người đàn bà chun ra như người Thủ đà la vậy. Tại làm sao một đàng th́ được tưng trọng là sang cả, c̣n một đàng th́ bị chê bai là hèn hạ? Lúc thác rồi th́ thây của người Bà la môn hay là thây của người thuộc mấy hạng khác cũng hôi hám, cũng gớm ghiếc vậy. Thế th́ sự khác nhau ở chỗ nào?

Mấy người Bà la môn thật là giả dối. Trong ḷng họ c̣n những tật xấu xa, họ kiếm những phương thế làm cho thỏa măn t́nh dục của họ, song bề ngoài họ khoe là họ trong sạch.

Trước khi họ muốn giết con thú vật ăn thịt, th́ họ làm bộ đọc kinh cầu nguyện, họ nói rằng hồn mấy con thú nhờ vậy mà được về Trời.

Nếu thật như thế sao họ không đem bà con thân thích họ giết hết rồi họ đọc kinh cầu nguyện cho hồn mấy người đó lên tuốt trên trời đi. Có khi nào mà mấy câu kinh và vài chén nước lă đưa linh hồn mấy con trừu, mấy con dê lên Thiên đường được bao giờ.

Nói rồi th́ chúa Tri Săng Cu tỏ cho ông thầy Bà la môn biết rằng Ngài rất thạo kinh Phệ Đà vậy.

 

Bài nầy là một cái gương soi ḷng những người nào c̣n tự kiêu, lấy giai cấp mà làm sự vinh diệu đó.

Phật thật là Đại Đức Từ Bi, Ngài cũng thường nói rằng: Luật ta là luật hỉ xả cho cả thảy chúng sanh. Nó làm cho người ăn mày, ăn xin thành ra người tu hành mặc áo cà sa lánh ṿng trần tục.

 

2.- KHÔNG NÊN CÂU NỆ

Trời không thể làm cho hoa mùa nọ nở mùa kia, cho nên thánh nhân không trái thời.

Đất không thể làm cho khí tiết xứ kia đổi ra xứ nọ, cho nên thánh nhân không trái tục.

Thánh nhân không có thể làm cho tay biết đi, chơn biết cầm, cho nên thánh nhân không làm trái cái tài riêng.

Thánh nhân lại không có thể làm cho cá biết bay trên không, chim biết bơi dưới nước, cho nên thánh nhân cũng không dùng trái cái tài riêng của người.

V́ vậy, lúc nên động, lúc nên tĩnh, lúc nên tối, lúc nên sáng, ta không nên câu nệ một đường nào, th́ mới là hợp đạo.

 

QUAN DOĂN TỬ

 

LỜI BÀN: Cây cỏ, giống vật cả đến người ta, mỗi loài mỗi giống thường có những đặc tính riêng của loài ấy, giống ấy, cách tri dù có tinh xảo, cũng không thể bắt cho cả mọi loài một giống như nhau cả. Suy như thế, th́ bất cứ về mặt ǵ tính t́nh phong tục cho đến cả tôn giáo, học thức ta không nên câu nệ chấp nhứt một đường nào, chỉ biết cái phải của ta mà không rơ cái phải của người. Ta phải có lượng rộng dung được cả mọi cái, bao quát được cả mọi việc, th́ ngơ hầu mới là người sáng suốt vậy.

 

THÁNG THỨ BẢY

CAN ĐẢM

 

Can đảm là một tánh rất tốt cần phải luyện tập như tập thể thao cho các bắp thịt nở nang vậy.

Mỗi người trong chúng ta đều nhút nhát không nhiều th́ ít. Chúng ta dạn dĩ trong phương diện nầy mà sợ sệt trong một hay nhiều phương diện khác. Nhứt là trong thời đại nguyên tử nầy, phần đông thiên hạ sống trong cảnh hồi hộp, không biết ḥa b́nh tới ngày nào chấm dứt v́ viễn ảnh lờ mờ. Nhưng muốn trị bịnh phải trị tận gốc. Một khi ḿnh thật biết ḿnh là Chơn thần, trường sanh bất tử, không có chi làm hại được – xác thân nầy không phải là thật ḿnh, nó c̣n mất không chừng, th́ chừng đó con người hết sợ sệt nữa. Con người rất b́nh tĩnh mà xem xét mọi việc xảy đến cho đúng giá trị của nó và t́m phương thế đối phó. Quả thật ở đời nếu không có gan dạ th́ không thể chịu đựng những sự nghèo khổ khó khăn, đau ốm, bịnh tật, buồn bực, sầu năo; chúng nó tới liên miên, cái nầy chưa dứt cái khác đă nối theo, làm sao sống nổi, làm sao gỡ rối. Người nhát sợ không thể làm việc lớn lao được. Trong đường đạo cũng vậy, không gan dạ không thể tiến xa. Học đạo rồi tới một ngày kia sẽ biết phép tự ên xuất vía. Khi lên cơi Trung giới lần thứ nhứt, tỉnh táo như lúc thức ở cơi trần th́ phải chịu thử trước hết là bốn cách: địa, thủy, hỏa, phong, giống như những cuộc thử thách những thí sanh khi muốn học đạo trong Kim Tự Tháp Khéops thuở xưa. Hơn nữa những tinh tú (ngũ hành) cơi Trung giới không ưa những người ở thế lên chỗ họ ở, họ sợ mấy người nầy lên làm rộn họ cho nên họ hóa ra những h́nh dữ tợn tới nhát. Nếu sợ quá chạy về nhập xác th́ có khi phát điên khùng.

 

Sau đây vài phương pháp trị bịnh nhát sợ:

 

a). Vô trong tối sợ. – Quí bạn hăy nhớ rằng: tối với sáng là tương đối, nếu con mắt ta nhận được những điện tử th́ sẽ thấy mọi vật đều chiếu sáng và không tối nữa. Thường thường th́ người ta sợ ma, nhưng ma là chi? Ấy là hồn người đă chết. Người chết rồi qua cơi khác tấn hóa nữa, ít ai muốn ở lại cơi trần, trừ một vài trường hợp đặc biệt: cần giải quyết một vài vấn đề mà họ c̣n thắc mắc hồi sanh tiền. Một nỗi nữa, muốn hiện h́nh phải biết cách lấy chất dĩ thái tinh khí (éthers) làm ra cái h́nh giả, điều nầy không phải mỗi hồn ma đều làm được. Thí dụ họ hiện ra: ḿnh đừng sợ, đừng hoảng hốt, đừng chạy đi, hăy đứng lại hỏi họ muốn chi? ḿnh sẽ giúp họ. Tự nhiên họ sẽ tỏ ư muốn cho ḿnh biết. Thường thường họ liệng đá gạch, dở bàn ghế. Đó là họ tỏ dấu họ c̣n sống như người thường, nhưng tại họ không c̣n xác thịt nên không nói chuyện được. Họ khác với ta chỉ có bấy nhiêu đó thôi. Thế th́ có chi phải sợ họ.

Các bạn sẽ nói: Nếu họ hiện h́nh hung dữ nhát? Quí bạn chớ lo: Quí bạn gặp trường hợp đó cứ thản nhiên nói: “Mấy anh chớ nên khuấy chơi, chúng ta đều là Chơn thần cả mà”, bấy nhiêu đó đủ làm cho họ tỉnh ngộ. Nếu họ làm dữ đừng nao núng, lấy ngón tay trỏ chỉ tới ngay họ miệng niệm chữ “AUM” tức th́ họ biến mất liền. Đây là trường hợp cấp bách mới dùng tới chữ “AUM” không nên lạm dụng mà gây ra ác cảm với hồn ma vô ích và mang quả xấu về sau. Đi trong tối ta phải đề pḥng rắn rít, ḅ cạp hay những thú có thể làm nguy hại tới sanh mạng ta, chỉ bấy nhiêu đó thôi, chớ đừng sợ ma. Trong một muôn lần hết chín ngàn chín trăm chín mươi chín lần tại trí tưởng tượng của ḿnh sanh ra ma, chớ kỳ thật không có ma hiện h́nh, c̣n một lần nữa là do hiện tượng tự nhiên như gió thổi, lá cây xào xạc v. v. . .

b). Nếu lên Trung giới gặp ngũ hành hóa h́nh hung tợn, cứ thản nhiên. Hăy tươi cười với họ rồi nói: “Quí hữu, chúng ta đều là anh em với nhau mà”. Nói rồi đem tư tưởng từ bi bác ái ban rải cho họ, tự nhiên cảm hóa họ dễ dàng và họ trở nên vui vẻ tản đi, sau ḿnh nhờ họ giúp ḿnh vài việc.  

c). Sợ rắn – Hăy nói trong ḷng: Nó là thú vật, ta là con người, ta khôn ngoan hơn nó. Ta có đủ phương thế trị nó, không cho nó phạm tới ḿnh ta. Quả thật nọc nó độc song ta cũng có thuốc giải độc chích hoặc uống vô th́ nọc làm tan không hại được.

d). C̣n nhiều trường hợp khác nữa. Song phương pháp căn bản như sau đây. Tưởng tượng thấy việc đó hay ai đó tới trước mặt, ḿnh t́m cách đối phó hay giải quyết cho ổn thỏa, trong ḷng cứ b́nh tĩnh coi như thường. Cái nào phải đến th́ đến cho rồi và nhớ kỹ điều nầy: Luôn luôn nên lấy ḷng từ bi bác ái đặng cảm hóa người th́ chặt đứt được những dây oan trái. Phải mỗi ngày mỗi tập chớ không phải tập một lần mà thấy kết quả.
 

NHỮNG GƯƠNG CAN ĐẢM

1.- TRÍ, TRUNG, DŨNG

Nước Tần bị nước Sở đánh, phá tan mất cửa thành phía Tây. Sau người Sở lại bắt dân nước Tần ra tu bổ lại cửa thành ấy.

Một hôm Đức Khổng Tử đi xe qua đây, không cúi đầu vào miếng gỗ trước xe. Thầy Tử Cống dừng cương lại hỏi: “Cứ theo lễ, đi xe qua chỗ ba người th́ phải xuống xe, qua chỗ hai người th́ phải cúi đầu vào miếng gỗ trước xe để tỏ ḷng kính trọng. Nay quan dân nước Tần sửa sang cửa thành biết bao nhiêu là người, thế mà Thầy đi qua không tỏ ḷng kính trọng là cớ làm sao?

Đức Khổng Tử nói: “Nước mất không biết là bất tri; biết mà không lo liệu là bất trung; lo liệu mà không liều chết là bất dũng. Số người nước Tần tuy đông, mà ba điều ấy không biết được một, th́ bảo ta kính làm sao được.

 

HÀN PHI TỬ

LỜI BÀN: Cứ theo cổ lễ rất phiền (ba người phải xuống xe?) nhưng Đức Khổng Tử vốn là người hay giữ lễ nên Thầy Tử Cống mới hỏi.

Đức Khổng Tử mới đáp thế, ư hẳn quan dân nước Tần bấy giờ ai nấy đều vui vẻ, h́nh như không c̣n ai biết đến nước là ǵ. Nếu quả vậy th́ có người cũng như không. Ngài không kính là phải, v́ rằng: “Ngu dân bách vạn vị chi vô dân”, nghĩa là nhân dân ngu dại th́ tuy dân số nhiều đến trăm vạn, cũng đáng bảo là không có một người dân nào.

CỔ HỌC TINH HOA
 

2.- BỌ NGỰA CHỐNG XE

Một hôm Trang Công nước Tề xe giá đi săn. Xe ra khỏi thành, đi trên đường cái có con bọ ngựa, cứ đứng giữa đường, giương cẳng chực chống lại với xe. Tả hữu thấy thế, kêu lên rằng: “Chết ! Chết !” Trang Công nghe tiếng, tưởng sự ǵ nguy hiểm, vội vàng bắt dừng xe lại hỏi. Tả hữu thưa: “Có con bọ ngựa thấy xe sắp đến, không tránh lại c̣n giơ càng lên muốn chống lại. Giống bọ ngựa chỉ biết tiến lên, chớ không biết lùi. Không chịu lượng sức ḿnh khỏe hay yếu, hễ gặp cừu địch th́ xem thường, xem khinh, cứ lập tức xông vào đánh. Xin cứ để cho xe đi, xem bọ ngựa sống hay chết thế nào?”

Trang Công nói: “Hăy khoan, giống bọ ngựa thế mà đáng kính. Giả sử có một người bị kẻ tàn bạo hà hiếp, không ngại gian nan, không sợ nguy hiểm, nhứt quyết tiến lên, chọi đến cừu địch, chết cũng không thoái tị th́ chẳng đáng nên tôn kính lắm ư?”

Nói đoạn Trang Công bảo tránh xe đi sang một bên. Từ hôm đó, bọn tướng sĩ Trang Công nghe thấy câu chuyện, khi phải đi đánh giặc đâu, là liều chết tiến lên, chớ không chịu không bằng con bọ ngựa.

HÀN THỊ NGOẠI TRUYỆN

LỜI BÀN: Có kẻ cừu địch trước mặt, không biết lượng sức người ta yếu hay khỏe thế nào, cứ liều xông vào chọi, có khi như trứng chọi với đá, nồi đất chọi với nồi đồng, th́ cũng khờ dại đáng tiếc. Tuy vậy có kẻ hà hiếp ḿnh thậm tệ mà ḿnh đủ chí khí chống lại, thế là ḿnh hiểu được cái lẽ tự vệ, chết cũng không chịu nhục. Nhất là ḿnh lại quả quyết phấn chấn tiến lên, không chịu nhẫn nhục lùi lại, thế là có dũng khí đáng khen. Ôi ! giống bọ ngựa là giống sâu bọ c̣n biết thế, huống chi là giống người là bực tinh anh lại chịu kém bọ ngựa hay sao? Trang Công thật khéo biết dạy, và tướng sĩ Trang Công thực là biết nghe ra vậy.

 

CỔ HỌC TINH HOA

 

THÁNG THỨ TÁM

THANH KHIẾT

 Muốn được hoàn toàn tinh khiết th́ phải đủ ba điều kiện nầy:

a)    Thân tinh khiết

b)    Ư tinh khiết

c)     Trí tinh khiết

 

a) THÂN TINH KHIẾT

- Hạng xuất gia phải trường trai tuyệt dục

- Hạng cư sĩ phải trường trai và có điều độ.

 

b)  Ư và TRÍ TINH KHIẾT

 Không nên sanh một ư muốn hay một tư tưởng quấy quá. Phải nuôi những ư muốn và những tư tưởng thanh cao từ bi bác ái. Nếu có một tư tưởng hay một ư muốn quấy quá ở ngoài xông vào nhiễm cái vía hay cái trí ta, th́ ta phải xua đuổi nó đi lập tức. Xua đuổi đây có nghĩa là tưởng tới tư tưởng tốt đối lập với ư muốn hay tư tưởng quấy quá đó. (Xin xem lại chỗ kiểm soát tư tưởng).

Tinh hoa đạo Phật gồm trong ba câu nầy:

a)    Lánh dữ.

b)    Làm lành.

c)     Rửa ḷng cho trong sạch.

Lánh dữ tức là tŕ giới thuộc về tánh thụ động. Làm lành và rửa ḷng cho trong sạch thuộc về tánh hoạt động. Hăy xem: mặt kiếng để soi, nếu mỗi ngày không lau chùi th́ đóng bụi dơ, hóa ra lu lờ. Cũng thế ấy, nếu ta để những tư tưởng hay ư muốn quấy nhiễu tới tâm ta th́ nó trở nên nhơ bợn, ta không đồng hóa chơn lư được, v́ chơn lư vô tâm, ta th́ biến đổi ra khác cũng như kiếng lồng đèn đỏ th́ ta thấy ngọn đèn đỏ chớ không c̣n trong trắng nữa. Người ta nói tâm viên ư mă. Nhưng người ta lầm lộn cái trí là cái tâm. Chính là cái trí lao chao, tưởng cái nầy rồi nhớ cái kia cũng như con khỉ ở trên cây, buông nhánh nầy bắt nhánh nọ liền liền, không chịu ở một chỗ cho lâu.

Nói tóm lại: muốn trở nên thanh khiết th́ bước đầu tiên là phải kiểm soát tư tưởng – tức là tự biết ḿnh sanh ra tư tưởng và ư muốn nào, tốt hay xấu, phải chọn lựa lấy cái lành và bỏ cái không lành.

Hữu phước thay những người tấm ḷng thanh khiết. Họ sẽ thấy Đức Thượng Đế.

 

NHỮNG GƯƠNG THANH KHIẾT

 

1.    – CHUYỆN NHỮNG NGƯỜI KHÔNG TU LUYỆN

CHỈ CÓ LÀM BỔN PHẬN MÀ ĐƯỢC GIÁC NGỘ.

 

Một vị tiểu đạo sĩ Săn ni da sen (Sannyāsin) [16] lánh tục vào rừng, tu luyện nhiều năm, một ngày kia thầy ngồi dưới gốc cây, lá vàng đổ rơi rớt trên đầu thầy. Thầy ḍm lên thấy một con quạ và con séo cắn lộn nhau trên ngọn cây. Thầy lấy làm tức giận và hét lên rằng: “Chà ! Chúng bây dám làm cho lá cây rớt trên đầu ta à !” Trong lúc thầy thốt ra câu nói đó, cặp nhăn quang đầy vẻ tức giận chiếu thẳng vào cặp chim, th́ bỗng một tia lửa trong cặp mắt thầy xẹt lên đốt hai con chim ấy cháy tiêu ra tro.

Thầy lộ vẻ mừng đắc chí, thật là một cái mừng tràn ngập v́ thầy thấy được phép mầu của bao nhiêu công phu khổ luyện bấy lâu, nay chỉ có cái trừng mắt mà làm cháy tiêu hai con chim vậy! Ít ngày sau, thầy đi khất thực nơi thành thị, thầy ghé một nhà kia thầy mới nói: “ Thưa mẹ [17] hăy bố thí cho tôi chút ít cơm độ khẩu”. Bổng nghe trong nhà có tiếng đưa ra: “Con ơi! hăy chờ tôi một chút”. Tiểu đạo sĩ nổi giận nói trong ḷng rằng: “Người đàn bà khốn nạn kia ơi, sao ngươi dám bảo ta chờ, ngươi chưa biết ta có phép mầu à !” Trong lúc thầy đương tư tưởng như thế th́ lại nghe tiếng trong nhà nói ra: “Con ơi ! con đừng tưởng đến con quạ, ở đây không có quạ và séo đâu !” Thầy ấy lấy làm kinh ngạc, đứng chờ và không dám nói chi nữa. Khi xong công việc rồi th́ bà chủ nhà mới đi ra cửa, thầy bèn qú trước mặt bà và hỏi rằng: “Thưa mẹ, làm sao mẹ biết được như thế?” Bà đáp lại rằng: “Con ơi ! tôi không biết con tu những ǵ và luyện tập cách nào. Tôi là một người đàn bà tầm thường thôi. Tôi bảo con chờ tôi bởi v́ chồng tôi đau và lúc ấy tôi đương mắc tay săn sóc chồng tôi. Trong đời tôi, tôi chỉ hết sức làm tṛn bổn phận của tôi. Trước khi tôi lấy chồng, tôi giữ tṛn bổn phận làm con đối với cha mẹ; khi tôi có chồng rồi, tôi ăn ở trọn đạo với chồng tôi, đó là cái đạo tu hành của tôi. Trong lúc tôi cố làm tṛn bổn phận, tôi được giác ngộ, v́ thế nên tôi biết được tư tưởng của con, biết con làm ǵ ở trong rừng. Nếu con muốn học hỏi thêm những điều cao xa hơn nữa, th́ con nên đi đến thành kia, nơi đó con sẽ gặp một người Uy da đa (Vyādha) [18]. Người ấy sẽ dạy cho con những điều mà con rất hân hạnh muốn biết. Thầy ấy suy nghĩ rằng: “Tại sao ḿnh phải đến thành kia và phải t́m đến anh Uy da đa (Vyādha)? Song thầy v́ đă thấy việc th́nh ĺnh khi nảy, tinh thần thầy mở thêm, nên thầy làm theo lời người đàn bà khuyên bảo.

Khi đến gần thành kia, thầy thấy một người Uy da đa mập mạp đang chặt thịt và nói giá cả với những người đứng mua, thầy nói thầm rằng: “Xin Thượng Đế giúp con! Có phải người nầy mà con cần phải học hỏi thêm nữa chăng? Thật là một linh hồn ma quỉ nào đầu thai vào xác thịt như thế kia !” Song người Uy da đa ḍm thấy rồi nói với thầy rằng: “Sờ hoa mi (Swami) ơi, có phải bà già bảo thầy đến t́m tôi chăng? Mời thầy ngồi chơi, chờ tôi bán xong hàng thịt của tôi một chút”. Tiểu đạo sĩ Sannyāsin kinh ngạc, nghĩ thầm rằng: “Rồi đây sẽ xảy đến cho tôi việc ǵ?” Đoạn thầy ngồi chờ, c̣n người hàng thịt th́ cứ tiếp tục công việc của y. Khi bán hết rồi, người ấy góp hết tiền bỏ vào túi và nói với tiểu đạo sĩ rằng: “Mời thầy lại nhà tôi”. Khi hai người về tới nhà, người Uy da đa chỉ ghế cho thầy ngồi và xin thầy chờ y một lát, rồi người ấy bước vào trong nhà.

Anh lau ḿnh, rửa mặt cho ông già và bà mẹ già của anh; anh dưng cơm cho cha mẹ anh và anh làm công việc của cha mẹ anh cần dùng.

Xong xuôi rồi anh mới ra chỗ tiểu đạo sĩ ngồi và nói rằng: “Thầy đến thăm, thật tôi lấy làm hân hạnh, tôi không biết lấy chi đáp lại tấm thạnh t́nh nầy . . .?” Tiểu đạo sĩ mới hỏi anh vài câu về linh hồn và Thượng Đế, người Uy da đa nhân đó giảng cho thầy nghe một bài thuyết pháp, mà bài nầy ở trong kinh Ma ha bờ ha ra ta (Mahabhārata) và người ta gọi bài ấy là Uy đờ ha Ghi ta (Vydhā Ghita). Bài thuyết pháp nầy chứa một trong những đoạn hay của kinh Huê đăn ta (Védanta). Khi người Uy da đa ngưng nói, tiểu đạo sĩ rất lấy làm ngạc nhiên và nói với người Uy da đa: “Tại sao anh ở trong cái thân h́nh nầy? Với sự hiểu biết của anh, tại sao anh đầu thai ở trong hạng người Uy da đa? Tại sao anh làm cái nghề ghê tởm, nhơ nhớp nầy?”

Người Uy da đa đáp rằng: “Thầy ơi, không có bổn phận nào nhơ nhớp, không có nghề nào ghê tởm. Tôi sanh nhằm địa vị hoàn cảnh nầy. Trong lúc tôi c̣n nhỏ, tôi đă học cái nghề nầy. Tôi sống đây chẳng có ǵ dính dấp trói buộc tôi cả và tôi cố sức làm tṛn bổn phận của tôi. Tôi làm tṛn bổn phận của tôi là người chủ gia đ́nh, và tôi cố làm cho cha mẹ tôi được hạnh phúc. Tôi không biết cái đạo của thầy, tôi không phải là hạng Săn ni da sen, lại tôi không phế bỏ cuộc đời mà vào rừng sâu. Nhưng tất cả những điều tôi biết và thấy được trong tư tưởng thầy là nhờ tôi thi hành theo đúng bổn phận tôi đối với một sự không quyến niệm, nghĩa là không câu thúc ḿnh vào việc đó, mà bổn phận tôi, đó cái nghề của tôi vậy”.

Thế nên khi ta lănh một phận sự nào, ta phải cố làm cho tṛn bổn phận, đừng tưởng ǵ ngoài việc làm ấy. Ta làm như ta chỉ ham mộ việc ấy thôi, ham mộ một cách trong sạch và chú tâm, trong khi ta thi hành việc đó. Cũng như chuyện của người Uy da đa và người đàn bà, nhờ họ làm tṛn bổn phận một cách rất vui vẻ và tận tâm nên họ được giác ngộ.

B. N.

 

2.    – CHUYỆN NÀNG KỸ NỮ VÀ VỊ ĐẠO SĨ SA NI DA SEN (Sannyāsin)

 

Thuở xưa có một vị đạo sĩ tu luyện gần bên đền thờ Đức Thượng Đế Si hoa (Shiva). Ngay tịnh thất của ông là nhà của một nàng kỹ nữ, ngày đêm rước khách không ngớt. Đạo sĩ thấy vậy bèn kêu nàng kỹ nữ nói rằng: “Nầy con! Con có biết con phạm tội lỗi tới ngần nào không? Ngày đêm con dụ dỗ bọn đàn ông con trai vào đường hoa nguyệt. Con làm chuyện đồi phong bại tục trái với luật Trời. Con sẽ bị Trời phạt nặng nề”. Nói xong ông mới giảng đạo lư cho nàng nghe. Nàng hết sức hối hận về những điều quấy của nàng đă làm, nên từ đó nàng thành tâm cầu nguyện Trời tha tội cho nàng. Nhưng bởi nàng không có phương kế khác sanh nhai, nên buộc ḿnh phải tiếp tục nghề nhơ nhớp đó. Tuy vậy, mỗi lần tiếp khách mua hoa dày ṿ thân nàng, th́ nàng rất ghê tởm và nàng xin Đức Thượng Đế chứng minh ḷng thành của nàng và hỉ xả cho. Vị đạo sĩ thấy dường như lời khuyên của ông không có hiệu quả mới tự nói: “Để ta tính coi trọn đời, nàng nầy rước bao nhiêu khách”. Ngay khi đó hễ mỗi người vô nhà nàng th́ ông lấy một cục sỏi để một bên. Tới ngày kia những sỏi chất thành đống cao. Ông bèn kêu nàng kỹ nữ chỉ cho coi và nói: “Con hăy xem đống sỏi đó, mỗi cục sỏi là một tội ác của con gây ra từ lúc ta đă chỉ đường ngay thẳng cho con. Ta khuyên con hăy sửa tánh nết con lại và ta lặp lại một lần nữa: “Con phải gội rửa những lỗi lầm đó đi”. Nàng kỹ nữ rung rẩy lập cập và khóc mùi mẫn khi thấy tội lỗi của nàng chồng chất lên cao. Nàng bèn vái lầm thầm: “Lạy Đức Thượng Đế, xin Ngài giải thoát kiếp đau khổ của con đi”.

Lời cầu nguyện của nàng được chứng chiếu. Tử thần tới rước nàng nội ngày đó. Nàng đă thoát kiếp trần ai khổ năo.

Mà một điều lạ xảy ra, do thiên ư đă định là vị đạo sĩ cũng bỏ xác một ngày với nàng kỹ nữ. Các Thiên thần, bộ hạ của Quích nu (Vishnou) xuống rước hồn nàng về cơi Thiên đường; trái lại hồn của vị đạo sĩ bị quỉ sứ dẫn xuống âm phủ. Đạo sĩ thấy lẽ trái ngược như thế bèn la lên: “Đức Thượng Đế công b́nh như thế nào? Trọn đời tôi sống trong cảnh thanh bần, tu hành khổ hạnh mà tới lúc thác người ta đem tôi xuống địa ngục, c̣n ả buôn hương bán phấn đó, trọn một kiếp dẫy đầy tội lỗi mà được lên Thiên đường à?” Thiên thần bèn đáp: “Đức Thượng Đế không bao giờ lầm lạc trong sự xét đoán bao giờ. Người ta gieo giống chi th́ gặt giống nấy”. Trên đời Ngài sống trong cảnh hư vinh, Ngài khoe khoang cho thiên hạ thấy công đức của Ngài, Ngài đeo đuổi theo những danh vọng hăo huyền; Ngài muốn cho người ta kính trọng và ca tụng Ngài. Trời đă ban thưởng Ngài rồi đó. Ngài không hề thật ḷng mến Đức Thượng Đế chút nào cả.

Trái lại, nàng nầy ngày đêm thành thật cầu khẩn Đấng Chí Tôn trong lúc thân ḿnh nàng phạm tội lỗi. Bây giờ hăy coi người trần thế đối đăi với xác thân của Ngài và xác thân của nàng như thế nào? Bởi xác thân của Ngài không phạm tội lỗi cho nên người ta mới đem tràng hoa phủ lên và cộ đi tới sông Hằng hà, theo sau quần chúng và tiếng nhạc vang đầy, mà cũng trong lúc ấy xác thân bẩn thỉu của nàng đương làm mồi cho kên kên quà quạ và lang sói. Nhưng bởi tấm ḷng nàng trong sạch cho nên linh hồn nàng mới được về cơi Thiên đường là nơi để ban thưởng những người không nhiễm trần ai. C̣n ḷng cùa Ngài chỉ để ngắm xem những tội lỗi của kẻ khác, v́ thế nó trở nên nhơ bợn. Bởi vậy Ngài phải xuống cơi âm phủ để chứa những người ḷng dạ xấu xa. Chính Ngài mới thật là kỹ nữ chớ không phải nàng đó đâu”.

 

LỜI BÀN: Chuyện nầy có thật hay không điều đó ta tưởng không cần thiết lắm, có thật cũng được, không có thật cũng được; nhưng ư nghĩa của nó rất sâu xa và rất đúng với Chơn lư. Trong bài nầy có ba điều ta phải ghi nhớ măi:

a) một là: quả báo trả từ cảnh – Quả báo của việc làm trả cho xác thịt, quả báo của ư muốn trả cho cái vía, quả báo của tư tưởng trả cho cái trí và cái tâm;

b) hai là: ḿnh phải tự biết ḿnh và lo rửa ḷng cho trong sạch, đừng háo hư danh;

c) ba là: không nên xem bề ngoài mà xét đoán những tội lỗi của kẻ khác.

Theo luật Nhân Quả con người gieo giống chi th́ gặt giống nấy. Những khổ hạnh bề ngoài giống như một lớp son phủ lên những tấm ván mục, nếu tấm ḷng ta c̣n vấy bợn nhơ, không lo sửa tư tưởng, ư muốn cho hạp với cơ Trời. Con người có thể khoe khoang với con người, chớ không có chi qua mắt các đấng Thiêng liêng được. Như Thiên thần đă trả lời với vị đạo sĩ  “ . . . C̣n ḷng Ngài th́ để ngắm xem những tội lỗi của kẻ khác, v́ thế nó trở nên nhơ bợn”. – Đây là sự thật. Một khi ḿnh nhớ tới tánh xấu của người nào th́ tư tưởng của ḿnh tới thêm sức cho tánh xấu của người đó làm cho va xấu thêm. Đồng thời cái trí của ḿnh rút những tư tưởng xấu, đồng bản tánh với tật xấu đó vô, làm cho nó trở nên đen tối và ḷng dạ của ḿnh v́ đó trở nên hèn mạt. Chính là ta hại người mà ta trở lại hại ta một lượt nữa.

Thế nên xin nhắc lại điều kiện tối cần cho sự thành công trong đường Đạo hay đường Đời là: ḿnh phải tự biết ḿnh trước nhứt v́ tánh t́nh ḿnh là khí cụ của ḿnh dùng. Ḿnh phải hết sức gắt gao với ḿnh, mà trái lại luôn luôn tha thứ cho người. Không nên khinh khi, rẻ rúng ai cả, mặc dầu thấy người ta c̣n ở trong ṿng tội lỗi. Một sự sa ngă chưa phải là dấu hiệu của một sự thấp thỏi. Nhiều khi bị luật Nhân quả, người ta phải làm những điều hèn hạ đặng đền bù tội lỗi kiếp trước, nhưng trong mấy cơi vô h́nh người ta đă tiến hơn ḿnh rất xa. Sau khi dứt hết các dây nghiệt chướng rồi, người ta bước vào cửa đạo và đi mau lắm, ta không thể theo kịp. Điều nầy ta chớ lấy làm lạ. Phải là Chơn sư mới hiểu rơ được sự tấn hóa của con người tới bực nào, tới bực đó mới không c̣n lầm lạc nữa. Chính là thuở xưa Phật cũng thâu nhận làm đệ tử những kỹ nữ thuộc về hạng sang trọng, tiếng Pháp dịch là “courtisances”.

Chuyện nàng “Kỹ nữ và vị đạo sĩ” là một, c̣n chuyện dưới đây vốn của ông Đại tá Olcott thuật lại do sự kinh nghiệm của ông, cũng một ư nghĩa với bài trên.

 

3.- KHÔNG NÊN COI THEO BỀ NGOÀI MÀ XÉT ĐOÁN

 

“Một ngày kia tôi bị một vị Chơn sư ở Bombay quở trách nặng nề v́ tôi do dự không nhận làm hội viên một người có ḷng thành nhưng đă bị một nhóm tín đồ Cơ Đốc giáo hành hạ ngược đăi và bắt bỏ tù v́ một lẽ riêng. Ngài mới cho tôi coi bề trong của những vị bằng hữu cọng tác với tôi và tôi hiểu rằng: “Mặc dầu họ có những ư muốn tốt đẹp, hết chín phần mười phạm tội một cách kín đáo v́ bởi họ c̣n yếu tánh. Đây là một bài học cho tôi, trọn đời tôi không hề quên, và từ đó sắp sau tôi rất kiêng dè, không hề xét đoán những vị cọng tác với tôi nữa; phần đông họ không yếu đuối hơn tôi mà tôi cũng không hoàn toàn hơn họ; mặc dầu họ vượt núi không nổi, họ cũng như tôi, vẫn kiên gan lo leo trèo cực nhọc cho tới chót.

Mấy năm về trước, khi tôi tới Bombay lần đầu tiên, bà Blavatsky có nói với tôi: “Nhiều vị Chơn sư hội họp với nhau rồi cho trải qua trước mắt các Ngài một luồng ánh sáng tinh giới [19]trong đó hiện ra phản ảnh những tánh t́nh của các hội viên người Ấn. Bà liền yêu cầu tôi định coi h́nh nào tốt đẹp hơn hết. Tôi bèn đề nghị: Ấy là một người Bạt si (Parsi), ở Bombay, c̣n trẻ, hiện là hội viên rất hoạt động và rất tận tụy, ai ai cũng nhận thấy điều đó. Bà bèn tươi cười mà nói: “H́nh đó không tốt đẹp chút nào; người mà tánh t́nh tốt hơn hết là anh Băn ga li (Bengali) khốn khổ, lúc đó lại mang tật uống rượu. Chẳng bao lâu anh Bat si ra hội rồi trở lại công kích chúng tôi, c̣n anh Băn ga li bỏ rượu và bây giờ thành một người chơn tu. Bà mới cắt nghĩa rằng: “Có nhiều tật xấu thuộc về nhục dục chỉ có ảnh hưởng đến xác thịt mà thôi và không có để dấu vết măi măi trong tâm hồn. Trong những trường hợp nầy, bổn tánh thiêng liêng rất hùng dũng và trong một cuộc chiến đấu ngắn ngủi rửa sạch hết các vết bợn ở ngoài”.

 

KẾT LUẬN: Tôi xin lấy hai đoạn nầy, qui tắc 2-4 và 5-8, rút trong quyển Ánh Sáng Trên Đường Đạo [20] mà kết luận:

Chúng tôi rán thật hành theo lời khuyên dạy của một Đức Thầy trong các Đức Thầy của chúng tôi dưới đây:

Nếu các con gắng công bước tới trước được một bước, nếu các con có được một sự tiến bộ rơ rệt, các con chớ nên tự nói: “Tôi đă làm được như thế, quả thật, tôi đă tiến bộ”. Tốt hơn là nên tưởng nghĩ như thế nầy: “Tôi rất hữu phước mà làm được như thế bởi v́ do sự thành công của tôi, nhân loại càng tiến gần, lúc mà nhân loại sẽ tự ḿnh thấy chân tướng của ḿnh, và đến gần mục đích mà Thượng Đế đă định cho nhân loại. Do nơi sự thành công của tôi, nhân loại tiến tới một bước, khiến cho mỗi phần tử của nhân loại tiến bộ được một ít”. Như thế người ta có thể tưởng nghĩ đến trọn cả gia đ́nh của y, từ đứa con nhỏ cho đến nội tổ cao niên, để lo lắng cho sự thạnh vượng chung tất cả.

Con đừng tưởng rằng con có thể sống riêng biệt với kẻ hung dữ hay là người ngu ngốc điên cuồng [21].

Họ cũng là con mặc dầu họ ở vào một tŕnh độ thấp kém hơn bạn con hay là Sư phụ con. Nhưng nếu con để nảy nở ư nghĩ rằng con không liên đới với một vật nào hay một người nào tức là con sẽ tạo ra một nghiệp quả trói buộc con vào người đó hay vật đó, cho tới chừng nào tâm hồn con nhận thấy nó không có thể sống riêng biệt được.

Con nên nhớ rằng tội lỗi và sự nhục nhă của nhân loại là tội lỗi và sự nhục nhă của con v́ con là một phần tử của nhân loại. Nghiệp quả con kết chặt với Đại Nghiệp quả . . . (Nghiệp quả của nhân loại).

Và trước khi con giác ngộ con phải trải qua tất cả mọi nơi, chỗ bợn nhơ cũng như chỗ sạch sẽ. Con hăy nhớ rằng cái áo dơ dáy mà vừa đụng tới con đă nhờm gớm, có thể con đă mặc nó hôm qua và có thể con sẽ mặc nó lại ngày mai nữa. Nếu con day mặt chỗ khác ghê tởm nó chừng nào th́ khi nó đặt lên vai con rồi nó sẽ bó chặt con lại chừng nấy. Người nào khoe khoang đức hạnh của ḿnh tức là sửa soạn xuống nằm dưới bùn lầy. Con phải tŕ giới v́ tŕ giới là tốt chớ không phải giữ ḿnh con cho được trong sạch.

 

4.- ÔNG QUAN THANH BẠCH

Dương Chấn được bổ đi làm thái thú quận Đông Lai. Lúc đi phó nhậm, qua đất Xương ấp, quan huyện ở đây là Vương Mật, trước được nhờ ông đề bạt cho, vào yết kiến. Rồi đợi đêm khuya đem vàng đến lễ.

Dương Chấn bảo:

-  Trước, tôi biết ông là người khá, mới cử ông lên thế mà ông vẫn chưa biết bụng tôi, c̣n đem vàng đến cho tôi ư?

Vương Mật cố nài, thưa rằng:

- Xin ngài cứ nhận cho. Bây giờ đêm khuya không ai biết.

Dương Chấn nói:

- Trời biết, đất biết, ông biết, tôi biết, sao lại bảo là không ai biết?

Vương Mật nghe nói xấu hổ lùi ra.

Dương Chấn thật là một quan thanh liêm, chỉ chăm việc dân, việc nước, không tham nhũng, không làm giàu cho ḿnh. Ông thường nói: “Làm quan mà để được cái thanh bạch cho con cháu chẳng quí hơn ruộng nương tiền của để lại cho chúng ư?”

 

LỜI BÀN: Làm quan như ông Dương Chấn đối với người ḿnh đă đề bạt không cần ơn, đối với dân ḿnh cai trị không ăn lễ, lúc đêm khuya, tấm ḷng cũng rơ rệt như lúc thanh thiên, bạch nhật, chẳng cũng là một ông quan thanh liêm đáng làm gương cho những bọn tham quan ô lại những muôn đời ư ! Làm quan mà vơ vét cho nhiều, chính ḿnh chắc đâu đă giữ được, huống chi c̣n mong để lại cho con cháu. Như thế th́ để lại cho chúng cái tiếng thanh bạch thơm tho muôn thuở chả hơn là cái của phi nghĩa chỉ làm cho chúng kiêu sa dâm dật rồi đi đến bại vong ư !

 

CỔ HỌC TINH HOA

 

5.- CỦA BÁU

Nước Tống có người được ḥn ngọc, đem biếu quan Tư thành là Tử Hăn. Tử Hăn không nhận. Người biếu ngọc thưa rằng:

- Ngọc nầy tôi đă đem cho thợ ngọc xem, quả là một thứ ngọc rất báu, mới đem dâng quan lớn, xin quan lớn nhận cho, tôi được vui ḷng.

Tử Hăn nói:

- “Người cho ngọc là của báu, ta cho tính không tham là của báu. Người đem ngọc cho ta, nếu ta nhận th́ cả hai bên cùng mất cả của báu. Âu là người cứ đem về. Ai giữ lấy của báu của người ấy, như thế của báu của hai người đều c̣n cả, th́ chẳng là hơn ư?

Người biếu ngọc cúi đầu thưa:

- “Chúng tôi là thường dân mà lại có ngọc nầy, chỉn sợ trộm cướp mà có khi hại đến thân . . .

Tử Hăn thấy thế, lưu người ấy lại, gọi thợ ngọc đến giũa ngọc bán được tiền rồi bèn đưa cho người ấy đem về để làm giàu.

 

LỜI BÀN: Đă là người ai cũng có hiếu thượng, cái hiếu thượng ấy là của báu của ḿnh. Nhưng hiếu thượng, không ai giống ai. Người kiến thức thô bỉ th́ hiếu thượng thô bỉ, người kiến thức cao minh th́ hiếu thượng cao minh. Kẻ dâng ngọc chỉ biết ngọc là quí, nhưng người không nhận ngọc lại cho thanh liêm mới là báu. Làm quan mà ai cũng có tánh nhất quyết không nhận lễ vật của dân như Tử Hăn, có bụng che chở gầy dựng cho dân như Tử Hăn nói trong chuyện nầy, th́ dân nào chẳng kính, chẳng trọng, chẳng yêu quan như cha mẹ, sợ quan như thần minh.

 

CỔ HỌC TINH HOA

 

THÁNG THỨ CHÍN

KIÊN NHẪN

 

Trong muôn việc, không kiên nhẫn th́ không bao giờ thành công. Tánh kiên nhẫn bao gồm những đức tánh; can đảm, hy sanh, an phận, tự tín . . . Một khi biết mục đích của ḿnh là chánh đáng và tự lượng sức ḿnh rồi th́ cứ tiến tới và không bao giờ thay đổi chí hướng. Ta có thể ngày nay thất bại mà ngày mai hay là một ngày gần đây thành công, tùy theo sự sửa đổi phương pháp hành động và khả năng của ta. Cái gương nước chảy đá ṃn cũng đủ chứng cho ta thấy, dầu đá là vật cứng rắn, nó cũng có thể bị nước lần lần xoi lủng nó được.

Có kiên nhẫn mới vui ḷng trả những quả xấu đă gầy ra, mới có thể học hỏi sâu rộng, trau sửa tánh t́nh ra tốt đẹp và gầy dựng tương lai rực rỡ. Các bạn chịu khó suy nghĩ, th́ thấy Tạo công rất kiên nhẫn trong sự sanh hóa muôn loài vạn vật. Từ ngày cấu tạo thân h́nh sắt đá, cỏ cây, thú cầm cho tới con người th́ phải mất mấy trăm triệu năm công phu chớ không phải một vài năm mà xong công việc đó. Thế nên ta đây cũng vậy, ta phải kiên nhẫn mới hái được trái ngon ngọt của giống tốt mà ta đă gieo.

 

GƯƠNG KIÊN NHẪN

 

1.- HỌC BẮN CUNG

Kỷ Xương vào hầu Phi Vệ, xin học phép bắn cung.

Phi Vệ bảo:

- Anh phải học không chớp mắt trước rồi sau mới học bắn được.

Kỷ Xương vâng lời trở về, ngày ngày nằm dưới cái khung cửi của vợ, giữa chỗ gọng máy, đưa lên, đưa xuống. Hai năm sau thành quen mắt, cho dầu dùi đâm vào cũng không chớp mắt.

Kỷ Xương đến thưa chuyện với Phi Vệ.

Phi Vệ bảo:

- Chưa được. Anh c̣n phải học nh́n. Bao giờ nh́n vật nhỏ như vật to, nh́n vật tối như vật sáng, th́ bấy giờ đến đây ta sẽ dạy.

Kỷ Xương lại vâng lời trở về, bắt một con rận treo trước cửa sổ, ngày đêm ngảnh mặt vào đó mà nh́n. Sau mười hôm mỗi ngày nh́n thấy một to. Sau ba năm nh́n thấy to bằng cái bánh xe. Bấy giờ trông vật ǵ cũng to như núi, như g̣ cả. Kỷ Xương bèn làm một chiếc cung nhỏ bằng sừng, mũi tên bằng đầu kim bắn trúng giữa bụng con rận, rồi đến thưa chuyện với Phi Vệ.

Phi Vệ nhảy lên vỗ vào bụng nói rằng:

- Anh học được rồi đó.

 

LIỆT TỬ

 

LỜI BÀN: Nói dùi đâm vào mắt mà không chớp, ta có thể tin được, nhưng nói trông con rận bằng cái bánh xe, tựa hồ như ngoa ngôn khiến ta lấy làm ngờ vực. Song ta ngờ vực vị tất đă là phải, v́ chưa ai đă chịu khó luyện tập được như Kỷ Xương, nh́n con rận trong những ba năm trời. Ôi ! Chịu khó luyện tập như Kỷ Xương rất là hiếm. Tác giả lấy Kỷ Xương làm cái gương chịu khó chuyên tâm cho ta rất là đúng vậy. Ở đời đă kiên tâm không c̣n việc ǵ khó nữa, th́ chuyên tâm cũng không có ǵ là không học được.

 CỔ HỌC TINH HOA

 

2.- PHẢI BỀN CHÍ

Có một vị đệ tử của Phật, tấm ḷng rất sốt sắng với Đạo đức. Huynh có lập nguyện t́m nơi thanh tịnh để tham thiền nhập định. Chẳng dè vào rừng ở đặng ít lâu ngă ḷng và tưởng trong trí như vầy: “Phật dạy rằng con người chia ra làm nhiều hạng; chắc là tôi thuộc về hạng thấp hèn hơn hết, kiếp nầy chắc tôi không đắc đạo được. Vậy th́ tôi ở trong rừng tham thiền nhập định có ích chi đâu”. Nghĩ như thế, huynh bèn bỏ chốn ấy trở về chỗ Phật ngự. Mấy vị đệ tử khác thấy vị nầy trở về th́ trách sao không giữ tṛn lời hứa, bèn dẫn anh đến trước mặt Phật. Phật ngó thấy th́ hiểu hết mọi việc, bèn nói rằng: “Con ôi ! Kiếp nầy con rất hữu phước nên con mới gặp lại Ta, nếu con không lo tu cho đắc đạo th́ mấy kiếp sau con sẽ ăn năn chẳng kịp. Mấy kiếp trước con rất có chí khí, sao kiếp nầy con nhu nhược lắm vậy? Nhờ con ra sức mà khi xưa những người lái buôn và năm trăm cổ xe mới có nước uống giữa đồng cát khỏi chết. Ngày nay sao con lại thối chí hỡi con?

Mấy lời nầy làm cho vị đệ tử ấy tỉnh ngộ, c̣n mấy vị kia cầu khẩn Phật xin thuật chuyện năm trăm cổ xe cho họ nghe.

 

CHUYỆN NĂM TRĂM CỔ XE

Phật bèn nói rằng: “Thuở xưa, hồi vua Bra ma đạt ta (Bramadatta) trị v́ tại Ca si (Kaci) th́ Đức Bồ Tát đầu thai làm con một vị thương gia rất giàu có. Lớn lên Đức Bồ Tát dọn năm trăm cổ xe đi buôn. Một ngày kia đến ranh của một cái sa mạc rất lớn. Cát chỗ đó nhỏ rí, nếu bốc lên tay th́ nó lọt theo mấy kẽ tay. Đến trưa th́ nó nóng như lửa đốt. Người ta sắm sửa vật thực, củi đốt, nước nôi cho nhiều rồi chờ trời tối mới dám đi qua.

Đức Bồ Tát mướn người hướng đạo coi theo sao mà dẫn đường. Hễ đêm đi ngày nghỉ. Khi được năm mươi chín dặm, Đức Bồ Tát nghĩ rằng: “C̣n một đêm nữa th́ ḿnh ra khỏi sa mạc”. Chẳng dè tên hướng đạo ngồi cổ xe đầu, bị mỏi mệt quá ngủ quên, để cho mấy con ḅ [22] quày đầu trở lại. Tới hừng đông, tên hướng đạo giựt ḿnh thức dậy, xem sao rồi thất kinh, hô lên bảo ngừng xe lại hết. Ai nấy đồng nhảy xuống xe th́ thấy ḿnh c̣n ở chỗ cũ hôm qua. Cả thảy đều than rằng: “Bây giờ củi đuốc và nước nôi đă hết, chắc là phải chết giữa đồng cát nầy rồi. Nói rồi lên xe nằm dàu dàu. Đức Bồ Tát nói thầm trong ḷng như vầy: “Nếu ta nhát gan th́ chắc phải bỏ mạng cả đám”. Nghĩ như vậy, Ngài mới đi t́m coi gần đó có ao giếng chi chăng. Bỗng đâu Ngài gặp một đám cỏ, Ngài bèn nói: “Đám cỏ nầy nhờ nước mới sống được. Nói rồi liền kêu tôi tớ đem cuốc xuổng lại đào dưới đám cỏ. Khi đào xuống 60 thước mộc th́ đụng một cục đá rất lớn. Bọn tôi tớ bèn ngă ḷng, bỏ lên. Đức Bồ Tát nghĩ rằng: “Ở dưới cục đá chắc có nước”. Nghĩ như vậy, Ngài đi xuống giếng kê lỗ tai trên cục đá mà nghe th́ quả nhiên có tiếng nước chảy ro re. Ngài trở lên kêu một người tôi tớ dặn rằng: “Nầy em, em hăy xách cái búa lớn, xuống giếng rán đập cho bể cục đá, em đừng ngă ḷng. Nếu em không nghe lời qua th́ nội bọn đều phải chết hết”. Người tôi tớ vưng lời xuống giếng rán sức đập cục đá ấy nứt hai rồi trở lên.

Bỗng chút nước ở dưới trào lên ngập tới miệng giếng. Cả thảy đều mừng rỡ, lại đó tắm rửa, múc nước nấu ăn. Và đựng vào mấy cái hũ bằng da, chờ trời tối đặng qua đồng cát . . .”

Khi thuật hết chuyện nầy rồi Phật nói rằng Đức Bồ Tát khi xưa là Ta, người tôi tớ xuống đập cục đá tức là vị đồ đệ mới thất lời hứa đó, c̣n mấy người đi buôn kia vốn là đệ tử của Ta.

 

3.- NGU CÔNG DỌN NÚI

Phía sau Nam châu Kư, có hai ngọn núi Thái Hàng và Vương Ốc, to bảy trăm dặm, cao hơn muôn thước, cây cối rậm, ác thú lại nhiều, đi lại khó.

Ở cận núi có một cái nhà của ông lăo tên là Ngu Công, tuổi đă chín mươi.

Ngu Công thấy v́ núi mà nhà ở chướng ngại, đường đi bất tiện, lấy làm bực tức. Một hôm họp cả vợ con, người nhà lại bàn rằng:

- Ta muốn cùng lũ ngươi hết sức bạt phăng hai quả núi nầy th́ có nên không?

Ai nấy đều thuận. Chỉ có người vợ ngần ngại hỏi vặn lại rằng:

- Sức ông không bạt nỗi một cái g̣, th́ làm thế nào bạt được những hai quả núi. Mà dù cho có sức bạt được đi nữa, th́ đất, đá định đem đổ đi đâu?

Ngu Công nói: Khuân đổ ra bể Đông.

Đoạn Ngu Công đem con cháu cùng cả họ ra phá núi, kẻ đục đá, người đào đất, kẻ đầu đội, người vai mang, hết ngày nầy sang ngày khác. Láng giềng có đứa bé tám tuổi, con người đàn bà góa, cũng xin đi làm giúp, hàng năm mới về một lần . . .

Gần miền đó có ông lăo khác, tên là Trí Tẩu thấy vậy, cười Ngu Công và can rằng:

- Sao khờ dại vậy ! Ḿnh th́ tuổi tác, núi th́ cao lớn, phá thế nào nổi?

Ngu Công thở dài nói:

- Ngươi không bền ḷng. Bền ḷng th́ việc ǵ cũng phải được. Ngươi không bằng người đàn bà góa, đứa trẻ con thơ. Ta già ta chết, đă có con ta. Hết đời con ta đă có cháu ta, hết đời cháu ta đă có chắt ta. Con con cháu cháu sinh hạ vô cùng mà núi th́ bao giờ cũng vậy, lo ǵ không bạt nổi.

Trí Tẩu nghe nói im lặng không trả lời.

Sau cùng vùng Nam châu Kư không có núi non chướng ngại, đi lại thuận tiện là nhờ có Ngu Công.

 

LIỆT TỬ

 

LỜI BÀN: Ta không tưởng tượng rơ núi Thái Hàng và núi Vương Ốc to lớn thế nào. Ta chỉ biết cái đời Ngu Công bấy giờ chưa có máy móc tinh xảo như bây giờ, mà đă bạt được núi th́ giỏi thật. Lại không phải thuê hàng ngh́n hàng vạn người để làm, chỉ toàn người trong nhà, một họ và ít người lân cận giúp tay vào mà cũng làm nổi. Ôi! nếu quả như vậy th́ cái gương kiên nhẫn của Ngu Công thực đáng để truyền lại măi cho muôn ngh́n đời sau nầy, giả chăng chỉ một câu của Ngu Công nói với Trí Tẩu cũng nên ghi nhớ lắm. Sự kiên tâm không phải chỉ hạn chế trong một đời, nhưng cứ tiếp luôn đời ấy, đời khác, theo đuổi măi, th́ ở đời c̣n có cái ǵ gọi là khó được nữa. Ngu Công đây thật là người đại trí nhược ngu (người cực khôn bề ngoài coi như ngu). Ngôn hành ông y như những câu sau đây cũng đều có ư khuyên chúng ta lập chí và kiên tâm làm việc:

1.- Trên đời chả có việc ǵ khó, chỉ tại tâm người ta không kiên nhẫn mà thôi.

2.- Bí quyết thành công cốt ở nhất định không thay đổi mục đích.

3.- Đă có cái kiến thức can đảm phi thường, nhất quyết làm được sự nghiệp phi thường.

4.- Đem sự hiểu biết tinh tường, dùng hết tâm trí bền bỉ, vận cả toàn lực tinh tiến vô cùng, th́ có việc ǵ mà không làm được. Người ta sống một cách nay lần mai lữa, suốt đời không làm được việc ǵ, chỉ tại không có chí.

5.- Ư chí kiên nhẫn có thể chinh phục được hết thảy các thứ tư nhiên trong ṿng trời.

 CỔ HỌC TINH HOA

 

THÁNG THỨ MƯỜI

KHÔN KHÉO

 

Người khôn khéo phải là người thấy xa hiểu rộng, kinh nghiệm đă nhiều, rất cẩn thận và nhứt là thuận theo lẽ trời – gặp nghịch cảnh người cứ thản nhiên lo xoay đổi chiều hướng đặng thắng lợi cũng như ghe bầu gặp gió ngược và chạy cấn được. Từ lời nói đến việc làm, người khôn khéo không hề làm cho một ai đau ḷng hay là gây rối rắm cho kẻ khác – nếu v́ phận sự bắt buộc phải nghiêm khắc chỉ lối cho kẻ khác th́ người dùng lời nhă nhặn, êm thấm, dịu dàng vạch bỏ điều quấy nhưng không làm cho người có lỗi thẹn thuồng, trái lại làm cho họ vui ḷng cải quá và từ đó có thể trở nên người tốt lành. Người khôn khéo thâu phục nhơn tâm bằng cách làm cho người cảm mến bằng ḷng nhơn từ của ḿnh chớ không dụng oai quyền bắt kẻ khác phải kính nễ. Người khôn khéo tùy theo tŕnh độ tiến hóa của mỗi hạng người mà giúp cho họ thấy được ánh sáng chơn lư vừa sức họ. Sự khôn khéo của người đời khác hơn sự khôn khéo trong đường đạo. Người đời khôn khéo trong sự ích kỷ v́ chưa biết luật trời và vạn vật đồng nhất thể. Trái lại, người khôn khéo trong cửa đạo giúp kẻ khác tiến hóa mà không mưu cầu hạnh phúc hay lợi lộc cho riêng ḿnh.

 

NHỮNG GƯƠNG KHÔN KHÉO

1.    – CÂU NÓI CỦA NGƯỜI ĐÁNH CÁ

Vua Văn Công nước Tấn đi săn ham đuổi một con thú. Măi theo quá chân, thành lạc vào rừng chầm không biết lối ra.

Vua gặp một người đánh cá, bèn bảo rằng:

-         Ta là vua đây. Ta lạc đường, nhà ngươi chỉ lối cho ta ra, rồi ta hậu thưởng.

Người đánh cá nói: Bầy tôi muốn dâng nhà vua một câu.

Vua bảo: Cứ đưa ta ra khỏi chầm đă, rồi muốn ǵ hăy nói.

Khi người đánh cá đưa vua ra khỏi chầm, vua phán rằng:

-         Nào câu ǵ nhà ngươi muốn nói với quả nhân lúc nầy, th́ nói đi nghe.

Người đánh cá thưa:

Chim hồng, chim hộc ở bờ sông, bờ bể, chán sông bể mà vào đầm thời tất mắc phải ḍ bẫy. Thuồng luồng, ba ba ở đáy vực sâu, chán vực sâu mà ra chỗ băi nông, thời tất phải bị chài lưới. Nay nhà vua đi săn, sao quá chân mà vào tận đây như thế?

Vua Văn Công bảo: Người nói phải lắm.

Đoạn ngoảnh lại, truyền quân hầu ghi tên người đánh cá sau ban thưởng.

- Nhà vua bảo ghi tên bầy tôi để làm ǵ. Nhà vua cứ tôn kính thiên địa xă tắc, pḥng giữ biên thùy, thương yêu muôn dân, đánh nhẹ thuế má, tự khắc là bầy tôi có phước, hưởng ân huệ của nhà vua rồi. Nếu nhà vua không tôn kính thiên địa xă tắc, chẳng pḥng giữ biên thùy, chẳng chăm công việc, bên ngoài không khéo xử với các nước, bên trong mất cả ḷng muôn dân, để đến nước mất, dân khổ, th́ dù bầy tôi có được hậu thưởng, cũng không sao giữ mà hưởng một ḿnh được.

Người đánh cá cố từ, xong rồi lại nói:

-         Xin vua mau mau về nước, tôi đây cũng về chỗ kiếm cá của tôi.

TUÂN TỬ

 

LỜI BÀN: Người đánh cá đây là người hiền có ư khuyên vua Văn Công hai điều: không nên say mê chơi bời săn bắn quá độ mà có khi hại đến tánh mệnh; hết đạo làm vua cho dân được nhờ và nước khỏi mất.

C̣n người đánh cá từ chối không nhận thưởng nói cái lẽ như thế cũng là lo xa, nghĩ sâu và phải lắm vậy. Quả thế, khi tổ chim đă đổ th́ không c̣n có cái trứng nào lành; nước đă bị phá tan hay xâm chiếm th́ nhà toàn vẹn sao được để ḿnh c̣n ḥng riêng hưởng cuộc yên vui; đời được thái b́nh th́ bằng bao nhiêu ân thưởng, tâm không phiền lụy th́ sung sướng bằng bao nhiêu công danh.

CỔ HỌC TINH HOA

 

2.- VUA TÔI BÀN VIỆC

Vũ hầu nước Ngụy cùng với quần thần bàn việc, việc ǵ vua bàn cũng phải, quần thần không ai giỏi bằng.

Lúc lui chầu, Ngụy hầu ra dáng hớn hở lắm.

Ngô Khởi bèn tiến lên nói:

-         Cận thần đă ai đem câu chuyện Sở Trang vương nói cho nhà vua nghe chưa?

Vũ hầu hỏi:

-         Câu chuyện Sở Trang vương như thế nào?

Ngô Khởi thưa:

- Khi Sở Trang vương bàn việc phải hơn quần thần, th́ lúc lui chầu lo lắm. Có người hỏi: Sao vua lại lo?

Sở Trang vương nói: Ta bàn việc mà quần thần không bằng ta được, cho nên ta lo. Cổ nhân có câu: “Các vua chư hầu ai có thầy giỏi, th́ làm được vương; ai có bạn giỏi, th́ làm được bá; ai có quyền quyết đoán cho mọi việc ngờ vực, th́ c̣n nước; ai bàn việc không c̣n ai bằng ḿnh, th́ mất nước”. Ta nghĩ ngu như ta mà quần thần không ai bằng th́ nước ta có nhẽ mất. Bởi thế ta lo . . .

Ấy cũng một việc giống nhau, Sở Trang vương th́ lo mà nhà vua th́ mừng.

Vũ hầu nghe nói áy náy vái tạ và nói rằng:

-         Trời sai nhà thầy đến bảo cái lỗi cho ta.

TUÂN TỬ

 

LỜI BÀN: Người làm chúa tể một nước tất là người tài giỏi hơn người, sáng công việc hơn người. Tuy vậy, khi đă dùng quần thần, là muốn mong cậy quần thần, c̣n có nhiều khi giúp được ḿnh như người ngoài giúp nước cờ vậy. Nếu mà quần thần không có ai hơn ḿnh cả, th́ là bọn a dua ăn hại c̣n mong cậy ǵ được mà chẳng đáng lo. Nên lời Ngô Khởi nói đây ắt là phải. Đă hay rằng người ta ở đời phải cầu ở ḿnh hơn nhờ ở người, nhưng lắm lúc cũng phải có tả phụ hữu bật mới lo toan được công việc lớn. Những bậc vua chúa cần phải có thầy giỏi, tôi hay là v́ thế ấy.

Truyện nầy cũng giống câu trong “Quốc sách” có nói: “Đế giả cùng ở với thầy, vương giả cùng ở với bạn, bá giả cùng ở với bầy tôi, vua vong quốc chỉ cùng ở với hạng đầy tớ”.

 

CỔ HỌC TINH HOA

 

3.- CAN G̀ MÀ PHÁ ĐI

Dân nước Trịnh thường hay đến trường học ở thôn quê để nghị luận những chính sách hay dở của quan liêu.

Nhiên Minh bảo Tử Sản rằng:

-         Tôi định phá hết cả trường thôn quê, ông tính sao?

Tử Sản nói:

Để chứ. Phá đi làm ǵ? Dân sự người ta sớm tối đến chơi trường học để nghị luận điều phải, điều trái của quan liêu làm. Cái ǵ người ta cho là phải, ta cứ thế mà làm; cái ǵ người ta cho là dở, ta liệu mà đổi đi. Những kẻ nghị luận ấy tức là những ông thầy của ta. Can ǵ mà phá trường học.

Vả chăng, tôi nghe nói: hết ḷng làm điều phải, th́ mới đỡ được người ta oán trách ḿnh. Tôi chưa từng nghe nói: chỉ nạt nộ ra oai mà tuyệt được hết sự oán trách của người. Cũng như phải đấp đê mà giữ nước, chớ bỏ đê đi, th́ nước vỡ tứ tung, bao nhiêu người chết, không thể cứu lại được. Nay ta hẵng cứ để trường học, khiến thường được nghe những câu chê bai làm thứ thuốc chữa cho ta th́ hơn.

Nhiên Minh nghe Tử Sản xong, nói rằng:

Nay tôi mới biết ông là ông quan thầy đáng tôn vậy. Tôi thật là kẻ bất tài. Ông làm được như lời th́ chẳng một đám chúng tôi được trông cậy mà cả nước cũng được như vậy.

TẢ TRUYỆN

 

4.- CÁCH CƯ XỬ Ở ĐỜI

Cư xử với người mà góc gách, nghiêm ngặt quá là cái đại bệnh ở đời.

Bực Thánh hiền xử với người đời không có giây phút nào là rời bỏ được cách ôn ḥa trung hậu. Cho nên mới có những câu:

Phiếm ái chúng, rộng yêu tất cả loài người.

Ḥa nhi bất đồng, nghĩa là xử với người ḥa hợp mà không a dua phe đảng.

Ḥa nhi bất lưu, nghĩa là xử với người ḥa nhă mà không dua theo quá trớn.

Quần nhi bất đảng, nghĩa là liên hợp với mọi người cho có nhân quần mà không vào bè, kết đảng với ai cả.

Chu nhi bất tị, nghĩa là công b́nh mà chẳng thiên vị.

Tử tường, khải để, nghĩa là nhân đức, êm ái, vui vẻ, dễ dàng.

Ái nhân, nghĩa là yêu loài người.

Thân dân, nghĩa là gần gũi dân, đi sát với dân, coi dân như anh em con cái.

Vạn vật nhất thể, nghĩa là coi muôn loài với ḿnh như là một thể.

Thiên hạ nhất gia, trung quốc nhất nhân, nghĩa là coi cả thiên hạ như một nhà, coi cả nước như một người.

Nếu làm người mà cứ ṿ vơ một ḿnh, tính nết khe khắt, lạnh nhạt, chẳng thân với ai, th́ thật là một hạng chướng ngại cho xă hội. Dù cho là người phương chính, tính nết độc lập cũng không phải là hạng ứng dụng với đời, chẳng qua là người nhất tiết quyền giới mà thôi.

LĂ KHÔN

 

LỜI BÀN: Mùa xuân khí trời có đầm ấm ôn ḥa th́ muôn loài mới xinh tươi nẩy nở và phồn thịnh được. Người đối với người cũng vậy, trong th́ gia đ́nh, ngoài th́ xă hội, có “ḥa khí” th́ mới có thể sống chung với nhau mà an cư lạc nghiệp được. Ta đă có được là người tốt chăng nữa mà cứ một mặt góc gách, nghiêm ngặt với người, th́ người lấy làm khó chịu mà không thể nào thân với ta được. Không chịu được nhau, tất nhiên hay khích bác nhau, thành cả đôi bên cùng nhau không được yên vui sung sướng, mà công việc ở giữa v́ thế hỏng cả. Cho nên Thánh hiền ở đời không bao giờ thế. Bao giờ cũng giữ được thái độ ôn ḥa, không a dua, xu nịnh ai, cũng không oán ghét ai để cho người đau đớn mà sinh biến. Những câu tác giả lược ra mà liệt vào bài đây thực là những vị thuốc rất hay để chữa cho người có tính khắt khe, quá thẳng với đời mà hay ghét đời, chán đời vậy.

CỔ HỌC TINH HOA

 

5.- NGƯỜI VỢ HIỀN MINH

Vợ Nhạc Dương Tử là bực hiền minh.

Dương Tử một hôm đi đường, bắt được lọ vàng người ta đánh rơi, mừng rỡ đem về đưa cho vợ.

Vợ nói: Thiếp trộm nghe người chí sĩ không uống nước suối “Đạo toàn” [23] người liêm khiết không nhận của ăn “Ta lai” [24] . Chàng nay nhặt của rơi đường cầu lợi, để ô uế phẩm hạnh, thử nghĩ có nên không?

Dương Tử nghe nói, thẹn quá, liền đem lọ vàng bắt được bỏ ra ngoài đàng. Rồi đi xa, t́m thầy để học.

Đi học mới được một năm, Dương Tử về chơi nhà. Vợ qú xuống trước mặt hỏi rằng: Chàng có việc ǵ mà về nhà. Dương Tử nói: Ta đi lâu nhớ nhà th́ về, chẳng có việc ǵ cả. Vợ cầm con dao đến chỗ khung cửi nói rằng: Lụa đang dệt đây là phải làm tự lúc nuôi tằm ươm tơ cho đến lúc mắc lên được khung cửi. Nếu đang đứt một sợi mà đứt măi, th́ đứt hàng tấc, đứt hàng tấc mà đứt măi th́ đứt đến hàng thước, hàng trượng và cả tấm. Nếu bây giờ chặt đoạn đang dệt đây th́ bao nhiêu công phu ngày giờ từ trước đến nay đều mất hết cả. Chàng đi học là để trở nên một người giỏi, nếu đang học mà bỏ về th́ khác ǵ tấm lụa đang dệt đây mà chặt đi vậy.

Dương Tử thấy nói cảm động lắm, đi học luôn bảy năm tốt nghiệp mới trở về.

Nhạc Dương Tử có người vợ hiền như thế mà sau được quí hiền.

 

HẬU HÀNG THƯ NHẠC DƯƠNG TỬ truyện

 

LỜI BÀN: Cứ theo lẽ thường, cái ǵ nên làm thế nào, th́ người đàn ông phải biết tự chủ lấy, không cần đợi người đàn bà giáo hóa rồi mới chịu cải tâm cải tính. Tuy vậy lắm khi phải có sự kích thích mềm mại ở ngoài vào th́ mới dễ khiến người ta phấn chấn lên mà cố sức làm cho nên việc.

Như vợ Dương Tử đây thật là khéo biết dạy chồng làm cho chồng thành ra một người có khi lại có chí và sau quí hiển được. Đúng với câu tục ngữ cổ: “Khôn v́ vợ, sang v́ vợ lắm”.

 CỔ HỌC TINH HOA

 

6.- CÁCH TRỊ DÂN

Tư Sản làm tướng nước Trịnh đă lâu năm có ḷng thương dân, lấy Đạo khoan ḥa trị dân.

Khi Tư Sản ốm nặng gọi Tử thái Thúc đến bảo rằng: Ta chết, tất là nhà ngươi làm tướng nước Trịnh. Ngươi phải biết người có đức phải lấy Đạo khoan ḥa mà phục được dân, c̣n người thường phải lấy uy nghiêm mà trị dân mới được.

Nầy ví như lửa nóng dân trông thấy mà sợ cho nên chết v́ lửa ít, nước mát dân khinh mà lờn, cho nên chết v́ nước nhiều. Thế mới biết khoan ḥa là khó.

Mấy tháng sau Tư Sản mất, Tử thái Thúc thay làm tướng, không nỡ dùng nghiêm mănh, cứ lấy đạo khoan ḥa mà trị dân.

Không bao lâu, trong nước sinh ra nhiều trộm cướp, thường núp náu ở các đồng lầy mà lấy của giết người nhũng nhiễu lương dân.

Tử thái Thúc hối lại nói rằng: Giá ta biết sớm theo lời Tư Sản th́ đâu đến thế  nầy!

Rồi liền đem quân đi đánh bắt bọn cướp ở đồng lầy mà giết hết. Từ đấy nước Trịnh mới bớt trộm cướp.

Đức Khổng Tử nói rằng: “Được lắm ! chính khoan th́ dân lớn, dân lớn th́ phải dũng mănh; mănh th́ dân tàn, tàn lại phải dùng khoan, khoan giúp cho mănh, mănh giúp cho khoan, có thế th́ chính mới ḥa được.

 

LỜI BÀN: Tử Sản vốn là một người học rộng, chính trị giỏi, làm tướng nước Trịnh hơn 40 năm, đối với trong th́ dân b́nh trị, đối với ngoài th́ các nước e nễ. Ông là một bực quân tử có bốn điều hay: đối với ḿnh th́ tự trọng (cung), đối với người ḿnh thờ th́ kính, nuôi dân th́ có ân huệ, khiến dân th́ có nghĩa.

Câu ông dặn Tử thái Thúc đây, thực có ư lắm. Mănh mà khiến cho dân sợ, dễ bao nhiêu th́ khoan mà cũng khiến cho dân sợ, khó bấy nhiêu. Tuy cũng gọi là sợ, nhưng cái sợ trước không có giá, v́ sợ bất đắc dĩ, sợ miễn cưỡng, sợ bề ngoài mà khinh trong bụng; sợ sau mới sợ quí, vừa sợ vừa yêu, sợ mà kính phục, sợ như vui ḷng mà sợ vậy. Nhưng muốn được cái sợ sau, tất cái đức của ḿnh phải lo làm sao mới cảm hóa được nhân tâm đến bực ấy.

C̣n thường thường phép trị dân không thể cứ khoan măi được, v́ khoan th́ dân lờn. Lại cũng không thể cứ mănh măi được, v́ mănh th́ dân oán. Dân oán hay dân lờn cũng đều có trở ngại đến việc ḿnh làm cả. Cho nên phải có khoan lại phải có mănh đắp đổi đỡ đần cho nhau th́ mới được. Bốn chữ “khoan mănh tương tế” thực đáng là cái phương châm cho cả những người cầm quyền trị dân vậy.

 CỔ HỌC TINH HOA

 

THÁNG MƯỜI MỘT 

TỰ TÍN

 

 Tự tín là tin nơi ḿnh, nhưng tin cậy nơi tài đức của ḿnh, sức lực của ḿnh chưa phải là đủ. Ta phải tin rằng ta là Chơn Thần của Đức Thượng Đế, ta là Tiểu Thiên Địa, ta cũng đủ quyền năng như Đức Thượng Đế, tức là Pháp lực vô biên, ta chỉ cần biểu lộ những Pháp lực đó mà thôi. Muốn đoạt được mục đích đó, ta phải tự chủ, tức là luyện tập ba thể: thân, ư, trí cảm xúc lẹ làng và ở dưới quyền ta sai khiến. Chúng nó không c̣n ư muốn riêng hay ương ngạnh nữa.

Ta hăy tin chắc rằng: tới một ngày kia không biết mấy muôn hay mấy ngàn triệu năm nữa, ta sẽ là một vị Thượng Đế sanh hóa một bầu vũ trụ in như Thái dương hệ nầy vậy. Tự tin không phải là tin rằng: Ta cứ cúng lạy một vị Phật hay là một vị Tiên nào đó, rồi tới một ngày kia khi lâm chung, vị ấy sẽ rước linh hồn ta về nước Cực lạc của Ngài và cho ta làm dân bổn xứ, khỏi đọa luân hồi.

Ta tự tin rằng: ta cầm vận mạng của ta trong tay, điều đó không có chi là lạ, bởi ta gieo giống chi gặt giống nấy. Nếu ta sửa đổi chiều hướng của tư tưởng, ư muốn, việc làm theo Cơ Trời th́ ta có thể thành một vị Siêu phàm trước ngày giờ của Đức Thái Dương Thượng Đế đă định sẵn cho vũ trụ nầy.

Con người có thể làm nghịch với Đức Thượng Đế trong một thời gian. Ấy là sức tự tin của mấy vị ở trong bóng tối tục gọi là Bàn Môn. Mấy vị nầy đạo pháp cao cường thắng họ không phải là một việc dễ dàng đâu. Nhưng chung cuộc họ cũng phải bó tay trước sự phản động của luật Tạo hóa. Phàm nhơn của họ sẽ tan tành lần lần ra tro bụi trong chốn A tỳ (Avitchi). Người học Đạo phải tự tín v́ biết rằng ḿnh tự cứu ḿnh, ngoài ḿnh ra không có ai cứu ḿnh được. Tiên Thánh chĩ dẫn bước đường, nếu ḿnh không đi th́ không biết chừng nào mới tới mục đích.

 

CHUYỆN NHỮNG NGƯỜI CÓ ĐỨC TIN

 

1.- MẤT ĐỨC TIN BỎ MẠNG

Qui bí sa na (Vibhishana), vua Tích Lan, có một người bằng hữu muốn vượt biển nên hỏi cách thức nhà vua. Nhà vua bèn đáp: “Tôi cho anh cái bùa nầy anh cột vào vạt áo của anh th́ anh đi tới bờ biển bên kia dễ dàng. Nhưng tôi cấm anh, đừng ngó cái bùa đó, anh căi lời th́ sẽ ch́m xuống nước”. Người bằng hữu nắm chặt cái bùa trong tay rồi đi trên mặt nước như đi trên đất bằng. Tới nửa đường va có tánh tọc mạch bèn mở bùa ra coi th́ thấy chỉ có một tấm lá trên có đề tên Đức Rama. Va tưởng ḿnh đă khám phá được sự bí mật nên la lên: Phép thần thông chỉ có bao nhiêu đây à?.

Trong lúc va hoài nghi th́ va ch́m lịm xuống đáy biển.

 

2.- ĐI TRÊN MẶT NƯỚC

Một cô bán sữa mỗi ngày phải đem sữa cho một ông thầy tu Bà la môn ở phía bên kia mé rạch. Bởi đ̣ qua lại bất thường, nên cô đem sữa không đúng với lời hẹn. Một bữa ông thầy tu trách cô th́ cô trả lời: Đâu có phải lỗi tại tôi, tôi phải chờ, hoặc người chèo đ̣, hoặc hành khách tới đông, người ta mới đưa đi. Ông thầy tu bèn nói: Hỡi tín nữ, người ta vượt qua bể trần chỉ có niệm tên Đức Thượng Đế, c̣n tín nữ không thể đi ngang qua cái rạch nhỏ như vậy sao? Cô bán sữa tin bằng lời. Cô rất mừng biết được một phương pháp đi ngang qua rạch dễ dàng và từ đó cô đem sữa đúng giờ luôn luôn. Ông thầy tu lấy làm lạ mới hỏi duyên cớ. Cô bèn trả lời: Tôi không dùng đ̣ nữa. Tôi đi ngang qua rạch chỉ nhờ niệm tên Đức Thượng Đế như ông đă dạy tôi đó. Ông thầy tu ngạc nhiên, không tin lời cô ấy chút nào? Cô mới dắt ông tới mé rạch. Cô bèn đi trên mặt nước như thường. Một chập cô day lại thấy ông thầy lính quưnh, cô mới hỏi: ông làm cái ǵ lạ vậy? Miệng ông niệm tên Đức Thượng Đế mà tay ông vén ống quần lên sợ nó ướt. Ông không hoàn toàn tin tưởng Đức Thượng Đế hả?

 

3.- CẦU Ở M̀NH HƠN CẦU Ở NGƯỜI

Ngụy Văn hầu hỏi Hồ Quyển tử:

-   Cha hiền có đủ nhờ cậy không?

Hồ Quyển  thưa:

-         Không đủ.

-         Con hiền có đủ nhờ cậy không?

-         Không đủ.

-         Anh hiền có đủ nhờ cậy không?

-         Không đủ.

-         Em hiền có đủ nhờ cậy không?

-         Không đủ.

-         Bầy tôi hiền có đủ nhờ cậy không?

-         Không đủ.

Văn hầu đổi sắc mặt, gắt rằng:

- Quả nhân hỏi nhà ngươi năm điều mà điều nào nhà người cũng cho là không đủ, tại cớ làm sao?

Hồ Quyển nói: “Cha hiền không ai hơn vua Nghiêu mà con là Đan Chu phải bị đuổi. Con hiền không ai hơn vua Thuấn, mà cha là Cổ Tẩu thực ngang ngạnh. Anh hiền không ai hơn vua Thuấn mà em là Tượng rất ngạo mạn. Em hiền không ai hơn Chu Công mà Quản Thúc bị giết. Bầy tôi hiền không ai hơn ông Thang, ông Vũ mà vua Kiệt, vua Trụ mất nước . . . Mong người không được như ư, cậy người không được bền lâu. Nhà vua muốn cho nước được b́nh trị, th́ phải cậy ở ḿnh trước hơn mong ở người.

HÀN THỊ NGOẠI truyện

 

LỜI BÀN: Cốt ư Văn hầu nước Ngụy là chỉ muốn hỏi có thể nhờ cậy được bầy tôi không, nhưng lúc đầu có mượn mấy câu hỏi đến cha, con, anh, em rồi mới dẫn vào vua tôi. Hồ Quyển tử đáp như thế là rất phải. Cha tuy từ với con, con tuy hiếu với cha, anh tuy yêu em, em tuy kính anh, bầy tôi tuy trung với vua nhưng mỗi người vị tất đă là hay được đủ mọi vẻ. Nếu ḿnh không chịu cầu ở ḿnh, chỉ biết cầu những bực ấy để đến nỗi thất đức, th́ chẳng những không lợi ǵ mà lại c̣n hại đến ḿnh nữa. Ta mong người, nhưng ai cũng có thân, không ai bỏ cái thân ḿnh để giúp cho ta; ta cậy người nhưng người cũng có lúc cùng, không thể suốt đời mà đỡ đần cho ta được, vậy ta ở đời, chẳng nên chỉ biết mong cậy vào người. Ta phải biết tự chủ, tự lập, chớ có bỏ ḿnh mà cầu người. Câu “Quân tử cầu chư kỷ” trong Luận Ngữ, và câu “Aide toi, le Ciel t’aidera” của Âu học, thực đúng làm cái phương châm cho cách lập chí ở đời.

 

4.- CẬY Ở NGƯỜI KHÔNG BẰNG CHẮC Ở M̀NH

Văn Công nước Đằng hỏi thầy Mạnh Tử rằng:

- Nước Đằng ta là một nước nhỏ ở vào khoảng giữa nước Tề và nước Sở là hai nước lớn. Kể phận th́ phải chiều cả hai nước, nhưng kể sức th́ không chiều được cả. Chiều nước Tề chăng? Chiều nước Sở chăng? Ta thực không biết nên nương tựa vào nước nào để cho nước ta được yên ổn. Nhờ thầy mưu tính hộ cho ta.

Thầy Mạnh Tử thưa:

-   Phàm việc mà cứ trông cậy vào người th́ không thể chắc được. Chiều Tề th́ Sở giận, chiều Sở th́ Tề giận; mưu ấy chúng tôi không thể nghĩ kịp. Xin nói có một cách là tự giữ lấy nước, đào hào cho sâu, đắp thành cho cao, cai trị một cách cố kết ḷng dân, cùng dân giữ nước. Hoặc như có biến cố ǵ xảy ra, vua đă liều chết để giữ nước, th́ chắc dân cũng liều chết để giữ nước, không nỡ bỏ vua. Thế là ta dùng ḷng dân để giữ lấy đất nước, tự cường mà lo toan lấy việc nước. C̣n chiều Tề hay chiều Sở th́ tôi không quyết được.

MẠNH TỬ

 

LỜI BÀN: Người làm vua, điều cần nhứt là phải giữ hết nghĩa làm vua, và thương yêu giáo hóa dân. Cái chính sách giao hiếu với kẻ mạnh chỉ là cái thế phải thế, cái chính sách tự lo cho mạnh mới là toàn bằng cái lư ở ḿnh. V́ rằng ḿnh dựa vào người, tất người khinh mà ḿnh phải e nễ, đă gặp cái cảnh khinh, cái cảnh nễ không chóng th́ chầy an toàn sao được. Đă đành rằng, nước nhỏ phải nễ nước lớn, cũng như một cách giao tế không thể thiếu được. Nhưng đây v́ Văn Công chỉ chăm chăm việc theo kẻ mạnh, mà không có chi tự làm cho ḿnh mạnh, nên ông Mạnh mới bảo như thế. Mà phải thật, người lănh đạo dân đă cùng dân cùng sống chết, cả dân cũng cam tâm cùng sống chết. Thế là cả nước một ḷng, cái sức mạnh vô h́nh ấy, hồ dễ nước nào đă dám xâm phạm. Đă được như thế có việc ǵ phải sợ hăi ai.

Tuy vậy thời thế ngày nay có phần khác xưa, nội trị dù có đầy đủ, ngoại giao càng cần có sáng suốt khôn ngoan th́ nước mới đứng vững trên thế giới nầy được.

 CỔ HỌC TINH HOA

  

THÁNG MƯỜI HAI

MẶC (nín thinh)

 

Không nên hiểu “mặc” là không dám nói chi cả, trọn đời cấm khẩu. Đây có nghĩa là chuyện nào đáng nói th́ nói, không đáng nói th́ thôi . . . Trước khi nói phải suy nghĩ coi lời nói có đủ ba đức tánh nầy không: dễ thương, hữu ích, chơn thật. Nếu không th́ tốt hơn là làm thinh.

Lời nói đầm thấm, dịu dàng cảm hóa người mau lẹ, ai nghe cũng ưa cũng mến.

Những lời thô lỗ, cộc cằn, xuyên tạc, những lời nói hành, nói vu, nói cà rỡn phải cấm nhặt và dứt tuyệt v́ chúng nó là nguyên động lực của những hành vi hung ác hữu ư hay vô tâm.

Một nhà hiền triết Đông phương có nói “Ai kiểm soát được cái lưỡi th́ kiểm soát được trọn cả thân ḿnh”.

Cũng như tư tưởng, lời nói có quyền năng sanh hóa. Tùy theo bản tánh của nó, lời nói có thể giết người hay cứu người một cách dễ dàng cũng như độc dược hay tiên đơn. Lịch sử đă từng cho ta thấy một lời nói mà an nhà lợi nước, mà cũng một lời nói làm cho tan tành sự nghiệp, mất đức b́nh sanh, xua muôn vạn sanh linh vào chốn rừng tên mưa đạn.

Không khéo dùng lời nói th́ nó là ngọn lửa tam muội cháy lan ra th́ thiêu hủy Vũ trụ Càn khôn.

Ngạn ngữ Tây phương có câu: “Phải uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”. Thật vậy “Bịnh theo lỗ miệng mà vào, họa theo lỗ miệng mà ra”. Ta phải giữ ǵn từng li từng tí mà c̣n e nhiều khi bất cẩn phải sai lầm thay, huống hồ đụng đâu nói đó, bạ ăn bạ nói.

Khi xưa Đức Khổng Tử có dắt môn đệ đi viếng một ṭa cổ miếu. Nhơn thấy có một cái h́nh người bịt miệng ba lần, ngài bèn day lại dặn các môn đệ phải cẩn ngôn cho lắm. Ham nói quá thường sai lầm và gây ra muôn vàn tội lỗi.

Hai ngàn rưởi năm trước, tại Crotone (Hi Lạp) những đệ tử nhập môn của trường Bí giáo của Đức Pythagore phải tập tánh làm thinh hai năm, cứ nghe giảng giáo lư chớ không được phép hỏi han chi cả. Như thế cốt để tập đệ tử cho quen tính cẩn ngôn. Không vậy có khi vui miệng đem những sự bí mật trong đường Đạo nói ra th́ có hại cho đời chẳng nhỏ. Không phải mỗi chơn lư nào cũng nên nói trắng ra. Có khi người ta nghe được một chơn lư nào đó th́ lật đật đem ra thực hành liền mà chung cuộc không thấy hiệu quả chi cả v́ họ không đủ điều kiện. Tức th́ họ trở lại oán hận người nói ra, có khi mưu hại là khác nữa.

Nếu trước khi nói, mỗi người tự hỏi: “Chơn sư có tưởng như vầy hay không? Có nói như vầy hay không?” Th́ tránh được bao nhiêu điều phiền năo về sau.

Tiết kiệm lời nói cũng là một phương pháp dưỡng sanh; tôi thường bảo học tṛ tôi ưa nói chuyện thí nghiệm điều nầy. Bàn tay trái kê trước ngực, bàn tay mặt đặt sau lưng, rồi nói vài tếing thử coi. Chúng nó thấy lúc nói trong ngực bị dội cũng như đánh trống. Chừng đó chúng nó mới giảm bớt  sự nói chuyện khào và biết thương các nhơn viên trong sở giáo huấn v́ tận tụy với nghề nghiệp mà bị ho lao, ho tổn và thác yểu.

 

Mặc, mặc, mặc, vô hạng thần tiên tùng thử đắc,

Nhiêu, nhiêu, nhiêu, thiên tai vạn họa nhất thời tiêu.

 

Trong “Dưới Chơn Thầy” cũng dặn:

“Tri, Cảm, Nguyện, Mặc” mà đức tánh sau “Mặc” là khó tập hơn hết. Khó chớ không phải không tập được. Hễ cố gắng th́ thành công.

 

NHỮNG GƯƠNG CẨN NGÔN

1.- CHUYỆN PHẬT DẠY RA HẦU LA

 

Ra hầu la tuy đă nhập môn song bởi c̣n nhỏ nên chưa được thuần tánh nết và không thật mến chơn lư. Phật mới sai Ra hầu la ở một cái tịnh xá, cách Phật xa lắm đặng Ra hầu la sửa tánh t́nh, tư tưởng và lời nói. Một ngày kia Phật đến thăm Ra hầu la, Ra hầu la mừng lắm.

Phật bèn biểu Ra hầu la múc một chậu nước lại rửa chơn, Ra hầu la lật đật vâng lời. Rửa xong rồi Phật bèn hỏi Ra hầu la: “Nầy con, nước nầy bây giờ uống đặng chăng?

Ra hầu la bèn thưa: “Bạch Phật, nước đó dơ, uống không được.”

Phật mới nói: “Vậy th́ con hăy suy nghĩ tánh hạnh của con. Con là cháu nội của một vị hoàng đế, con đă phát nguyện tu hành, nhưng mà con chưa trừ được tật xấu nói dối th́ con làm cho cái trí của con trở nên xấu xa”.

Khi đổ hết nước rồi, Phật hỏi nữa: “Cái chậu nầy để đựng nước uống đặng không?”

Ra hầu la bèn thưa: “Không được”.

Phật mới nói: “Vậy th́ con hăy suy xét lại cách ăn thói ở của con. Mặc áo Cà sa mà trong ḷng nhơ bợn như cái chậu nầy th́ con có thể nào suy nghĩ đến chuyện thanh cao cho được”.

Nói rồi Phật cầm cái chậu dở lên cao, xây qua, xây lại rồi hỏi: “Con sợ nó rớt bể chăng?”

Ra hầu la đáp rằng: “Thưa không. Nó rẻ tiền dầu có bể cũng không tốn bao nhiêu”. Phật nói: “Vậy th́ con xét lại phần của con. Con mắc vào ṿng luân hồi vô cùng vô tận, cái xác của con và vạn vật trên cơi trần đều làm bằng một chất, chẳng chầy th́ kíp cả thảy đều tan ra tro bụi, vậy th́ thân con dầu có chết mất, con cũng đừng thèm tiếc”.

Ra hầu la nghe vậy lấy làm hổ thẹn mà Phật c̣n nói tiếp: Vậy th́ con hăy nghe một chuyện nầy nữa: “Ông vua kia có một con voi mười phần mạnh mẽ, một ḿnh nó cự nổi một trăm con voi khác. Khi ra trận giặc th́ người ta cột theo cặp ngà hai cây gươm báu, hai bên vai nó th́ mang hai cây đao, bốn cẳng th́ có bốn cây thương; c̣n sau đuôi đeo một cây song sắt. Thằng nài voi thấy vậy rất khoái mắt, nhưng nó biết rằng nếu con voi bị một mũi tên nơi ṿi th́ nó ắt phải chết, nên nó tập con voi khi ra trận th́ cuốn ṿi giơ lên cao. Mà có một lần kia đương lúc đánh giặc, con voi lại tḥ ṿi giựt một cây gươm.

Thằng nài voi thất kinh về tâu với vua tự sự. Vua với thằng nài nhứt định không cho con voi ra trận nữa.

Ra hầu la ôi, nếu thiên hạ cẩn ngôn cẩn hạnh th́ mọi việc đều được tốt lành. Vậy th́ con bây giờ giữ ǵn lời nói của con, như con voi nó giữ ǵn cái ṿi của nó không cho bị tên bắn vậy.

Người nào thật ái mộ chơn lư th́ không hề làm những chuyện bất công và trọn đời cứ giữ ǵn ḷng chánh trực luôn luôn.

Ra hầu la nghe vậy trong ḷng buồn bă nhưng từ đó về sau rán giữ ǵn ḿnh nên không có bị rầy rạt nữa.

 

CHUYỆN BẢY CÔ VỢ LẼ

 

Ông Phật Ấn là bạn thân của ông Tô đông Pha.

Khi tṛ chuyện hai ông thường đùa bỡn chớt nhă.

Đông Pha có bảy người thiếp.

Một hôm, Phật Ấn đùa bảo Đông Pha rằng: “Sao mà bác lấy nhiều thiếp thế? Bác có chịu bằng ḷng tặng tôi cô thiếp thứ bảy không?”

Đông Pha cười nói: “Sao lại không được”.

Rồi Đông Pha về nhà đem chuyện nói với người thiếp.

Người thiếp thưa: “Đó là chuyện nói đùa nhau chớ ǵ”.

Đông Pha nói: “Ta đă hứa rằng cho, th́ không nên sai lời. Bây giờ nàng cứ đi xem ra thế nào”.

Chập tối Đông Pha cho xe người thiếp đến.

Phật Ấn đón người thiếp cho vào nằm trong buồng rồi bỏ màn xuống. Trước buồng đă đặt sẵn bảy cái hỏa ḷ, cái nào cũng đầy than đỏ rực. Ông bước qua từng cái một, bước qua hết một lượt rồi lại bước lại, cứ thế suốt đêm. Đến sáng ông cho xe người thiếp về trả.

Người thiếp về kể lại đầu đuôi câu chuyện, Đông Pha chợt nghĩ ra nói rằng:

Bảy cái hỏa ḷ lửa là chỉ vào bảy người thiếp của ta, giống như bảy cái hang lửa. Ông làm ra như thế, là cố ư bảo ông đă vượt ra ngoài sắc dục, c̣n ta th́ lại sa ngă đắm đuối vào đấy. Ông nầy có ư muốn làm cho ta tỉnh ngộ chăng”.

DỤC HẢI TỪ HÀNG

 

LỜI BÀN: Đông Pha là một bậc tài học phong lưu, Phật Ấn là một nhà tu hành đắc Đạo. Người phong lưu th́ chỉ cốt đời cho sướng là thỏa ḷng, nhà tu hành lại chỉ trí cho cao là măn nguyện. Cứ thường t́nh mà nói, th́ ai là người chẳng thích phong lưu. Nhưng có biết đâu, phong lưu lắm th́ thị dục nhiều, mà bao nhiêu thị dục thường hại người ta hết cả. Xưa nay ai kể cho xiết được những kẻ v́ thị dục mà mất hết cả tính thiêng liêng mầu nhiệm, mà hỏng hết cả phẩm giá, thanh danh. Trong các món thị dục, th́ sắc dục như có phần tệ nhứt. Dâm là cái tội ở đầu cả muôn tội, cái bă hồng nhan đă làm cho bao nhiêu người tài hoa phải khốn đốn.

Phật Ấn đây thật có ư thương, có ḷng yêu Đông Pha lắm. Chơi với anh em mà bày tṛ ra như thế để khuyên anh em, cũng là một cách thuyết pháp bằng việc làm mà cảm được người ta sâu xa vậy.

CỔ HỌC TINH HOA

 

H Ế T

mục lục đầu sách cuối sách chương 1 chương 2 chương 3

 

[1] Các nhà bác học mới biết phân tích Nguyên tử ra: âm điện tử (électron) dương điện tử (proton) và trung ḥa tử (neutron). Đi sâu nữa th́ thấy những phần tử khác không biết tới đâu mới dứt.

Nhưng chưa có thể tổng hợp những phần tử đó lại đặng làm một nguyên tử linh động, như nguyên tử trời sanh.

[2] Hiện giờ người ở Hỏa tinh (Mars) không hề mắc một chứng bịnh nào cả. Từ lúc mới sanh cho đến ngày từ trần họ không biết nhức đầu nóng lạnh là sao? Họ lớn tuổi rồi cũng không hề có trạng thái già nua, tóc bạc răng long như chúng ta. Họ bỏ xác một cách êm ái.

Về phương diện nầy chúng ta c̣n thua họ xa lắm.

[3] Con người phải học hỏi và kinh nghiệm những Luật Trời chẳng những ở tại quả Địa cầu nầy mà c̣n ở những cơi khác và mấy Hành tinh khác như Hỏa tinh (Mars), Thủy tinh (Mercure) v.v. . . thuộc về dăy Trái đất tới khi làm một vị Chơn Tiên trọn sáng trọn lành mới thoát đọa Luân Hồi.

Về hai điểm nầy (1) và (2) xin xem quyển “Thông Thiên Học dẫn giải Vũ trụ và Nhơn sanh” và luôn quyển “Đời sống Huyền bí của Thái dương hệ”. Quí bạn sẽ thấy những lời giải đáp mấy câu hỏi sau nầy: “Con người là ai? Tại sao sanh ra cơi Trần nầy? và con người phải lo làm những điều ǵ đặng tiến cho mau tới mục đích đă định sẵn cho ḿnh v.v. . .

[4] Ta hăy thí nghiệm như vầy: Một cái ve đựng cát tới miệng, ta yên chí cái ve đă đầy. Nhưng sự thật không phải thế. Ta đổ nước vô ve, nước sẽ chảy nằm theo những lỗ trống ở chính giữa những hột cát. Trong ve có hai chất: chất đặc và chất lỏng ở một chỗ với nhau rồi. Nhưng ta có thể cho một chất khí vào trong nước nữa, như thế ta thấy rơ ba chất có thể ở chung một chỗ được. Lấy đấy suy ra th́ thấy bảy cơi trời ở chung một chỗ không phải là một việc lạ lùng.

[5] Cái phách chịu ảnh hưởng sự nóng, sự lạnh, thuốc mê và các thứ hơi độc. Khi con người hít thuốc mê, cái phách xuất ra ngoài, sanh lực không vô ḿnh đầy đủ như trước nên con người mê man. Chừng dă thuốc rồi, cái phách trở vô ḿnh, con người tỉnh lại.

[6] C̣n một tiếng nói khác nữa quở ta, rầy ta khi ta phạm tội lỗi, tiếng nói nầy người ta gọi là tiếng nói của lương tâm.

Bây giờ chúng ta mới thấy trong ḿnh chúng ta có nhiều “Người” lắm, tức là nhiều bản ngă, vậy ta phải phân biệt chúng là ai?

[7] Ấy là thành cổ của xứ Palestine thuở xưa trên bờ biển Tử Hải (Mer morte).

[8] Nếu chưa tập Hườn hư được th́ sau khi làm việc mệt mỏi rồi, trong lúc nghỉ ngơi, nên nhớ đến một đấng Cao Cả như Đức Phật, Đức Bồ Tát, một vị Chơn sư chẳng hạn, hoặc một câu thần chú, một câu chơn ngôn hay là một đức tánh nào đó, tùy ư; bởi v́ trong lúc cái Trí ở không, tư tưởng xấu dễ xâm nhập lắm.

[9] Kinh đô xứ Hi Lạp.

[10] Ta phải biết ta là Chơn Thần, quyền năng ta cũng như quyền năng của Đức Thượng Đế. Ư chí ta cứng cỏi và mọi việc ta làm đă thuận theo ḷng Trời th́ ắt sẽ thành công chẳng sớm th́ muộn. Xin xem đức tánh thứ 11 “TỰ TÍN”.

[11] Dhirgayou (Điệc Ga Du) – Sangha (Tăng già) – Kosala (Cô sa la) – Dhirgheti (Điệc Gơ Ti) – Brahmadatta (Bra ma đạt ta) – Bénarès (Bê na rết) – Devadatta (Đê hoa đạt ta) – Adjatacatra (Ắc gia ta sa tra) – Picdu Vautour (Đồ quật).

[12] Ajatacatrou con vua Bim bà sa ra (Bimbasara) sau y cầm ngục vua cha.

[13] Pic du Vautour

[14] Theo Kinh sách.

[15] Xin nhớ; đời xưa người ta cho rằng thú vật biết nói tiếng người.

[16] Hạng người tu hành ly gia cắt ái ở Ấn Độ.

[17] Theo tục lệ bên Tiên Trước, người đạo sĩ coi những người đàn bà như mẹ ḿnh.

[18] Hạng Uy da đa (Vyādha) là một hạng người thấp hèn trong xứ Ấn Độ, Uy da đa đều là người săn bắn và làm thịt.

[19] Xin xem cuốn Nhân Quả đoạn Những Tiên Thiên kư ảnh..

[20] Ánh Sáng Trên Đường Đạo Giảng lư, Qui tắc 2-4 của ông Leadbeater, trang 85.

[21] Không ai bắt buộc ta phải ở chung chạ với họ hay gần gũi với họ măi. Qui tắc 5-8

[22] Có một điều lạ là trong sách L’évangile du Bouddha par Carus, trương 223 để les boeufs de cinq cents chariots chớ không phải là lạc đà (chameaux).

[23] Đạo toàn: tên một cái suối ở huyện Tứ thủy, tỉnh Sơn đông. Đạo toàn nghĩa đen là cái suối ăn trộm.

[24] Ta lai: thường rằng cùng khổ đói khát mà gọi lại cho ăn và có ư khinh bỉ, đúng với ngạn ngữ.

 

 HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  BOOKS  MAGAZINES