trang nhà l trang sách l bản tin l thiền học l tiểu sử l trang thơ l h́nh ảnh l bài vở 

 

 

CÙNG AI BI KHÓC

(TO THOSE WHO MOURN)

 


 

Tác giả: C. W. LEADBEATER

Dịch giả: NGUYỄN THỊ HAI

 


LỜI TỰA

 

Phù sinh như tấc bóng chiều,

In như bọt nước phập phều ngoài khơi;

Kết tinh rồi lại ră rời,

Thân người tuy có, có rồi huờn không;

Xưa nay mấy bậc anh hùng,

Sắc tài rồi cũng trong ṿng tử sinh;

Tử là để phát tánh linh,

Đề mang xác mới vào ḿnh kiếp sau;

Cho hồn sống được dồi dào,

Cho người càng tiến, càng cao tinh thần;

Hương t́nh vẫn măi thanh xuân,

Mất chăng chỉ có xác thân ră ṃn;

Tiếc chi khi nó héo don,

Như nhà sụp đỗ, đâu c̣n giúp ai ?

Chết là tô điểm ngày mai,

B́nh minh trổi dậy, xây đài vinh quang;

Hiểu rồi ḷng đặng hân hoan,

Tử thần là Bạn, chỉ Đàng Nhàn Du . . .

Xuân cười điểm nét ngàn thu . . .

 


CÙNG AI BI KHÓC

 

Trên đời này, chẳng mấy ai là không khóc cảnh tử biệt, sanh ly, không đau ḷng xót dạ trước sự im hơi lặng tiếng của người ḿnh thương yêu, quí mến. Thử hỏi có sự hăi hùng nào hơn, khi tưởng nhớ đến chính ḿnh đây, một ngày kia cũng sẽ nằm trong ḷng đất lạnh, phó mặc cho côn trùng rút rỉa thịt xương? Dường thể tử thần đi đến đâu là gieo rắc sự đau thương, khốn khổ đến đó !

Bởi muốn an ủi những kẻ nát ḷng v́ tử biệt, một nhà bí học trứ danh, có huệ nhăn, là Đức Giám Mục  C. W. Leadbeater mới viết ra quyển “CÙNG AI BI KHÓC” (To those who mourn) bằng Anh văn vào năm 1913 và đă xuất bản nhiều lần trên mấy trăm ngàn cuốn. Quyển sách ấy đem lại cho người đời nhiều sự hiểu biết quí báu về cơi vô h́nh. Nay kẻ hậu sanh này, rán dịch nó ra Việt ngữ, mong góp công mọn với đời trong muôn một !

Những điều mà  Đức C. W. Leadbeater viết ra đây là thuộc về giáo lư Thông Thiên Học. Ngài đă dùng huệ nhăn kinh nghiệm chúng nó rất kỹ lưỡng. Ngài không đ̣i hỏi ai phải nhắm mắt tin càn những chân lư đó. Ngài chỉ tŕnh bày chúng nó với một dạ chơn thành, yêu thương và giúp đỡ những người đau khổ hầu an ủi họ, đem đến cho họ một chút ánh sáng hi vọng chánh đáng trước sự thật.

Sự chết chẳng có ǵ đáng phải hăi hùng. Người chết là người đang ngủ một giấc ngủ không bao giờ thức; để rồi một ngày kia, trổi dậy dưới một chiếc áo mới, điểm hoa màu, tươi tốt. Người xưa ví sự chết như sự cổi áo cũ để mặc áo mới, đẹp đẽ hơn.

Đứng trước tử thần, người ta kinh khủng, hăi hùng: v́ không rơ cách diễn tiến của sự tử là thế nào. Có phải chết là chấm dứt đời đời sự sống chăng? Có phải chết là tan ra mây khói chăng? Nếu không biết chơn lư th́ sự chết quả là khủng khiếp thật ! Nếu ta muốn an ủi người  bớt cơn sầu muộn, mà không cho họ cái đức tin hiểu biết th́ lời của ta sẽ hóa ra vô bổ ! Một khi người hiểu được chết là ǵ, hiểu được những hiện tượng xảy ra sau khi chết, th́ tự nhiên hết kinh sợ và đau khổ nữa, mà trái lại c̣n có đầy hi vọng vui tươi ở tương lai sáng lạn đang chờ ḿnh !

Thông Thiên Học quả quyết rằng: Con người là một Linh hồn bất tử. Chỉ có cái xác là chết mà thôi. Người chết là ǵ? Người chết là người đi từ cơi hồng trần lên cơi Trung giới để tiếp tục con đường tiến bộ của ḿnh. Vậy thân nhơn của ta có tạm thời từ giă ta để sang qua “cửa Tử”, th́ ta cũng sẽ gặp họ lại trên cơi Trung giới, trong lúc ta ngủ hoặc sau khi ta bỏ xác.

Ta nên biết rằng: ḷng yêu thương, mến tiếc thực sự của ta đối với người chết vẫn c̣n măi măi và không hề mất được. Mà tại cơi Trung giới, nó c̣n mănh liệt hơn là lúc ở cơi trần; v́ nơi đây, nó không c̣n bị sự trở ngại của xác thân làm giảm bớt đi.

Theo giáo lư Thông Thiên Học th́ trên Địa cầu có 7 giống dân. Giống dân thứ nhứt và giống dân thứ nh́, v́ h́nh thể quá thô sơ nên ngày nay đă tiêu mất. Giống dân thứ ba chỉ c̣n lại một ít mà thôi. Đó là giống dân da đen, tóc quăn quíu, môi dày, mũi xẹp (les Lémuriens) thuộc về những đồng bào ở rừng núi, c̣n dă man, lạc hậu. Giống dân thứ tư là giống dân da vàng. Giống dân thứ năm là giống dân da trắng. Giống dân thứ sáu mới ra đời một số ít mà thôi và giống dân thứ bảy chưa ra đời. Mỗi giống dân chánh đều có bảy nhánh. Tỷ như người Nhật Bản thuộc về nhánh thứ bảy của giống dân chánh thứ tư. C̣n người Anh thuộc về nhánh thứ năm của giống dân chánh thứ năm v. v. . .

Khi nhân loại tiến đến giống dân chánh thứ sáu và thứ bảy, th́ sự “Tử” không c̣n làm chủ nữa. Dưới đây là một đoạn sách trích trong quyển “Con người từ đâu đến, và đi về đâu ?” do tác giả C. W. Leadbeater, đă dùng huệ nhăn quan sát tư cách của người thuộc về giống dân thứ sáu trước “Tử thần”, một cách rất là lư thú ! [1]

Người thuộc về giống dân chánh thứ sáu sẽ không bịnh hoạn. Hầu hết đều chết già. Nhiều người sống trên trăm tuổi; và trước 80 tuổi, họ chưa có vẻ ǵ già cả. Thường thường người ta chết là tự ư ḿnh muốn bỏ xác khi thấy nó hết hữu ích nữa, chớ không phải bị bịnh hoạn hay ốm đau mà chết như người bây giờ. Khi người nào thấy xác ḿnh già yếu và vô dụng, và đi t́m một người cha và một người mẹ tương lai cho kiếp tới. Nếu hai người này ưng thuận th́ kẻ sắp chết trao cho họ một bửu bối thấm nhuần từ điển của y; thường là một món nữ trang và quần áo mà y muốn lưu lại kiếp sau. Đoạn y dọn ḿnh bước qua âm cảnh. Y bèn nhắm mắt lại, tỏ ư muốn chết; rồi trong giấc ngủ ấy, y ĺa khỏi xác một cách êm ái an lành, không chút ǵ đau đớn. Thường thường y đến nhà cha mẹ tương lai của y (mà y đă chọn) đặng chết.

Người ta không cử hành đám táng; thậm chí những người thân bằng quyến thuộc cũng không đến dự nữa, v́ người ta cho sự chết là một sự hết sức thường t́nh, tỷ như chiếc áo mặc vào cổi ra, không có chi là lạ cả và không cần mời ai dự kiến. Xác chết nhờ chất toan thủy và một thứ điển lực giống như điển khí làm tiêu tan ra tro bụi !

Chúng tôi mong sao những lời chỉ dẫn vô cùng quí báu trong quyển “Cùng Ai Bi Khóc” này sẽ trở thành những đóa hoa hồng tuyệt đẹp tỏa lên một mùi hương thơm dịu, thấu đượm cơi ḷng khô héo và mang đến cho ai một nụ cười hi vọng !

 

Sài g̣n, tháng 9 năm 1962

 

NGUYỄN THỊ HAI


 

     Thưa Huynh,

Tử thần vừa cướp mất của huynh một người mà huynh yêu mến thiết tha – một người mà có lẽ huynh quí nhất đời – và cơi thế hiện giờ đối với huynh xem dường rỗng tuếch ! H́nh như huynh cho rằng: kiếp trần gian không c̣n đáng sống nữa. Huynh cảm thấy sự vui mừng không bao giờ trở lại với huynh, và từ đây, cơi đời, đối với huynh không có ǵ cả, nếu không phải là một sự buồn rầu vô hi vọng; nó không c̣n chi cả, nếu không phải là một sự khát vọng đau thương để t́m lại “sự chạm của một bàn tay đă mất và một tiếng nói đă lặng câm !” Huynh đang nghĩ nhiều nhất về huynh và sự tổn thất vô văn hồi [2] của huynh. Nhưng huynh cũng c̣n một điều buồn phiền khác nữa. Sự đau khổ của huynh bị tăng cường: bởi v́ huynh không chắc người mà huynh tha thiết yêu đương đó đang lâm vào t́nh trạng nào? Huynh biết rằng: người ấy đă đi rồi mà huynh không biết là đi đâu? Huynh tha thiết mong sao người ấy được mọi sự an lành ! Nhưng khi huynh nh́n quanh ḿnh th́ huynh thấy trống trơn ! Khi huynh kêu khóc th́ không ai đáp lại ! Và rồi sự thất vọng, sự nghi ngờ đè nặng lên người huynh, tạo ra một đám mây che khuất huynh trước Ngôi Mặt Trời không bao giờ lặn. Cái tâm trạng của huynh là một sự tự nhiên thật. Tôi là người viết ra (quyển sách này) hiểu được nó một cách hoàn toàn và ḷng tôi có đầy thiện cảm đối với những ai đă bi thảm như huynh. Nhưng tôi mong sao: tôi có thể làm nhiều hơn là tỏ ḷng thiện cảm của tôi; tôi mong sao đem được cho huynh một sự an ủi. Hàng ngàn người trong t́nh cảnh bi đát của huynh đă gặp đặng sự giúp đỡ và sự an ủi này, th́ tại sao chúng nó không đến với huynh?

Huynh nói: “Làm sao điều đó an ủi tôi được? hoặc giả: “Tôi c̣n hi vọng ǵ chớ”.

Có hi vọng an ủi được huynh: bởi v́ nỗi ưu tư của huynh căn cứ vào sự hiểu lầm: huynh buồn rầu v́ một chuyện mà thật ra không có xảy ra. Khi huynh hiểu được sự thật, th́ huynh sẽ hết đau khổ.

Huynh trả lời rằng: “Làm sao ông giúp được tôi? Thật ra chỉ trừ khi nào ông trả người chết của tôi lại cho tôi thôi !”

Tôi hiểu tâm trạng của huynh một cách hoàn toàn. Nhưng tôi xin huynh nhẫn nại một chốc, và rán hiểu ba điều chánh đại mà tôi sắp tŕnh bày cho huynh, trước tiên chỉ một cách tổng quát, rồi sau, mới đến chi tiết xác chứng.

1.- Cái mất của huynh chỉ là một sự kiện bề ngoài mà thôi – bề ngoài đối với quan điểm của huynh. Tôi muốn đưa huynh đến một quan điểm khác. Sự đau khổ của huynh là do cái kết quả của một ảo giác vĩ đại – do sự thiếu hiểu biết luật Trời. Huynh hăy để cho tôi giúp huynh trên đường hiểu biết ấy bằng cách dẫn giải một vài chơn lư đơn giản mà huynh có thể khảo xét về sau nếu huynh muốn.

2.- Huynh không cần phải lo lắng hay ngờ vực về thân phận của người mà huynh yêu mến đó: bởi v́ đời sống sau “Cửa Tử” không c̣n là một sự bí mật nữa. Cái thế giới bên kia “Cửa Tử” cũng bị đặt dưới những định luật tự nhiên, giống như những định luật mà ta biết, và chúng nó đă được tham cứu và quan sát với một sự đúng đắn của khoa học.

3.- Huynh không được khóc than: bởi v́ sự bi đát của huynh làm hại cho người mà huynh thương mến. Nếu một khi mà huynh hiểu được sự thật rồi th́ huynh không c̣n khóc nữa.

Có lẽ huynh cảm thấy đó chỉ là những lời đoán ngôn mà thôi. Nhưng huynh hăy để cho tôi hỏi huynh: dù tư tưởng của huynh hiện hữu là ra sao đi nữa, huynh đặt nó trên nền tảng nào? Huynh cho rằng: huynh tin tưởng nó bởi v́ có vài Giáo hội đă dạy như thế hoặc cho nó là căn cứ vào lời của vài thánh kinh nào đó, hoặc v́ lẽ nó là điều tin tưởng chung của những người xung quanh huynh và là một ư kiến đă được thời đại huynh chấp nhận. Nhưng nếu huynh muốn cố gắng cởi mở trí của huynh những thành kiến, th́ huynh sẽ thấy rằng: tư tưởng đó cũng chỉ căn cứ vào lời đoán ngôn mà thôi: bởi v́ Giáo hội dạy nhiều cách khác nhau; và những lời trong thánh kinh có thể và đă giải thích bằng nhiều lối không giống nhau. Cái ư kiến được thời đại huynh nh́n nhận không căn cứ vào sự hiểu biết xác đáng nào; nó chỉ là lời phong văn suông mà thôi. Những vấn đề này dính líu với ta rất nhiều, và mật thiết với ta cũng lắm nên chúng nó quá ư quan trọng; không thể bỏ liệt chúng nó vào cái giả thuyết suông hay là vào một sự tin tưởng mơ hồ nào được. Chúng nó đ̣i hỏi một sự đích xác của khoa học tham cứu và phân tích. Sự tham cứu này đă được thực hành; sự phân tích kia đă được hoàn tất; và chính cái kết quả của mấy điều đó mà tôi muốn đưa ra trước huynh. Tôi không đ̣i hỏi sự tin tưởng mù quáng. Tôi tŕnh bày những ǵ mà chính tôi biết là có thật, và tôi mời huynh quan sát chúng nó.

Ta hăy quan sát những luận đề này từ cái một. Để làm đề tài được rơ rệt cho huynh, tôi phải nói với huynh về sự cấu tạo con người thêm một tí nữa, mà thường thường những người không có khảo cứu đặc biệt về đó chẳng biết được. Huynh đă nghe nói một cách mơ hồ rằng: con người có một cái ǵ trường tồn gọi là linh hồn, nó được giả định là c̣n sống sau khi cái xác chết. Tôi muốn huynh gạt ra một bên sự mơ hồ này và hiểu rằng: điều đó có thật đi nữa, nó cũng là một sự kiện kém khuyết mà thôi ! Chớ nói rằng: “Tôi ao ước có một linh hồn”. Mà nói: “Tôi biết rằng: tôi là một linh hồn”. Bởi v́ đó là một chơn lư đúng đắn. Con người là một linh hồn và có một xác thân. Xác thân không phải là con người. Nó chỉ là y phục của con người mà thôi. Điều mà huynh gọi “chết” là sự cổi một cái áo cũ; và đó không phải là sự cáo chung của đời sống con người, cũng như không phải là sự cáo chung của đời sống huynh, khi huynh cổi chiếc áo choàng ra. Vậy, huynh không có mất người bạn của huynh đâu; huynh chỉ không thấy đặng chiếc áo choàng mà huynh quen thấy người bạn của huynh mặc đó thôi. Chiếc áo choàng đă mất, nhưng người mặc nó vẫn c̣n: chắc chắn là huynh thương người chớ không phải thương y phục.

Trước khi huynh hiểu được t́nh trạng của bạn huynh, th́ huynh phải hiểu t́nh trạng của chính huynh đă. Huynh rán thấu rơ điều này: huynh là một sinh linh bất tử; bất tử với tinh túy của huynh vốn thiêng liêng, bởi v́ huynh là tia sáng của chính “Ngọn Lửa Thiêng”. Huynh đă sống nhiều thế kỷ, trước khi huynh mang vào người huynh chiếc áo này mà huynh gọi là xác thân; và huynh sẽ c̣n sống nhiều thế kỷ sau khi xác thân đó tan ra tro bụi. “Trời sinh ra con người để giống với H́nh Ảnh Bất Diệt của chính Ngài”. Đó không phải là một cái giả thuyết hoặc một sự tín ngưỡng do ḷng thành kính mà ra đâu. Nó là một sự kiện khoa học đă xác định; khả dĩ chứng minh được như huynh có thể thấy đặng trong sách vở nói về vấn đề này, nếu huynh chịu khó đọc nó. Cái ǵ mà huynh đă cho là đời sống của huynh, thật ra, chỉ là một ngày trong kiếp sống thực sự của linh hồn và điều này cũng thật đối với người yêu của huynh; bởi vậy, y không có chết đâu, y chỉ cởi bỏ cái xác của y mà thôi.

Tuy nhiên, huynh chớ tưởng người chết như là một hơi thở suông, không có h́nh dạng chi cả, hoặc như là kém khuyết hơn lúc y c̣n sanh tiền về một phương diện nào. Cũng như Thánh Paul có nói từ lâu: “Có một cái thể hiện vật và có một cái thể tinh thần”. Người ta hiểu lầm lời xét biệt này v́ cho rằng: những thể đó nối tiếp với nhau chớ không biết được rằng: dù là hiện giờ tất cả chúng ta đều có cả hai một lượt. Huynh là người đọc mấy hàng này, huynh có một lượt : a) một thể hiện vật hay là xác thân mà huynh thấy đặng, b) và một thể khác mà huynh thấy không đặng: ấy là cái thể tinh thần theo danh từ của Thánh Paul. Và khi huynh bỏ xác th́ huynh c̣n giữ lại cái thể kia thanh nhẹ hơn: huynh mặc vào nó. Nếu ta tượng trưng xác thân như là một chiếc áo mặc ngoài hay là một chiếc áo khoác, th́ ta có thể cho cái thể tinh thần này như là chiếc áo thường người ta mặc trong nhà, dưới lớp áo ngoài.

Nếu giờ đây, huynh hiểu rơ được ư tưởng này th́ chúng ta hăy bước tới thêm một bước nữa. Chẳng phải chỉ khi mà huynh gọi là “Chết” th́ huynh mới cởi chiếc áo ngoài làm bằng chất dày nặng này đâu. Mỗi đêm lúc huynh ngủ, th́ huynh cổi nó ra một lát, và đi vẩn vơ trên Trung giới trong cái thể tinh thần của huynh; đối với cơi trần dày nặng này, th́ thấy nó không được, nhưng đối với người bạn kia, khi họ dùng cái thể tinh thần của họ cùng trong lúc đó, th́ họ thấy được nó rơ ràng. Bởi v́ mỗi thể chỉ thấy được cái ǵ thuộc về cơi riêng của nó mà thôi. Thể xác của huynh chỉ thấy được những thể xác khác; thể tinh thần của huynh chỉ thấy được những thể tinh thần khác mà thôi. Khi huynh mặc lại chiếc áo choàng của huynh nghĩa là khi huynh trở về với cái thể dày nặng hơn của huynh và thức dậy (hay là tỉnh giấc) tại cơi hạ giới này, th́ có khi huynh nhớ lại một đôi điều (thường biến h́nh rất nhiều) mà huynh đă thấy đặng trong lúc huynh ở nơi khác; và rồi huynh gọi đó là điềm chiêm bao rơ rệt. V́ vậy mà giấc ngủ được mô tả như là một lối “chết tạm”, có khác là ở chỗ chiếc áo ngoài chẳng hoàn toàn ĺa hẳn người của huynh cho đến đỗi không mặc nó lại được.

Vậy khi huynh ngủ, huynh cũng lâm vào t́nh cảnh giống như t́nh cảnh của người mà huynh yêu mến đó. Chính cái t́nh cảnh này mà hôm nay tôi muốn giải thích ra sao?

Hiện giờ, có nhiều thuyết nói về đời sống sau khi chết, mà đa số lại căn cứ một cách sai lầm vào những văn tự xưa. Có một lúc, giáo lư ghê tởm về sự h́nh phạt đời đời, kiếp kiếp đă được gần trọn cả Âu châu nh́n nhận, mặc dù ngày nay không ai c̣n tin tưởng ở nó nữa; chỉ trừ người thiếu hiểu biết, vô hi vọng cải sửa, mới tin nó mà thôi. Nó căn cứ vào sự phiên dịch một cách sai lầm vài lời gọi là của Đức Christ; và những thầy tu đời Trung cổ củng cố sự tin tưởng này như một “ông kẹ” tiện lợi để nhát đám người dốt cho họ làm lành.

 Dần theo sự tiến bộ của thế giới, con người khởi thấy rằng: cái nguyên lư đó chẳng những xúc phạm thần thánh mà c̣n buồn cười nữa. Bởi thế cho nên, những vị tín giáo tân tiến mới thay vào đấy những dẫn ư nào hữu lư hơn. Nhưng thường thường chúng nó rất mập mờ và xa với sự đơn giản của chơn lư. Tất cả Giáo hội đều làm cho giáo lư ḿnh trở nên phức tạp: bởi v́ người ta rị vào cái khởi điểm của một tín điều phi lư và vô căn cứ, do một vị thần linh độc ác và nóng nảy muốn làm hại dân sự của ḿnh. Họ du nhập cái tín điều ghê tởm từ đạo Do Thái Thượng cổ, trong khi họ phải nghe theo lời dạy của Đức Christ là: “Đức Chúa Trời là một Đức Cha giàu ḷng thương mến”. Người nào hiểu được sự thực căn bản là: “Trời vốn Bác ái và vơ trụ của ngài được điều khiển bằng những định luật minh triết, bất di bất dịch” th́ đă khởi biết rằng những định luật đó phải được tuân theo “Bên Kia Cơi Tử” cũng như tại cơi này vậy. Nhưng đến ngày nay, những sự tin tưởng vẫn c̣n mơ hồ. Người nói với ta về một thiên quốc viễn cách, về một ngày phán xét xa xăm ở tương lai, c̣n về chuyện xảy ra hiện thời th́ ít dạy cho chúng ta biết. Mấy nhà truyền giáo này cũng không mong mỏi có được sự kinh nghiệm riêng nào về trạng huống sau khi chết. Họ không nói với ta điều ǵ chính ḿnh họ biết mà chỉ nói điều ǵ họ nghe kẻ khác nói lại. Thế làm sao thỏa măn đặng chúng ta?

Sự thật là: thời kỳ tin tưởng mù quáng đă qua. Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên hiểu biết khoa học và chúng ta không c̣n chịu thu nạp được nữa những ư tưởng trái với lư trí và lương tri. Không có lư do nào mà không dùng phương pháp khoa học để làm sáng tỏ những vấn đề khó hiểu mà xưa kia đă hoàn toàn bỏ phú cho tôn giáo. Thật ra những phương pháp này đă được Hội Thông Thiên Học và Hội Nghiên Cứu Tâm Linh áp dụng rồi. Và chính cái kết quả của sự tham cứu theo tinh thần khoa học này mà tôi muốn tŕnh bày cho huynh hôm nay. Chúng ta là những linh hồn. Mà chúng ta sống trong cơi vật chất, nhưng chúng ta chỉ biết có một phần cơi này mà thôi ! Tất cả điều hay, biết của chúng ta về cơi đó đều xuyên qua giác quan của chúng ta. Mà những giác quan này thật là bất toàn. Chúng ta thấy đặng vật đặc; chúng ta thường thấy đặng vật lỏng (chỉ trừ khi vật lỏng hoàn toàn trong trẻo mới thấy không đặng mà thôi). Nhưng trong đa số trường hợp, chúng ta không thấy đặng chất hơi. Sự tham khảo cho biết rằng: c̣n có nhiều thứ chất khác thanh nhẹ hơn chất khí loảng nhất; nhưng giác qian vật chất của chúng ta không ứng đáp được với chúng nó; v́ vậy mà chúng ta không biết ǵ về chúng nó bằng những phương tiện vật chất.

Tuy nhiên, chúng ta có thể giao thông với chúng nó được; chúng ta có thể tham cứu chúng nó được. Nhưng chúng ta chỉ có thể làm đặng điều đó là nhờ cái thể tinh thần (đă đề cập ở trước) bởi v́ cái thể này cũng có giác quan của nó giống y như của xác thịt vậy. Đa số người chưa học cách dùng chúng nó: nhưng đó là một cái quyền năng mà con người có thể đạt được. Chúng ta biết sự này có thể có được, bởi v́ nó được thực hiện rồi. Và những người nào đă đạt được quyền năng đó th́ có thể tự thấy nhiều điều mà mắt người thường thấy không đặng. Họ được biết rằng: cơi chúng ta ở đây có nhiều sự kỳ lạ hơn mà chúng ta không thể tưởng tượng được, ví dầu con người có sống nơi cơi đó cả ngàn năm đi nữa, th́ đa số cũng vẫn không biết tí ǵ về cái cảnh thanh cao hơn và tốt đẹp hơn của nó. Đường lối sưu tầm – mà tôi đang đề cập đây – đă mang đến nhiều kết quả kỳ diệu, và mỗi ngày nó mở trước mắt ta những tầm thấy mới mẻ. Có thể sự tra cứu này được ghi chép trong văn hóa Thông Thiên Học. Nhưng ở đây, chỉ có một phần liên hệ đến ta mà thôi – nó để trước mắt ta sự hiểu biết mới mẻ như về đời sống “Bên Kia Cửa Tử” mà ta gọi là “chết” và về thân phận của những người đang vui sống trên cơi đó.

Điều tra cứu thứ nhứt mà ta học là: chết không phài là sự cáo chung của kiếp sống như ta đă tưởng v́ thiếu hiểu biết. Mà chết chỉ là một bước, đi từ giai đoạn sống này đến giai đoạn sống khác. Tôi đă nói rằng: chết là cởi chiếc áo choàng ngoài ra, nhưng sau khi đó, con người vẫn c̣n thấy ḿnh mặc chiếc áo thường ở trong - ấy là cái thể tinh thần. Mà dẫu cái thể ấy – được Thánh Paul gọi là thể tinh thần – có thanh nhẹ hơn nhiều đi nữa nó cũng vẫn c̣n là một cái thể - tức nhiên là làm bằng vật chất, dù là thứ vật chất đó rất tinh vi hơn bất câu vật chất nào mà ta thường biết. Xác thân phụng sự linh hồn như là một phương tiện giao thông với cơi trần. Không có xác thân này làm khí cụ th́ linh hồn không thể giao thông được với cơi đó, để chính ḿnh ảnh hưởng nó hoặc thọ ảnh hưởng của nó. Ta thấy cái thể tinh thần cũng phục dịch tôn chỉ đúng y như vậy. Nó làm trung gian giữa linh hồn và cơi tinh thần cao hơn. Nhưng cơi tinh thần này không phải là một cái ǵ mơ hồ, xa xôi và không thể vói tới được. Nó chỉ là một cơi cao hơn cơi chúng ta đang ở đây mà thôi. Không một lúc nào mà tôi phủ nhận những cơi khác cao hơn và xa hơn nữa. Tôi chỉ nói rằng: điều ǵ mà người ta thường gọi là “chết” không ăn thua ǵ với những cơi ấy, và “chết” chỉ là một di chuyển từ giai đoạn này đến giai đoạn khác, hay từ trạng thái này đến trạng thái khác tại cơi trần, mà tất cả chúng ta đều quen thuộc. Có thể nói là: người nào di chuyển như vậy th́ hóa ra “vô h́nh” đối với huynh, nhưng nếu huynh chịu suy nghĩ về đó th́ huynh sẽ thấy rằng: con người (thật) luôn luôn “vô h́nh” đối với huynh và cái mà huynh quen thấy đó chỉ là cái thể của con người tá túc mà thôi. Bây giờ đây, con người tá túc trong một cái thể khác thanh nhẹ hơn, mắt thường thấy không được; nhưng, bất tất không v́ một lẽ nào mà nó quá với đối với huynh.

Điều cần biết trước hết là những người mà ta gọi là “chết” đó không xa ĺa ta đâu. Ta đă bị đào tạo trong một tín ngưỡng phức tạp, nó ám chỉ rằng: mỗi một cái chết là một sự chia ly và một phép mầu kỳ diệu và khi linh hồn từ giă xác thân, th́ bằng cách này hay cách khác, nó biến tiêu trong thiên quốc, ngoài tinh tú. . . chớ không chỉ dẫn, (một cách như máy móc) cái phương pháp nào để bước qua không gian kỳ dị đó. Sự tác động của Hóa Công, chắc chắn là huyền diệu và lắm khi ta không hiểu nổi; nhưng không bao giờ chúng nó trái nghịch với lư trí và lương tri. Khi huynh cổi áo choàng của huynh tại tiền pḥng, th́ huynh không thấy ḿnh, bất th́nh ĺnh biến xa trên đỉnh núi. Huynh, vẫn ở đúng chỗ cũ của huynh trước đây dù h́nh dáng bên ngoài của huynh có đổi khác. Cũng đúng y như vậy, khi một người ĺa bỏ xác, th́ y cũng vẫn ở đúng chỗ cũ của y trước đây. Thật ra huynh không c̣n thấy y được nữa. Nhưng đó không phải là lư do rằng: y đă đi xa rồi; mà là tại mắt phàm của huynh không thấy đặng cái thể của y đang mặc đó thôi.

Chắc huynh cũng biết rằng: mắt chúng ta chỉ ứng đáp được với một số rung động tối thiểu đang có trong vơ trụ. Và bởi thế, nên những chất mà chúng ta thấy được là chỉ những thứ phản chiếu đặng những làn sáng đặc biệt này. Sự thấy “cái thể tinh thần” của huynh cũng là một việc phản ứng của làn sóng rung động nữa, nhưng nó thuộc về một loại khác hẳn, do một thứ chất thanh nhẹ hơn nhiều. Nếu tất cả điều này đem lại cho huynh sự hứng thú, th́ huynh có thể t́m gặp chúng nó trong văn hóa Thông Thiên Học diễn giải một cách tỉ mỉ.

C̣n hiện giờ, mọi sự liên hệ với chúng ta là: nhờ phương tiện của xác thân mà huynh chỉ rờ được và thấy được cơi phàm mà thôi, nhưng nhờ cái “thể tinh thần” huynh mới thấy đặng và rờ đặng những vật tại cơi tinh thần. Và huynh nên nhớ rằng: cơi tinh thần đó không có nghĩa ǵ là một cơi khác với cơi trần, mà nó chỉ là một phần thanh nhẹ hơn cơi trần này thôi. Tôi nói một lần nữa là: có nhiều cơi khác hơn nhưng chúng nó không quan hệ đến ta hiện thời. Người mà huynh tưởng đă đi mất rồi, thật ra, vẫn c̣n ở với huynh. Khi cả hai dựa kề bên nhau, huynh th́ ở trong xác thịt c̣n y th́ ở trong cái “thể tinh thần”. Huynh không biết được sự hiện diện của y: bởi v́ huynh không thấy y. Nhưng khi huynh ngủ, huynh bỏ cái xác lại, huynh đứng dựa bên y, huynh tri thức được y một cách đầy đủ và hoàn toàn. Và sự phối hợp giữa đôi đàng được toàn vẹn như xưa trong mọi phương diện. Vậy trong giấc ngủ, huynh được vui sướng gần người mà huynh thương mến; chỉ trong giờ huynh thức, huynh mới cảm thấy sự chia ly mà thôi.

Rủi thay, đối với đa số chúng ta, có một sự đứt đoạn giữa tri thức của thể tinh thần. Vậy, tuy rằng: ở trong “thể tinh thần” chúng ta có thể nhớ lại một cách hoàn toàn sự tri thức của xác thịt. Nhiều người chúng ta khi thức giấc, thấy ḿnh không thể nào nhớ lại được việc làm của linh hồn lúc nó đi ra khỏi xác đang ngủ. Nếu sự nhớ này được hoàn hảo, th́ thật ra đối với ta, sự chết sẽ không c̣n nữa ! Vài người đă có cái  tri thức liên tục này rồi, và tất cả chúng ta đều có thể đạt được nó dần dần: bởi v́ đó là một phần việc phát triển tự nhiên của quyền năng linh hồn. Nhiều người đă khởi mở những quyền năng ấy rồi; và lúc thức, họ nhớ lại được những chuyện vụn vặt. Nhưng người ta có khuynh hướng cho những chuyện đó toàn là những chuyện chiêm bao, tức là vô giá trị ! Cái khuynh hướng ấy đặc biệt biểu lộ giữa những người không có nghiên cứu về vấn đề chiêm bao và không hiểu thực sự chúng nó ra thế nào.

Nhưng, trong khi chỉ thiểu số có được sự thấy và sự nhớ toàn vẹn (về cơi Trung giới) th́ nhiều người lại cảm được sự hiện diện của những kẻ mà họ thương yêu, dù họ không thấy được; và có những người khác nữa, dầu không nhớ đặng rơ ràng nhưng lúc thức giấc, họ cũng thấy một sự an tĩnh và phúc lạc. Đó là kết quả của điều đă xảy ra trên cơi cao hơn đó.

Huynh hăy luôn luôn nhớ rằng: cơi trần của chúng ta đây là cơi thấp, cơi kia là cơi cao hơn; và trong trường hợp này, cơi cao bao trùm cơi thấp. Ở trong trí thức tinh thần, huynh nhớ lại hoàn toàn những ǵ đă xảy ra tại cơi (trần) này; bởi v́ khi huynh ngủ, huynh đi từ cơi vật chất đến cơi tinh thần, huynh thoát khỏi một chướng ngại vật tức là sự cản trở của xác thân thấp kém. Nhưng khi (thức giấc) huynh trở về đời sống ở cơi thấp này, th́ huynh lại nhận lấy cái gánh nặng đó. Và trong khi huynh nhận lấy nó, th́ huynh che khuất những quan năng cao hơn, nhơn đó mà huynh nhớ không đặng. V́ vậy, nếu huynh muốn chuyển đạt vài tin tức ǵ cho người bạn quá cố của huynh, th́ huynh chỉ tưởng cái tin đó một cách rơ rệt trong trí của huynh trước khi ngủ, với ư định rằng: huynh sẽ nói với y điều đó, th́ rất chắc chắn là huynh sẽ làm như thế liền khi huynh gặp y. Đôi khi có thể huynh muốn hỏi ư kiến y về một điểm nào; và trong trường hợp đó, sự đứt đoạn giữa hai trạng thái tâm thức thường không cho huynh nhớ lại câu trả lời rơ ràng. Nhưng dù huynh không thể nhớ được rơ ràng đi nữa, chớ đôi phen huynh sẽ thức giấc với một cảm tưởng mạnh mẽ như đó là ư muốn hay là sự quyết định của người ấy, và thường thường huynh có thể xem nó như là một cảm tưởng đúng đắn. Đồng thời huynh nên hỏi ư kiến người chết ít chừng nào hay chừng nấy, bởi v́ như ta sẽ thấy ở sau sự làm rộn họ trên cơi cao hơn của họ với những công việc thuộc về địa phận của đời sống (trần gian) mà họ đă thoát ly th́ quả là một việc không thể dung nạp được.

Điều này đưa ta đến sự quan sát đời sống của người quá cố. Trong đời sống đó có rất đông và nhiều hạng khác nhau. Nhưng ít ra, nó luôn luôn gần như phúc lạc hơn là đời sống ở cơi trần. Như bản kinh xưa đă nói: “Linh hồn của mỗi người ngay chánh ở trong tay Đức Thượng Đế; và nơi đây không có sự thống khổ nào chạm đến họ được. Dưới mắt người vô minh, th́ dường thể họ là người chết; sự ra đi của họ được coi như là một tai họa, và sự họ ĺa xa chúng ta là một điều tiêu diệt hoàn toàn ! Nhưng họ được b́nh an !” Chúng ta hăy tự tỉnh ngộ trước những ư thuyết cũ mèm ấy đi. Người chết không phải th́nh ĺnh nhảy vọt một cái lên tới trời được; hoặc rơi xuống địa ngục được; điều đó lại c̣n vạn nan hơn. Thật ra không có địa ngục theo ư nghĩa ghê tởm xưa của nó, và không có địa ngục ở đâu tất cả; dù hiểu theo ư nghĩa nào cũng vậy, chỉ trừ cái địa ngục do con người tạo lấy cho ḿnh mà thôi. Huynh hăy rán hiểu rơ rằng: sự chết không thay đổi ǵ trong con người cả. Người chết không phải th́nh ĺnh trở thành một vị đại thánh hay một vị thiên thần đâu. Người chết cũng không phải th́nh ĺnh mà được ban cho tất cả sự minh triết của thế hệ đâu. Y cũng thấy liền rằng: Kẻ nào biết điều và đoan chánh th́ sau khi chết sẽ được hạnh phúc hơn trước vô cùng: bởi v́ y có rộng ngày giờ, chẳng phải chỉ để hưởng thú vui, mà cũng để thực hiện sự tiến hóa cho thật vừa ư, theo đường lối thích nhất của y.

- Vậy không có ai khổ năo trên cơi ấy sao?

- Có chớ, bởi v́ đời sống trên đó cần phải nối tiếp đời sống dưới thế gian và người chết cũng giống in như lúc chưa bỏ xác; y không khác về một phương diện nào. Nếu dưới thế gian, thú vui của y thấp hèn và ô trược, th́ trên cơi Trung giới, y khó ḷng toại dục được. Một người nghiện rượu sẽ khổ năo v́ không ngớt khát rượu: bởi y không c̣n xác thân để uống cho thỏa t́nh. Người láu ăn sẽ mất đi sự khoái lạc ăn uống. Người bỏn xẻn sẽ không c̣n có vàng để chất chứa. Người nào trong lúc sanh tiền ch́u theo t́nh dục thấp hèn th́ sẽ bị sự đ̣i hỏi của chúng nó rút rỉa. Người đam mê nhục dục sẽ tiếp tục thèm muốn mà không bao giờ được thỏa mản. Người ghen tương c̣n bị tánh ghen dày ṿ, và nhất là từ đây, y không c̣n xen vào công việc của người mà y ghen tức đó được nữa. Những kẻ như thế phải chịu khổ năo rơ ràng, nhưng chỉ là những người ưa thích và đam mê vật chất bỉ ổi mà thôi. Và dù vậy, vận mạng của họ tuyệt nhiên vẫn c̣n trong tay họ. Họ chỉ chế ngự những thị dục này th́ họ hết đau khổ liền; mà nguyên nhân của sự đau khổ là sự ham muốn ấy. Huynh nên nhớ luôn luôn rằng: mấy điều này không phải là sự trừng phạt đâu, mà chỉ là cái “kết quả” tự nhiên của một “nguyên nhân” nhất định nào đó; nên huynh chỉ tẩy đi cái “nhân” th́ cái “quả” sẽ dứt. Không phải luôn luôn là nó dứt liền được, nhưng hễ mănh lực của cái “nhân” vừa cạn th́ cái”quả” mới tiêu.

Có nhiều người không mắc phải những tật xấu ấy. Nhưng lúc sanh tiền, họ đă có một đời sống “phù hoa”, không thích ǵ hơn là “cuộc đời” cùng những tập tục của nó. Họ không lo nghĩ ǵ khác hơn là những chuyện vui chơi của họ. Mấy người ấy không đau khổ một cách tích cực trên cơi tinh thần, nhưng họ thường thấy nó cô quạnh và thời giờ dài quá. Họ có thể tựu hội được với nhữhng người đồng hạng với họ; nhưng thường họ thấy mấy người này hơi vô thú vị. Và giờ đây, họ không c̣n có sự cạnh tranh về y phục, hoặc đại khái, một sự khoe khoang nào; c̣n những người tốt hơn và giỏi hơn mà họ muốn với tới th́ thường bị mắc vào công việc nào khác, nên hơi khó mà gặp được. Nhưng ai có vài sự ham thích về lư trí hay về mỹ thuật, th́ sẽ thấy ḿnh thật vô cùng sung sướng mà thoát ra ngoài xác thịt hơn là ở trong đó. Và nên nhớ rằng: trong cơi tinh thần, con người luôn luôn có thể mở mang một sở thích hợp lư nào, nếu có đủ khôn ngoan để muốn làm việc ấy.

Nhà nghệ sĩ và nhà trí thức đều được sung sướng cực điểm trong đời sống mới này. Nhưng, tôi tưởng họ c̣n ít sung sướng hơn là những người chú tâm một cách nồng nhiệt đến đồng bào của họ, những người đặt hạnh phúc lớn nhất của ḿnh trong sự giúp đỡ, cứu trợ và dạy dỗ. Bởi v́ trên cơi tinh thần ấy, dầu không c̣n có sự nghèo nàn, đói khát hay lạnh lẽo nữa, nhưng c̣n có những kẻ buồn rầu cần được an ủi, những kẻ dốt nát cần được dạy dỗ. Chính v́ ở phương Tây người ta ít biết về đời sống bên kia cửa tử, nên ta thấy, tại cơi trần, nhiều người cần được dạy bảo như về những năng tính của đời sống mới này. Như vậy, th́ người hiểu biết có thể truyền rải xung quanh ḿnh sự hi vọng và những tin vui tại cơi đó cũng như ở cơi này. Nhưng ta hăy nhớ măi rằng: “cơi đó” hay “cơi này” chỉ là danh từ dùng theo sự mù quáng của chúng ta mà thôi bởi v́ “cơi đó” vẫn ở đây, nó vẫn gần quanh chúng ta đây, bất cứ lúc nào; và chúng ta chớ bao giờ cho là nó xa vời hay khó đến gần.

Người ta có thể hỏi rằng: “Vậy người chết có thấy chúng ta không? Người chết có nghe chúng ta nói không?”

- Chắc chắn là họ thấy chúng ta theo cách họ nhận thức luôn luôn sự hiện diện của chúng ta; họ biết chúng ta sung sướng hay khổ cực, nhưng họ không nghe được lời nói của chúng ta, hoặc tri thức được một cách tỉ mỉ những hành vi chúng ta tại cơi trần. Một chút suy gẫm sẽ cho chúng ta biết cái tầm thấy của họ tới đâu. Họ đang ở trong một cái thể mà ta gọi là “cái thể tinh thần” – một cái thể vẫn có trong người của ta; về sắc diện bên ngoài của nó th́ nó giống in xác thân. Nhưng khi ta thức, th́ tâm thức của ta chỉ chú vào xác thân mà thôi. Ta đă nói rằng: chính có xác phàm mới tri giác được chất phàm, và cũng chỉ có thể cao hơn mới tri giác được chất khí của cơi tinh thần mà thôi. Nhơn đó mà, người chết chỉ thấy ta trong cái thể tinh thần của ta, và cái thể ấy, y nh́n ra không khó. Khi ta ngủ, tâm thức của ta dùng cái thể tinh thần đó. Như vậy, đối với người chết, ta là kẻ đang thức. Nhưng khi ta dời tâm thức của ta qua xác thịt, th́ dường thể người chết cho là ta ngủ: bởi v́ dẫu y c̣n thấy ta, nhưng ta không c̣n để ư ǵ đến y nữa; hoặc giả ta không c̣n liên lạc được với y. Khi một người bạn c̣n sống đang ngủ, ta nhận thức hoàn toàn sự hiện diện của y, nhưng ta không liên lạc với y được lúc đó. T́nh trạng ấy giống hệt như t́nh trạng của người c̣n sống (trong lúc thức) trước mắt người chết. Bởi v́ thường khi thức, ta không thể nhớ được những ǵ mà ta đă thấy lúc ngủ. Ta có ảo ảnh rằng: ta đă mất những người quá cố của ta. Nhưng mấy người quá cố này không bao giờ họ có ảo ảnh rằng: họ mất chúng ta; bởi v́ họ có thể thấy đặng chúng ta bất câu lúc nào. Đối với họ chỉ có một điều khác là: ta ở với họ lúc ban đêm và xa họ lúc ban ngày. C̣n khi họ xuống trần ở với ta, th́ trường hợp đổi ngược lại.

Giờ đây cái thể mà ta gọi theo Thánh Paul là: “Thể Tinh Thần” – (Người ta gọi nó là thể Vía thường hơn) vốn đặc biệt để dùng làm khí cụ cho t́nh cảm và mối cảm động của ta. Nhơn đó mà chúng nó tự biểu lộ một cách rơ rệt hơn hết, trước mắt người chết. Nếu ta vui mừng họ liền lưu ư; nhưng họ không cần biết nguyên nhân của sự vui mừng ấy. Nếu sự phiền năo đến với ta, họ biết liền và chia sớt nó; dù có thể họ không biết v́ đâu ta buồn. Thật ra, tất cả điều này thuộc về những giờ ta thức. Khi ta ngủ, họ nói chuyện với ta cũng như thuở xưa ở tại cơi trần. Nơi đây, trong đời sống dưới trần, ta có thể che đậy t́nh cảm của ta đặng. Trên cơi cao hơn, th́ điều này không thể làm được v́ chúng nó tự hiện h́nh ra liền. Bởi có rất nhiều tư tưởng của ta liên kết chặt chẽ với t́nh cảm ta, nên đa số chúng nó cũng biểu lộ lẹ làng trên cơi đó. Những tư tưởng nào thuộc về thứ trừu tượng th́ c̣n chưa thấy đặng.

Huynh sẽ nói rằng: “Tất cả điều này không mấy giống với cơi Thiên đàng và Địa ngục mà người ta truyền dạy cho ta thuở bé?” Tuy nhiên, chính đó là một sự kiện mà sự thật ẩn sau những câu chuyện thần thoại này. Thật ra, không có Địa ngục. Song le, người nghiện rượu và người đam mê nhục dục đang chuẩn bị cho ḿnh một t́nh trạng rất giống như Địa ngục. Nhưng cái t́nh trạng ấy không phải là vĩnh viễn; nó chỉ kéo dài cho tới chừng nào sự ham muốn của y đă bị hao ṃn. Bất câu lúc nào, y cũng có thể chấm dứt t́nh trạng ấy được; nếu y có đủ sức mạnh và có đủ sự khôn ngoan để chế ngự những sự khao khát về cơi trần và để tự vươn ḿnh lên trên chúng nó một cách hoàn toàn. Đó là cái chơn lư ẩn sau tín điều của Thiên Chúa Giáo về “luyện ngục” (purgatory) với ư nghĩ rằng: sau khi chết, những tánh xấu trong con người phải bị một số đau khổ nào thiêu hủy trước khi con người hưởng đặng lạc thú của trời.

Có một giai đoạn thứ nh́, cao hơn trong đời sống bên kia cửa tử. Nó rất tương xứng với ư niệm hữu lư về cơi trời. Khi tất cả sự ham muốn thấp kém hay ích kỷ đă hoàn toàn lặng mất th́ con người mới đến cơi cao hơn ấy được. Bấy giờ, con người lâm vào t́nh trạng mê mẩn trước đạo lư hoặc đang linh hoạt về tri thức bậc cao tùy theo bẩm tính của con người và đường lôi mà con người đă chú lực vào lúc sanh tiền. Chính đó là thời kỳ phúc lạc nhất của con người, là thời kỳ hiểu biết thật trọng đại hơn, gần kề với thực tại hơn. Nhưng niềm vui này đến cho tất cả mọi người, chớ chẳng phải dành riêng cho những người thành kính đặc biệt đâu.

Không có lư do ǵ cho đó là một phần thưởng mà (một lần nữa) nên xem đó như là cái kết quả không thể tránh của tánh t́nh đă tiến hóa trong kiếp sống dưới trần. Nếu người kia tràn đầy t́nh thương và vô tư, hoặc có ḷng sùng tín mà mở được trí tuệ hay khiếu mỹ thuật một cách cao độ th́ cái kết quả (không thể tránh được) của sự phát triển này sẽ là cái phúc lạc mà ta vừa nói đó. Nên nhớ rằng: điều này là những giai đoạn liên tiếp của một kiếp sống. Cũng như nết hạnh “thuở thiếu thời” của một người kia tạo nên một phần lớn cái địa vị của y trong lúc trưởng niên; th́ nết hạnh của kẻ sống dưới thế gian hạn định thân phận y trong những giai đoạn bên kia cửa tử này.

Huynh sẽ hỏi:

- Cái t́nh trạng phúc lạc ấy có vĩnh cửu chăng?

- Không, bởi v́ như tôi đă nói, đó là cái kết quả của kiếp sống dưới thế gian; và một cái “nhân” hạn định không bao giờ tạo nên một cái “quả” vô hạn định được đâu.

Đời sống con người rất trường cửu hơn và rất vĩ đại hơn là huynh đă tưởng Tia sáng do Trời sanh ra phải trở về trời; và chúng ta c̣n rất xa vời với sự Hoàn Thiện của Trời.

Mọi sự sống đều đang tiến hóa v́ đó là luật Trời và con người đều tiến hóa chậm chạp một cách chắc chắn cùng với các loài khác. Điều mà người ta thường gọi là kiếp sống của con người thật ra chỉ là một ngày của kiếp sống thực sự và lâu dài hơn của y mà thôi. Trong kiếp sống thường này, con người, mỗi buổi sáng, thức dậy, mặc y phục và ra đi để làm công việc hằng ngày. Và khi màn đêm rủ xuống, người lại cởi y phục ra và nghỉ ngơi để sáng hôm sau lại thức dậy nữa, và lại tiếp tục làm cái công việc bị bỏ dở đó. Cũng đúng y như vậy, khi con người sanh xuống cơi trần, th́ mặc vào ḿnh cái thể xác, và khi giờ làm việc đă măn th́ lại cởi y phục ấy ra một lần nữa (mà huynh gọi là chết) rồi bước vào một trạng thái tươi tỉnh hơn như tôi đă miêu tả. Và khi nghỉ ngơi xong, con người lại mặc vào ḿnh chiếc áo xác thân một lần nữa, và khởi sống lại một ngày mới của kiếp sống dưới trần để tiếp tục sự tiến hóa nơi mức mà ḿnh đă bỏ dở. Và kiếp sống ấy chính là kiếp sống của con người; nó kéo dài cho tới chừng nào con người đạt được quả vị thiêng liêng mà Trời đặt để cho.

Tất cả mấy điều này có thể mới mẻ đối với huynh; và bởi chúng nó mới mẻ nên chúng nó được xem là kỳ dị và phi lư. Tuy nhiên, tất cả điều tôi nói có thể dẫn chứng được, và chúng nó đă được chứng minh nhiều lần rồi. Nhưng nếu huynh muốn hiểu rơ hết mọi sự này th́ huynh hăy nghiên cứu những sách vở nói về cái đó: bởi v́ trong một quyển sách nhỏ, ngắn, với một đề tài đặc biệt như thế này, tôi chỉ nói lên được những sự kiện mà thôi, và tôi không thể cố gắng trưng thêm những bằng chứng được.

Có lẽ huynh sẽ hỏi rằng: người chết có bị xáo trộn v́ lo lắng cho những người mà họ để lại cơi trần không?

- Đôi khi cũng có như vậy, và sự lo lắng đó làm trễ bước tiến hóa của họ. Bởi vậy chúng ta rán hết sức tránh tạo cho họ những cơ hội lo lắng này. Người chết phải hoàn toàn giải thoát mọi sự ưu tư thuộc về cơi mà y vừa từ giă để sống trọn vẹn cuộc đời mới mà y đă bước vào. Nhơn đó những kẻ nào xưa kia đă ỷ lại vào lời dạy của người quá cố th́ bây giờ hăy rán tự suy nghĩ lấy và tự dắt dẫn lấy ḿnh; e rằng: khi dùng trí mà dựa vào người chết th́ sẽ thắt chặt mối dây liên lạc cột người ấy với cơi mà y vừa ngoảnh đi lúc này. Ấy vậy, săn sóc trẻ con mà người chết để lại là một hành vi luôn luôn đặc biệt tốt đẹp: bởi v́ chẳng những nó có lợi cho trẻ con mà nó c̣n cất gánh lo lắng cho người cha mẹ đă từ trần và trợ giúp người ấy trên con đường đi lên.

Nếu trong lúc sanh tiền, người chết đă thọ những giáo điều sai quấy và xúc phạm thần thánh, th́ đôi khi, y đau khổ v́ lo âu cho số mạng sẽ tới của ḿnh. May thay, trên cơi tinh thần, có nhiều người lấy đó làm trách nhiệm t́m những ai bị ảo ảnh như vậy và giải thoát dùm họ bằng cách giải nghĩa cho họ hiểu những sự kiện một cách hợp lư. Chẳng những có người chết làm việc này mà cũng có nhiều người c̣n sống. Mỗi đêm trong lúc xác thân ngủ, hiến thời giờ để phụng sự người quá cố, rán sức giải thoát cho họ khỏi sợ sệt hay khổ năo bằng cách cắt nghĩa cho họ hiểu chơn lư trong mọi khía cạnh tốt đẹp của nó. Mọi sự đau buồn đều do vô minh mà ra. Hăy làm tan đi sự vô minh th́ nỗi đau buồn sẽ dứt.

Một trong những trường hợp buồn thảm nhất (về sự mất mát bên ngoài đó) là khi một đứa bé qua đời và cha mẹ của nó nh́n thấy chỗ của nó trống không, chẳng nghe đặng tiếng nói đỏ đẻ đáng yêu của nó. Vậy cái ǵ xảy đến cho trẻ con trong cơi tinh thần mới lạ và kỳ dị này? Trong mấy người bước vào cơi tinh thần đó, có lẽ trẻ con là sung sướng nhất, và được thư thái một cách hoàn toàn và mau lẹ nhất. Huynh hăy nhớ rằng: chúng nó không mất cha mẹ, anh chị, bạn bè mà chúng nó yêu mến đâu. Có một điều khác là chúng nó chỉ có những người ấy để chơi trong một lúc, (mà ta gọi là) ban đêm chớ không phải trong lúc ban ngày. V́ vậy mà chúng nó không cảm thấy chia ly hay mất mát ǵ cả. Trong buổi ban ngày của ta, chúng nó không bao giờ bị bỏ lẻ loi: bởi v́ trên cơi đó hay chốn này, trẻ con gom nhau lại và chơi chung với nhau; chúng chơi trong cảnh Thiên đường đầy lạc thú hiếm có. Ta biết tại cơi trần đây, một em bé “chơi giả bộ” cách nào; nó đ̣i biểu dương tánh này hay tánh khác trong truyện – nó đóng vai chánh trong tất cả chuyện thần tiên kỳ diệu hoặc trong những chuyện ngắn phiêu lưu. Trong chất khí thanh nhẹ hơn của cơi tinh thần này, những tư tưởng tự hiện h́nh và v́ vậy đứa bé tưởng tượng nó là một vị anh hùng nào th́ nó liền tạm  lấy diện mạo hiện thời của vị anh hùng ấy. Nếu nó muốn có một đền lầu tiên thuật th́ tư tưởng của nó có thể dựng lên được cái đền lầu đó. Nếu nó muốn có một đạo binh để điều khiển th́ đạo binh ấy hiện lên tức th́. Và bởi thế, nên trong mấy người chết đám trẻ con luôn luôn đầy vui vẻ. Thật ra, đôi khi sự vui vẻ này cũng là quá độ !

Và những đứa trẻ khác có bản tính bất đồng, những đứa trẻ có tư tưởng quay về tôn giáo một cách tự nhiên hơn th́ không bao giờ thất vọng trong sự t́m kiếm những điều mà chúng nó mong ước. Bởi v́ những vị thần thánh trong truyện xưa đều có thật. Các Ngài chẳng phải do trí tưởng tượng của các nhà mộ đạo bịa đặt ra đâu. Và những ai cần đến các Ngài, tin tưởng nơi các Ngài, th́ chắc chắn được dẫn đến các Ngài và thấy các Ngài dễ thương hơn, chói sáng hơn, mà trí tưởng tượng không bao giờ nghĩ ra nổi. Có những đứa con nít muốn gặp chính ông Trời – một ông Trời trong h́nh thể vật chất. Nhưng dù vậy, chúng nó cũng không thất vọng: v́ những vị giáo chủ dịu dàng nhất và âu yếm nhất dạy chúng nó rằng: “Tất cả h́nh dạng đều là h́nh dạng của Trời, bởi v́ Trời ở khắp cùng. Và kẻ nào muốn phụng sự và giúp đỡ - dù là một sinh linh thấp kém nhất của Ngài - cũng là phụng sự và giúp đỡ Ngài một cách thực sự vậy.” Trẻ con thích được hữu dụng; chúng ưa giúp đỡ và an ủi. Trên cơi cao ấy và giữa những người thiếu hiểu biết, một sân trường giúp đỡ và an ủi như thế trải ra trước chúng nó. Và trong khi chúng nó lưu động khắp không gian sáng lạn để thực hành những công việc giúp đỡ nhỏ nhặt của ḷng từ bi và t́nh thương mến, th́ chúng nó học cái chơn lư của lời dạy xưa tốt đẹp này: “Hỡi các Huynh Đệ của Ta ơi, cái ǵ mà các Người đă làm cho một đứa em nhỏ nhất trong những kẻ này là các Người đă làm cho Ta vậy.”

- C̣n những trẻ con nhỏ xíu – nhưng đứa c̣n bé quá, chưa chơi được th́ sao?

- Huynh đừng sợ cho chúng nó. Bởi v́, trên âm cảnh có nhiều bà mẹ rất nồng nhiệt đợi chờ để ôm chúng nó vào ḷng, tiếp rước chúng nó, và thương yêu chúng nó như đứa con ruột của ḿnh. Thường thường những đứa bé đó ngơi nghỉ trên cơi tinh thần chỉ một thời gian ngắn mà thôi và rồi chúng nó lại trở xuống cơi trần một lần nữa; lắm khi chúng nó đến với cha mẹ cũ của chúng nó. Những tăng sĩ thời Trung cổ có bịa một chuyện đặc biệt độc ác gớm ghê, cho rằng: đứa trẻ nào (chết) mà không có rửa tội, th́ nó sẽ biệt ly đời đời những người thương yêu chúng nó ! Sự rửa tội là một bí tích thực sự. Nó có sự hữu ích của nó. Nhưng không ai được thiếu óc khoa học cho đến đỗi tưởng tượng rằng: sự bỏ sót cái h́nh thức bên ngoài đó có thể ảnh hưởng được những định luật vĩnh cửu của Trời., hoặc biến đổi được Ngài, từ một ông Trời Bác ái trở thành một vị nhẫn tâm tàn bạo.

Từ trước tới giờ, ta chỉ nói về cái khả năng tiếp xúc với những người chết bằng cách tiến lên vị trí của họ, trong lúc ngủ; đó là đường lối thông thường và tự nhiên. Thật ra cũng có phương pháp dị thường và không tự nhiên của Thần linh học. Với cách ấy, người chết lại khoác lên ḿnh, trong chốc lát, một chiếc màn vật chất. Và nhơn đó, y hiện h́nh một lần nữa cho mắt phàm của ta thấy được. Những nhà học giả Huyền môn không khuyên làm như thế: 1) một là cách ấy thường làm cho vong linh trễ bước trên đường tiến hóa của họ. 2) hai là bởi trong đó có nhiều điều mơ hồ, v́ vậy, nó rất có thể đưa đến sự thất vọng và sự phỉnh gạt [3]. Vấn đề này quá minh mông, không thể gom nó vào khuôn khổ của quyển sách nhỏ như thế này được. Nhưng tôi đă giải tỉ mỉ về đó trong một quyển sách nhan đề “The Other Life of Death”. Trong đó, người ta cũng sẽ thấy nhiều thí dụ chứng tỏ người chết tự nhiên trở về hạ giới và tự biểu lộ bằng nhiều cách khác nhau – bởi thường thường họ muốn chúng ta làm cái ǵ cho họ. Trong mọi trường hợp như vậy, tốt nhất là rán t́m hiểu ư muốn của họ sớm chừng nào hay chừng nấy, rồi làm cho họ thỏa măn, nếu có thể được để cho linh hồn họ được an tĩnh.

Nếu huynh đồng hóa được những điều mà tôi đă nói, th́ bây giờ huynh hiểu rằng: dẫu ta buồn rầu về sự chết của những người thân yêu ta là một lẽ tự nhiên đi nữa, sự buồn rầu này cũng là một sự lầm lạc và một điều tai hại. Ta phải chế ngự nó. Có chi cần phải buồn rầu về họ: bởi v́ họ đă bước sang qua một đời sống rộng răi hơn và sung sướng hơn. Nếu ta buồn rầu về sự chia ly tưởng tượng đó, th́ trước nhất, ta khóc về một ảo tưởng: bởi thật ra, mấy người ấy không có cách biệt ta đâu; và hai là, ta hành động theo sự ích kỷ: v́ ta đang nhớ đến điều mất mát bên ngoài của ta nhiều hơn là cái thắng lợi vĩ đại và thực sự mà người chết đă đạt được. Ta phải rán hoàn toàn vô tư, như tất cả t́nh thương; thật ra là phải vô tư mới được. Ta phải nhớ đến họ, chớ chẳng phải nhớ đến chính ḿnh ta, chẳng phải nhớ đến điều ǵ ta muốn hoặc cảm; mà chỉ nhớ đến cái ǵ tốt nhất cho họ và cái ǵ trợ giúp họ hơn hết trên đường tiến hóa của họ.

Nếu ta bi lụy, nếu ta để sự buồn rầu và sự ngă ḷng xâm chiếm, th́ ta phóng từ người của ta một đám mây nặng trĩu, nó làm cho đen tối cơi trời của họ. T́nh thương yêu tha thiết của họ, tính thiện cảm dồi dào của họ đối với ta làm cho họ tiếp nhận một cách dễ dàng cái ảnh hưởng xấu xa đó. Nếu ta chỉ muốn, th́ ta có thể dùng mănh lực t́nh thương của họ đối với ta đó mà giúp đỡ họ. Nhưng làm được điều ấy cần phải can đảm và hi sinh. Ta phải quên ḿnh trọn vẹn trong ư muốn nồng nàn, tha thiết giúp đỡ hết sức đắc lực người chết của ta. Mỗi tư tưởng, mỗi t́nh cảm của ta đều ảnh hưởng họ. Vậy ta phải thận trọng đừng có một tư tưởng nào không quảng đại và trợ giúp, không tăng cao phẩm giá và tinh lọc.

Nếu chắc chắn người chết có thể cảm thấy rằng: họ có vài ưu tư về ta th́ hăy nhất quyết vui lên. Như thế, ta có thể làm cho họ an tâm không cần phải lo lắng về ta. Nếu trong lúc sanh tiền, họ không được chỉ dẫn một cách tỉ mỉ và đúng đắn về đời sống bên kia cửa tử, th́ ta phải lập tức tự ḿnh rán sức thâm hiểu những lời chỉ dẫn đó và truyền lại cho họ trong câu chuyện đàm thoại giữa ta và họ lúc ban đêm. Bởi tư tưởng và t́nh cảm của ta rất dễ phản ảnh trong tư tưởng và t́nh cảm của họ; nên ta hăy coi chừng sao cho chúng nó luôn luôn được cao thượng và phấn khởi. “Nếu các người biết những chuyện này và đem chúng nó ra thực hành th́ có phải các người là những kẻ hữu phước không?”

Huynh hăy rán hiểu sự duy nhất của vạn vật. Chỉ có một ông Trời. Và vạn vật đều duy nhất trong tâm Ngài. Nếu ta thấy rơ được sự duy nhất của “T́nh Thương Vĩnh Cửu” này th́ sự buồn rầu sẽ không đến với ta nữa; bởi v́ ta hiểu được điều đó chẳng phải để riêng cho chính ḿnh ta, mà để cho những người mà ta thương mến; ví dù sanh hay tử, ta cũng thuộc về Ngài. Và ở trong Ngài, ta sống, hoạt động và có đời sống riêng của ta tại cơi này hay cơi tương lai. Cái thái độ bi khóc là cái thái độ thiếu tin tưởng, thiếu hiểu biết. Ta biết nhiều chừng nào th́ đức tin của ta càng đầy đủ chừng nấy: bởi v́ ta sẽ cảm thấy một cách hoàn toàn chắc chắn rằng: ta và những người chết của ta đều ở trong tay của “Quyền Năng và Minh Triết Hoàn Toàn do T́nh Bác Ái Hoàn Toàn điều khiển”.

 

CHUNG

 


[1] Ông C. W. Leadbeater có huệ nhăn nên thấy đặng bản đồ thiêng liêng đă vẽ sẵn trên Thiên Đ́nh.

Quí vị nào muốn biết rơ về các giống dân trên dăy Địa cầu xin xem quyển “Vơ trụ và Con người” do tác giả Nguyễn văn Huấn và Nguyễn thị Hai.

[2] Sự tổn thất vô văn hồi là sự mất không thể đền được.

[3] Giải thích: Những vong linh nhập cốt, hay xuống cơ có thể dối gạt người phàm rằng họ vốn là ông Tiên, bà Chúa v. v. . . .

 


 trang nhà l trang sách l bản tin l thiền học l tiểu sử l trang thơ l h́nh ảnh l bài vở