|
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES
|
HỒI KƯ H.S. OLCOTT Bản Dịch Nguyễn Hữu Kiệt Đánh Máy Như Khuê Tiểu Hoa Nhi 2010 |
|
CHƯƠNG MỘT
CUỘC GẶP GỠ ĐẦU TIÊN GIỮA HAI NHÀ SÁNG LẬP
I
V́
quyển
“Hồi
kư’’
này
có
liên
quan đến
lịch
sử
Hội
Thông
Thiên
Học
Thế
Giới,
nên
tôi
phải
kể
lại
từ
đầu,
và
tường
thuật
cuộc
gặp
gỡ
giữa
hai
nhà
sang
lập
hội.
Câu
chuyện
cũng
rất
b́nh
thường;
tôi
nói
mở
lời: “Xin
bà
cho
phép,’’
và
quẹt
một
cây
diêm
cho
bà
hút
thuốc
để
mượn
dịp
làm
quen. Cuộc
gặp
gỡ
của
chúng
tôi
bắt
đầu
bằng
một
làn
khói
thuốc,
nhưng
nó
đă
bùng
cháy
lên
thành
một
ngọn
Lửa
Thiêng
trường
cửu
muôn
đời.Những
sự
việc
đưa
đến
cuộc
gặp
gỡ
này
cũng
khá
ly
kỳ,
như
tôi
sẽ
tŕnh
bày
sau
đây.
Một
ngày
nọ, vào
tháng
7
năm
1874, ngồi
tại
văn
pḥng
Luật,
tôi
đang
nghiên
cứu
một
vụ
kiện
quan
trọng,
liên
quan
đến
ṭa
Đô
Chính
thành
phố
Nữu
Ước,
tự
nhiên
tôi
lại
nghĩ
rằng
từ
nhiều
năm
nay
tôi
không
chú
ư
đến
phong
trào
Thần
Linh
Học.
tôi
không
hiểu
tại
sao
trí
óc
tôi
lại
liên
tưởng
từ
vụ
kiện
nọ
đến
phong
trào
này.
Dù
sao,
tôi
cũng
đă
bước
ra
phố
để
mua
một
tờ
nhật
báo
“Banner
of
Light’’,
trong
đó
tôi
thấy
có
bài
tường
thuật
về
một
hiện
tượng
hồn
ma
hiện
h́nh
xảy
ra
tại
một
nông
trại
ở
thị
trấn
Chittenden,
thuộc
tiểu
bang
Vermont,
cách
Nữu
Ước
độ
vài
trăm
dặm.
Tôi
liền
nghĩ
rằng
nếu
quả
thật
đúng
là
người
ta
có
thể
nh́n
thấy,
sờ
mó,
và
nói
chuyện
được
với
những
thân
nhân
đă
chết
nhưng
đă
t́m
cách
hiện
nguyên
h́nh
để
tạm
thời
xuất
hiện
trở
lại
thế
gian,
th́
đây
là
một
sự
kiện
tối
quan
trọng
về
khoa
học
vật
lư
hiện
đại. Tôi bèn
quyết
định
đi
quan
sát
ngay
tại
chỗ.
Tôi
đến
tận
nơi
xem
xét
các
hiện
tượng,
và
thấy
rằng
câu
chuyện
quả
có
thật,
tôi
bèn
ở
lại
đó
thêm
ba
ngày.
Khi
trở
về
Nữu
Ước,
tôi
viết
một
bài
tường
thuật
những
điều
tôi
đă
nhận
xét
cho
tờ
báo
New
York
Sun.
Bài
báo
của
tôi
được
các
báo
trên
thế
giới
in
lại
và
phổ
biến
khắp
nơi,
v́
tính
cách
hấp
dẫn
và
quan
trọng
của
những
việc
đă
xảy
ra.
Kế
đó,
vị
chủ
nhiệm
báo
Daily
Graphic
đề
nghị
vối
tôi
hăy
trở
lại
Chittenden
để
viết
phóng
sự
với
một
họa
sĩ
cùng
đi
theo
tôi
để
vẽ
h́nh
ảnh,
và
để
mở
cuộc
điều
tra
quan sát
tường
tận
về
vấn
đề
này.
Việc
ấy
làm
cho
tôi
thích
thú
đến
mức
tôi
phải
thu
xếp
mọi
việc
của
văn
pḥng,
và
ngày
17
tháng
9
năm
đó
tôi
trở
lại
nông
trại
của
gia
đ́nh
Eddy
một
lần
nữa.
Tôi
lưu
trú
tại
ngôi
nhà
bí
mật
đó
trong
mười
hai
tuần,
và
hằng
ngày
tôi
đă
thu
nhập
được
những
kinh
nghiệm
vô
cùng
kỳ
dị.
Trong
thời
gian
đó,
tôi
viết
bài
đăng
trên
báo
Daily
Graphic
mỗi
tuần
hai
lần,
có
kèm
theo
những
bức
vẽ
các
hồn
ma
hiện
h́nh
do
tôi
và
người
họa
sĩ,
ông
Kappes
đă
nh́n
thấy
tận
cùng
với
độ
bốn
mươi
quan
khách
đến
viếng. Chính
những
bài
tường
thuật
của
tôi
trên
mặt
báo
đă
làm
cho
bà
Blavatsky
đến
Chittenden,
và
do
đó
chúng
tôi
mới
quen
biết
nhau.
Tôi
c̣n
nhớ
rơ
cái
ngày
đầu
tiên
mà
chúng
tôi
gặp
nhau
dường
như
chỉ
mới
ngày
hôm
qua.
Đến
bữa
ăn
trưa
tại
nông
trại
Eddy,
tôi
và
họa
sĩ
Kappes
vừa
bước
vào
pḥng
ăn
th́
thấy
nơi
bàn
ăn
đă
có
hai
người
phụ
nữ.
Đó
là
bà
Blavatsky
và
một
người
bạn
người
Gia
Nă
Đại.
Hôm
ấy
bà
mặc
một
cái
áo
màu
đỏ,
nổi
bật
giữa
những
y
phục
tầm
thường của
người
chung
quanh.
Gương
mặt
vuông,
có
bề
ngang,
đôi
mắt
tinh
anh
biểu
lộ
một
tinh
thần
cương
dũng,
đầy
hào
khí,
trội
phần
nam
tính
hơn
nữ
tính,
cũng
làm
cho
bà
có
một
phong
độ,
cốt
cách
khác
thường
so
với
những
gương
mặt
b́nh
dị
của
số
đông
du
khách
đến
viếng.
Những
người
thuộc
đủ
mọi
thành
phần
luôn
luôn
văng
lai
không
ngớt
để
xem
các
hiện
tượng
dị
kỳ.
Đứng
trước
ngưỡng
cửa,
tôi
nói
nhỏ
vào
tai
ông
Kappes:
“Này,
anh
hăy
nh́n
xem
cái
bà
kia,
có
lạ
không?’’
Kế
đó,tôi
bèn
đi
thẳng
lại
chỗ
bàn
ăn,
chọn
một
ghế
ngồi
đối
diện
với
bà
để
có
dịp
thực
tập
về
khoa
tướng
pháp,
như
tôi
vẫn
có
thói
quen
nh́n
xem
tướng
diện
khi
gặp
những
nhân
vật
mà
tôi
chú
ư.
Hai
bà
khách
lạ
nói
chuyện
với
nhau
bằng
tiếng
Pháp.
Nghe
giọng
nói
sành
âm
điệu
và
ngôn
ngữ
lưu
loát
trôi
chảy
của
bà,
tôi
đoán
ngay
rằng
nếu
bà
không
phải
là
một
người
Pháp
chính
cống
ở
Paris,
th́
ít
nhất
bà
cũng
phải
là
một
học
giả
uyên
thâm
về
môn
pháp
ngữ.
Buổi
ăn
trưa
vừa
xong, hai
bà
bước
ra
ngoài.
Bà
Blavatsky
vấn
một
điếu
thuốc
lá,
tôi
bèn
bật
diêm
quẹt
cho
bà
đốt
thuốc
để
lấy
cớ
mở
đầu
câu
chuyện.
V́
tôi
mở
lời
bằng
một
câu
tiếng
Pháp: “Vous permettez,
Madame,’’
nên
chúng
tôi
liền
nói
chuyện
với
nhau
bằng
tiếng
Pháp
luôn.
Bà
hỏi
tôi
đến
đây
từ
bao
giờ,
và
tôi
có
cảm
tưởng
ra
sao
về
việc
này?
Bà
nói
chính
Bà
cũng
rất
thích
thú
về
những
hiện
tượng
đó
và
đă
đến
Chittenden
do
những
bài
báo
Bà
đă
đọc
trong
tờ
Daily
Graphic.
Dân
chúng
thích
những
loạt
bài
phóng
sự
đó
đến
nỗi
chỉ
một
giờ
sau
khi
phát
hành,
báo
đă
bán
hết
sạch,
và
Bà
đă
phải
trả
một
đô
la
để
mua
một
tờ
với
giá
chợ
đen.
Bà
nói:
“Tôi
rất
do
dự
trước
khi
đến
đây,
v́
tôi
sợ
sẽ
gặp
Đại
Tá
Olcott.’’
Tôi hỏi
“Thưa
Bà,
tại
sao
bà
lại
sợ
gặp
ông
ta?’’
“Bởi
v́
tôi
sợ
ông
ta
sẽ
viết
về
tôi
trên
mặt
báo!’’
Tôi
mới
nói
rằng
bà
hăy
yên
ḷng
về
việc
đó,
v́
tôi
chắc
rằng
Đại
Tá
Olcott
sẽ
không
nói
ǵ
đến
bà
trong
các
bài
báo
nếu
bà
không
muốn
như
vậy.
Tôi bèn tự giới
thiệu.
Ngay
tức
khắc
chúng
tôi
đă
trở
nên
hai
người
bạn
thân.
Mỗi
người
trong
chúng
tôi
đều
cảm
thấy
dường
như
chúng
tôi
vẫn
cùng
chung
một
thành
phần
xă
hội,
thuộc
về
giới
tự
do
tư
tưởng
và
gần
gũi
với
nhau
hơn
so
với
những
người
khác
trong
nhóm
quan
khách.
Đó
là
sự
đồng
thanh
đồng
khí
về
phương
diện
tâm
linh,
một
sự
thông
cảm
giữa
hai
linh
hồn,
chứ
không
phải
là
sự
hấp
dẫn
giữa
nam
nữ
tính.
Kể
từ
lúc
mới
quen
cho
đến
măi
về
sau,
không
một
người
nào
trong
chúng
tôi
có
cái
ư
nghĩ
rằng
người
bạn
của
ḿnh
là
người
khác
phái.
Chúng
tôi
chỉ
coi
nhau
như
bạn,
và
chỉ
có
thế
thôi,
không
hơn
không
kém.
Thảng
một
đôi
khi
cũng
có
kẻ
xấu
miệng
nói
rằng
giữa
chúng
tôi
chắc
có
một
cảm
t́nh
sâu
đậm
hơn,
cũng
như
họ
đă
từng
vu
khống
bà
HPB
là
t́nh
nhân
của
những
người
đàn
ông
khác,
nhưng
không
một
người
quang
minh
chính
đại
nào
có
thể
nghĩ
như
thế
sau
khi
đă
được
gần
gũi
quen
biết
bà
một
thời
gian
để
có
dịp
nhận
xét
tính
chất
và
tác
phong
đặc
biệt
vô
nữ
tính
của
bà.
Sau
cuộc
gặp
gỡ
và
làm
quen,
chúng
tôi
nói
chuyện
về
những
hiện
tượng
quái
gở
ở
nông
trại
Eddy
và
ở
những
xứ
khác.
Tôi
được
biết
bà
đă
từng
đi
du
lịch
nhiều
nơi,
thấy
biết
nhiều
điều
bí
ẩn,
diệu
hiền
và
nhiều
bậc
danh
sư
trong
giới huyền
môn,
nhưng
lúc
đầu
bà
không
nói
ǵ
đến
các
Chân
Sư
bên
Tây
Tạng
và
những
quyền
năng
của
bà.
Bà
nói
về
khuynh
hướng
duy
vật
của
phong
trào
Thần
Linh
Học
bên
Mỹ,
vốn
quá
chú
trọng
đến
những
hiện
tượng
vật
chất
hữu
h́nh
mà
không
biết
đến
những
khía
cạnh
triết
lư
siêu
h́nh.
Bà
có
một
phong
độ,
tư
cách
rất
duyên
dáng
và
hấp
dăn,
những
sự
b́nh
phẩm
chỉ
trích
của
bà
về
người
và
vật
rất
độc
đáo
và
linh
hoạt.
Bà
t́m
cách
biết
những
ư
nghĩ,
quan
niệm
của
tôi
về
các
vấn
đề
tâm
linh,
và
lấy
làm
thích
thú
mà
nhận
thấy
rằng
tôi
có
những
tư
tưởng
phù
hợp
theo
đường
lối
của
Huyền
Môn
mà
bà
vẫn
theo
đuổi.
Bà
nói
chuyện
không
phải
với
tư
cách
một
đạo
gia
thấm
nhuần
đạo
lư
Đông
Phương,
mà
với
tư
cách
một
nhà
Thần
Linh
Học
uyên
bác.
Về
phần
tôi,
hồi
ấy
tôi
chưa
biết
hay
hầu
như
không
biết
ǵ
cả
về
triết
học
Đông
Phương,
và
lúc
đầu
bà
giữ
im
lặng
không
nói
ǵ
đến
vấn
đề
ấy.
Những
buổi
họp
đàn
của
William
Eddy,
nhà
đồng
tử
chính
của
gia
đ́nh
này,
diễn
ra
mỗi
đêm
trong
một
gian
pḥng
rộng
ở
trên
lầu.
Ông
William
và
người
em
trai
là
Horatia,
đều
là
những
nông
dân
siêng
năng
cần
cù
làm
việc;
người
em
lo
việc
đồng
áng,
c̣n
người
anh
lo
việc
bếp
núc,
dọn
bữa
ăn
cho
các
quan
khách
hàng
ngày
tấp
nập
đến
từ
khắp
nơi
trong
xứ
Hoa
Kỳ.
Họ
là
những
nông
dân
nghèo,
thất
học,
và
có
nhiều
thành
kiến,
đôi
khi
lại
cau
có,
gắt
gỏng
đối
với
những
du
khách
tự
nhiên
không
mời
mà
đến.
Mỗi
buổi
chiều,
đồng
tử
William
Eddy
ngồi
trong
pḥng
tối
để
đợi
cho
các
hiện
tượng
xảy
ra.
Khi
y
vừa
bước
vào
pḥng,
người
ta
kéo
tấm
màn
che
qua
một
bên,
th́
từ
bên
trong
bước
ra
một
bóng
ma
hiện
h́nh
một
người
đàn
ông,
đàn
bà
hoặc
trẻ
con,
coi
như
một
pho
tượng
biết
cử
động,
tạm
thời
đông
đặc
và
chắc
nịch,
nhưng
trong
giây
phút
liền
tan
biến
mất
dạng
trước
mắt
của
mọi
người.
Trước
ngày
bà
Blavatsky
đến
đây , những
bóng
ma
hiện
h́nh
đều
là
những
người
Da
Đỏ,
người
Mỹ
hay
người
Âu,
họ
hàng
thân
thuộc
của
những
khach
đến
viếng.
Nhưng
kể
từ
buổi
đầu
tiên
khi
bà
vừa
đến,
th́
những
bóng
ma
thuộc
những
quốc
tịch
khác
đă
xuất
hiện
trước
mắt
chúng
tôi.
Trong
số
đó,
có
một
thanh
niên
người
xứ
Causase;
một
người
lái
buôn
Hồi
Giáo
ở
Tiflis;
một
cô
thôn
nữ
Nga,
và
những
h́nh
bóng
khác.
Tối
hôm
nọ ,
hiện
h́nh
một
người
kỵ
mă
Thổ
Nhĩ
Kỳ
đeo
gương
cong,
súng
đoản
và
cầm
giáo
dài;
một
nhà
phù
thủy
Phi
Châu
h́nh
thù
dị
hợm,
gớm
ghiếc,
đầu
đội
mũ
miện
cắm
bốn
cái
sừng
dê
có
gắn
lục
lạc
đồng;
và
một
người
Âu
ḍng
quư
tộc
mặc
triều
phục
với
phù
hiệu
Nữ
Thánh
Anna,
mà
bà
Blavatsky
nhận
ra
là
người
chú
của
bà.
Sự
hiện
h́nh
của
những
vong
linh
ấy
trong
pḥng
họp
đàn
của
những
người
nông
dân
nhèo
và
thất
học,
không
hề
có
đủ
tiền
bạc
để
mua
sắm
những
đồ
y
trang
sân
khấu,
cũng
không
có
sự
hiểu
biết,
kinh
nghiệm
để
sử
dụng
những
thứ
y
trang
đó
dẫu
cho
họ
có
thể
sắm
được,
là
một
bằng
chứng
rơ
rệt
trước
mắt
ngưới
đi
xem,
rằng
những
hiện
tượng
ấy
là
có
thật,
đồng
thời,
những
buổi
họp
đàn
này
cho
thấy
rằng
sự
có
mặt
của
bà
Blavatsky
toát
ra
một
sức
hấp
dẫn
lạ
lùng
làm
cho
những
nhân
vật
kỳ
lạ
xuất
hiện
từ
cơi
giới
vô
h́nh.
Măi
rất
lâu
về
sau,
tôi
mới
được
cho
biết
rằng
bà
đă
sử
dụng
quyền
năng
phương
thuật
sai
khiến
tinh
linh
ngũ
hành
để
tạo
nên
những
hiện
tượng
đó.
Trong
thời
gian
ở
Chittenden,
bà
Blavatsky
có
kể
cho
tôi
nghe
nhiều
chuyện
vế
cuộc
đời
dĩ
văng
của
bà, trong
dó
có
việc
bà
đă
từng
gia
nhập
nhóm
phụ
nữ
chí
nguyện
tùng
chinh
theo
Garibaldi
[1] trong
trận
đánh
lưu
huyết
ở
Mentana[2]
.
Để
chứng
minh
chuyện
này,
bà
cho
tôi
xem
cánh
tay
trái
của
bà
bị
những
vết
gươm
chém
gẫy
xương
ở
hai
chỗ,
vai
bên
hữu
có
một
viên
đạn
vẫn
c̣n
nằm
nguyên
trong
thớ
thịt,
và
một
viên
đạn
nữa
trong
bắp
chân.
Bà
cũng
chỉ
cho
tôi
xem
một
cái
thẹo
ngay
phía
dưới
trái
tim,
do
một
nhát
đâm
bằng
vũ
khí
nhọn.
Vết
thương
này
hơi
nứt
ra
một
ít
trong
khi
bà
ở
tại
Chitenden
và
sở
dĩ
bà
cho
tôi
xem
là
để
hỏi
ư
kiến
tôi
về
cách
chữa
trị
sao
cho
mau
lành.
Bà
c̣n
kể
cho
tôi
nghe
nhiều
chuyện
phiêu
lưu
mạo
hiểm
đầy
thú
vị
khác
nữa,
trong
số
đó
có
chuyện
nhà
phù
thủy
Phi
Châu
đội
mũ
cắm
sừng
dê
có
gấn
lục
lạc
đồng,
mà
bà
đă
từng
gặp
khi
ông
ta
trổ
tài
nghệ
ở
miền
thượng
du
Ai
Cập
đă
nhiều
năm
về
trước.
Bà
Blavatsky
cố
gắng
giải
thích
cho
tôi
hiểu
rằng
những
hiện
tượng
vừa
kể
không
phải
là
bằng
chứng
về
sự
kiểm
chế
đồng
tử
bởi
các
vong
linh
người
chết.
Bà
nói
rằng
nếu
những
hiện
tượng
đó
có
thật,
th́
đó
phải
là
cái
Thể
Vía
của
người
đồng
tử
xuất
ra
ngoài
thể
xác
và
khoác
lấy
mọi
h́nh
thể
đa
h́nh
đa
dạng,
nhưng
tôi
không
tin
như
thế.
Tôi
lư
luận
rằng
những
h́nh
bóng
xuất
hiện
ra
đó
thật
khác
biệt
nhau
quá
xa
về
vóc
hạc,
bề
cao,
tác
phong
và
dáng
điệu,
để
có
thể
nói
đó
là
cái
Thể
Vía
người
đồng
tử,
và
như
vậy
đó
phải
là
những
vong
linh
người
chết
hiện
h́nh
thật
sự
như
mọi
người
đều
thấy.
Sự
tranh
luận
của
chúng
tôi
đôi
khi
rất
sôi
nổi,
v́
hồi
đó,
tôi
chưa
được
biết
nhiều
về
tính
chất
co
giăn
của
Thể
Vía
con
người
để
nhận
thấy
rơ
luận
điệu
chính
xác
của
bà,c̣n
về
lư
thuyết
Ảo
Ảnh
Ảo
Giác
(Maya)
của
phương
Đông,
th́
hồi
đó
tôi
không
biết
ǵ
cả.
Tuy
nhiên,
nhờ
vậy
mà
bà
mới
biết
rơ
bản
chất
của
tôi
là
không
chấp
nhận
bất
cứ
điều
ǵ
nếu
chỉ
căn
cứ
trên
niềm
tin
mà
không
có
đủ
lư
do
vững
chắc.
Chúng
tôi
càng
hiểu
nhau
hơn
với
thời
gian
qua,
và
đến
lúc
chia
tay,
chúng
tôi
tạm
biệt
nhau
như
hai
người
bạn
tốt
sẵn
sang
tiếp
tục
t́nh
quen
biết
thân
hữu
đă
bắt
đầu
một
cách
vui
vẻ
tốt
đẹp
trong
những
ngày
vừa
qua.
II
Tháng
11 năm 1874, sau
khi
đă
hoàn
tất
cuộc
khảo
sát
về
những
hiện
tượng
thần
linh
ở
nông
trại
Eddy,
tôi
trở
về
New
York
và
đến
viếng
bà
Blavatsky
tại
địa
chỉ
mà
bà
đă
cho
tôi
trước
khi
chia
tay
tạm
biệt.
Tại
đây,
bà
đă
biểu
diễn
cho
tơi
xem
vài
hiện
tượng
cơ
bút,
gơ
nhịp,
xoay
bàn,
phần
nhiều
là
do
tác
động
của
một
vong
linh
khuất
mặt
tự
xưng
danh
là
‘’Jonh
King’’.
Đó
là
một
cái
tên
quen
thuộc
đối
với
những
người
thường
đi
tham
dự
những
buổi
họp
đàn
hồi
giữa
thế
kỷ
trước
ở
khắp
nơi
trên
thế
giới.
Vong
linh
ấy
tự
giới
thiệu
là
vong
hồn
của
Sir
Henry
Mogan,
một
nhà
hiệp
sĩ
kiêm
hải
tặc
sống
bên
Anh
Quốc
cách
đây
vài
thế
kỷ.
Y
đă
hiện
h́nh
một
phần
cho
tôi
xem
mặt
và
đầu
có
quấn
khăn,
trong
khi
tôi
xúc
tiến
một
cuộc
điều
tra
về
những
đồng
tử
Holmes
ở
Philadelphia
cùng
với
bà
Blavatsky
và
vài
nhân
vật
khác
ít
lâu
sau
đó.
Y
có
một
lối
viết
dị
kỳ,
và
sử
dụng
lối
văn
Anh
cổ
xưa
cũng
rất
lạ.
Hồi
đó,
tôi
không
tin
chắc
đó
là
Jonh
King
thật,
v́
mọi
sự
đă
được
chứng
minh
rơ
ràng
về
thành
tích
và
con
người
của
y.
Nhưng
bây
giờ,
sau
khi
đă
thấy
rơ
quyền
năng
của
bà
Blavatsky
trong
việc
tạo
nên
ảo
giác
và
sai
khiến
âm
binh,
tôi
mới
biết
rằng “John
King’’
chỉ
là
một
tinh
linh
mạo
danh
và
phỉnh
lừa,
mà
bà
sử
dụng
như
một
h́nh
nộm
để
sai
khiến
và
dung
làm
một
khí
cụ
để
chỉ
dẫn
cho
tôi
học
hỏi
thêm
về
khoa
Huyền
Môn.
Nói
tóm
lại,
các
hiện
tượng
đều
có
thật,
nhưng
không
phải
do
một
vong
linh
người
chết
thực
hiện,
mà
chỉ
là
do
sự
trợ
giúp
của
một
tinh
linh
ngũ
hành[3]
.
Bà
vẫn
duy
tŕ
cái
ảo
tưởng
đó
đối
với
tôi
trong
vài
tháng,
và
tôi
đă
chứng
kiến
nhiều
hiện
tượng
huyền
linh
khác
mệnh
danh
là
do
tác
động
cùa
John
King,
chẳng
hạn
như
toàn
bộ
một
loạt
các
hiện
tượng
biểu
diễn
tại
tư
gia
của
các
đồng
tử
Holmes
và
của
chính
bà
HPB
như
đă
kể
trên.
Trước
hết
y
là
một
cá
tính
riêng
biệt
tên
J. King,
kế
đó
y
là
John
King
thư
tín
viên
và
thừa
sai
của
các
Chân
Sư
c̣n
sống
trên
thế
gian,
và
sau
cùng,
đó
chỉ
là
một
tinh
linh
do
bà
HPB
sử
dụng
để
làm
các
phép
thuật
lạ
kỳ.
Không
ai
phủ
nhận
rằng
trong
thời
gian
đầu
tiên
ở
Mỹ,
bà
HPB
tự
xưng
là
một
nhà
Thần
Linh
Học,
nhiệt
liệt
bênh
vực
khoa
Thần
Linh
Học
và
các
đồng
tử
chống
lại
những
kẻ
đả
kích
gồm
các
giới
độc
giả
nông
cạn,
nửa
mùa.
Những
thư
từ
và
bài
vở
của
bà
đăng
trên
các
báo
chí
Anh
và
Mỹ
có
chứa
đựng
nhiều
bằng
chứng
về
việc
ấy.
Trong
một
bức
thư
gởi
đăng
trên
tạp
chí
Spiriualist
ngày
13
tháng
12
năm
1874,
bà
viết
như
sau:
“Như
t́nh
trạng
hiện
nay,
tôi
chỉ
có
làm
việc
bổn
phận,
trước
hết
đối
với
khoa
Thần
Linh
Học,
mà
tôi
bênh
vực
đến
mức
tối
đa
chống
lại
những
đ̣n
công
kích xuyên tạc
của
các
giới
thiển
cận
đội
lốt
khoa
học;
và
kế
đó
đối
với
hai
nhà
đồng
tử
cô
thế
bị
vu
khống…
Nhưng
tôi
phải
thú
nhận
rằng
thật
sự
tôi
không
tin
là
ḿnh
đă
giúp
ích
được
ǵ
cho
khoa
Thần
Linh
Học…
Tôi
cảm
thấy
một
nỗi
buồn
thấm
thía
mà
nh́n
nhận
điều
ấy,
v́
tôi
bắt
đầu
nghĩ
rằng
nó
thật
là
vô
phương
cứu
văn.
Tôi
đă
chiến
đấu
cho
chân
lư từ
trên
mười
lăm
năm
nay;
v́
mục
đích
sưu
tầm
và
phổ
biến
chân
lư,
tôi
đă
đi
ngao
du
sơn
thủy
từ
các
vùng
núi
non
tuyết
phủ
của
xứ
Caucase
đến
những
vùng
đồng
cát
ở
lưu
vực
sông
Nil.
V́
mục
đích
đó,
tôi
đă
rời
khỏi
gia
đ́nh,
từ
bỏ
cuộc
đời
ấm
êm
nhung
lụa
trong
một
xă
hội
văn
minh
để
đi
ta
bà
khắp
nơi
trên
mặt
Trái
Đất, v.v…
“Hai
nhà
đồng
tử
cô
thế’’
mà
bà
nói
trong
thư
tức
là
hai
ông
bà
Holmes,
mà
tôi
vẫn
đánh
giá
rất
thấp
về
hạnh
kiểm
cũng
như
về
thành
tích
bất
hảo.
tuy
nhiên,
trước
sự
có
mặt
của
bà
Blavatsky,
và
dưới
những
điều
kiện
thử
thách
gắt
gao
do
tôi
thực
hiện
tại
nhà
ông
bà
Holmes,
tôi
đă
chứng
kiến
tận
mắt
một
loạt
những
hiện
tượng
đồng
tử
thỏa
đáng
và
chân
thật
nhất
không
thể
chối
căi.
Hồi
đó,
tôi
đă
ngờ
rằng
cái
quyền
năng
tạo
ra
những
hiện
tượng
đó
là
của
bà
HPH,
chứ
nếu
chỉ
có
hai
ông
bà
Holmes,
th́
có
lẽ
tôi
đă
thấy
những
tṛ
giả
mạo,
hoặc
là
không
có
ǵ.
Bây
giờ,
lục
soát
lại
những
tài
liệu
cũ,
tôi
t́m
thấy
bản
văn
kiện
sau
đây
do
chính
tay
bà
viết
và
hiển
nhiên
là
với
ư
định
sẽ
được
công
bố
sau
khi
bà
từ
trần:
THÔNG ĐIỆP
QUAN
TRỌNG
Tôi
rất
tiếc
mà
nói
rằng
tôi
phải
đứng
về
phe
các
nhà
Thần
Linh
Học
trong
vụ
tố
giác
hai
nhà
dồng
tử
Holmes.
Tôi
phải
cứu
văn
t́nh
thế,
v́
tôi
được
biệt
phái
từ
Paris
sang
Mỹ
để
chứng
minh
sự
thật
của
những
hiện
tượng
thông
linh,
và
vạch
rơ
sự
sai
lầm
của
giả
thuyết
cho
rằng
tất
cả
những
hiện
tượng
thông
linh
chỉ
là
do
tác
động
của
vong
hồn
người
chết.
Nhưng tôi có thể làm
ǵ
tốt
nhất?
Tôi
không
muốn
cho
người
ta
biết
rằng
tôi
có
thể
tạo
ra
các
hiện
tượng
tùy
ư
muốn.
Tôi
được
lịnh
phải
làm
trái
lại,
tuy
nhiên
tôi
phải
duy
tŕ
đức
tin
nơi
các
hiện
tượng
đó
trong
ḷng
của
những
người
từ
óc
duy
vật để
trở
thành
duy
linh,
nhưng
nay
v́
có
sự
tố
giác
nhiều
nhà
đồng
tử,
nên
họ
đă
quay
trở
về
với
thái
độ
hoài
nghi
của
họ
trước
kia.
Bởi
vậy,
tôi
đă
chọn
lựa
vài
tín
hữu
cùng
đi
với
tôi
đến
nhà
ông
bà
Holmes,
và
vối
sự
trợ
giúp
của
Chân
sư
M.
và
quyền
năng
của
ngài,
tôi
đă
làm
cho
những
tinh
linh
John
King
và
Katie
King
xuất
hiện
từ
cơi
vô
h́nh,
tạo
nên
những
hiện
tượng “hiện
h́nh’’, và
làm
cho
các
giới
thông
linh
ở
khắp
nơi
tưởng
rằng
đó
là
do
khả
năng
đồng
tử
của
bà
Holmes
tạo
nên.
Bà
này
đă
trải
qua
một
cơn
hoảng
sợ
khủng
khiếp, v́
bà
biết
rằng
lần
này
các
vong
linh
đă
hiện
h́nh
thật
sự!
Tôi đă làm đúng hay sai?
Thế
gian
chưa
đủ
chuẩn
bị để
hiểu
rơ
triết
lư
của
khoa
Huyền
Môn; trước hết họ hăy nhận định rằng có những
sinh vật trong cơi giới vô h́nh, dù đó là tinh linh ngũ hành hay vong linh
người chết; và con người có những quyền năng
ẩn
tang
khả
dĩ
làm
cho
họ
trở
thành
một
đấng
thần
tiên
bất
tử.
Sau
khi
tôi
qua
đời,
có
lẽ
người
ta
sẽ
nhận
thức
tấm
ḷng
vô
tư
của
tôi.
Tôi
đă
phát
nguyện
nêu
cao
Chân
Lư
để
giúp
đỡ
người
đời
trên
đường
t́m
đạo,
và
tôi
sẽ
giữ
vẹn
lời
nguyền.
Mặc
cho
người
thế
gian
vu
khống
và
phỉ
bang
tôi,
họ
có
thể
gọi
tôi
là
đồng
bóng,
phù
thủy,
bịp
bợm,
hay
là
ǵ
tùy
ư.
Một
ngày
kia, hậu
thế
sẽ
có
dịp
biết
rơ
tôi
hơn.
“Ôi!
Thế
gian
đau
khổ
và
tội
lỗi,
tôi
biết
làm
sao
hơn!’’
Toàn
thể
vấn
đề
đă
được
giải
bày
một
cách
rơ
ràng:
khoa
Pháp
Môn
mà
bà
được
lịnh
đem
truyền
bá
sang
Mỹ
để
thay
thế
khoa
Thần
Linh
Học
Tây
Phương
vốn
nặng
nề
phần
hiện
tượng
cơ
bút,
là
khoa
Huyền
Môn
của
Đông
Phương
tức
là
nền
Minh
Triết
Thiêng
liêng
hay
Brahma
Vidya.
V́
Tây
Phương
chưa
sẵn
sang
chấp
nhận
khoa
này,
nên
công
việc
đầu
tiên
được
giao
phó
cho
bà
là
bênh
vực
sự
thật
về
các
hiện
tượng
thông
linh
chống
lại
những
thành
kiến
của
khoa
học
duy
vật
và
các
giới
liên
hệ.
Vấn
đề
cần
thiết
duy
nhất
của
thời
đại
là
chặn
đứng
đánh
đổ
óc
hoài
nghi
duy
vật
và
củng
cố
nền
tảng
tâm
linh
của
mọi
sinh
hoạt
tinh
thần.
Bởi
vậy,
khi
bước
vào
ṿng
chiến,
bà
đứng
về
phe
các
nhà
Thần
Linh
Học
Mỹ,
và
tạm
thời
hăy
cất
ngọn
cờ
duy
linh
và
nêu
cao
một
lư
tưởng
chung
với
họ.
Phải,
hậu
thế
sẽ
xét
đoán
bà
một
cách
công
b́nh.
III
Tôi
c̣n
nhớ
rơ
phép
thuật
đầu
tiên
mà
bà
đă
làm
bằng
cách
sử
dụng
ư
chí,
ngay
sau
khi
bà
bắt
đầu
viết
bộ
sách “Vén
Màn
Isis
[4]’’.
Trong
số
những
quan
khách
đến
viếng
nhà
bà,
có
một
nghệ
sĩ
người
Ư,
tạm
gọi
là
ông
B (Signor B).
Tôi
đang
ngồi
với
bà
nơi
pḥng
khách
th́
ông
B. đến viếng.
Trong
câu
chuyện
trao
đổi
qua
lại
về
các
vấn
đề
của
nước
Ư,
th́nh
ĺnh
y
thốt
ra
tên
của
một
vị
Chân
Sư
trong
số
những
đấng
Cao
Cả
nhất.
Bà
HPB
giật
ḿnh
dường
như
bị
điện
giật,
nh́n
thẳng
vào
đôi
mắt
người
khách
lạ
và
nói
bằng
tiếng
Ư:
“Có việc ǵ vậy?
Tôi sẵn sàng.’’
Người kia
thản
nhiên
nói
qua
chuyện
khác, và
thảo
luận
về
các
vấn
đề
Phương
Thuật,
các
nhà
Thuật
Sĩ
và
các
đấng
Chân
Sư.
Khi ấy, ông B.
đứng dậy
mở
cửa
sổ, đưa
tay
khoát
vài
cái
trên
không
khí
bên
ngoài,
th́
một
con
bướm
trắng
liền
bay
vào
pḥng
và
bay
lượn
trên
trần
nhà.
Bà HPB cười thoải
mái
vui
vẻ
và
nói:
“Khá đấy, nhưng tôi cũng làm
được
như
vậy!’’
Bà
cũng
đến
chỗ
cửa
sổ,
khoát
tay
vài
cái
tương
tự,
th́
một
con
bướm
trắng
thứ
nh́
cũng
liền
bay
vào
pḥng.
Nó
bay
lên
trần
nhà,
đuổi
theo
con
bướm
kia
khắp
chung
quanh
pḥng,
thỉnh
thoảng
hai
con
bướm
lại
đùa
giỡn
với
nhau,
rồi
cùng
bay
đến
một
góc
pḥng
th́
cả
hai
đều
biến
mất
ngay
trước
mắt
chúng
tôi.
Tôi hỏi việc ấy nghĩa là thế
nào, th́ bà đáp:
“Nó có nghĩa là ông B. có
thể
làm
cho
một
tinh
linh
biến
thành
một
con
bướm,
và
tôi
cũng
có
thể
làm
y
như
vậy. Chỉ có thế thôi.’’
Th́
ra,
hai
con
bướm
chỉ
là
những
vật
giả
tạo
chứ
vốn
không
có
thật.
Tôi
cũng
nhớ
những
hiện
tượng
thần
thông
khác
của
bà,
do
việc
sử
dụng
khả
năng
sai
khiến
âm
binh.
Một
đêm
nọ
chúng
tôi
làm
việc
soạn
quyển
sách
của
bà
măi
đến
khuya.
Bữa
cơm
chiều
hôm
đó,
tôi
đă
ăn
vài
món
mặn,
nên
lúc
một
giờ
khuya
cảm
thấy
rất
khát
nước,
tôi
nói:
“ Chà! Bây
giờ
nếu
có
một
chum
nho
tươi
mà
ăn
th́
hay
quá,
hả?
“ À, phải đấy.
Ta hăy ăn nho đi.’’
“Nhưng
các
tiệm
đă
đóng
cửa
từ
lâu,
làm
sao
mua
được
vào
giờ
này?
Không sao.
Chúng ta vẫn có nho ăn như
thường’’
“Làm sao có, và lấy đâu ra?’’
“Rồi ông sẽ thấy. Bây giờ ông hăy vặn bấc đèn thấp xuống.’’
Tôi
vặn
thấp
ngọn
đèn
hơi,
nhưng
lỡ
tay
vặn
quá
trớn
làm
đèn
tắt.
Bà nói:
“Ông
không
cần
làm
vậy.Tôi
chỉ
muốn
ông
vặn
nhỏ
lại
thôi!
Ông hăy thắp lại
đi.’’
Tôi
thắp
đèn
sáng
trở
lại
và
hạ
bấc
đèn
thấp
xuống
chỉ
c̣n
ánh
sang
lờ
mờ.
Bà kêu lên:
“Kia ḱa!
Ông hăy
nh́n
xem!’’
Và
đưa
tay
chỉ
cái
kệ
đựng
sách
trên
vách
trước
mặt
chúng
tôi.
Tôi
vô
cùng
ngạc
nhiên
mà
thấy
treo
lủng
lẳng
nơi
hai
đầu
cái
kệ
có
hai
chum
nho
tươi
lớn,
loại
nho
đen
và
chin,
và
chúng
tôi
lấy
xuống
ăn.
Tôi
hỏi
bà
đă
dung
phương
pháp
nào,
th́
bà
nói
đó
là
do
tác
động
của
vài
loại
tinh
linh
dưới
quền
sai
khiến
của
bà.
Về
sau,
bà
đă
có
dịp
tái
diễn
phép
thuật
ấy
hai
lần
khác
nữa
để
đem
trái
cây
về
cho chúng
tôi
ăn
giải
khát
giữa
đêm
khuya
trong
khi
chúng
tôi
soạn
bộ
sách “Vén
Màn
Isis.’’
IV
Lần
lần,
Bavatsky
nói
cho
tôi
biết
về
sự
hiện
diện
của
các
Chân
Sư
cùng
những
quyền
năng
của
các
ngài,
và
bằng
vô
số
các
hiện
tượng
huyền
linh,
bà
cho
tôi
thấy
bằng
chứng
về
quyền
năng
của
bà
đối
với
những
mănh
lực
huyền
bí
trong
thiên
nhiên.
Trước
hết,
như
đă nói
ở
trên,
bà
gán
cho
âm
bing
“John
King”
vai
tṛ
tác
động
nên
các
hiện
tượng
ấy,
và
chính
nhờ
sự
trợ
giúp
của
y
mà
lần
đầu
tiên
tôi
được
tiếp
xúc
bằng
thư
từ
với
các
Chân
Sư.
Tôi
đă
ǵn
giữ
nhiều
bức
thư
cũa
các
ngài,
và
ghi
rơ
ngày
tháng
nhận
được
những
bức
thư
ấy.
Trong
nhiều
năm,
cho
đến
ngày
tôi
rời
Nữu
Ước
để
sang
Ấn
Độ,
tôi
được
kết
nạp
vào
hang
đệ
tử
đặt
dưới
quyền
chỉ
đạo
của
phân
bộ
Phi
Châu
trong
QUẦN
TIÊN
HỘI.
Về
sau,
khi
bà
HPB
có
một
sự
biến
đổi
huyền
diệu
về
tâm
linh
và
thể
chất mà
tôi
không
tiện
nói
ra,
và
cho
đến
nay
vẫn
không
ai
ngờ
mặc
dù
họ
được
đối
xử
thân
mật
và
hoàn
toàn
tin
cẩn
của
bà ( như
họ
vẫn
tưởng ),
tôi
được
thuyên
chuyển
sang
phân
chi
Ấn
Độ,
dưới
sự
chăm
sóc
điều
hành
của
một
nhóm Chân sư khác.
Từ
bao
giờ,
khắp
trên
thế
giới luôn
luôn
vẫn
có
một
tổ
chức
vĩ
đại
gồm
một
TẬP
ĐOÀN
TIÊN
THÁNH
chăm
lo
d́u
dắt
sự
tiến
hóa
của
nhân
loại.
Tổ
chức
ấy
dược
chia
làm
nhiều
phân
chi
tùy
theo
những
nhu
cầu của
nhân
loại
trong
những
giai đoạn
tuần
tự
tiến
hóa
khác
nhau.
Trong
một
thế
hệ,
trung
tâm
điều
hành
của
TẬP
ĐOÀN
TIÊN
THÁNH,
tức
QUẦN
TIÊN
HỘI,
được
đặt
ở
một
nơi
nhất
định;
vào
một
thế
hệ
khác,
trung
tâm
ấy
lại
được
đặt
ở
một
nơi
khác.
Tuy
vô
h́nh
vô
ảnh
nhưng
cần
thiết
cho
sự
tiến
bộ
tâm
linh
của
nhân
loại,
quyền
năng
phối
hợp
của
TẬP
ĐOÀN
TIÊN
THÁNH
được
duy
tŕ
từ
thế
hệ
này
sang
thế
hệ
khác
để
trợ
giúp
người
hành
giả
chiến
đấu
không
ngừng
trên
con
đường
Đạo
xa
xôi
diệu
vợi
đưa
đến
Chân
Lư
thiêng
liêng. Kẻ
hoài
nghi
phủ
nhận
sự
hiện
diện
của
các
đấng
Tiên
Thánh
bởi
v́
họ
không
nh́n
thấy
hay
nói
chuyện
với
các
ngài,
cũng
không
hề
thấy
lịch
sử
nói
về
sự
can
thiệp
hữu
vi
của
các
ngài
trong
những
biến
cố
của
các
quốc
gia.
Nhưng
sự
hiện
diện
của
các
ngài
đă
được
nh́n
nhận
bởi
hang
ngh́n
những
bậc
đạo
gia
chân
tu
của
nhiều
thế
hệ
lien
tục,
đă
giải
thoát
khỏi
sự
ô
nhiễm
của
cuộc
đời
thế
gian
để
bước
vào
cơi
giới
tâm
linh
huyền
diệu.
Trong
nhiều
thời
kỳ,
các
ngài
đă
từng
giao
tiếp
thân
mật
với
những
người
chỉ
nguyện
xă
thân
cầu
Đạo,
hoặc
dành
trọn
cuộc
đời
phụng
sự
hiến
dâng
để
đem
lại
hạnh
phúc
và
t́nh
thương
trong
muôn
loài.
Vài
người
trong
số
đó,
rất
mực
khiêm
tốn
và
bề
ngoài
có
vẻ
kém
hèn
như
chúng
tôi
là
những
người
lănh
đạo
phong
trào
THÔNG
THIÊN
HỌC,
đă
có
diễm
phúc
được
sự
ưu
ái
và
chỉ
giáo
của
các
ngài.
Vài
người
như
bà
Blavatsky
và
sư
đệ
Damodar
đă
được
nh́n
thấy
ngài
trong
những
cơn
linh
ảnh
từ
khi
c̣n
nhỏ.
Những
người
khác
đă
gặp
các
ngài
dưới
những
h́nh
dáng
ngụy
trang
lạ
lùng
ở
những
nơi
thật
bất
ngờ.
Tôi
được
bà
Blatsky
giới
thiệu
cho
các
ngài
xuyên
qua
nhân
vật
trung
gian
quen
thuộc
trong
những
kinh
nghiệm
trước
đây:
đó
là
vong
linh
mệnh
danh “John
King”.
Y
giúp
tôi
giao
tiếp
bằng
phương
tiện
Vô
Vi
với
bốn
vị
Chân
Sư,
trong
số
đó
có
một
vị
Chân
Sư
Ai
Cập,
một
vị
là
đại
diện
của
môn
phái
Alexandrie,
một
vị
là
Chân
Sư
Venitien,
và
một
là
hậu
thân
của
một
triết
gia
người
Anh,
tuy
đă
qua
đời
nhưng
vốn
bất
tử.
Chân
Sư
Serapis (Ai
Cập)
là
vị
Sư
Phụ
đầu
tiên
của
tôi,
ngài
có
một
tác
phong
hào
hung
dũng
cảm
và
đầy
vẻ
cương
nghị
của
một
người
trội
hẳn
phần
nam
tính.
Về
sau,
tôi
được
các
Chân
Sư cho
biết
rằng
bà
Blavatsky
là
một
đệ
tử
trung
kiên
của
các
ngài,
tuy
rằng
bà
có
những
tính
chất
bất
thường,
làm
cho
bà
khó
dung
ḥa
được
với
vài
vị
Chân
Sư
để
có
thể
làm
việc
chung
với
các
ngài.
Điều
này
không
lạ
ǵ
khi
ta
biết
rằng
mỗi
người
đều
tiến
hóa
theo
một
Cung
nhất
định
trong
Thiên
Cơ.
Họ
có
sự
ḥa
hợp
tâm
linh
với
những
linh
hồn
đồng
Cung
với
ḿnh,
và
có
thể
đối
nghịch
với
những
linh
hồn
thuộc
về
một
Cung
khác
khi
khoác
lấy
xác
phàm
để
hoạt
động
trên
cơi
hồng
trần
hạ
giới.
Đó
có
lẽ
là
cái
lư
do
căn
bản
của
mọi
sự
ḥa
hợp
hay
xung
khắc
giữa
người
nọ
với
người
kia
trên
thế
gian.
Dù
sao,
vài
vị
Chân
Sư
không
thể
làm
việc
chung
với
bà
Blavatsky.
Bà
chỉ
hợp
tác
được
với
những
vị
khác,
mà
tôi
có
liên
hệ
mật
thiết
trong
những
năm
đầu
của
phong
trào
Thông
Thiên
Học
thế
giới.
Trong
những
chuyện
tâm
sự
với
nhau
khi
tôi
đă
đi
khá
sâu
vào
vấn
đề
để
biết
về
QUẦN
TIÊN
HỘI
và
mối
liên
hệ
của
bà
với
cơ
quan
ấy,
bà
HPB
(
tên
viết
tắt
của
bà
Blavatsky )[5]
nói
cho
tôi
biết
rằng
bà
đă
đến
Paris
từ
năm
trước ( 1873)
với
ư
định
ở
lại
đó
ít
lâu
dưới
sự
bảo
trợ
của
một
người
thân
quyến,
nhưng
một
ngày
nọ
bà
nhận
được
mật
lệnh
của
Chân
Sư
truyền
cho
bà
phải
đi
ngay
sang
New
York
để
chờ
lệnh
mới.
Qua
ngày
hôm
sau,
bà
liền
vượt
biển
trùng
dương
với
chỉ
vừa
đủ
số
tiền
để
mua
vé
tàu.
Bà
viết
thư
cho
cha
ở
bên
Nga
yêu
cầu
ông
gửi
tiền
cho
bà
qua
Lănh
Sự
Quán
Nga
ở
New
York,
nhưng
v́
phải
chờ
đợi
một
thời
gian,
và
v́
viên
Lănh
Sự
Nga
từ
chối
không
cho
bà
mượn
trước,
nên
bà
phải
t́m
việc
làm
để
sống
qua
ngày.
Bà
ở
tại
trong
những
khu
phố
nghèo
nàn
nhất
là
khu
Madison
của
thành
phố
New
York,
và
sống
bằng
nghề
may
thuê
vá
mướn
cho
một
lăo
chủ
tiệm
tạp
hóa
người
Do
Thái
rất
tốt
bụng.
Bà
luôn
luôn
nhắc
đến
người
này
với
một
ḷng
biết
ơn.
Bà
sống
như
vậy
lây
lất
qua
ngày,
nhưng
vẫn
chưa
nhận
được
tin
ǵ
và
tương
lai
hoàn
toàn
mờ
mịt.
Nhưng
năm
sau,
tháng
10
năm
1874,
bà
được
mật
lệnh
đi
đến
Chittenden
để
gặp
một
người
đồng
môn
sẽ
cùng
cộng
tác
với
bà
trong
một
công
việc
vĩ
đại
trong
tương
lai:
người
ấy,
ai
ngờ
chính
lại
là…
tôi.
Những
bạn
bè
thân
hữu
của
bà
đều
nhớ
rơ
câu
chuyện
mà
bà
đă
kể
cho
họ
nghe
về
sự
lên
đường
ra
đi
bất
ngờ
của
bà
từ
Paris
sang
New
York
theo
mật
lệnh
của
Chân
Sư.
Nhưng
những
người
bạn
thân
ấy
chỉ
nghe
bà
kể
lại
măi
về
sau
mà
thôi,
và
những
kẻ
thù
nghịch
với
bà
có
thể
nói
rằng
đó
chỉ
là
một
việc
mà
bà
mới
nghĩ
ra
sau
này,
một
chuyện
giả
dối
được
bịa
đặt
ra
để
cho
ăn
khớp
với
cái
tṛ
đùa
ngộ
nghĩnh
mà
bà
ngụy
tạo
ra
sau
đó.
Tuy
nhiên,
trong
khi
tôi
viết
những
trang
này
tại
Adyar
th́
một
việc
t́nh
cờ (nếu
đó
là
do
sự
t́nh cờ)
vừa
đem
đến
cho
tôi
một
bằng
chứng
xác
nhận
sự
việc
trên.
Vừa
đến
lưu
trú
tại
Adyar,
có
bà
Anna
Ballard,
một
nữ
kư
giả
lăo
thành
người
Mỹ,
hội
viên
kỳ
cựu
của
Câu
Lạc
Bộ
Báo
Chí
thành
phố
New
York.
Do
hoạt
động
nghề
nghiệp,
bà
này
đă
từng
đến
phỏng
vấn
bà
Blavatsky
trong
tuần
lễ
đầu
tiên
sau
khi
bà
HPB
vừa
đổ
bộ
lên
đất
Mỹ.
Trong
khi
tiếp
xúc
với
chúng
tôi,
bà
Ballard
ngẫu
nhiên
nói
cho
tôi
nghe
hai
chuyện,
mà
tôi
liền
yêu
cầu
bà
viết
lại
trên
giấy
trắng
mực
đen
để
làm
tài
liệu.
Điều
thứ
nhất
là
khi
bà
đến
viếng
HPB
ở
một
nơi
nhà
trọ
nghèo
nàn
tại
New
York,
bà
HPB
có
nói
rằng
bà
từ
giă
Paris
th́nh
ĺnh
và
không
có
dự
tính
trước,
do
một
quyết
định
đột
xuất
chỉ
báo
trước
có
một
ngày;
và
việc
kế
đó
là
bà
HPB
đă
từng
viếng
xứ
Tây
Tạng.
Dưới đây
là
lời
tường
thuật
của
bà
Anna
Ballad:
Adyar, 17
tháng
1,
1892
Kính gởi
Đại
Tá
Olcott,
Sự
quen
biết
của
tôi
với
bà
Blavatsky
c̣n
lâu
hơn
là
ông
tưởng.
Tôi
gặp
bà
hồi
tháng
7
năm
1873
tại
New
York,
độ
một
tuần
lễ
sau
khi
bà
vừa
cặp
bến.
Hồi
đó,
tôi
là
phóng
viên
của
nhật
báo
New
York
Sun,
được
chỉ
định
viết
một
bài
về
một
đề
tài
Nga.
Khi
tôi
c̣n
đang
t́m
tài
liệu,
th́
một
người
bạn
cho
tôi
hay
rằng
có
một
phụ
nữ
Nga
vừa
nhập
cảnh
do
chuyến
tàu
mới
đến.
Tôi
bèn
t́m
đến
gặp
bà,
và
từ
đó
bắt
đầu
một
sự
quen
biết
thân
hữu
kéo
dài
đến
nhiều
năm
sau.
Trong
cuộc
phỏng
vấn
đầu
tiên
của
tôi,
bà
HPB
cho
tôi
biết
rằng
bà
không
hề
có
ư
định
rời
Paris
để
sang
Mỹ
cho
đến
ngày
cuối
cùng
trước
khi
bà
xuống
tàu,
nhưng
v́
lư
do
ǵ
bà
ra
đi
và
ai
thúc
hối
bà
đi
gấp
như
vậy,
th́
bà
không
nói.
Tôi
c̣n
nhớ
rơ
bà
nói
với
một
vẻ
sung
sướng
khoái
trá
lộ
ra
mặt:
“Tôi
có
ở
bên
Tây
Tạng.”
Hồi
đó,
tôi
không
hiểu
tại
sao
bà
lại
cho
đó
là
một
vấn
đề
quan
trọng,
c̣n
đặc
biệt
hơn
những
chuyến
du
hành
ở
Ai
Cập,
Ấn
Độ
và
những
nước
khác
mà
bà
đă
kể
chuyện
cho
tôi
nghe,
nhưng
bà
lại
nói
câu
ấy
với
một
vẻ
mặt
nghiêm
trọng
lạ
thường.
Bây
giờ
th́,
lẽ
tất
nhiên,
tôi
hiểu
ư
bà
muốn
nói
ǵ.
Kư
tên:
Anna
Ballard.
Độc
giả
sẽ
nhận
thấy
rằng
những
sự
việc
mà
bà
HPB
đă
kể
cho
người
bạn
đầu
tiên
này
ỏ
New
York
hồi
hai
mươi
năm
về
trước,
đă
xác
nhận
đúng
đắn
những
ǵ
mà
từ
đó
về
sau
bà
cũng
đă
thuật
lại
với
một
số
đông
người,
về
hai
vấn
đề
quan
trọng
nhất
trong
lịch
sử
lien
hệ
giữa
bà
với
hội
Thông
Thiên
Học,
là:
1._
Giai
đoạn
chuẩn
bị
của
bà
bên
xứ
Tây
Tạng
dưới
sự
chăm
sóc
của
các
đấng
Chân
Sư;
và
2._
Cuộc
hành
tŕnh
của
bà
đột
xuất
sang
Mỹ
để
t́m
người
bạn
đồng
môn
có
nghiệp
duyên
cùng
hợp
tác
với
bà
để
phát
động
phong
trào
Thông
Thiên
Học
trên
thế
giới.
Hồi
năm
1871,
bà
đă
có
một
lần
thất
bại
khi
mưu
tính
thành
lập
một
Cơ
Quan
Tinh
Thần
tại
Cairo,
thủ
đô
Ai
Cập,
dựa
trên
nền
tảng
các
hiện
tượng
thần
linh.
V́
không
t́m
được
người
có
đủ
khả
năng
tổ
chức
và
lănh
đạo,
nên
việc
ấy
không
thành;
nó
đă
đem
đến
cho
bà
nhiều
sự
chỉ
trích
và
bực
ḿnh. Tuy
nhiên,
những
phép
thuật
thần
thong
mà
bà
đă
biểu
diễn
với
sự
trợ
giúp
của
các
vị
Chân
Sư
Ai
Cập
và
một
vị
Chân
Sư
khác
mà
về
sau
tôi
được
dịp
tiếp
xúc,
đều
là
những
hiện
tượng
vô
cùng
độc
đáo.
Việc
ấy
có
vẻ
như
một
sự
hoang
phí
thần
lực
một
cách
vô
ích,
và
cho
thấy
công
tŕnh
nầy
dường
như
thiếu
sự
hướng
dẫn của
thiêng
liêng.
Tôi
không
thể
hiểu
tại
sao
sự
việc
lại
xảy
ra
như
vậy.
Nói
về
hội
Thông
Thiên
Học
th́
mọi
sự
diễn
biến
đều
chỉ
rằng
nó
có
một
lịch
tŕnh
tiến
hóa
tuần
tự,
và
bị
chi
phối
bởi
hoàn
cảnh
do
tác
động
của
những
sức
mạnh
tương
phản.
Khi
th́
sinh
hoạt
êm
ái
điều
ḥa,
khi
th́
trải
qua
những
cơn
song
gió
ồ
ạt,
Hội
được
thịnh
vượng
hay
bị
trầm
trệ
tùy
theo
sự
quản
trị
thông
minh
sáng
suốt
hay
kém
khôn
ngoan
của
các
nhà
lănh
đạo.
Đường
lối
đại
cương
của
Hội
vẫn
luôn
luôn
được
ǵn
giữ,
phương
châm
hướng
dẫn
bao
giờ
cũng
vẫn
đồng
nhất,
nhưng
chương
tŕnh sinh
hoạt
của
nó
đôi
khi
được
sửa
đổi,
nới
rộng
hay
cải
tiến
một
cách
linh
động,
uyển
chuyển
tùy
theo
kiến
thức
và
kinh
nghiệm
của
chúng
ta.
Mọi
sự
đều
chứng
minh
cho
tôi
thấy
rằng
phong
trào
Thông
Thiên
Học
nói
chung
đă
được
các
bậc
Tiên
Thánh
chuẩn
bị
từ
trước,
nhưng
c̣n
tất
cả
mọi
chi
tiết
đều
để
cho
chúng
ta
thực
hiện
với
sự
cố
gắng
tối
đa.
Nếu
chúng
ta
thất
bại
th́
cái
cơ
hội
quư
báu
mà
Nghiệp
Quả
đă
dành
cho
chúng
ta
sẽ
rơi
vào
tay
người
khác,
cũng
như
hiện
nay
tôi
là
người
thừa
kế
những
cơ
hội
lỡ
làng
mà
nhóm
tín
hữu
của
bà
Blavatsky
đă
bỏ
dở
không
thực
hiện
được tại
Cairo
hồi
năm
1871.
Trong
thưở
ban
đầu,
tôi
không
hề
nghe
bà
Blavatsky
nói
ǵ
ngụ
ư
rằng
bà
đă
được
cho
biết
trước ,
cho
đến
khi
bà
được
lịnh
đi
đến
Chittenden
để
gặp
tôi,
về
việc
chúng
tôi
sẽ
cùng
cộng
tác
với
nhau
trong
tương
lai,
hay
là
về
việc
thành
lập
hội
Thông
Thiên
Học
thế
giới.
Chúng
tôi
chỉ
nghe
bà
nói,
như
đă
kể
trên,
rằng
bà
được
gởi
từ
Paris
đi
New
York
với
mục
đích
truyền
bá
giáo
lư
Huyền
Môn,và
trước
khi
chúng
tôi
gặp
nhau,
bà
đă
từng
tham
dự
những
buổi
họp
đàn
và
tiếp
xúc
với
các
đồng
tử
nhưng
vẫn
c̣n
ẩn
mặt
chứ
chưa
hề
được
công
chúng
biết
đến.
Tháng
5
năm
1875,
với
sự
đồng
ư
của
bà
HPB,
tôi
bắt
tay
vào
việc
tổ
chức
một
nhóm
thân
hữu
chuyên
khảo
cứu
về
Khoa
Học
Huyền
Bí,
lấy
tên
là
Câu
Lạc
Bộ
Huyền
Linh ( Miracle
Club ).
Trong
một
đoạn
kư
sự
về
việc
này,
bà
viết
như
sau:
“Đó
là
một
mưu
toan
do
lệnh
dạy của
T. B. (một
vị
Chân
Sư),
nhận
được
qua
trung
gian
của
P. (một
tinh
linh)
mệnh
danh
John
King.
Được
lệnh
phải
bắt
đầu
nói
cho
công
chúng
biết
sự
thật
về
các
hiện
tượng
và
các
đồng
tử.
Thế
là
cuộc
pháp
nạn
của
tôi
sẽ
bắt
đầu!
Tôi
sẽ
gặp
phải
sự
chống
đối
của
các
nhà
Thần
Linh
Học,
thêm
vào
sự
thù
nghịch
của
bên
Cơ
Đốc
Giáo
và
những
kẻ
hoài
nghi.
Ôi ! Chân
Sư
M.,
ư
muốn
của
Sư
Phụ
sẽ
phải
được
thực
hiện.
HPB.”
Câu
lạc
bộ
này
được
dự
định
sẽ
nhóm
riêng,
không
thâu
nhận
người
ngoài
trừ
ra
những
thành
viên
của
nhóm,
và
họ
cũng
bị
ngăn
cấm
không
được
tiết
lộ
nơi
họp.
Bà viết
thêm:
“Tất
cả
những
hiện
tượng
Thần
Linh,
gồm
cả
các
sự
hiện
h́nh,
đều
sẽ
diễn
ra
dưới
ánh
sáng, và
sẽ
không
sử
dụng
một
pḥng
tối.”
Theo
lời
bà
nói
như
trên,
th́
dường
như
sẽ
không
có
Hội
Thông
Thiên
Học,
nếu
rốt
cuộc
người
đồng
tử
của
Nhóm
Huyền
Linh
không
hoàn
toàn
suy
thoái
rồi
rút
lui
và
tôi
đành
bỏ
dở
không
thể
hoàn
thành
công
việc
ấy.
CHƯƠNG
HAI
VÀI NÉT ĐẶC THÙ
CỦA
BÀ
BLAVATSKY
Trong chương
một , chúng
tôi có
nói rằng
bà HPB
được lệnh
của Chân
Sư phải
rời Paris
đi New
York một
cách đột
ngột, do
tin báo
trước chỉ
có một
ngày, và
khi đó
bà chỉ
có vừa
đủ tiền
để mua
vé tàu.Tôi
c̣n nhớ
một việc
liên hệ
đến chuyến
đi ấy
do bà
thuật lại,
việc ấy
cũng biểu
lộ một
nét đặc
biệt trong
tính chất
đa dạng
của bà,
ấy là
tính hào
sảng tự
nhiên.
Bà đă
mua một
vé tàu
hạng nhất
đi từ
Havre đến
New York,
và khi
ra bến,
bà nh́n
thấy một
phụ nữ
nhà quê
ngồi bên
vỉa hè
vừa ôm
con vừa
khóc rất
thảm thiết.
Bà bước
đến gạn
hỏi th́
được biết
rằng đó
là một
phụ nữ
Đức định
xuống tàu
để sang
gặp chồng
ở bên
Mỹ, nhưng
bị một
kẻ gian
đă bán
vé giả
cho bà
ta ở
Hambourg. Thế
là khi
đến đây,
bà ấy
bị bơ
vơ, lạc
lơng, không
tiền bạc
và tứ
cố vô
thân nơi
đất khách.
Lẽ tự
nhiên, Công
Ty Hàng
Hải cũng
không làm
ǵ được.
Động ḷng trắc
ần, bà
HPB nói:
“Chị hăy
yên tâm,
để tôi
xem có
cách nào
giúp chị
được không?”
Kế đó,
bà vận
dụng tất
cả mọi
khả năng
hùng biện,
hết thuyết
phục rồi
đến quở
trách người
đại diện
Công Ty,
nhưng rốt
cuộc vẫn
không có
kết quả.
Sau cùng,
v́ bà
không có
đủ tiền
để trợ
giúp người
phụ nữ
bất hạnh
ấy nên
bà phải
dùng đến
phương sách
tối hậu,
chứ không
c̣n cách
nào khác.
Bà liền
đổi vé “cabin’’
hạng nhất
của bà
thành vé
hạng chót,
nằm dưới
hầm tàu,
và dùng
số tiền
sai biệt
để mua
vé hạng
chót luôn
cho cả
hai mẹ
con người
đàn bà
kia!
Nhiều người
thuộc loại
“nề nếp”, “mực
thước,” thường tỏ
ra hoang
mang kinh
ngạc v́
những cử
chỉ ngang
tàng ngáo
ngổ và
cả những
điều sống
sượng bất
nhă nữa
của bà
HPB, nhưng
tôi nghĩ
rằng một
cử chỉ
hy sinh
hào phóng
như vậy
cũng
đủ làm
nghiêng lệch
đ̣n cân,
và quét
sạch tất
cả những
ǵ gọi
là bất
lịch sự
trong phép
xă giao
của người
đời! Ai
không tin,
hăy thử
xuống nằm
dưới hầm
tàu chở
dân di
trú một
lần th́
biết!
Trên đây
có nói
trong trường
hợp nào
nữ kư
giả Ballard
đến gặp
bà HPB
tại một
ngôi nhà
trọ nghèo
nàn ở
một khu
phố b́nh
dân của
thành phố
New York
trong khi
bà c̣n
chờ đợi
tiền nhà
và phải
làm việc
may thuê
vá mướn
để sống
tạm qua
ngày. Đó là vào
tháng 7,
năm 1873.
Tháng mười
năm ấy,
bà nhận
được một
bức điện
tín từ
Stavropol ( Nga ) của
cô em
gái là
Elise, cho
biết tin
phụ thân
bà từ
trần và
có để
lại cho
bà một
phần gia
tài. Cô
em cho
biết thêm
rằng một
ngân phiếu
một ngàn
Nga Kim (roubpes)
đă được
gửi cho
bà. Sau
đó ít
lâu, bà
nhận được
tiền và
dời chỗ
ở đến
một khu
phố khang
trang lịch
sự hơn,
ở đường
East 16th,
công trường
Irving, New
York. Chính
ở địa
chỉ này
mà tôi
đến gặp
bà sau
khi từ
nông trại
Eddy trở
về. Tuy
nhiên, số
tiền ấy
không ở
với bà
được lâu,
v́ như
ông Sinett
dă nhận
xét và
ghi lại
trong quyển
sách của
ông (về
tiểu sử
của bà
HPB) th́
một mặt
bà có
thể chịu
đựng một
cách vô
cùng nhẫn
nhục những
cơn nghèo
túng và
nghịch cảnh
khó khăn,
nhưng khi
tiền bạc
vừa đến
tay bà,
th́ bà
dường như
lấy làm
băn khoăn
khổ sở
trừ khi
bà đem
vứt quăng
đi với
cả hai
tay bằng
những phương
tiện dại
dột nhất.
Đó là
một cuộc
chung vốn
làm ăn
có kư
hợp đồng
để khai
thác nông
trại của
một người
tên là
C.G. trong
một kỳ
hạn là
ba năm.
Trong bản
hộp đồng
có điều
khoản quy
định rằng
bà HPB
sẽ bỏ
ra số
tiền một
ngàn đô
la để
chung vốn,
tất cả
những lợi
tức thu
hoạch được
về hoa
màu, rau
trái, gà
vịt, và
nhũng hoa
lợi linh
tinh khác
sẽ được
chia đều
và mọi
phí tổn
cũng sẽ
cùng gánh
chịu đều
nhau, v..v…
Điều mà
người ta
có thể
tiên liệu
trước đă
xảy ra:
bà HPB
đến ở
tại nông
trại, lợi
tức đâu
chẳng thấy,
đâm ra
tranh chấp,
căi lẫy,
rồi mắc
nợ
và vướng
vào một
vụ kiện
mà rất
lâu về
sau các
bạn bè
thân hữu
của bà
mới giúp
bà giải
quyết xong.
Thế là
tan tành
cái giấc
mộng về
lợi tức
của bà
về rau
trái, hoa
màu, nuôi
ḅ sữa,
gà đẻ
trứng, v..v…Ba tháng
sau đó,
tôi mới
gặp bà
tại ngôi
nhà có
hồn ma
hiện h́nh
ở tại
Vemont, Chittenden, và
bánh xe
nghiệp quả
của chúng
tôi mới
bắt đầu
chuyển động.
Những bài
phóng sự
của tôi
đăng trên
nhật báo
Daily Graphic
đă hấp
dẫn đến
Chittenden một
vị lương
y danh
tiếng của
thành phố
New York,
bác sĩ
Beard. Khi
trở về,
y đă
viết một
bài b́nh
phẩm ngu
xuẩn và
khoác lác
đăng trên
báo, nói
rằng những
chuyện hồn
ma hiện
h́nh ở
nông trại
Eddy chỉ
là những
tṛ giả
mạo, và
y đă
bị bà
HPB “cạo sát
da” trong
một bức
thư trả
lời nảy
lửa gởi
đến ṭa
soạn báo
Graphic. Bức
thư của
bà là
một sự
biện hộ
can đảm
và độc
đáo bênh
vực cho
những đồng
tử Eddy
và sự
thật của
những hiện
tượng xảy
ra, làm
cho bà
đột nhiên
vang dậy
tên tuổi
khắp các
giới kể
từ đó
trở về sau.
Đây là
lần đầu
tiên mà
quần chúng
Mỹ được
nghe tên
tuổi bà
liên quan
dến những
vấn
đề huyền
linh, và
cuộc tranh
luân với
một bác
sĩ nổi
tiếng ở
New York
thời ấy
là cái
nguyên nhân
chính làm
cho bà
được nổi
danh một
cách bất
ngờ.
Hồi
đó,
bà
luôn
luôn
phát
ngôn
với
một
giọng
sôi
nổi,
hào
hùng
và
vui
nhộn
trong
tất
cả
mọi
cuộc
đàm
thoại
và
trên
diễn
đàn
ngôn
luận,
báo
chí;
bà
thu
hút
mọi
người
bằng
cách
nói
chuyện
linh
động
và
ư
nhị;
khinh
bỉ
những
nghi
thức
xă
giao
giả
dối
của
người
đời,
và
gây
sự
ngạc
nhiên
trong
các
giới
bằng
những
quyền
năng
thần
bí
của
bà.
Bà
thường
rút
trong
cái
kho
tang
kư
ức
vô
cùng
dồi
dào
phong
phú
về
những
chuyện
phiêu
lưu
mạo
hiểm
mà
bà
đă
trài
qua
do
kinh
nghiệm
bản
thân,
và
trong
kho
kiến
thức
thâm
sâu
về
khoa
Huyền
Môn,
mà
theo
chỗ
tôi
biết
th́
không
ai
có
thể
b́
kịp
trong
số
các
nhân
vật
xuất
hiện
ở Mỹ
thời
bấy
giờ.
Khi
tôi
đă
kết
thúc
loạt
bài
phóng
sự
đăng
trên
báo
Daily
Graphic
về
các
hiện
tượng
thần
linh
ở
Chittenden,
tôi
bèn
chuẩn
bị
in
ra
thành
sách.
Vào
lúc
này,
bà
HPB
cũng
dời
chỗ
đến
ở
Philadelphia.
Hồi
đó,
khoa
Thần
Linh
Học
đang
trải
qua
một
giai
đoạn
xuống
dốc
do
hậu
quả
của
việc
đồng
tử
Holmes
bị
nhà
bác
học
Dale
Owen
công
khai
tố
giác
là
dối
trá,
bịp
bợm.
Những
cơ
quan
ngôn
luận
của
phong
trào
bị
mất
độc
giả
rất
nhiều,
những
sách
vở
Thần
Linh
Học
sang
giá
nhất
đều
bị
mất
khách
hang
và
nằm
trong
các
nhà
sách
không
ai
mua. Nhà
xuất
bản
quyển
sách
của
tôi
bị
giao
động
tinh
thần
dến
nỗi
tôi
phải
đề
nghị
vối
ông
Dale
Owen
và
bà
đồng
tử
Holmes
mở
một
cuộc
trắc
nghiệm
dài
hạn
dưới
những
điều
kiện
của
tôi
đưa
ra
để
chúng
tôi
thực
hiện
những
cuộc
thử
thách
này
tại
nhà
ông
bà
Holmes.
Sau
đó,
tôi
đến
Havana,
tiểu
bang
New
York,
và
chứng
kiến
những
hiện
tượng
đồng
tử
thật
là
kỳ
diệu
của
bà
Compton.
Tất
cả
những
cuộc
khảo
sát
trên
đây
đều
được
tường
thuật
lại
đầy
đủ
trong
quyển
sách
của
tôi
nhan
đề
“Người
về
từ
cơi
âm”
và
sau
cùng
nó
được
đem
phát
hành.
II
Trong
khi
bà
HPB
ở
Philadelphia,
tôi
nhận
lời
mời
của
bà
và
đến
đó
ở
nghỉ
vài
ngày
sau
một
thời
gian
làm
việc
mệt
nhọc.
Tôi
định
đi
vắng
nhà
có
vài
ngày
thôi
nên
không
dặn
người
nhà
và
văn
pḥng
Luật
chuyển
thơ
từ
cho
tôi,
nhưng
khi
đến
nơi
tôi
mới
biết
bà
không
muốn
để
tôi
về
sớm
như
vậy.
Qua
ngày
hôm
sau,
tôi
đến
Sở
Bưu
Điện,
và
yêu
cầu
họ
đem
thư
tù
của
tôi
nếu
có,
đến
địa
chỉ
của
tôi
đang
ở.
Khi
đó
th́
xảy
ra
một
việc
làm
tôi
ngạc
nhiên,
v́
hồi
đó
tôi
chưa
được
biết
nhiều
về
những
quyền
năng
thần
thông
của
các
Chân
Sư
và
bà
HPB
và
chí
đến
bây
giờ
đối
với
tôi,
nó
vẫn
c̣n
là
một
kỳ
quan
lạ
lung
dẫu
rằng
tôi
đă
từng
trải
qua
một
thời
kỳ
kinh
nghiệm
lâu
dài
về
các
hiện
tượng
huyền
linh.
Ngay
chiều
hôm
đó,
người
đem
thơ
đem
đến
cho
tôi
vài
bức
thơ
gởi
từ
ngoại
quốc,
ngoài
bao
thơ
đề
địa
chỉ
của
tôi
ở
New
York,
có
đóng
dấu
các
trạm
bưu
điện
xuất
xứ
nhưng
KHÔNG
CÓ
CON
DẤU
CỦA
SỞ
BƯU
ĐIỆN
THÀNH
PHỐ
NEW
YORK.
Bất
chấp
mọi
luật
lệ
của
quy
tắc
bưu
điện,
những
bức
thư
đó
đă
được
giao
thẳng
đến
tay
tôi
ở
Philadelphia
mà
không
đi
qua
Sở
Bưu
Điện
thành
phố
New
York.
Ở
New
York
không
ai
biết
địa
chỉ
của
tôi
tại
Philadelphia
v́
chính
tôi
cũng
không
biết
khi
tôi
rời
khỏi
nhà
ra
đi.
Khi
mở
các
bao
thơ,
tôi
thấy
trên
các
thơ
đều
có
những
gịng
chữ
viết,
đúng
là
tuồng
chữ
trên
những
bức
thơ
của
các
Chân
Sư
mà
tôi
đă
nhận
được
ở
New
York
trước
đây,
những
gịng
chữ
này
được
viết
hoặc
ở
ngoài
lề,
hoặc
ở
những
khoảng
trống
trong
thơ
của
những
người
giao
dịch
với
tôi.
Những
gịng
chữ
đó
hoặc
b́nh
phẩm
về
tính
hạnh
hay
ư
đồ
của
các
đương
sự,
hoặc
là
những
lời
khuyên
có
liên
quan
đến
vấn
đề
học
Đạo
của
tôi.
Việc
ấy
mở
màn
cho
toàn
thể
một
loạt
những
hiện
tượng
kỳ
diệu
khác
nữa
trong
khoảng
thời
gian
độ
hai
tuần
mà
tôi
trải
qua
tại
Philadelphia.
Phân
tích
những
hiện
tượng
thần
thông
của
bà
HPB,
hoặc
có
liên
quan
đến
bà,
chúng
tôi
nhận
thấy
chúng
có
thể
được
chia
làm
nhiều
loại,
mà
khả
năng
tạo
nên
những
iện
tượng
đó
đ̣i
hỏi
một
sự
hiểu
biết
về
những
điều
sau
đây:
_
Biết
rơ
những
năng
dụng
rốt
ráo
của
vật
chất,
mănh
lực
kết
cấu
các
nguyên
tử,
nhất
là
sự
hiểu
biết
về
tiềm
năng
của
chất
TINH
QUANG
hay
TIÊN
THIÊN
KHÍ (Akâsha).
_
Khả
năng
tác
động
của
các
Tinh
Linh
Ngũ
Hành
khi
đặt
dưới
ư
chí
điều
khiển
của
con
người.
_
Quyền
năng
sáng
tạo
của
tư
tưởng , có
thể
dùng
thuật
thôi
mien
tạo
ra
những
ảo
giác
mắt
thấy, tai
nghe
và xúc
cảm
những
điều
mà
thật
ra
vốn
không
có.
_
Khả
năng
phóng
xuất
h́nh
ảnh
hay
chữ
viết
bằng
sức
mạnh
của
ư
chí.
_Khả
năng
đọc
tư
tưởng
của
người
khác,
và
thần
nhăn
nh́n
thấy
quá
khứ
vị
lai.
_
Khả
năng
thần
giao
cách
cảm
tùy
ư
muốn
giữa
ḿnh
với
những
nhân
vật
ngang
hàng
hoặc
cao
hơn
ḿnh
về
tŕnh
độ
phát
triển
tâm
linh.
_
Khả
năng
đọc
được
Kư
Ức
của
Thiên
Nhiên,
ẩn
tang
trong
chất
Tinh
Quang
hay
Tiên
Thiên
Khí
nơi
đó
chứa
đựng
tất
cả
những
kho
tang
hiểu
biết
của
con
người.
Hồi
tưởng
lại
những
nhận
xét
của
tôi
trong
hai
chục
năm
qua,
tôi
nghĩ
rằng
tất
cả
những
chuyện
mà
tôi
đă
từng
kể,
hay
sẽ
thuật
lại
trong
quyển
sách
này,
sẽ
thuộc
về
một
trong
những
loại
kể
trên.
Những
kẻ
hoài
nghi
chắc
sẽ
nói
rằng
sự
phân
loại
như
trên
có
vẻ
độc
đoán
và
những
giả
thuyết
của
tôi
là
hăo
huyền.
Họ
sẽ
yêu
cầu
tôi
chứng
minh
sự
thật
về
các
Tinh
Linh
Ngũ
Hành;
về
hiện
tượng
thần
nhăn;
về
sự
chuyển
di
đồ
vật
xuyên
qua
không
gian;
về
sức
mạnh
hấp
dẫn
và
kết
cấu
các
nguyên
tử,v..v… Tôi
chỉ
có
thể
thuật
lại
những
điều
mà
tôi
và
nhiều
người
khác
đă
nh́n
thấy,
và
thách
đố
kẻ
hoài
nghi
t́m
ra
được
trong
cơi
thiên
nhiên
bất
cứ
một
định
luật
nào
ngoài
ra
những
điều
đă
nêu
trên
để
giải
thích
các
sự
kiện
không
thể
chối
căi.
C̣n
nếu
người
ta
cho
rằng
đó
là
phép
lạ,
hay
ma
thuật,
th́
chừng
đó
tôi
sẽ
ngậm
miệng,
v́
điều
đó
chận
đứng
mọi
cuộc
tranh
luận.
Tôi
không
tự
hào
có
thể
giải
thích
tất
cả
những
hiện
tượng
thần
thông
của
bà
HPB,
v́
điều
ấy
đ̣i
hỏi
một
tŕnh
độ
hiểu
biết
ít
nhất
là
tương
đương
với
bà
là
điều
mà
tôi
không
bao
giờ
có.
III
Những
ngày
mà
tôi
trải
qua
ở
Philadelphia
đều
bận
rộn
với
việc
học
Đạo
và
chứng
kiến
những
hiện
tượng
thần
thông
của
bà
HPB.
Ngoài
ra,
tôi
c̣n
có
một
số
bạn
bè
thân
hữu,
và
bà
đă
làm
những
phép
thuật
huyền
linh
này
trước
mặt
mọi
người.
Trong
số
những
phép
thuật
đó,
tôi
c̣n
nhớ
có
lần
bà
làm
cho
một
bức
ảnh
trên
tường
th́nh
ĺnh
biến
mất
khỏi
cái
khung,
và
thay
vào
đó
là
một
bức
chân
dung
hoạt
họa
của
John
King,
trong
khi
một
người
trong
số
quan
khách
đang
nh́n
vào
bức
ảnh.
Lần
lần,
tôi
được
bà
giảng
giải
cho
nghe
những
lư
thuyết
của
Huyền
Môn
Đông
Phương
về
tinh
thần
và
vật
chất
và
về
những
vong
linh
khuất
mặt
trong
cơi
vô
h́nh.
Bà
không
bảo
tôi
từ
bỏ
giả
thuyết
Thần
Linh
Học,
mà
chỉ
cho
tôi
thấy
và
nhận
định
rằng
như
một
khoa
học
chân
chính,
khoa
Thần
Linh
Học
thật
sự
chỉ
có
thể
ở
phương
Đông,
và
những
người
tinh
thông
về
khoa
này
chỉ
có
thể
là
những
bậc
đạo
sư
và
đệ
tử
của
các
đạo
phái
Huyền
Môn
Đông
Phương.
Với
tấm
ḷng
thành
thật
khách
quan
đối
với
các
nhà
Thần
Linh
Học,
tôi
phải
nói
rằng
cho
đến
nay,
chưa
có
một
lư
thuyết
khoa
học
nào
được
đưa
ra
về
những
hiện
tượng
đồng
tử
mà
phần
đông
nói
chung
họ
đă
chấp
nhận.
Và
tôi
cũng
không
thấy
có
một
bằng
chứng
cụ
thể
nào
chỉ
rằng
trong
số
những
tín
hữu
Tây
Phương
của
phong
trào
này,
có
ai
đă
từng
khám
phá
một
phương
pháp
nào
để
có
thể
kêu
gọi
các
vong
linh
xuất
hiện
hoặc
tạo
ra
các
hiện
tượng
tùy
ư
muốn.
Không
một
người
đồng
tử
nào
mà
tôi
đă
từng
gặp
hoặc
nghe
nói
đến,
đă
có
một
bí
quyết
hay
chân
ngôn
để
thực
hiện
được
những
việc
đó,
vốn
là
những
điều
rất
thông
thường
và
quen
thuộc
từ
nhiều
thế
hệ
ở
các
xứ
phương
đông.
Trong
khi
bà
HPB
làm
cho
tôi
và
các
bạn
hữu
tin
rằng
những
hiện
tượng
xảy
ra
hầu
như
mỗi
ngày
đều
là
do
tác
động
của
vong
linh
John
King,
mạo
nhận
là
vong
hồn
một
hải
tặc
lừng
danh
khi
xưa
tên
là
Sir
H. Morgan,
và
bà
chỉ
trợ
giúp
y
với
tư
cách
là
một
người
trung
gian
hay
phụ
tá,
bà
HPB
đă
làm
nhiều
hiện
tượng
chứng
tỏ
là
bà
có
một
bản
lĩnh
cao
cường
về
ngành
Phương
Thuật (Magic ).
Tôi
xin
kể
một
thí
dụ,
đồng
thời
cũng
nói
thêm
rằng
những
phát
minh
khoa
học
lớn
lao
thường
bắt
nguồn
từ
việc
t́nh
cờ
nhận
xét
những
sự
việc
rất
đỗi
thông
thường,
chẳng
hạn
như
một
trái
táo
rụng
xuống
đất giúp
Newton
khám
phá
Luật
Hấp
Dẫn (Gravitation ); và
việc
nh́n
thấy
cái
nắp
thiếc
nhảy
dựng
trên
cái
ấm
nước
đang
sôi[6]
Ngày
nọ,
nhận
thấy
trong
nhà
thiếu
khăn
mặt
để
dùng,
tôi
mua
vài
cái
khăn
lớn
đem
về,
và
cắt
ra
làm
độ
một
chục
chiếc
khăn
nhỏ.
Khi
thấy
bà
HPB
định
lấy
ra
dùng
ngay
mà
không
chịu
viền
các
cạnh
khăn
lại
cẩn
thận,
tôi
mới
phản
đối
lối
sống
thiếu
ngăn
nắp
đó,
và
bà
liền
lấy
kim
chỉ
ra
may.
Bà
chưa
kịp
bắt
đầu
bỗng
nhiên
bà
đá
một
cái
dưới
gậm
bàn
và
nói
với
một
giọng
giận
dữ:
“Đồ
láo,
đi
ra!”
Tôi hỏi:
“Cái
ǵ
vậy?”
Bà đáp:
“Có ǵ
đâu!
Chỉ
có
một
tinh
linh
nó
kéo
vạt
áo
tôi
và
muốn
có
một
việc
ǵ
làm!”
Tôi nói:
“À, hay quá!
Sẵn đây, bà
hăy
đưa
khăn
cho
nó
may.
Bà
cần
ǵ
phải
làm
cho
nhọc,
vả
lại
bà
cũng
chẳng
khéo
tay
ǵ
cho
lắm
về
đường
kim
mũi
chỉ?”
Bà
cười
và
mắng
tôi
chê
bà
may
dở,
nhưng
cũng
chưa
chịu
làm
theo
sự
thỉnh
cầu
của
kẻ
khuất
mặt
ở
dưới
gậm
bàn,
sẵn
sàng
trợ
giúp
một
tay
nếu
có
dịp.
Sau
cùng,
nghe
lời
thuyết
phục
của
tôi,
bà
bảo
tôi
hăy
để
khăn
mặt
và
kim
chỉ
trong
một
cái
tủ
kiếng
có
khóa,
và
che
màn
lụa
xanh
ở
phía
tường
bên
kia.
Tôi
làm
theo
và
trở
lại
tiếp
tục
ngồi
nói
chuyện
với
bà
về
đề
tài
lư
thú
duy
nhất
và
bất
tận
của
chúng
tôi,
là
vấn
đề
khoa
học
huyền
bí.
Sau
độ
mười
lăm
hay
hai
mươi
phút,
tôi
nghe
một
tiếng
động
nhỏ
giống
như
tiếng
chuột
kêu
ở
dưới
gậm
bàn,
khi
đó
bà
HPB
cho
tôi
biết
rằng
“nó”
đă
viền
xong
mấy
cái
khăn.
Tôi
bèn lại
mở
tủ
và
thấy
mười
hai
cái
khăn
mặt
đă
viền
xong,
tuy
rằng
hơi
vụng
về,
giống
như
của
trẻ
em
mới
tập
may
trong
các
lớp
may
nhi
đồng.
Thế
là
mấy
cái
khăn
mặt
đă
được
viền
b́a
thật
sự
không
thể
nghi
ngờ,
trong
cái
tủ
đă
khóa
kín
mà
bà
HPB
không
hề
bén
mảng đến
gần
trong
suốt
thời
gian
đó.
Lúc
ấy,
vào
độ
bốn
giờ
chiều,
giữa
ánh
sang
ban
ngày.
Chúng
tôi
chỉ
có
hai
người
trong
pḥng,
không
có
người
nào
khác
bước
vào
cho
đến
khi
mọi
việc
đă
xong.
Có
lần
trong
khi
chúng
tôi
đang
ngồi
nói
chuyện
ở
pḥng
khách,
bà
HPB
th́nh
ĺnh
biến
mất.
Tôi
đă
từng
trải
nhiều
kinh
nghiệm
về
các
hiện
tượng
huyền
linh,
nhưng
việc
này
làm
tôi
ngạc
nhiên
và
lo
lắng.
Sau
khi
đi
lục
soát
khắp
trong
nhà
mà
không
thấy
ǵ,
tôi
trở
lại
pḥng
khách
châm
ống
điếu
hút
thuốc,
và
thử
t́m
hiểu
điều
bí
mật
này.
Hồi
đó
là
năm
1875,
tức
là
nhiều
năm
trước
khi
khoa
thôi
miên
được
thí
nghiệm
và
phổ
biến,
cho
nên
tôi
không
hề
biết
rằng
lúc
ấy
tôi
chỉ
là
một
đối
tượng
thụ
cảm,
và
bà
HPB
chỉ
có
làm
che
lấp
thị
giác
của
tôi
để
tôi
không
nh́n
thấy
bà
trong
khi
bà
vẫn
có
mặt
tại
chỗ.
Một
lúc
sau
bà
xuất
hiện
trở
lại
nơi
pḥng
khách,
tôi
mới
hỏi
năy
giờ
bà
đi
đâu,
thí
bà
cười
và
nói
rằng
v́
bà
có
việc
phải
làm
về
phần
“ vô
vi ”
nên
bà
đă
tàng
h́nh
trong
chốc
lát.
Nhưng
bà
tàng
h́nh
bằng
cách
nào
th́
bà
không
nói.
Bà
cũng
làm
phép
thuật
đó
trước
mặt
tôi
và
những
người
khác
nhiều
lần
nữa, trước
và
sau
khi
chúng
tôi
đi
sang
Ấn
Độ,
nhưng
tất
cả
những
lần
đó
đều
xảy
ra
nhiều
năm
trước
khi
tôi
được
biết
ǵ
về
khoa
thôi
miên,
vốn
là
cái
đáp
số
dễ
dàng
của
thuật
tàng
h́nh.
Như
tôi
đă
có
lần
giải
thích,
thuật
thôi
miên
của
Đông
Phương
c̣n
cao
tay
ấn
hơn
nhiều
so
với
Tây
Phương,
v́
trong
trường
hợp
này,
sự
dẫn
dụ
để
che
lấp
giác
quan
của
người
thụ
cảm
được
thực
hiện
bằng
tư
tưởng
trong
âm
thầm,
chứ
không
phải
truyền
lệnh
bằng
giọng
nói
có
âm
thanh.
Người
thụ
cảm
không
được
cảnh
giác
để
chống
lại
sự
dẫn
dụ,
và
sự
việc
xảy
ra
tự
nhiên
trong
khi
y
không
hay
biết
ǵ
cả.
Bà
HPB
c̣n
biểu
diễn
nhiều
hiện
tượng
thần
thông
lạ
lùng
khác
nữa.
Tôi
chỉ
thuật
lại
vài
sự
việc
đáng
kể,
nó
làm
thỏa
măn
lư
trí
và
óc
phê
b́nh
của
tôi
về
sự
thật
của
khoa
huyền
thuật
Đông
Phương.
Đó
là
thời
kỳ
mà
tôi
được
biết
bà
HPB
như
một
bạn
đồng
môn,
mối
liên
hệ
giữa
bà
với tôi
được
thiết
lập
trên
một
cương
vị
hoàn
toàn
b́nh
đẳng
và
mật
thiết.
Nhờ
đó,
tôi
mới
có
thể
nhận
xét
bà
như
một
người
thường,
trước
khi
bà
được
các
bạn
Đạo
suy
tôn
gần
như
thần
thánh,
những
người
này
không
được
biết
ǵ
về
những
sở
trường,
sở
đoản
và
tính
chất
rất
cận
nhân
tính
của
bà.
Như
tôi
sẽ
tŕnh
bày
một
cách
trung
thực, cái
h́nh
ảnh
lư
tưởng
đă
phai
mờ
của
tác
giả
các
bộ
sách
“Vén
Màn
Isis” và “Giáo
Lư
Bí
Truyền” sẽ
là
h́nh
ảnh
của
một
người
bằng
xương
bằng
thịt;
một
người
phụ
nữ
thật
sự
tuy
rằng
trội