|
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES
|
HỒI KƯ H.S. OLCOTT Bản Dịch Nguyễn Hữu Kiệt Đánh Máy Như Khuê Tiểu Hoa Nhi 2010 |
|
CHƯƠNG MỘT
CUỘC GẶP GỠ ĐẦU TIÊN GIỮA HAI NHÀ SÁNG LẬP
I
V́
quyển
“Hồi
kư’’
này
có
liên
quan đến
lịch
sử
Hội
Thông
Thiên
Học
Thế
Giới,
nên
tôi
phải
kể
lại
từ
đầu,
và
tường
thuật
cuộc
gặp
gỡ
giữa
hai
nhà
sang
lập
hội.
Câu
chuyện
cũng
rất
b́nh
thường;
tôi
nói
mở
lời: “Xin
bà
cho
phép,’’
và
quẹt
một
cây
diêm
cho
bà
hút
thuốc
để
mượn
dịp
làm
quen. Cuộc
gặp
gỡ
của
chúng
tôi
bắt
đầu
bằng
một
làn
khói
thuốc,
nhưng
nó
đă
bùng
cháy
lên
thành
một
ngọn
Lửa
Thiêng
trường
cửu
muôn
đời.Những
sự
việc
đưa
đến
cuộc
gặp
gỡ
này
cũng
khá
ly
kỳ,
như
tôi
sẽ
tŕnh
bày
sau
đây.
Một
ngày
nọ, vào
tháng
7
năm
1874, ngồi
tại
văn
pḥng
Luật,
tôi
đang
nghiên
cứu
một
vụ
kiện
quan
trọng,
liên
quan
đến
ṭa
Đô
Chính
thành
phố
Nữu
Ước,
tự
nhiên
tôi
lại
nghĩ
rằng
từ
nhiều
năm
nay
tôi
không
chú
ư
đến
phong
trào
Thần
Linh
Học.
tôi
không
hiểu
tại
sao
trí
óc
tôi
lại
liên
tưởng
từ
vụ
kiện
nọ
đến
phong
trào
này.
Dù
sao,
tôi
cũng
đă
bước
ra
phố
để
mua
một
tờ
nhật
báo
“Banner
of
Light’’,
trong
đó
tôi
thấy
có
bài
tường
thuật
về
một
hiện
tượng
hồn
ma
hiện
h́nh
xảy
ra
tại
một
nông
trại
ở
thị
trấn
Chittenden,
thuộc
tiểu
bang
Vermont,
cách
Nữu
Ước
độ
vài
trăm
dặm.
Tôi
liền
nghĩ
rằng
nếu
quả
thật
đúng
là
người
ta
có
thể
nh́n
thấy,
sờ
mó,
và
nói
chuyện
được
với
những
thân
nhân
đă
chết
nhưng
đă
t́m
cách
hiện
nguyên
h́nh
để
tạm
thời
xuất
hiện
trở
lại
thế
gian,
th́
đây
là
một
sự
kiện
tối
quan
trọng
về
khoa
học
vật
lư
hiện
đại. Tôi bèn
quyết
định
đi
quan
sát
ngay
tại
chỗ.
Tôi
đến
tận
nơi
xem
xét
các
hiện
tượng,
và
thấy
rằng
câu
chuyện
quả
có
thật,
tôi
bèn
ở
lại
đó
thêm
ba
ngày.
Khi
trở
về
Nữu
Ước,
tôi
viết
một
bài
tường
thuật
những
điều
tôi
đă
nhận
xét
cho
tờ
báo
New
York
Sun.
Bài
báo
của
tôi
được
các
báo
trên
thế
giới
in
lại
và
phổ
biến
khắp
nơi,
v́
tính
cách
hấp
dẫn
và
quan
trọng
của
những
việc
đă
xảy
ra.
Kế
đó,
vị
chủ
nhiệm
báo
Daily
Graphic
đề
nghị
vối
tôi
hăy
trở
lại
Chittenden
để
viết
phóng
sự
với
một
họa
sĩ
cùng
đi
theo
tôi
để
vẽ
h́nh
ảnh,
và
để
mở
cuộc
điều
tra
quan sát
tường
tận
về
vấn
đề
này.
Việc
ấy
làm
cho
tôi
thích
thú
đến
mức
tôi
phải
thu
xếp
mọi
việc
của
văn
pḥng,
và
ngày
17
tháng
9
năm
đó
tôi
trở
lại
nông
trại
của
gia
đ́nh
Eddy
một
lần
nữa.
Tôi
lưu
trú
tại
ngôi
nhà
bí
mật
đó
trong
mười
hai
tuần,
và
hằng
ngày
tôi
đă
thu
nhập
được
những
kinh
nghiệm
vô
cùng
kỳ
dị.
Trong
thời
gian
đó,
tôi
viết
bài
đăng
trên
báo
Daily
Graphic
mỗi
tuần
hai
lần,
có
kèm
theo
những
bức
vẽ
các
hồn
ma
hiện
h́nh
do
tôi
và
người
họa
sĩ,
ông
Kappes
đă
nh́n
thấy
tận
cùng
với
độ
bốn
mươi
quan
khách
đến
viếng. Chính
những
bài
tường
thuật
của
tôi
trên
mặt
báo
đă
làm
cho
bà
Blavatsky
đến
Chittenden,
và
do
đó
chúng
tôi
mới
quen
biết
nhau.
Tôi
c̣n
nhớ
rơ
cái
ngày
đầu
tiên
mà
chúng
tôi
gặp
nhau
dường
như
chỉ
mới
ngày
hôm
qua.
Đến
bữa
ăn
trưa
tại
nông
trại
Eddy,
tôi
và
họa
sĩ
Kappes
vừa
bước
vào
pḥng
ăn
th́
thấy
nơi
bàn
ăn
đă
có
hai
người
phụ
nữ.
Đó
là
bà
Blavatsky
và
một
người
bạn
người
Gia
Nă
Đại.
Hôm
ấy
bà
mặc
một
cái
áo
màu
đỏ,
nổi
bật
giữa
những
y
phục
tầm
thường của
người
chung
quanh.
Gương
mặt
vuông,
có
bề
ngang,
đôi
mắt
tinh
anh
biểu
lộ
một
tinh
thần
cương
dũng,
đầy
hào
khí,
trội
phần
nam
tính
hơn
nữ
tính,
cũng
làm
cho
bà
có
một
phong
độ,
cốt
cách
khác
thường
so
với
những
gương
mặt
b́nh
dị
của
số
đông
du
khách
đến
viếng.
Những
người
thuộc
đủ
mọi
thành
phần
luôn
luôn
văng
lai
không
ngớt
để
xem
các
hiện
tượng
dị
kỳ.
Đứng
trước
ngưỡng
cửa,
tôi
nói
nhỏ
vào
tai
ông
Kappes:
“Này,
anh
hăy
nh́n
xem
cái
bà
kia,
có
lạ
không?’’
Kế
đó,tôi
bèn
đi
thẳng
lại
chỗ
bàn
ăn,
chọn
một
ghế
ngồi
đối
diện
với
bà
để
có
dịp
thực
tập
về
khoa
tướng
pháp,
như
tôi
vẫn
có
thói
quen
nh́n
xem
tướng
diện
khi
gặp
những
nhân
vật
mà
tôi
chú
ư.
Hai
bà
khách
lạ
nói
chuyện
với
nhau
bằng
tiếng
Pháp.
Nghe
giọng
nói
sành
âm
điệu
và
ngôn
ngữ
lưu
loát
trôi
chảy
của
bà,
tôi
đoán
ngay
rằng
nếu
bà
không
phải
là
một
người
Pháp
chính
cống
ở
Paris,
th́
ít
nhất
bà
cũng
phải
là
một
học
giả
uyên
thâm
về
môn
pháp
ngữ.
Buổi
ăn
trưa
vừa
xong, hai
bà
bước
ra
ngoài.
Bà
Blavatsky
vấn
một
điếu
thuốc
lá,
tôi
bèn
bật
diêm
quẹt
cho
bà
đốt
thuốc
để
lấy
cớ
mở
đầu
câu
chuyện.
V́
tôi
mở
lời
bằng
một
câu
tiếng
Pháp: “Vous permettez,
Madame,’’
nên
chúng
tôi
liền
nói
chuyện
với
nhau
bằng
tiếng
Pháp
luôn.
Bà
hỏi
tôi
đến
đây
từ
bao
giờ,
và
tôi
có
cảm
tưởng
ra
sao
về
việc
này?
Bà
nói
chính
Bà
cũng
rất
thích
thú
về
những
hiện
tượng
đó
và
đă
đến
Chittenden
do
những
bài
báo
Bà
đă
đọc
trong
tờ
Daily
Graphic.
Dân
chúng
thích
những
loạt
bài
phóng
sự
đó
đến
nỗi
chỉ
một
giờ
sau
khi
phát
hành,
báo
đă
bán
hết
sạch,
và
Bà
đă
phải
trả
một
đô
la
để
mua
một
tờ
với
giá
chợ
đen.
Bà
nói:
“Tôi
rất
do
dự
trước
khi
đến
đây,
v́
tôi
sợ
sẽ
gặp
Đại
Tá
Olcott.’’
Tôi hỏi
“Thưa
Bà,
tại
sao
bà
lại
sợ
gặp
ông
ta?’’
“Bởi
v́
tôi
sợ
ông
ta
sẽ
viết
về
tôi
trên
mặt
báo!’’
Tôi
mới
nói
rằng
bà
hăy
yên
ḷng
về
việc
đó,
v́
tôi
chắc
rằng
Đại
Tá
Olcott
sẽ
không
nói
ǵ
đến
bà
trong
các
bài
báo
nếu
bà
không
muốn
như
vậy.
Tôi bèn tự giới
thiệu.
Ngay
tức
khắc
chúng
tôi
đă
trở
nên
hai
người
bạn
thân.
Mỗi
người
trong
chúng
tôi
đều
cảm
thấy
dường
như
chúng
tôi
vẫn
cùng
chung
một
thành
phần
xă
hội,
thuộc
về
giới
tự
do
tư
tưởng
và
gần
gũi
với
nhau
hơn
so
với
những
người
khác
trong
nhóm
quan
khách.
Đó
là
sự
đồng
thanh
đồng
khí
về
phương
diện
tâm
linh,
một
sự
thông
cảm
giữa
hai
linh
hồn,
chứ
không
phải
là
sự
hấp
dẫn
giữa
nam
nữ
tính.
Kể
từ
lúc
mới
quen
cho
đến
măi
về
sau,
không
một
người
nào
trong
chúng
tôi
có
cái
ư
nghĩ
rằng
người
bạn
của
ḿnh
là
người
khác
phái.
Chúng
tôi
chỉ
coi
nhau
như
bạn,
và
chỉ
có
thế
thôi,
không
hơn
không
kém.
Thảng
một
đôi
khi
cũng
có
kẻ
xấu
miệng
nói
rằng
giữa
chúng
tôi
chắc
có
một
cảm
t́nh
sâu
đậm
hơn,
cũng
như
họ
đă
từng
vu
khống
bà
HPB
là
t́nh
nhân
của
những
người
đàn
ông
khác,
nhưng
không
một
người
quang
minh
chính
đại
nào
có
thể
nghĩ
như
thế
sau
khi
đă
được
gần
gũi
quen
biết
bà
một
thời
gian
để
có
dịp
nhận
xét
tính
chất
và
tác
phong
đặc
biệt
vô
nữ
tính
của
bà.
Sau
cuộc
gặp
gỡ
và
làm
quen,
chúng
tôi
nói
chuyện
về
những
hiện
tượng
quái
gở
ở
nông
trại
Eddy
và
ở
những
xứ
khác.
Tôi
được
biết
bà
đă
từng
đi
du
lịch
nhiều
nơi,
thấy
biết
nhiều
điều
bí
ẩn,
diệu
hiền
và
nhiều
bậc
danh
sư
trong
giới huyền
môn,
nhưng
lúc
đầu
bà
không
nói
ǵ
đến
các
Chân
Sư
bên
Tây
Tạng
và
những
quyền
năng
của
bà.
Bà
nói
về
khuynh
hướng
duy
vật
của
phong
trào
Thần
Linh
Học
bên
Mỹ,
vốn
quá
chú
trọng
đến
những
hiện
tượng
vật
chất
hữu
h́nh
mà
không
biết
đến
những
khía
cạnh
triết
lư
siêu
h́nh.
Bà
có
một
phong
độ,
tư
cách
rất
duyên
dáng
và
hấp
dăn,
những
sự
b́nh
phẩm
chỉ
trích
của
bà
về
người
và
vật
rất
độc
đáo
và
linh
hoạt.
Bà
t́m
cách
biết
những
ư
nghĩ,
quan
niệm
của
tôi
về
các
vấn
đề
tâm
linh,
và
lấy
làm
thích
thú
mà
nhận
thấy
rằng
tôi
có
những
tư
tưởng
phù
hợp
theo
đường
lối
của
Huyền
Môn
mà
bà
vẫn
theo
đuổi.
Bà
nói
chuyện
không
phải
với
tư
cách
một
đạo
gia
thấm
nhuần
đạo
lư
Đông
Phương,
mà
với
tư
cách
một
nhà
Thần
Linh
Học
uyên
bác.
Về
phần
tôi,
hồi
ấy
tôi
chưa
biết
hay
hầu
như
không
biết
ǵ
cả
về
triết
học
Đông
Phương,
và
lúc
đầu
bà
giữ
im
lặng
không
nói
ǵ
đến
vấn
đề
ấy.
Những
buổi
họp
đàn
của
William
Eddy,
nhà
đồng
tử
chính
của
gia
đ́nh
này,
diễn
ra
mỗi
đêm
trong
một
gian
pḥng
rộng
ở
trên
lầu.
Ông
William
và
người
em
trai
là
Horatia,
đều
là
những
nông
dân
siêng
năng
cần
cù
làm
việc;
người
em
lo
việc
đồng
áng,
c̣n
người
anh
lo
việc
bếp
núc,
dọn
bữa
ăn
cho
các
quan
khách
hàng
ngày
tấp
nập
đến
từ
khắp
nơi
trong
xứ
Hoa
Kỳ.
Họ
là
những
nông
dân
nghèo,
thất
học,
và
có
nhiều
thành
kiến,
đôi
khi
lại
cau
có,
gắt
gỏng
đối
với
những
du
khách
tự
nhiên
không
mời
mà
đến.
Mỗi
buổi
chiều,
đồng
tử
William
Eddy
ngồi
trong
pḥng
tối
để
đợi
cho
các
hiện
tượng
xảy
ra.
Khi
y
vừa
bước
vào
pḥng,
người
ta
kéo
tấm
màn
che
qua
một
bên,
th́
từ
bên
trong
bước
ra
một
bóng
ma
hiện
h́nh
một
người
đàn
ông,
đàn
bà
hoặc
trẻ
con,
coi
như
một
pho
tượng
biết
cử
động,
tạm
thời
đông
đặc
và
chắc
nịch,
nhưng
trong
giây
phút
liền
tan
biến
mất
dạng
trước
mắt
của
mọi
người.
Trước
ngày
bà
Blavatsky
đến
đây , những
bóng
ma
hiện
h́nh
đều
là
những
người
Da
Đỏ,
người
Mỹ
hay
người
Âu,
họ
hàng
thân
thuộc
của
những
khach
đến
viếng.
Nhưng
kể
từ
buổi
đầu
tiên
khi
bà
vừa
đến,
th́
những
bóng
ma
thuộc
những
quốc
tịch
khác
đă
xuất
hiện
trước
mắt
chúng
tôi.
Trong
số
đó,
có
một
thanh
niên
người
xứ
Causase;
một
người
lái
buôn
Hồi
Giáo
ở
Tiflis;
một
cô
thôn
nữ
Nga,
và
những
h́nh
bóng
khác.
Tối
hôm
nọ ,
hiện
h́nh
một
người
kỵ
mă
Thổ
Nhĩ
Kỳ
đeo
gương
cong,
súng
đoản
và
cầm
giáo
dài;
một
nhà
phù
thủy
Phi
Châu
h́nh
thù
dị
hợm,
gớm
ghiếc,
đầu
đội
mũ
miện
cắm
bốn
cái
sừng
dê
có
gắn
lục
lạc
đồng;
và
một
người
Âu
ḍng
quư
tộc
mặc
triều
phục
với
phù
hiệu
Nữ
Thánh
Anna,
mà
bà
Blavatsky
nhận
ra
là
người
chú
của
bà.
Sự
hiện
h́nh
của
những
vong
linh
ấy
trong
pḥng
họp
đàn
của
những
người
nông
dân
nhèo
và
thất
học,
không
hề
có
đủ
tiền
bạc
để
mua
sắm
những
đồ
y
trang
sân
khấu,
cũng
không
có
sự
hiểu
biết,
kinh
nghiệm
để
sử
dụng
những
thứ
y
trang
đó
dẫu
cho
họ
có
thể
sắm
được,
là
một
bằng
chứng
rơ
rệt
trước
mắt
ngưới
đi
xem,
rằng
những
hiện
tượng
ấy
là
có
thật,
đồng
thời,
những
buổi
họp
đàn
này
cho
thấy
rằng
sự
có
mặt
của
bà
Blavatsky
toát
ra
một
sức
hấp
dẫn
lạ
lùng
làm
cho
những
nhân
vật
kỳ
lạ
xuất
hiện
từ
cơi
giới
vô
h́nh.
Măi
rất
lâu
về
sau,
tôi
mới
được
cho
biết
rằng
bà
đă
sử
dụng
quyền
năng
phương
thuật
sai
khiến
tinh
linh
ngũ
hành
để
tạo
nên
những
hiện
tượng
đó.
Trong
thời
gian
ở
Chittenden,
bà
Blavatsky
có
kể
cho
tôi
nghe
nhiều
chuyện
vế
cuộc
đời
dĩ
văng
của
bà, trong
dó
có
việc
bà
đă
từng
gia
nhập
nhóm
phụ
nữ
chí
nguyện
tùng
chinh
theo
Garibaldi
[1] trong
trận
đánh
lưu
huyết
ở
Mentana[2]
.
Để
chứng
minh
chuyện
này,
bà
cho
tôi
xem
cánh
tay
trái
của
bà
bị
những
vết
gươm
chém
gẫy
xương
ở
hai
chỗ,
vai
bên
hữu
có
một
viên
đạn
vẫn
c̣n
nằm
nguyên
trong
thớ
thịt,
và
một
viên
đạn
nữa
trong
bắp
chân.
Bà
cũng
chỉ
cho
tôi
xem
một
cái
thẹo
ngay
phía
dưới
trái
tim,
do
một
nhát
đâm
bằng
vũ
khí
nhọn.
Vết
thương
này
hơi
nứt
ra
một
ít
trong
khi
bà
ở
tại
Chitenden
và
sở
dĩ
bà
cho
tôi
xem
là
để
hỏi
ư
kiến
tôi
về
cách
chữa
trị
sao
cho
mau
lành.
Bà
c̣n
kể
cho
tôi
nghe
nhiều
chuyện
phiêu
lưu
mạo
hiểm
đầy
thú
vị
khác
nữa,
trong
số
đó
có
chuyện
nhà
phù
thủy
Phi
Châu
đội
mũ
cắm
sừng
dê
có
gấn
lục
lạc
đồng,
mà
bà
đă
từng
gặp
khi
ông
ta
trổ
tài
nghệ
ở
miền
thượng
du
Ai
Cập
đă
nhiều
năm
về
trước.
Bà
Blavatsky
cố
gắng
giải
thích
cho
tôi
hiểu
rằng
những
hiện
tượng
vừa
kể
không
phải
là
bằng
chứng
về
sự
kiểm
chế
đồng
tử
bởi
các
vong
linh
người
chết.
Bà
nói
rằng
nếu
những
hiện
tượng
đó
có
thật,
th́
đó
phải
là
cái
Thể
Vía
của
người
đồng
tử
xuất
ra
ngoài
thể
xác
và
khoác
lấy
mọi
h́nh
thể
đa
h́nh
đa
dạng,
nhưng
tôi
không
tin
như
thế.
Tôi
lư
luận
rằng
những
h́nh
bóng
xuất
hiện
ra
đó
thật
khác
biệt
nhau
quá
xa
về
vóc
hạc,
bề
cao,
tác
phong
và
dáng
điệu,
để
có
thể
nói
đó
là
cái
Thể
Vía
người
đồng
tử,
và
như
vậy
đó
phải
là
những
vong
linh
người
chết
hiện
h́nh
thật
sự
như
mọi
người
đều
thấy.
Sự
tranh
luận
của
chúng
tôi
đôi
khi
rất
sôi
nổi,
v́
hồi
đó,
tôi
chưa
được
biết
nhiều
về
tính
chất
co
giăn
của
Thể
Vía
con
người
để
nhận
thấy
rơ
luận
điệu
chính
xác
của
bà,c̣n
về
lư
thuyết
Ảo
Ảnh
Ảo
Giác
(Maya)
của
phương
Đông,
th́
hồi
đó
tôi
không
biết
ǵ
cả.
Tuy
nhiên,
nhờ
vậy
mà
bà
mới
biết
rơ
bản
chất
của
tôi
là
không
chấp
nhận
bất
cứ
điều
ǵ
nếu
chỉ
căn
cứ
trên
niềm
tin
mà
không
có
đủ
lư
do
vững
chắc.
Chúng
tôi
càng
hiểu
nhau
hơn
với
thời
gian
qua,
và
đến
lúc
chia
tay,
chúng
tôi
tạm
biệt
nhau
như
hai
người
bạn
tốt
sẵn
sang
tiếp
tục
t́nh
quen
biết
thân
hữu
đă
bắt
đầu
một
cách
vui
vẻ
tốt
đẹp
trong
những
ngày
vừa
qua.
II
Tháng
11 năm 1874, sau
khi
đă
hoàn
tất
cuộc
khảo
sát
về
những
hiện
tượng
thần
linh
ở
nông
trại
Eddy,
tôi
trở
về
New
York
và
đến
viếng
bà
Blavatsky
tại
địa
chỉ
mà
bà
đă
cho
tôi
trước
khi
chia
tay
tạm
biệt.
Tại
đây,
bà
đă
biểu
diễn
cho
tơi
xem
vài
hiện
tượng
cơ
bút,
gơ
nhịp,
xoay
bàn,
phần
nhiều
là
do
tác
động
của
một
vong
linh
khuất
mặt
tự
xưng
danh
là
‘’Jonh
King’’.
Đó
là
một
cái
tên
quen
thuộc
đối
với
những
người
thường
đi
tham
dự
những
buổi
họp
đàn
hồi
giữa
thế
kỷ
trước
ở
khắp
nơi
trên
thế
giới.
Vong
linh
ấy
tự
giới
thiệu
là
vong
hồn
của
Sir
Henry
Mogan,
một
nhà
hiệp
sĩ
kiêm
hải
tặc
sống
bên
Anh
Quốc
cách
đây
vài
thế
kỷ.
Y
đă
hiện
h́nh
một
phần
cho
tôi
xem
mặt
và
đầu
có
quấn
khăn,
trong
khi
tôi
xúc
tiến
một
cuộc
điều
tra
về
những
đồng
tử
Holmes
ở
Philadelphia
cùng
với
bà
Blavatsky
và
vài
nhân
vật
khác
ít
lâu
sau
đó.
Y
có
một
lối
viết
dị
kỳ,
và
sử
dụng
lối
văn
Anh
cổ
xưa
cũng
rất
lạ.
Hồi
đó,
tôi
không
tin
chắc
đó
là
Jonh
King
thật,
v́
mọi
sự
đă
được
chứng
minh
rơ
ràng
về
thành
tích
và
con
người
của
y.
Nhưng
bây
giờ,
sau
khi
đă
thấy
rơ
quyền
năng
của
bà
Blavatsky
trong
việc
tạo
nên
ảo
giác
và
sai
khiến
âm
binh,
tôi
mới
biết
rằng “John
King’’
chỉ
là
một
tinh
linh
mạo
danh
và
phỉnh
lừa,
mà
bà
sử
dụng
như
một
h́nh
nộm
để
sai
khiến
và
dung
làm
một
khí
cụ
để
chỉ
dẫn
cho
tôi
học
hỏi
thêm
về
khoa
Huyền
Môn.
Nói
tóm
lại,
các
hiện
tượng
đều
có
thật,
nhưng
không
phải
do
một
vong
linh
người
chết
thực
hiện,
mà
chỉ
là
do
sự
trợ
giúp
của
một
tinh
linh
ngũ
hành[3]
.
Bà
vẫn
duy
tŕ
cái
ảo
tưởng
đó
đối
với
tôi
trong
vài
tháng,
và
tôi
đă
chứng
kiến
nhiều
hiện
tượng
huyền
linh
khác
mệnh
danh
là
do
tác
động
cùa
John
King,
chẳng
hạn
như
toàn
bộ
một
loạt
các
hiện
tượng
biểu
diễn
tại
tư
gia
của
các
đồng
tử
Holmes
và
của
chính
bà
HPB
như
đă
kể
trên.
Trước
hết
y
là
một
cá
tính
riêng
biệt
tên
J. King,
kế
đó
y
là
John
King
thư
tín
viên
và
thừa
sai
của
các
Chân
Sư
c̣n
sống
trên
thế
gian,
và
sau
cùng,
đó
chỉ
là
một
tinh
linh
do
bà
HPB
sử
dụng
để
làm
các
phép
thuật
lạ
kỳ.
Không
ai
phủ
nhận
rằng
trong
thời
gian
đầu
tiên
ở
Mỹ,
bà
HPB
tự
xưng
là
một
nhà
Thần
Linh
Học,
nhiệt
liệt
bênh
vực
khoa
Thần
Linh
Học
và
các
đồng
tử
chống
lại
những
kẻ
đả
kích
gồm
các
giới
độc
giả
nông
cạn,
nửa
mùa.
Những
thư
từ
và
bài
vở
của
bà
đăng
trên
các
báo
chí
Anh
và
Mỹ
có
chứa
đựng
nhiều
bằng
chứng
về
việc
ấy.
Trong
một
bức
thư
gởi
đăng
trên
tạp
chí
Spiriualist
ngày
13
tháng
12
năm
1874,
bà
viết
như
sau:
“Như
t́nh
trạng
hiện
nay,
tôi
chỉ
có
làm
việc
bổn
phận,
trước
hết
đối
với
khoa
Thần
Linh
Học,
mà
tôi
bênh
vực
đến
mức
tối
đa
chống
lại
những
đ̣n
công
kích xuyên tạc
của
các
giới
thiển
cận
đội
lốt
khoa
học;
và
kế
đó
đối
với
hai
nhà
đồng
tử
cô
thế
bị
vu
khống…
Nhưng
tôi
phải
thú
nhận
rằng
thật
sự
tôi
không
tin
là
ḿnh
đă
giúp
ích
được
ǵ
cho
khoa
Thần
Linh
Học…
Tôi
cảm
thấy
một
nỗi
buồn
thấm
thía
mà
nh́n
nhận
điều
ấy,
v́
tôi
bắt
đầu
nghĩ
rằng
nó
thật
là
vô
phương
cứu
văn.
Tôi
đă
chiến
đấu
cho
chân
lư từ
trên
mười
lăm
năm
nay;
v́
mục
đích
sưu
tầm
và
phổ
biến
chân
lư,
tôi
đă
đi
ngao
du
sơn
thủy
từ
các
vùng
núi
non
tuyết
phủ
của
xứ
Caucase
đến
những
vùng
đồng
cát
ở
lưu
vực
sông
Nil.
V́
mục
đích
đó,
tôi
đă
rời
khỏi
gia
đ́nh,
từ
bỏ
cuộc
đời
ấm
êm
nhung
lụa
trong
một
xă
hội
văn
minh
để
đi
ta
bà
khắp
nơi
trên
mặt
Trái
Đất, v.v…
“Hai
nhà
đồng
tử
cô
thế’’
mà
bà
nói
trong
thư
tức
là
hai
ông
bà
Holmes,
mà
tôi
vẫn
đánh
giá
rất
thấp
về
hạnh
kiểm
cũng
như
về
thành
tích
bất
hảo.
tuy
nhiên,
trước
sự
có
mặt
của
bà
Blavatsky,
và
dưới
những
điều
kiện
thử
thách
gắt
gao
do
tôi
thực
hiện
tại
nhà
ông
bà
Holmes,
tôi
đă
chứng
kiến
tận
mắt
một
loạt
những
hiện
tượng
đồng
tử
thỏa
đáng
và
chân
thật
nhất
không
thể
chối
căi.
Hồi
đó,
tôi
đă
ngờ
rằng
cái
quyền
năng
tạo
ra
những
hiện
tượng
đó
là
của
bà
HPH,
chứ
nếu
chỉ
có
hai
ông
bà
Holmes,
th́
có
lẽ
tôi
đă
thấy
những
tṛ
giả
mạo,
hoặc
là
không
có
ǵ.
Bây
giờ,
lục
soát
lại
những
tài
liệu
cũ,
tôi
t́m
thấy
bản
văn
kiện
sau
đây
do
chính
tay
bà
viết
và
hiển
nhiên
là
với
ư
định
sẽ
được
công
bố
sau
khi
bà
từ
trần:
THÔNG ĐIỆP
QUAN
TRỌNG
Tôi
rất
tiếc
mà
nói
rằng
tôi
phải
đứng
về
phe
các
nhà
Thần
Linh
Học
trong
vụ
tố
giác
hai
nhà
dồng
tử
Holmes.
Tôi
phải
cứu
văn
t́nh
thế,
v́
tôi
được
biệt
phái
từ
Paris
sang
Mỹ
để
chứng
minh
sự
thật
của
những
hiện
tượng
thông
linh,
và
vạch
rơ
sự
sai
lầm
của
giả
thuyết
cho
rằng
tất
cả
những
hiện
tượng
thông
linh
chỉ
là
do
tác
động
của
vong
hồn
người
chết.
Nhưng tôi có thể làm
ǵ
tốt
nhất?
Tôi
không
muốn
cho
người
ta
biết
rằng
tôi
có
thể
tạo
ra
các
hiện
tượng
tùy
ư
muốn.
Tôi
được
lịnh
phải
làm
trái
lại,
tuy
nhiên
tôi
phải
duy
tŕ
đức
tin
nơi
các
hiện
tượng
đó
trong
ḷng
của
những
người
từ
óc
duy
vật để
trở
thành
duy
linh,
nhưng
nay
v́
có
sự
tố
giác
nhiều
nhà
đồng
tử,
nên
họ
đă
quay
trở
về
với
thái
độ
hoài
nghi
của
họ
trước
kia.
Bởi
vậy,
tôi
đă
chọn
lựa
vài
tín
hữu
cùng
đi
với
tôi
đến
nhà
ông
bà
Holmes,
và
vối
sự
trợ
giúp
của
Chân
sư
M.
và
quyền
năng
của
ngài,
tôi
đă
làm
cho
những
tinh
linh
John
King
và
Katie
King
xuất
hiện
từ
cơi
vô
h́nh,
tạo
nên
những
hiện
tượng “hiện
h́nh’’, và
làm
cho
các
giới
thông
linh
ở
khắp
nơi
tưởng
rằng
đó
là
do
khả
năng
đồng
tử
của
bà
Holmes
tạo
nên.
Bà
này
đă
trải
qua
một
cơn
hoảng
sợ
khủng
khiếp, v́
bà
biết
rằng
lần
này
các
vong
linh
đă
hiện
h́nh
thật
sự!
Tôi đă làm đúng hay sai?
Thế
gian
chưa
đủ
chuẩn
bị để
hiểu
rơ
triết
lư
của
khoa
Huyền
Môn; trước hết họ hăy nhận định rằng có những
sinh vật trong cơi giới vô h́nh, dù đó là tinh linh ngũ hành hay vong linh
người chết; và con người có những quyền năng
ẩn
tang
khả
dĩ
làm
cho
họ
trở
thành
một
đấng
thần
tiên
bất
tử.
Sau
khi
tôi
qua
đời,
có
lẽ
người
ta
sẽ
nhận
thức
tấm
ḷng
vô
tư
của
tôi.
Tôi
đă
phát
nguyện
nêu
cao
Chân
Lư
để
giúp
đỡ
người
đời
trên
đường
t́m
đạo,
và
tôi
sẽ
giữ
vẹn
lời
nguyền.
Mặc
cho
người
thế
gian
vu
khống
và
phỉ
bang
tôi,
họ
có
thể
gọi
tôi
là
đồng
bóng,
phù
thủy,
bịp
bợm,
hay
là
ǵ
tùy
ư.
Một
ngày
kia, hậu
thế
sẽ
có
dịp
biết
rơ
tôi
hơn.
“Ôi!
Thế
gian
đau
khổ
và
tội
lỗi,
tôi
biết
làm
sao
hơn!’’
Toàn
thể
vấn
đề
đă
được
giải
bày
một
cách
rơ
ràng:
khoa
Pháp
Môn
mà
bà
được
lịnh
đem
truyền
bá
sang
Mỹ
để
thay
thế
khoa
Thần
Linh
Học
Tây
Phương
vốn
nặng
nề
phần
hiện
tượng
cơ
bút,
là
khoa
Huyền
Môn
của
Đông
Phương
tức
là
nền
Minh
Triết
Thiêng
liêng
hay
Brahma
Vidya.
V́
Tây
Phương
chưa
sẵn
sang
chấp
nhận
khoa
này,
nên
công
việc
đầu
tiên
được
giao
phó
cho
bà
là
bênh
vực
sự
thật
về
các
hiện
tượng
thông
linh
chống
lại
những
thành
kiến
của
khoa
học
duy
vật
và
các
giới
liên
hệ.
Vấn
đề
cần
thiết
duy
nhất
của
thời
đại
là
chặn
đứng
đánh
đổ
óc
hoài
nghi
duy
vật
và
củng
cố
nền
tảng
tâm
linh
của
mọi
sinh
hoạt
tinh
thần.
Bởi
vậy,
khi
bước
vào
ṿng
chiến,
bà
đứng
về
phe
các
nhà
Thần
Linh
Học
Mỹ,
và
tạm
thời
hăy
cất
ngọn
cờ
duy
linh
và
nêu
cao
một
lư
tưởng
chung
với
họ.
Phải,
hậu
thế
sẽ
xét
đoán
bà
một
cách
công
b́nh.
III
Tôi
c̣n
nhớ
rơ
phép
thuật
đầu
tiên
mà
bà
đă
làm
bằng
cách
sử
dụng
ư
chí,
ngay
sau
khi
bà
bắt
đầu
viết
bộ
sách “Vén
Màn
Isis
[4]’’.
Trong
số
những
quan
khách
đến
viếng
nhà
bà,
có
một
nghệ
sĩ
người
Ư,
tạm
gọi
là
ông
B (Signor B).
Tôi
đang
ngồi
với
bà
nơi
pḥng
khách
th́
ông
B. đến viếng.
Trong
câu
chuyện
trao
đổi
qua
lại
về
các
vấn
đề
của
nước
Ư,
th́nh
ĺnh
y
thốt
ra
tên
của
một
vị
Chân
Sư
trong
số
những
đấng
Cao
Cả
nhất.
Bà
HPB
giật
ḿnh
dường
như
bị
điện
giật,
nh́n
thẳng
vào
đôi
mắt
người
khách
lạ
và
nói
bằng
tiếng
Ư:
“Có việc ǵ vậy?
Tôi sẵn sàng.’’
Người kia
thản
nhiên
nói
qua
chuyện
khác, và
thảo
luận
về
các
vấn
đề
Phương
Thuật,
các
nhà
Thuật
Sĩ
và
các
đấng
Chân
Sư.
Khi ấy, ông B.
đứng dậy
mở
cửa
sổ, đưa
tay
khoát
vài
cái
trên
không
khí
bên
ngoài,
th́
một
con
bướm
trắng
liền
bay
vào
pḥng
và
bay
lượn
trên
trần
nhà.
Bà HPB cười thoải
mái
vui
vẻ
và
nói:
“Khá đấy, nhưng tôi cũng làm
được
như
vậy!’’
Bà
cũng
đến
chỗ
cửa
sổ,
khoát
tay
vài
cái
tương
tự,
th́
một
con
bướm
trắng
thứ
nh́
cũng
liền
bay
vào
pḥng.
Nó
bay
lên
trần
nhà,
đuổi
theo
con
bướm
kia
khắp
chung
quanh
pḥng,
thỉnh
thoảng
hai
con
bướm
lại
đùa
giỡn
với
nhau,
rồi
cùng
bay
đến
một
góc
pḥng
th́
cả
hai
đều
biến
mất
ngay
trước
mắt
chúng
tôi.
Tôi hỏi việc ấy nghĩa là thế
nào, th́ bà đáp:
“Nó có nghĩa là ông B. có
thể
làm
cho
một
tinh
linh
biến
thành
một
con
bướm,
và
tôi
cũng
có
thể
làm
y
như
vậy. Chỉ có thế thôi.’’
Th́
ra,
hai
con
bướm
chỉ
là
những
vật
giả
tạo
chứ
vốn
không
có
thật.
Tôi
cũng
nhớ
những
hiện
tượng
thần
thông
khác
của
bà,
do
việc
sử
dụng
khả
năng
sai
khiến
âm
binh.
Một
đêm
nọ
chúng
tôi
làm
việc
soạn
quyển
sách
của
bà
măi
đến
khuya.
Bữa
cơm
chiều
hôm
đó,
tôi
đă
ăn
vài
món
mặn,
nên
lúc
một
giờ
khuya
cảm
thấy
rất
khát
nước,
tôi
nói:
“ Chà! Bây
giờ
nếu
có
một
chum
nho
tươi
mà
ăn
th́
hay
quá,
hả?
“ À, phải đấy.
Ta hăy ăn nho đi.’’
“Nhưng
các
tiệm
đă
đóng
cửa
từ
lâu,
làm
sao
mua
được
vào
giờ
này?
Không sao.
Chúng ta vẫn có nho ăn như
thường’’
“Làm sao có, và lấy đâu ra?’’
“Rồi ông sẽ thấy. Bây giờ ông hăy vặn bấc đèn thấp xuống.’’
Tôi
vặn
thấp
ngọn
đèn
hơi,
nhưng
lỡ
tay
vặn
quá
trớn
làm
đèn
tắt.
Bà nói:
“Ông
không
cần
làm
vậy.Tôi
chỉ
muốn
ông
vặn
nhỏ
lại
thôi!
Ông hăy thắp lại
đi.’’
Tôi
thắp
đèn
sáng
trở
lại
và
hạ
bấc
đèn
thấp
xuống
chỉ
c̣n
ánh
sang
lờ
mờ.
Bà kêu lên:
“Kia ḱa!
Ông hăy
nh́n
xem!’’
Và
đưa
tay
chỉ
cái
kệ
đựng
sách
trên
vách
trước
mặt
chúng
tôi.
Tôi
vô
cùng
ngạc
nhiên
mà
thấy
treo
lủng
lẳng
nơi
hai
đầu
cái
kệ
có
hai
chum
nho
tươi
lớn,
loại
nho
đen
và
chin,
và
chúng
tôi
lấy
xuống
ăn.
Tôi
hỏi
bà
đă
dung
phương
pháp
nào,
th́
bà
nói
đó
là
do
tác
động
của
vài
loại
tinh
linh
dưới
quền
sai
khiến
của
bà.
Về
sau,
bà
đă
có
dịp
tái
diễn
phép
thuật
ấy
hai
lần
khác
nữa
để
đem
trái
cây
về
cho chúng
tôi
ăn
giải
khát
giữa
đêm
khuya
trong
khi
chúng
tôi
soạn
bộ
sách “Vén
Màn
Isis.’’
IV
Lần
lần,
Bavatsky
nói
cho
tôi
biết
về
sự
hiện
diện
của
các
Chân
Sư
cùng
những
quyền
năng
của
các
ngài,
và
bằng
vô
số
các
hiện
tượng
huyền
linh,
bà
cho
tôi
thấy
bằng
chứng
về
quyền
năng
của
bà
đối
với
những
mănh
lực
huyền
bí
trong
thiên
nhiên.
Trước
hết,
như
đă nói
ở
trên,
bà
gán
cho
âm
bing
“John
King”
vai
tṛ
tác
động
nên
các
hiện
tượng
ấy,
và
chính
nhờ
sự
trợ
giúp
của
y
mà
lần
đầu
tiên
tôi
được
tiếp
xúc
bằng
thư
từ
với
các
Chân
Sư.
Tôi
đă
ǵn
giữ
nhiều
bức
thư
cũa
các
ngài,
và
ghi
rơ
ngày
tháng
nhận
được
những
bức
thư
ấy.
Trong
nhiều
năm,
cho
đến
ngày
tôi
rời
Nữu
Ước
để
sang
Ấn
Độ,
tôi
được
kết
nạp
vào
hang
đệ
tử
đặt
dưới
quyền
chỉ
đạo
của
phân
bộ
Phi
Châu
trong
QUẦN
TIÊN
HỘI.
Về
sau,
khi
bà
HPB
có
một
sự
biến
đổi
huyền
diệu
về
tâm
linh
và
thể
chất mà
tôi
không
tiện
nói
ra,
và
cho
đến
nay
vẫn
không
ai
ngờ
mặc
dù
họ
được
đối
xử
thân
mật
và
hoàn
toàn
tin
cẩn
của
bà ( như
họ
vẫn
tưởng ),
tôi
được
thuyên
chuyển
sang
phân
chi
Ấn
Độ,
dưới
sự
chăm
sóc
điều
hành
của
một
nhóm Chân sư khác.
Từ
bao
giờ,
khắp
trên
thế
giới luôn
luôn
vẫn
có
một
tổ
chức
vĩ
đại
gồm
một
TẬP
ĐOÀN
TIÊN
THÁNH
chăm
lo
d́u
dắt
sự
tiến
hóa
của
nhân
loại.
Tổ
chức
ấy
dược
chia
làm
nhiều
phân
chi
tùy
theo
những
nhu
cầu của
nhân
loại
trong
những
giai đoạn
tuần
tự
tiến
hóa
khác
nhau.
Trong
một
thế
hệ,
trung
tâm
điều
hành
của
TẬP
ĐOÀN
TIÊN
THÁNH,
tức
QUẦN
TIÊN
HỘI,
được
đặt
ở
một
nơi
nhất
định;
vào
một
thế
hệ
khác,
trung
tâm
ấy
lại
được
đặt
ở
một
nơi
khác.
Tuy
vô
h́nh
vô
ảnh
nhưng
cần
thiết
cho
sự
tiến
bộ
tâm
linh
của
nhân
loại,
quyền
năng
phối
hợp
của
TẬP
ĐOÀN
TIÊN
THÁNH
được
duy
tŕ
từ
thế
hệ
này
sang
thế
hệ
khác
để
trợ
giúp
người
hành
giả
chiến
đấu
không
ngừng
trên
con
đường
Đạo
xa
xôi
diệu
vợi
đưa
đến
Chân
Lư
thiêng
liêng. Kẻ
hoài
nghi
phủ
nhận
sự
hiện
diện
của
các
đấng
Tiên
Thánh
bởi
v́
họ
không
nh́n
thấy
hay
nói
chuyện
với
các
ngài,
cũng
không
hề
thấy
lịch
sử
nói
về
sự
can
thiệp
hữu
vi
của
các
ngài
trong
những
biến
cố
của
các
quốc
gia.
Nhưng
sự
hiện
diện
của
các
ngài
đă
được
nh́n
nhận
bởi
hang
ngh́n
những
bậc
đạo
gia
chân
tu
của
nhiều
thế
hệ
lien
tục,
đă
giải
thoát
khỏi
sự
ô
nhiễm
của
cuộc
đời
thế
gian
để
bước
vào
cơi
giới
tâm
linh
huyền
diệu.
Trong
nhiều
thời
kỳ,
các
ngài
đă
từng
giao
tiếp
thân
mật
với
những
người
chỉ
nguyện
xă
thân
cầu
Đạo,
hoặc
dành
trọn
cuộc
đời
phụng
sự
hiến
dâng
để
đem
lại
hạnh
phúc
và
t́nh
thương
trong
muôn
loài.
Vài
người
trong
số
đó,
rất
mực
khiêm
tốn
và
bề
ngoài
có
vẻ
kém
hèn
như
chúng
tôi
là
những
người
lănh
đạo
phong
trào
THÔNG
THIÊN
HỌC,
đă
có
diễm
phúc
được
sự
ưu
ái
và
chỉ
giáo
của
các
ngài.
Vài
người
như
bà
Blavatsky
và
sư
đệ
Damodar
đă
được
nh́n
thấy
ngài
trong
những
cơn
linh
ảnh
từ
khi
c̣n
nhỏ.
Những
người
khác
đă
gặp
các
ngài
dưới
những
h́nh
dáng
ngụy
trang
lạ
lùng
ở
những
nơi
thật
bất
ngờ.
Tôi
được
bà
Blatsky
giới
thiệu
cho
các
ngài
xuyên
qua
nhân
vật
trung
gian
quen
thuộc
trong
những
kinh
nghiệm
trước
đây:
đó
là
vong
linh
mệnh
danh “John
King”.
Y
giúp
tôi
giao
tiếp
bằng
phương
tiện
Vô
Vi
với
bốn
vị
Chân
Sư,
trong
số
đó
có
một
vị
Chân
Sư
Ai
Cập,
một
vị
là
đại
diện
của
môn
phái
Alexandrie,
một
vị
là
Chân
Sư
Venitien,
và
một
là
hậu
thân
của
một
triết
gia
người
Anh,
tuy
đă
qua
đời
nhưng
vốn
bất
tử.
Chân
Sư
Serapis (Ai
Cập)
là
vị
Sư
Phụ
đầu
tiên
của
tôi,
ngài
có
một
tác
phong
hào
hung
dũng
cảm
và
đầy
vẻ
cương
nghị
của
một
người
trội
hẳn
phần
nam
tính.
Về
sau,
tôi
được
các
Chân
Sư cho
biết
rằng
bà
Blavatsky
là
một
đệ
tử
trung
kiên
của
các
ngài,
tuy
rằng
bà
có
những
tính
chất
bất
thường,
làm
cho
bà
khó
dung
ḥa
được
với
vài
vị
Chân
Sư
để
có
thể
làm
việc
chung
với
các
ngài.
Điều
này
không
lạ
ǵ
khi
ta
biết
rằng
mỗi
người
đều
tiến
hóa
theo
một
Cung
nhất
định
trong
Thiên
Cơ.
Họ
có
sự
ḥa
hợp
tâm
linh
với
những
linh
hồn
đồng
Cung
với
ḿnh,
và
có
thể
đối
nghịch
với
những
linh
hồn
thuộc
về
một
Cung
khác
khi
khoác
lấy
xác
phàm
để
hoạt
động
trên
cơi
hồng
trần
hạ
giới.
Đó
có
lẽ
là
cái
lư
do
căn
bản
của
mọi
sự
ḥa
hợp
hay
xung
khắc
giữa
người
nọ
với
người
kia
trên
thế
gian.
Dù
sao,
vài
vị
Chân
Sư
không
thể
làm
việc
chung
với
bà
Blavatsky.
Bà
chỉ
hợp
tác
được
với
những
vị
khác,
mà
tôi
có
liên
hệ
mật
thiết
trong
những
năm
đầu
của
phong
trào
Thông
Thiên
Học
thế
giới.
Trong
những
chuyện
tâm
sự
với
nhau
khi
tôi
đă
đi
khá
sâu
vào
vấn
đề
để
biết
về
QUẦN
TIÊN
HỘI
và
mối
liên
hệ
của
bà
với
cơ
quan
ấy,
bà
HPB
(
tên
viết
tắt
của
bà
Blavatsky )[5]
nói
cho
tôi
biết
rằng
bà
đă
đến
Paris
từ
năm
trước ( 1873)
với
ư
định
ở
lại
đó
ít
lâu
dưới
sự
bảo
trợ
của
một
người
thân
quyến,
nhưng
một
ngày
nọ
bà
nhận
được
mật
lệnh
của
Chân
Sư
truyền
cho
bà
phải
đi
ngay
sang
New
York
để
chờ
lệnh
mới.
Qua
ngày
hôm
sau,
bà
liền
vượt
biển
trùng
dương
với
chỉ
vừa
đủ
số
tiền
để
mua
vé
tàu.
Bà
viết
thư
cho
cha
ở
bên
Nga
yêu
cầu
ông
gửi
tiền
cho
bà
qua
Lănh
Sự
Quán
Nga
ở
New
York,
nhưng
v́
phải
chờ
đợi
một
thời
gian,
và
v́
viên
Lănh
Sự
Nga
từ
chối
không
cho
bà
mượn
trước,
nên
bà
phải
t́m
việc
làm
để
sống
qua
ngày.
Bà
ở
tại
trong
những
khu
phố
nghèo
nàn
nhất
là
khu
Madison
của
thành
phố
New
York,
và
sống
bằng
nghề
may
thuê
vá
mướn
cho
một
lăo
chủ
tiệm
tạp
hóa
người
Do
Thái
rất
tốt
bụng.
Bà
luôn
luôn
nhắc
đến
người
này
với
một
ḷng
biết
ơn.
Bà
sống
như
vậy
lây
lất
qua
ngày,
nhưng
vẫn
chưa
nhận
được
tin
ǵ
và
tương
lai
hoàn
toàn
mờ
mịt.
Nhưng
năm
sau,
tháng
10
năm
1874,
bà
được
mật
lệnh
đi
đến
Chittenden
để
gặp
một
người
đồng
môn
sẽ
cùng
cộng
tác
với
bà
trong
một
công
việc
vĩ
đại
trong
tương
lai:
người
ấy,
ai
ngờ
chính
lại
là…
tôi.
Những
bạn
bè
thân
hữu
của
bà
đều
nhớ
rơ
câu
chuyện
mà
bà
đă
kể
cho
họ
nghe
về
sự
lên
đường
ra
đi
bất
ngờ
của
bà
từ
Paris
sang
New
York
theo
mật
lệnh
của
Chân
Sư.
Nhưng
những
người
bạn
thân
ấy
chỉ
nghe
bà
kể
lại
măi
về
sau
mà
thôi,
và
những
kẻ
thù
nghịch
với
bà
có
thể
nói
rằng
đó
chỉ
là
một
việc
mà
bà
mới
nghĩ
ra
sau
này,
một
chuyện
giả
dối
được
bịa
đặt
ra
để
cho
ăn
khớp
với
cái
tṛ
đùa
ngộ
nghĩnh
mà
bà
ngụy
tạo
ra
sau
đó.
Tuy
nhiên,
trong
khi
tôi
viết
những
trang
này
tại
Adyar
th́
một
việc
t́nh
cờ (nếu
đó
là
do
sự
t́nh cờ)
vừa
đem
đến
cho
tôi
một
bằng
chứng
xác
nhận
sự
việc
trên.
Vừa
đến
lưu
trú
tại
Adyar,
có
bà
Anna
Ballard,
một
nữ
kư
giả
lăo
thành
người
Mỹ,
hội
viên
kỳ
cựu
của
Câu
Lạc
Bộ
Báo
Chí
thành
phố
New
York.
Do
hoạt
động
nghề
nghiệp,
bà
này
đă
từng
đến
phỏng
vấn
bà
Blavatsky
trong
tuần
lễ
đầu
tiên
sau
khi
bà
HPB
vừa
đổ
bộ
lên
đất
Mỹ.
Trong
khi
tiếp
xúc
với
chúng
tôi,
bà
Ballard
ngẫu
nhiên
nói
cho
tôi
nghe
hai
chuyện,
mà
tôi
liền
yêu
cầu
bà
viết
lại
trên
giấy
trắng
mực
đen
để
làm
tài
liệu.
Điều
thứ
nhất
là
khi
bà
đến
viếng
HPB
ở
một
nơi
nhà
trọ
nghèo
nàn
tại
New
York,
bà
HPB
có
nói
rằng
bà
từ
giă
Paris
th́nh
ĺnh
và
không
có
dự
tính
trước,
do
một
quyết
định
đột
xuất
chỉ
báo
trước
có
một
ngày;
và
việc
kế
đó
là
bà
HPB
đă
từng
viếng
xứ
Tây
Tạng.
Dưới đây
là
lời
tường
thuật
của
bà
Anna
Ballad:
Adyar, 17
tháng
1,
1892
Kính gởi
Đại
Tá
Olcott,
Sự
quen
biết
của
tôi
với
bà
Blavatsky
c̣n
lâu
hơn
là
ông
tưởng.
Tôi
gặp
bà
hồi
tháng
7
năm
1873
tại
New
York,
độ
một
tuần
lễ
sau
khi
bà
vừa
cặp
bến.
Hồi
đó,
tôi
là
phóng
viên
của
nhật
báo
New
York
Sun,
được
chỉ
định
viết
một
bài
về
một
đề
tài
Nga.
Khi
tôi
c̣n
đang
t́m
tài
liệu,
th́
một
người
bạn
cho
tôi
hay
rằng
có
một
phụ
nữ
Nga
vừa
nhập
cảnh
do
chuyến
tàu
mới
đến.
Tôi
bèn
t́m
đến
gặp
bà,
và
từ
đó
bắt
đầu
một
sự
quen
biết
thân
hữu
kéo
dài
đến
nhiều
năm
sau.
Trong
cuộc
phỏng
vấn
đầu
tiên
của
tôi,
bà
HPB
cho
tôi
biết
rằng
bà
không
hề
có
ư
định
rời
Paris
để
sang
Mỹ
cho
đến
ngày
cuối
cùng
trước
khi
bà
xuống
tàu,
nhưng
v́
lư
do
ǵ
bà
ra
đi
và
ai
thúc
hối
bà
đi
gấp
như
vậy,
th́
bà
không
nói.
Tôi
c̣n
nhớ
rơ
bà
nói
với
một
vẻ
sung
sướng
khoái
trá
lộ
ra
mặt:
“Tôi
có
ở
bên
Tây
Tạng.”
Hồi
đó,
tôi
không
hiểu
tại
sao
bà
lại
cho
đó
là
một
vấn
đề
quan
trọng,
c̣n
đặc
biệt
hơn
những
chuyến
du
hành
ở
Ai
Cập,
Ấn
Độ
và
những
nước
khác
mà
bà
đă
kể
chuyện
cho
tôi
nghe,
nhưng
bà
lại
nói
câu
ấy
với
một
vẻ
mặt
nghiêm
trọng
lạ
thường.
Bây
giờ
th́,
lẽ
tất
nhiên,
tôi
hiểu
ư
bà
muốn
nói
ǵ.
Kư
tên:
Anna
Ballard.
Độc
giả
sẽ
nhận
thấy
rằng
những
sự
việc
mà
bà
HPB
đă
kể
cho
người
bạn
đầu
tiên
này
ỏ
New
York
hồi
hai
mươi
năm
về
trước,
đă
xác
nhận
đúng
đắn
những
ǵ
mà
từ
đó
về
sau
bà
cũng
đă
thuật
lại
với
một
số
đông
người,
về
hai
vấn
đề
quan
trọng
nhất
trong
lịch
sử
lien
hệ
giữa
bà
với
hội
Thông
Thiên
Học,
là:
1._
Giai
đoạn
chuẩn
bị
của
bà
bên
xứ
Tây
Tạng
dưới
sự
chăm
sóc
của
các
đấng
Chân
Sư;
và
2._
Cuộc
hành
tŕnh
của
bà
đột
xuất
sang
Mỹ
để
t́m
người
bạn
đồng
môn
có
nghiệp
duyên
cùng
hợp
tác
với
bà
để
phát
động
phong
trào
Thông
Thiên
Học
trên
thế
giới.
Hồi
năm
1871,
bà
đă
có
một
lần
thất
bại
khi
mưu
tính
thành
lập
một
Cơ
Quan
Tinh
Thần
tại
Cairo,
thủ
đô
Ai
Cập,
dựa
trên
nền
tảng
các
hiện
tượng
thần
linh.
V́
không
t́m
được
người
có
đủ
khả
năng
tổ
chức
và
lănh
đạo,
nên
việc
ấy
không
thành;
nó
đă
đem
đến
cho
bà
nhiều
sự
chỉ
trích
và
bực
ḿnh. Tuy
nhiên,
những
phép
thuật
thần
thong
mà
bà
đă
biểu
diễn
với
sự
trợ
giúp
của
các
vị
Chân
Sư
Ai
Cập
và
một
vị
Chân
Sư
khác
mà
về
sau
tôi
được
dịp
tiếp
xúc,
đều
là
những
hiện
tượng
vô
cùng
độc
đáo.
Việc
ấy
có
vẻ
như
một
sự
hoang
phí
thần
lực
một
cách
vô
ích,
và
cho
thấy
công
tŕnh
nầy
dường
như
thiếu
sự
hướng
dẫn của
thiêng
liêng.
Tôi
không
thể
hiểu
tại
sao
sự
việc
lại
xảy
ra
như
vậy.
Nói
về
hội
Thông
Thiên
Học
th́
mọi
sự
diễn
biến
đều
chỉ
rằng
nó
có
một
lịch
tŕnh
tiến
hóa
tuần
tự,
và
bị
chi
phối
bởi
hoàn
cảnh
do
tác
động
của
những
sức
mạnh
tương
phản.
Khi
th́
sinh
hoạt
êm
ái
điều
ḥa,
khi
th́
trải
qua
những
cơn
song
gió
ồ
ạt,
Hội
được
thịnh
vượng
hay
bị
trầm
trệ
tùy
theo
sự
quản
trị
thông
minh
sáng
suốt
hay
kém
khôn
ngoan
của
các
nhà
lănh
đạo.
Đường
lối
đại
cương
của
Hội
vẫn
luôn
luôn
được
ǵn
giữ,
phương
châm
hướng
dẫn
bao
giờ
cũng
vẫn
đồng
nhất,
nhưng
chương
tŕnh sinh
hoạt
của
nó
đôi
khi
được
sửa
đổi,
nới
rộng
hay
cải
tiến
một
cách
linh
động,
uyển
chuyển
tùy
theo
kiến
thức
và
kinh
nghiệm
của
chúng
ta.
Mọi
sự
đều
chứng
minh
cho
tôi
thấy
rằng
phong
trào
Thông
Thiên
Học
nói
chung
đă
được
các
bậc
Tiên
Thánh
chuẩn
bị
từ
trước,
nhưng
c̣n
tất
cả
mọi
chi
tiết
đều
để
cho
chúng
ta
thực
hiện
với
sự
cố
gắng
tối
đa.
Nếu
chúng
ta
thất
bại
th́
cái
cơ
hội
quư
báu
mà
Nghiệp
Quả
đă
dành
cho
chúng
ta
sẽ
rơi
vào
tay
người
khác,
cũng
như
hiện
nay
tôi
là
người
thừa
kế
những
cơ
hội
lỡ
làng
mà
nhóm
tín
hữu
của
bà
Blavatsky
đă
bỏ
dở
không
thực
hiện
được tại
Cairo
hồi
năm
1871.
Trong
thưở
ban
đầu,
tôi
không
hề
nghe
bà
Blavatsky
nói
ǵ
ngụ
ư
rằng
bà
đă
được
cho
biết
trước ,
cho
đến
khi
bà
được
lịnh
đi
đến
Chittenden
để
gặp
tôi,
về
việc
chúng
tôi
sẽ
cùng
cộng
tác
với
nhau
trong
tương
lai,
hay
là
về
việc
thành
lập
hội
Thông
Thiên
Học
thế
giới.
Chúng
tôi
chỉ
nghe
bà
nói,
như
đă
kể
trên,
rằng
bà
được
gởi
từ
Paris
đi
New
York
với
mục
đích
truyền
bá
giáo
lư
Huyền
Môn,và
trước
khi
chúng
tôi
gặp
nhau,
bà
đă
từng
tham
dự
những
buổi
họp
đàn
và
tiếp
xúc
với
các
đồng
tử
nhưng
vẫn
c̣n
ẩn
mặt
chứ
chưa
hề
được
công
chúng
biết
đến.
Tháng
5
năm
1875,
với
sự
đồng
ư
của
bà
HPB,
tôi
bắt
tay
vào
việc
tổ
chức
một
nhóm
thân
hữu
chuyên
khảo
cứu
về
Khoa
Học
Huyền
Bí,
lấy
tên
là
Câu
Lạc
Bộ
Huyền
Linh ( Miracle
Club ).
Trong
một
đoạn
kư
sự
về
việc
này,
bà
viết
như
sau:
“Đó
là
một
mưu
toan
do
lệnh
dạy của
T. B. (một
vị
Chân
Sư),
nhận
được
qua
trung
gian
của
P. (một
tinh
linh)
mệnh
danh
John
King.
Được
lệnh
phải
bắt
đầu
nói
cho
công
chúng
biết
sự
thật
về
các
hiện
tượng
và
các
đồng
tử.
Thế
là
cuộc
pháp
nạn
của
tôi
sẽ
bắt
đầu!
Tôi
sẽ
gặp
phải
sự
chống
đối
của
các
nhà
Thần
Linh
Học,
thêm
vào
sự
thù
nghịch
của
bên
Cơ
Đốc
Giáo
và
những
kẻ
hoài
nghi.
Ôi ! Chân
Sư
M.,
ư
muốn
của
Sư
Phụ
sẽ
phải
được
thực
hiện.
HPB.”
Câu
lạc
bộ
này
được
dự
định
sẽ
nhóm
riêng,
không
thâu
nhận
người
ngoài
trừ
ra
những
thành
viên
của
nhóm,
và
họ
cũng
bị
ngăn
cấm
không
được
tiết
lộ
nơi
họp.
Bà viết
thêm:
“Tất
cả
những
hiện
tượng
Thần
Linh,
gồm
cả
các
sự
hiện
h́nh,
đều
sẽ
diễn
ra
dưới
ánh
sáng, và
sẽ
không
sử
dụng
một
pḥng
tối.”
Theo
lời
bà
nói
như
trên,
th́
dường
như
sẽ
không
có
Hội
Thông
Thiên
Học,
nếu
rốt
cuộc
người
đồng
tử
của
Nhóm
Huyền
Linh
không
hoàn
toàn
suy
thoái
rồi
rút
lui
và
tôi
đành
bỏ
dở
không
thể
hoàn
thành
công
việc
ấy.
CHƯƠNG
HAI
VÀI NÉT ĐẶC THÙ
CỦA
BÀ
BLAVATSKY
Trong chương
một , chúng
tôi có
nói rằng
bà HPB
được lệnh
của Chân
Sư phải
rời Paris
đi New
York một
cách đột
ngột, do
tin báo
trước chỉ
có một
ngày, và
khi đó
bà chỉ
có vừa
đủ tiền
để mua
vé tàu.Tôi
c̣n nhớ
một việc
liên hệ
đến chuyến
đi ấy
do bà
thuật lại,
việc ấy
cũng biểu
lộ một
nét đặc
biệt trong
tính chất
đa dạng
của bà,
ấy là
tính hào
sảng tự
nhiên.
Bà đă
mua một
vé tàu
hạng nhất
đi từ
Havre đến
New York,
và khi
ra bến,
bà nh́n
thấy một
phụ nữ
nhà quê
ngồi bên
vỉa hè
vừa ôm
con vừa
khóc rất
thảm thiết.
Bà bước
đến gạn
hỏi th́
được biết
rằng đó
là một
phụ nữ
Đức định
xuống tàu
để sang
gặp chồng
ở bên
Mỹ, nhưng
bị một
kẻ gian
đă bán
vé giả
cho bà
ta ở
Hambourg. Thế
là khi
đến đây,
bà ấy
bị bơ
vơ, lạc
lơng, không
tiền bạc
và tứ
cố vô
thân nơi
đất khách.
Lẽ tự
nhiên, Công
Ty Hàng
Hải cũng
không làm
ǵ được.
Động ḷng trắc
ần, bà
HPB nói:
“Chị hăy
yên tâm,
để tôi
xem có
cách nào
giúp chị
được không?”
Kế đó,
bà vận
dụng tất
cả mọi
khả năng
hùng biện,
hết thuyết
phục rồi
đến quở
trách người
đại diện
Công Ty,
nhưng rốt
cuộc vẫn
không có
kết quả.
Sau cùng,
v́ bà
không có
đủ tiền
để trợ
giúp người
phụ nữ
bất hạnh
ấy nên
bà phải
dùng đến
phương sách
tối hậu,
chứ không
c̣n cách
nào khác.
Bà liền
đổi vé “cabin’’
hạng nhất
của bà
thành vé
hạng chót,
nằm dưới
hầm tàu,
và dùng
số tiền
sai biệt
để mua
vé hạng
chót luôn
cho cả
hai mẹ
con người
đàn bà
kia!
Nhiều người
thuộc loại
“nề nếp”, “mực
thước,” thường tỏ
ra hoang
mang kinh
ngạc v́
những cử
chỉ ngang
tàng ngáo
ngổ và
cả những
điều sống
sượng bất
nhă nữa
của bà
HPB, nhưng
tôi nghĩ
rằng một
cử chỉ
hy sinh
hào phóng
như vậy
cũng
đủ làm
nghiêng lệch
đ̣n cân,
và quét
sạch tất
cả những
ǵ gọi
là bất
lịch sự
trong phép
xă giao
của người
đời! Ai
không tin,
hăy thử
xuống nằm
dưới hầm
tàu chở
dân di
trú một
lần th́
biết!
Trên đây
có nói
trong trường
hợp nào
nữ kư
giả Ballard
đến gặp
bà HPB
tại một
ngôi nhà
trọ nghèo
nàn ở
một khu
phố b́nh
dân của
thành phố
New York
trong khi
bà c̣n
chờ đợi
tiền nhà
và phải
làm việc
may thuê
vá mướn
để sống
tạm qua
ngày. Đó là vào
tháng 7,
năm 1873.
Tháng mười
năm ấy,
bà nhận
được một
bức điện
tín từ
Stavropol ( Nga ) của
cô em
gái là
Elise, cho
biết tin
phụ thân
bà từ
trần và
có để
lại cho
bà một
phần gia
tài. Cô
em cho
biết thêm
rằng một
ngân phiếu
một ngàn
Nga Kim (roubpes)
đă được
gửi cho
bà. Sau
đó ít
lâu, bà
nhận được
tiền và
dời chỗ
ở đến
một khu
phố khang
trang lịch
sự hơn,
ở đường
East 16th,
công trường
Irving, New
York. Chính
ở địa
chỉ này
mà tôi
đến gặp
bà sau
khi từ
nông trại
Eddy trở
về. Tuy
nhiên, số
tiền ấy
không ở
với bà
được lâu,
v́ như
ông Sinett
dă nhận
xét và
ghi lại
trong quyển
sách của
ông (về
tiểu sử
của bà
HPB) th́
một mặt
bà có
thể chịu
đựng một
cách vô
cùng nhẫn
nhục những
cơn nghèo
túng và
nghịch cảnh
khó khăn,
nhưng khi
tiền bạc
vừa đến
tay bà,
th́ bà
dường như
lấy làm
băn khoăn
khổ sở
trừ khi
bà đem
vứt quăng
đi với
cả hai
tay bằng
những phương
tiện dại
dột nhất.
Đó là
một cuộc
chung vốn
làm ăn
có kư
hợp đồng
để khai
thác nông
trại của
một người
tên là
C.G. trong
một kỳ
hạn là
ba năm.
Trong bản
hộp đồng
có điều
khoản quy
định rằng
bà HPB
sẽ bỏ
ra số
tiền một
ngàn đô
la để
chung vốn,
tất cả
những lợi
tức thu
hoạch được
về hoa
màu, rau
trái, gà
vịt, và
nhũng hoa
lợi linh
tinh khác
sẽ được
chia đều
và mọi
phí tổn
cũng sẽ
cùng gánh
chịu đều
nhau, v..v…
Điều mà
người ta
có thể
tiên liệu
trước đă
xảy ra:
bà HPB
đến ở
tại nông
trại, lợi
tức đâu
chẳng thấy,
đâm ra
tranh chấp,
căi lẫy,
rồi mắc
nợ
và vướng
vào một
vụ kiện
mà rất
lâu về
sau các
bạn bè
thân hữu
của bà
mới giúp
bà giải
quyết xong.
Thế là
tan tành
cái giấc
mộng về
lợi tức
của bà
về rau
trái, hoa
màu, nuôi
ḅ sữa,
gà đẻ
trứng, v..v…Ba tháng
sau đó,
tôi mới
gặp bà
tại ngôi
nhà có
hồn ma
hiện h́nh
ở tại
Vemont, Chittenden, và
bánh xe
nghiệp quả
của chúng
tôi mới
bắt đầu
chuyển động.
Những bài
phóng sự
của tôi
đăng trên
nhật báo
Daily Graphic
đă hấp
dẫn đến
Chittenden một
vị lương
y danh
tiếng của
thành phố
New York,
bác sĩ
Beard. Khi
trở về,
y đă
viết một
bài b́nh
phẩm ngu
xuẩn và
khoác lác
đăng trên
báo, nói
rằng những
chuyện hồn
ma hiện
h́nh ở
nông trại
Eddy chỉ
là những
tṛ giả
mạo, và
y đă
bị bà
HPB “cạo sát
da” trong
một bức
thư trả
lời nảy
lửa gởi
đến ṭa
soạn báo
Graphic. Bức
thư của
bà là
một sự
biện hộ
can đảm
và độc
đáo bênh
vực cho
những đồng
tử Eddy
và sự
thật của
những hiện
tượng xảy
ra, làm
cho bà
đột nhiên
vang dậy
tên tuổi
khắp các
giới kể
từ đó
trở về sau.
Đây là
lần đầu
tiên mà
quần chúng
Mỹ được
nghe tên
tuổi bà
liên quan
dến những
vấn
đề huyền
linh, và
cuộc tranh
luân với
một bác
sĩ nổi
tiếng ở
New York
thời ấy
là cái
nguyên nhân
chính làm
cho bà
được nổi
danh một
cách bất
ngờ.
Hồi
đó,
bà
luôn
luôn
phát
ngôn
với
một
giọng
sôi
nổi,
hào
hùng
và
vui
nhộn
trong
tất
cả
mọi
cuộc
đàm
thoại
và
trên
diễn
đàn
ngôn
luận,
báo
chí;
bà
thu
hút
mọi
người
bằng
cách
nói
chuyện
linh
động
và
ư
nhị;
khinh
bỉ
những
nghi
thức
xă
giao
giả
dối
của
người
đời,
và
gây
sự
ngạc
nhiên
trong
các
giới
bằng
những
quyền
năng
thần
bí
của
bà.
Bà
thường
rút
trong
cái
kho
tang
kư
ức
vô
cùng
dồi
dào
phong
phú
về
những
chuyện
phiêu
lưu
mạo
hiểm
mà
bà
đă
trài
qua
do
kinh
nghiệm
bản
thân,
và
trong
kho
kiến
thức
thâm
sâu
về
khoa
Huyền
Môn,
mà
theo
chỗ
tôi
biết
th́
không
ai
có
thể
b́
kịp
trong
số
các
nhân
vật
xuất
hiện
ở Mỹ
thời
bấy
giờ.
Khi
tôi
đă
kết
thúc
loạt
bài
phóng
sự
đăng
trên
báo
Daily
Graphic
về
các
hiện
tượng
thần
linh
ở
Chittenden,
tôi
bèn
chuẩn
bị
in
ra
thành
sách.
Vào
lúc
này,
bà
HPB
cũng
dời
chỗ
đến
ở
Philadelphia.
Hồi
đó,
khoa
Thần
Linh
Học
đang
trải
qua
một
giai
đoạn
xuống
dốc
do
hậu
quả
của
việc
đồng
tử
Holmes
bị
nhà
bác
học
Dale
Owen
công
khai
tố
giác
là
dối
trá,
bịp
bợm.
Những
cơ
quan
ngôn
luận
của
phong
trào
bị
mất
độc
giả
rất
nhiều,
những
sách
vở
Thần
Linh
Học
sang
giá
nhất
đều
bị
mất
khách
hang
và
nằm
trong
các
nhà
sách
không
ai
mua. Nhà
xuất
bản
quyển
sách
của
tôi
bị
giao
động
tinh
thần
dến
nỗi
tôi
phải
đề
nghị
vối
ông
Dale
Owen
và
bà
đồng
tử
Holmes
mở
một
cuộc
trắc
nghiệm
dài
hạn
dưới
những
điều
kiện
của
tôi
đưa
ra
để
chúng
tôi
thực
hiện
những
cuộc
thử
thách
này
tại
nhà
ông
bà
Holmes.
Sau
đó,
tôi
đến
Havana,
tiểu
bang
New
York,
và
chứng
kiến
những
hiện
tượng
đồng
tử
thật
là
kỳ
diệu
của
bà
Compton.
Tất
cả
những
cuộc
khảo
sát
trên
đây
đều
được
tường
thuật
lại
đầy
đủ
trong
quyển
sách
của
tôi
nhan
đề
“Người
về
từ
cơi
âm”
và
sau
cùng
nó
được
đem
phát
hành.
II
Trong
khi
bà
HPB
ở
Philadelphia,
tôi
nhận
lời
mời
của
bà
và
đến
đó
ở
nghỉ
vài
ngày
sau
một
thời
gian
làm
việc
mệt
nhọc.
Tôi
định
đi
vắng
nhà
có
vài
ngày
thôi
nên
không
dặn
người
nhà
và
văn
pḥng
Luật
chuyển
thơ
từ
cho
tôi,
nhưng
khi
đến
nơi
tôi
mới
biết
bà
không
muốn
để
tôi
về
sớm
như
vậy.
Qua
ngày
hôm
sau,
tôi
đến
Sở
Bưu
Điện,
và
yêu
cầu
họ
đem
thư
tù
của
tôi
nếu
có,
đến
địa
chỉ
của
tôi
đang
ở.
Khi
đó
th́
xảy
ra
một
việc
làm
tôi
ngạc
nhiên,
v́
hồi
đó
tôi
chưa
được
biết
nhiều
về
những
quyền
năng
thần
thông
của
các
Chân
Sư
và
bà
HPB
và
chí
đến
bây
giờ
đối
với
tôi,
nó
vẫn
c̣n
là
một
kỳ
quan
lạ
lung
dẫu
rằng
tôi
đă
từng
trải
qua
một
thời
kỳ
kinh
nghiệm
lâu
dài
về
các
hiện
tượng
huyền
linh.
Ngay
chiều
hôm
đó,
người
đem
thơ
đem
đến
cho
tôi
vài
bức
thơ
gởi
từ
ngoại
quốc,
ngoài
bao
thơ
đề
địa
chỉ
của
tôi
ở
New
York,
có
đóng
dấu
các
trạm
bưu
điện
xuất
xứ
nhưng
KHÔNG
CÓ
CON
DẤU
CỦA
SỞ
BƯU
ĐIỆN
THÀNH
PHỐ
NEW
YORK.
Bất
chấp
mọi
luật
lệ
của
quy
tắc
bưu
điện,
những
bức
thư
đó
đă
được
giao
thẳng
đến
tay
tôi
ở
Philadelphia
mà
không
đi
qua
Sở
Bưu
Điện
thành
phố
New
York.
Ở
New
York
không
ai
biết
địa
chỉ
của
tôi
tại
Philadelphia
v́
chính
tôi
cũng
không
biết
khi
tôi
rời
khỏi
nhà
ra
đi.
Khi
mở
các
bao
thơ,
tôi
thấy
trên
các
thơ
đều
có
những
gịng
chữ
viết,
đúng
là
tuồng
chữ
trên
những
bức
thơ
của
các
Chân
Sư
mà
tôi
đă
nhận
được
ở
New
York
trước
đây,
những
gịng
chữ
này
được
viết
hoặc
ở
ngoài
lề,
hoặc
ở
những
khoảng
trống
trong
thơ
của
những
người
giao
dịch
với
tôi.
Những
gịng
chữ
đó
hoặc
b́nh
phẩm
về
tính
hạnh
hay
ư
đồ
của
các
đương
sự,
hoặc
là
những
lời
khuyên
có
liên
quan
đến
vấn
đề
học
Đạo
của
tôi.
Việc
ấy
mở
màn
cho
toàn
thể
một
loạt
những
hiện
tượng
kỳ
diệu
khác
nữa
trong
khoảng
thời
gian
độ
hai
tuần
mà
tôi
trải
qua
tại
Philadelphia.
Phân
tích
những
hiện
tượng
thần
thông
của
bà
HPB,
hoặc
có
liên
quan
đến
bà,
chúng
tôi
nhận
thấy
chúng
có
thể
được
chia
làm
nhiều
loại,
mà
khả
năng
tạo
nên
những
iện
tượng
đó
đ̣i
hỏi
một
sự
hiểu
biết
về
những
điều
sau
đây:
_
Biết
rơ
những
năng
dụng
rốt
ráo
của
vật
chất,
mănh
lực
kết
cấu
các
nguyên
tử,
nhất
là
sự
hiểu
biết
về
tiềm
năng
của
chất
TINH
QUANG
hay
TIÊN
THIÊN
KHÍ (Akâsha).
_
Khả
năng
tác
động
của
các
Tinh
Linh
Ngũ
Hành
khi
đặt
dưới
ư
chí
điều
khiển
của
con
người.
_
Quyền
năng
sáng
tạo
của
tư
tưởng , có
thể
dùng
thuật
thôi
mien
tạo
ra
những
ảo
giác
mắt
thấy, tai
nghe
và xúc
cảm
những
điều
mà
thật
ra
vốn
không
có.
_
Khả
năng
phóng
xuất
h́nh
ảnh
hay
chữ
viết
bằng
sức
mạnh
của
ư
chí.
_Khả
năng
đọc
tư
tưởng
của
người
khác,
và
thần
nhăn
nh́n
thấy
quá
khứ
vị
lai.
_
Khả
năng
thần
giao
cách
cảm
tùy
ư
muốn
giữa
ḿnh
với
những
nhân
vật
ngang
hàng
hoặc
cao
hơn
ḿnh
về
tŕnh
độ
phát
triển
tâm
linh.
_
Khả
năng
đọc
được
Kư
Ức
của
Thiên
Nhiên,
ẩn
tang
trong
chất
Tinh
Quang
hay
Tiên
Thiên
Khí
nơi
đó
chứa
đựng
tất
cả
những
kho
tang
hiểu
biết
của
con
người.
Hồi
tưởng
lại
những
nhận
xét
của
tôi
trong
hai
chục
năm
qua,
tôi
nghĩ
rằng
tất
cả
những
chuyện
mà
tôi
đă
từng
kể,
hay
sẽ
thuật
lại
trong
quyển
sách
này,
sẽ
thuộc
về
một
trong
những
loại
kể
trên.
Những
kẻ
hoài
nghi
chắc
sẽ
nói
rằng
sự
phân
loại
như
trên
có
vẻ
độc
đoán
và
những
giả
thuyết
của
tôi
là
hăo
huyền.
Họ
sẽ
yêu
cầu
tôi
chứng
minh
sự
thật
về
các
Tinh
Linh
Ngũ
Hành;
về
hiện
tượng
thần
nhăn;
về
sự
chuyển
di
đồ
vật
xuyên
qua
không
gian;
về
sức
mạnh
hấp
dẫn
và
kết
cấu
các
nguyên
tử,v..v… Tôi
chỉ
có
thể
thuật
lại
những
điều
mà
tôi
và
nhiều
người
khác
đă
nh́n
thấy,
và
thách
đố
kẻ
hoài
nghi
t́m
ra
được
trong
cơi
thiên
nhiên
bất
cứ
một
định
luật
nào
ngoài
ra
những
điều
đă
nêu
trên
để
giải
thích
các
sự
kiện
không
thể
chối
căi.
C̣n
nếu
người
ta
cho
rằng
đó
là
phép
lạ,
hay
ma
thuật,
th́
chừng
đó
tôi
sẽ
ngậm
miệng,
v́
điều
đó
chận
đứng
mọi
cuộc
tranh
luận.
Tôi
không
tự
hào
có
thể
giải
thích
tất
cả
những
hiện
tượng
thần
thông
của
bà
HPB,
v́
điều
ấy
đ̣i
hỏi
một
tŕnh
độ
hiểu
biết
ít
nhất
là
tương
đương
với
bà
là
điều
mà
tôi
không
bao
giờ
có.
III
Những
ngày
mà
tôi
trải
qua
ở
Philadelphia
đều
bận
rộn
với
việc
học
Đạo
và
chứng
kiến
những
hiện
tượng
thần
thông
của
bà
HPB.
Ngoài
ra,
tôi
c̣n
có
một
số
bạn
bè
thân
hữu,
và
bà
đă
làm
những
phép
thuật
huyền
linh
này
trước
mặt
mọi
người.
Trong
số
những
phép
thuật
đó,
tôi
c̣n
nhớ
có
lần
bà
làm
cho
một
bức
ảnh
trên
tường
th́nh
ĺnh
biến
mất
khỏi
cái
khung,
và
thay
vào
đó
là
một
bức
chân
dung
hoạt
họa
của
John
King,
trong
khi
một
người
trong
số
quan
khách
đang
nh́n
vào
bức
ảnh.
Lần
lần,
tôi
được
bà
giảng
giải
cho
nghe
những
lư
thuyết
của
Huyền
Môn
Đông
Phương
về
tinh
thần
và
vật
chất
và
về
những
vong
linh
khuất
mặt
trong
cơi
vô
h́nh.
Bà
không
bảo
tôi
từ
bỏ
giả
thuyết
Thần
Linh
Học,
mà
chỉ
cho
tôi
thấy
và
nhận
định
rằng
như
một
khoa
học
chân
chính,
khoa
Thần
Linh
Học
thật
sự
chỉ
có
thể
ở
phương
Đông,
và
những
người
tinh
thông
về
khoa
này
chỉ
có
thể
là
những
bậc
đạo
sư
và
đệ
tử
của
các
đạo
phái
Huyền
Môn
Đông
Phương.
Với
tấm
ḷng
thành
thật
khách
quan
đối
với
các
nhà
Thần
Linh
Học,
tôi
phải
nói
rằng
cho
đến
nay,
chưa
có
một
lư
thuyết
khoa
học
nào
được
đưa
ra
về
những
hiện
tượng
đồng
tử
mà
phần
đông
nói
chung
họ
đă
chấp
nhận.
Và
tôi
cũng
không
thấy
có
một
bằng
chứng
cụ
thể
nào
chỉ
rằng
trong
số
những
tín
hữu
Tây
Phương
của
phong
trào
này,
có
ai
đă
từng
khám
phá
một
phương
pháp
nào
để
có
thể
kêu
gọi
các
vong
linh
xuất
hiện
hoặc
tạo
ra
các
hiện
tượng
tùy
ư
muốn.
Không
một
người
đồng
tử
nào
mà
tôi
đă
từng
gặp
hoặc
nghe
nói
đến,
đă
có
một
bí
quyết
hay
chân
ngôn
để
thực
hiện
được
những
việc
đó,
vốn
là
những
điều
rất
thông
thường
và
quen
thuộc
từ
nhiều
thế
hệ
ở
các
xứ
phương
đông.
Trong
khi
bà
HPB
làm
cho
tôi
và
các
bạn
hữu
tin
rằng
những
hiện
tượng
xảy
ra
hầu
như
mỗi
ngày
đều
là
do
tác
động
của
vong
linh
John
King,
mạo
nhận
là
vong
hồn
một
hải
tặc
lừng
danh
khi
xưa
tên
là
Sir
H. Morgan,
và
bà
chỉ
trợ
giúp
y
với
tư
cách
là
một
người
trung
gian
hay
phụ
tá,
bà
HPB
đă
làm
nhiều
hiện
tượng
chứng
tỏ
là
bà
có
một
bản
lĩnh
cao
cường
về
ngành
Phương
Thuật (Magic ).
Tôi
xin
kể
một
thí
dụ,
đồng
thời
cũng
nói
thêm
rằng
những
phát
minh
khoa
học
lớn
lao
thường
bắt
nguồn
từ
việc
t́nh
cờ
nhận
xét
những
sự
việc
rất
đỗi
thông
thường,
chẳng
hạn
như
một
trái
táo
rụng
xuống
đất giúp
Newton
khám
phá
Luật
Hấp
Dẫn (Gravitation ); và
việc
nh́n
thấy
cái
nắp
thiếc
nhảy
dựng
trên
cái
ấm
nước
đang
sôi[6]
Ngày
nọ,
nhận
thấy
trong
nhà
thiếu
khăn
mặt
để
dùng,
tôi
mua
vài
cái
khăn
lớn
đem
về,
và
cắt
ra
làm
độ
một
chục
chiếc
khăn
nhỏ.
Khi
thấy
bà
HPB
định
lấy
ra
dùng
ngay
mà
không
chịu
viền
các
cạnh
khăn
lại
cẩn
thận,
tôi
mới
phản
đối
lối
sống
thiếu
ngăn
nắp
đó,
và
bà
liền
lấy
kim
chỉ
ra
may.
Bà
chưa
kịp
bắt
đầu
bỗng
nhiên
bà
đá
một
cái
dưới
gậm
bàn
và
nói
với
một
giọng
giận
dữ:
“Đồ
láo,
đi
ra!”
Tôi hỏi:
“Cái
ǵ
vậy?”
Bà đáp:
“Có ǵ
đâu!
Chỉ
có
một
tinh
linh
nó
kéo
vạt
áo
tôi
và
muốn
có
một
việc
ǵ
làm!”
Tôi nói:
“À, hay quá!
Sẵn đây, bà
hăy
đưa
khăn
cho
nó
may.
Bà
cần
ǵ
phải
làm
cho
nhọc,
vả
lại
bà
cũng
chẳng
khéo
tay
ǵ
cho
lắm
về
đường
kim
mũi
chỉ?”
Bà
cười
và
mắng
tôi
chê
bà
may
dở,
nhưng
cũng
chưa
chịu
làm
theo
sự
thỉnh
cầu
của
kẻ
khuất
mặt
ở
dưới
gậm
bàn,
sẵn
sàng
trợ
giúp
một
tay
nếu
có
dịp.
Sau
cùng,
nghe
lời
thuyết
phục
của
tôi,
bà
bảo
tôi
hăy
để
khăn
mặt
và
kim
chỉ
trong
một
cái
tủ
kiếng
có
khóa,
và
che
màn
lụa
xanh
ở
phía
tường
bên
kia.
Tôi
làm
theo
và
trở
lại
tiếp
tục
ngồi
nói
chuyện
với
bà
về
đề
tài
lư
thú
duy
nhất
và
bất
tận
của
chúng
tôi,
là
vấn
đề
khoa
học
huyền
bí.
Sau
độ
mười
lăm
hay
hai
mươi
phút,
tôi
nghe
một
tiếng
động
nhỏ
giống
như
tiếng
chuột
kêu
ở
dưới
gậm
bàn,
khi
đó
bà
HPB
cho
tôi
biết
rằng
“nó”
đă
viền
xong
mấy
cái
khăn.
Tôi
bèn lại
mở
tủ
và
thấy
mười
hai
cái
khăn
mặt
đă
viền
xong,
tuy
rằng
hơi
vụng
về,
giống
như
của
trẻ
em
mới
tập
may
trong
các
lớp
may
nhi
đồng.
Thế
là
mấy
cái
khăn
mặt
đă
được
viền
b́a
thật
sự
không
thể
nghi
ngờ,
trong
cái
tủ
đă
khóa
kín
mà
bà
HPB
không
hề
bén
mảng đến
gần
trong
suốt
thời
gian
đó.
Lúc
ấy,
vào
độ
bốn
giờ
chiều,
giữa
ánh
sang
ban
ngày.
Chúng
tôi
chỉ
có
hai
người
trong
pḥng,
không
có
người
nào
khác
bước
vào
cho
đến
khi
mọi
việc
đă
xong.
Có
lần
trong
khi
chúng
tôi
đang
ngồi
nói
chuyện
ở
pḥng
khách,
bà
HPB
th́nh
ĺnh
biến
mất.
Tôi
đă
từng
trải
nhiều
kinh
nghiệm
về
các
hiện
tượng
huyền
linh,
nhưng
việc
này
làm
tôi
ngạc
nhiên
và
lo
lắng.
Sau
khi
đi
lục
soát
khắp
trong
nhà
mà
không
thấy
ǵ,
tôi
trở
lại
pḥng
khách
châm
ống
điếu
hút
thuốc,
và
thử
t́m
hiểu
điều
bí
mật
này.
Hồi
đó
là
năm
1875,
tức
là
nhiều
năm
trước
khi
khoa
thôi
miên
được
thí
nghiệm
và
phổ
biến,
cho
nên
tôi
không
hề
biết
rằng
lúc
ấy
tôi
chỉ
là
một
đối
tượng
thụ
cảm,
và
bà
HPB
chỉ
có
làm
che
lấp
thị
giác
của
tôi
để
tôi
không
nh́n
thấy
bà
trong
khi
bà
vẫn
có
mặt
tại
chỗ.
Một
lúc
sau
bà
xuất
hiện
trở
lại
nơi
pḥng
khách,
tôi
mới
hỏi
năy
giờ
bà
đi
đâu,
thí
bà
cười
và
nói
rằng
v́
bà
có
việc
phải
làm
về
phần
“ vô
vi ”
nên
bà
đă
tàng
h́nh
trong
chốc
lát.
Nhưng
bà
tàng
h́nh
bằng
cách
nào
th́
bà
không
nói.
Bà
cũng
làm
phép
thuật
đó
trước
mặt
tôi
và
những
người
khác
nhiều
lần
nữa, trước
và
sau
khi
chúng
tôi
đi
sang
Ấn
Độ,
nhưng
tất
cả
những
lần
đó
đều
xảy
ra
nhiều
năm
trước
khi
tôi
được
biết
ǵ
về
khoa
thôi
miên,
vốn
là
cái
đáp
số
dễ
dàng
của
thuật
tàng
h́nh.
Như
tôi
đă
có
lần
giải
thích,
thuật
thôi
miên
của
Đông
Phương
c̣n
cao
tay
ấn
hơn
nhiều
so
với
Tây
Phương,
v́
trong
trường
hợp
này,
sự
dẫn
dụ
để
che
lấp
giác
quan
của
người
thụ
cảm
được
thực
hiện
bằng
tư
tưởng
trong
âm
thầm,
chứ
không
phải
truyền
lệnh
bằng
giọng
nói
có
âm
thanh.
Người
thụ
cảm
không
được
cảnh
giác
để
chống
lại
sự
dẫn
dụ,
và
sự
việc
xảy
ra
tự
nhiên
trong
khi
y
không
hay
biết
ǵ
cả.
Bà
HPB
c̣n
biểu
diễn
nhiều
hiện
tượng
thần
thông
lạ
lùng
khác
nữa.
Tôi
chỉ
thuật
lại
vài
sự
việc
đáng
kể,
nó
làm
thỏa
măn
lư
trí
và
óc
phê
b́nh
của
tôi
về
sự
thật
của
khoa
huyền
thuật
Đông
Phương.
Đó
là
thời
kỳ
mà
tôi
được
biết
bà
HPB
như
một
bạn
đồng
môn,
mối
liên
hệ
giữa
bà
với tôi
được
thiết
lập
trên
một
cương
vị
hoàn
toàn
b́nh
đẳng
và
mật
thiết.
Nhờ
đó,
tôi
mới
có
thể
nhận
xét
bà
như
một
người
thường,
trước
khi
bà
được
các
bạn
Đạo
suy
tôn
gần
như
thần
thánh,
những
người
này
không
được
biết
ǵ
về
những
sở
trường,
sở
đoản
và
tính
chất
rất
cận
nhân
tính
của
bà.
Như
tôi
sẽ
tŕnh
bày
một
cách
trung
thực, cái
h́nh
ảnh
lư
tưởng
đă
phai
mờ
của
tác
giả
các
bộ
sách
“Vén
Màn
Isis” và “Giáo
Lư
Bí
Truyền” sẽ
là
h́nh
ảnh
của
một
người
bằng
xương
bằng
thịt;
một
người
phụ
nữ
thật
sự
tuy
rằng
trội
hẳn
về
phần
nam
tính,
sống
b́nh
thường
như
mọi
người
khi
thức
tỉnh,
nhưng
lại
đi
vào
một
thế
giới
khác
và
giao
tiếp
với
những
nhân
vật
cao
cả
hơn
trong
giấc
ngủ
hay
trong
khi
xử
dụng
nhăn
quang
siêu
phàm;
một
cá
tính
đặc
biệt
ngự
trong
một
xác
thân
phụ
nữ
yếu
đuối,
“trong
đó… một
cơn
giông
tố
luôn
luôn
gầm
thét
hầu
như
bất
cứ
lúc
nào,”
theo
lời
của
một
vị
Chân
Sư
miêu
tả
t́nh
trạng
tâm
linh
và
khí
chất
của
bà.
Một
khí
chất
thật
bất
thường,
biến
đổi,
đa
h́nh
đa
dạng,
nóng
nảy,
ồ
ạt
như
giông
băo,
nó
đ̣i
hỏi
ở
kẻ
đối
tượng
một
sự
nhịn
nhục
và
tự
chủ
đến
mức
độ
anh
hùng
nếu
họ
muốn
sống
chung
và
cộng
tác
với
bà
trên
một
tinh
thần
vô
kỷ
vị
tha.
Dù
rằng
thế
nào,
người
ta
không
thể
quên
bản
lĩnh
phương
thuật
cao
cường
và
những
phép
thuật
thần
thông
mà
bà
đă
thực
hiện,
những
bằng
chứng
dồn
dập
mà
bà
đă
cho
thấy
về
sự
hiện
diện
của
các
đấng
Chân
Sư
mà
bà
tuyệt
đối
phục
tùng
đến
mức
bà
cảm
thấy
không
xứng
đáng
để
lau
bụi
trên
bàn
chân
của
các
ngài,
và
công
tŕnh
phụng
sự
hiến
dâng
khi
mà
người
phụ
nữ
ngáo
ngổ
và
ngang
tàng
ấy
trở
thành
một
bậc
đạo
sư
phổ
biến
đạo
lư
cho
đời
và
một
nhà
tiền
phong
cầm
đuốc
soi
đường
cho
người
tầm
Đạo.
Tất
cả
những
điều
đó,
và
những
bộ
sách
Đạo
mà
bà
để
lại
cho
hậu
thế,
càng
kết
hợp
để
chứng
minh
tính
chất
vĩ
đại
của
bà
và
làm
cho
tính
khí
ngang
ngạnh
bất
thường
của
bà
được
xóa
nḥa
trong
quên
lăng,
thậm
chí
bởi
những
người
đă
từng
bị
những
điều
ấy
làm
cho
điêu
đứng
khổ
sở
nhiều
nhất
về
phương
diện
tinh
thần.
Bằng
cách
vạch
rơ
con
đường
Đạo
cho
hậu
thế,
bà
đặt
tất
cả
chúng
ta
dưới
một
gánh
nặng
nghĩa
vụ
đến
mức
người
ta
không
thể
có
cảm
nghĩ
nào
khác
hơn
là
một
sự
biết
ơn
sâu
xa
đối
với
bà.
CHƯƠNG
BA
THỬ
THÁCH
Với
ư
định
tường
thuật
theo
thứ
tự
thời
gian
những
sự
việc
hồi
thuở
ban
đầu
Hội
Thông
Thiên
Học
gồm
cả
những
ngày
liên
hệ
ban
sơ
giữa
bà
HPB
với
tôi,
tôi
thấy
cần
nói
qua
vài
hiện
tượng
phóng
bút
của
bà,
mà
tôi
có
ghi
chép
trong
quyển “Người
Về
Từ
Cơi
Âm”.
Như
đă
nói
trước
đây,
những
hiện
tượng
của
bà
HPB
dường
như
do
tác
động
của
một
vong
linh
mệnh
danh
John
King,
vốn
là
linh
hồn
đă
thoát
xác
của
một
tay
hải
tặc
lừng
danh
khi
xưa
tên
Henry
de
Morgan,
đă
từng
được
Anh
Hoàng
Charles
II
tấn
phong
Hiệp
Sĩ,
nhưng
thật
sự
chỉ
là
một
cái
tên
giả
để
tạm
gọi
những
âm
binh
hay
tinh
linh
dưới
quyền
sai
khiến
của
bà
HPB.
Trong
một
buổi
họp
nơi
bà
trú
ngụ
tại
một
khách
sạn
ở
Philadelphia
vào
buổi
tối,
ngày
6
tháng
1
năm
1875,
nhân
dịp
J. K.
đang làm
các
hiện
tượng
lạ,
tôi
nói:
“Nếu
quả
thật
anh
là
một
vong
linh
tốt
lành
như
anh
tự
nhận,
anh
hăy
thi
thố
một
vài
quyền
năng
của
anh
cho
tôi
xem.
Chẳng
hạn,
anh
hăy
làm
ra
một
bổn
sao
của
một
bức
thơ
mà
tôi
đang
cất
trong
“ bóp “
và
đựng
trong
túi
áo
của
tôi.”
Không
ai
để
ư
ǵ
đến
lời
yêu
cầu
của
tôi
chiều
hôm
ấy,
nhưng
qua
đến
tối
hôm
thứ
ba,
sau
đêm
hôm
đó
hai
ngày,
trong
khi
bà
HPB
và
tôi
đang
ngồi
ở
cạnh
bàn
làm
việc,
những
tiếng
gơ
nhịp
rất
lớn
vang
lên.
Theo
tiếng
nhịp,
tôi
liền
viết
ra
những
nguyên
âm
chữ
cái
và
đọc:
“Ông
vui
ḷng
đưa
cho
tôi
cuốn
tự
điển
xuống
dưới
gầm
bàn.”
Trên
bàn
lúc
ấy
có
quyển
tự
điển
Nga- Anh
của
bà
HPB,
tôi
bèn
cầm
lấy
và
ĐƯA
XUỐNG
gầm
bàn
theo
lời
yêu
cầu.
(Tôi
chỉ
đưa,
chứ
không
phải
BỎ
RƠI
xuống
đất,
dường
như
đưa
cho
một
người
khuất
mặt
nào
đó
ở
dưới
gầm
bàn
cầm
lấy
quyển
tự
điển
dầy
cộm). Kế
đó,
những
tiếng
nhịp
gơ
yêu
cầu
tôi
đưa
xuống
một
lọ
keo
( hồ ) để
dán,
và
một
con
dao
nhỏ
chuốt
viết
ch́.
Những
vật
liệu
này
cũng
được
đưa
xuống
gầm
bàn,
và
sau
một
cơn
im
lặng
kéo
dài
độ
một
lúc,
tiếng
nhịp
gơ
báo
hiệu
“Đă
xong!”. Chúng
tôi
thâu
hồi
cuốn
tự
điển,
con
dao
và
lọ
keo,
và
nhận
thấy
trên
một
trang
giấy
rời
trong
quyển
tự
điển,
là
một
phó
bổn
phóng
bút
của
bức
thơ
nói
trên.
Bà
HPB
giải
thích
tác
dụng
của
con
dao
như
sau:
“Một
phần
rất
nhỏ
chất
kim
khí
của
lưỡi
dao
được
giải
thể
thành
chất
hơi
và
dùng
để
phóng
ra
những
hàng
chữ
màu
đen.
Keo
hồ
cũng
được
chuyển
thành
trạng
thái
chất
hơi,
và
có
tác
dụng
hàn
gắn
các
nguyên
tử
chất
kim
khí
trong
cuộc
thí
nghiệm.”
Cái
“bóp
phơi” đựng
bức
thơ
vẫn
ở
trong
túi
áo
của
tôi
từ
khi
tôi
đến
thành
phố
này
cho
đến
cái
đêm
làm
cuộc
biểu
diễn.
Độ
nửa
giờ
trước
đó,
tôi
đă
đặt
nó
lên
cái
kệ
phía
trên
ḷ
sưởi,
ở
ngay
trước
tầm
mắt
của
tôi mỗi
khi
tôi
ngẩng
mặt
nh́n
lên
từ
quyển
sách
tôi
đang
đọc.
Bà
HPB
vẫn
ngồi
gần
bên
tôi
ở
cạnh
bàn
và
đang
chăm
chú
viết,
ngoài
ra
chúng
tôi
không
có
một
người
nào
trong
gian
pḥng.
Khi
tôi
so
sánh
bức
thơ
và
phó
bổn,
bằng
cách
kê
cả
hai
tờ
giấy
lên
nhau,
th́
tuy
rằng
hai
bức
đều
giống
nhau,
nhưng
không
phải
rập
theo
nhau
từng
chi
tiết,
điều
này
lại
càng
làm
cho
hiện
tượng
phóng
bút
thêm
phần
thú
vị.
II
Trong
thời
gian
ở
Philadelphia,
bà
rất
bận
rộn
công
việc
viết
bài
vở
cho
các
báo
chí,
trước
hết
nói
về
Thần
Linh
Học,
và
sau
đó,
về
khoa
Huyền
Môn
của
Đông
Phương.
Việc
phát
hành
quyển
sách
của
tôi
cũng
đă
đưa
đến
những
kết
quả
quan
trọng,
là
gây
nên
những
cuộc
b́nh
luận
kéo
dài
trong
báo
giới
Anh-Mỹ,
trong
đó
bà
HPB
và
tôi
đều
có
đóng
góp
bài
vở
và
thiết
lập
những
mối
t́nh
thân
hữu
thêm
bền
chặt
với
nhiều
bạn
Đạo:
trong
sự
giao
dịch
bằng
thơ
từ,
chúng
tôi
đă
giải
bày
với
họ
toàn
bộ
các
vấn
đề
Huyền
Học
Đông
Phương
và
Tây
Phương.
Không
bao
lâu,
chúng
tôi
đă
nhận
được
rất
nhiều
thơ
tín
từ
khắp
nơi
trên
thế
giới,
trong
số
đó
có
những
người
t́m
hiểu
nhờ
giải
đáp
thắc
mắc ; cũng
có
những
kẻ
đối
nghịch
gởi
thơ
chống
bang,
đả
kích ; và
những
cảm
t́nh
viên
gửi
lời
khen
tặng
và
khích
lệ.
Ông
Alexandre Aksakof,
trong
Hội
đồng
Tư
Vấn
của
Nga
Hoàng
và
là
một
nhà
Thần
Linh
Học
rất
hăng
say,
đă
yêu
cầu
bà
HPB
dịch
quyển
sách
của
tôi
ra
tiếng
Nga,
và
chịu
đài
thọ
mọi
phí
tổn
ấn
loát
và
phát
hành.
Bà
nhận
lời
và
sau
đó
ít
lâu,
đă
xuất
hiện
tại
St. Petersburg
một
cuốn
văn
thư
khen
tặng
với
lời
lẽ
rất
khả
ái
của
giáo
sư
N.A. Wagner,
một
chuyên
gia
Khoa
Học
thượng
thặng
của
trường
Đại
Học
Hoàng
Gia,
trong
đó
ông
tuyên
bố
rằng
trong
công
việc
điều
tra
sưu
tầm
của
tôi
về
các
hiện
tượng
Thần
Linh,
tôi
đă
thực
hiện “ĐÚNG
THEO
NHỮNG
ĐIỀU
KIỆN
CẦN
THIẾT
CỦA
MỘT
CUỘC
KHẢO
SÁT
KHOA
HỌC
NGHIÊM
CHỈNH
VÀ
THẬN
TRỌNG”. Đó
là
một
chứng
thư
mà
đương
nhiên
tôi
cảm
thấy
rất
lấy
làm
hănh
diện.
Các
nhà
bác
học
William
Crookes,
Alfred
Wallace
của
Anh,
và
Camille
Flammarion
của
Pháp,
cũng
đă
bày
tỏ
những
cảm
t́nh
ưu
ái
rất
nồng
hậu
và
thân
hữu.
Vài
tháng
sau
đó, ông
C. C.Massey, một
người
Anh
từ
Luân
Đôn
sang
Mỹ
để
kiểm
chứng, bằng
cách
đích
thân
quan
sát
tại
chỗ, những lời
tường
thuật
của
tôi
về
các
hiện
tượng
hồn
ma
hiện
h́nh
ở
nông
trại
Eddy. Chúng
tôi
vẫn
thường
xuyên
tiếp
xúc
với
nhau, và
đă
thông
cảm
nhau
đến
mức
nảy
sinh
một
t́nh
thân
hữu
đậm
đà giữa
chúng tôi, một
t́nh
bạn
thâm
giao
vẫn
kéo
dài
cho
đến
ngày
nay.
Ngoài
ra, tôi
cũng
có
giao
dịch
bằng
thơ
từ
và
kết
thân
với
một
người bạn
khác, là
ông
Stainton Moses, Tiến
Sĩ
Văn
Khoa
tốt
nghiệp
Đại
Học
Oxford, làm
giáo
sư
Văn
Chương
và
Anh
Ngữ
tại
trường
đại
học
Luân
Đôn. Tôi
có
gửi
cho
y
một
quyển
sách của
tôi
và
chúng
tôi
đă
trao
đổi
thơ
từ qua
lại
hầu
như
hàng
tuần
trong
nhiều
năm
liên
tiếp. Bức
thư
đầu
tiên
của
y
thảo
luận
về
những
điều
kiện
và
kết
quả
của
những hiện
tượng đồng
tử trong
những
buổi
họp
đàn. Y lưu ư tôi
đến
sự
kiện
này
là:
“Sự
có
mặt
của
vài
hạng
người
trong
những
buổi
họp
đàn
gây
chướng
ngại
trầm
trọng
và
có
khi
làm
tê
liệt
các
hiện
tượng.
Nguyên
nhân
không
phải
lỗi
tại
họ
hay
là
do
một
thái
độ
tinh
thần
ǵ
đó ( chẳng
hạn
như
thiếu
đức
tin,.v..v…), mà
là
do
bầu
không
khí
chung
quanh
họ
gây
nên.
Người
đồng
tử
càng
nhạy
cảm
bao
nhiêu, th́
điều
đó càng
rỏ
rệt
bấy
nhiêu.”
Ông Stainton Moses
viết
tiếp :
“ Sự
có
mặt
của
nhiều
người
bạn
tôi
làm
cho
mọi
hiện
tượng
của
tôi
đều
ngưng
trệ,
điều
đó
làm
tôi
rất
bực
ḿnh
mà
tôi
không
làm
sao
sửa
đổi
được.”
Bàn
về
hiện
tượng
giải
thể ( biến
mất
xác ) của
người
đồng
tử ( như
trường
hợp
của
bà
Compton,
được
diễn
tả
trong
cuộc
sống
của
tôi ), y
cho
rằng
đó
là
hiện
tượng
lạ
kỳ
nhất, mà
y
không
thể
giải
thích,
nhưng
y
tin
rằng
điều
đó
không
lạ
ǵ
đối
với
các
nhà
Thuật
Sĩ
phương
Đông. Những
ǵ
tôi
đă
tŕnh
bày
trong
một
Chương
trước
đây
về
quyền
năng
che
lấp
thị
giác
của
người
khác
bằng
thuật
thôi
miên
làm
tê
liệt
các
dây
thần
kinh
trong
cặp
mắt
họ,
giải
đáp
được
điều
bí
hiểm
này
và
loại
trừ
nhiều
sự
mê
tín
dị
đoan
khác,
kể
cả
việc
cho
đó
là
ma
thuật.
Thật
không
uổng
công
lao
mà
viết
quyển
sách
đó,
nhờ
nó
mà
tôi
có
hai
người
bạn
tâm
giao
trọn
đời
như
Stainton moses
và
Massey,
nhưng
lại
c̣n
hơn
thế
nữa,
nó
đă
thay
đổi
cuộc
đời
tôi
và
đánh
dấu
một
giai
đoạn
lịch
sử.
Trong
thời
gian
ông
Massey
lưu
trú
tại
Mỹ
Quốc,
chúng
tôi
đă
cùng
nhau
viếng
thăm
nhiều
nhà
đồng
tử,
và
ông
là
một
trong
những
người
đầu
tiên
đă
theo
bà
HPB
và
tôi
để
thành
lập
Hội
Thông
Thiên
Học
Thế
Giới
vào
khoảng
cuối
năm
ấy ( 1875 ).
III
Trước
đây
tôi
có
nói
về
Sigor B. , một
nghệ
sĩ
người
Ư
có
phép
thuật
thần
thông,
đă
có
lần
đến
viếng
bà
HPB
tại
New
York.
Một
buổi
tối
mùa
thu,
năm
1875,
ngay
sau
khi
thành
lập
Hội
Thông
Thiên
Học
tôi
đă
chứng
kiến
hiện
tượng
lạ
lùng
của
y
làm
mưa
bằng
cách
sai
khiến
những
tinh
linh
trong
không
gian.
Đó
là
một
đêm
trăng
tṛn,
bầu
trời
xanh
biếc
không
có
một
cụm
mây
che.
Y
gọi
bà
HPB
và
tôi
ra
ngoài
bao
lơn
và
dặn
tôi
hăy
b́nh
tĩnh
và
hoàn
toàn
im
lặng,
dù
việc
ǵ
xảy
ra.
Kế
đó,
y
lấy
trong
túi
áo
và
đưa
về
phía
mặt
trăng
một
tờ
giấy
cứng
độ
bằng
khuôn
khổ
tập
vở
học
tṛ,
trên
một
mặt
giấy
có
vẽ
bằng
màu
nước
một
số
h́nh
vuông
vức
trong
mỗi
ô
vuông
có
một
con
số
dị
kỳ,
nhưng
y
không
cho
tôi
cầm
lấy
hoặc
xem
xét.
Tôi
đứng
gần
bên
ở
sau
lưng
y,
và
có
thể
cảm
thấy
thân
ḿnh
y
cứng
đơ
dường
như
trong
một
cơn
tập
trung
ư
chí
mănh
liệt.
Độ
một
lát,
y
chỉ
vào
mặt
trăng
và
chúng
tôi
thấy
những
luồng
mây
đen
từ
vành
trăng
tuôn
ra
và
bay
về
phía
chân
trời.
Tôi
bất
giác
thốt
lên
một
tiếng
kêu
ngạc
nhiên,
nhưng
nhà
phù
thủy
nắm
chặt
tay
tôi
với
một
bàn
tay
cứng
như
sắt
và
ra
hiệu
cho
tôi
hăy
im
lặng.
Luồng
mây
đen
bay
ra
mỗi
lúc
càng
mau,
và
kéo
ra
càng
dài.
Nó
lan
dần
thành
h́nh
rẽ
quạt,
và
trong
chốc
lát,
những
đám
mây
đen
khác
xuất
hiện
trên
nền
trời
rải
rác
mỗi
chỗ
một
ít,
rồi
hợp
thành
khối
và
di
chuyển
rất
mau.
Nền
trời
đă
trở
nên
u
ám
v́
mây
đen
bao
phủ,
mặt
trăng
biến
mất
dạng,
và
một
cơn
mưa
rơi
xuống
khiến
chúng
tôi
phải
lui
vào
nhà.
Không
có
sấm
sét,
cũng
không
có
gió,
mà
chỉ
có
một cơn
mưa
rào
được
tạo
nên
trong
ṿng
một
khắc
đồng
hồ
bởi
con
người
kỳ
bí
ấy.
Khi
chúng
tôi
đến
gần
ánh
sáng
của
ngọn
đèn,
tôi
nhận
thấy
gương
mặt
nhà
phù
thủy
biểu
lộ
những
nét
rắn
rỏi
cương
nghị
như
sắt
thép
và
hai
hàm
răng
nghiến
chặt,
giống
như
sắc
thái
mà
người
ta
nh́n
thấy
trên
gương
mặt
của
những
binh
sĩ
tác
chiến
ngoài
mặt
trận.
Quả
thật
vậy,
y
vừa
mới
chiến
đấu
và
chinh
phục
những
đạo
binh
tinh
linh
ngũ
hành,
một
kỳ
công
nó
đ̣i
hỏi
sự
tận
dụng
tất
cả
mọi
nghị
lực
trong
con
người.
Signor B.
không
ở
lại
với
chúng
tôi
lâu,
mà
hối
hả
cáo
từ
ra
về,
và
v́
đêm
đă
khuya,
nên
tôi
cũng
lui
về
pḥng
riêng
vài
phút
sau
đó.
Nền
đá
trên
đường
lộ
đă
trơn
ướt
v́
mưa,
không
khí
lạnh
và
ẩm.
Tôi
vừa
vào
pḥng
ngồi
hút
thuốc
th́
nghe
tiếng
chuông
reo,
và
khi
ra
mở
cửa
trước,
tôi
thấy
Signor B.
đứng
trên
ngưỡng
cửa,
gương
mặt
tái
xanh
và
một
phần
đă
kiệt
sức.
Y
xin
lỗi
v́
đă
làm
phiền
rộn
tôi
và
xin
một
ly
nước
uống.
Tôi
mời
y
bước
vào
nhà,
sau
khi
y
đă
uống
nước
và
ngồi
nghỉ
một
lát ,
chúng
tôi
mới
nói
chuyện
về
những
vấn
đề
huyền
học
và
câu
chuyện
kéo
dài
trong
một
lúc
khá
lâu.
Tôi
nhận
thấy
y
sẵn
sàng
thảo
luận
về
các
vấn
đề
văn
chương,
nghệ
thuật
hay
khoa
học,
nhưng
lại
vô
cùng
dè
dặt
khi
nói
về
khoa
Huyền
Môn
và
kinh
nghiệm
cá
nhân
của
y
trong
việc
phát
triển
tâm
linh.
Tuy
nhiên,
y
giải
thích
rằng
tất
cả
những
giống
tinh
linh
ngũ
hành
đều
có
thể
chịu
sự
kiểm
chế
của
con
người
khi
y
đă
phát
triển
được
những
tiềm
năng
thiên
phú
của
ḿnh.
Chừng
đó,
ư
chí
của
y
sẽ
trở
nên
một
sức
mạnh
vô
địch
làm
cho
tất
cả
những
giống
sinh
vật
thấp
kém
hơn
gồm
cả
các
loại
tinh
linh
ngũ
hành,
đều
phải
chịu
khuất
phục.
Tôi
không
có
thật
sự
nh́n
thấy
luồng
khói
đen
từ
trong
vành
trăng
bay
ra,
đó
chỉ
là
một
ảo
giác
được
tạo
ra
bởi
sự
tập
trung
tư
tưởng
của
y
trên
mặt
trăng,
nhưng
tôi
quả
thật
có
nh́n
thấy
những
đám
mây
đen
xuất
hiện
trên
nền
trời
trong
sáng
và
nh́n
thấy
mưa
rơi.
Y
lưu
ư
tôi
đến
sự
kiện
ấy
để
tôi
suy
gẫm.
Nhưng
bây
giờ
y
lại
đưa
cho
tôi
một
lời
khuyên
nó
làm
cho
tôi
rất
ngạc
nhiên.
Tôi
đă
thấy
y
rất
thuận
thảo
với
bà
HPB,
họ
đă
từng
nói
chuyện
rất
cởi
mở
và
rất
thân
hữu
với
nhau
về
các
vấn
đề
thế
sự
cũng
như
về
khoa
học
huyền
môn,
và
cùng
so
tài
trong
việc
làm
các
hiện
tượng
như
hiện
tượng
hai
con
bướm
trắng.
Bởi
vậy,
tôi
vô
cùng
ngạc
nhiên
khi
thấy
y
làm
ra
vẻ
bí
mật
và
cảnh
giác
tôi
hăy
nên
đoạn
tuyệt
mọi
sự
giao
du
thân
mật
với
bà.
Y
nói
bà
là
một
phụ
nữ
độc
ác
rất
nguy
hiểm,
và
sẽ
đem
tai
họa
đến
cho
tôi
nếu
tôi
cứ
tiếp
tục
mối
liên
hệ
giữa
tôi
với
bá.
Y
nói
y
đến
cảnh
giác
tôi
điều
ấy
là
do
lệnh
của
một
vị
Chân
Sư,
mà
tôi
đă
từng
nghe
y
nhắc
đến
thánh
danh
trong
những
câu
chuyện
với
bà
HPB
và
tôi.
Tôi
nh́n
thẳng
vào
mặt
y
để
thử
ḍ
xem
có
một
ư
nghĩa
ẩn
dấu
ǵ
chăng
trong
những
lời
nói
vô
lư
đó,
và
sau
cùng
tôi
nói:
“Thưa
ông,
tôi
biết
rằng
đấng
Cao
Cả
mà
ông
vừa
nhắc
đến
quả
có
thật.
Sau
khi
đă
nh́n
thấy
ông
trổ
phép
thuật
thần
thông
vừa
rồi,
tôi
có
đủ
mọi
lư
do
để
ngờ
rằng
chắc
ông
có
liên
hệ
với
Ngài
hay
với
Quần
Tiên
Hội.
Tôi
sẵn
sang
tuân
lịnh
ngài
cho
dù
phải
hy
sinh
tính
mạng
tôi.
Bây
giờ
tôi
yêu
cầu
ông
hăy
đưa
ra
một
bằng
chứng
cụ
thể
để
chứng
minh
một
cách
rơ
ràng,
tích
cực
và
không
thể
nghi
ngờ,
rằng
bà
HPB
là
người
yêu
phụ
mà
ông
diễn
tả,
và
Chân
Sư
muốn
tôi
phải
chấm
dứt
mọi
sự
liên
hệ
với
bà.”
Người
phù
thủy
Ư
do
dự,
nói
lắp
bắp
vài
lời
vô
nghĩa,
và
đổi
đề
tài
nói
qua
chuyện
khác.
Tuy
y
có
thể
kéo
mây
đen
ra
khỏi
mặt
trăng,
y
vẫn
không
thể
gieo
sự
ngờ
vực
hắc
ám
vào
ḷng
tôi
đối với
người
bạn
Đạo
và
người
hướng
dẫn
tôi
đi
xuyên
qua
những
ngơ
ngách
bí
hiểm
của
khoa
Huyền
Môn.
Sau đó, tôi có kể lại sự vệc này cho bà HPB
nghe! Bà mỉm cười nói
rằng
tôi
đă
vượt
qua
cuộc
thử
thách
sơ
đẳng
đó
một
cách
tốt
đẹp,
và
viết
vài
chữ
cho
Signor B.
khuyên
ông
ta
hăy
“ quên
đường
đưa
đến
nhà
bà”.
CHƯƠNG BỐN
NHÀY VÀO V̉NG CHIẾN
Những
cuộc
tranh
luận
và
bút
chiến
mà
các
bài
phóng
sự
và
quyển
sách
của
tôi
đă
gây
ra
trong
các
giới,
trong
đó
bà
PHB
và
tôi
đều
có
dự
phần ; sự
tố
giác
và
bênh
vực
các
đồng
tử
Holmes; và
những
cuộc
b́nh
luận
sôi
nổi
kéo
dài
về
khoa
Thần
Linh
Học
trong
báo
giới
Âu-Mỹ,
đă
đưa
đến
vài
hậu
quả
thuận
lợi,
trong
đó
có
hai
điều
quan
trọng
là :
1._
Việc
tŕnh
bày
những
quan
niệm
Huyền
Môn
của
Đông
Phương,
làm
cho
thế
giới
Tây
Phương
phải
chú
ư;
và
2._
Việc
khai
sinh
ra
hội
Thông
Thiên
Học
thế
giới.
Sự
thành
lập
Hội
Thông
Thiên
Học
không
phải
là
do
phép
mầu
của
các
Chân
Sư
theo
những
chuyện
bịa
đặt
láo
lếu,
mà
chỉ
là
do
hậu
quả
tự
nhiên
của
những
giai
đoạn
diễn
biến
tuần
tự,
như
độc
giả
sẽ
thấy
trong
những
thơ
từ
mà
chúng
tôi
viết
cho
các
báo
trong
những
thuở
ban
đầu,
và
trích
lục
vài
đoạn
dưới
đây.
Những
chi
tiết
có
vẻ
khô
khan,
nhưng
có
tầm
mức
quan
trọng
như
những
tài
liệu
lịch
sử.
Như
đă
nói
trước
đây,
sự
công
kích
có
tính
cách
tự
quảng
cáo
của
bác
sĩ
Beard,
một
vị
lương
y
chuyên
khoa
chữa
trị
bằng
điện
ở
New
York,
nhằm
vào
các
đồng
tử
Eddy,
và
sự
tuyên
bố
láo
rằng
ông
ta
có
thể
tạo
ra
những
hiện
tượng
đó
“với
những
đồ
y
trang
rẻ
tiền
chỉ
tốn
chừng
ba
đô
la”,
đă
làm
cho
bà
HPB
phẫn
nộ
đến
mức
bà
đă “lột
da
sống”
ông
ta
trong
một
bức
thơ
trả
lời
nẩy
lửa
đăng
trên
nhật
báo
Graphic,
và
thách
đố
ông
ta
dám
đánh
cuộc
năm
ngàn
đô
la
ăn
thua
với
bà
về
sự
việc
trên.
Chính
việc
ấy
đă
làm
cho
quần
chúng
Mỹ
lần
đầu
tiên
biết
đến
tên
tuổi
bà.
Lẽ
tự
nhiên,
có
sự
kết
bè
thành
hai
nhóm
đối
lập : nhóm
Thần
Linh
Học
và
các
đồng
tử
theo
về
phe
bà
HPB , c̣n
những
kẻ
chống
đối,
nhất
là
các
nhà
bác
học
có
khuynh
hướng
duy
vật,
th́
đứng
về
phía
những
người
ủng
hộ
bác
sĩ
Beard.
Kẻ
thủ
lợi
trong
việc
tranh
chấp
này
lại
chính
là
ông
Beard,
v́
đó
là
một
mánh
khóe
có
tác
dụng
quảng
cáo
cho
tên
tuổi
ông
và
khoa
điện
y
của
ông
với
kết
quả
quá
mức
dự
liệu.
Các
nhật
báo
Mỹ
đều
b́nh
luận
về
bức
thơ
khiêu
khích
nẩy
lửa
của
bà
HPB
chống
bác
sĩ
Beard.
Bà
cũng
đă
trả
lời
các
báo,
do
đó
tên
tuổi
của
bà
càng
ngày
càng
vang
dội
khắp
nơi
khi
cuộc
tranh
luận
càng
kéo
dài.
Như
đă
nói
trước
đây,
bà
đứng
trên
lập
trường
của
một
nhà
Thần
Linh
Học,
không
những
tin
tưởng
mà
c̣n
BIẾT
RƠ
rằng
những
trí
lực
“nhiếp”
vào
các
đồng
tử
để
giáng
ngôn
giáng
bút,
làm
các
hiện
tượng
hữu
h́nh,
và
hiện
h́nh
toàn
diện
hoặc
cục
bộ,
chẳng
hạn
như
chỉ
hiện
có
những
gương
mặt,
bàn
tay
hoặc
bàn
chân,
hay
những
phần
khác
trong
thân
ḿnh,
tất
cả
đều
là
do
tác
động
của
những
vong
hồn
người
chết,
không
hơn
không
kém.
Về
sau,
bà
HPB
cho
tôi
biết
rằng
sự
bộc
phát
của
những
hiện
tượng
thông
linh
ở
khắp
nơi,
chính
là
do
Quần
Tiên
Hội
phát
động
như
một
khí
cụ
để
trợ
giúp
cơ
Tiến
Hóa.
Như
vậy,
những
hoạt
động
cơ
bút,
đồng
tử,
không
thể
bị
coi
như
tuyệt
đối
bất
hảo
như
vài
nhà
cực
đoan
Thông
Thiên
Học
đă
tuyên
bố,
v́
theo
chỗ
tôi
biết
về
các
đấng
Chân
Sư,
th́
người
ta
không
thể
quan
niệm
rằng
các
ngài
lại
dùng
một
phương
tiện
hoàn
toàn
bất
hảo,
dẫu
rằng
v́
sự
lợi
ích
của
nhân
loại.
Trong
số
báo
của
tờ
Daily
Graphic
mà
bà
HPB
đă
gởi
đăng
bức
thơ
chống
bác
sĩ
Beard,
cũng
có
đăng
tiểu
sử
của
bà
do
bà
cung
ứng
tài
liệu
theo
lời
yêu
cầu
của
ṭa
soạn.
Bà viết:
… “Năm
1858,
tôi
trở
về
Paris
và
có
dịp
làm
quen
với
nhà
Thần
Linh
Học
Daniel
Home… Ông
này
đă
cải
hóa
tôi
theo
Thần
linh
Học… Sau
đó,
tôi
trở
về
Nga
và
cải
hóa
cha
tôi
theo
thần
Linh
Học”
Trong
một
bài
báo
bênh
vực
các
nhà
đồng
tử
Holmes
chống
những
kẻ
đả
kích,
bà
nói
về
Thần
Linh
Học
như “tín
ngưỡng
của
chúng
tôi”,
“lư
tưởng
của
chúng
tôi”; và
ở
một chỗ
khác,
bà
viết:
“Nếu bọn
Thần
Linh
Học
chúng
tôi
bị
người
ta
chê
cười,
nhạo
bang, chế
diễu, châm
chọc,
chúng
tôi
phải
biết
ít
nhất
lư do
tại
sao?”
Trong
tờ
báo
Spiritual
Scientist
(Khoa
Học
Tâm
Linh) ra
ngày
8-3-1875,
bà
nói
có
vài
khuynh
hướng
chỉ
rằng
mặc
dầu
tính
cách
chân
thực
thiêng
liêng
của
khoa
Thần
Linh
Học
chúng
ta,
và
giáo
lư
của
những
vị
bảo
trợ
vô
h́nh
của
chúng
ta (những
vong
linh
khuất
mặt
của
những
họp
đàn),
vài
nhà
Thần
Linh
Học
đă
không
biết
thừa
cơ
hội
đó
để
học
bài
học vô
tư
và
công
bằng.
Đó
là
một
việc
làm
rất
can
đảm,
đầy
hào
khí,
hoàn
toàn
biểu
lộ
cái
đặc
tính
của
bà
khi
bà
nhảy
vào
ṿng
chiến
v́
bất
cứ
mọi
lư
tưởng
nào
mà
bà
đảm
nhận
như
cái
chính
nghĩa
của
ḿnh.
Như
đă
nói
trược
đây,
chính
v́
ḷng
yêu
tự
do
và
chính
nghĩa
mà
bà
đă
cùng
với
một
nhóm
phụ
nữ
chiến
đấu
trong
hàng
ngũ
của
nhà
ái
quốc
Garibaldi
và
mạo
hiểm
lao
ḿnh
vào
trận
đánh
ác
liệt
ở
Mentana.
Bây
giờ,
khi
thấy
cần
phải
binh
vực
cái
lư
tưởng
Tâm
Linh
để
chiến
đấu
chống
lại
Khoa
Học
Duy
Vật,
th́
bà
chấp
nhận
cả
sự
ô
nhiễm
khi
phải
tiếp
xúc
với
bọn
đồng
tử
giả
mạo,
với
những
loại
âm
binh
bất
hảo,
hay
với
phe
vô
luân
trong
giới
Thần
Linh
Học
chủ
trương
tự
do
luyến
ái
và
thoát
ly
gia
đ́nh.
Không
một
điều
bất
lợi
nào
trong
những
sự
việc
kể
trên
làm
cho
bà
do
dự
dù
chỉ
trong
một
lúc,
khi
bà
thấy
cần
đứng
vào
hàng
ngũ
của
phái
thần
Linh
Học
chống
lại
Duy
Vật
chủ
nghĩa.
Đường
lối
của
bà
có
thể
bị
vài
người
lên
án,
ngôn
ngữ
của
bà
có
thể
bị
coi
như
hoàn
toàn
đồng
ư
và
chấp
nhận
cái
Thần
Linh
Học
mà
về
sau
bà
đă
lên
tiếng
công
kích
thậm
tệ
không
tiếc
lời.
Nhưng
nếu
lấy
công
tâm
mà
xét
đoán,
người
ta
phải
nhận
định
rơ
cái
t́nh
trạng
xă
hội
của
thời
bấy
giờ.
Người
ta
phải
nhận
định
rơ
cái
kiến
thức
sâu
rộng
của
bà,
trên
lư
thuyết
lẫn
cả
thực
hành,
về
những
hiện
tượng
huyền
linh
mà
người
đời
cần
phải
biết
trước
khi
bị
lôi
cuốn
theo
cái
trào
lưu
độc
hại
của
chủ
nghĩa
Duy
Vật.
Nhiều
người
trong
chúng
ta
có
lẽ
đă
dùng
một
ngôn
ngữ
dè
dặt
cẩn
thận
hơn
để
tránh
khỏi
bị
kẹt
vào
bao
nhiêu
sự
mâu
thuẫn
và
rối
rắm
về
sau
này.
Nhưng
trường
hợp
của
bà
hoàn
toàn
khác
hẳn,
bà
là
một
nhân
vật
độc
đáo
trên
tất
cả
mọi
phương
diện,
về
trí
lực
và
quyền
năng
thần
bí,
cũng
như
về
khí
chất
và
về
phương
pháp
tranh
luận.
Một
mục
đích
của
tập
Hồi
Kư
này
là
để
chỉ
rằng,
với
tất
cả
những
sự
thiếu
sót
rất
cận
nhân
tính
và
tật
chứng
ngáo
ngổ
mà
người
ta
có
thể
gán
cho
bà,
bà
vẫn
là
một
nhân
vật
đặc
biệt,
phi
phàm,
một
người
dành
trọn
cuộc
đời
làm
một
công
việc
vĩ
đại
phụng
sự
thế
gian,
nhưng
lại
bị
người
đời
phê
phán
một
cách
mù
quáng
và
vô
ơn
bạc
nghĩa.
II
Trong
những
cuộc
thí
nghiệm
riêng
tư
giữa
chúng
tôi
về
những
hiện
tượng
thần
linh,
bà
HPB
đă
chỉ
dẫn
cho
tôi
biết
về
sự
hiện
hữu
của
giới
TINH
LINH
NGŨ
HÀNH.
Nhờ
đó,
tôi
mới
biết
phân
biệt
hai
loại
sinh
vật
khác
nhau
trong
việc
tạo
nên
các
hiện
tượng, là
những
tinh
linh
ngũ
hành
và
những
vong hồn
người
chết.
Vào
khoảng
cuối
năm
1874-75,
nhờ
một
dịp
may
hiếm
có
được
đọc
qua
những
quyển
sách
quư
về
Khoa
Học
Huyền
Môn
tại
thư
viện
Watkinson,
nên
tôi
được
chuẩn
bị
khá
nhiều
về
phần
kiến
thức
để
có
thể
hiểu
những
lời
giải
thích
khẩu
truyền
của
bà
và
những
hiện
tượng
thông
linh
kỳ
diệu
do
bà
tạo
ra
để
chứng
minh
cho
những
lời
giải
thích
đó.
Thời
kỳ
học
hỏi
của
tôi
lúc
ấy
qua
sách
vở,
lời
dẫn
giải
khẩu
truyền
và
sự
quan
sát
các
hiện
tượng,
cũng
đủ
chuẩn
bị
cho
tôi
có
được
một
bản
lĩnh
khá
vững
vàng
về
Khoa
Học
Huyền
Môn
cho
đến
khi
bà
bắt
đầu
công
việc
soạn
bộ
sách “Vén
màn
Isis” và
mời tôi
cùng
cộng
tác.
Khoảng
đầu
năm
1875,
chúng
tôi
bắt
đầu
lưu
ư
đến
tờ
“Khoa
Học
Tâm
Linh”
một
tờ
tạp
chí
tiến
bộ
và
độc
lập
tại
Boston
do
ông
Gerry
Brown
làm
chủ
bút
và
chủ
nhiệm.
Nhu
cầu
cấp
bách
của
thời
bấy
giờ
là
một
tờ
báo
vừa
được
coi
như
một
cơ
quan
ngôn
luận
của
Thần
Linh
Học,
lại
vừa
có
thể
khuyến
khích
các
nhà
Thần
Linh
Học
hăy
quan
sát
chặt
chẽ
hơn
tác
phong
hạnh
kiểm
và
khả
năng
thông
linh
của
những
đồng
tử
của
họ,
và
hăy
kiên
nhẫn
lắng
nghe
những
lư
thuyết
về
các
vong
linh
ở
cơi
âm
cùng
sự
giao
tiếp
của
họ
với
người
sống.
Những
tạp
chí
khác
cũ
kỹ
hơn
thuộc
loại
này
lại
quá
bảo
thủ,
c̣n
tờ
báo
của
ông
Brown
dường
như
đang
tiến
bước
bằng
cách
mạnh
dạn
chỉ
trích
những
sự
lạm
dụng
đương
thời.
Một
bức
thơ
của
chúng
tôi
gởi
cho
ông
Brown
dăng
trên
tạp
chí
ấy
ngày
8-3-1875
khởi
đầu
những
mối
liên
hệ
giữa
chúng
tôi,
và
trong
ṿng
một
tháng
sau,
y
đă
được
đặt
dưới
sự
chăm
sóc
biệt
đăi
của
những
thế
lực
hỗ
trợ
sau
lưng
bà
HPB.
Trong
số
tạp
chí
tháng
tư
năm
ấy,
tôi
có
đăng
một
bản
thông
tư
đặc
biệt
với
tựa
đề: “THÔNG
TƯ
QUAN
TRỌNG
CHO
CÁC
NHÀ
THẦN
LINH
HỌC”.
Điều
quan
trọng
của
nó
đối
với
ông
Gerry
Brown
là
lời
hứa
trợ
giúp
bài
vở
và
tài
chánh
cho
y,
c̣n
đối
với
công
chúng
hâm
mộ
phong
trào
Thần
Linh
Học,
th́
nó
cho
biết
rằng
tờ
tạp
chí
ấy
sẽ
được
sử
dụng
như
cơ
quan
của
một
phong
trào
mới,
nhằm
mục
đích
đặt
khoa
Thần
linh
Học
ở
Mỹ
trên
một
nền
tảng
triết
học
và
trí
thức
hơn
trước,
thay
v́
chỉ
chú
trọng
đến
những
thông
điệp
cơ
bút
và
những
hiện
tượng
tầm
thường,
không
đủ
thỏa
măn
những
đầu
óc
khoa
học.
Chính
tôi
tự
thảo
ra
tờ
thông
tư
đó,
tự
sửa
chữa
lấy
bản
kẽm
in
và
tự
đài
thọ
phí
tổn
ấn
loát.
Nói
thế
có
nghĩa
là
ngoài
tôi
ra,
không
một
ai
nhúng
tay
vào
công
việc
này,
hoặc
thêm
bớt
một
chử
nào
trong
bản
thảo,
hoặc
điều
khiển
hành
động
của
tôi
bằng
bất
cứ
cách
nào.
Tôi
viết
bản
Thông
Tư
ấy
để
thi
hành
ư
định
của
Chân
Sư,
ngài
dạy
chúng
tôi
hăy
trợ
giúp
vị
chủ
nhiệm
tờ
tạp
chí
ấy
trong
giai
đoạn
khó
khăn
hiện
tại
bằng
đủ
mọi
cách
về
phương
tiện
tài
chánh
cũng
như
đóng
góp
bài
vở.
Khi
bản
Thông
Tư
đă
soạn
thảo
xong
và
đem
lên
máy
in,
tôi
hỏi
bà
HPB
trong
một
bức
thơ
rằng
theo
ư
bà
th́
tôi
có
nên
kư
tên
vào
bản
thông
tư
ấy
không.
Bà
tră
lời
rằng
theo
ư
muốn
của
các
Chân
Sư,
th́
nó
phải
được
kư
tên
như
sau: “Thay
mặt
HỘI
ĐỒNG
TIÊN
THÁNH,
PHÂN
BỘ
LUXOR (AI
CẬP )”. Tôi
làm
y
theo
lời,
và
bản
Thông
Tư
được
công
bố.
Sau
đó,
bà
giải
thích
rằng
công
việc
làm
của
chúng
tôi
được
giám
sát
bởi
một
Ủy
Ban
gồm
Bảy
vị
Chân
Sư
thuộc
phân
chi
Ai
Cập
của
Quần
Tiên
Hội.
V́
bà
chưa
đọc
qua
bản
Thông
Tư
lần
nào,
lúc
ấy
tôi
mới
cầm
đưa
cho
bà
một
bản
và
bà
bắt
đầu
đọc
một
cách
chăm
chú.
Đọc
xong,
bà
bất
giác
cười
lớn,
và
bảo
tôi
nh́n
xem
những
chữ
cái
khoản
thủ
ở
đầu
câu
của
mỗi
doạn
văn
trong
đó.
Tôi
lấy
làm
ngạc
nhiên
vô
cùng
mà
nhận
thấy
rằng
những
chữ
cái
đó
nếu
đem
ráp
lại
th́
hợp
thành
thánh
danh
của
vị
Chân
Sư
Ai
Cập,
sư
phụ
của
tôi
lúc
ấy.
Sau
đó
ít
lâu,
tôi
nhận
được
một
chứng
thư
viết
bằng
mực
vàng
trên
một
tờ
giấy
xanh,
dầy,
cho
biết
rằng
tôi
được
chính
thức
liên
hệ
đến
cơ
quan
này,
và
đặt
dưới
sự
giám
sát
của
ba
vị
Chân
Sư.
Trong
những
kinh
nghiệm
huyền
linh
của
tôi
hồi
thuở
ban
đầu,
không
có
ǵ
gây
một
ấn
tượng
sâu
xa
vào
trí
óc
tôi
hơn
là
những
sự
việc
trên.
Điều
ấy
chứng
minh
cho
tôi
thấy
rằng
sự
chuyển
di
tư
tưởng
giữa
Chân
Sư
và
đệ
tử
vẫn
là
một
việc
xảy
ra
thường
xuyên,
mà
không
gian
không
hề
làm
ngăn
cách,
chướng
ngại.
Nó
cũng
chứng
tỏ
rằng
trong
công
việc
phụng
sự
thế
gian,
người
đệ
tử
thường
được
các
đấng
Cao
Cả
d́u
dắt,
hướng
dẫn
để
làm
những
công
tác
mà
các
ngài
muốn
được
thực
hiện
trong
khi
đó
người
đệ
tử
vẫn
không
hề
hay
biết
chi
cả.
Trong
toàn
bộ
lịch
sử
hội
Thông
Thiên
Học
thế
giới,
ai
đă
biết
được
có
bao
nhiêu
trường
hợp
mà
mỗi
người
trong
chúng
ta
vô
t́nh
đă
làm
những
ǵ
cần
phải
làm,
nhưng
những
việc
đó
có
lẽ
đă
không
được
thi
hành
nếu
không
có
một
ảnh
hưởng
nào
từ
bên
ngoài
đến
thúc
đẩy
chúng
ta?. Và
có
bao
nhiêu
lỗi
lầm
tai
hại
mà
mỗi
người
trong
chúng
ta
đă
làm,
bởi
v́
chúng
ta
được
tự
do
hành
động
theo
những
dục
vọng
cá
nhân,
kết
quả
của
sự
vô
minh,
hèn
kém,
hay
thành
kiến
chật
hẹp
riêng
tư
của
chính
ḿnh?
Người
ta
thường
tự
hỏi
tại
sao
những
vụ
tranh
chấp,
xung
đột,
những
cơn
biến
động
gây
ra
bao
nhiêu
tai
tiếng,
xúc
phạm
đến
thanh
danh
của
Hội,
lại
không
được
các
Chân
Sư
tiên
liệu
trước
và
ngăn
chận
đừng
để
cho
chúng
xảy
ra?
Tại
sao
bà
HPB
không
được
cho
hay
trước
về
những
hành
động
của
những
kẻ
phản
bội,
và
trong
những
cơn
khủng
hoảng
nghiêm
trọng
nhất
của
hội
Thông
Thiên
Học,
không
hề
thấy
có
sự
trợ
giúp
nào,
và
không
có
một
vị
hướng
dẫn
tâm
linh
nào
xuất
hiện?
Lẽ
tất
nhiên,
những
câu
hỏi
đó
thật
rất
vô
lư.
Các
Chân
Sư
vốn
đă
nắm
vững
định
luật
Nhân
Quả,
không
thể
xử
dụng
chúng
ta
như
những
h́nh
nộm
để
cho
các
ngài
giật
dây,
hoặc
như
những
con
thú
nhà
đă
được
tập
luyện
cho
biết
làm
theo
ư
chủ.
Các
ngài
không
thể
xử
dụng
chúng
ta
một
cách
máy
móc
theo
những
đường
lối
đă
định
sẵn,
can
thiệp
vào
nghiệp
quả
của
mỗi
người,
và
xâm
phạm
đến
quyền
tự
do
hành
động
của
chúng
ta.
Vào
một
thời
kỳ
nhất
định,
trong
cơ
tiến
hóa
của
nhân
loại,
có
lẽ
cần
có
một
người
nào
đó
phải
làm,
viết,
hoặc
nói
một
điều
ǵ
đó,
mà
những
điều
này,
khi
đă
thực
hiện
xong
sẽ
đưa
đến
cả
một
loạt
những
hậu
quả
mong
muốn.
Nếu
điều
đó
không
tạo
nên
nghiệp
quả
bất
lợi
cho
đương
sự,
th́
sự
thúc
đẩy
vô
vi
để
làm
công
việc
cần
thiết
đó
sẽ
được
đưa
đến
cho
y.
Thí
dụ, vận
mạng
của
thế
giới
nằm
trong
tay của
vài
ba
nhà
lănh
tụ
hay
nguyên
thủ
quốc
gia
của
một
vài
nước
siêu
cường.
Nếu
một
biến
cố
nhỏ
nhặt
nào
đó
xảy
ra
một
quốc
gia
có
thể
bị
tiêu
diệt,
hoặc
một
triều
đại
trở
thành
một
tai
họa
cho
cả
một
dân
tộc,
hoặc một
thời
kỳ
ḥa
b́nh
và
tiến
bộ
cho
nhân
loại
có
thể
mở
màn. Nếu
trong
giai
đoạn
lịch
sử
đó, một
trong
những
điều
kể
trên
cần
phải xảy
ra
v́
sự
lợi
ích
chung
của
toàn
thể
nhân loại, và
nếu
KHÔNG
CÓ
MỘT
CÁCH
NÀO
KHÁC
để
gây
nên
cơn
khủng
hoảng
cần
thiết,
th́
chừng
đó
sự
gợi
ư
cho
một
vị
lănh
tụ
ra
tay
hành
động
có
thể
đến
từ
bên
ngoài.
Đây
là
một
trường
hợp
đơn
giản
hơn,
đă
xảy
ra
trong
lịch
sử.
Trong
khoa
cổ
học
Ai
Cập,
người
ta
đă
đạt
tới
một
tŕnh
độ
mà
sự
tiến
bộ
của
thế
giới
đ̣i
hỏi
một
cái
ch́a
khóa
tinh
vi
hơn
để
đọc
những
cổ
tự
bí
mật
trong
các
Kim
Tự
Tháp.
Thời
giờ
đă
điểm
để
tiết
lộ
thêm
những
chân
lư
thâm
sâu
và
vô
cùng
quan
trọng
hàm
xúc
trong
khoa
cổ
tự
của
nền
văn
minh
cổ
Ai
Cập.
V́
không
có
cách
nào
khác,
một
người
nông
dân
Ả
Rập
được
gợi
ư
để
cho
y
đào
xới
một
khoảnh
đất
nào
đó,
hoặc
khai
quật
một
ngôi
mả
đá
và
cậy
bật
lên
một
cái
nắp
ḥm
đựng
xác
ướp.
Người
ta
t́m
thấy
một
bia
đá
hoặc
một
mớ
lá
chỉ-thảo
có
khắc
cổ
tự,
y
bèn
đem
bán
cho
một
nhà
khảo
cổ,
rồi
người
này
truyền
đến
tay
các
nhà
Ai
Cập
học
uyên
bác
như
Champollion,
Young
hay
Ebers.
Các
ông
này
mới
t́m
thấy
cái
ch́a
khóa
đă
mất,
và
nhờ
đó
mới
đọc
được
nhiều
bản
văn
cổ
xưa
vô
cùng
quan
trọng.
Sự
gợi
ư
vô
vi
cho
người
nông
dân
thất
học
đào
xới
lên
những
tài
liệu
cổ
đă
bị
chôn
lấp
từ
lâu,
là
do
bàn
tay
trợ
giúp
của
các
đấng
vô
h́nh,
tuy
ẩn
tàng
nhưng
luôn
luôn
d́u
dắt
sự
tiến
bộ
của
nhân
loại.
Xin
kể
một
trường
hợp
cá
nhân
gần
gũi
với
chúng
ta
hơn:
một
ngày
nọ
tôi
được
gợi
ư
đi
mua
một
tờ
báo;
trong
đó
tôi
đọc
thấy
một
chuyện
ǵ
đó,
nó
thúc
đẩy
tôi
có
một
hành
động
tự
nhiên;
việc
ấy
làm
cho
tôi
tiếp
xúc
với
bà
HPB,
và
bởi
đó
mới
có
hội
Thông
Thiên
Học
ra
đời,
và
những
hậu
quả
do
Hội
này
đem
đến.
Khi
làm
cái
bước
đầu
tiên,
tôi
không
có
công
đức
ǵ
cả.
Nhưng
nếu
việc
ấy
gây
nên
những
hậu
quả
tốt
lành,
nếu
tôi
đóng
góp
công
lao
sức
lực
để
làm
việc
với
một
tinh
thần
hiến
dâng
nhiệt
thành
và
vị
tha,
th́
chừng
đó
tôi
cũng
được
chia
xẻ
những
nghiệp
tốt
mà
việc
ấy
đem
đến
cho
nhân
loại.
Có
lần
tôi
thấy
những
người
dân
Tích
Lan
ở
tỉnh
Galle
tranh
nhau
đưa
tay
ra
sờ
vào
những
rổ
thúng
đựng
đồ
vật
thực
của
những
nhà
giàu
đem
đi
cúng
dường
cho
các
sư
tăng.
Hỏi
ra
mới
biết
là
họ
tin
tưởng
rằng
do
ḷng
ưu
ái
chân
thành
đối
với
hành
động
bố
thí
của
kẻ
khác,
họ
cũng
được
chia
xẻ
một
phần
công
đức
của
các
thí
chủ.
Tôi
nghiệm
thấy
điều
ấy
rất
đúng,
và
có
ghi
nhận
cái
ư
tưởng
đó
trong
quyển “PHẬT
GIÁO
VẤN
ĐÁP” của
tôi
soạn.
CHƯƠNG NĂM
SỰ LỢI HẠI
CỦA
VẤN
ĐỀ
ĐỒNG
CỐT
Mọi
người
đều
đồng
ư
rằng
những
người
đồng
cốt
chuyên
nghiệp,
mà
vấn
đề
cơm
áo
hàng
ngày
tùy
thược
nơi
khả
năng
của
họ
để
tạo
nên
các
hiện
tượng
thông
linh
khi
có
thân
chủ
đến
viếng,
trong
ngững
cơn
nguy
cấp,
túng
thiếu,
thường
bị
bắt
buộc
làm
những
hiện
tượng
giả
trá
để
thay
thế
vào
khi
mà
những
hiện
tượng
thật
không
thể
xuất
hiện. Hầu
hết
các
giới
đồng
cốt
hành
nghề
đều
nghèo,
thường
là
những
người
phế
tật,
nhưng
bắt
buộc
phải
nuôi
con
hay
bảo
dưỡng
những
ông
chồng
lười
biếng
hay
bệnh
hoạn.
Vấn
đề
sinh
kế
của
họ
thật
vô
cùng
bấp
bênh,
bởi
v́
trạng
thái
đồng
cốt
tùy
thuộc
những
điều
kiện
tâm
sinh
lư
cũng
như
những
điều
kiện
thời
tiết
ngoài
khả
năng
kiểm
soát
của
họ.
Bởi
vậy,
nên
không
phải
là
một
chuyện
là
nếu
trong
những
cơn
túng
quẩn,
dưới
sự
thúc
đẩy
của
những
nhu
cầu
cấp
bách,
họ
không
c̣n
đặt
nặng
vấn
đề
lương
tâm.
Lẽ
tự
nhiên,
họ
đễ
bị
lung
lạc
trước
sự
cám
dỗ
mà
những
thân
chủ
mê
tín
bày
ra
trước
mắt
họ,
những
người
này
không
đ̣i
hỏi
ǵ
hơn
là
trả
tiền
để
mà
bị
gạt.
Dù
sao,
đó
là
những
điều
mà
các
đồng
tử
chuyên
nghiệp
giải
thích
cho
tôi
nghe.
Họ
đă
kể
lại
cho
tôi
nghe
cuộc
đời
khốn
khổ
của
họ,
việc
họ “có đồng” đă
tác
hại
thế
nào
trong
thời
thơ
ấu,
làm
cho
họ
bị
lẩn
tránh
và
ngược
đăi
bởi
những
bạn
học
cùng
lớp,
bị
theo
dơi
và
chọc
ghẹo
bởi
những
kẻ
ṭ
ṃ, bị
dùng
làm
một
hiện
tượng
lạ
mắt
bởi
những “gánh
xiếc” lưu
động trả
tiền
cho
cha
mẹ
họ
thụ
hưởng,
và
mang
lấy
những
chứng
bệnh
hoạn
thần
kinh,
bệnh
lao
phổi,
hay
tràng
nhạc,
làm
tàn
phá
sức
khỏe
của
họ.
Bà
Hardinge
Britten,
một
nhà
chuyên
môn
khảo
cứu
về
vấn
đề
thông
linh
và
có
nhiều
kinh
nghiệm
về
các
giới
đồng
cốt, có
nói
rằng
bà ít
khi
thấy
một
đồng
tử
nào
mà
không
có
một
khí
chất
bệnh
hoạn,
thường
là
có
bệnh
tràng
nhạc
hay
bệnh
lao
và
sự
khám
nghiệm cơ
thể
cho
thấy
rằng
họ
cũng
thường
hay
có
những
ám
tật
nơi
cơ
quan
sinh
dục.
Trong quyển “Art
Magic”, bà
viết:
“MỘT
SỰ
VIỆC
CÓ
Ư
NGHĨA
ĐỂ
LƯU
Ư
CÁC
NHÀ
SINH
LƯ
VÀ
TÂM
LƯ
HỌC,
LÀ
DƯỜNG
NHƯ
NHỮNG
NGƯỜI
MẮC
BỆNH
TRÀNG
NHẠC VÀ
BỆNH
SƯNG
HẠCH
TUYẾN,
THƯỜNG
LÀ
NHỮNG
MÔI
TRƯỜNG
THUẬN
LỢI
ĐỂ
CHO
CÁC
VONG
LINH
TÁC
ĐỘNG
TRÊN
ĐỊA
HẠT
VẬT
CHẤT
HỮU
H̀NH.
NHỮNG
PHỤ
NỮ
H̀NH
VÓC
MẢNH
MAI,
YẾU
ĐUỐI,
VÀ
NHỮNG
NGƯỜI
CÓ
TÍNH
CHẤT
KHIẾT
BẠCH,
NGÂY
THƠ,
VÔ
TỘI,
NHƯNG
HỆ
THỐNG
HẠCH
TUYẾN
CỦA
HỌ
ĐĂ
BỊ
GẬM
NHẤM
BỞI
CHỨNG
BỆNH
TRÀNG
NHẠC,
THƯỜNG
DỄ
TRỞ
NÊN
NHỮNG
KHÍ
CỤ
HỮU
HIỆU
CHO
SỰ
TÁC
ĐỘNG
CỦA
CÁC
VONG
LINH
TRÊN
CƠI
VẬT
CHẤT
HỒNG
TRẦN”.
Những
hoạt
động
đồng
cốt
thực
hành
ở
những
nơi
công
cộng,
là
một
hiểm
họa
trầm
trọng
trên
phương
diện
sức
khỏe
thể
chất
cũng
như
trên
phương
diện
tinh
thần.
Tất
cả
mọi
y
sĩ
đều
nói
rằng
ngủ
trong
một
gian
pḥng
không
có
thoáng
khí,
chung
lộn
với
một
số
đông
người
hỗn
tạp,
trong
số
đó
có
người
bệnh
tật
là
một
điều
vô
cùng
nguy
hiểm
và
có
thể
là
một
tai
họa
làm
chết
người.
Nhưng
nguy
cơ
này
c̣n
không
thấm
vào
đâu
so
với
cái
hiểm
họa
ŕnh
rập
một
bên
người
đồng
cốt
hành
nghề
công
cộng,
phải
chấp
nhận
sự
có
mặt
và
chịu
sự
xâm
nhập
từ
điển
của
tất
cả
mọi
người
đủ
các
giới
và
đủ
mọi
thành
phần.
Trong
số
đó,
đương
nhiên
có
người
tốt
kẻ
xấu
lẫn
lộn,
gồm
cả
những
người
bệnh
tật
về
thể
xác
cũng
như
về
tinh
thần,
những
kẻ
thô
bạo,
dâm
ác,
vật
chất,
ô
trược,
vô
đạo,
vô
tín
ngưỡng,
sa
đọa,
tội
lỗi
trong
tư
tưởng,
lời
nói,
hay
việc
làm
và
trái
ngược
lại.
Thật
tội
nghiệp
thay
cho
những
người
đồng
cốt
bất
hạnh
ấy;
chẳng
khác
nào
những
gái
làng
chơi
v́
tiền
mà
cung
hiến
thể
xác
cho
mọi
người,
họ
để
cho
phần
tâm
linh
của
họ
chịu
sự
ô
nhiễm,
dày
ṿ
của
khách
bốn
phương!
Thật
hạnh
phúc
thay
cho
những
người
nào
có
thể
phát
triển
và
thực
hành
những
khả
năng
thông
linh
của
ḿnh
trong
những
hoàn
cảnh
tịnh
khiết
và
lành
mạnh,
giữa
một
tập
đoàn
chọn
lọc
gồm
những
người
ưu
tú,
tốt
lành: đó
là
trường
hợp
của
những
nhà
nữ
đồng
tử
và
linh
thị
thời
cổ
xưa,
được
giữ
ǵn,
bảo
dưỡng
và
chăm
sóc
cẩn
thận
trong
các
đền
thờ…
II
Mùa
hè
năm
1875, một
phụ
nữ
tên
Youngs
hành
nghề
đồng
tử
để
sinh
sống
tại
Nữu
Ước. Hiện
tượng
chính
của
bà
này
là
sai
khiến
âm
binh
nâng
cao
lên
một
cây
đàn
dương
cầm
lớn
hạng
nặng,
và
làm
cho
nó
nghiêng
qua
nghiêng
lại
hai
đầu
để
làm
nhịp trong
khi
bà
ấy
đánh
đàn.
Tôi
nghe
nói
vậy, bèn
mời
bà
HPB
cùng
đi
với
tôi
đến
nơi
để
xem
hiện
tượng
lạ
ấy.
Tôi
đem
theo
ba
vật
đựng
trong
túi
để
thử
khả
năng
đồng
tử
của
bà
kia,
là
một
quả
trứng
gà
c̣n
sống,
và
hai
hột
hồ
đào.
Tôi
không
cần
phải
sử
dụng
trí
nhớ,
v́
tôi
c̣n
cất
giữ
bài
tường
thuật
chính
xác
về
sự
việc
này
đăng
trên
báo
NEW
YORK
SUN
ra
ngày
4 tháng 9 năm
1875.
Hôm
ấy
có
tất
cả
mười
lăm
người
đến
dự
buổi
họp
đàn.
Phóng viên nhật
báo
ấy
viết
như
sau:
“CUỘC
BIỂU
DIỄN
BẮT
ĐẦU
BẰNG
VIỆC
DỞ
HỔNG
CÂY
ĐÀN
DƯƠNG
CẦM (PIANO ) BỞI
NHỮNG
SỨC
MẠNH
VÔ
H̀NH,
TRONG
KHI
BÀ
ĐỒNG
TỬ
YOUNGS
ĐẶT
NHẸ
HAI
BÀN
TAY
LÊN
MẶT
ĐÀN.
CÁC
VONG
LINH
KHUẤT
MẶT
SẼ
GƠ
NHỊP
BA
CÁI
HOẶC
MỘT
CÁI
TRÊN
CÂY
ĐÀN
ĐỂ
TỎ
Ư
THUẬN
HAY
KHÔNG
THUẬN
LÀM
CUỘC
BIỂU
DIỄN.
KHI
ĐĂ
SẴN
SÀNG
BÀ
NGỒI
XUỐNG
GHẾ
VÀ
BẮT
ĐẦU
CHƠI
VÀI
BẢN
NHẠC, TRONG
KHI
ĐÓ
CÂY
ĐÀN
TỰ
ĐỘNG
LÊN
CAO
XUỐNG
THẤP
THEO
NHỊP
ĐÀN.
KẾ
ĐÓ,
BÀ
ĐỨNG
QUA
MỘT
BÊN
VÀ
GỌI
ĐẠI
TÁ
OLCOTT
VÀ
NHỮNG
NGƯỜI
CÓ
MẶT
MUỐN
LÀM
CUỘC
THÍ
NGHIỆM,
MỖI
NGƯỜI
HĂY
ĐẶT
BÀN
TAY
TRÁI
CỦA
M̀NH
PHÍA
MẶT
DƯỚI
CÂY
ĐÀN,
C̉N
BÀ
CŨNG
ĐẶT
NHẸ
MỘT
BÀN
TAY
Y
NHƯ
VẬY.
XONG
RỒI,
THEO
LỜI
YÊU
CẦU
CỦA
BÀ
ĐỒNG
TỬ,
MỘT
ĐẦU
CỦA
CÂY
ĐÀN
DƯƠNG
CẦM
RẤT
NẶNG
ĐƯỢC
DỞ
HỔNG
LÊN
KHỎI
SÀN
GẠCH
MÀ
KHÔNG
CÓ
SỰ
DÙNG
SỨC
CỐ
GẮNG
CỦA
MỘT
NGƯỜI
NÀO.
ĐẾN
ĐÂY,
ĐẠI
TÁ
OLCOTT
YÊU
CẦU
BÀ
ĐỒNG
TỬ
CHO
ÔNG
LÀM
MỘT
THÍ
NGHIỆM
KHÁC.
BÀ
NÀY
VUI
L̉NG,
ĐẠI
TÁ
LIỀN
ĐƯA
RA
MỘT
QUẢ
TRỨNG
GÀ
ĐỰNG
SẴN
TRONG
MỘT
CÁI
HỘP,
VÀ
YÊU
CẦU
BÀ
ĐẶT
QUẢ
TRỨNG
GIỮA
BÀN
TAY
BÀ
VÀ
MẶT
DƯỚI
CỦA
CÂY
ĐÀN,
RỒI
YÊU
CẦU
CÁC
VONG
LINH
NÂNG
CÂY
ĐÀN
LÊN.
BÀ
ĐỒNG
TỬ
NÓI
RẰNG
TRONG
THỜI
GIAN
HÀNH
NGHỀ
ĐỒNG
TỬ , BÀ
CHƯA
TỪNG
LÀM
CUỘC
THÍ
NGHIỆM
NHƯ
VẬY
BAO
GIỜ,
VÀ
BÀ
KHÔNG
CHẮC
SẼ
THÀNH
CÔNG,
NHƯNG
BÀ
CŨNG
BẰNG
L̉NG
LÀM
THỬ.
BÀ
CẦM
LẤY
QUẢ
TRỨNG
ÁP
VÀO
MẶT
DƯỚI
CÂY
ĐÀN
THEO
LỜI
DẶN,
VỚI
BÀN
TAY
KIA
BÀ
VỖ
VÀO
THÙNG
CÂY
ĐÀN
VÀ
YÊU
CẦU
CÁC
VONG
LINH
HĂY
THỬ
RA
SỨC.
NGAY
TỨC
KHẮC,
CÂY
ĐÀN
LẠI
NÂNG
CAO
LÊN
NHƯ
TRƯỚC
VÀ
TREO
LƠ
LỬNG
MỘT
LÚC
TRÊN
KHÔNG
TRUNG. CUỘC
THÍ
NGHIỆM
ĐỘC
ĐÁO
VÀ
MỚI
LẠ
NÀY
ĐĂ
THÀNH
CÔNG
TRỌN
VẸN.”
Kế
đó,
bà
Youngs
yêu
cầu
những
vị
nào
mập
mạp
nặng
cân
nhất
trong
cử
tọa
hăy
ngồi
lên
mặt
đàn
dương
cầm,
và
sau
khi
có
bảy
người
thân
h́nh
đồ
sộ
vừa
nam
vừa
nữ
đă
ngồi
lên,
bà
đánh
một
bản
nhạc
hành
khúc,
và
tất
cả
nội
vụ,
cả
người
lẫn
dương
cầm,
đều
được
dở
hổng
lên
một
cách
dễ
dàng.
Đến
đây,
Đại
Tá
Olcott
mới
đưa
ra
hai
hột
hồ
đào ( walnut ) và
yêu
cầu
các
vong
linh
khuất
mặt
hăy
làm
bể
những
cái
vỏ
cứng
bên
ngoài
dưới
chân
cây
đàn
mà
không
làm
giập
cái
nhân
ở
bên
trong,
mục
đích
là
để
chứng
minh
rằng
có
sự
tác
động
của
một
sức
mạnh
khác
hơn
là
của
bà
đồng
tử
và
cái
sức
mạnh
ấy
có
sự
điều
khiển
của
một
trí
lực
thông
minh.
Những
vong
linh
tỏ
ư
bằng
ḷng,
nhưng
v́
những
cây
chân
đàn
dương
cầm
đều
đặt
trên
các
bánh
xe
lăn,
nên
đành
phải
bỏ
cuộc
thí
nghiệm
v́
không
thể
thực
hiện
được.
Kế
đó,
Đại
Tá
Olcott
yêu
cầu
bà
nọ
để
cho
ông
cầm
quả
trứng
và
đặt
ở
mặt
dưới
cây
đàn,
c̣n
bà
đặt
bàn
tay
dưới
bàn
tay
của
ông,
để
chứng
minh
một
cách
tuyệt
đối
sự
kiện
rằng
không
có
một
sự
dùng
sức
cố
gắng
nào
của
bà
đồng
tử.
Cuộc
thí
nghiệm
này
cũng
được
chấp
thuận
và
thi
hành
ngay
tức
khắc.
Cây đàn cũng
được
nâng
nhẹ
lên
như
trước.
Sau
cùng,
buổi
họp
đàn
chiều
hôm
ấy
kết
thúc
bằng
việc
NÂNG
NHẸ
CÂY
ĐÀN
LÊN
KHÔNG
TRUNG
MÀ
KHÔNG
CÓ
VIỆC
ĐỤNG
CHẠM
HAY
ĐẶT
NHẸ
BÀN
TAY
CỦA
BÀ
ĐỒNG
TỬ.
Đó
hẳn
là
sự
biển
lộ
rất
độc
đáo
của
một
sức
mạnh
vô
h́nh.
Không
những
một
cây
đàn
dương
cầm
hạng
lớn
và
rất
nặng
mà
sức
một
người
không
thể
dở
nổi
một
đầu,
lại
được
nâng
nhẹ
lên
dễ
dàng
mà
không
có
sự
dùng
sức
cố
gắng
của
người
đồng
tử
hay
của
một
người
nào
có
mặt
tại
chỗ,
trong
một
gian
pḥng
thắp
đèn
sang,
mà
c̣n
có
sự
tác
động
của
một
trí
lực
thông
minh,
hiểu
biết
và
làm
đúng
theo
mọi
lời
yêu
cầu.
Việc
này
hẳn
là
không
có
bao
nhiêu
giá
trị
tâm
linh,
nhưng
nó
hàm
xúc
một
ư
nghĩa
làm
đảo
lộn
những
lư
thuyết
của
Khoa
Vật
Lư
Học
hiện
đại.
III
Một
hiện
tượng
đồng
tử
khác
có
tính
chất
thi
vị
hơn
và
hứng
thú
hơn
nữa
là
của
bà
Mary
Baker
Thayer, ở
Boston,
mà
tôi
đă
dành
trọn
hết
năm
tuần
để
theo
dơi,
cũng
trong
mùa
hè
năm
ấy. Bà
này
có
khả
năng
đặc
biệt
là
làm
cho
các
thứ
cỏ
cây
hoa
lá
rơi
rụng
như
mưa
chung
quanh
bà
trong
khi
họp
đàn,
những
cành
lá
và
bông
hoa
này
đều
c̣n
tươi
tốt
dường
như
mới
vừa
ngắt
bẻ
từ
các
cây
lớn,
có
khi
là
những
loại
cây
cỏ
lạ
từ
phương
xa
đem
về
trồng
ở
xứ
này.
Trong
các
buổi
họp
đàn,
khi
các
quan
khách
đă
tụ
họp
đông
đủ,
một
vị
khách
khả
kính
được
mọi
người
đồng
ư
yêu
cầu
đứng
ra
xem
xét
các
pḥng
và
bàn
ghế
trong
nhà,
khép
kín
các
cửa
sổ,
khóa
chặt
cửa
cái
và
cất
giữ
ch́a
khóa.
Người
đồng
tử
cũng
chịu
để
cho
tôi
khám
xét
kỹ
lưỡng
để
biết
chắc
là
bà
không
có
dấu
bông
hoa
hay
những
vật
ǵ
khác
trong
ḿnh.
Có
khi,
bà
c̣n
để
cho
tôi
trói
và
nhốt
bà
trong
một
cái
bao
bố
cho
bà
không
thể
cử
động
hoặc
sử
dụng
tay
chân
để
làm
bất
cứ
một
động
tác
nào.
Kế
đó,
mọi
người
mới
ngồi
chung
quanh
một
cái
bàn
ăn
lớn,
nắm
tay
nhau
thành
ṿng ( luôn
cả
bà
đồng
tử ),
tắt
hết
đèn
để
pḥng
tối
thui
và
chờ
đợi
hiện
tượng
xảy
ra.
Sau
một
lát,
người
ta
nghe
có
tiếng
động
nhẹ
của
vật
ǵ
rơi
trên
mặt
bàn
trống
trơn,
và
mùi
thơm
tỏa
ra
khắp
pḥng.
Khi
đó
bà
Thayer
mới
yêu
cầu
thắp
đèn
lên,
th́
người
ta
thấy
trên
bàn
có
đầy
những
hoa
thơm
cỏ
lạ,
đôi
khi
lại
thấy
những
cành
hoa
cắm
vào
áo
hay
gài
trên
tóc
của
các
quan
khách
ngồi
tham
dự.
Thỉnh
thoảng,
có
vài
con
bươm
bướm,
hoặc
một
con
chim
quyên,
chim
yến,
hay
chim
hoàng
anh,
hay
vài
loại
chim
nhỏ
vừa
kêu
ríu
rít
vừa
bay
lượn
khắp
pḥng;
hoặc
một
con
cá
vàng
hăy
c̣n
ướt
nhảy
trên
mặt
bàn,
dường
như
vừa
mới
lấy
ra
từ
trong
hồ
nước.
Đôi
khi,
những
người
có
mặt
cũng
thốt
lên
những
tiếng
kêu
ngạc
nhiên
khi
họ
nhận
thấy
nằm
trong
tay
họ
một
cái
hoa
hay
một
nhánh
kiểng
mà
họ
đă
nghĩ
trong
trí
và
thầm
lặng
yêu
cầu
được
đem
đến
cho
họ.
Trong
một
buổi
họp
đàn
khác,
có
một
cây
thạch
thảo
xuất
hiện
trước
các
quan
khách,
c̣n
nguyên
những
rễ
cây
và
đất
bám
vào
như
vừa
mới
được
bứng
lên,
lại
có
cả
ba
con
trùng
đất
c̣n
đang
ngo
ngoe
quằn
ḿnh
giữa
đám
rễ.
Nhưng
tôi
c̣n
chứng
kiến
một
việc
lạ
hơn
nữa.
Một
buổi
trưa
hè,
tôi
đến
viếng
một
nghĩa
địa
ở
ngoại
ô
thành
phố
Boston,
và
khi
đi
qua
một
vườn
kiểng,
tôi
chú
ư
đến
một
giống
cây
lạ
với
những
lá
hẹp
và
dài,
có
sọc
trắng
và
xanh
lợt,
mà
khoa
Thảo
Mộc
Học
gọi
là
cây
Long
Huyết ( Dracaena
Regina ).
Tôi
lấy
bút
ch́
xanh
vẽ
ở
mặt
dưới
một
lá,
cái
h́nh
một
ngôi
sao
sáu
góc
và
âm
thầm
kêu
gọi
bằng
tư
tưởng
các
âm
binh
hăy
đem
cái
lá
ấy
đến
cho
tôi
tại
nhà
bà
Thayer
trong
buổi
họp
đàn
tối
hôm
sau.
Tối
hôm
đó,
tôi
ngồi
bên
cạnh
bà
đồng
tử,
và
nắm
hai
bàn
tay
bà
để
bảo
đảm
cho
chắc
rằng
bà
vẫn
trung
thực.
Trong
bóng
tối,
tôi
cảm
giác
được
một
vật
ǵ
mát
lạnh
và
ướt
rơi
trên
một
bàn
tay
tôi,
và
khi
đèn
được
thắp
sáng
trở
lại,
th́
thấy
vật
ấy
chính
là
cái
lá
cây
Long
Huyết
mà
tôi
đă
làm
dấu
ngày
hôm
qua!
Để
phối
kiểm
lại
cho
chắc, tôi
đă
trở
lại
vườn
kiểng
và
nhận
thấy
cái
lá
của
tôi
làm
dấu,
thật
sự
đă
bị
ngắt
ra
khỏi
nhánh
và
cái
lá
ấy
mà
tôi
đem
theo
trong
túi,
đem
ráp
lại
th́
đúng
với
chỗ
bị
ngắt!
Nhiều
sự
kiện
tương
tự
cũng
đă
làm
cho
tôi
tin
chắc
rằng
bà
Thayer
là
một
người
đồng
tử
chân
chính.
Ngoài
ra,
c̣n
có
một
hiện
tượng
sinh
lư
không
những
đă
làm
tăng
thêm
ḷng
tin
của
tôi,
mà
c̣n
làm
sáng
tỏ
thêm
toàn
bộ
vấn
đề
đồng
tử.
Khi
tôi
nắm
hai
bàn
tay
bà
trong
hai
bàn
tay
tôi,
tôi
nhận
thấy
rằng
đúng
vào
lúc
mà
những
cỏ
cây
hoa
lá
bắt
đầu
rơi
trên
mặt
bàn
th́
bà
đồng
tử
rung
ḿnh,
thở
dài,
và
hai
bàn
tay
trở
nên
lạnh
ngắt
như
đồng.
Một
lúc
sau
đó,
hai
bàn
tay
bà
mới
trở
lại
nhiệt
độ
b́nh
thường.
Điều
đó
chỉ
rằng
dường
như
có
một
sự
hoàn
toàn
biến
đổi
về
nhiệt
độ
trong
cơ
thể
của
người
đồng
tử
trong
khi
thực
hành
các
hiện
tượng.
Khi
bà
HPB
kêu
gọi
một
vong
linh
hiện
nguyên
h́nh
từ
trong
pḥng
của
bà
đồng
tử
Holmes
trong
một
cuộc
biểu
diễn
trước
đây,
bà
nắm
chặt
lấy
bàn
tay
tôi
một cách
xúc
động, và
bàn
tay
bà
trở
nên
lạnh
như
nước
đá.
Bàn
tay
của
Signor B., nhà
phù
thủy
Ư
cũng
lạnh
ngắt
sau
hiện
tượng
làm
mưa;
và
sự
chuyển
biến
từ
trạng
thái
lên
đồng
qua
trạng
thái
xuất
thần
nhập
hóa
và
những
giai
đoạn
thâm
sâu
hơn
của
trạng
thái
vô
thức
đều
đi
kèm
với
hiện
tượng
hạ
thấp
nhiệt
độ
của
cơ
thể
một
cách
b́nh
thường.
IV
Trong
một
buổi
họp
đàn
khác
chỉ
có
ba
người
tham
dự,
là
bà
Hougton, vợ
của
một
vị
luật
sư
tên
tuổi
ở
Boston,
một
phụ
nữ
khác,
và
tôi.
Chúng
tôi
ngồi
lại
một
bàn,
tôi
nắm
hai
bàn
tay
bà
đồng
tử, một
bà
khách đi
đóng
các
cửa
trong
nhà
c̣n
một
bà
coi
việc
đèn
đuốc. Khi
đèn
đă
tắt,
chúng
tôi
ngồi
đợi
ít
lâu
trong
bong
tối,
nhưng
không
nghe có tiếng
hoa
rơi
trên
bàn.
Bỗng
nhiên,
tôi
có
cảm
giác
một
cánh
hoa
mát
và
ướt
rơi
nhẹ
trên
lưng
bàn
tay
tôi.
Khi
đèn
thắp
sáng,
th́
thấy
đó
là
một
cái
hoa
hường
rất
đẹp,
vừa
mới
nở
được
một
nửa,
hăy
c̣n
đượm
những
giọt
sương
lung
linh
ướt.
Bà
đồng
tử
vừa
giật
ḿnh
dường
như
có
người
khuất
mặt
nói
chuyện
với
bà
từ
đằng
sau,
và
nói:
“Thưa
Đại
Tá,
những
âm
binh
nói
rằng
cánh
hoa
này
là
quà
tặng
cho
bà
HPB”.
Tôi
bèn
đưa
cái
hoa
cho
bà
Houghton,
rồi
bà
này
trao
lại
cho
bà
HPB
khi
chúng
tôi
về
đến
nhà,
tại
đây
chúng
tôi
thấy
bà
HPB
đang
vừa
hút
thuốc
lá
vừa
nói
chuyện
với
luật
sư
Houghton.
Bà
HPB
cầm
lấy
cái
hoa
đưa
lên
mũi
để
thưởng
thức
mùi
thơm
của
nó,
gương
mặt
đăm
chiêu
với
một
cái
nh́n
xa
vắng
trong
cặp
mắt,
mà
những
bạn
thân
của
bà
thường
thấy
mỗi
khi
bà
làm
các
hiện
tượng
thần
thông.
Cơn
mộng
mơ
của
bà
bị
gián
đoạn
bởi
luật
sư
Houghton
khi
ông
nói:
“Thưa
bà,
cái
hoa
này
thật
đẹp, bà
hăy
đưa
cho
tôi
xem
một
chút”.
Bà
đưa
cái
hoa
cho
ông
cũng
vẫn
với
cái
vẻ
mặt
đăm
chiêu,
và
với
một
cử
chỉ
vô
tư
máy
móc.
Vị luật sư
ngửi
hoa,
rồi
th́nh
ĺnh
kêu
lên:
“Ủa !
Sao hoa nặng
vậy? Tôi
chưa
hề
thấy
hoa
nào
như
cái
hoa
này.
Quí
vị
hăy
xem,
sức
nặng
của
nó
làm
cong
cái
cuống
hoa!”
Tôi
mới
cầm
lấy
cái
hoa
để
xem
lại,
v́
mới
lúc
năy
khi
nó
c̣n
ở
trên
tay
tôi,
không
thấy
có
ǵ
khác
thường.
Nhưng
bây
giờ
th́
lạ
thật,
nó
lại
rất
nặng.
Lúc ấy, bà
HPB
mới
nói:
“Hăy cẩn
thận,
đừng
làm
nó
gẫy”
Tôi
gượng
nhẹ
nâng
cái
hoa
lên
giữa
ngón
tay
cái
và
ngón
trỏ
của
bàn
tay
mặt
và
nh́n
xem
cho
kỹ,
nhưng
không
thấy
lư
do
ǵ
làm
cho
nó
có
sức
nặng.
Bỗng
nhiên,
tôi
thấy
có
một
chấm
nhỏ
ánh
sáng
màu
vàng
chiếu
nơi
trung
tâm
cái
hoa,
và
trước
khi
tôi
có
th́
giờ
nh́n
lại
lần
nữa,
th́
một
cái
nhẫn
vàng
nặng
lớn
bản
và
trơn
bong
từ
trong
nụ
hoa
nhảy
vọt
ra,
dường
như
do
sức
đẩy
của
một
cái
ḷ
xo,
và
rơi
xuống
đất
ngay
dưới
chân
tôi.
Cái
hoa
liền
đứng
ngay
trở
lại
trên
cái
cuống,
không
c̣n
nặng
như
lúc
năy,
mà
trở
lại
trạng
thái
b́nh
thường.
Ông
Houghton
và
tôi
đều
là
luật
sư,
vốn
có
bản
năng
thận
trọng
của
nghề
nghiệp,
chúng
tôi
bèn
xem
xét
kỹ
lại
bên
trong
cái
hoa,
nhưng
không
thấy
có
dấu
vết
ǵ
khả
nghi
chỉ
rằng
có
bàn
tay
người
sờ
mó
vào:
những
cánh
hoa
được
xếp
lên
nhau
một
cách
đều
đặn
và
chặt
chẽ,
và
người
ta
không
thể
nhét
cái
nhẫn
vàng
vào
bên
trong
mà
không
làm
sứt
mẻ
cái
nụ
non
ở
giữa.
Vả
lại,
làm
sao
bà
HPB
có
thể
chơi
cái
tṛ
giả
mạo
ấy
ngay
trước
mắt
chúng
tôi,
dưới
ánh
sáng
của
ba
ngọn
đèn,
trong
khi
bà
cầm
cái
hoa
trong
bàn
tay
mặt
chỉ
có
độ
hai
phút
trước
khi
đưa
nó
cho
ông
Houghton?
Hiện
tượng
này
có
thể
giải
thích
bằng
khoa
Huyền
Môn:
vật
chất
trong
chiếc
nhẫn
và
vật
chất
trong
những
cánh
hoa
có
thể
đă
được
nâng
cao
từ
chiều
đo
thứ
ba
lên
chiều
đo
thứ
tư,
và
phục
hồi
trở
lại
chiều
đo
thứ
ba
vào
lúc
chiếc
nhẫn
nhảy
vọt
ra
ngoài
cái
hoa.
Quả
thật
sự
việc
đă
xảy
ra
đúng
y
như
vậy.
Cái
nhẫn
ấy
cân
nặng
ba
chỉ,
và
tôi
đang
đeo
nó
trong
lúc
này.
Nó
không
phải
được
tạo
ra
từ
chỗ
hư
không,
mà
chỉ
là
một
vật
được
di
chuyển
xuyên
qua
không
gian.
Một
năm
rưỡi
sau
đó,
sau
khi
Hội
Thông
Thiên
Học
Thế
Giới
được
thành
lập
độ
một
năm,
bà
HPB
và
tôi
cư
trú
tại
New
York
trong
hai
gian
pḥng
khác
nhau
cùng
trong
một
nhà.
Một
ngày
nọ,
cô
em
gái
tôi,
là
bà
W.H. Mitchell,
đi
cùng
với
chồng
đến
viếng
chúng
tôi,
và
trong
câu
chuyện
hàn
huyên
tâm
sự,
cô
yêu
cầu
cho
xem
chiếc
nhẫn
và
nói
cho
cô
nghe
câu
chuyện
lịch
sử
của
nó.
Khi
xem
xong,
cô
đeo
thử
vào
ngón
tay
rồi
tháo
ra
đặt
nằm
trong
ḷng
bàn
tay
cô
để
trả
lại
cho
bà
HPB.
Bà
HPB
cứ
để
nó
nằm
y
như
thế
mà
không
động
đến,
khép
các
ngón
tay
cô
em
tôi
trên
chiếc
nhẫn,
nắm
bàn
tay
ấy
trong
một
lúc,
rồi
buông
ra
và
bảo
cô
em
tôi
hăy
nh́n
lại
xem.
Th́
ra
nó
không
c̣n
là
một
chiếc
nhẫn
trơn
nữa,
mà
chúng
tôi
thấy
trên
cái
khoen
vàng
có
cẩn
ba
hột
kim
cương
nhỏ
xếp
thành
h́nh
tam
giác.
Việc ấy
được
thực
hiện
bằng
cách
nào?
Giả
thuyết
ít
huyền
diệu
nhất
là
bà
HPB
đă
cho
một
thợ
kim
hoàn
cẩn
ba
hột
kim
cương
trên
chiếc
nhẫn
từ
trước,
và
dùng
thuật
thôi
miên
che
mắt
để
chúng
tôi
không
nh́n
thấy,
cho
đến
khi
thị
giác
của
chúng
tôi
được
giải
tỏa
vào
lúc
cô
em
tôi
mở
bàn
tay
ra.
Điều
này
có
thể
hiểu
được
như
một
phép
thuật
thôi
miên;
tôi
đă
từng
thấy
những
hiện
tượng
đó,
và
chính
tôi
cũng
có
thể
làm
được
như
vậy.
Người
ta
có
thể
làm
che
khuất
tầm
nhăn
quang
của
kẻ
khác,
không
những
đối
với
vài
hột
kim
cương,
mà
c̣n
có
thể
làm
che
dấu
một
người,
một
cử
tọa
đông
đảo,
một
cái
nhà,
một
cái
cây,
một
quả
núi,
hay
bất
cứ
vật
ǵ:
thuật
thôi
miên
dường
như
có
khả
năng
tác
động
vô
giới
hạn.
Hiện
tượng
chiếc
nhẫn
nạm
kim
cương
có
thể
được
giải
thích
ra
sao
tùy
ư; nó
vẫn
là
một
sự
thành
công
hoàn
toàn.
V
Những
sự
việc
kể
trên
sẽ
giúp
cho
độc
giả
có
một
ư
niệm
về
những
hiện
tượng
lạ
lù
ng
vẫn
tiếp
diễn
hồi
thời
đó
ở
các
xứ
phương
Tây. Ở
phương
Đông
thỉnh
thoảng
người
ta
cũng
từng
nghe
nói
về
những
sự
di
chuyển
đồ
vật
tương
tự
xuyên
qua
không
gian,
nhưng
luôn
luôn
với
một
sự
kinh
khiếp,
sợ
hăi,
và
những
người
chứng
kiến
không
hề
nghĩ
đến
việc
đem
các
hiện
tượng
ấy
ra
làm
những
đề
tài
khảo
cứu
khoa
học.
Trái
lại,
chúng
bị
coi
như
những
việc
chẳng
lành,
do
tác
động
của
những
vong
linh
bất
hảo,
thường
là
những
vong
hồn
đọa
lạc
của
những
bạn
bè,
thân
quyến
hăy
c̣n
bám
víu
cơi
Trần
và
người
ta
chỉ
muốn
tảo
trừ
những
sự
việc
ấy
như
những
chuyện
quấy
rầy,
phiền
nhiễu.
Đối
với
người
Đông
Phương,
vốn
có
một
truyền
thống
tâm
linh
vững
chắc
từ
lâu
đời,
th́
sự
giao
tiếp
giữa
người
sống
với
vong
linh
người
chết
là
một
bằng
chứng
chỉ
rằng
người
chết
vẫn
chưa
đoạn
tuyệt
một
cách
thoải
mái
nhẹ
nhàng
với
cuộc
đời
thế
gian,
và
như
vậy,
họ
bị
ngăn
trở
trên
con
đường
tiến
hóa
tự
nhiên
để
vượt
lên
cơi
giới
tinh
thần.
Người
Á
Đông
coi
việc
biểu
diễn
những
hiện
tượng
thuộc
loại
kể
trên
như
những
bằng
chứng
chỉ
rằng
các
người
biểu
diễn
ấy
chỉ
có
những
quyền
năng
thuộc
loại
thấp
kém.
Trong
thời
gian
ở
Ấn
Độ,
tôi
đă
từng
nghe
nhiều
người
bổn
xứ
nói
rằng
thật
là
một
điều
đáng
tiếc
mà
thấy
bà
HPB
biểu
diễn
các
hiện
tượng
thần
thông,
bởi
v́
việc
ấy
chỉ
rằng
bà
chưa
đạt
tới
tŕnh
độ
cao
siêu
trong
pháp
môn
Yoga.
Thật
vậy,
Đạo
Sư
Patanjali,
cũng
như
Phật
Thích
Ca,
đă
từng
cảnh
cáo
các
môn
đồ
không
nên
biểu
diễn
phép
thuật
thần
thông
khi
họ
phát
triển
được
những
quyền
năng
thần
bí
trong
diễn
tŕnh
tiền
hóa
tâm
linh
của
họ.
Tuy nhiên,
chính
đức
Phật
đôi
khi
cũng
đă
làm
các
hiện
tượng
thần
thông,
nhưng
ngài
chỉ
làm
như
vậy
trong
khi
thuyết
pháp
để
kêu
gọi
sự
chú
ư
của
quần
chúng
và
thúc
đẩy
họ
cố
gắng
công
phu
tu
luyện
sau
khi
đă
thanh
lọc
bản
thể
cho
bớt
nhiễm
trần.
Phần
nhiều
các
bậc
giáo
chủ
khác
cũng
áp
dụng
phương
pháp
đó. Phải
chăng
bà
HPB
cũng
làm
giống
y
như
vậy?
Trong
khi
làm
các
phép
thuật
thần
thông,
phải
chăng
bà
đă
có
cảnh
giác
tất
cả
mọi
người
rằng
đó
chỉ
là
những
điều
phụ
thuộc
nhỏ
mọn,
không
đáng
kể
trên
đường
Đạo?
Không
ai
có
thể
phủ
nhận
điều
ấy;
mọi
người
đều
nh́n
nhận
là
bà
vẫn
luôn
luôn
dạy
rằng
các
hiện
tượng
thần
thông
chỉ
có
tác
dụng
là
để
thực
nghiệm
khoa
triết
học
tâm
linh,
cũng
như
những
cuộc
thí
nghiệm
hóa
chất
đối
với
khoa
Hóa
Học
vậy.
Bà
hẳn
là
đă
sai
lầm
mà
phung
phí
thần
lực
trong
các
hiện
tượng
huyền
linh
để
làm
ngạc
nhiên
những
quan
khách
tầm
thường,
không
quan
trọng,
thần
lực
ấy
có
thể
dùng
một
cách
hữu
hiệu
hơn
nhiều
để
phá
hủy
bức
rào
vô
tín
ngưỡng
và
độc
đoán
của
khoa
học
duy
vật
Tây
Phương.
Tuy
nhiên,
nhờ
đó
bà
đă
thuyết
phục
được
một
số
người,
chịu
ảnh
hưởng
của
bà
mà
đă
đóng
góp
công
lao
tích
cực
vào
phong
trào
Thông
Thiên
Học
vĩ
đại
của
chúng
ta,
và
vài
người
trung
kiên
nhất
trong
số
đó
đă
từ
bỏ
khoa
Thần
Linh
Học
Tây
Phương
để
bước
vào
Huyền
Môn
Đông
Phương
qua chiếc
cầu
trung
gian
của
những
hiện
tượng
diệu
huyền.
Về
phần
tôi,
tôi
có
thể
nói
rằng
những
loạt
hiện
tượng
thần
thông
đa
h́nh
đa
dạng
mà
bà
HPB
đă
biểu
diễn
cho
tôi
xem,
đă
làm
cho
tôi
hiểu
được
dễ
dàng
những
lư
thuyết
cổ
truyền
Đông
Phương
của
Khoa
Học
Tâm
Linh.
Tôi
rất
tiếc
rằng
những
người
khác,
nhất
là
những
bạn
Đạo
phương
Đông
của
tôi,
vốn
có
một
tâm
hồn đă
từng
được
chuẩn
bị
hoàn
toàn
chu
đáo,
lại
không
có
được
một
cơ
hội
may
mắn
như
tôi.
CHƯƠNG SÁU
VIỆC THÀNH LẬP HỘI THÔNG
THIÊN
HỌC
THẾ
GIỚI
Tất
cả
những
hội
viên
nhiệt
thành
của
Hội
Thông
Thiên
Học
sẽ
thích
thú
mà
được
biết
rằng
kể
từ
tháng
7
năm
1875,
bà
HPB
đă
khẳng
định
sự
hiện
diện
của
các
đấng
Chân
Sư,
tuyên
bố
sự
thật
về
Quần
Tiên
Hội,
về
kho
tàng
minh
triết
thiêng
liêng
do
các
ngài
ǵn
giữ,
và
về
mối
liên
hệ
cá
nhân
của
bà
với
các
ngài.
Bà nêu lên
vấn
đề
quan
trọng
là:
“Khoa
Thần
Linh
Học,
trong
tay
của
một
Chân
Sư, trở
thành
khoa
Phương
Thuật,
v́
ngài
đă
tinh
thông
lăo
luyện
về
bí
thuật
sử
dụng
những
định
luật
trong
Càn
Khôn
Vũ
Trụ,
mà
không
vi
phạm
một
định
luật
nào
và
không
hành
động
trái
nghịch
với
thiên
nhiên. Trong
tay
của
một
đồng
tử
thiếu
kinh
nghiệm,
khoa
ấy
trở
thành
Bàn
Môn
Tả
Đạo
vô
ư
thức,
v́
y
vô
t́nh
mở
rộng
cửa
giao
thông
giữa
thế
giới
hữu
h́nh
và
vô
h́nh, và
giải
tỏa
những
sức
mạnh
mù
quáng
của
Thiên
Nhiên
cùng
những
loại
âm
binh
và
vong
linh
bất
hảo.”
Kể
từ
nay,
tư
tưởng
Huyền
Môn
đă
được
phát
động
một
cách
rơ
rệt,
và
luôn
luôn
được
nhắc
đến
trong
những
sách
vở
báo
chí
và
thơ
tín
riêng
tư
của
chúng
tôi.
Trong
một
bài
báo
nhan
đề “ĐỜI
SỐNG
BẤT
TỬ”
đăng
trên
báo
Nữu
Ước
Diễn
Đàn
ngày
28
tháng
8
năm
1875,
tôi
có
tuyên
bố
rằng
tôi
đă
từng
tin
nơi
các
hiện
tượng
đồng
tử
từ
một
phần
tư
thế
kỷ
nay,
nhưng
tôi
không
bao
giờ
tin
rằng
những
trí
lực
đằng
sau
các
hiện
tượng
đồng
tử
từ
một
phần
tư
thế
kỷ
nay,
nhưng
tôi
không
bao
giờ
tin
rằng
những
trí
lực
đằng
sau
các
hiện
tượng
đó
quả
thật
là
những
ông
nọ
bà
kia
như
họ
giả
danh
hay
mạo
nhận.
Tôi
khẳng
định
sự
tin
tưởng
của
tôi
về
sự
thật
của
khoa
Huyền
Môn
thời
cổ,
và
nói
lên
sự
kiện
rằng
tôi
t́nh
cờ
được
giao
tiếp
với
những
người
c̣n
sống,
họ
đă
từng
thi
thố
ngay
trước
mặt
tôi
những
pháp
thuật
diệu
huyền
xứng
đáng
với
bản
lĩnh
của
các
nhà
Phương
Sĩ
trứ
danh
thời
xưa.
Khi
tôi
nói
lên
điều
ấy,
tôi
không
phải
chỉ
đề
cập
đến
những
hiện
tượng
thần
thông
của
bà
HPB,
hay
sự
giao
tiếp
của
tôi
với
các
Chân
Sư
mà
thôi,
mà
c̣n
muốn
nhắc
đến
sự
việc
này:
đó
là
việc
làm
cho
những “TINH
LINH
NGŨ
HÀNH”
xuất
hiện
ngay
trước
mắt
tôi
và
trong
pḥng
ngủ
của
tôi,
do
một
người
lạ
mặt
mà
tôi
t́nh
cờ
gặp
tại
New
York,
một
ngày
trước
khi
tôi
viết
bài
báo
trên.
Người
lạ
mặt
đến
nhà
tôi
do
một
sự
hứa
hẹn
trước.
Chúng
tôi
mở
những
cửa
ngăn
pḥng
khách
với
buồng
ngủ,
ngồi
trên
ghế
đối
diện
với
cửa
ra
vào,
và
th́nh
ĺnh,
dưới
ảnh
hưởng
của
một
phương
pháp
huyền
diệu
để
tạo
ra
ảo
giác (Mâya), tôi
nh́n
thấy
pḥng
ngủ
của
tôi
biến
thành
một
khoảng
không
gian
vuông
vức.
Những
giường
tủ, bàn
ghế
đă
biến
mất
khỏi
tầm
mắt
của
tôi,và
lần
lần
xuất
hiện
những
cảnh
trời
nước
mênh
mông, mây
mù
bao
phủ
không
gian, hang
động
dưới
ḷng
đất, và
một
hỏa
diệm
sơn
phun
lửa. Mỗi
hoạt
động
trong
ngũ
hành
đều
loi
ngoi, những
sinh
vật
sống
động
với
những
h́nh
thể,
những
gương
mặt,
ẩn
hiện
chập
chờn
khi
mờ
khi
tỏ.
Vài
h́nh
thể
sinh
vật
đó
coi
xinh
đẹp, hiền
ḥa, những
loại
khác
có
h́nh
dáng
bất
hảo, dữ
tợn, có
loại
rất
hung
ác
và
coi
thật
rùng
rợn. Chúng
xuất
hiện
trước
mắt
tôi
một
cách
nhẹ
nhàng
giống
như
những
bọt
nước
trên
một
gịng
suối, hoặc
phóng
nhanh
xuyên
qua
không
gian
và
biến
mất, hoặc
chơi
giỡn
nô
đùa
với
nhau
trong
ánh
lửa
hồng
hay
trên
gịng
nước.
Một
lát
sau
đó, một
quái
vật
h́nh
thù
dị
hợm
trợn
mắt
nh́n
tôi
và
phóng
tới
trước, dường
như
muốn
chụp
lấy
tôi
cũng
như
một
con
cọp
bị
thương
chụp
mồi, nhưng
rồi
lại
biến
mất
khi
nó
vừa
tới
làn
mức
chu
vi
của
khoảng
không
gian
vuông
vức, là
nơi
mà
hai
gian
pḥng
nối
liền
với
nhau. Việc
ấy
làm
cho
thần
kinh
tôi
bị
căng
thẳng
cực
độ, nhưng
sau
những
kinh
nghiệm
về
hồn
ma
hiện
h́nh
mà
tôi
đă
từng
trải
qua
ở
nông
trại
Eddy, tôi
cố
gắng
giữ
vững
tinh
thần
ḷng
không
rung
động. Đến
đây, người
lạ
mặt
tuyên
bố
hài
ḷng
về
kết
quả
cuộc
thử
thách
tâm
linh
này, và
khi
chia
tay
từ
giă
c̣n
nói
thêm
rằng
chúng
tôi
có
thể
sẽ
gặp
nhau
trở
lại. Nhưng
cho
đến
nay
chúng
tôi
không
hề
gặp
nhau
lại
nữa. Người
ấy
có
h́nh
dáng
giống
như
một
người
Đông
Phương, màu
da
lợt, nhưng
tôi
không
thể
phát
hiện
được
là
quốc
tịch
nào, tuy
hồi
đó
tôi
nghĩ
rằng
có
lẽ
ông
ta
là
người
Ấn
Độ. Người
đó
nói
Anh
Ngữ
rất
thông
thạo
cũng
như
tôi.
II
Sự
dọn
đường
cho
việc
thành
lập
Hội
Thông
Thiên
Học
Thế
Giới
đă
được
chuẩn
bị
do
sự
tranh
luận
sôi
nổi
trong
các
giới, trước
nhất
về
Thần
Linh
Học
và
sau
đó
về
một
vài
quan
niệm
của
Huyền
Môn
Đông
Phương. Cuộc
tranh
luận
vẫn
tiếp
diễn
kể
từ
khi
những
bài
tường
thuật
của
tôi
về
các
hiện
tượng
thần
linh
ở
nông
trại
Eddy
bắt
đầu
xuất
hiện
trên
nhật
báo
New
York
Sun
vào
tháng
8
năm
1874. Nó
càng
trở
nên
sôi
động
thêm
gấp
mười
lần
từ
khi
tôi
và
bà
HPB
gặp
nhau
tại
Chittenden, và
sử
dụng
báo
chí
để
tŕnh
bày
những
quan
điểm
lạ
thường
của
chúng
tôi. Những
bài
báo
châm
biếm
của
bà, những
chuyện
đồn
đăi
về
những
phép
thuật
thần
thông
của
bà, và
sự
quả
quyết
của
chúng
tôi
về
sự
hiện
diện
của
những
chủng
loại
sinh
vật
trong
cơi
vô
h́nh, đă
thu
hút
đến
với
chúng
tôi
nhiều
nhân
vật
Đạo
tâm, trí
thức
thông
minh
lỗi
lạc. Trong
số
những
người
này
có
những
nhà
bác
học, ngôn
ngữ
học, nhà
văn, nhà
khảo
cổ, vài
vị
linh mục
có
tinh
thần
rộng
răi
cởi
mở, luật
gia, y
sĩ, vài
nhà
Thần
Linh
Học
tên
tuổi, vài
nhà
báo
ṭ
ṃ
muốn
kiếm
đề
tài
hấp
dẫn
để
viết
bài.
Thật
là
một
việc
táo
bạo
mà
dám
đứng
ra
công
khai
tuyên
bố
nền tảng
khoa
học
của
Khoa
Huyền
Môn
cổ
xưa, bất
chấp
mọi
dư
luận
thành
kiến
của
người
đời, ở
vào
thời
đại
hoài
nghi
của
khoa
học
vật
chất
ngày
nay. Chính
hành
động
táo
bạo
đó
đă
thu
hút
sự
chú
ư
của
quần
chúng
và
đưa
đến
cái
hậu
quả
đương
nhiên
là
với
thời
gian
qua, những
người
cùng
đồng
quan
điểm
sẽ
họp
chung
lại
với
nhau
thành
một
Hội
để
khảo
cứu
về
các
vấn
đề
Huyền
Môn. Mưu
toan
thành
lập
một
Câu
Lạc
Bộ
Huyền
Linh
đă
thất
bại
vào
tháng
5, năm
1875, th́
nay
một
cơ
hội
khác
đă
đến, khi
một
học
giả
chuyên
khoa
Ai
Cập
Học
là
ông
George
Felt
thuyết
tŕnh
trước
một
nhóm
bạn
hữu
của
chúng
tôi
tại
nhà
bà
HPB
vào
ngày
7
tháng
9
năm
1875. Đó
là
một
sự
thành
công
mỹ
măn: cái
hột
giống
của
một
cây
đại
thọ
bao
trùm
khắp
thế
giới
đă
được
gieo
trên
mảnh
đất
tốt
và
đă
nẩy
mầm.
Tối
hôm
7
tháng
9, ông
Felt
thuyết
tŕnh
về
đề
tài: “QUY
TẮC
TỶ
LỆ
CỦA
NGƯỜI
CỔ
AI
CẬP”. Ông
là
một
nhà
kỹ
nghệ
họa
rất
tài
t́nh, và
đă
vẽ
một
số
họa
đồ
rất
khéo
để
diễn
tả
lư
thuyết
của
ông
cho
rằng
những
quy
tắc
tỷ
lệ
kiến
trúc
của
người
Ai
Cập
cũng
như
của
các
đại
kiến
trúc
gia
Hy
Lạp, hiện
được
ǵn
giữ
trong
những
chữ
mật
tự
khắc
trên
các
đền
thờ
cổ
của
xứ
Ai
Cập. Ông
nói
rằng
bằng
cách
sử
dụng
vài
loại ch́a
khóa
bí
mật, người
ta
có
thể
áp
đặt
một
đồ
h́nh
mà
người
ta
gọi
là “NGÔI
SAO
TOÀN
MỸ” trên
vách
một
ngôi
đền, rồi
đọc
trong
đó
toàn
bộ
các
bí
quyết
của
vấn
đề
tỷ
lệ
kiến
trúc
và
h́nh
học. Những
chữ
mật
tự
ở
ngoài
ṿng
cái đồ
h́nh
đặt
lên
vách
chỉ
là
những
chữ
giả
tạo
để
đánh
lạc
hướng
những
kẻ
ṭ
ṃ, bởi
v́
nếu
đọc
liên
tục
với
những
chữ
ở
trong
cái
đồ
h́nh, th́
đó
chỉ
là
những
câu
vô
nghĩa, hoặc
chỉ
là
một
câu
chuyện
vô
vị, tầm
thường.
Cái
đồ
h́nh
này
gồm
có
một
ṿng
tṛn
với
một
h́nh
vuông
ở
trong
và
một
ở
ngoài,
chứa
đựng
một
h́nh
tam
giác
thường, hai
h́nh
tam
giác
Ai
Cập
và
một
h́nh
năm
góc. Ông
Felt
áp
dụng
cái
đồ
h́nh
ấy
vào
những
h́nh
ảnh, tượng
điêu
khắc,
cổng
đền, h́nh
vẽ
chữ
mật
tự, Kim
Tự
Tháp, lăng
tẩm
và
dinh
thự
lâu
đài
của
xứ
cổ
Ai
Cập, và
cho
thấy
rằng
chúng
thật
hoàn
toàn
đúng
khớp
với
những
tỷ
lệ
của
đồ
h́nh
đến
mức
biểu
lộ
một
quy
tắc
kiến
trúc
chung
cho
tất
cả
các
công
tŕnh
xây
dựng
của
thời
xưa. Quả
thật, đó
chính
là
cái
quy
tắc
kiến
trúc
thật
sự
của
Thiên
Nhiên.
Tiến Sĩ
Pancoats, một
nhà
Huyền
Học
ưu
tú
có
mặt
trong
buổi
họp, lúc
ấy
mới
hỏi
ông
felt
có
thể
chứng
minh
cụ
thể
sự
hiểu
biết
của
ông
về
những
quyền
năng
thần
bí
của
các
nhà
đạo
sĩ
thời
xưa
hay
không, chẳng
hạn
như
việc
kêu
gọi
các
vong
linh
khuất
mặt
trong
cơi
vô
h́nh. Ông Felt trả lời
rằng:
“Ông
có
thể
làm
cho xuất
hiện
hằng
trăm
những
h́nh
bóng
các
vong
linh giống
như
h́nh
người, nhưng
ông
không
thấy
những
dấu
hiệu
chỉ
rằng
chúng
có
trí
khôn”.
Trong
buổi
thuyết
tŕnh, ông
Felt
cho
chúng
tôi
biết
rằng
trong
khi
khảo
cứu
về
môn
cổ
học
Ai
Cập, ông
đă
phát
hiện
rằng
những
vị
giáo
sĩ
Ai
Cập
thời
xưa
đều
là
những
pháp
sư
lăo
luyện
tinh
thông
về
khoa
Phương
Thuật. Họ
có
quyền
năng
kêu
gọi
và
sai
khiến
những
TINH
LINH
NGŨ
HÀNH
và
có
để
lại
những
chân
ngôn
thần
chú
để
sử
dụng
âm
binh. Ông
sẵn
ḷng
chỉ
dẫn
bí
thuật
này
cho
những
người
có
thiện
chí
và
hứa
sẽ
làm
cho
các
loại
tinh
linh
xuất
hiện
trước
mắt
chúng
tôi
trong
một
loạt
các
bài
diễn
thuyết.
Buổi
thuyết
tŕnh
vô
cùng
hấp
dẫn
và
lư
thú
hôm
đó
được
nối
tiếp
theo
bằng
một
cuộc
thảo
luận
sôi
nổi. Trong
khi
cuộc
bàn
căi
đang
tiếp
diễn, tôi
bỗng
có
ư
nghĩ
rằng
có
lẽ
là
một
điều
hay
nếu
một
hội
được
thành
lập
để
khuyến
khích
sự
học
hỏi
khảo
cứu
về
khoa
Huyền
Môn, và
sau
khi
đắn
đo
suy
nghĩ, tôi
mới
viết trên
một
mảnh
giấy
gịng
chữ
sau
đây:
“PHẢI
CHĂNG
LÀ
MỘT
ĐIỀU
TỐT
NẾU
CHÚNG
TA
THÀNH
LẬP
MỘT
HỘI
ĐỂ
KHẢO
CỨU
VỀ
NHỮNG
VẤN
ĐỀ
NÀY?”
Tôi
đưa
mảnh
giấy
cho
ông
W. Judge, một
luật
sư
lúc
ấy
đang
đứng
giữa
tôi
và
bà
HPB
ngồi
ở
một
ghế
đối
diện
để
nhờ
ông
chuyển
cho
bà. Bà đọc xong, liền
gật
đầu
tỏ
ư
bằng
ḷng. Tôi
bèn
đứng
dậy, và
với
vài
lời
mở
đầu
câu
chuyện, tôi
bèn
đưa
ra
đề
nghị
trên. Ṿng
cử
tọa
lấy
làm
thích
thú, và
khi
ông
Felt, nhân
dịp
trả
lời
một
câu
hỏi, nói
rằng
ông
sẵn
ḷng
chỉ
dẫn
cho
chúng
tôi
phương
pháp
kêu
gọi
và
kiểm
chế
các
loại
TINH
LINH
NGŨ
HÀNH, th́
toàn
thể
hội
trường
đều
đồng
thinh
chấp
thuận
việc
thành
lập
Hội
nói
trên. Theo
lời
đề
nghị
của
ông
Judge, tôi
được
bầu
làm
Hội
Trưởng
và
với
đề
nghị
của
tôi, ông
Judge
được
bầu
làm
Bí
Thơ
buổi
họp. V́
lúc
ấy
đêm
đă
khuya, buổi
họp
được
đ́nh
lại
đến
tối
hôm
sau
để
có
một
quyết
định
chính
thức. Những
quan
khách
tối
hôm
đó
được
yêu
cầu
đem
theo
những
bạn
bè
thân
hữu
và
cảm
t́nh
viên
vào
đêm
sau
để
cho
họ
có
thể
gia
nhập
hội
nếu
họ
muốn.
Một
tờ
nhật
báo
ở
New
York
có
tường
thuật
buổi
họp
tối
hôm
đó, tóm
tắt
đại
khái
như
sau:
“Một
phong
trào
rất
quan
trọng
vừa
được
khai
trương
tại
New
York
dưới
sự
lănh
đạo
của
Đại
Tá
Henry
S. Olcott
trong
việc
thành
lập
một
hội
gọi
là
Hội
Thông
Thiên
Học
Thế
Giới. Đề
nghị
khởi
xướng
nên
công
việc
này
là
một
điều
hoàn
toàn
không
có
dự
tính
trước, và
được
phát
động
vào
tối
hôm
mùng
7
tại
pḥng
khách
nhà
bà
HPB. Cử
tọa
gồm
mười
bảy
vị
quan
khách
nam
và
nữ
trong
giới
thượng
lưu
trí
thức
đă
hội
họp
để
nghe
ông
George
Henry
Felt
thuyết
tŕnh
về
một
vài
khía
cạnh
của
Huyền
Môn
Ai
Cập
vô
cùng
lư
thú
và
hấp
dẫn….
Trong
cuộc
thảo
luận
sau
đó, thừa
dịp
thuận
tiện, Đại
Tá
Olcott
đứng
lên
phát
biểu
ư
kiến. Sau
khi
phác
họa
t́nh
trạng
của
phong
trào
Thần
Linh
Học
đương
thời; thái
độ
của
các
nhà
Duy
Vật
chống
lại
phong
trào
ấy; sự
xung
đột
ư
kiến
giữa
khoa
học
và
tôn
giáo; tính
cách
triết
học
của
nền
Đạo
Lư
cổ
truyền, khả
dĩ
dung
ḥa
tất
cả
mọi
lư
thuyết tương
phản
hiện
hữu; và
công
tŕnh
siêu
việt
của
ông
Felt
đă
khám
phá
được
bí
quyết
cấu
tạo
của
Thiên
Nhiên
do
những
tàn
tích
cổ
xưa
của
khoa
Huyền
Môn
Ai
Cập. Ông
đề
nghị
thành
lập
một
hội
tinh
thần
để
quy
tụ
tất
cả
những
người
có
khuynh
hướng
tâm
linh, sẵn
sàng
làm
việc
chung
với
nhau
để
sưu
tập
và
truyền
bá
những
kiến
thức
huyền
môn. Chương
tŕnh
của
ông
là
tổ
chức
một
Hội
các
nhà
Huyền
Học
và
bắt
đầu
lập
ngay
một
thư
viện, kế
đó
là
phổ
biến
những
giáo
lư
về
những
định
luật
huyền
bí
trong
Thiên
Nhiên
mà
người
cổ
Ai
Cập
và
Trung
Đông
đều
biết
rơ, nhưng
lại
hoàn
toàn
xa
lạ
đối
với
thế
giới
khoa
học
của
chúng
ta
hiện
nay,v..v …”
Tài
liệu
đó
cho
thấy
tâm
trạng
của
tôi
khi
tôi
đề
nghị
thành
lập
Hội
Thông
Thiên
Học
Thế
Giới. Quan
niệm
về
t́nh
Huynh
Đệ
Đại
Đồng
trong
nhân
loại
chưa
được
nêu
ra
và
chúng
tôi
cũng
chưa
kịp
nghĩ
đến, bởi
v́
đề
nghị
thành
lập
Hội
chỉ
đột
xuất
từ
cái
đề
tài
đang
thảo
luận. Tuy
nhiên, khi
ṿng
ảnh
hưởng
của
Hội
nới
rộng
để
bao
gồm
cả
những
dân
tộc
phương
Đông
cùng
những
tôn
giáo
và
những
chế
độ
xă
hội
của
họ, th́
t́nh
Huynh
Đệ
Đại
Đồng
đă
trở
nên
một
điều
cần
thiết, và
trên
thực
tế, là
nền
tảng
cho
toàn
thể
cơ
cấu
xây
dựng
Hội. Hội
Thông
Thiên
Học
là
một
công
tŕnh
tuần
tự
phát
triển
và
tiến
hóa; chứ
không
phải
là
một
sự
tạo
dựng
có
mưu
tính
trước (trên
cơi
giới
hữu
h́nh).
Khi
Hội
đă
được
chấp
thuận
trên
nguyên tắc, một
phiên
họp
sau
được
tổ
chức
để
soạn
thảo
bản
Điều
Lệ, Nội
Quy, và
bầu
một
ban
chấp
hành
để
quản
trị
công
việc
Hội. Ngày
30
tháng
10, bản
Điều
Lệ
và
Nội
Quy
được
chấp
thuận, và
một
ban
chấp
hành
được
tuyên
bố
như
sau:
HỘI
TRƯỞNG…………………….HENRY S. OLCOTT
PHÓ
HỘI
TRƯỞNG:
B.S
PANCOATS
và
G.H.FELT
TỔNG
THƯ
KƯ
NGOẠI
VỤ:
H.P. BLAVATSKY
TỔNG
THƯ
KƯ
NỘI
VỤ:
JOHN S. COBB
THỦ
BỔN:
HENRY
NEWTON
QUẢN
LƯ
THƯ
VIỆN:
CHARLES
SOTHERAN
LUẬT
SƯ
NHIỆM
CÁCH:
WILLIAM Q.
JUDGE
và
năm
vị
CỐ
VẤN.
Phiên
họp
lại
tái
nhóm
vào
ngày
17
tháng
11
năm
1875
để
đọc
bản
Tuyên
Ngôn
của
Hội, và
để
nghe
vị
Hội
Trưởng
Đại
Tá
Henry S.
Olcott, đọc bài
diễn
văn
khai
trương. Thế
là
Hội
Thông
Thiên
Học
Thế
Giới
được
chính
thức
thành
lập
vào
ngày
17
tháng
11
năm
1875.
III
khi
đoạn
Hồi
Kư
này
của
tôi
được
đăng
trong
tạp
chí
“THE
THEOSOPHIST” tháng
11, năm
1892, số
tạp
chí
ấy
cũng
có
đăng
tiểu
sử
hay
lư
lịch
của
nhiều
vị
trong
Ban
Chấp
Hành
của
Hội, trong
số
đó
có
một
chuyện
lạ
về
kinh
nghiệm
huyền
linh
của
ông
W. L. Alden.
Ông
Alden
hồi
đó
là
một
biên
tập
viên
của
tờ “NỮU
ƯỚC
THỜI
BÁO”, rất
nổi
tiếng
về
những
bài
phê
b́nh
hài
hước
và
sắc
xảo
của
ông
đối
với
những
vấn
đề
thời
sự
hàng
ngày. Khi
chúng
tôi
mới
quen
nhau, ông
ấy
có
gặp
một
chuyện
khá
thú
vị. Lúc
ấy
ông
viết
bài
xă
luận
cho
báo
Graphic, c̣n
tôi
th́
viết
phóng
sự
về
các
hiện
tượng
huyền
linh
ở
Chittenden
cũng
cho
tờ
báo
nhật
báo
này. Những
chuyện
hồn
ma
hiện
h́nh
ở
nông
trại
Eddy
đă
hấp
dẫn
một
số
đông
người
hiếu
kỳ
hằng
ngày
đến
ṭa
soạn
để
hỏi
những
chuyện
bâng
quơ
vô
lư. Họ
làm
quấy
rầy
vị
Chủ
Bút, ông
Groly, đến
mức
làm
cho
ông
này phải
công
bố
một
tấm
h́nh
lớn vẽ
ông
ta
đứng
chận
cửa
vào
ṭa
soạn, với
một
khẩu
súng
lục
và
một
cặp
kéo
lớn
trong
tay, để
tự
vệ
chống
lại
sự
đột
nhập
của
những
kẻ
vô
tích
sự
làm
phiền
nhiễu
và
mất
thời
giờ.
Một
ngày
nọ, có
một
vị
trưởng
lăo
mặc
y
phục
theo
lối
Đông
Phương
bước
vào
ṭa
soạn, tay
cầm
một
quyển
sách
h́nh
dáng
lạ
kỳ, và
có
vẻ
rất
cũ. Ông
ta
chào
các
nhân
viên
ṭa
bài
phóng
sự
của
tôi, và
về
khoa
Thần
Linh
Học
Tây
Phương
và
Đông
Phương. Tất
cả
mọi
người
đều
rời
khỏi
bàn
viết
và
tề
tựu
chung
quanh
ông
lăo. Khi
nói
về
Khoa
Phương
Thuật, ông
lăo
lẳng
lặng
quay
về
phía
ông
Alden, mà
cho
đến
khi
đó
không
ai
biết
ǵ
về
những
sở
thích
Huyền
Môn
của
ông
ta, và
hỏi:
“Thưa
ông, ông
có tin
sự
thật
của
khoa
Phương
Thuật
không?”
Vô
cùng
ngạc
nhiên
v́
câu
hỏi
đột
ngột, ông
Alden
đáp:
“À, tôi
có
đọc
quyển
ZANONI (*)[7],
và
nghĩ rằng
trong
đó
có
lẽ
có
ít
nhiều
sự
thật.”
Đáp
lời
yêu
cầu
của
vài
người, ông
lăo
đưa
quyển
sách
dị
kỳ
của
ông
ta
cho
mọi
người
xem. Th́
ra
đó
là
một
quyển
cổ
thư
dạy
về
Khoa
Phương
Thuật, viết
bằng
chữ
Á
Rập
hay
một
thứ
chữ
Đông
Phương, có
rất
nhiều
h́nh
ảnh
xen
lẫn
với
chữ
viết. Tất
cả
mọi
người
đều
rất
thích
thú, nhất
là
ông
Alden, và
khi
chia
tay
từ
giă, ông
này
hỏi
vị
trưởng
lăo
có
thể
nào
họ
sẽ
gặp
lại
nhau
để
nói
chuyện
thêm. Ông
lăo
gật
đầu
mỉm
cười, và
đưa
cho
ông
Alden
một
địa
chỉ. Nhưng
khi
ông
Alden
đi
đến
nơi, th́
đó
chỉ
là
một
địa
chỉ
ma, một
cửa
hàng
bán
h́nh
tượng
và
kinh
sách
Gia
Tô
Giáo!
Ông
bạn
tôi
vẫn
không
thất
vọng, và
nhiều
tháng
sau
đó, để
mắt
theo
dơi
những
người
mà
ông
tiếp
xúc
hay
gặp
gỡ
ngoài
đường
với
niềm
hy
vọng
sẽ
gặp
lại
ông
lăo
bí
mật. Ông
Croly
cho
tôi
biết
rằng
người
lạ
mặt
cũng
không
hề
trở
lại
viếng
thăm
ṭa
soạn
một
lần
nào
nữa, dường
như
ông
ta
đă
biến
mất
vào
trong
ruột
quả
địa
cầu!
Sự
xuất
hiện
bất
ngờ
và
th́nh
ĺnh
biến
mất
của
những
người
bí
mật
để
đem
những
quyển
sách
quư
cho
người
có
căn
duyên; hoặc
để
đưa
những
lời
khuyên
hữu
ích, hoặc
để
chỉ
đường
dẫn
lối
cho
người
tầm
Đạo giữa
những
khó
khăn
chướng
ngại
mà
y
đang
cố
gắng
vượt
qua
để
đi
đến
chân
lư, vốn
không
phải
là
một
kinh
nghiệm
lạ
thường. Có
nhiều
trường
hợp
như
vậy
đă
được
ghi
nhận
trong
lịch
sử
tôn
giáo. Sự
xuất
hiện
đó
đôi
khi
xảy
ra
trong
khi
thức
tỉnh, hoặc
đôi
khi
trong
những
cơn
linh
ảnh
vào
những
giờ
ban
đêm.
Sự
mách
bảo
có
khi
đến
như
những “tia sáng” xẹt
qua
trong
trí
óc, những
tia
sáng
trực
giác (Buddhi) rọi
vào
cái
trí
suy
luận (Manas) đem
lại
những
phát
minh
lớn
lao
về
khoa
học, chẳng
hạn
như
ư
niệm
về
kiếng
quang
phổ (Spectroscope) xẹt
qua
trí
óc
của
fraunhofer; ư
niệm
về
tính
chất
của
sấm
sét
và
ống
thu
lôi
trong
trí
của
Franklin; ư
niệm
về
máy
điện
thoại
trong
trí
của
Edison, và
về
hằng
muôn
ngàn
sự
việc
vĩ
đại
hay
định
luật
lớn
lao
khác
nữa
vẫn
chiếu
rọi
ánh
sáng
vào
tâm
hồn
những
người
thụ
cảm
sẵn
sang
tiếp
nhận
nguồn
cảm
hứng
thiêng
liêng.
Dường
như
là
một
điều
quá
đáng
mà
nói
rằng
mỗi
người
tầm
Đạo
đều
có
cơ
duyên
đạt
tới
sự
hiểu
biết
một
lần
trong
đời
ḿnh, nhưng
tôi
tin
rằng
số
người
may
mắn
gặp
được
cơ
duyên
đó
c̣n
gấp
trăm
lần
nhiều
hơn
là
người
ta
tưởng. Thật
là
một
điều
bất
hạnh
cho
đương
sự
nếu
v́
quan
niệm
sai
lầm, y
tưởng
rằng
vị
sứ
giả
đem
cơ
duyên
tới
cho
y
phải
có
một
h́nh
dáng
hay
cốt
cách
đặc
biệt
như
thế
nào
đó, hoặc
bức
thông
điệp
gởi
cho
y
phải
đi
kèm
với
những
hiện
tượng
diệu
huyền
thuộc
loại
nào.
Rồi
với
những
thành
kiến
đó
làm
che
ám
lu
mờ, có
khi “y
giao
tiếp
với
một
vị
thiên
thần
mà
không
hề
hay
biết”, hoặc
chạm
trán
với
quư
nhân
ở
ngoài
đường
mà
không
hề cảm
thấy
một
rung
động
khác
lạ
để
làm
cho
y
phải
chú
ư, thay
v́
mải
lo
chăm
chú
nh́n
cảnh
vật
ở
chung
quanh. Tôi nói những
ǵ
tôi
biết.
IV
Theo
chương
tŕnh
đă
định, tối
hôm
18
tháng
9, ông
George H. Felt
tiếp
tục
cuộc
thuyết
tŕnh
lư
thú
về
Huyền
Môn
Ai
Cập
và
tŕnh
bày
những
đồ
h́nh
có
màu
để
diễn
tả
những
sự
khám
phá
của
ông. Vài
thính
giả
sau
đó
cho
biết
rằng
họ
thấy
ánh
sáng
chập
chờn
trên
những
đồ
h́nh, nhưng
tôi
nghĩ
rằng
điều
đó có
lẽ
một
phần
là
do
sự
tự
kỷ
ám
thị, c̣n
một
phần, có
thể
như
ông
Felt
nói, là
do
những
đặc
tính
huyền
diệu
của
các
đồ
h́nh. Riêng
tôi
không
nh́n
thấy
ǵ
có
tính
chất
huyền
linh, cũng
như
những
người
khác
trong
cử
tọa, trừ
ra
một
thiểu
số
rất
ít.
Trong
buổi
thuyết
tŕnh, ông
felt
khẳng
định
không
chút
do
dự
sự
hiện
hữu
của
các
giới
TINH
LINH
NGŨ
HÀNH, ảnh
hưởng
của
chúng
đối
với
loài
vật
và
sự
liên
hệ
của
chúng
tôi
đối
với
loài
người. Trên
một
bài
báo
gởi
đăng
trên
tạp
chí “London
Spiritualist” ngày
19
tháng
6 năm
1878, ông
Felt
viết:
“….TÔI
ĐƯỢC
BIẾT
CHẮC
CHẮN
RẰNG
CÁC
LOẠI
TINH
LINH
NGŨ
HÀNH
QUẢ
CÓ
THẬT
NHỞ
NHỮNG
CUỘC
SƯU
TẦM
CỦA
TÔI
VỀ
MÔN
KHẢO
CỔ
AI
CẬP. TRONG
KHI
TÔI
VẼ
HỌA
ĐỒ
NHỮNG
V̉NG
HOÀNG
ĐẠO
AI
CẬP
ĐỂ
CỐ
GẮNG
T̀M
RA
NHŨNG
ĐIỂM
TƯƠNG
QUAN
VỀ
SỐ
HỌC
GIỮA
CHÚNG
VỚI
NHAU, TÔI
NHẬN
THẤY
DÔI
KHI
CÓ
NHỮNG
TRIỆU
CHỨNG
RẤT
LẠ
LÙNG
KHÔNG
THỂ
GIẢI
THÍCH. NGƯỜI
NHÀ
TÔI
NHẬN
THẤY
RẰNG
CÓ
NHỮNG
LÚC
MÀ
CON
CHÓ
VÀ
CON
MÈO
CỦA
TÔI, BIỂU
LỘ
NHỮNG
CẢM
ỨNG
RẤT
DỊ
KỲ, VÀ
HỌ
LƯU
Ư
TÔI
VỀ
CHÚNG. CHỪNG
ĐÓ, TÔI
MỚI
THẤY
RẰNG
MỖI
KHI
TÔI
BẮT
ĐẦU
LÀM
NHỮNG
CUỘC
KHẢO
CỨU
VỀ
LOẠI
NÀO
ĐÓ, TH̀
CON
MÈO
TRƯỚC
HẾT
LỘ
VẺ
BĂN
KHOĂN
RAY
RỨT, VÀ
TRONG
MỘT
LÚC
CON
CHÓ
LẠI
GẦN
ĐỂ
TRẤN
AN
NÓ, NHƯNG
KHÔNG
BAO
LÂU
CON
CHÓ
CŨNG
LẠI
TỎ
VẺ
SỢ
HĂI
MỘT
VẬT
G̀
ĐANG
ĐỘT
NHIÊN
XUẤT
HIỆN
TRONG
PH̉NG.
DƯỜNG
NHƯ
CON
MÈO
CÓ
NHỮNG
GIÁC
QUAN
TINH
VI
BÉN
NHẠY
HƠN, KHI
ĐÓ
CẢ
HAI
CON
ĐỀU
MUỐN
ĐƯỢC
TÔI
ĐƯA
RA
KHỎI
PH̉NG, VÀ
CHÍNH
CHÚNG
NÓ
CŨNG
TỰ
T̀M
CÁCH
THOÁT
RA
BẰNG
CÁCH
LAO
ĐẦU
XUYÊN
QUA
KIẾNG
CỬA
SỔ. KHI
ĐĂ
ĐƯỢC
THẢ
RA
NGOÀI, CHÚNG
C̉N
KÊU
VÀ
SỦA
TRỞ
LẠI, DƯỜNG
NHƯ
MUỐN
GỌI
TÔI
HĂY
ĐI
RA. CHÚNG
VẪN
TIẾP
TỤC
KÊU
NHƯ
THẾ
MỘT
HỒI
LÂU, VÀ
SAU
CÙNG
TÔI
PHẢI
BẮT
BUỘC
ĐI
ĐẾN
KẾT
LUẬN
RẰNG
CHÚNG
ĐĂ
CẢM
XÚC
ĐƯỢC
NHŨNG
SỰ
VẬT
HAY
ẢNH
HƯỞNG
VÔ
H̀NH
NÀO
ĐÓ
MÀ
TÔI
KHÔNG
NHẬN
THẤY.
THOẠT
TIÊN, TÔI
CHO
RẰNG
NHỮNG
H̀NH
THÙ
GỚM
GHIẾC
ĐƯỢC
VẼ
TRÊN
CÁC
V̉NG
HOÀNG
ĐẠO
CHỈ
LÀ
DO “ SỰ
TƯỞNG
TƯỢNG
VÔ
LƯ
CỦA
NHỮNG
BỘ
ÓC
BỆNH
HOẠN “, NHƯNG
VỀ
SAU
TÔI
MỚI
NGHĨ
RẰNG
ĐÓ
LÀ
CÁCH
TR̀NH
BÀY
NHỮNG
SỰ
VẬT
TỰ
NHIÊN
THEO
MỘT
CÔNG
THỨC
NHẤT
ĐỊNH. SAU
KHI
ĐĂ
THỰC
HIỆN
MỘT
LOẠT
NHỮNG
CUỘC
THÍ
NGHIỆM
VỀ
VẤN
ĐỀ
NÀY, TÔI
MỚI
BIẾT
CHẮC
RẰNG
NHỮNG
H̀NH
VẼ
TRÊN
CÁC
V̉NG
HOÀNG
ĐẠO
VÀ
CÁC
NGÔI
KIẾN
TRÚC, DỀN
ĐÀI
CỔ
AI
CẬP
LÀ
SỰ
MIÊU
TẢ
NHỮNG
CHỦNG
LOẠI
SINH
VẬT
VÔ
H̀NH
TRONG
CƠ
SÁNG
TẠO, ĐƯỢC
TR̀NH
BÀY
DƯỚI
NHỮNG
NÉT
KHÁ
CHÍNH
XÁC , VÀ
XEN
LẪN
VỚI
H̀NH
ẢNH
CỦA
NHỮNG
SỰ
VẬT
TỰ
NHIÊN
KHÁC. TÔI
PHÁT
HIỆN
RẰNG
NHỮNG
SINH
VẬT
ĐÓ
LÀ
NHỮNG
THỰC
THỂ
CÓ
TRÍ
KHÔN, VÀI
LOẠI
ĐÓ
CÓ
VẺ
HUNG
ÁC
VÀ
GÂY
SỢ
HĂI
CHO
NHỮNG
THÚ
NHÀ, C̉N
NHỮNG
LOẠI
KHÁC, TRÁI
LẠI, CÓ
VẺ
HIỀN
LÀNH
MÀ
NHỮNG
THÚ
NHÀ
RẤT
ƯA
THÍCH
VÀ
LẤY
LÀM
THỎA
MĂN
KHI
CHÚNG
XUẤT
HIỆN.
TÔI
TIN
RẰNG
CHÚNG
GỒM
THÀNH
PHẦN
NHỮNG
CHỦNG
LOẠI
SINH
VẬT
TRONG
MỘT
HỆ
THỐNG
TIẾN
HÓA
BẮT
ĐẦU
TỪ
NHỮNG
H̀NH
THỂ
VÔ
TRI
BẤT
ĐỘNG
TRONG
THIÊN
NHIÊN, ĐI
XUYÊN
QUA
LOÀI
ĐỘNG
VẬT RỒI
ĐẾN
CÁC
CẤP
ĐẲNG
THIÊN
THẦN
LÀ
TR̀NH
ĐỘ
PHÁT
TRIỂN
CAO
TỘT. VÀI
LOẠI
KHÔN
NGOAN
CÓ
THỂ
ĐƯỢC
KIỂM
CHẾ
KHI
CON
NGƯỜI
LẦN
LẦN
CÀNG
QUEN
THUỘC
NHIỀU
HƠN
VỚI
CHÚNG, HAY
KHI
CON
NGƯỜI
LẦN
LẦN
CÀNG
SINH
HOẠT
ĐIỀU
H̉A
HƠN
VỚI
THIÊN
NHIÊN. SỰ
TINH
KHIẾT
CỦA
TÂM
HỒN
VÀ
THỂ
XÁC
LÀ
YẾU
TỐ
RẤT
HỮU
HIỆU, VÀ
TÔI
THẤY
RẰNG
CHÚNG
ĐẶC
BIỆT
GHÊ
TỞM
SỰ
HÚT
THUỐC, NHAI
THUỐC
LÁ
VÀ
NHỮNG
THÓI
QUEN
BẤT
HẢO
KHÁC.
TÔI
NHẬN
THẤY
RẰNG
KHI
NHỮNG
TINH
LINH
NGŨ
HÀNH
KHÔNG
BỊ
HOÀN
TOÀN
CHẾ
NGỰ, CHÚNG
TRỞ
NÊN
TINH
QUÁI, NGUY
HIỂM, VÀ
CÓ
THỂ
GÂY
THƯƠNG
TỔN, TÁC
HẠI
CHO
LOÀI
NGƯỜI….”
G.H.FELT
(LONDON
SPIRITUALIST, 19-6-1878)
Tuy
bài
diễn
văn
khai
trương
của
tôi
được
toàn
thể
cử
tọa
vỗ
tay
hoan
nghinh, nhưng
nó
hơi
có
vẻ
dại
dột
sau
mười
bảy
năm
kinh
nghiệm
phũ
phàng. Một
phần
lớn
những
kết
quả
tiên
liệu
đă
được
thực
hiện, nhưng
nhiều
sự
dự
liệu
đă
biến
chất.
Điều
mà
chúng
tôi
tin
tưởng
như
cái
nền
tảng
thực
nghiệm
tốt
đẹp
cho
mọi
dự
tính
về
sau, tức
là
sự
chứng
minh của
ông
Felt
về
sự
hiện
hữu
của
các
chủng
loại
TINH
LINH
NGŨ
HÀNH, đă
trở
nên
một
sự
thất
vọng
đau
đớn
hoàn
toàn. Với
tất
cả
những
ǵ
ông
ta
đă
làm
theo
chiều
hướng
đó, ông
ta
vẫn
không
chỉ
cho
chúng
tôi
thấy
được
ǵ
cả, chí
đến
cái
chót
đuôi
của
một
Tinh
Linh
nhỏ
bé
nhất. Y
làm
cho
chúng
tôi
trở
thành
cái
tṛ
cười
của
giới
Thần
Linh
Học
và
các
giới
Duy
Vật
hoài
nghi. Y
là
một
người
có
những
sở
đắc
phi
thường, và
đă
thực
hiện
những
khám
phá
đáng
kể. Tôi
tin
rằng
y
đă
thực
hiện
những
ǵ
y
đă
tuyên
bố, và
nếu
y
chỉ
có
bền
chí
theo
đuổi
đến
cùng
những
ǵ
y
đă
khởi
đầu, th́
có
lẽ
y
đă
vang
dội
tên
tuổi
trong
số
những
người
nổi
tiếng
nhất
của
thời
đại
chúng
ta.
V́
đă
thường
thấy
bà
HPB
sử
dụng
Tinh
Linh
Ngũ
Hành
để
làm
các
hiện
tượng, Signor B.
cũng
đă
nhiều
lần
làm
như
vậy
và
người
khách
kỳ
lạ
làm
cho
chúng
xuất
hiện
ngay
trong
pḥng
của
tôi, th́
tại
sao
tôi
không
tin
rằng
ông
Felt
cũng
có
thể
làm
giống
như
thế, nhất
là
khi
bà
HPB
nói
với
tôi
rằng
y
có
thể ? Bởi
vậy, với
sự
táo
bạo
của
nhà
khai
sáng
và
sự
nhiệt
thành
của
một
người
lạc
quan
ḷng
đầy
hứng
khởi, tôi
đă
để
cho
óc
tưởng
tượng
của
tôi
tự
do
hoạt
động, và
tiên
liệu
trong
bài
Diễn
Văn
của
tôi
những
kết
quả
có
thể
thực
hiện
nếu
ông
Felt
làm
đúng
như
lời
hứa. V́
nhu
cầu
tài
chính, ông
Felt
đă
yêu
cầu
Thủ
Quỹ
Newton
ứng
trước
cho
y
một
trăm
đô
la
để
đài
thọ
phí
tổn
trong
các
cuộc
thí
nghiệm, nhưng
rốt
cuộc
vẫn
không
làm
xuất
hiện
được
Tinh
Linh
Ngũ
Hành! Các
hội
viên
lấy
làm
bất
măn; sau
cùng, y
ra
khỏi
Hội; và
v́
thấy
không
c̣n
trông
cậy
được
ǵ
nữa
ở
nơi
y, một
số
hội
viên
cũng
biến
mất
luôn, chỉ
có
chúng
tôi
c̣n
ở
lại
để
nỗ
lực
làm
việc
với
sức
cố
gắng
tối
đa.
Đó
quả
là
một
công
việc
nặng
nhọc, như
tất
cả
các
hội
viên
hoạt
động
hồi
thời
kỳ
đó
đều
nhớ
rơ. Mục
tiêu
của
chúng
tôi
là
học
hỏi, bằng
cách
thực
nghiệm, bất
cứ
những
ǵ
có
thể
học
được
về
những
thành
phần
cấu
tạo
của
con
người, và
vị
trí
của
y
trong
thiên
nhiên. Nhất
là
Trí
Lực, hoạt
động
tích
cực
ở
cương
vị
Ư
CHÍ, vẫn
là
một
sự
bí
hiểm
lớn
đối
với
chúng
tôi. Nhà
thuật
sĩ
của
phương
Đông, chí
đến
nhà
truyền
nhân
điện
của
phương
Tây
đều
dùng
nó. Người
khai
triển
được
nó
sẽ
trở
thành
một
vị
anh
hùng; người
khác
làm
tê
liệt
nó, và
trở
thành
một
người
đồng
bóng. Tác
dụng
vô
địch
của
nó
làm
cho
tất
cả
mọi
sinh
vật
ở
các
cơi
giới
vật
chất
đều
phải
chịu
khuất
phục, và
khi
có
cả
óc
tưởng
tượng
cùng
hoạt
động
đi
kèm, th́
nó
SÁNG
TẠO,bằng
cách
phóng
ra
ngoại
giới
những
h́nh
tư
tưởng
mới
tạo
nên.
Như
vậy, mặc
dầu
ông
Felt
đă
bội
ước, và
chúng
tôi
không
thể
trông
cậy
nơi
một
cuộc
hành
tŕnh
trên
biển
lặng
song
êm, nhưng
chúng
tôi
vẫn
c̣n
nhiều
lănh
vực
cần
khảo
sát, và
chúng
tôi
cũng
đă
thăm
ḍ, thám
hiểm
những
lănh
vực
đó
ít
nhiều. Nhũng
văn
khố
cũ
cho
biết
rằng
chúng
tôi
có
trắc
nghiệm
những
đồng
tử, thử
làm
những
cuộc
thí
nghiệm
về
các
môn
phản
xạ, đọc
tư
tưởng, truyền
nhân
điện, và
trao
đổi
thư
từ
với
các
báo
chí. Nhưng
chúng
tôi
đă
tiến
bước
rất
chậm, bởi
v́
mặc
dầu
tất
cả
mọi
người
đều
đồng
ư
là
phải
giữ
vững
tinh
thần, nhưng
trong
thâm
tâm
mỗi
người
đều
chán
nản
về
sự
thất
bại
của
ông
Felt, và
dường
như
không
có
triển
vọng
t́m
người
thay
thế: Nhà
phù
thủy
làm
mưa, Signor B., đă
bị
bà
HPB
cấm
cửa
đến
nhà
sau
vụ
mưu
toan
gây
sự
chia
rẽ
giữa
chúng
tôi; người
khách
kỳ
lạ
đă
kêu
gọi
âm
binh
xuất
hiện
trước
mắt
tôi
không
c̣n
trở
lại
nữa; và
bà
HPB, mà
từ
nay
tất
cả
mọi
người
đều
trông
đợi
sự
giúp
đỡ, lại
từ
chối
không
chịu
làm
bất
cứ
một
hiện
tượng
nhỏ
nhặt
nào
nữa
trong
những
buổi
họp.
Thế
là
số
hội
viên
cứ
thưa
thớt
lần
lần
cho
đến
khi, độ
một
năm
sau
đó, chỉ
c̣n
sót
lại
t́nh
trạng
sau
đây: cái
h́nh
thức
của
một
tổ
chức
tốt
với
một
chương
tŕnh
hoạt
động
phong
phú
và
lành
mạnh; một
tiếng
tăm
vang
dội
lẫy
lừng; vài
hội
viên
hững
hờ
tiêu
cực; và
một
trung
tâm
sinh
khí
dồi
dào
bất
tận
trong
niềm
hứng
khởi
cuồng
nhiệt
của
hai
người
bạn
đồng
môn, một
nam
một
nữ. Họ
không
bao
giờ
có
chút
mảy
may
nghi
ngờ, dù
chỉ
trong một
lúc, sự
hiện
hữu
của
các
đấng
Chân
Sư, tính
cách
thiêng
liêng
cao
quư
của
công
việc
được
giao
phó
cho
họ, hay
sự
thành
công
hoàn
toàn, và
tối
hậu
của
công
việc
ấy.
Ông
Judge
là
một
người
bạn
trung
thành
và
sẵn
sàng
trợ
giúp, nhưng
lại
quá
non
nớt
về
tŕnh
độ
tâm
linh
để
có
thể
được
coi
như
một
người
thứ
ba
trên
cương
vị
b́nh
đẳng
với
chúng
tôi. Mỗi
buổi
tối
sau
khi
chúng
tôi
đă
thiết
lập
Trụ
Sở
của
Hội
và
ổn
định
nơi
cư
trú, khi
các
quan
khách
đă
ra
về, bà
HPB
và
tôi
có
thói
quen
ngồi
mạn
đàm
và
hút
thuốc
nghỉ
ngơi
trước
khi
chia
tay. Nhiều
khi
chúng
tôi
phải
bật
cười
mà
nghĩ
rằng thật là hiếm
có
thay
những
người
mà
chúng
tôi
có
thể
trông
cậy
để
cùng
sát
cánh
hợp
tác
với
chúng
tôi
qua
tất
cả
những
bước
thăng
trầm, ch́m
nổi
của
cuộc
đời.
Điều
duy
nhất
mà
chúng
tôi
mỗi
lúc
càng
cảm
thấy
rơ
rệt
hơn
với
thời
gian
qua, là
hai
chúng
tôi
tuyệt
đối
có
thể
tùy
thuộc
lẫn
nhau
v́
lư
tưởng
phô
diễn
Đạo
Lư, dẫu
cho
trời
long
đất
lở
hay
đến
ngày
Tận
Thế. Những
kẻ
thù
nghịch
đôi
khi
đă
nói
rằng
khi
chúng
tôi
từ
giă
Mỹ
Quốc
lên
đường
sang
Ấn
Độ, th́
Hội
Thông
Thiên
Học
ở
Mỹ
cũng
không
c̣n. Điều
này
cũng
có
một
phần
đúng, v́
do
nhiều
nguyên
nhân, Hội
không
có
làm
ǵ
đáng
kể
trong
khoảng
thời
gian
sáu
năm
sau
đó. Cái
thành
phần
ṇng
cốt, vốn
luôn
luôn
là
yếu
tố
hữu
hiệu
nhất
trong
những
phong
trào
tương
tự, đă
bị
phân
tán; không
ai
có
thể
thiết
lập
một
thành
phần
cốt
cán
mới; người
ta
không
thể
tạo
nên
một
HPB
thứ
nh́; và ông
Judge, lúc
ấy
là
triển
vọng
tương
lai
duy
nhất
để
đóng
vai
tṛ
lănh
đạo
và
tổ
chức, lại
phải
lên
đường
sang
các
xứ
Nam
Mỹ
v́
hoạt
động
nghề
nghiệp.
Tuy
nhiên, suốt
thời
gian
những
năm
ấy, những
bức
thư
của
ông
Judge
gởi
cho
chúng
tôi
cho
thấy
rằng
sự
nhiệt
thành
của
y
đối
với
Hội
Thông
Thiên
Học
và
các
vấn
đề
Huyền
Môn
vẫn
không
suy
giảm. Sự
mong
ước
lớn
nhất
của
y
là
trong
tương
lai
có
ngày
y
sẽ
được
tự
do
để
dành
hết
thời
giờ
và
sức
lực
vào
công
việc
của
Hội
Thông
Thiên
Học. Nhưng, cũng
ví
như
hột
giống
cây
xa
trục
thảo
bị
chôn
vùi
sâu
trong
ḷng
đất, bắt
đầu
nẩy
mầm
khi
những
người
đào
giếng
bươi
nó
lên
khỏi
mặt
đất, th́
hột
giống
mà
chúng
tôi
gieo
trong
tâm
hồn
dân
chúng
Mỹ
trong
khoảng
thời
gian
giữa
những
năm
1874
và
1878, cũng
đă
nẩy
mầm
khi
thời
giờ
của
nó
đă
điểm; và
ông
Judge
là
người
có
cơ
duyên
tiền
định để
gặt
hái
kết
quả. Như
vậy, luật
Nhân
Quả
vẫn
luôn
luôn
tác
động
âm
thầm
để
chỉ
định
mỗi
vai
tṛ
khai
phá, gieo
giống
và
gặt
hái.
Khả
năng
sinh
tồn
của
Hội
Thông
Thiên
Học
được
ủy
thác
cho
chúng
tôi
là
những
nhà
sáng
lập
trên
phương
diện
hữu
h́nh, nhưng
trên
khía
cạnh
vô
vi
huyền
diệu
th́
sự
sống
c̣n
của
Hội
vốn
đă
định
sẵn
nơi
cái
lư
tưởng
căn
bản
của
nó
và
nơi
các
đấng
Cao
Cả
thể
hiện
cái
lư
tưởng
ấy, các
ngài
đă
giáo
hóa
chúng
tôi
và
gieo
vào
tâm trí
chúng
tôi
ánh
sáng
thiện
chí
của
các
ngài. V́
cả
hai
chúng
tôi
đă
nhận
thức
rơ
điều
ấy, và
v́
chúng
tôi
được
cái
ân
sủng
làm
việc
cho
Hội
và
hợp
tác
với
các
ngài, nên
giữa
hai
chúng
tôi
có
một
sợi
dây
liên
lạc
chặt
chẽ
mật
thiết
hơn
với
bất
cứ
mối
liên
hệ
thường
t́nh
nào
của
người
thế
gian.
Điều
ấy
làm
cho
chúng
tôi
dung
ḥa
với
những
khuyết
điểm
của
nhau
và
chịu
đựng
tất
cả
những
sự
va
chạm
khổ
đau
đi
liền
với
sự
cộng
tác
giữa
hai
cá
tính
hoàn
toàn
tương
phản,
trái
ngược. Riêng
phần
tôi, nó
làm
cho
tôi
gạt
bỏ
như
những
vật
vô
giá
trị
tất
cả
những
mối
liên
hệ
trói
buộc
thường
t́nh
cùng
những
điều
mong
ước
và
tham
vọng
trần
gian. Thật
vậy, trong
thâm
tâm
tôi
cảm
thấy
rằng
thà
làm
một
người
lao
công
giữ
cửa, hay
chí
đến
một
vai
tṛ
ti
tiện
thấp
kém
hơn
nữa
trong
công
việc
phụng
sự
Thiên
Cơ, c̣n
hơn
là
sống
trên
nhung
lụa
giữa
chốn
xa
hoa
đài
các
mà
cuộc
đời
có
thể
cung
hiến
cho
tôi. Bà
HPB
cũng
chia
sẻ
những
quan
niệm
của
tôi
và
niềm
hăng
say
phấn
khởi
vô
tận
của
bà
trong
công
việc
Đạo
Sự
là
một
tấm
gương
khích
lệ
cho
bất
cứ
người
nào
đến
tiếp
xúc
với
bà. Khi
đă
cảm
nghĩ
như
thế, và
có
tư
thế
sẵn
sàng
làm
tất
cả
mọi
sự
hy
sinh
cho
lư
tưởng
như
trường
hợp
của
chúng
tôi, th́
sự
phá
sản
của
hội
Thông
Thiên
Học
chắc
chắn
là
một
điều
không
thể
xảy
ra.
CHƯƠNG BẢY
VÉN
MÀN
ISIS (*)[8]
Nếu
một
bộ
sách
có
thể
được
coi
như
đánh
dấu
một
giai
đoạn
lịch
sử, th́
đó
hẳn
là
bộ
sách
này.
Xét
về
một
phương
đầu
tiên
của
Darwin
trên
một
phương
diện
khác.
Cả
hai
đều
là
những
gịng
thủy
triều
lên
cao
trong
trào
lưu
tư
tưởng
cận
đại: mỗi
bộ
sách
này
đều
có
tác
dụng
tảo
trừ
những
điều
dị
đoan
sống
sượng
của
khoa
thần
học
và
thay
thế
đức
tin
nơi
phép
lạ
bằng
sự
tin
tưởng
nơi
định
luật
thiên
nhiên. Tuy
vậy, trường
hợp
khởi
đầu
viết
bộ
sách
này
cũng
rất
đơn
giản
và
b́nh
thường
chứ
không
có
ǵ
đặc
biệt.
Một
ngày
nọ
vào
mùa
hè
năm
1875, bà
HPB
đưa
cho
tôi
xem
vài
tờ
bản
thảo
của
bà
viết, và
nói:
“Tôi
viết
cái
này
đêm
hôm
qua, do “LỊNH
DẠY”, nhưng
để
dùng
làm
ǵ
th́
tôi
không
biết. Có
thể
dùng
làm
một
bài
báo, có
thể
để
làm
sách, cũng
có
thể
để
không
làm
ǵ
cả. Tuy
nhiên, tôi viết v́
tuân
lệnh
dạy
mà
thôi.”
Rồi
đó, bà
cất
bản
thảo
đó
vào
một
hộc
tủ, và
không
nói
ǵ
đến
nó
nữa
trong
một
thời
gian. Nhưng
ít
tháng
sau
đó, bà
đi
Syracuse ( New York ) thăm
hai
người
bạn
mới
là
ông
bà
Corson, giáo
sư
trường
Đại
Học
Cornell, và
tiếp
tục
công
việc
viết
lách. Bà
viết
thư
cho
tôi
biết
đó
sẽ
là
quyển
sách
nói
về
lịch
sử
và
triết
học
của
các
Đạo
Phái
phương
Đông, và
những
mối
tương
quan
giữa
các
Đạo
Phái
ấy
với
những
môn
phái
của
thời
đại
bấy
giờ. Bà
cho
biết
rằng
bà
viết
về
những
vấn
đề
mà
bà
chưa
bao
giờ
học, và
chú
thích
những
quyển
sách
mà
bà
chưa
từng
đọc
qua
trong
đời
bà. Bà
cho
biết
thêm
rằng, để
kiểm
chứng
những
điều
bà
viết, Giáo
Sư
Corson
đă
so
sánh
những
đoạn
chú
thích
của
bà
với
những
bộ
sách
cổ
điển
trong
thư
viện
của
trường
Đại
Học, th́
thấy
là
đúng.
Khi
bà
trở
về
New
York, bà
không
chăm
chú
lắm
vào
công
việc
này, mà
chỉ
viết
một
cách
rời
rạc, không
liên
tục.
Nhưng
độ
một
hay
hai
tháng
sau
việc
thành
lập
Hội
Thông
Thiên
Học, bà
và
tôi
cùng
thuê
một
ngôi
nhà
hai
tầng
ở
đường
34th
West, bà
ở
tầng
dưới, tôi
ở
tầng
lầu
trên, từ
đó
trở
đi
công
việc
viết
bộ
Isis
mới
được
thực
hiện
liên
tục
không
gián
đoạn
cho
đến
khi
hoàn
thành
vào
năm
1877.
Trong
suốt
cuộc
đời
bà, bà
chưa
từng
viết
văn
viết
sách
bao
giờ, tuy
thế
tôi
không
thấy
một
nhà
văn
hay
nhà
báo
nào
có
thể
làm
việc
một
cách
dẻo
dai
bền
bỉ
và
hăng
say
như
bà. Mỗi
ngày, bà
ngồi
vào
bàn
viết
từ
sáng
mai
cho
đến
khuya, tôi
với
bà
không
bao
giờ
đi
ngủ
trước
hai
giờ
sáng. Lúc
ban
ngày, tôi
phải
làm
việc
nghề
nghiệp
riêng
của
tôi, nhưng
luôn
luôn
sau
bữa
cơm
chiều
là
chúng
tôi
ngồi
chung
lại
một
bàn
và
làm
việc
chẳng
khác
nào
như
người
ta
làm
giờ
phụ
trội
để
t́m
sống, cho
dến
khi
thân
xác
mỏi
mệt
bắt
buộc
chúng
tôi
phải
nghỉ.
Thật
là
một
kinh
nghiệm
quư
báu
cho
tôi. Trong
khoảng
gần
hai
năm
đó, tôi
đă
học
hỏi
được
rất
nhiều
điều
mà
đáng
lẽ
người
ta
phải
dành
trọn
cả
một
đời
người
để
đọc
sách
và
suy
gẫm
mới
có
thể
đạt
được. Tôi
không
phải
chỉ
làm
công
việc
của
một
người
ghi
chép
hay
sửa
bài, mà
bà
làm
cho
tôi
trở
thành
một
cộng
tác
viên. Bà
làm
cho
tôi
phải
sử
dụng
tất
cả
những
ǵ
tôi
đă
đọc
và
suy
tư, và
kích
thích
bộ
óc
của
tôi
làm
việc
để
t́m
giải
đáp
cho
những
vấn
đề
mới
mà
bà
đặt
ra
cho
tôi
trên
địa
hạt
Huyền
Môn
và
siêu
h́nh. Những
vấn
đề
này
hoàn
toàn
vượt
ngoài
sự
học
hỏi
và
tầm
kiến
thức
của
tôi, mà
tôi
chỉ
có
thể
hiểu
được
lần
lần
khi
trực
giác
của
tôi
được
khai
mở
và
phát
triển
nhờ
bởi
phương
pháp
cưỡng
ép
đó.
Bà không
viết
theo
một
chương
tŕnh
hay
kế
hoạch
định
sẵn, mà
những
ư
kiến
từ
đâu
tuôn
tràn
xuyên
qua
trí
óc
bà
như
gịng
suối
chảy
không
ngừng, trường
lưu
bất
tận. Có
khi
bà
đang
viết
về
đấng
Phạm
Thiên ( Brahma ), một
lát
sau
đó
bà
đă
xoay
qua
vấn
đề
hiện
tượng
điện
khí
của
Babinet. Trong
một
lúc, bà
trịnh
trọng
chú
thích
lời
của
Đạo
Sư
Porphyry, kế
đó
bà
liền
trích
dẫn
một
đoạn
văn
rút
trong
một
tờ
báo
hằng
ngày, hay
trong
một
tập
văn
thư
mới
in
mà
tôi
vừa
đem
về
nhà. Có
khi
bà
đang
ca
tụng
những
đặc
tính
toàn
thiện
của
Chân
Sư, nhưng
một
lúc
sau
bà
đă
chuyển
vận
toàn
lực để
công
kích
nặng
nề
Giáo
Sư
Tyndall
hay
vài
nhà
học
giả
nào
đó
mà
bà ghét
nhất, bằng
những
cú
búa
nẩy
lửa!
Nếu
bà
không
có
một
kế
hoạch
nhất
định, phải
chăng
điều
ấy
chứng
tỏ
rằng
công
việc
soạn
sách
này
không
phải
do
bà
dự
định
từ
trước, mà
bà
chỉ
là
một
đường
vận
hà để
cho
trào
lưu
tư
tưởng
mới
mẻ
độc
đáo
này
tác
động
ảnh
hưởng
đến
t́nh
trạng ứ
đọng
của
sự
sinh
hoạt
tâm
linh
đương
thời? Như
một
phần
việc
huấn
luyện
cho
tôi, thỉnh
thoảng
bà
yêu
cầu
tôi
viết
một
đoạn
về
một
đề
tài
đặc
biệt
nào
đó, và
gợi
ư
cho
tôi
về
những
điểm
quan
trọng
cần
khai
triển, hoặc
bà
để
cho
tôi
tự
viết
lấy
với
sự
cố
gắng
tối
đa
để
sử
dụng
năng
khiếu
trực
giác
của
tôi. Khi
tôi
đă
viết
xong, nếu
đoạn
văn
ấy
không
được
bà
vừa
ḷng, bà
thường
tỏ
dấu
bất
măn
bằng
cách
nói
nặng
lời, và
gọi
tôi
bằng
những
danh
từ
không
đẹp
có
tính
cách
khích
động
ḷng
tự
ái
đến
mức
có
thể
giết
người! Nhưng
khi
tôi
định
xé
bỏ
đoạn
văn
vô
phước
ấy, th́
bà
liền
giật
ngay
lấy
từ
trên
tay
tôi
để
dùng
ở
một
chương
khác
sau
khi
đă
sửa
chữa
lại
vài
chỗ, và
tôi
lại
bắt
tay
vào
việc.
Kể
từ
ngày
tên
tuổi
bà
xuất
hiện
lần
đầu
tiên
trên
mặt
báo
Daily
Graphic, năm
1874
và
suốt
thời
gian
lưu
trú
tại
Mỹ
Quốc, bà
luôn
luôn
có
khách
đến
viếng. Nếu
trong
số
quan
khách, ngẫu
nhiên
có
người
nào
hiểu
biết
tinh
tường
về
một
vấn
đề
nào
đó
liên
quan
đến
ngành
hoạt
động
của
bà, bà
liền
tiếp
xúc
riêng
với
người
ấy
và
nếu
có
thể
được, bà
nhờ
y
viết
lại
những
quan
điểm
hay
kư
ức
của
y
trên
giấy
trắng
mực
đen
để
dùng
trong
quyển
sách
của
bà. Trong
số
những
trường
hợp
thuộc
về
loại
này, có
bài
tường
thuật
của
ông
O’Sullivan
về
một
cuộc
biểu
diễn
phương
thuật
trong
một
buổi
họp
đàn
tại
Paris; sự
diễn
tả
lư
thú
những
cuộc
lễ
nhập
môn
huyền
bí
của
giống
dân
Druses
xứ
Liban, cùng
những
bài
vở
hấp
dẫn
của
Bác
Sĩ
A. Wilder, và
nhiều
người
khác
nữa
đă
đóng
góp
vào, làm
cho
bộ
sách
này
càng
tăng
thêm
phần
giá
trị
với
những
tài
liệu
vô
cùng
dồi
dào
phong
phú.
Tôi
biết
một
vị
mục
sư
Do
Thái
đă
từng
trải
qua
nhiều
giờ
và
nhiều
đêm
để
thảo
luận
về
Huyền
Môn
Kabala
với
bà, và
nghe
chính
y
thú
nhận
rằng
tuy
y
đă
từng
khảo
cứu
phần
bí
truyền
của
tôn
giáo
y
trong
ba
mươi
năm, nhưng
bà
đă
dạy
y
những
điều
mà
y
chưa
từng
nghĩ
đến, và
đă
làm
sáng
tỏ
những
đoạn
kinh
mà
chính
những
bậc
thầy
của
y
cũng
không
hiểu
nổi! Vậy
chứ
những
kiến
thức
thâm
sâu
huyền
diệu
đó,
bà
đă
học
được
ở
đâu, hồi
nào, và
do
đâu
mà
có?
Tất
nhiên
không
phải
do
các
bà
quản
gia
đă
dạy
bà
học
hồi
c̣n
thơ
ấu
ở
nước
Nga; cũng
không
phải
do
một
vị
giáo
sĩ
hay
thầy
học
nào
quen
thuộc
trong
gia
đ́nh; cũng
không
phải
bà
đă
học
trên
những
chuyến
tàu
hay
xe
lửa
trong
khi
bà
đi
châu
du
thiên
hạ
kể
từ
năm
mười
lăm
tuổi; cũng
không
phải
ở
một
trường
trung
học
hay
đại
học
nào, v́
bà
không
hề
thi
tốt
nghiệp
ở
một
trường
học
nào
cả; cũng
không
phải
ở
những
thư
viện
lớn
trên
thế
giới. Nhận
xét
qua
những
cuộc
đàm
thoại
và
những
thói
quen
của
bà
trước
khi
bà
bắt
tay
vào
công
việc
trước
tác
khổng
lồ
này, th́
bà
không
hề
học
hỏi
qua
những
vấn
đề
ấy
bao
giờ
dù
rằng
xuất
xứ
từ
đâu. Nhưng
khi
bà
cần
đến
những
tài
liệu
đó, th́
bà
có
sẵn, và
trong
những
lúc
cảm
hứng
dồi
dào
nhất, th́
bà
làm
cho
những
nhà
thông
thái
phải
khâm
phục
về
kiến
thức
sâu
rộng, cũng
như
bà
làm
cho
cử
tọa
quan
khách
phải
ngạc
nhiên
về
tài
hùng
biện
lưu
loát
cùng
sự
châm
biếm
hài
hước
và
trí
óc
thông
minh
tế
nhị
của
bà.
Trong
khi
chúng
tôi
cùng
làm
việc
chung, tôi
sửa
chữa
mỗi
chương
bản
thảo
viết
tay
của
bà
nhiều
lần, và
mỗi
chương
sắp
chữ
in; tôi
viết
nhiều
đoạn
giùm
cho
bà, thường
là
viết
lại
thành
câu
những
ư
nghĩ
của
bà
cho
đúng
văn
phạm
Anh
Ngữ; tôi
giúp
bà
t́m
những
lời
trích
dẫn
trong
các
sách, và
làm
những
việc
phụ
thuộc
khác. C̣n
th́
quyển
sách
vốn
là
công
tŕnh
của
bà, nói
về
việc
làm
trên
phương
diện
hữu
vi, thuộc
cơi
giới
vật
chất
hữu
h́nh, và
bà
phải
nhận
lănh
tất
cả
về
sự
khen
chê
về
những
khuyết
điểm
hay
ưu
điểm
của
nó.
Bộ
“Vén
Màn
Isis” đă
ghi
dấu
một
thế
hệ
lịch
sử, và
khi
viết
bộ
sách
ấy, bà
cũng
giúp
cho
tôi
học
hỏi
được
rất
nhiều
giáo
lư
Huyền
Môn, và
chuẩn
bị
cho
tôi
có
đủ
khả
năng để
hoạt
động
truyền
bá
giáo
lư
Thông
Thiên
Học
trong
trên
hai
mươi
năm. Vậy
bà
HPB
đă
lấy
tài
liệu
ở
đâu
để
viết
bộ
sách
đó, mà
phần
nhiều
người
ta
không
thể
t́m
thấy
trong
những
sách
vở
ở
các
thư
viện? Xin
nói
ngay
rằng
đó
là
do
sự
hỗ
trợ
của
phần
vô
vi, một
phần
do
sự
giao
cảm
huyền
diệu
với
các
đấng
Chân
Sư, và
một
phần
là
do
bà
tra
cứu
tài
liệu
trong
cơi
vô
h́nh, được
phản
ảnh
trên
chất
Tinh
Quang
(Akasha) hay
Tiên
Thiên
Khí
Ảnh, tức
là
kho
Kư
Ức
của
Thiên
Nhiên
trong
Càn
Khôn
Vũ
Trụ.
Làm sao tôi biết
được
điều
này? Đó
là
nhờ
tôi
đă
cộng
tác
với
bà
trong
hai
năm
để
viết
bộ “Vén
Màn
ISIS”, và
nhiều
năm
sau
nữa
để
soạn
những
bộ
sách
khác
như “Giáo
Lư
Bí
Truyền”
(Doctrine Secrète),v…v…
Theo
dơi
mọi
động
tác
của
bà
trong
khi
làm
việc
là
một
kinh
nghiệm
hiếm
có
và
khó
quên. Chúng
tôi
thường
ngồi
đối
diện
nhau
bên
một
cái
bàn
lớn, và
tôi
có
thể
thấy
rơ
mọi
cử
chỉ
của
bà. Bà
viết
thao
thao
trên
một
trang
giấy, bỗng
nhiên
bà
ngừng
lại, ngước
mặt
lên
nh́n
vào
không
gian
với
đôi
mắt
trống
không
của
nhà
linh
thị
sử
dụng
cặp
mắt
thần, đoạn, bà
thâu
ngắn
tầm
nhăn
quang
như
để
nh́n
vào
một
vật
vô
h́nh
trong
khoảng
không
ở
trước
mặt, và
bắt
đầu
chép
những
ǵ
bà
đă
thấy. Khi
đă
chép
xong
đoạn
văn
chú
thích, đôi
mắt
bà
trở
lại
khí
sắc
b́nh
thường, và
bà
tiếp
tục
viết
cho
đến
khi
bà
ngừng
lại
một
lần
nữa
giống
y
như
trước.
Tôi
c̣n
nhớ
rơ
hai
lần
tôi
được
nh́n
thấy
và
cầm
trên
tay
những
quyển
sách
lạ
mà
bà
làm
cho
hiện
h́nh
trước
mắt
tôi
để
tôi
kiểm
chứng
lại
bản
thảo, khi
tôi
từ
chối
không
chịu phê
nhận
để
đưa
lên
máy
in
v́
có
chỗ
tôi
c̣n
nghi
ngờ
là
không
đúng. Tôi nói:
“Tôi
không
thể
phê
nhận
câu
chú
thích
này, v́
tôi
chắc
là
bà
đă
chép
sai”.
Bà nói:
“Không
sao, vậy
là
đúng; hăy
cứ
để
nguyên
như
thế”.
Tôi từ
chối, sau
cùng
bà
nói:
“Vậy
ông
hăy
ngồi
yên
trong
một
phút, để
tôi
tra
lại”.
Khi
đó
cái
nh́n
trống
không
lại
xuất
hiện
trên
cặp
mắt
bà; độ
một
lát, bà
chỉ
về
phía
cái
kệ
đặt
nơi
góc
pḥng, và
nói
bằng
một
giọng
trống
rỗng:
“Ḱa, nh́n xem”.
Kế đó bà trở
lại
khí
sắc
b́nh
thường:
“Đấy, ở chỗ ấy đấy. Ông hăy tra lại
xem!”
Tôi
bước
lại
chỗ
cái
kệ
và
thấy
hai
quyển
sách
lạ
mà
tôi
biết
chắc
là
trước
đó
không
hề
có
trong
nhà. Tôi
phối
kiểm
câu
chú
thích
của
bà
HPB
với
đoạn
văn
trong
sách, chỉ
cho
bà
thấy
chỗ
chép
sai, sửa
lại
bản
thảo, và
theo
lời
bà
yêu
cầu, đem
hai
quyển
sách
để
lại
chỗ
cũ. Tôi
trở
lại
bàn
ngồi
làm
việc, và
sau
đó
một
lúc, tôi
quay
lại
nh́n
ngay
chỗ
cái
kệ, th́
thấy
hai
quyển
sách
đă
biến
mất! Sau
khi
tôi
kể
lại
chuyện
này, những
kẻ
hoài
nghi
ngu
dốt
có
thể
nghi
ngờ
sự
sáng
suốt
lành
mạnh
của
tôi; tôi
hy
vọng
nó
sẽ
hữu
ích
cho
họ. Sự
việc
này
lại
tái
diễn
một
lần
thừ
hai
trong
trường
hợp
tương
tự, nhưng
lần
này
quyển
sách
không
biến
mất
mà
vẫn
c̣n
ở
lại
với
chúng
tôi
cho
đến
ngày
nay.
II
Bản
nháp
viết
tay
của
bà
HPB
có
nhiều
khi
rất
khác
biệt
nhau
một
cách
rơ
rệt. Tuồng
chữ
của
bà
có
một
tính
cách
lạ
lung
đặc
biệt, mà
người
nào
đă
từng
quen
đọc
tuồng
chữ
ấy
luôn
luôn
có
thể
nhận
ra
ngay
là
chữ
viết
của
bà. Tuy
nhiên, nếu
quan
sát
kỹ
lưỡng, người
ta
sẽ
phát
hiện
ra
ít
nhất
ba
hay
bốn
lối
viết
khác
nhau
tuy
rằng
của
một
tuồng
chữ
và
mỗi
lối
viết
như
thế
kéo
dài
trên
nhiều
trang
giấy, trước
khi
đổi
qua
lối
viết
khác.
Một
lối
viết
đó
của
bà
HPB
nét
chữ
rất
nhỏ
nhưng
đều
đặn; một
lối
khác
nét
đậm
và
tự
do
phóng
túng; một
lối
khác nữa
nét
vừa
phải
và
dễ
đọc; và
một
lối
nữa
chữ
viết
rất
tháu
và
khó
đọc. Về
cách
hành
văn
cũng
vậy, những
lối
chữ
khác
biệt
như
trên
cũng
kèm
theo
với
sự
sai
biệt
về
văn
phạm
Anh
Ngữ. Có
khi
tôi
phải
sửa
chữa
nhiều
chỗ
trong
một
gịng
chữ, nhưng
lại
có
khi
tôi
có
thể
thông
qua
suốt
nhiều
trang
mà
không
cần
sửa
chữa
một
chữ
nào. Hoàn
toàn
nhất
là
những
trang
bản
thảo
được
viết
thay
cho
bà
trong
khi
bà
ngủ. Một
thí
dụ
điển
h́nh
là
đoạn
đầu
của
Chương
nói
về
nền
văn
minh
cổ
Ai
Cập ( Q.I, Ch. 14 ). Đêm
đó, như
thường
lệ
chúng
tôi
làm
việc
đến
hai
giờ
sáng, cả
hai
đều
mệt
nhoài, bèn
ngưng
công
việc
để
vừa
hút
thuốc
vừa
mạn
đàm
trước
khi
chia
tay. Bà
th́
hầu
như
ngủ
gật
ngay
trên
ghế
bành, c̣n
tôi
chúc
bà
yên
giấc
và
lui
về
pḥng
tôi
trên
lầu. Sáng
hôm
sau, khi
tôi
đă
ăn
điểm
tâm
xong
và
bước
xuống
pḥng
khách, bà
đưa
cho
tôi
xem
một
chồng
bản
thảo
độ
ba
mươi
đến
bốn
mươi
trang
giấy
viết
tay
bằng
tuồng
chữ
của
bà, mà
bà
nói
rằng
của
vị
Chân
Sư
X….
viết
cho
bà
đêm
qua. Tập
bản
thảo
đó
hoàn
toàn
về
tất
cả
mọi
phương
diện, và
được
đưa
lên
khuôn
mà
không
cần
phải
duyệt
xét
lại.
Có
điều
lạ, là
mỗi
lần
có
sự
khác
biệt
những
tuồng
chữ
viết
như
thế
đều
xảy
ra
sau
khi
bà
HPB
rời
khơi
pḥng
độ
một
lúc, hay
bước
vào
trạng
thái
xuất
thần
khi
đó
đôi
mắt
trống
rỗng
của
bà
nh́n
vào
cơi
xa
xăm
nào
và
lại
trở
về trạng
thái
b́nh
thường
ngay
sau
đó. Ngoài
ra, c̣n
có
một
sự
thay
đổi
rơ
rệt
về
cá
tính, tác
phong, giọng
nói, cử
chỉ
và
trên
hết
mọi
sự, về
tính
khí
thất
thường: khi
bà
rời
khỏi
pḥng, bà
là
một
nhân
vật
như
thế
nào
đó; một
lát
sau
khi
trở
lại
chỗ
ngồi, bà
lại
là
một
nhân
vật
khác. Khác
đây
không
phải
nói
là
bà
thay
đổi
cái
thể
xác
hữu
h́nh, mà
khác
về
cử
chỉ, tác
phong, ngôn
ngữ, cách
điệu; cũng
khác
về
sự
linh
mẫn
của
trí
óc,
về
quan
điểm
đối
với
sự
đời, khác
về
cách
sử
dụng
Anh
ngữ, và
có
điều
này
rất
đặc
biệt, là
khác
hẳn
về
khí
chất: khi
sáng
sủa
lành
mạnh
bà
có
vẻ
từ
bi, khả
ái
như
thiên
thần; và
trong
những
cơn
khủng
hoảng
thịnh
nộ, th́
lại…trái
ngược
hẳn.
Có
khi
tôi
viết
lại
thành
câu
không
đúng
như
ư
bà
muốn
tŕnh
bày, bà
kiên
nhẫn
bỏ
qua
một
cách
ưu
ái, vô
tư; những
lúc
khác, v́
một
lỗi
lầm
nhỏ
nhặt
không
đáng
kể, bà
dường
như
nổi
cơn
thịnh
nộ
và
muốn
thủ
tiêu
tôi
ngay
tại
chỗ! Những
cơn
bạo
khí
đó
đôi
khi
có
thể
giải
thích
bởi
t́nh
trạng
sức
khỏe
của
bà, và
đó
chỉ
là
sự
thường
t́nh, nhưng
lư
do
đó
cũng
không
đủ
vững
để
giải
thích
vài
cơn
giận
dữ
khác. B́nh
phẩm
về
tính
cách
bất
thường
này
của
bà
HPB, ông
Sinnet(Phó
Hội
Trưởng
Hội
Thông
Thiên
Học ) viết:
“BÀ
HẲN
LÀ
KHÔNG
CÓ
NHỮNG
ĐỨC
TÍNH
MÀ
NGƯỜI
TA
TRÔNG
ĐỢI
NƠI
MỘT
VỊ
ĐẠO
SƯ. LÀM
SAO
MÀ
BÀ
LẠI
VỪA
CÓ
TINH
THẦN
CỦA
MỘT
TRIẾT
GIA, TỪ
BỎ
CUỘC
ĐỜI
THẾ
GIAN
ĐỂ
DỐC
L̉NG
TẦM
ĐẠO, NHƯNG
ĐỒNG
THỜI
LẠI
CÓ
THỂ
RƠI
VÀO
NHỮNG
CƠN
NÓNG
GIẬN
V̀
NHỮNG
SỰ
BỰC
M̀NH
NHỎ
NHẶT
KHÔNG
ĐÂU, ĐÓ
LÀ
MỘT
ĐIỀU
BÍ
HIỂM
RẤT
KHÓ
HIỂU
ĐỐI
VỚI
CHÚNG
TA,V…V….”
Tuy
nhiên, hăy
giả
thiết
rằng
khi
mà
xác
thân
của
bà
được
một
bậc
hiền
giả
thánh
đức
sử
dụng, th́
nó
bắt
buộc
phải
hành
động
với
sự
b́nh
tĩnh, điềm
nhiên
của
nhà
hiền
giả, c̣n
nếu
không, th́
không, chừng
đó
điều
bí
hiểm
kia
đă
được
giải
đáp. Chính
bà
đă
diễn
tả
kinh
nghiệm
huyền
linh
này
khi
viết
bộ “Vén
Màn
Isis”, trong
một
bức
thư
gởi
về
cho
gia
đ́nh
như
sau:
“KHI
TÔI
VIẾT
BỘ
ISIS, TÔI
VIẾT
RẤT
DỄ
DÀNG
ĐẾN
NỖI
ĐÓ
KHÔNG
PHẢI
LÀ
MỘT
SỰ
KHÓ
NHỌC
NỮA, MÀ
LÀ
MỘT
ĐIỀU
VUI
THÍCH
THẬT
SỰ. CÓ G̀ ĐÂU
MÀ
NGƯỜI
TA
KHEN
TẶNG
TÔI?
KHI
ĐƯỢC
LỆNH
DẠY
TÔI
VIẾT,TÔI
NGỒI
XUỐNG
VÀ
VÂNG
THEO
LỜI, VÀ
KHI
ĐÓ
TÔI
CÓ
THỂ
VIẾT
DỄ
DÀNG
VỀ
BẤT
CỨ
VẤN
ĐỀ
G̀: SIÊU
H̀NH
HỌC,
TÂM
LƯ
HỌC, TRIẾT
HỌC, TÔN
GIÁO, VẠN
VẬT
HỌC, TỰ
NHIÊN
HỌC, VÀ
V…V….TÔI
KHÔNG
HỀ
TỰ
ĐẶT
NGHI
VẤN: “ TÔI
CÓ
THỂ
VIẾT
VỀ
VẤN
ĐỀ
NÀY
CHĂNG?”, HAY
LÀ:
“TÔI
CÓ
ĐỦ
SỨC
VIẾT
CHĂNG?”, MÀ TÔI
CHỈ
NGỒI
XUỐNG
VÀ
VIẾT, VẬY
THÔI. BỞI
V̀
CÓ
MỘT
ĐẤNG
TOÀN
THÔNG, BIẾT
HẾT
CẢ
MỌI
SỰ, ĐỌC
CHO
TÔI
VIẾT. ĐÓ
LÀ
SƯ
PHỤ
TÔI, VÀ
ĐÔI
KHI
CŨNG
CÓ
NHỮNG
VỊ
CHÂN
SƯ
KHÁC
NỮA
MÀ
TÔI
ĐƯỢC
BIẾT
TRONG
NHỮNG
CHUYẾN
ĐI
NGAO
DU
THIÊN
HẠ
TỪ
NHIỀU
NĂM
VỀ
TRƯỚC…..MỖI
KHI
TÔI
VIẾT
VỀ
MỘT
ĐỀ
TÀI
MÀ
TÔI
CHỈ
BIẾT
ÍT, HOẶC
KHÔNG
BIẾT
G̀
CẢ, TÔI
BÈN
KÊU
GỌI
ĐẾN
CÁC
NGÀI, VÀ
MỘT
VỊ
CHÂN
SƯ
GIÚP
NGUỒN
CẢM
HỨNG
CHO
TÔI, NGHĨA
LÀ
NGÀI
ĐỂ
CHO
TÔI
CHÉP
NHỮNG
G̀
TÔI
NH̀N
THẤY
TRONG
CÁC
BỘ
SÁCH
CỔ
TỰ
HAY
CHỮ
IN
HIỆN
RA
TRƯỚC
MẮT
TÔI
TRONG
KHÔNG
GIAN, TRONG
KHI
ĐÓ
TÔI
HOÀN
TOÀN
THỨC
TỈNH, VÀ
KHÔNG
HỀ
MÊ
MUỘI
DẦU
CHỈ
TRONG
CHỐC
LÁT”.
Có
lần
bà viết
thư
cho
chị
ruột
bà
ở
Nga
là
bà
Veracũng
về
vấn
đề
ấy
như
sau:
“CHỊ
CÓ
THỂ
KHÔNG
TIN
TÔI, NHƯNG
TÔI
CHO
CHỊ
BIẾT
RẰNG
KHI
TÔI
NÓI
ĐIỀU
NÀY, TÔI
CHỈ
NÓI
SỰ
THẬT. TÔI
CHỈ
BẬN
RỘN, KHÔNG
PHẢI
VỚI
BỘ
“VÉN
MÀN
ISIS”, MÀ
CHÍNH
LÀ
VỚI
NỮ
THẦN
ISIS
VẬY. TÔI
SỐNG
TRONG
MỘT
CẢNH
GIỚI
MÊ
LY
TRƯỜNG
CỬU, MỘT
CUỘC
SỐNG
TRONG
CẢNH
GIỚI
LINH
ẢNH
THƯỜNG
XUYÊN
LUÔN
LUÔN
THỨC
TỈNH
VỚI
ĐÔI
MẮT
MỞ
LỚN
VÀ
TUYỆT
NHIÊN
KHÔNG
CÓ
G̀
LÀM
PHỈNH
LỪA
NHỮNG
GIÁC
QUAN
CỦA
TÔI! TÔI
NGỒI
VÀ
THEO
DƠI
THƯỜNG
XUYÊN
VỊ
NỮ
THẦN
AI
CẬP.
VÀ
TRONG
KHI
NỮ
THẦN
PHƠI
BÀY
TRƯỚC
MẮT
TÔI
CÁI
Ư
NGHĨA
ẨN
DẤU
CỦA
NHỮNG
ĐIỀU
BÍ
NHIỆM
ĐĂ
BỊ
MẤT
ĐI
TỪ
LÂU
ĐỜI, VÀ
BỨC
MÀN
CHE
DẤU
CÀNG
TRỞ
NÊN
MỎNG
DẦN
VÀ
THƯA
DẦN
VỚI
GIỜ
PHÚT
TRÔI
QUA, RỒI
TỪ
TỪ
RƠI
XUỐNG
TRƯỚC
MẮT
TÔI, TÔI
NÍN
THỞ
TRONG
CƠN
KINH
NGẠC
VÀ
KHÔNG
C̉N
TIN
NƠI
NHỮNG
GIÁC
QUAN
CỦA
TÔI!...
….TRONG
NHIỀU
NĂM
LIÊN
TIẾP, ĐỂ
CHO
TÔI
KHÔNG QUÊN
NHỮNG
G̀
TÔI
ĐĂ
HỌC(*),[9]
TÔI
ĐƯỢC
LÀM
CHO
THẤY
THƯỜNG
XUYÊN
NGAY
TRƯỚC
MẮT
TÔI
TẤT
CẢ
NHỮNG
G̀
TÔI
CẦN
THẤY.
BẰNG
CÁCH
ĐÓ, BẤT
CỨ
NGÀY
ĐÊM, NHỮNG
H̀NH
ẢNH
CỦA
QUÁ
KHỨ LUÔN LUÔN
ĐƯỢC
TR̀NH
DIỄN
LINH
ĐỘNG
TRƯỚC
NHĂN
QUANG
TÂM
LINH
CỦA
TÔI. TỪ
TỪ
CHẬM
RĂI, VÀ NỐI
TIẾP
NHAU
TRONG
IM
LẶNG
GIỐNG
NHƯ
NHỮNG
H̀NH
ẢNH
CỦA
MỘT
CUỐN
PHIM
CHỚP
BÓNG
DIỆU
HUYỀN, NHỮNG
BIẾN
CỐ
LỊCH
SỬ
TỪ
THẾ
KỶ
NÀY
ĐẾN
THẾ
KỶ
KHÁC
XUẤT
HIỆN
NGAY
TRƯỚC
MẮT
TÔI….TÔI
ĐƯỢC
KHUYẾN
KHÍCH
NỐI
LIỀN
NHỮNG
THẾ
HỆ
ĐÓ
VỚI
VÀI
BIẾN
CỐ
QUAN
TRỌNG
KHÁC, VÀ
TÔI
BIẾT
RẰNG
KHÔNG
THỂ
CÓ
SỰ
SAI
LẦM. CÁC
CHỦNG
TỘC
VÀ
QUỐC
GIA, NHỮNG
XỨ
SỞ
VÀ
THÀNH
PHỐ
CỦA
MỘT
THẾ
KỶ
QUÁ
KHỨ
NÀO
ĐÓ
XUẤT
HIỆN, RỒI
LU
MỜ
DẦN
VÀ
BIỆT
TÍCH
TRONG
MỘT
THẾ
KỶ
KHÁC
MÀ
THỜI
ĐIỂM
CHÍNH
XÁC
ĐƯỢC
CHÂN
SƯ
CHO
TÔI
BIẾT…..
DĨ
VĂNG
MẬP
MỜ
CỦA
THỜI
CỔ
XƯA
BIẾN
THÀNH
NHỮNG
THỜI
KỲ
LỊCH
SỬ, NHỮNG
HUYỀN
THOẠI
ĐƯỢC
GIẢI
THÍCH
BẰNG
NHỮNG
BIẾN
CỐ
VÀ
NHÂN
VẬT
THẬT
SỰ
ĐĂ
TỪNG
SỐNG
TRONG
CÁC
THỜI
KỲ
ĐÓ; MỖI
BIẾN
CỐ
QUAN
TRỌNG
VÀ
THƯỜNG
LÀ
KHÔNG
QUAN
TRỌNG, MỖI
CUỘC
CÁCH
MẠNG, MỘT
TRANG
MỚI
LẬT
QUA
TRONG
QUYỂN
SÁCH
CỦA
ĐỜI
NGƯỜI
VÀ
CỦA
CÁC
QUỐC
GIA
TRÊN
THẾ
GIỚI
ĐỀU
LƯU
LẠI
DẤU
VẾT
NHƯ
CHỤP
ẢNH
VÀ
DƯỜNG
NHƯ
ĐƯỢC
KHẮC
IN TRONG
TRÍ
TÔI
VỚI
NHỮNG
MÀU
SẮC
RƠ
RỆT
KHÔNG
THỂ
PHAI
MỜ…
…..TÔI
NÓI
MỘT
CÁCH
NGHIÊM
CHỈNH
CHO
CHỊ
BIẾT
RẰNG
TÔI
ĐƯỢC
TRỢ
GIÚP. VÀ
NGƯỜI
TRỢ
GIÚP
TÔI
ĐÓ
LÀ
SƯ
PHỤ
CỦA
TÔI”.
Trong
một
bức
thư
gởi
về
nhà
cho
bà
cô
ruột, bà
cho
biết
rằng:
“KHI
SƯ
PHỤ
TÔI
VẮNG
MẶT
V̀
BẬN
RỘN
VỚI
NHỮNG
CÔNG
VIỆC
KHÁC, NGÀI
LÀM
THỨC
ĐỘNG
CHÂN
NGĂ
CỦA
TÔI
ĐỂ
VIẾT
THAY
CHO
NGÀI…. NHỮNG
LÚC
ĐÓ, KHÔNG
PHẢI
LÀ
TÔI
VIẾT
NỮA
MÀ
CHÂN
NGĂ
CỦA
TÔI
SUY
TƯ
VÀ
VIẾT
THAY
CHO
TÔI. CÔ
THỬ
NGHĨ
XEM, TÔI
ĐÂU
CÓ
HỌC
LỰC
UYÊN
THÂM
BAO
GIỜ
MÀ
VIẾT
ĐƯỢC
NHỮNG
VẤN
ĐỀ
ẤY. VẬY
TH̀
NHỮNG
KIẾN
THỨC
ĐÓ
CỦA
TÔI
DO
ĐÂU
MÀ
RA?......”
Trong
những
thư
khác
gởi
về
cho
gia
đ́nh, bà
cũng
nh́n
nhận
rằng
có
những
lúc
bà
được
các
Chân
Sư
mượn
xác
để
viết
giúp
bà. Các
ngài
cũng
dùng
phương
pháp
đó
để
dạy
Đạo
cho
tôi
qua
cửa
miệng
của
bà, và
đưa
ra
những
giáo
lư
thâm
sâu
mà
bà
không
hề
biết
được
mảy
may
trong
trạng
thái
b́nh
thường.
Chúng
tôi
đă
cùng
nhau
làm
việc
trong
nhiều
tháng
và
đă
sản
xuất
được
trên
870
trang
bản
thảo,
th́
một
ngày
nọ
bà
HPB
hỏi tôi
rằng, để
thi hành
ư
muốn
của
Chân
Sư, tôi
có
sẵn
ḷng
chăng
để
bắt
đầu
làm
lại
tất
cả!
Tôi
c̣n
nhớ
rơ
cơn
xúc
động
mạnh
mà
việc
ấy
đă
gây
cho
tôi, khi
nghĩ
rằng
tất
cả
những
tuần
lễ
nhọc
nhằn
lao khổ
thức
đêm
làm
việc, với
bao
nhiêu
cơn
song
gió
ồ
ạt
trên
phương
diện
tinh
thần, rốt
cuộc
chỉ
là
con
số
không!
Tuy
nhiên, v́
ḷng
kính
yêu
và
biết
ơn
của
tôi
đối
với
các
đấng
Chân
Sư
vốn
tuyệt
đối
và
vô
biên, v́
các
ngài
đă
cho
tôi
cái
đặc
ân
cùng
chia
xẻ
công
việc
của
các
ngài, nên
tôi
vui
ḷng
chấp
nhận
và
chúng
tôi
lại
bắt
đầu
làm
lại
hết
tất
cả. Quyết
định
ấy
rất
thuận
lợi
cho
tôi, v́
nó
chứng
tỏ
ḷng
trung
kiên
và
nhất
trí
của
tôi
với
bà
HPB, nên
tôi
được
thọ
lănh
một
phần
thưởng
tâm
linh
dồi
dào. Những
nguyên
tắc
Huyền
Môn
được
các
ngài
giải
thích
cho
tôi
biết, vô
số
những
thí
dụ
điển
h́nh
được
tŕnh
bày
cho
tôi
thấy
bằng
những
hiện
tượng
thần
thông, tôi
được
trợ
giúp
để
tự
ḿnh
thí
nghiệm
lấy
những
điều
đă
học hỏi, được
giao
tiếp
với
nhiều
vị
Chân
Sư, và nói
chung, tôi
được
chuẩn
bị
đầy
đủ
cho
một
công
việc
đại
sự
lớn
lao
trong tương
lai
mà
hồi
ấy
tôi
không
thể
ngờ
trước
được, nhưng
về
sau
đă trở
thành
một
vấn
đề
lịch
sử.
Người
ta
thường
nói
thật
là
một
điều
rất
lạ
lùng, và
rất
khó
hiểu, khi
thấy
rằng
trong
số
tất
cả
những
người
đă
trợ
giúp
vào
phong
trào
Thông
Thiên
Học, thường
là
với
những
hy
sinh
lớn
lao
nhất, tôi
lại
là
người
duy
nhất
được cái
ân
sủng có
những
mối
liên hệ
và
tiếp
xúc
cá
nhân
với
các
đấng
Chân
Sư, đến
nỗi
sự
hiện
diện
của
các
ngài
vốn
là
một
vấn
đề
mà
tôi
biết
rơ
một
cách
thật
sự
chảng
khác
nào
như
sự
hiện
hữu
của
những
người
trong
gia
đ́nh
hay
bạn
bè
thân
quyến
của
tôi. Chính
tôi
cũng
không
giải
thích
được
điều
đó. Tôi
biết
những
ǵ
tôi
biết, chứ
không
biết
rằng
tại
sao
nhiều
bạn
đồng
môn
của
tôi
không
được
như
vậy.
Nhiều
người
đă
nói
cho
tôi
biết
rằng
họ
đặt
đức
tin
nơi
các
đấng
Chân
Sư
nhờ
bởi
sự
chứng
minh
chắc
chắn
và
không
thể
nghi
ngờ
qua
kinh
nghiệm
bản
thân
của
tôi, nó
cũng
bổ
túc
thêm
vào
những
lời
tuyên
bố
của
bà
HPB. Có
lẽ
tôi
được
cái
đặc
ân
đó
bởi
v́
tôi
phải
phóng
con
thuyền
Thông
Thiên
Học
cùng
với
bà
HPB
cho
các
đấng
Chân
Sư
của
bà, và
lái
con
thuyền
đó
xuyên
qua
bao
nhiêu
những
cơn
giông
tố
băo
bùng,
khi
mà
chỉ
có
một
sự
hiểu
biết
chắc
chắn
về
cái
căn
bản
lành
mạnh
của
phong
trào
này
mới
có
thể
làm
cho
tôi
bám
sát
lấy
nhiệm
sở
và
giữ
vững
vai
tṛ
của
tôi
cho
đến
cùng.
CHƯƠNG TÁM
MỘT VÀI GIẢ
THUYẾT
Chúng
ta
hăy
thử
phân
tích
trạng
thái
tinh
thần
của
bà
HPB
khi
bà
viết
bộ
sách
“VÉN
MÀN
ISIS”,
để
t́m
cách
giải
thích
những
sự
khác
biệt
rơ
rệt
về
cá
tính, tuồng
chữ, và
tâm
trạng
của
bà
như
đă
tường
thuật
ở
trên.
Tôi
không
thể
chứng
minh
đến
mức
độ
nào, bà
HPB
đă
viết
bộ
sách
trên
qua
cá
tính
phức
tạp
của
bà, nhưng
tôi
nghĩ
rằng
có
điều
hiển
nhiên
và
không
thể
chối
căi
là
bà
đă
nghiền
ngẫm
và
tiêu
hóa
tất
cả
những
tài
liệu
trong
đó
cũng
như
nó
là
của
chính
bà
viết
ra, chứ
không
phải
chỉ
là
những
kiến
thức
mượn
tạm
từ
bên
ngoài.
Thật
không
ǵ
dễ
bằng
tránh
né
toàn
bộ
sự
việc
phân
tích
để
t́m
hiểu, và
kết
bè
với
những
người
cho
rằng
bà
HPB
được
nguồn
cảm
hứng
thiêng
liêng, không
hề
có
sự
lỡ
lầm, mâu
thuẫn, sai
sót
hay
sơ
hở
nào; nhưng
tôi
không
thể
làm
như
vậy, v́
tôi
biết
bà
quá
rơ, và
chỉ
muốn
tŕnh
bày
sự
thật.
Sau
khi
khảo
sát
về
trường
hợp
này, người
ta
không
khỏi
nhận
thấy
rằng
ít
nhất
có
những
giả
thuyết
sau
đây
được
nêu
ra:
1._ Bộ
sách
VÉN
MÀN
ISIS
phải
chăng
được
một
vị
Chân
Sư
đọc
cho
bà
viết
như
một
người
thư
kư
biên
chép
lại
một
cách
tỉ
mỉ, cẩn
thận
và
công
phu?
2._ Do
Chân
Ngă
của
bà
viết
ra
trong
khi
cơ
thể
bà
bị
hoàn
toàn
chế
ngự?
3._ Bà
viết
trong
trạng
thái
một
người
đồng
tử
được
các
đấng
Chân
Sư
mượn
xác?
4._ Dưới
ảnh
hưởng
một
phần
của
những
trạng
thái
kể
trên?
5._ Như
một
đồng
tử
thông
thường, chịu
ảnh
hưởng
kiểm
chế
của
những
vong
linh
khuất
mặt?
6._ Do
nhiều
cá
tính
tiềm
ẩn
và
tác
động
luân
phiên
nhau
của
bà
viết
ra?
7._ Bà
chỉ
là
một
phụ
nữ
b́nh
thường
như
mọi
người, không
chịu
một
ảnh
hưởng
kiểm
chế
ám
ảnh
hay
một
nguồn
cảm
hứng
tâm
linh
nào
đến
từ
bên
ngoài, trong
trạng
thái
tỉnh
táo
thông
thường, và
không
có
ǵ
khác
biệt
với
bất
cứ
một
nhà
văn
nào
làm
một
công
việc
soạn
sách
thuộc
loại
này.
I
GIẢ THUYẾT THỨ
BẢY
Chúng
ta
hăy
bắt
đầu
với
giả
thuyết
sau
cùng. Mọi
người
sẽ
thấy
ngay
rằng
xét
về
tŕnh
độ
học
thức
và
văn
hóa
của
bà
HPB , th́
bà
không
bao
giờ
có
thể
là
một
học
giả
uyên
bác, hay
một
“con
mọt
sách”. Những
tập
hồi
kư
về
cuộc
đời
bà, do
gia
đ́nh
bà
truyền
lại
cho
nhà
viết
tiểu
sử
bà
là
ông
A.P.Sinnett, và
cho
tôi, cho
thấy
rằng
hồi
thuở
thiếu
thời, bà
là
một
người
học
tṛ
khó
dạy, không
hề
thích
đọc
những
loại
sách
vở
đứng
đắn, khô
khan, không
thích
giao
du
với
những
người
học
rộng, cũng
không
hề
bước
chân
đến
các
thư
viện: bà
vốn
là
mối
hoang
mang
kinh
khủng
cho
các
bà
quản
gia, mối
thất
vọng
cho
họ
hàng
thân
quyến, thích
nổi
loạn
chống
lại
tất
cả
những
sự
g̣
bó
chật
hẹp
của
phong
tục
hay
quy
ước
xă
hội
thông
thường. Trong
thời
kỳ
thơ
ấu, bà
thích
làm
bạn
với
những
TINH
LINH
NGŨ
HÀNH
và
những
vong
linh
khuất
mặt
ở
cơi
âm, bà
trải
qua
nhiều
ngày
và
nhiều
tuần
như
vậy
để
giao
tiếp
với
họ. Bà
cũng
thường
hay
chơi
những
tṛ
ngỗ
nghịch, rắn
mắt
đối
với
người
lớn, và
nhờ
có
những
năng
khiếu
thần
thông
ngay
từ
thuở
nhỏ, nên
có
khi
bà
cũng
nói
phăng
ra
những
điều
bí
mật
riêng
tư
của
họ
làm
cho
họ
phải
giật
ḿnh.
Bà
không
hề
gia
nhập
một
hội
nghiên
cứu
khoa
học
hay
khảo
cứu
bất
cứ
một
ngành
học
thuật
nào, và
chưa
từng
viết
sách. Bà
chỉ
đi
t́m
các
vị
pháp
sư, phù
thủy
ở
những
xứ xa xôi
và
bán
khai, không
phải
để
đọc
sách
vở ( không
hề
có ) của
họ, mà
để
học
hỏi
về
ngành
tâm
lư
thực
dụng. Nói
tóm
lại, bà
không
phải
là
một
người
ưa
thích
văn
chương
trước
khi
viết bộ
VÉN
MÀN
ISIS.
Những
sự
khác
biệt
và
tương
phản
rơ
rệt
giữa
những
đoạn
văn
có
khi
vụng
về
lủng
củng
và
có
khi
hầu
như
tuyệt
tác
của
bà, chứng
minh
rằng
không
phải
chỉ
có
một
trí
lực
duy
nhất
tác
động
để
viết
bộ
sách
này. Những
tuồng
cữ
khác
nhau, sự
sai
biệt
về
cách
suy
luận, cách
hành
văn
và
những
sắc
thái
khác
biệt
nhau
của
mỗi
đoạn
văn
đều
xác
nhận
điều
đó.
II
GIẢ
THUYẾT THỨ SÁU
Bây
giờ
chúng
ta
hăy
xét
đến
giả
thuyết
thứ
sáu, cho
rằng
quyển
sách
ấy
được
viết
ra
bởi
nhiều
cá
tính
khác
nhau
của
bà
HPB, hay
nhiều
tầng
lớp
tâm
thức
cá
nhân
của
bà, có
thể
luân
phiên
nhau
xuất
hiện
từ
trạng
thái
tiềm
ẩn
để
bước
vào
trạng
thái
hoạt
động.
Về
vấn
đề
này, những
sự
khảo
sát
t́m
ṭi
của
các
giới
liên
hệ
đương
thời
vẫn
chưa
tiến
bộ
đến
mức
giúp
cho
chúng
ta
có
thể
nói
một
cách
dứt
khoát. Trong
quyển “ NHỮNG
GIAI
THOẠI
TRONG
CUỘC
ĐỜI
BÀ
BLAVATSKY”, ông
Sinnett
có
trích
dẫn
một
đoạn
văn
của
bà
diễn
tả
một “đời
sống
song
đôi”
mà bà
đă
trải
qua
trong
một
cơn
bệnh
sốt
khi
bà
c̣n
là
một thiếu nữ
ở
Mingrelia:
“MỖI
KHI
CÓ
NGƯỜI
GỌI
TÊN
TÔI, TÔI
MỞ
MẮT
RA
VÀ
TRỞ
LẠI
BẢN
THỂ
HAY
CÁ
TÍNH
CỦA
CHÍNH
TÔI, TRONG
TỪNG
CHI
TIẾT. TUY
NHIÊN, SAU
ĐÓ
KHI
TÔI
ĐƯỢC
ĐỂ
YÊN
MỘT
M̀NH, TÔI
LẠI
RƠI
VÀO
TRẠNG
THÁI
MỘNG
MƠ
THƯỜNG
NHẬT
CỦA
TÔI, VÀ
TÔI
TRỞ
THÀNH
MỘT
NGƯỜI
KHÁC ( BÀ
HPB
KHÔNG
NÓI
NGƯỜI
ẤY
LÀ
AI )…..
NHỮNG
KHI
TÔI
ĐANG
NÓI
CHUYỆN
TRONG
CUỘC
SỐNG
MỘNG
MƠ
NÓI
TRÊN, NẾU
TÔI
BỊ
GIÁN
ĐOẠN
NỬA
CHỪNG
V̀
CÓ
NGƯỜI
GỌI
TÊN
TÔI, VÀO
LÚC
MÀ
TÔI
HAY
NHỮNG
NGƯỜI
KHUẤT
MẶT
TRONG
LÚC
ĐÓ
MỚI
NÓI
ĐƯỢC
NỬA
CÂU
VÀ
TÔI
MỞ
MẮT
RA
ĐỂ
ĐÁP
LỜI
KÊU
GỌI, TH̀
TÔI
THƯỜNG
TRẢ
LỜI
MỘT
CÁCH
RẤT
SÁNG
SUỐT
VÀ
HIỂU
BIẾT
TẤT
CẢ
MỌI
SỰ, V̀
TÔI
KHÔNG
HỀ
MÊ
MUỘI. NHƯNG
KHI
TÔI
VỪA
NHẮM
MẮT
LẠI, TH̀
CÂU
NÓI
BỊ
GIÁN
ĐOẠN
NỬA
CHỪNG
KHI
NĂY, ĐƯỢC
TIẾP
TỤC
BỞI
“CÁI
NGĂ
THỨ
NH̀”
CỦA
TÔI, ĐÚNG
VÀO
CHỮ
HAY
CHÍ
ĐẾN
NỬA
CHỮ
MÀ
CÂU
NÓI
BỊ
NGẮT
NGANG.
KHI
TÔI
THỨC
TỈNH
VÀ
TRỞ
VỀ
BẢN
THỂ, TÔI
NHỚ
RƠ
RẰNG
TÔI
LÀ
AI
TRONG
CÁI
BẢN
NGĂ
THỨ
NH̀, CÙNG
TẤT
CẢ
NHỮNG
SỰ
VIỆC
XẢY
RA
VÀ
TÔI
ĐANG
LÀM
G̀
LÚC
ẤY. KHI
TÔI
LÀ
MỘT
NGƯỜI
KHÁC
TRONG
TRẠNG
THÁI
MỘNG
MƠ, TH̀
TÔI
LÀ
CÁI NHÂN
VẬT
MÀ
TÔI
TRỞ
THÀNH, VÀ
TÔI
KHÔNG
HỀ
BIẾT
H .B. BLAVATSKY
LÀ
AI! KHI
ẤY
TÔI
Ở
MỘT
XỨ
HOÀN
TOÀN
XA
LẠ, CÓ
MỘT
CÁ
TÍNH
HOÀN
TOÀN
KHÁC
HẲN, VÀ
KHÔNG
CÓ
LIÊN
HỆ
G̀
ĐẾN
ĐỜI
SỐNG
CỦA
TÔI
TRONG
HIỆN
TẠI”.
Xét
về
những
sự
việc
kể
trên, người
ta
có
thể
nói
rằng
nhân
vật
HPB
duy
nhất, chính
là
cái
thực
thể
tâm
linh
ngự
trong
cái
xác
phàm
của
bà, c̣n
cái
“người
khác”
kia
vốn
không
phải
bà
HPB, mà
chỉ
là
một
thực
thể
khác
có
một
mối
liên
quan
bí
hiểm
không
giải
thích
được, với
bà
và xác
phàm
của
bà. Thật
vậy, người
ta
được
biết
có
những
trường
hợp
mà
cái
NGĂ
THỨ
NH̀
biểu
lộ
những
sở
thích
và
tài
năng
hoàn
toàn
xa
lạ
đối
với
cái
NGĂ
b́nh
thường
của
đương
sự. Giáo
Sư
Barrett
có
thuật
chuyện
người
con
trai
của
một
vị
linh
mục
ở
khu
vực
bắc
Luân
Đôn, sau
một
cơn
bệnh
nặng, bèn
trở
nên
hai
nhân
vật
khác
nhau. Cái
“ngă
thứ
nh́”
không
biết
đến
cha
mẹ
của
y, không
nhớ
những
việc
quá
khứ, tự
gọi
ḿnh
bằng
một
cái
tên
khác, và
điều
đáng
kể
hơn
nữa, là
y
phát
triển
tài
năng
về
âm
nhạc, mà
trước
đó
y
không
hề
có
chút
nào.
Có
nhiều
trường
hợp
mà
cái
“ngă
thứ
nh́” thay
chân
cái
ngă
b́nh
thường, tự
gọi
bằng
một
cái
tên
khác
và
có
một
trí
nhớ
đặc
biệt
về
những
kinh
nghiệm
riêng
của
nó. Trong
trường
hợp
cô
Lurancy
Vennum
mà
mọi
người
đều
biết, thể
xác
của
cô
hoàn
toàn
bị
chế
ngự
bởi
linh
hồn
thoát
xác
của
một
thiếu
nữ
khác
tên
Mary Roff, cô
này
đă
chết
từ
mười
hai
năm
trước. Dưới
sự
thay
hồn
đổi
xác
này, cá
tính
của
cô
Vennum
hoàn
toàn
khác
biệt
hẳn
khi
xưa.
Cô
nhớ
rơ
tất
cả
những
ǵ
đă
xảy
ra
trong
đời
của
cô
Mary Roff
trước
khi
cô
này
qua
đời, nhưng
c̣n
chính
những
cha
mẹ, người
thân
quyến
và
bạn
bè
của
cô
lại
trở
nên
những
người
hoàn
toàn
xa
lạ. Hiện tượng này
kéo
dài
gần
bốn
tháng. Việc
nhập
xác
này
đối
với
cô
Mary Roff
lại
rất
tự
nhiên
đến
nỗi
cô
không
thấy
ǵ
khác
biệt
với
cái
thể xác
của
chính
cô
khi
cô
sinh
ra
đời
gần
ba
mươi
năm
về
trước.
Ngoài
ra, người
ta
c̣n
thuật
chuyện
cái
“ngă
thứ
nh́” của
một
cô
gái
tên
Mary Reynold, xuất
hiện
từ
năm
cô
mười
tám
tuổi
và
kéo
dài
đến
bốn
mươi
ba
năm
cho
đến
khi
cô
thọ
được
đến
sáu
mươi
mốt
tuổi, xen
với
những
giai
đoạn
trung
gian
khi
cô
trở
về
trạng
thái
b́nh
thường. Trong
khoảng
hai
mươi
lăm
năm
cuối
cùng
của
cuộc
đời, cô
hoàn
toàn
ở
trong
trạng
thái
bất
thường
của
cái
“ngă
thứ
nh́”, trong
khi
đó
cái
ngă
b́nh
thường, tức
con
người
thật
của
cô, đă
bị
xóa
bỏ. Có
điều
lạ
lung
là
tất
cả
những
ǵ
cô
biết
trong
cái
“ngă
thứ
nh́” đều
đă
sở
đắc
được
trong
trạng
thái
đó. Cô
bắt
đầu
cái
đời
sống
thứ
nh́
này
vào
năm
cô
mười
tám
tuổi
(tuổi
của
thể
xác), không
hề
biết
tới
Mary
Reynold
là
ai
và
quên
hết
tất
cả
quá
khứ; trạng
thái
thứ
nh́
của
cô
chính
là
trạng
thái
của
một
trẻ
sơ
sinh. Tất
cả
những
ǵ
c̣n
sót
lại
của
dĩ
văng, là
cô
chỉ
biết
thốt
ra
một
vài
tiếng, mà
cô
không
hiểu
ư
nghĩa
ǵ
cả
cho
đến khi
cô
được
dạy
cho
biết
ư
nghĩa
của
những
chữ
đó.
Tôi
có
đọc
sách
và
biết
được
ít
nhiều
về
vấn
đề
đa
h́nh
đa
dạng
trong
con
người, nhưng
không
thấy
có
trường
hợp
nào
mà
cái
ngă
hay
nhân
vật
thứ
nh́
có
thể
chú
thích
những
đoạn
văn
trong
các
sách, hay
nói
những
tiếng
ngoại
ngữ
mà
chính
đương
sự
không
hề
biết
trong
trạng
thái
b́nh
thường. Tôi
biết
một
nhà
bác
học
ở
Anh
Quốc, đă
quên
hẳn
tiếng
mẹ
đẻ
v́
sống
ở
nước
ngoài
từ
năm
mười
một
tuổi
mà
không
nói, hay
nghe
ai
nói
thứ
tiếng
ấy. Đến
năm
hai
mươi
chin
tuổi, y
mới
bắt
đầu
học
lại
tiếng
mẹ
đẻ
bằng
cách
dạy
sinh
ngữ
và
tự
điển. Tuy
nhiên, trong
khi
y
cố
gắng
vật
lộn
với
những
nguyên
tắc
sơ
đẳng
của
ngôn
ngữ
ấy, th́
y
lại
nói
trôi
chảy
trong
giấc
ngủ. Nhưng
trong
trường
hợp
này, sự
thông
hiểu
ngôn
ngữ
của
y
chỉ
đắm
ch́m
trong
cơi
tiềm
thức, hay
kư
ức
ẩn
tàng.
Có
trường
hợp
quen
thuộc
của
một
người
nữ
tỳ
ngâm
thơ
ngoại
ngữ
trong
trạng
thái
thụy
du (đi
trong
giấc
ngủ) và
cũng thốt
lên
những
câu
văn
Do
Thái
mà
cô
đă
nghe
một
người
chủ
cũ
ca
vang
lên
từ
nhiều
năm
trước.
Nhưng
không
ai
có
thể
đưa
ra
bằng
chứng
nào
chỉ
rằng
bà
HPB
đă
từng
khảo
cứu
về
những
vấn
đề
bà
viết
trong
bộ
sách
VÉN
MÀN
ISIS. Nếu
bà
không
cố
ư
“đạo
văn”
một
cách
ư
thức
và cũng
không
hề
học
hỏi
những
vấn
đề
ấy
bao
giờ
th́
làm
sao
những
kiến
thức
đó
có
thể
đến
với
bà
trên
giả
thuyết
rằng
bộ
sách
ấy
được
viết
bởi
một
HPB
thứ
nh́
hay
HPB
thứ
ba?
Ở
đây, tôi
chỉ
muốn
tạm
cứu
xét
vấn
đề
đa
h́nh
đa
dạng
của
con
người
trên
giả
thuyết
rằng
bà
HPB
có
thể
viết
bộ
sách
VÉN
MÀN
ISIS
với
không
có
sự
trợ
giúp
nào
khác
hơn
là
những
cá
tính
riêng
của
bà. Bởi
đó, chúng
ta
không
cần
phải
đi
sâu
hơn
vào
một
vấn
đề
mà
muốn
hiểu
biết
rơ
người
ta
phải
tham
khảo
những
giáo
lư
Huyền
Môn
của
Ấn
Độ.
Đạo
lư
cổ
truyền
của
Ấn
Độ dạy
rằng
Chân
Ngă
con
người
có
khả
năng
thấy
và
biết
tất
cả
khi
y
đă
trút
bỏ
cái
gánh
nặng
của
bức
màn
che
ám
cuối
cùng
thuộc
về
tâm
thức
vật
chất
hồng
trần. Và
cái
kiến
thức
đó
sẽ
đến
với
y
một
cách
tuần
tự
khi
mà
những
lớp
màn
xác
thịt
trọng
trược
càng
ngày
càng
được
vén
lên.
Trường
hợp
giáo
chủ
Hồi
Giáo
Mahomet
vốn
là
một
người
thất
học, lại
có
thể
viết
bộ
Thánh
Kinh
Koran
bằng
chữ
Ả
Rập
thuần
túy, là
một
phép lạ
lớn
nhất
chưa
từng
thấy. Đó
là
một
bằng
chứng
chỉ
rằng
Chân
Ngă
tâm
linh
của
ông
đă
biểu
lộ
xuyên
qua
những
chướng
ngại
của
thể
xác
vật
chất
và
trực
tiếp
thu
nhận
những
kiến
thức
siêu
việt
từ
cái
nguồn
gốc huyền diệu
thuộc
về
cơi
trên.
Nếu
bà
HPB
là
một
tu
sĩ
khổ
hạnh
chủ
trị
được
cái
phàm
ngă
và
bộ
óc
suy
luận
của
bà, nếu
bà
có
thể
viết
Anh
Ngữ
thuần
túy
mà
không
hề
sở
đắc
nó
từ
trước, nếu
bà
soạn
bộ
VÉN
MÀN
ISIS
theo
một
kế
hoạch
rơ
ràng
nhất
định
thay
v́
sắp
đặt
các
tài
liệu
một
cách
lộn
xộn
thiếu
trật
tự
như
bà
đă
làm, th́
tôi
đă
có
thể
nghĩ
như
trên
và
coi
bộ
sách
quư
giá
ấy
như
một
công
tŕnh
sáng
tạo
bởi
cái
Chân
Ngă
siêu
việt
của
bà. Nhưng
trên
thực
tế, tôi
không
thể
làm
như
vậy, và tôi
phải
thông
qua
vấn
đề
ấy
để
xét
qua
những
giả
thuyết
khác.
III
GIẢ THUYẾT THỨ NĂM
Giả
thuyết
kế
đó
là
phải
chăng
bà
HPB
viết
bộ
VÉN
MÀN ISIS
với
tư
cách
một
người
đồng
tử
thông
thường, nghĩa
là
dưới
sự
kiểm
chế
của
những
vong
linh
người
chết?
Tôi quả
quyết
rằng
không. Nếu
quả
như
vậy, th́
cái
vong
linh
chế
ngự
thể
xác
của
bà
hẳn
là
tác
động
một
cách
khác
hẳn
với
mọi
thứ
quyền
năng
đă
được
ghi
nhận
trong
các
sách
vở, mà
tôi
đă
từng
chứng
kiến
trong
nhiều
năm
kinh
nghiệm
và
khảo
cứu
về
phong
trào
Thần
Linh
Học. Tôi
đă
được
biết
nhiều
đồng
tử
thuộc
đủ
mọi
loại:
đồng
tử
giáng
ngôn, giáng
bút, xuất
thần, chữa
bệnh, linh
thị, làm
các
hiện
tượng v…v….Tôi
đă
theo
dơi
cách
làm
việc
của
họ, tham
dự
các
cuộc
họp
đàn
và
quan
sát
những
triệu
chứng
nhập
đồng
của
họ.
Nhưng
trường
hợp
của
bà
HPB
hoàn
toàn
khác
hẳn. Hầu
hết
tất
cả
những
ǵ
họ
đă
làm,
bà
đều
có
thể
làm
được
tùy
ư
muốn, bất
cứ
ngày
đêm, không
cần
phải
họp
đàn, chọn
thành
phần
tham
dự, hay
áp
đặt những
điều
kiện
thông
thường.
Ngoài
ra, tôi
c̣n
có
bằng
chứng
rằng
ít
nhất
vài
Nhân
Vật
hợp
tác
với
chúng
tôi
là
những
Người
c̣n
sống
do
bởi
tôi
đă
nh́n
thấy
các
Ngài
trong
thể
xác
phàm
ở
Ấn
Độ, sau
khi đă
nh́n
thấy
các
Ngài
trong
Thể
Vía
ở
những
nơi
khác
bên
Âu
Mỹ, và
tôi
cũng
đă
nói
chuyện
với
các
Ngài. Các
Ngài
cho
tôi
biết
rằng
các
Ngài
không
phải
là
những
vong
linh, mà
là
những
người
sống
cùng
tôi, và
mỗi
vị
trong
các
Ngài
đều
có
những
đặc
tính
và
khả
năng
riêng, nói
tóm
lại, là
có
cá
tính
riêng. Những
quyền
năng
mà
các
Ngài
đă
sở
đắc
được, có
ngày
tôi
cũng
sẽ
có; sớm
hay
muộn
là
tùy
ở
nơi
tôi. Tôi
không
nên
trông
đợi
một
đặc
ân
nào, mà
cũng
như
các
Ngài, tôi
phải
tiến từng
bước
bằng
sự
cố
gắng
cá
nhân.
Một
trong
những
vị
cao
cả
nhất
là
bậc
Thầy
của
hai
vị
Chân
Sư
mà
quần
chúng
đă
có
dịp
nghe
nói
đến, đă
dạy
tôi
trong
một
bức
thư
đề
ngày
22
tháng
6
năm
1875, như
sau:
“THỜI
GIỜ
ĐĂ
ĐẾN
ĐỂ
CHO
CON
BIẾT
TA
LÀ
AI. TA
KHÔNG
PHẢI
LÀ
MỘT
LINH
HỒN
ĐĂ
THOÁT
XÁC, HỠI
ĐỆ
TỬ, MÀ
LÀ
MỘT
NGƯỜI
SỐNG, CÓ
NHỮNG
QUYỀN
NĂNG
MÀ
CÓ
NGÀY
CON
CŨNG
SẼ
ĐẠT
TỚI. TA
KHÔNG
THỂ
TIẾP
XÚC
VỚI
CON
BẰNG
CÁCH
NÀO
KHÁC
HƠN
LÀ
BẰNG
TINH
THẦN, V̀
HIỆN
THỜI
CHÚNG
TA
Ở
CÁCH
XA
NHAU
ĐẾN
HẰNG
NGÀN
DẶM. HĂY
KIÊN
NHẪN
VÀ
LẠC
QUAN, HỠI
NGƯỜI
PHỤNG
SỰ
TRUNG
KIÊN
CỦA
QUẦN
TIÊN
HỘI
THIÊNG
LIÊNG!
CON
HĂY
TIẾP
TỤC
CỐ
GẮNG
LÀM
VIỆC, V̀
ĐỨC
TỰ
TIN
LÀ
YẾU
TỐ
MẠNH
MẼ
NHẤT
ĐƯA
ĐẾN
SỰ
THÀNH
CÔNG. HĂY
GIÚP
ĐỠ
NHỮNG
KẺ
THIẾU
THỐN
RỒI
CHÍNH
CON
SẼ
ĐƯỢC
GIÚP
ĐỠ, THEO
SỰ
TÁC
ĐỘNG
TRƯỜNG
KỲ
VÀ
BẤT
BIẾN
CỦA
LUẬT NHÂN
QUẢ.”
Như
độc
giả
nhận
thấy, Luật
Nhân
Quả
đă
được
dạy
cho
tôi
hầu
như
ngay
từ
lúc
bắt
đầu
sự
liên
hệ
giữa
tôi
với
bà HPB
và
với
các
đấng
Chân
Sư.
Tuy
nhiên, mặc
dù
các
sự
việc
kể
trên
chúng
tôi
đă
được
sự
hợp
tác
của
ít
nhất
một
người
khuất
mặt, vốn
là
linh
hốn
của
một
trong
những
triết
gia
lỗi
lạc
nhất
của
thời
cận
đại, đă
từng
làm
vẻ
vang
cho
xứ
sở
ông
và
là
một
bông
hoa
ưu
tú
của
nhân
loại. Ông
ta
là
một
tín
hữu
của
triết
phái
Platon
( Bá
Lạp
Đồ ) và
tôi
nghe
nói
rằng
ông
ta
say
mê
học
hỏi
đến
nỗi
ông
không
thể
tách
rời
khỏi
quả
Địa
Cầu, mà
ngồi
trong
một
thư
viện
do
ông
tạo
ra
bằng
tư
tưởng
trên
cơi
Trung
Giới, đắm
ch́m
trong
những
cơn
suy
gẫm
triết
lư, quên
hẳn
gịng
trôi
chảy
của
thời
gian, và
chỉ
nghĩ
đến
việc
xoay
chuyển
trí
óc
con
người
theo
chiều
hướng
đạo
đức
tâm
linh. Nguyện
vọng
ấy
không
thu
hút
ông
ta
tái
sinh
trở
lại
cơi
trần, mà
thúc
đẩy
ông
đi
t́m
những
người
có
chí
nguyện
giống
như
các
Chân
Sư
và
đệ
tử, muốn
làm
việc
để
truyền
bá
Chân
Lư
và
bài
trừ
mê
tín
dị
đoan. Tôi
được
ông
cho
biết
rằng
ông
ta
là
một
người
tinh
khiết
và
vô
kỷ
đến
nỗi
ông
được
sự
kính
nể
của
tất
cả
các
vị
Chân
Sư. V́
không
được
can
thiệp
vào
nghiệp
quả
của
ông, nên
các
Ngài
chỉ
có
thể
để
cho
ông
tự
lực
công
phu
để
tự
giải
thoát
khỏi
những
ảo
ảnh
của
cơi
Trung
Giới, hầu
tiến
bước
lên
cơi
tinh
thần
và
tâm
linh
thuần
túy
theo
đà
tiến
hóa
tự
nhiên. Phấn
trí
tuệ
của
ông
được
vận
dụng
mănh
liệt
vào
việc
suy
luận
triết
lư
đến
nỗi
phần
tâm
linh
đă
tạm
thời
bị
tê
liệt.
Trong
khi
đó, th́
ông
ta
xuất
hiện, sẵn
sàng
cộng
tác
với
bà
HPB
để
viết
bộ
sách
lịch
sử
này, và
đă
đóng
góp
rất
nhiều
công
lao
vào
những
tiết
mục
có
liên
quan
đến
vấn
đề
triết
học. Ông
ta
không
có
hiện
h́nh
để
ngồi
vào
bàn
viết
với
chúng
tôi, cũng
không
mượn
xác
bà
HPB
như
một
đồng
tử, mà
chỉ
nói
chuyện
với
bà
trên
phương
diện
huyền
linh,
suốt
nhiều
giờ
liên
tiếp.
Trong
những
cuộc
giao
tiếp
đó, ông
đọc
cho
bà
viết, nhắc
nhở
bà
về
những
loại
sách
nào
cần
phải
chú
thích, trả
lời
những
câu
hỏi
của
tôi
về
các
vấn
đề
chi
tiết, huấn
dụ
cho
tôi
về
những
vấn
đề
nguyên
tắc, và
đóng
vai
tṛ
của
một
người
thứ
ba
trong
nhóm
chúng
tôi.
Có
lần
ông
ta
cho
tôi
bức
chân
dung
của
ông, một
bức
họa
thô
sơ
vẽ
bằng
bút
ch́
màu
trên
một
tờ
giấy
mỏng, và
đôi
khi
ông
cũng
có
gởi
cho
tôi
một
thông
điệp
ngắn (bằng
cách
phóng
xuất
qua
không
gian) để
nhắn
nhủ
tôi
về
vài
việc
riêng
tư. Nói
chung
th́
mối
liên
hệ
giữa
ông
với
hai
chúng
tôi
là
một
sự
giao
tiếp
rất
dịu
dàng, thân
mật
với
một
người
anh
cả
và
một
người
thầy
vô
cùng
uyên
bác. Ông
không
hề
nói
một
lời
nào
chỉ
rằng
ông
tự
coi
như
một
vong
linh
khuất
mặt, khác
hơn
một
người
sống
và
tôi
nghe
nói
rằng
ông
ta
vẫn
không
biết
là
ḿnh
đă
chết.
Mặc
dầu
bác
bỏ
giả
thuyết
cho
rằng
bà
HPB
viết
bộ
VÉN
MÀN
ISIS
với
tư
cách
một
đồng
tử
“bị
kiểm
chế”, nhưng
chúng
ta
đă
thấy
rằng
vài
đoạn
trong
sách
ấy
thật
sự
đă
được
một
vong
linh
khuất
mặt
đọc
cho
bà
viết: đó
là
một
nhân
vật
lạ
kỳ
và
độc
đáo, nhưng
vẫn
là
một
linh
hồn
đă
thoát
xác. Phương
pháp
làm
việc
với
ông
ta
như
đă
nói
ở
trên
thật
đúng
như
bà
đă
diễn
tả
trong
một
bức
thư
gởi
về
cho
gia
đ́nh, để
giải
thích
bằng
cách
nào
bà
viết
bộ
sách
ấy
mà
không
hề
có
sự
học
hỏi, đào
luyện
trí
óc
từ
trước.
“Khi
tôi
ĐƯỢC LỊNH
phải
viết, tôi
ngồi
xuống
và
tuân
lịnh. Khi
đó, tôi
có
thể
viết
dễ
dàng
về
bất
cứ
vấn
đề
ǵ: Siêu
h́nh, Tâm
lư, Triết, Tôn
giáo Vạn
vật, v.. v…. Tại sao? Bởi
v́
có
MỘT
VỊ
BIẾT
TẤT
CẢ
đọc
cho
tôi
viết. Đó
là
Sư
Phụ
tôi, và
thỉnh
thoảng
cũng
có
những
vị
khác
nữa
mà
tôi
được
biết
trong
những
chuyến
du
hành
từ
nhiều
năm
về
trước”.
Đó
chính
là
việc
ǵ
đă
xảy
ra
giữa
bà
và
vị
triết
nhân
già
của
môn
phái
Platon (Bá
Lạp
Đồ), nhưng
ông
ta không
phải
là “sư
phụ” bà, mà
cũng
không
phải
bà
đă
gặp
ông
ta
trong
những
chuyến
du
hành
trước
đây
v́
ông
ta
đă
chết
trước
khi
bà
sinh
ra đời
(trong
kiếp
này). Như
vậy, vấn
đề
được
nêu
ra
là
phải
chăng
vị
tín
hữu
phái
Bá
Lạp
Đồ
nói
trên
quả
thật
là
một
linh
hồn
thoát
xác, hay
là
một
vị
Chân
Sư
đă
sống
trong
cái
thể
xác
đó
và
dường
như
đă
chết
vào
ngày
1
tháng
9
nắm
1687
nhưng
thật
ra
th́
không?
Đó hẳn là một
vấn
đề
khó
giải
đáp. Xét
v́
hoàn
toàn
không
thấy
có
những
triệu
chứng
thông
thường
của
vấn
đề
mượn
xác
đồng
tử
và
xét
v́
bà
HPB
chỉ
đóng
vai
tṛ
của
người
biên
chép
những
ǵ
vị
triết
gia
đọc
cho
bà
viết, chẳng
khác
nào
như
sự
quan
hệ
giữa
một
nữ
bí
thư
với
vị
Chủ
Nhân, trừ
ra
việc
ông
Chủ
Nhân
ấy
tôi
không
nh́n
thấy
mà
bà
nh́n
thấy, th́
đó
có
vẻ
dường
như
chúng
tôi
tiếp
xúc
với
một
người
sống
hơn
là
với
một
linh
hồn
đă
thoát
xác. Ông
ta
không
hẳn
là
một
vị
Chân
Sư, nhưng
gần
như
thế
hơn
là
bất
cứ
môt
vai
tṛ
nào
khác. C̣n
nói
về
công
việc
viết
sách
VÉN
MÀN
ISIS, th́
phần
việc
của
ông
cũng
giống
như
những
phần
khác
khi
mà
người
đọc, hay
người
viết
tùy
trường
hợp, là
một
vị
Chân
Sư (GIẢ
THUYẾT
SỐ
MỘT). Tôi
nói
người
đọc, hay
NGƯỜI
VIẾT,và
điều
này
cần
được
giải
thích
thêm.
Trên
đây
có
nói
rằng
tuồng
chữ
của
bà
HPB
có
nhiều
khi
khác
biệt
nhau, và
cũng
lại
có
nhiều
lối
viết
khác
nhau
của
một
tuồng
chữ
duy
nhất. Mỗi
lần
thay
đổi
tuồng
chữ
như
thế
đều
đi
kèm
với
một
sự
khác
biệt
rơ
rệt
về
cử
chỉ, tác
phong, sắc
diện
và
khả
năng
văn
chương
của
bà
HPB. Khi
bà
tự
lực
cố
gắng
làm
việc
với
khả
năng
của
chính
ḿnh, th́
điều
đó
rất
dễ
nhận
thấy
v́
nó
biểu
lộ
qua
cách
hành
văn
lúng
túng, vụng
về
của
một
người
mới
tập
sự
viết
lách, chưa
được
huấn
luyện
thuần
thục
về
công
tác
này. Những
khi
đó
th́
bản
thảo
của
bà
đưa
qua
cho
tôi
duyệt
xét
lại, có
dẫy
đầy
những
lỗi
lầm
sai
sót, và
sau
khi
nó
được
biến
thành
những
trang
có
đầy
những
chỗ
gạch
nát, thêm
bớt, những
gịng
xen
kẽ, xóa
bỏ, sửa
chữa
về
chính
tả
và
văn
phạm, tôi
phải
đọc
cho
bà
viết
lại
từ
đầu ( GIẢ
THUYẾT
SỐ
BẢY ).
Không
bao
lâu, tôi
được
biết
rằng
những
đấng
Cao
Cả
khác
cũng
sử
dụng
thể
xác
của
bà
HPB
để
giáng
ngôn, giáng
bút. Mỗi
lần
mượn
xác
bà
như
vậy, các
Ngài
không
hề
nói
rơ
rằng: “Tôi
là
vị
nọ….hay
vị
kia”, hay “Đây
là
Chân
Sư
A….hay
B….”. Điều
đó
không
cần
thiết
sau
khi
chúng
tôi
đă
làm
việc
chung
với
nhau
trong
một
thời
gian
khá
lâu
dài
để
tôi
có
thể
trở
thành
quen
thuộc
với
mỗi
cử
chỉ, động
tác, ngôn
ngữ, khí
chất
và
xúc
cảm
của
bà. Mỗi
lần
các
vị
luân
phiên
nhập
xác
của
bà, là
có
sự
thay
đổi
rơ
rệt
như
ban
ngày
về
tính
khí, cử
chỉ, thái
độ, v…v….của
bà
như
vừa
kể
trên. Mỗi
lần
bà
rời
khỏi
pḥng
đi
ra
ngoài
một
lát
rồi
trở
vào, tôi
chỉ
cần
quan
sát
sơ
qua
những
nét
mặt
và
tác
phong, cử
chỉ
của
bà
một
chút
để
có
thể
tự
nhắc
thầm
rằng: “ Đây
là
Chân
Sư
X…,hay
Y…,hay
Z…”, và
sự
phỏng
đoán
của
tôi
đă
được
xác
nhận
bởi
những
sự
việc
xảy
ra
sau
đó.
Một
trong
những
đấng
ấy, mà
tôi
đă
có
lần
gặp
gỡ
trong
xác
phàm, có
bộ
râu
cằm
và
râu
mép
dài
xoắn
lại
với
bộ
ria
ở
hai
bên
má
theo
lối
Rajput. Ngài
có
thói
quen
vuốt
râu
mép
mỗi
khi
suy
tư: ngài
làm
như
vậy
một
cách
tự
nhiên
vô
ư
thức. Có
những
khi
bà
HPB
để
cho
cá
tính
của
bà
tan
biến
dần
và
trở
thành
một
Nhân
Vật
khác. Khi
đó, tôi
ngồi
trước
mặt
bà
và
nhận
thấy
bà
đưa
tay
lên
cằm
rồi
từ
từ
làm
những
động
tác
dường
như
kéo
bộ
râu
mép (không
có
thật) và
xoắn
tới
xoắn
lui
trong
những
ngón
tay
của
bà, với
đôi
mắt
đăm
chiêu
và
cái
nh́n
xa
vắng. Một
lát
sau
đó, đôi
mắt
ấy
mới
thâu
ngắn
tầm
nhăn
quang
để
lưu
ư
đến
sự
vật
chung
quanh: Nhân
Vật
có
râu
mép
ngước
mặt
lên, nhận
thấy
tôi
đang
chăm
chú
theo
dơi
động
tác
của
ngài, bèn
lật
đật
bỏ
tay
xuống, và
tiếp
tục
viết.
Một
Nhân
Vật
khác
lại
rất
ghét
Anh
Ngữ
đến
nỗi
Ngài
chỉ
nói
chuyện
với
tôi
bằng
tiếng
Pháp. Ngài
có
năng
khiếu
về
nghệ
thuật
và
rất
thích
thú
say
mê
những
phát
minh
cơ
khí.
Một
Nhân
Vật
khác
nữa
thỉnh
thoảng
cũng
xuất
hiện (qua
thể
xác
bà
HPB) vẽ
nguệch
ngoạc
những
h́nh
ảnh
bằng
bút
ch́, và
giáng
bút
thành
những
bài
thơ
hàm
xúc
mùi
Đạo
Vị
thanh
cao.
Mỗi
Nhân
Vật
đó
đều
có
những
đặc
tính
riêng
biệt
rơ
rệt, và
người
ta
có
thể
nhận
ra
ngay
là
vị
nào
mượn
xác
bà
HPB
vào
một
lúc
nhất
định, cũng
như
ta
có
thể
phân
biệt
những
bạn
bè
quen
thuộc
của
ta
trong
đời
sống
hằng
ngày. Một
vị
hay
cười
nói
vui
vẻ, ưa
thích
nói
những
chuyện
vui
và
hay
châm
biếm
hài
hước. Một
vị
khác
nói
năng
dè
dặt, nghiêm
chỉnh
và
rất
lịch
lăm
uyên
bác. Một
vị
khác
có
tác
phong
trầm
tĩnh, kiên
nhẫn
và
sẵn
sàng
giúp
đỡ
một
cách
đầy
hảo
ư. Một
vị
khác
nữa
luôn
luôn
thử
thách
và
đôi
khi
rất
khó
tính. Một
Nhân
Vật
khuất
mặt
luôn
luôn
sẵn
ḷng
đưa
ra
những
sự
giải
thích
triết
lư
và
khoa
học
về
những
vấn
đề
mà
tôi
phải
viết
bằng
cách
làm
những
hiện
tượng
lạ
lùng
để
chứng
minh, c̣n
đối
với
một
Nhân
Vật
khác
nữa
th́
thậm
chí
tôi
cũng
không
dám
nêu
những
vấn
đề
ấy
ra
hỏi
Ngài.
Một đêm
nọ, tôi
bị
“chỉnh”
một
cách
đau
đớn. Trước
đó
mấy
hôm, tôi
có
đem
về
hai
cây
bút
ch́
loại
mềm
và
tốt
để
dùng, tôi
đưa
một
cây
cho
bà
HPB
và
giữ
lại
một
cây. Bà
HPB
có
cái
tật
rất
xấu
là
hay
mượn
những
đồ
dụng
cụ
văn
pḥng, bút
mực, bút
ch́, tẩy (gôm), dao, kéo, v… v…mà
quên
trả
lại
cho “khổ
chủ” ! Một
khi
bà
đă
dùng
xong, bà
bỏ
vào
hộc
tủ
của
bà
rồi
chúng
cứ
nằm
yên
trong
đó, bất
chấp
những
lời
phản
đối
của “nạn
nhân”! Đêm
đó, Nhân
Vật
có
tâm
hồn
nghệ
sĩ
“giáng
lâm”. Ngài
vừa
ngồi
vẽ
một
đầu
người
trên
một
tờ
giấy
vừa
nói
chuyện
với
tôi
về
một
đầu
đề
nào
đó, rồi
ngài
bảo
tôi
đưa
cho
ngài
mượn
một
cây
bút
ch́
khác. Khi
ấy
một
tư
tưởng
liền
thoáng
qua
trong
trí
tôi:
“Nếu
ḿnh
cho
mượn
cây
bút
ch́, nó
sẽ
nằm
gọn
trong
hộc
tủ
của
bà, rồi
ḿnh
sẽ
không
c̣n
cây
bút
ch́
nào
khác
để
dùng”.
Tôi
không
nói
ra, mà
chỉ
nghĩ
trong
trí
thôi, nhưng
Nhân
Vật
giáng
lâm
nh́n
tôi
bằng
một
cái
nh́n
châm
biếm, đưa
tay
vói
lấy
cái
giỏ
đựng
bút
trên
bàn, để
cây
bút
ch́
của
ngài
trong
đó, dùng
ngón
tay
mân
mê
nó
một
lúc, rồi
th́….ơ
ḱa, lạ
thay, đột
nhiên
xuất
hiện
trong
giỏ
một
chục
cây
viết
ch́
cùng
một
hiệu
và
cùng
một
phẩm
chất
với
cây
kia! Ngài
không
nói
một
lời, cũng
không
thèm
nh́n
vào
mặt
tôi, nhưng
việc
ấy
làm
cho
máu
trong
người
tôi
nhảy
vọt
lên
hai
màng
tang
và
tôi
cảm
thấy
hổ
thẹn
như
tôi
chưa
từng
bị
như
thế
bao
giờ
trong
đời!
Dù
sao
chăng
nữa, tôi
không
nghĩ
rằng
tôi
đáng
bị “chơi”
một
vố
nặng
như
thế, xét
v́
cái
tật
hay
chiếm
đoạt
văn
pḥng
phẩm
bất
trị
của
bà
HPB!
Mỗi
khi
mà
một
trong
những
Nhân
Vật
ấy
“giáng
lâm”, th́
tuồng
chữ
viết
của
bà
HPB
lại
biểu
lộ
những
nét
đặc
thù
giống
y
như
tuồng
chữ
của
lần
trước
khi
mà
đến
phiên
chính
Nhân
Vật
ấy
xuống
bút
để
góp
phần
vào
công
tŕnh
viết
nên
bộ
sách
vĩ
đại
này. Những
lần
đó, ngài
viết
những
tiết
mục
đặc
biệt
thuộc
về
những
đề
tài
sở
trường
của
ngài, và
thay
v́
bà
HPB
đóng
vai
tṛ
một
nữ
bí
thư
biên
chép, th́
khi
đó
bà
đă
trở
nên
chính
Nhân
Vật
ấy (GIẢ
THUYẾT
SỐ
BA ).
Hồi
đó, nếu
có
ai
cầm
đưa
cho
tôi
bất
cứ
một
trang
bản
thảo
viết
tay
nào của
bộ
VÉN
MÀN
ISIS, tôi
có
thể
nói
ngay
một
cách
quả
quyết
rằng
đó
là
do
vị
nào
viết
ra. Như
vậy
th́
linh
hồn
bà
HPB
đi
đâu
trong
những
lúc
đó, khi
mà
các
ngài
thay
phiên
nhau
mượn
xác
của
bà? Đó
là
một
vấn
đề
bí
hiểm, mà
không
phải
ai
cũng
được
nói
cho
biết. Độ
gần
hai
năm
sau
khi
bộ
sách
được
phát
hành, bà
HPB
có
giải
thích
cho
những
người
thân
quyến
trong
gia
đ́nh
bà
biết
được
điều
bí
mật
ấy: những
khi
đó
linh
hồn
bà
không
c̣n
ở
trong
xác
phàm, mà
dường
như
chỉ
quanh
quẩn
ở
gần
bên, hoàn
toàn
ư
thức
được
mọi
việc
xảy
ra, và
theo
dơi
mọi
động
tác
của
các
Nhân
Vật
khuất
mặt
đang
sử
dụng
thể
xác
của
bà.
Theo
chỗ
tôi
hiểu, th́
bà
cho
các
vị
mượn
xác
cũng
ví
như
người
ta
cho
mượn
một
cái
máy
đánh
chữ, và
xuất
hồn
đi
làm
công
tác
ở
cơi
trên
về
phần
vô
vi, trong
khi
đó
một
nhóm
các
vị
Chân
Sư
luân
phiên
nhau
sử
dụng
thể
xác
của
bà
để
làm
việc.
Khi
biết
rằng
tôi
có
thể
phân
biệt
các
ngài ( xuyên
qua
xác
phàm
của
bà
HPB ) và
nhận
ra
tính
chất
riêng
của
mỗi
vị, đến
mức
tôi
đă
đặt
cho
mỗi
vị
một
biệt
danh
để
dễ
kêu
gọi
trong
những
cuộc
nói
chuyện
riêng
giữa
chúng
tôi, các
ngài
thường
trịnh
trọng
nghiêng
đầu
hoặc
thân
mật
vẫy
tay
từ
giă
tôi
mỗi
khi
sắp
rời
khỏi
pḥng
và
nhường
chỗ
cho
vị
kế
tiếp. Đôi
khi
các
ngài
cũng
nói
chuyện
với
tôi
về
mỗi
vị
Chân
Sư
cũng
ví
như
bạn
bè
nói
chuyện
với
nhau
về
những
người
vắng
mặt, bởi
đó
tôi
cũng
được
biết
ít
nhiều
về
đời
tư
của
các
ngài.
Tôi
cũng
xin
nói
rơ
là
chí
đến
những
đấng
Chân
Sư
cao
cả
nhất
cũng
không
bao
giờ
muốn
được
suy
tôn
như
những
bậc
toàn
trí, toàn
năng
hay
không
thể
lầm
lỗi. Các
ngài
không
hề
biểu
lộ
mảy
may
ư
muốn
được
tôi
tôn
sùng, thờ
kính
hay
coi
như
thiêng
liêng
những
ǵ
các
ngài
viết
qua
thể
xác
bà
HPB,
hoặc
đọc
cho
bà
viết. Tôi
được
khuyến
khích
chỉ
nên
coi
các
ngài
như
mọi
người
thường, những
người
tuy
minh
triết hơn
và
tiến
hóa
hơn
tôi
bội
phần, nhưng
đó
chỉ
là
bởi
v́
các
ngài
đă
đi
trước
tôi
trên
con
đường
tiến
hóa
tự
nhiên.
Trước
đây, tôi
có
nói
về
những
đoạn
trong
bộ
sách “VÉN
MÀN
ISIS” do
chính
bà
HPB
đích
thân
viết
ra, những
đoạn
ấy
đương
nhiên
là
không
xuất
sắc
bằng
những
trang
do
các
Chân
Sư
viết
thay
cho
bà. Điều
ấy
rất
dễ
hiểu, v́
trước
đó
bà
HPB
không
hề
có
sự
hiểu
biết
về
loại
này, làm
sao
bà
có
thể
viết
một
cách
chính
xác
về
những
vấn
đề
siêu
h́nh, huyền
bí, đ̣i
hỏi
một
học
lực
uyên
thâm
và
những
kiến
thức
Huyền
Môn
siêu
đẳng.
Trong
trạng
thái
b́nh
thường, có
khi
bà
đọc
một
quyển
sách
nào
đó, đánh
dấu
những
phần
làm
cho
bà
chú
ư, viết
về
những
đề
tài
tham
khảo, viết
sai , sửa
chữa, thảo
luận
về
những
vấn
đề
đó
với
tôi, nhờ
tôi
viết
lại, trợ
giúp
phần
trực
giác
của
tôi, nhờ
các
bạn
Đạo
cung
cấp
tài
liệu, và
cứ
tiếp
tục
viết
với
sự
cố
gắng
tối
đa, khi
mà
không
có
một
vị
Chân
Sư
nào
xuất
hiện
để
đáp
ứng
những
sự
kêu
gọi
trợ
giúp
tâm
linh
của
bà. Lẽ
tất
nhiên, các
Chân
Sư
không
phải
lúc
nào
cũng
đến
với
chúng
tôi.
Bà
viết
rất
nhiều
và
đưa
ra
nhiều
tài
liệu
quư
giá, v́
bà
có
một
khả
năng
văn
chương
thiên
phú; những
trang
sách
bà
viết
không
bao
giờ
nhàm
chán
hay
vô
vị, và
bà
cũng
giỏi
tuyệt
luân
về
ba
thứ
sinh
ngữ
khi
nào
có
sự
trợ
giúp
quyền
năng
đầy
đủ
về
phần
thiêng
liêng. Bà
viết
thư
cho
một
thân
nhân
biết
rằng
khi
Sư
Phụ
mắc
bận
rộn
công
việc
khác, ngài
để
lại
cho
bà
một
vật
để
thay
thế, và
khi
đó, chính
“Chân
Ngă
sáng
suốt” của
bà
suy
tư
và
viết
cho
bà (GIẢ
THUYẾT
SỐ
HAI). Tôi
không
thể
có
ư
kiến
ǵ
về
vấn
đề
này, v́
tôi
chưa
từng
quan
sát
bà
trong
trạng
thái
đó. Tôi chỉ biết
rơ
bà
dưới
ba
khía
cạnh, tức
là:
1._ Trong
trạng
thái
phàm
ngă
như
một
phụ
nữ
b́nh
thường,
2._ Khi
thể
xác
của
bà
được
các
Chân
Sư
sử
dụng; và
3._ Như
một
người
biên
chép
những
ǵ
các
Chân
Sư
đọc
cho
bà
viết.
Có
nhiều
khi
bà
không
hề
bị
mượn
xác,
kiểm
chế
hay
được
đọc
cho
viết
bởi
một
vị
Chân
Sư
nào, mà
chỉ
là
bà
HPB
trong
trạng
thái
b́nh
thường, vẫn
cố
gắng
đến
mức
tối
đa
để
thực
hiện
công
tác
giao
phó
cho
bà
và
thi
hành
sứ
mạng. Tuy
nhiên, mặc
dù
có
sự
trợ
giúp
của
những
Trí
Lực
hỗn
hợp
tác
động
từ
bên
ngoài, bộ
sách
“VÉN
MÀN
ISIS” và
những
công
tŕnh
khác
của
bà
HPB
đều
có
phảng
phất
những
nét
đặc
thù
độc
đáo
biểu
lộ
cá
tính
đặc
biệt
của
bà.
CHƯƠNG CHÍN
MỘT
KHÍ
CỤ
ĐẶC
BIỆT
I
Xét
qua
những
ǵ
đă
tŕnh
bày
trước
đây, người
ta
phải hiểu
như
thế
nào
về
việc
soạn
bộ sách
VÉN
MÀN
ISIS, và
về
vai
tṛ
của
bà
HPB? Đó hiển nhiên
là
một
công
tŕnh
tập
thể, do sự đóng góp của nhiều tác giả khác nhau,
chứ không phải chỉ có một ḿnh bà HPB. Sự nhận xét riêng của tôi về vấn đề
này cũng hoàn toàn phù hợp với sự giải thích trong những bức thư của bà gởi
về cho gia đ́nh. Bà cho biết rằng tất cả những đoạn sách nói về những vấn đề
mà trước đây bà chưa hề quen thuộc, đều được một vị Chân Sư đọc cho bà viết,
hoặc do Chân Ngă của bà tác động xuyên qua bộ óc và bàn tay bà để viết ra.
Vấn đề này thật vô cùng phức tạp, và người ta sẽ không bao giờ biết rơ sự
thật về mức độ đóng góp nhiều ít thế
nào của mỗi thành phần tham dự.
Cá tính của bà HPB là cái khuôn mà tất cả mọi
chất liệu đóng góp đều được đổ vào; cái cá tính ấy do bởi những khí chất,
đặc điểm và thói tật riêng của nó, tác dộng ảnh hưởng đến phần h́nh thức và
sắc thái biểu lộ của những chất liệu này cả trên phương diện thể chất lẫn
tinh thần.
Những vị Chân Sư luân phiên nhau mượn xác bà
HPB chỉ làm thay đổi tuồng chữ của bà, chứ không viết bằng tuồng chữ riêng
của các ngài. Cũng y như thế, khi sử dụng bộ óc của bà HPB, các ngài bắt
buộc phải để cho nó tô màu những tư tưởng của các ngài, và sắp đặt những lời
lẽ ngôn từ của các ngài theo một cách thức cố định đặc biệt của nó. Cũng như
ánh sáng ban ngày đi xuyên qua những cửa kiếng màu ở các Nhà Thờ trở nên
nhuộm màu của những tấm kiếng ấy, th́ những tư tưởng do các Chân Sư chuyển
đạt xuyên qua bộ óc lạ lùng của bà HPB cũng phải bị thay đổi uốn nắn theo
cách hành văn và cách tŕnh bày tư tưởng quen thuộc riêng của bà.
Sự đồng thanh khí tự
nhiên về phương diện tinh thần trí năo giữa vị khuất mặt vô h́nh và người bị
mượn xác càng chặt chẽ mật thiết, th́ sự kiểm chế càng dễ dàng hơn, văn
chương lưu loát hơn, và bút pháp cũng điêu luyện hơn. Một thí dụ diển h́nh
là tôi nhận thấy rằng những khi bà HPB lâm vào trạng thái nóng nảy đến cực
điểm, th́ các Chân Sư ít khi mượn xác bà để làm việc trừ ra Sư Phụ của bà,
v́ ư chí sắt thép của ngài c̣n mạnh mẽ hơn bà nhiều, c̣n những vị khác hiền
ḥa hơn th́ luôn luôn tránh né chứ không lại gần.
Lẽ tự nhiên, tôi hỏi rằng
tại sao các Chân Sư không dùng biện pháp thường xuyên chế ngự cái khí chất
táo tợn của bà, để làm cho bà luôn luôn trở thành một nhà hiền giả điềm đạm,
trầm tĩnh như những khi bà được đặt dưới sự kiểm chế của vài đấng Cao Cả.
Tôi được trả lời rằng một biện pháp như vậy chắc chắn sẽ làm cho bà chết bất
ngờ v́ đứt gân máu trong óc. Thể xác của bà được sinh động bởi một tinh thần
dũng mănh táo cấp, một tính khí bạo tợn không hề bị kềm chế từ khi c̣n nhỏ,
và nếu cái khí lực thặng dư thái quá đó không được để cho có lối thoát ra
ngoài, th́ điều ấy hẳn phải đưa đến một hậu quả khốc hại.
Đó là cái khí chất độc đáo của bà HPB, và bà đă
có nhiều lần nói với tôi rằng bà không muốn bị chế ngự bởi bất cứ một quyền
lực nào trên thế gian hay ngoài Trái Đất! Bà chỉ tôn kính các đấng Chân Sư,
tuy nhiên thậm chí đối với các ngài, đôi khi bà cũng tỏ ra cương
cường bất khuất đến nỗi, như đă nói ở trên,
những vị có tính chất dịu dàng ôn ḥa hơn không thể, hay không chịu, đến gần
bà. Bà cũng cho tôi biết rằng việc đặt ḿnh vào một trạng thái tinh thần
thích nghi để có thể giao tiếp dễ dàng và thường xuyên với các Chân Sư, đă
đ̣i hỏi ở nơi bà một sự cố gắng tự chủ ráo riết đến mức tuyệt vọng trong
nhiều năm liên tiếp. Thật không có ai đă từng bước vào đường Đạo với những
chướng ngại khó khăn hơn và một tinh thần khắc kỷ gian lao hơn nữa.
Lẽ tất nhiên, một bộ óc
dễ bị khích động như vậy không phải là một dụng cụ thích nghi để thi hành
cái sứ mạng vô cùng tinh tế được giao phó cho bà, nhưng các Chân Sư cho tôi
biết rằng đó là cái khí cụ tốt nhất hiện hữu, và các ngài phải tận dụng mọi
khả năng của nó với sự cố gắng tối đa.
Đối với các ngài, th́ bà là hiện thân của sự trung thành và ḷng sùng tín,
sẵn sàng dám làm và dám chịu tất cả v́ đại nghĩa. Bẩm sinh với những quyền
năng thần thông thiên phú vượt trội hẳn tất cả mọi người cùng thế hệ với bà,
và với một tấm ḷng hứng khởi nhiệt thành bốc lửa hầu như đi đến chỗ cuồng
tín, bà có đủ đức tính trung kiên, bền vững, nhất tâm bất loạn. Điều này,
phối hợp với một sự dẻo dai bền bỉ về thể chất đến một mức độ phi thường,
làm cho bà trở thành một khí cụ vô cùng đắc lực, tuy rằng không phải dễ dạy
dễ bảo, và có một khí chất bất trắc dị thường.
Có một lư do tối
hậu khác v́ sao các Chân Sư không dám kềm chế bà HPB để bắt buộc tính nết bà
phải trở nên thuần thục dịu dàngtheo lư tưởng của một vị Hiền giả điềm nhiên
và trầm tĩnh. Đó là bởi v́ làm như vậy tức là can thiệp một cách bất hợp
pháp vào Nghiệp Quả cá nhân của bà.
Cũng như mọi người, bà có một số lượng nghiệp duyên ràng buộc do hậu quả của
lịch tŕnh tiến hóa của linh hồn. Chính cái Nghiệp Quả đó làm cho bà tái
sinh trở lại kiếp này với một xác thân người nữ luôn luôn khích động ồ ạt,
và như vậy bà có cơ hội đạt tới sự tiến bộ tâm linh bằng cách phải chiến đấu
trường kỳ để làm chủ lấy nó. Nếu các Chân Sư trực tiếp can thiệp vào t́nh
trạng đó bằng cách kềm hăm cái khí chất hung bạo và xóa bỏ những sự thiếu
sót khác trong tâm linh của bà, th́ việc ấy sẽ rất tai hại cho bà mà không
làm cho bà được tiến hóa thêm chút nào: đó chẳng khác nào như đặt một người
thụ cảm dưới sự chế ngự thường xuyên bằng ư chí của một nhà thôi miên, hay
đặt một người bệnh dưới ảnh hưởng tê liệt trường kỳ của chất ma túy. Có
những lúc mà thể xác của bà không được các Chân Sư mượn tạm để làm việc,
hoặc trí óc bà không
bận rộn để viết những ǵ các Chân Sư đọc cho bà
viết.
Ít nhất là tôi nghĩ như vậy, nhưng đôi khi tôi cũng nghi
ngờ rằng không một ai trong chúng tôi, là những người cộng sự với bà, đă
từng biết rơ bà HPB trong trạng thái b́nh thường! Biết đâu chúng ta chỉ có
tiếp xúc với một cái xác phàm được sinh động giả tạo, mà linh hồn đă thoát
ly đi mất trong trận chiến Mentana khi bà bị tử thương trầm trọng do năm vết
đâm hiểm nghèo bằng vũ khí sắc bén, sau đó bà được vớt xác ra khỏi một cái
hố sâu và coi như đă chết?
Giả thuyết ấy không phải là hoàn toàn vô lư,
bởi v́ có một sự
kiện lịch sử tương tự đă từng xảy ra. Đó là
trường hợp của cô Mary Reynold, mà linh hồn đă thoát xác trong khoảng thời
gian bốn mươi hai năm, trong khi đó thể xác của cô bị chiếm đóng bởi một
nhân vật khác không hề hay biết ǵ về những kinh nghiệm và kư ức của cô
trong mười tám năm qua trước khi có sự thay hồn đổi xác này.
C̣n nói về trường hợp bà HPB, tôi không cả
quyết mà chỉ lư luận thôi, v́ tôi không dám nói một cách chắc nịch rằng một
kỳ nữ như bà là ai. Bà thật là một nhân vật kỳ bí đầy những yếu tố mâu thuẫn
trái ngược, tuyệt đối không thể sắp hạng hay phân loại như bất cứ một người
nào trong chúng ta là những nhân vật thường t́nh, đến nỗi v́ bản tính thận
trọng, tôi phải dè dặt không thể đưa ra một lư luận nào có tính cách đề
quyết, khẳng định. Bất cứ điều ǵ bà đă nói với tôi hay với một người nào
khác, đối với tôi thật không đáng kể bao nhiêu, bởi v́ đă từng sống chung và
cùng đi công tác lưu động với bà những bao lâu nay, và vẫn có mặt trong bao
nhiêu những cuộc hội kiến của bà với những người khác, tôi đă từng nghe bà
kể những chuyện vô cùng mâu thuẫn về cuộc đời bà. Đó là bởi v́ một lư do
nghiêm trọng. Một thái độ dễ dăi, cởi mở với người đối thoại có thể làm cho
bà vô t́nh tiết lộ nơi cư trú và bản chất, cá tính của các đấng Chân Sư cho
những kẻ thế nhân phàm tục, mà những ư đồ riêng tư, ích kỷ cùng những sự
quấy rầy, phiền nhiễu của họ đă từng làm cho các nhà đạo sĩ Yogi phải lánh
ḿnh t́m nơi ẩn trú trên non cao rừng thẳm.
Để giải quyết sự khó khăn ấy, bà đă chọn lấy
một lối thoát dễ dàng là tự phát ngôn mâu thuẫn với ḿnh để làm cho tâm trí
người đối thoại bị hoang mang mờ mịt. Xin kể một thí dụ: Bà đă có thể nói dễ
dàng cho ông Sinnett (Phó Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học) biết rằng khi bà
t́m cách đột nhập vào xứ Tây Tạng hồi năm 1854 xuyên qua xứ Bhutan hay Népal,
bà đă bị Đại Úy (hiện nay là Thiếu Tướng) Murray, chỉ huy biên khu thuộc địa
phận ấy, bắt trở lại và đem về giữ trong nhà làm bạn với vợ ông ta trong một
tháng. Nhưng bà không bao giờ kể lại chuyện ấy, và không một ai trong số
những bè bạn thân hữu của bà đă từng nghe nói về việc này. Măi về sau, ông
Edge và tôi mới được nghe câu chuyện ấy do chính Thiếu Tướng Murray kể lại
vào ngày 3 tháng 3 vừa qua trên chuyến xe lửa từ Nalhati đi Calcutta, và tôi
đă cho đăng trong tạp chí của Hội.
C̣n nói về tuổi tác của bà, th́ bà kể đủ mọi
thứ chuyện, nó làm cho bà lên đến hai mươi, bốn mươi, chí đến sáu mươi và
bảy mươi tuổi cao hơn tuổi thật của bà. Chúng tôi c̣n giữ những thư từ văn
kiện về chuyện này do những khách viếng thăm và những phóng viên các báo
tường thuật lại sau những cuộc hội kiến riêng với bà, trong nhiều buổi diện
kiến mà chính tôi có tham dự. Để tự bào chữa, bà nói với tôi rằng những Nhân
Vật giáng lâm và ngự trong thể xác của bà trong những dịp đó đều có tuổi tác
y như thế, và thế là bà nói không có sai, trong khi người đối thoại chỉ nh́n
thấy có cái thể xác của bà và tưởng rằng câu chuyện bà nói chỉ áp dụng cho
cái xác phàm đó mà thôi!
II
Trên đây tôi có dùng chữ “ám ảnh” (obsession),
nhưng tôi biết rơ sự thiếu sót ư nghĩa của nó trong trường hợp này. Cả hai
danh từ “ám ảnh” (obsession) và “chiếm hữu” (possession) đều được dùng để
nói lên sự quấy phá một người c̣n sống bởi ma quỷ hay những vong linh bất
hảo. Một người bị ám ảnh (obsession)là người bị quấy phá, hay vây phủ, c̣n
một người bị chiếm hữu (possession) là người bị tà ma quỷ mị nhập xác, kiểm
chế, ngự trị. Tôi tự hỏi những vị cố đạo thời xưa không đặt ra một danh từ
tốt đẹp hơn để chỉ việc chiếm hữu, kiểm chế, ngự trị, hay nhập xác một người
bởi những thần linh hay vong linh tốt lành? Nhưng điều ấy không giúp cho
chúng ta được bao nhiêu trừ khi chúng ta không biết đến những trường hợp mà
đôi khi thể xác bà HPB bị những thực thể khác chiếm đóng. Câu chuyện sau đây
sẽ cho thấy đến mức độ nào.
Một buổi chiều mùa hạ, bà HPB và tôi cùng có
mặt trong văn pḥng làm việc của chúng tôi tại New York. Trời chưa tối, nên
chúng tôi chưa thắp đèn lên. Bà ngồi gần bên cửa sổ, c̣n tôi đứng. Bỗng
nhiên tôi nghe bà nói:
“Hăy nh́n xem để học”
Tôi day đầu nh́n lại và thấy một đám mây mù bốc
lên từ đầu và vai của bà. Trong chốc lát, nó tượng h́nh một vị Chân Sư, vị
này về sau đă cho tôi cái khăn bịt đầu lịch sử của ngài, nhưng lúc ấy th́
chỉ là một h́nh bóng như sương mờ. Mải chăm chú nh́n hiện tượng ấy, tôi đứng
yên không cử động. Cái bóng chỉ tượng h́nh có nửa phần trên thân ḿnh, rồi
lu mờ dần và biến mất; nó có được thu hồi trở về bên trong thể xác bà HPB
hay không, th́ tôi cũng không biết. Bà ngồi yên như pho tượng trong đôi ba
phút, sau đó bà thở dài một cái, trở lại trạng thái b́nh thường, và hỏi tôi
có thấy ǵ không. Khi tôi yêu cầu bà giải thích hiện tượng ấy, th́ bà từ
chối và nói rằng tôi phải khai mở trực giác để t́m hiểu những hiện tượng của
cái thế giới mà tôi đang sống. Bà chỉ có thể giúp đỡ bằng cách cho tôi xem
thấy những hiện tượng nọ kia, rồi để cho tôi tự t́m hiểu lấy tùy khả năng
của ḿnh.
Nhiều nhân chứng đă có thấy một hiện tượng khác
nữa, nó có thể hoặc không chứng minh rằng những thực thể khác đôi khi cũng
đă nhập xác bà HPB. Trong năm lần khác nhau, một lần để làm vui ḷng một vị
nữ khách, và một lần cho em gái tôi là Mitchell, bà HPB đă gom trên đầu một
lọn tóc mịn màu nâu lợt và dợn song của bà, rồi lấy kéo cắt và đưa cho một
người trong chúng tôi. Nhưng lọn tóc ấy khi cắt ra th́ nó lại thô cứng,
thẳng tuột và đen như huyền chứ không c̣n dợn song hay quăn chút nào, tức là
tóc của người phương Đông hay người châu Á chứ không giống chút nào như
những lọn tóc mịn như tơ, màu nâu lợt và dợn song của bà. Tôi c̣n cất giữ
hai lọn tóc cắt ra từ trên đầu bà, cả hai đều đen như huyền và thô cứng hơn
tóc bà rất nhiều, nhưng có một lọn lại thô cứng hơn lọn kia một cách rơ rệt.
Lọn trước là tóc của người Ai Cập, c̣n lọn sau là tóc của người Ấn Độ. Hiện
tượng này c̣n có cách giải thích nào khác hơn là giả thiết rằng những người
đàn ông có hai lọn tóc đó đă thật sự nhập xác bà HPB trong hai lần khác nhau
khi mà những lọn tóc ấy được cắt ra?
Vấn đề nhập xác một người c̣n sống, bởi những
người cũng c̣n sống, tuy là một việc hoàn toàn xa lạ đối với người Tây
Phương đến nỗi họ không có một danh từ nào trong ngôn ngữ của họ để chỉ việc
đó, vốn đă được biết rơ và định nghĩa ở Ấn Độ. Người Ấn gọi hiện tượng đó là
Àvesa, tức là việc chiếm hữu, nhập xác, ngự trị xác thân của một người sống.
Hiện tượng đó có hai loại: khi người đạo sĩ xuất vía ra khỏi thể xác ḿnh và
nhập vào xác một người khác, đó gọi là svarupàvesa; c̣n khi nào người đạo sĩ
dùng ư chí của ḿnh để tác động ảnh hưởng hoặc chế ngự thể xác của người
khác để làm những việc hoàn toàn vượt ra ngoài khả năng của người kia, thí
dụ như nói một tiếng ngoại ngữ chưa từng học, hiểu được những ngành học
thuật không hề quen biết, đột nhiên tàng h́nh trước mắt mọi người, biến
thành một vật h́nh thù đáng sợ, chẳng hạn như một con rắn hay
một thú dữ, v…v…, th́ đó gọi là saktyàvesa.
Cái quyền năng đó chỉ áp dụng cho sự tác động
tâm linh giữa hai người c̣n sống, hay sự “nhiếp” tư tưởng và gây nguồn cảm
hứng cho một người sống bởi một thực thể tâm linh có tŕnh độ cao hơn, chứ
nó không nên bị hạ thấp ư nghĩa để chỉ việc nhập xác một đồng
tử bởi một vong hồn người chết để tạo nên các
hiện tượng. Trường hợp sau này gọi là “gràhana”, và vong hồn người chết được
gọi là “graham”. Danh từ này cũng được dùng để chỉ việc nhập xác một người
sống bởi một TINH LINH NGŨ HÀNH. Hiện tượng này cũng có hai trường hợp khác
nhau. Sự nhập xác ấy có thể:
a) TÁC ĐỘNG TỰ NHIÊN, do sự thu hút, hấp dẫn
một tinh linh đến với người đồng tử.
b) TÁC ĐỘNG CƯỠNG CHẾ, do sự cưỡng ép bằng ư
chí của một vị
thuật sĩ hay phù thủy biết rơ những chân ngôn
thần chú để sai khiến
các loại âm binh.
Chúng tôi thấy trong Thánh Kinh Pàncharàtra
Pàdma-samhita Charyàpada của Ấn Độ, chương 24, có những huấn thị đầy đủ về
sự thực hành thuật nhập xác (Avesa) như sau:
“ Nay ta dạy cho người biết, hỡi hành giả,
phương pháp nhập xác một người khác….Cái thể xác ấy phải được tinh khiết,
tươi tốt, độ trung niên, có tất cả những tính chất tốt và không bị những
chứng ác bệnh do tội lỗi gây ra (như bệnh cùi, bệnh phong t́nh,v…v…).Xác
thân ấy phải là của người Bà La Môn hay người Kshatriya (thuộc giai cấp quư
tộc).Nó phải được đặt ở một nơi vắng vẻ,(để tránh nguy cơ bị gián đoạn trong
khi thực hành các nghi thức),mặt ngửa lên trời và hai chân duỗi thẳng. Ngồi
một bên, ngươi phải giữ tư thế YOGASANA (một tư thế của pháp môn Yoga),
nhưng trước khi đó, hỡi hành giả, ngươi phải đă có tập luyện cái quyền năng
tập trung tư tưởng vào một mục tiêu nhất định. Thần thức (jiva) vốn ngự ở
chỗ VĨ LƯ QUAN tức là Luân Xa nơi Rún (nàbhichakra), nó sáng rực như mặt
trời, có h́nh dáng như con hạc (hamsa)(*)[10]
và di chuyển dọc theo những đường vận hà Idâ và Pingala. Sau khi nó đă được
tượng h́nh con hạc(*) bằng cách tập trung tư tưởng theo pháp môn Yoga, nó sẽ
thoát ra do hai lỗ mũi, và như một con chim, nó sẽ phóng ra ngoài không
gian. Ngươi phải tập cho quen phép này, là phóng luồng Sinh
Khí
(Prâna) cho bay lên tới ngọn cây, đưa nó đi xa một dặm, hay năm dặm, hay hơn
nữa, rồi thu hồi nó trở về thể xác ngươi xuyên qua hai lỗ mũi, và trả nó lại
vị trí cũ ở Luân Xa nơi Rún. Phép này phải được tập luyện hằng ngày cho đến
khi đạt tới mức tuyệt hảo”.
Kế đó, sau khi đă sở đắc được cái bí thuật đó
rồi, người đạo sĩ có thể thực nghiệm phép nhập xác. Khi đă ngồi theo tư thế
nói trên, y mới rút luồng sinh khí (Prâna-jiva) ra khỏi thể xác y, và đem nó
vào cái thể xác đă chọn làm mục tiêu do nơi hai lỗ mũi, dẫn nó đi xuống măi
cho đến khi nó lọt vào bí huyệt vĩ lư quan hăy c̣n bỏ trống, rồi trụ nó vào
Luân Xa nơi Rún, để cho người chết được phục hồi sinh khí và làm cho người
ta thấy rằng y đă sống lại.
Mọi người đều biết câu chuyện nhà Hiền Giả
Sankarâ đă phục sinh cho cái xác chết của vua Amaraka ở thành Amritapura, do
Mâdhava, nhà chép tiểu sử của ông thuật lại. Để trả lời những câu hỏi của
Mandana Misra phu nhân về khoa học Ái T́nh, mà ông hoàn toàn mù tịt v́ ông
vẫn sống độc thân từ khi c̣n nhỏ, nhà Hiền Giả hẹn sẽ giải thích đáp trong
ṿng một tháng. Kế đó, trong một chuyến đi ngao du với các đệ tử đến gần
thành Amritapura, ông nh́n thấy cái xác chết của nhà vua đặt nằm dưới gốc
cây, giữa một đám thần dân vây chung quanh đang than khóc. Nghĩ rằng đây là
một cơ hội tốt để thâu thập những kiến thức về t́nh dục mà ông c̣n thiếu sót,
Đạo Sư Shankara bèn giao cái thể xác của ông cho các đệ tử coi sóc, rồi xuất
vía rồi nhập vào xác chết của vua, làm cho nó hồi sinh trở lại giữa sự reo
mừng của đám cận thần ở chung quanh. Kế đó, Đạo Sư được đưa trở về kinh đô,
và trong một thời gian đă trải qua cuộc sống b́nh thường của một ông vua
giữa những phi tần cung nữ trong tam cung lục viện và sau cùng ông đă giải
đáp những câu hỏi về ái t́nh.
Bộ sách SANKARAVIJAYA của nhà chép tiểu sử
Mâdhava viết như sau:
“SAU KHI RÚT LUỒNG SINH KHÍ (PRÂNA VAYU) TỪ ĐẦU
CÁC NGÓN CHÂN TRỞ LÊN CHO THOÁT RA NGOÀI XUYÊN QUA NÊ HUỜN CUNG, TỨC LUÂN XA
TRÊN ĐỈNH ĐẦU (BRAHMARÂNDHRA), ĐẠO SƯ SHANKARA MỚI TỪ TỪ, TỪNG GIAI ĐOẠN
CHẬM RĂI, NHẬP VÀO XÁC CHẾT CỦA NHÀ VUA DO NÊ HUỜN CUNG VÀ CHIẾM ĐÓNG TRỌN
VẸN TỪ ĐẦU ĐẾN CHÂN”.
Nhân dịp soạn lại tập hồ sơ cũ,tôi đă t́m thấy
một trang nhật kư cũ trong đó có ghi lại một cuộc đối thoại giữa tôi với một
vị Chân Sư có quốc tịch Hung Gia Lợi, đă mượn xác bà HPB buổi tối hôm đó.
Trang nhật kư ấy viết như sau:
“NGÀI LẤY TAY CHE MẶT VÀ HẠ THẤP BẤC ĐÈN ĐẶT
TRÊN BÀN. TÔI HỎI NGÀI TẠI SAO? NGÀI NÓI RẰNG ÁNH SÁNG LÀ MỘT MĂNH LỰC VẬT
CHẤT, NẾU ĐỂ LỌT VÀO MẮT CỦA MỘT THỂ XÁC BỊ MƯỢN TẠM, SẼ VA CHẠM ĐẾN THỂ VÍA
CỦA NGƯỜI MƯỢN XÁC, GÂY CHO NÓ MỘT SỰ KHÍCH ĐỘNG MẠNH VÀ MỘT SỨC ĐẨY ĐỘT
NGỘT ĐẾN MỨC LÀM CHO VÍA NGƯỜI MƯỢN XÁC CÓ THỂ BỊ ĐẨY BẬT RA NGOÀI. THẬM CHÍ
NÓ C̉N CÓ THỂ LÀM CHO CÁI THỂ XÁC KIA BỊ TÊ LIỆT.
KHI NHẬP XÁC MỘT NGƯỜI KHÁC, PHẢI RẤT VÔ CÙNG
THẬN TRỌNG. NGƯỜI TA KHÔNG THỂ TỰ ĐỒNG HÓA VỚI CÁI THỂ XÁC ẤY MỘT CÁCH HOÀN
TOÀN CHO ĐẾN KHI NÀO NHỮNG SỰ VẬN ĐỘNG TỰ NHIÊN VÔ THỨC CỦA NHỮNG BỘ MÁY
TUẦN HOÀN, HÔ HẤP V…V…, ĐĂ ĐƯỢC ĐIỀU CHỈNH CHO THẬT ĂN KHỚP VỚI NHỮNG ĐỘNG
TÁC TRONG CƠ THỂ CỦA NGƯỜI MƯỢN XÁC, MÀ CÁI THỂ XÁC CỦA NGƯỜI NÀY, DÙ Ở CÁCH
ĐÓ BAO XA ĐẾN ĐÂU, VẪN CÓ LIÊN HỆ VÔ CÙNG MẬT THIẾT ĐẾN CÁI THỂ VÍA ĐĂ XUẤT
RA.
KHI ĐÓ, TÔI MỚI THẮP SÁNG NGỌN ĐÈN TREO LỦNG
LẲNG TRÊN TRẦN NHÀ, NHƯNG CHÂN SƯ LIỀN CẦM LẤY MỘT TỜ NHẬT BÁO CHE TRÊN ĐỈNH
ĐẦU. TÔI NGẠC NHIÊN VÀ YÊU CẦU NGÀI GIẢI THÍCH LƯ DO, TH̀ NGÀI CHO BIẾT RẰNG
ĐỂ ÁNH SÁNG TỪ TRÊN CAO RỌI XUỐNG ĐỈNH ĐẦU LẠI C̉N NGUY HIỂM HƠN LÀ ĐỂ ÁNH
SÁNG RỌI VÀO MẮT”.
Hồi đó, tôi chưa biết ǵ về sáu bí huyệt hay
Luân Xa trong thân thể con người. Tôi cũng không biết rằng Luân Xa quan
trọng nhất trong những bí huyệt đó, tức Nê Huờn Cung (brahmarândhra), nằm ở
dưới những xương sọ trên đỉnh đầu, và ở Ấn Độ, người ta có tục lệ chọc thủng
cái xương sọ ở chỗ ấy khi đem hỏa tang xác chết để cho cái Vía người chết
xuất ra được dễ dàng. Hơn nữa, lúc đó tôi cũng chưa đọc câu chuyện Đạo Sư
Shankara xuất vía và nhập vào xác chết của ông vua xuyên qua Nê huờn Cung là
cái cửa ngơ của linh hồn.
Tôi chỉ nh́n thấy những động tác của vị Chân
Sư, và cũng chưa hiểu rơ những lời giải thích của ngài tối hôm đó, nhưng bây
giờ, với thời gian qua, điều bí hiểm đó đă được soi sáng và cả hai sự việc
xảy ra ở New York và Amritapura đều có liên hệ hỗ tương với nhau. Qua sự
việc sau này, và những giáo lư của Huyền Học Ấn Độ, người ta có thể hiểu dễ
dàng hơn điều bí mật của sự việc trước. Trước kia th́ mọi sự có vẻ tối tăm
mờ mịt, và thậm chí người ta cũng không có đến một danh từ để giải thích sự
việc ấy, nhưng nay người ta có thể thấy rằng bất cứ người nào tinh thông
pháp môn Yoga đều có thể nhập xác một người khác c̣n sống, khi mà thể Vía
của người này đă xuất ra và cái thể xác trống trơn được đặt dưới việc sử
dụng của những bạn bè thân hữu đến viếng. Tầm mức quan trọng của vấn đề này
đối với việc mượn xác bà HPB thật đă hiển nhiên, như tôi sẽ cố gắng tŕnh
bày trong phần kế tiếp.
III
Đây xin trở lại vấn đề mượn xác của bà HPB,
trong đó có một bằng chứng luôn luôn xuất hiện làm cho người ta phải chú ư.
Hăy xét trường hợp vị Chân Sư A hay B đă “giáng lâm” qua thể xác bà HPB độ
một giờ hay lâu hơn, đă viết vài đoạn trong quyển “VÉN MÀN ISIS” hoặc đơn
phương hoặc với sự cộng tác của tôi, và vào một lúc nhất định, đă nói một
điều ǵ đó với tôi hoặc với một trong những vị khách có mặt. Th́nh ĺnh, bà
(hay ngài?) ngừng nói chuyện, đứng dậy và, với một lời xin lỗi khách v́ một
lư do nào đó, bèn rời khỏi pḥng trong giây lát. Sau đó bà trở lại, dáo dác
nh́n quanh với đôi mắt bỡ ngỡ như một người lạ vừa bước vào một gian pḥng
có đông người, vấn một điếu thuốc hút, và thốt ra những lời không có liên
quan ǵ đến câu chuyện đă nói lúc năy. Bà tỏ vẻ lúng túng, không thể nối
tiếp câu chuyện đang bỏ dở, hoặc nói vài câu trái ngược hẳn với những ǵ bà
vừa mới khẳng định, và khi có người nhắc lại cho bà biết việc ấy, bà lấy làm
bực ḿnh và thốt lên những lời nói nặng nề. Hoặc khi được nhắc lại rằng hồi
năy bà đă nói như vậy như vậy, th́ bà có vẻ trầm ngâm nghĩ ngợi giây lát và
nói: “Ờ nhỉ, xin lỗi ông…”, rồi tiếp tục nói về đề tài đang bỏ dở.
Đôi khi bà có những sự thay đổi ư kiến như vậy
mau như chớp, và v́ quên đi cái cá tính đa h́nh đa dạng của bà, chính tôi
cũng đă lắm khi bực ḿnh về sự lư luận không nhất trí đó, khi bà mạnh dạn
lên tiếng phủ nhận những điều mà bà đă tuyên bố một cách chắc chắn và rơ
ràng chỉ một lúc trước đó. Lần lần, tôi được giải thích cho biết rằng sau
khi nhập xác một người khác (c̣n sống), cần phải có một thời gian ngắn để
nối liền tâm thức của ḿnh với kư ức của nhân vật vừa xuất ra trước đó, chứ
nếu không, mà cứ tiếp tục câu chuyện trước khi có sự điều chỉnh, th́ những
sự lệch lạc như trên vẫn có thể xảy ra. Điều này phù hợp với những ǵ Chân
Sư đă nói với tôi tại New York về vấn đề nhập xác, và với sự diễn tả cách
thức mà Đạo Sư Shankara nhập vào cái xác chết của vua Amaraka như đă nói
trong bộ sách SHAKARAVIJAYA(*):[11]
“…Đạo Sư Shakara MỚI TỪ TỪ, TỪNG GIAI ĐOẠN CHẬM
RĂI, nhập vào xác chết của nhà vua và chiếm đóng trọn vẹn từ đầu đến chân”.
Sự giải thích về việc điều chỉnh từ từ từng
giai đoạn những động tác sinh lư trong hai cơ thể cho điều ḥa tiết điệu và
ăn khớp với nhau c̣n nới rộng đến sự điều chỉnh của hai tâm thức, và khi nào
chưa có sự ḥa hợp hoàn toàn, th́ đương nhiên phải có sự lộn xộn về tư
tưởng, lư luận và kư ức như tôi đă diễn tả ở trên, và như phần nhiều những
vị quan khách đến viếng bà HPB đă phải lấy làm vô cùng ngạc nhiên sửng sốt.
Thỉnh thoảng, khi chỉ có hai chúng tôi trong
pḥng, th́ hoặc Nhân Vật sắp “thăng”, nói:
“Ta phải giữ điều này lại trong óc để cho vị
đến sau Ta có thể theo dơi…”,
Hoặc Nhân Vật vừa giáng lâm, sau khi chào hỏi
tôi bằng một lời thân mật, bèn hỏi tôi vấn đề đang thảo luận là vấn đề ǵ
trước khi có sự “thuyên chuyển”.
Trong những bức thư của các Chân Sư viết cho
tôi về bà HPB, các ngài thường đề cập đến cái xác phàm của bà như một cái
khí cụ mà một trong các ngài đang sở hữu và dùng tạm. Trong quyển Nhật Kư
của tôi năm 1878, tôi nhận thấy một đoạn kư sự đề ngày 12 tháng 10 do bút
tích của Chân Sư M. viết qua tuồng chữ của bà HPB như sau:
“HPB mạn đàm với W. đến hai giờ sáng. W. tâm sự
rằng y nh́n thấy nơi bà có đến BA CÁ TÍNH RƠ RỆT. Y BIẾT chắc như vậy, nhưng
không muốn nói với Olcott về việc ấy, v́ y sợ rằng H.S. Olcott sẽ chế diễu y
!!!”
Những chữ gạch đít và những chấm than đều chép
lại đúng y nguyên văn. Chữ “W.” là nói ông Wimbridge, lúc đó là khách của
chúng tôi.
Sở dĩ có đoạn văn do tay người khác viết trong
tập Nhật Kư riêng của tôi, là v́ khi tôi rời khỏi New York v́ hoạt động nghề
nghiệp, mà trong năm đó tôi phải đi vắng nhà đến nhiều lần, th́ bà HPB viết
nhật kư thay cho tôi. Cái tên “HPB” cũng phải được hiểu là những Nhân Vật
mượn xác của bà trong mỗi lần nhất định. Trong đoạn nhật kư ngày hôm sau (13
tháng 10), cũng do một bàn tay ấy viết, sau khi điểm danh bảy người khách
đến viếng thăm hôm đó, có sự ghi nhận như sau về một vị khách có mặt:
“Tiến Sĩ Pike nh́n thẳng vào mặt HPB nhiều lần,
bèn giật ḿnh và nói rằng trên đời không có ai đă gây cho y một ấn tượng lạ
lùng như thế. Có khi y nhận thấy nơi HPB một thiếu nữ độ mười sáu tuổi, có
khi đó là một bà già một trăm tuổi, một lần khác đó lại là một người đàn ông
có râu!”
Ngày 22 tháng 10, cũng một bàn tay ấy viết:
“N. (một vị Chân Sư) thăng, nhường chỗ cho S. (một
vị Chân Sư) nhập vào (thể xác bà HPB). Vị sau này đến với mật lệnh của _(*)[12]
dạy phải hoàn thành tất cả vào ngày mùng 1 tháng 12” ( để chúng tôi lên
đường sang Ấn Độ)
Đoạn nhật kư ngày 4 tháng 11, cũng một tuồng
chữ ấy viết:
“N. xuất ra, và M. giáng lâm với lệnh tối hậu
của _(*) dạy phải lên đường (sang Ấn Độ) từ ngày 15 đến 20 tháng 12 là trễ
nhất”.
Tôi cũng có nhận được nhiều thơ của các Chân Sư
nói về bà HPB với tư cách cá nhân của bà, đôi khi nói rất thành thật về
những đặc điểm của bà, cả tốt lẫn xấu. Có một lần, tôi được các Chân Sư, với
những huấn lịnh viết tay, giao sứ mạng kín cho tôi đi đến một thành phố khác
để tạo nên một vài diễn biến cần thiết cho sự tiến hóa tâm linh của bà. Tôi
vẫn c̣n giữ bức văn kiện đó.
Khi tôi đến tỉnh Rajputana năm 1879, tôi có
nhận được một bức thư rất dài của các Chân Sư. Đó là một thông điệp đầy ḷng
ưu ái, nhân từ, và nếu nó có liên quan đến cái đề mục của chúng ta bây giờ,
th́ có lẽ tôi đă công bố trong sách này, để chứng minh tính chất cao siêu
của sự trao đổi thơ từ giữa các Chân Sư với tôi trong nhiều năm liên tiếp.
Chính trong bức thơ đặc biệt đó Chân Sư đă giải đáp thắc mắc khi tôi bày tỏ
sự ước muốn rút lui ra khỏi cuộc đời thế tục và đi theo các ngài. Tôi được
trả lời rằng:
“Phương tiện duy nhất hiện có sẵn và ở trong
tầm tay con để bước đến gần Chúng Ta là xuyên qua Hội Thông Thiên Học”
Tức là cơ quan mà tôi được lịnh phải xây dựng,
củng cố và phát triển. Tôi phải tập sống hoàn toàn vô kỷ, vị tha. Chân Sư
nói thêm:
“Không một ai trong Chúng Ta sống cho riêng
ḿnh, mà tất cả đều sống cho nhân loại”.
Đó là cái tinh thần rốt ráo, tối hậu, chứa đựng
trong tất cả những lời giảng dạy của Chân Sư gởi cho tôi, và đó cũng là cái
lư tưởng xuất hiện bàng bạc khắp nơi trong bộ sách “VÉN MÀN ISIS”.
Giáo lư chứa đựng trong bộ sách này có thể tóm
tắt đại lược như sau:
“Con
Người có một tính chất phức tạp, gồm cả hai phương diện cực đoan, một đàng
là những thú tính thấp hèn, một đàng là tính
chất
thiêng liêng cao quư. Sự sống duy nhất chân thật và toàn mỹ, thoát ly khỏi
mọi ảo giác, ngoài ṿng tục lụy, khổ đau, bởi v́ nơi đó không có sự Vô Minh,
ấy là sự sinh hoạt tinh thần, tức của Chân Ngă.”
Bộ sách ấy giúp cho con người có một đời sống
trong sạch, cao thượng; nó giúp cho sự mở trí và khai mở ḷng từ bi bác ái
đối với muôn loài vạn vật; nó chỉ cho người đời thấy con đường Đạo diệu
huyền. Con đường Đạo ấy luôn luôn mở rộng cho những người thiện chí, khôn
ngoan và dung cảm. Bộ sách ấy cũng truy nguyên tất cả mọi kiến thức và hiểu
biết của chúng ta hiện nay đến những nguồn gốc xa xưa của thời thái cổ; nó
cũng khẳng định sự hiện diện luôn luôn hằng có từ xưa đến nay của các đấng
Chân Sư và của khoa học Huyền Môn; nó c̣n đem đến cho chúng ta một nguồn
khích lệ và một lư tưởng cao siêu để cho chúng ta cố gắng đạt tới, ngơ hầu
có thể thực hiện sự tiến hóa tâm linh của ḿnh.
Khi bộ “VÉN MÀN ISIS” vừa
xuất bản, nó đă gây khích động trong quần chúng đến mức bản in đầu tiên năm
ngàn cuốn đă bán hết sạch trong ṿng mười ngày. Tiến Sĩ Shelton Mackenzie,
một trong những nhà phê b́nh tài ba nhất thời đó, viết rằng:
“Đó là một trong những công tŕnh dáng kể nhất
về tư tưởng xuất chúng, công phu sưu tầm tỉ mỉ, và cách tŕnh bày đạo lư,
triết học bao gồm một học lực uyên thâm, quảng bá chưa từng thấy từ nhiều
năm nay”.(Phila. Press, 9.1.1887).
Nhà phê b́nh văn nghệ của nhật báo New York
Herald ra ngày 30 tháng 9 năm 1877 nói rằng:
“Những tâm hồn tự do độc lập sẽ hoan nghinh
công tŕnh mới xuất bản này như một sự đóng góp sáng giá nhất vào nền văn
chương Đạo Lư”.
Ông viết tiếp:
“Với những đặc điểm lạ lùng, những luận điệu
phong phú, táo tợn, và những đề mục dồi dào bất tận mà tác giả đă triển khai
một cách vô cùng linh hoạt và hấp dẫn, bộ sách này là một công tŕnh sáng
tạo độc đáo phi thường của thế hệ”.
Một sự kiện cụ thể là bộ sách “VÉN MÀN ISIS”
nay đă trở nên một tác phẩm cổ điển khuôn mẫu, nó đă được tái bản nhiều lần,
và hiện nay, sau một thời gian mười bảy năm đă trôi qua, vẫn đang được nhu
cầu ở khắp nơi trên thế giới. Một tác giả Mỹ đă phát biểu ư kiến mà tôi cho
là đúng nhất, khi ông nói rằng:
“Đó
là một bộ sách bao gồm cả một cuộc cách mạng tư tưởng trong đó”.
CHƯƠNG MƯỜI
NHỮNG QUAN ĐIỂM ĐỐI NGHỊCH
Như đă kể trước đây, trong những thuở ban đầu
của hội Thông Thiên Học, chúng tôi có trao đổi thư từ với những nhà trí thức
trên thế giới. Trong số đó có hai người đă trở nên những bạn thân của chúng
tôi, là C.C.Massey và Stainton Moses, mà chúng tôi c̣n lưu lại nhiều kỷ niệm
tốt đẹp.
Stainton Moses là một nhà Thần Linh Học tiến bộ
và có tŕnh độ văn hóa cao. Y bắt đầu khảo cứu về các hiện tượng đồng tử với
mục đích t́m hiểu sự thật, nhưng không bao lâu y nhận thấy rằng chính y lại
là một đồng tử mà y cũng không ngờ, và có những hiện tượng thuộc về loại kỳ
lạ nhất. Những hiện tượng ấy xảy ra bất cứ ngày đêm, dù trong lúc y chỉ có
một ḿnh hay có người chung quanh. Thế là không bao lâu, tất cả những sở đắc
về khoa học và triết lư mà y đă thâu thập được ở trường đại học Oxford đă
trở nên tan tành như mây khói, và y đành phải chấp nhận những lư thuyết mới
về vật chất và sức mạnh, về cơi thiên nhiên cũng như về con người.
Những hiện tượng của y thật vô cùng phong phú
và lạ lùng, cả về phương diện vật chất và tâm linh. Chúng phản ảnh nơi phẩm
chất thanh cao của những giáo lư mà y tiếp nhận được, và y quyết định không
tin bất cứ giáo điều nào được chuyển đạt cho y bởi những thần linh khuất mặt
trong cơi vô h́nh mà y không hiểu được một cách hoàn toàn rơ rệt.
Phần lớn những giáo lư ấy, S. Moses nhận được
bằng những cơn giáng bút tự động viết qua chính bàn tay của y. Trong khi y
đang chăm chú đọc sách hay nói chuyện, th́ bàn tay mặt của y tự động viết
liên tục trong độ nửa giờ hay một giờ, và khi y nh́n lên những trang giấy đă
viết đầy chữ, th́ thấy đó là những tư tưởng độc đáo, mới lạ, hoàn toàn khác
hẳn với những ǵ y đă tin tưởng từ trước đến nay, hoặc giải đáp thỏa đáng
những câu hỏi hay nghi vấn của y đă đưa ra trong một lần trước. Y luôn luôn
tin tưởng và tuyên bố một cách hào hứng trong những bức thư của y gởi cho
chúng tôi, rằng cái trí lực điều khiển bàn tay của y để giáng bút vốn không
phải là của y, cũng không phải là cái tâm thức của y, dù hữu thức hay tiềm
ẩn, mà chỉ là trí lực của những thực thể tâm linh hay đấng vô h́nh náo đó. Y
c̣n nói rằng y biết rơ những đấng ấy qua h́nh dáng (bằng thần nhăn), qua
giọng nói (bằng thần nhĩ), và tuồng chữ viết một cách rơ ràng không thể lầm
lẫn cũng như y biết những người c̣n sống.
Trong số những hiện tượng chung của cả hai
người, có việc làm cho những tiếng “chuông thần” reo nhẹ trong không gian;
việc sản xuất hương thơm phảng phất trong không khí; những ánh sáng chập
chờn bay lượn trên không trung, việc phóng xuất ra chữ viết trên mặt giấy
ngoài tầm tay của đương sự; việc tạo ra những loại đá quư và những vật thể
khác; âm nhạc reo trong không khí; những mùi hương lạ của Đông Phương thơm
nức mỗi khi có sự hiện diện vô h́nh của những đấng Cao Cả hay bậc đạo gia ưu
tú ở gần bên; việc S.moses nh́n thấy trong chất Tinh Quang những điểm ánh
sáng có màu xếp theo h́nh tam giác, làm thành mật hiệu của Tập Đoàn Tiên
Thánh phân bộ Á Đông; và sau cùng, là quyền năng xuất vía một cách ư thức và
trở về tái nhập vào thể xác sau một chuyến ngao du trong cơi vô h́nh. Sự
giống nhau mật thiết như vậy về những kinh nghiệm huyền linh đương nhiên là
tạo nên một sự thích thú hỗ tương mạnh mẽ giữa hai nhà thông linh ưu tú.Tự
nhiên là S.Moses rất ước mong tiếp nhận được mọi sự chỉ dẫn hay huấn thị mà
bà HPB có thể đưa ra để giúp đỡ y hiểu biết thêm về thế giới vô h́nh và hoàn
toàn làm chủ cái tính chất thông linh của y, mà sự huấn luyện tâm linh hoàn
bị trên đường Đạo bắt buộc cần phải có.
II
Thật không ǵ trái ngược nhau cho bằng những
quan điểm của các nhà Thần Linh Học Tây Phương và của người Đông Phương nói
chung về vấn đề giao tiếp với người chết. Người Tây Phương khuyến khích
những việc đó, và thường cố gắng phát triển khả năng đồng tử của chính họ
hay của những người trong gia đ́nh họ để làm tṛ tiêu khiển mua vui. Họ ủng
hộ nhiều tạp chí thần linh học và xuất bản nhiều sách vở để tŕnh bày và lư
luận về những hiện tượng của họ, và dẫn chứng những hiện tượng này như là
nền tảng khoa học của lư thuyết về cuộc đời sau.
Người Đông Phương, trái lại, coi việc giao tiếp
với người chết như một sự đọa lạc của linh hồn, có tác dụng vô cùng tai hại
đối với người chết lẫn người sống, làm ngăn trở sự tiến hóa tự nhiên của
linh hồn và làm tŕ hoăn sự giác ngộ tâm linh. Ở các nước Âu Mỹ, người ta
thường gặp trong các buổi họp đàn những người thuộc đủ mọi thành phần, những
người có học thức, thanh cao, sang trọng, tinh khiết, cũng như những đối
tượng trái ngược lại. Ở phương Đông, như ở xứ Ấn Độ nói chung những người
đồng tử và các nhà phù thủy chỉ được sự bảo trợ của những người thuộc giai
cấp hạ tiện (pariah) và bất khả tiếp xúc. Ở phương Tây vào thời buổi hiện
đại, người ta thường tỏ
vẻ vui mừng thay v́ lo buồn khi họ phát hiện ra một đồng tử trong gia đ́nh
họ, c̣n ở Ấn Độ nó bị coi như một điều ô nhục, một tai họa, một điều mà họ
phải lấy làm bi thảm và giải trừ càng sớm càng hay.
Tất cả các dân tộc Đông Phương, gồm người Ấn
Giáo, Phật Tử, Hỏa Giáo, Hồi Giáo, thảy đều đồng một quan niệm về vấn đề này
do ảnh hưởng của truyền thống tổ tiên cũng như do những giáo lư chứa đựng
trong các Thánh Kinh của tôn giáo họ. Không phải chỉ có sự giao tiếp với
người chết mới bị ngăn cấm mà thôi, mà luôn cả việc phô trương những phép
tắc thần thông do sở đắc tự nhiên hay do sự phát triển nhờ công phu tu
luyện.
Bởi vậy, người Bà La Môn Ấn Độ sẽ nh́n bằng cặp
mắt không tán thành những hiện tượng mầu nhiệm của Stain-ton Moses, nhà đồng
tử trí thức, cũng như của HPB, nhà phương sĩ có bản lĩnh cao cường. Không
cần biết đến sự t́m ṭi khảo cứu các vấn đề thông linh như một nhu cầu thúc
đẩy trên phương diện trí thức, và vốn có những h́nh thức tôn giáo dựa trên
căn bản tinh thần họ không đặt vấn đề lấy những hiện tượng thần thông làm
bằng chứng cho sự bất tử của linh hồn. Trái lại, họ ghê tởm người đồng tử bị
ám ảnh như một sự ô uế tâm linh, và bớt kính trọng những người có quyền năng
thần bí, nhưng lại đem ra phô trương, biểu diễn trước mắt mọi người.
Sự phát triển những quyền năng thần bí là hậu
quả tự nhiên của công phu tu luyện. Có tám thứ quyền năng loại cao (Ashta
Siddhis) thuộc về tŕnh độ tâm linh siêu đẳng, là sở đắc của các vị đạo
sĩ chân tu bên Chánh Đạo. Ngoài ra, c̣n có mười tám thứ quyền năng (hay
nhiều hơn nữa) thuộc về cơi trung giới và hạ giới hồng trần, là sở đắc của
những thuật sĩ hay phù thủy bên Bàn Môn Tả Đạo.
Như vậy, người ta sẽ nhận thấy rằng trong khi
những hiện tượng thần thông của bà HPB làm cho những đệ tử và bạn bè thân
hữu Tây Phương của bà thán phục và tôn sùng, và gây nên sự hoài nghi lẫn ác
ư của những kẻ đối nghịch, th́ chính những sự biểu diễn đó hạ thấp bà trong
dư luận của những đạo gia và học giả chính thống của Ấn Độ và Tích Lan, như
là dấu hiệu của tŕnh độ tâm linh thấp kém. Đối với họ, không hề có nghi vấn
nêu ra về sự thật của các hiện tượng, v́ tất cả những sự huyền linh ấy đều
đă được thừa nhận và ghi chép trong các Thánh Kinh của họ. Đồng thời, trong
khi sự biểu diễn những hiện tượng thần thông trước công chúng bị chỉ trích,
lên án, th́ một mặt khác, khi người ta được biết rằng một vị đạo sư có những
quyền năng thần bí, điều ấy lại càng làm tăng thêm giá trị của ông ta như
những dấu hiệu của sự phát triển tâm linh thật sự. Nhưng quy luật chung vẫn
là một bậc đạo sư không nên đem phô trương những quyền năng của ḿnh dẫu cho
trước mặt các đệ tử, trừ phi họ đă đạt tới một tŕnh độ tâm linh vững chắc
để có thể hiểu được mọi điều lợi hại của vấn đề.
Trong thiên Tiểu Phẩm (Kullavagga)
của Phật Giáo, có tường thuật chuyện sau đây:
Một vị phú thương ở Vương Xá
Thành cho người treo một cái chén đẽo bằng cây mộc hương trên ngọn cây tre
để làm giải thưởng cho vị Sa Môn hay Bà La Môn nào có quyền năng khinh thân
lên cao để lấy cái chén ấy xuống. Một vị sư tăng danh tiếng tên là Pindala
Bharadvaga nhận cuộc thử thách, bèn chuyển ḿnh vượt lên không trung, bay
lượn ba ṿng trên thành Vương Xá rồi gỡ lấy cái chén từ trên ngọn cây tre
đem xuống đất. Công chúng đứng xem bèn hoan hô inh ỏi và lấy làm bái phục
nhà sư. Việc ấy đến tai Đức Phật, ngài bèn triệu tập một buổi họp riêng với
các đệ tử và quở trách Pindala như sau:
“Nhà ngươi đă làm một việc vi phạm luật lệ
nhà chùa: Đó là một hành động bỉ ổi, bất nhă, không xứng đáng với một vị Sa
Môn. Cũng như một gái điếm bán ḿnh v́ một đồng tiền xấu xa nhơ nhớp, nhà
ngươi đem phô trương phép thuật thần thông cũng chỉ v́ một cái chén gỗ bẩn
thỉu, đê tiện. Việc ngươi đă làm chẳng những không cải hóa được những kẻ
chưa quy y Phật Pháp, hay làm cho những kẻ đă quy y Phật Pháp càng tang thêm;
mà trái lại, nó làm cho những kẻ chưa quy y vẫn không chịu quy y , c̣n những
kẻ đă quy y Phật Pháp th́ trở lại hoàn tục!”
Kế đó, Phật mới đưa ra
một kỷ luật nghiêm nhặt: “Hởi các t́ kheo, các ngươi không bao giờ được biểu
diễn phép thần thông trước công chúng nữa”.
Cũng trong thiên Tiểu Phẩm, có chỗ nói rằng nhà
sư Devadutta bị ngăn trở trên đường tu luyện tới quả vị La Hán bởi v́ ông ta
đă đạt được vài quyền năng hạ cấp, rồi lấy làm măn nguyện và tưởng rằng ḿnh
đă đạt tới tuyệt đỉnh trên đường Đạo. Trong bản luận kinh Yoga Sutra của
Patanjali, nói về sự phát triển quyền năng thần bí, Tiến Sĩ R.Mitra viết:
“Những
phép thuật thần thông diễn tả trong kinh ấy đều là những điều phàm tục,
chúng được nhu cầu v́ mục đích thỏa măn những ước vọng phàm trần, nhưng hoàn
toàn vô ích cho sự công phu thiền định ở cấp bậc thượng thừa, v́ hành giả
nhắm sự cô lập làm mục tiêu. Những phép tu luyện ấy không những là vô ích,
mà c̣n là những chướng ngại thật sự, v́ chúng làm quấy động sự yên lặng tĩnh
mịch trong cơn tham thiền”.
Người ta thường không hiểu rằng sự phát triển
những năng khiếu thần thông có một mối quan hệ đối với Chân Ngă cũng giống
như sự liên hệ của năm giác quan đối với phàm ngă con người. Cũng như người
ta phải tập chế ngự giác quan cho bớt bị loạn động và bớt nhiễm trần, để tập
trung mọi tư tưởng vào một vấn đề khoa học hay triết học thâm sâu, th́ cũng
y như thế, người hành giả theo pháp môn tu huệ để đạt tới Minh Triết phải
kiểm chế những tác động của các năng khiếu thần nhăn, thần nhĩ,v..v…để giữ
cho được nhất tâm bất loạn và thẳng tiến đến mục đích, thay v́ để tư tưởng
vẩn vơ đi lạc vào những lối rẽ, khúc quanh của chốn mê đồ mờ mịt do những
năng khiếu thần thông ấy vừa hé mở cho y. Xưa nay tôi chưa hề thấy điểm ấy
được vạch rơ bao giờ, tuy vậy đó là một điếu tối quan trọng mà người ta phải
biết.
V́ không biết cái định luật tâm linh đó, nên
các nhà linh thị như Swedenborg, Davis, các vị Thánh Gia Tô và những tu sĩ
linh thông của tất cả các tôn giáo khác đều đă bị kinh ngạc, sửng sốt, lảo
đảo,ngây ngất như điên như dại khi những linh ảnh xuất hiện và diễn ra trước
mắt họ như cuốn phim chiếu trên Tiên Thiên Khí Ảnh. Những sự vật mà họ nh́n
thấy trong cơi vô h́nh thật khó phân biệt thực hư, chân giả; thường th́ họ
lấy giả làm chân, lấy hư làm thực, thế rồi họ phát ngôn những lời tiên tri
vụn vặt về thời thế, những mặc khải giả tưởng về tương lai, đưa ra những lời
khuyến cáo sai lầm, những pháp môn giả tạo và những giáo điều lệch lạc làm
mê hoặc ḷng người.
Người Á Châu thường tụ
tập chung quanh một người có hoặc nghe đồn là có phép thuật thần thông, với
những mục đích thật ích kỷ: muốn có con cầu tự v́ vợ nhà hiếm hoi không sinh
đẻ; muốn được chữa khỏi bệnh, thường là do hậu quả của những thói hư tật
xấu; mong t́m thấy lại của đă mất; muốn được sự ưu đăi của chủ nhân; và muốn
biết việc tương lai. Họ gọi việc ấy là
“cầu xin Thánh Tổ ban phước lành”, nhưng không ai bị phỉnh lừa bởi những
ngôn từ kiểu cách ấy, và có đến chín mươi chín phần trăm trường hợp những
tín chủ ra về trong cơn thất vọng.
Với kinh nghiệm riêng của tôi, tôi cũng đă có
dịp biết cái tinh thần thấp kém của hạng người này. V́ trong số hằng ngh́n
bệnh nhân đau khổ rên xiết mà tôi đă chữa khỏi hoặc làm cho bệnh được thuyên
giảm trong những cuộc khảo sát thực nghiệm về phép truyền nhân điện của tôi
hồi năm 1881, tôi ngờ rằng không biết có được một trăm người đă thật sự biết
ơn. Trước khi năm ấy kết thúc, tôi đă do kinh nghiệm thực tế mà biết rơ cái
tâm trạng của người đạo sĩ và y có những cảm nghĩ ra sao về việc biểu diễn
những phép thuật thần thông.
Thật vậy, kinh Sambita của Ấn Độ nói rằng vị
Đạo Sư chân chính không phải là người dạy ta khoa học vật lư, đem cho ta
những khoái lạc trần gian, huấn luyện cho ta có những quyền năng thần bí, v́
tất cả những thứ đó đều là những nguồn gốc phát sinh ra đau khổ phiền năo.
Trái lại, bậc Đạo Sư chân chính là người chỉ dẫn cho ta thấu triệt Chân Lư (Brahman).
Các Thánh Kinh khác của Ấn Độ như kinh
Upanishad cũng dạy rằng tuy người đạo sĩ Yogi có thể dùng quyền năng của
ư chí để sáng tạo hay hủy diệt các bầu thế giới, kêu gọi các bậc thần tiên ở
cơi Trời đến với y, thưởng thức niềm phúc lạc yên tĩnh của Thượng Đế không
hề suy giảm, nhưng y phải tránh tất cả những việc vô nghĩa đó như có khuynh
hướng tăng cường ư thức cách biệt (với tha nhân) và làm ngăn trở, chướng
ngại cho sự giác ngộ tâm linh. C̣n nói về việc tự nguyện giao tiếp với những
vong linh ở cơi Trung Giới, kêu gọi sự giúp đỡ và chịu khuất phục dưới mệnh
lệnh của chúng, th́ không một người Đông Phương nào có trí óc lành mạnh và
kiến thức sâu xa thèm nghĩ đến.
Trong Thánh Kinh “Chí
Tôn Ca” (Bhagavad Gita), đức
Krishna nói:
“Những kẻ nào tôn sùng các vị thần linh, sau
khi chết sẽ về cơi giới thần linh; kẻ thờ cúng tổ tiên sẽ về với tổ tiên; kẻ
thờ cúng ma quỷ sẽ đi theo ma quỷ. Chỉ có những kẻ nào tôn sùng Ta (tức là
những người tầm Đạo, hướng về sự giác ngộ tâm linh cao cả) mới trở về với
Ta”.
Như thế, chúng ta thấy rằng theo quan niệm
người Ấn Độ, một người như bà HPB sẽ được kính nể v́ có quyền năng siêu
đẳng, nhưng lại bị chê trách về việc biểu diễn các phép thuật thần thông.
C̣n một người như Stainton Moses th́ bị họ khinh rẻ như một đồng cốt của các
loại vong linh thấp kém, dù cho y có những khả năng trí thức tốt, có văn hóa
cao ở cấp bậc Đại Học, và dẫu cho y có những ư đồ trong sạch và vô tư đến
đâu.
Trên đây là quan điểm của người Á Đông nói
chung. Riêng phần tôi, tôi là một người Tây Phương hoàn toàn về cách nhận
xét những hiện tượng nhiệm mầu của bà HPB và của Stainton Moses. Đối với tôi,
những sự việc ấy rất vô cùng quan trọng như những bằng chứng của sự sinh
hoạt tâm linh và như những vấn đề khoa học c̣n cần phải giải đáp. Tuy tôi
không thể giải đáp sự bí hiểm về tính chất phức tạp đa diện của bà HPB, tôi
tin chắc rằng những mănh lực tác động trong người bà và hỗ trợ cho bà làm
các hiện tượng, vốn được sử dụng khéo léo bởi những người c̣n sống biết rơ
khoa Tâm Linh, và cả khoa học thực dụng các chủng loại tinh linh ngũ hành.
Nói về trường hợp của Stainton Moses, th́ cũng có một sự bí hiểm tương tự. Y
tin chắc rằng những vị danh sư khuất mặt của y mệnh danh là “Imperator”,
v…v… tất cả đều là những linh hồn người đă bỏ xác, trong số đó có vài người
của những thế hệ rất cổ xưa, có người của thế hệ tương đối ít xưa hơn, nhưng
tất cả đều là những bậc hiền minh, thánh triết. Những vị ấy không những cho
phép, mà c̣n khuyến khích y nên sử dụng lư trí để tự vạch con đường tiền bộ
tâm linh của ḿnh. Với một sự kiên nhẫn vô biên, họ trả lời những câu hỏi và
giải đáp những điều thắc mắc nghi ngờ, giúp y phát triển trực giác tâm linh
và trợ giúp y xuất vía được dễ dàng. Bằng vô số những hiện tượng lạ lùng họ
chứng minh cho y thấy rơ đặc tính của vật chất và sức mạnh, và khả năng kiểm
soát các hiện tượng thiên nhiên. Hơn nữa, họ c̣n dạy cho y biết rằng việc
truyền Đạo giữa đạo sư và đệ tử vẫn từng có ở khắp nơi trong càn khôn vũ trụ,
trong những giai đoạn tuần tự phát triển trí tuệ và tâm linh, cũng giống như
cách giáo dục ở các nhà trường v…v…
III
Theo Huyền Học Ấn Độ, người hành giả muốn thực
hành pháp môn Thiền Định, phải áp dụng một phương pháp chuẩn bị gồm có ba
nghi thức: tẩy trần; gián đoạn mọi sự liên lạc từ điển với cơi trung giới;
và cô lập hóa các loại âm binh lởn vởn ở nơi ấy.
1_ Trước hết là nghi thức tẩy trần: Chỗ ngồi
phải được rửa sạch, và rải lên trên một lớp cỏ
Kusa, một loại thảo mộc có tác dụng hấp dẫn những tinh linh tốt lành
và xua đuổi ảnh hưởng xấu của những vong linh bất hảo. Trong những loại cây
có ảnh hưởng xấu mà người ta tin rằng thường hay quy tụ những vong linh và
âm binh bất hảo, có cây me và cây đa. Những vong linh bất hảo này cũng
thường hay tụ tập ở những nơi giếng cũ, nhà bỏ hoang, các nghĩa địa, nơi
thiêu xác, băi chiến trường, ḷ sát sinh, nơi hành quyết và những nơi xảy ra
án mạng giết người hay những vụ đổ máu. Đó là sự tin tưởng của người Ấn Độ.
2_ Nghi thức kế đó là niệm thần chú để xua đuổi
các loại âm binh lánh đi nơi khác. Trong khi niệm chú, hành giả dùng bàn tay
khoát nhiều lần trên đầu, để tạo một ṿng rào từ điển chung quanh ḿnh, có
tác dụng bảo vệ y chống lại mọi sự xâm nhập của những ảnh hưởng bất hảo.
3_ Sau khi đă thi hành một cách cẩn thận và nghiêm túc
hai nghi thức tối cần kể trên, mà hành giả không bao giờ được quên lăng hoặc
làm một cách cẩu thả, chừng đó y mới đọc những câu chân ngôn có tác dụng
thanh lọc thể xác lẫn tinh thần, và chuẩn bị cho sự nhập thiền nhằm mục đích
thức động những khả năng tâm linh và đạt tới sự giác ngộ. Một chỗ ngồi thanh
tịnh, không khí trong sạch, tránh xa những người vật chất, nặng trược, ô uế,
những kẻ vô luân, vô đạo, vô thiện cảm, tất cả đều là cần thiết cho người
tầm Đạo.
Những lời khuyến cáo của “Imperator” (vị hướng
dẫn tâm linh khuất mặt của S. Moses) và của các vị thần linh hộ tŕ cho
những đàn cơ chọn lọc ở khắp nơi trên thế giới, cũng đều phù hợp với những
quy luật Đông Phương kể trên. Nói tóm lại, những quy luật pḥng vệ ấy càng
được áp dụng chặt chẽ, th́ những lời giáng ngôn tiếp nhận được càng thanh
cao siêu việt hơn. Những cử chỉ và ngôn ngữ thô tục, khả ố cùng những thông
điệp có lời lẽ xấu xa bỉ ổi thường diễn ra trong nhiều đàn cơ với những đồng
tử thiếu sự che chở và thiếu chuẩn bị, giữa những cử tọa gồm những thành
phần hỗn tạp, xấu tốt lẫn lộn, đều có thể truy nguyên từ việc xao lăng,
không áp dụng cẩn mật chặt chẽ những quy luật bảo vệ nói trên. T́nh trạng
này đă được cải tiến lần lần trong ṿng mười bảy năm qua. Những đồng tử nặng
trược và những hiện tượng vật chất đang lần hồi bắt đầu nhường chỗ cho những
h́nh thức sinh hoạt thông linh cao siêu hơn.
Những quan điểm của “Imperator” về những họa
hoạn của những đàn cơ ô trược, hỗn tạp, đă được phản ảnh trong những tác
phẩm của ông Stainton Moses. Ông thừa hiểu rằng những kinh nghiệm thu thập
được trải qua nhiều thế kỷ, hẳn đă giúp cho người Đông Phương biết được điều
chân lư này, là luồng thanh điển thiêng liêng không thể nào đi xuyên qua một
đồng tử thấp hèn và một ṿng cử tọa ô trược mà không bị ô nhiễm, cũng ví như
gịng nước suối trong lành đi xuyên qua một cái b́nh lọc dơ bẩn sẽ không thể
nào c̣n được tịnh khiết như lúc ban đầu. Bởi đó, họ áp dụng những quy luật
nghiêm khắc và chặt chẽ để cô lập hóa người đồng tử khỏi mọi ảnh hưởng xấu
xa tai hại, và để chuẩn bị cho sự tinh luyện cá nhân của y đến mức hoàn hảo.
Không biết một chút ǵ về
những điều lợi hại trên đây, người Tây Phương thường tự họ đi và c̣n đem
những con cái non nớt và nhậy cảm của họ đến những nơi họp đàn bao phủ trong
một bầu không khí hắc ám ô trược và sặc mùi tội lỗi. Khi nh́n thấy cái hiểm
họa đó, người ta có thể thấy rằng lời khuyến cáo và chỉ trích nghiêm khắc
của Imperator, vị hướng dẫn vô h́nh của S. Moses, thật đúng là dường nào khi
ông nói về sự khờ dại của người Tây Phương dối với vấn đề giao tiếp với
những vong linh người chết.
T́nh trạng cải tiến nói trên chính là do kết
quả tốt lành mà những sách vở và giáo lư Thông Thiên Học của Hội chúng ta đă
gây nên trong các giới đồng tử và các pḥng họp đàn, hơn là do ảnh hưởng
trực tiếp của các diễn giả, tác giả và chủ bút của các báo chí. Chúng ta hăy
hy vọng rằng không bao lâu, những quan điểm Thông Thiên Học về các giới Tinh
Linh Ngũ Hành và vong linh người chết sẽ được người ta dành cho một sự lưu ư
và quan tâm xứng đáng.
CHƯƠNG MƯỜI MỘT
HỘI QUÁN THÔNG THIÊN HỌC TẠI NỮU ƯỚC
Lịch sử thuở ban đầu của hội Thông Thiên Học đă
được tường thuật khá đầy đủ. Tôi không thấy có ǵ cần nói thêm trừ ra việc
hoàn chỉnh lại những kư ức đă qua với vài mẫu chuyện vặt về đời sống xă hội
của chúng tôi tại New York cho đến ngày chúng tôi lên đường sang Ấn Độ.
Trong thời gian từ khoảng cuối năm 1876 cho đến
cuối năm 1878, Hội Thông Thiên Học có vẻ tương đối bất động; những Điều Lệ
của Hội đă trở nên vô hiệu lực, những buổi họp đă hầu như không c̣n tiếp tục.
Những buổi sinh hoạt ít oi của nó trước công chúng đă được diễn tả trên đây,
và những dấu hiệu tăng gia ảnh hưởng của Hội được phản ảnh nơi sự tăng gia
số lượng thư từ giao dịch của hai nhà Sáng Lập với các giới trong nước và
ngoài nước, những bài vở tranh luận đăng trên các báo chí, sự thành lập các
Chi Bộ ở Luân Đôn và Corfu, và việc mở đầu các mối liên hệ với những cảm
t́nh viên ở Ấn Độ và Tích Lan.
Những nhà Thần Linh Học ưu tú gia nhập Hội ngay
từ lúc đầu nay đă rút lui; những cuộc họp của Hội đă chấm dứt; tiền nhập phí
của hội viên đóng góp khi vào Hội đă bị hủy bỏ, và sự bảo quản Hội hoàn toàn
đè nặng lên hai vai chúng tôi. Tuy nhiên, lư tưởng của Hội chưa bao giờ mạnh
mẽ hơn, và chưa bao giờ phong trào Thông Thiên Học tràn đầy sinh khí hơn khi
nó cởi bỏ cái h́nh thức bên ngoài, và tinh thần của nó được tập trung vào
tim óc và tâm hồn của chúng tôi.
Đời sống tại Hội Quán(*)[13]
thật tốt đẹp trong những năm kết thúc đó. Hợp nhất trong sự trung thành v́
một lư tưởng chung, trong sự giao tiếp hằng ngày với các đấng Chân Sư, đắm
ḿnh trong những tư tưởng, ước vọng và hành động vị tha, hai chúng tôi sống
giữa thành phố náo nhiệt ồn ào đó mà không bị ô nhiễm bởi những sinh hoạt
cạnh tranh ồ ạt, những tham vọng ích kỷ thấp hèn của người đời, dường như
chúng tôi chỉ sống một cuộc đời ẩn dật trên non cao hay trong rừng thẳm.
Thật không phải là quá đáng mà nói rằng một bầu không khí thanh cao thoát
tục hơn khó mà t́m thấy nơi một nhà nào khác ở New York. Những địa vị xă hội
và danh vọng quyền thế của những quan khách đến viếng đều bị bỏ lại ở ngoài
cửa khi họ bước vào Hội Quán. Giàu hay nghèo, sang hay hèn, trí thức hay dốt
nát, tín ngưỡng hay vô thần, những khách của chúng tôi đều được dành cho một
sự đón tiếp nồng hậu và một sự chăm sóc kiên nhẫn đồng đều như nhau đối với
những câu hỏi thắc mắc của họ về mọi vấn đề tôn giáo cũng như các vấn đề
khác. Bà HPB vốn gịng dơi quư tộc nên bà có thể ḥa ḿnh một cách dễ dàng
với giới thượng lưu sang trọng nhất, và là một người phụng sự vị tha có tinh
thần dân chủ cao độ để có thể dành một sự tiếp xúc cởi mở nhiệt thành đối
với người khách khiêm tốn nhất.
Một trong những người khách của chúng tôi lúc
ấy rất sành sỏi về môn Triết Học Hy Lạp. Y làm công việc quét vôi sơn nhà v́
sinh kế. Tôi c̣n nhớ rơ bà HPB và tôi đều rất hoan hỉ khi chúng tôi kư tên
vào đơn xin gia nhập của y như những người bảo trợ tinh thần và hoan nghinh
đón nhận y vào hàng hội viên. Những người đến viếng thăm Hội Quán, mà chúng
tôi gọi đùa là “Lạt Ma Viện”, khi
trở về có viết bài đăng báo tường thuật lại những cảm tưởng của họ, và nói
rằng họ có được một kinh nghiệm mới mẻ khác thường. Phần nhiều trong số đó
viết về bà HPB với những lời lẽ ca tụng, tán dương và suy tôn quá đáng. Về
h́nh dáng bên ngoài, th́ bà không có một chút ǵ giống như một nhà tu khổ
hạnh: Bà không tham thiền trong pḥng kín, không ăn uống khắc khổ đạm bạc,
không tránh né những người trí óc nông cạn, phù phiếm hay những kẻ phàm tục,
cũng không chọn lọc bạn bè để kết giao. Bà mở rộng cửa cho tất cả mọi người,
chí đến những kẻ mà bà biết rằng họ sẽ viết về bà với những ng̣i bút đầy
xuyên tạc ác ư. Họ thường mạt sát, công kích bà thậm tệ, nhưng nếu những bài
vở ấy có tính cách ư nhị, hài hước, th́ bà thường cùng tôi đem ra làm đầu đề
để cười đùa vui vẻ thoải mái như một tṛ tiêu khiển, thưởng thức đến mức tối
đa.
Trong số các quan khách quen đến thường ngày,
có ông Curtis, một trong những phóng viên tài giỏi nhất của báo chí New
York, và về sau trở nên một hội viên Hội Thông Thiên Học. Y đă viết những
cột báo dài hằng nhiều thước về “Lạt
Ma Viện”, những bài báo của y có khi nghiêm chỉnh, có khi hài hước vui
nhộn, nhưng luôn luôn sống động, duyên dáng và hấp dẫn.
Tối hôm nọ, y đưa chúng tôi vào một cạm bẫy:
Một gánh xiếc mà y nói rằng có hai người thuật sĩ Ai Cập đang biểu diễn vài
phép thuật dường như chứng tỏ rằng họ có hiểu biết về khoa phù thủy. Dầu
sao, y muốn cho chúng tôi đến nh́n xem tận mắt và nhận xét dự việc với tư
cách là những chuyên gia đă am tường và thông hiểu về khoa pháp môn huyền
bí. Chúng tôi nghe theo và cùng đi thử xem sao. Té ra màn tŕnh diễn rất đỗi
tầm thường, và hai người Ai Cập đó chỉ là hai người Pháp chính cống; chúng
tôi đă có dịp nói chuyện dài với họ trong văn pḥng của ông Giám Đốc trong
những giờ nghỉ ngơi giữa các màn biểu diễn.
Khi ra về, chúng tôi có than phiền với ông
Curtis về sự nhận xét sai lầm của y, nhưng y làm cho chúng tôi bất giác cười
lớn khi y trả lời rằng trái lại, bây giờ y đă được tự do xoay trở và có thể
đưa ra tất cả mọi dữ kiện cần thiết để viết một bài phóng sự “giật gân”. Quả
thật, nhật báo “Thế Giới” ra sáng
ngày hôm sau có đăng một bài tường thuật nhan đề “Các
nhà Thông Thiên Học đi coi gánh xiếc”, trong đó câu chuyện khô khan vô
vị của chúng tôi với hai người Pháp được biến thành một cuộc đối thoại có
tính chất thần bí cao siêu với hai nhà đạo sĩ Ai Cập,
kèm theo với vô số những phép thuật dị kỳ,
những hồn ma hiện h́nh, những đồ vật đột nhiên xuất hiện và biến mất,
v…v…toàn thể sự việc diễn tả trong bài báo đă chứng minh, nếu không phải là
sự nhận xét chính xác ít nhất là một năng khiếu tưởng tượng vô cùng dồi dào
phong phú của người viết.
Một lần khác, y đem đến cho chúng tôi xem một
bài tường thuật trên báo về sự xuất hiện trong đêm khuya của vong hồn một
người gác đêm đă chết, dọc theo những bến tàu ở một phường khóm phía đông
thành phố, và yêu cầu chúng tôi hăy nên đi xem con ma. Y nói rằng cảnh sát
đă được lịnh báo động, và viên thanh tra cảnh sát của phường đă chuẩn bị mọi
sự để chận bắt con ma ngay đêm ấy. Quên mất kinh nghiệm trước đây về vụ gánh
xiếc, chúng tôi lại nhận lời ra đi. Đó là một đêm ảm đạm, xấu trời, chúng
tôi khoác áo tơi ngồi suốt hằng giờ trên một đống cây gỗ trên bờ sông, và
giết thời giờ bằng cách vừa hút thuốc vừa đàm luận với độ hai chục phóng
viên các báo được gởi đến để viết bài diễn tả những sự việc xảy ra trong đêm
ấy. Nhưng vong hồn lăo Shep (lăo già gác đêm) không thấy xuất hiện lần đó,
và sau cùng chúng tôi đành trở về “Lạt
Ma Viện”, bực ḿnh v́ đă lăng phí suốt cả buổi tối. Sáng ngày hôm sau,
chúng tôi bực tức vô cùng mà thấy các báo triển lăm chúng tôi như những
người loạn óc đă trông đợi những sự việc không thể có, và c̣n ngầm ngụ ư
rằng chúng tôi đă đuổi lăo già Shep đi mất để làm cho các phóng viên lỡ mất
cơ hội trong cuộc săn mồi! Thậm chí các tạp chí có h́nh ảnh c̣n đăng một bức
ảnh của hai chúng tôi đứng chung với tập đoàn phóng viên các báo, với lời
chú thích:
“Các hội viên Thông Thiên Học đang chờ đợi bóng
ma của lăo già Shep!”
coi không giống chúng tôi hơn là giống những người ở trên
Mặt Trăng!
Một buổi tối, phóng viên Curtis cũng có mặt khi
nữ bá tước Paschkoff kể một chuyện phiêu lưu mà bà với bà HPB đă cùng trải
qua ở xứ Liban, bà nói tiếng Pháp c̣n tôi dịch ra tiếng Anh. Câu chuyện rất
lạ kỳ và thú vị đến nỗi y xin phép được đăng lại, và sau khi được chấp
thuận, nó được đăng trên tờ báo của y. V́ câu chuyện này giải thích lư
thuyết về tiềm năng của chất Tiên Thiên Khí (Akasha)
có thể giữ ǵn kư ức của mọi sự diễn biến trong lịch sử loài người, và người
ta có thể sở đắc cái quyền năng làm xuất hiện trở lại những kư ức đó từ
trong cơi thiên nhiên, nên tôi ghi chép lại một đoạn dưới đây, và giao trách
nhiệm cho người kể:
“…Nữ bá tước Paschkoff nói qua lời thông dịch của Đại
Tá Olcott: Có lần tôi đi một chuyến du hành trên vùng sa mạc xứ Liban (Cận
Đông), và trên đồng cát tôi nh́n thấy một đoàn lạc đà. Đó là đoàn du hành
của bà HPB. Chúng tôi cùng cắm trại chung với nhau, ở đó có một ngôi kiến
trúc lớn tọa lạc gần làng El Marsum, giữa hai dăy núi của xứ Liban. Trên
vách đá có khắc những gịng chữ cổ tự mà không ai có thể đọc được. Tôi biết
rằng bà HPB có thể làm những việc lạ lùng với những giới thần linh, nên tôi
yêu cầu bà thử truy nguyên tung tích của ṭa lâu đài này. Chúng tôi đợi cho
đến nửa đêm, khi đó bà mới vẽ một cái ṿng tṛn lớn dưới đất và bảo chúng
tôi hăy bước vào đó. Chúng tôi đốt lửa và rắc hương trầm lên. Kế đó, bà HPB
thốt lên nhiều câu chân ngôn bí mật nghe rất lạ tai. Chúng tôi rắc thêm
hương trầm vào đống lửa. Khi đó bà cầm cây gậy phép chỉ vào ṭa lâu đài, và
chúng tôi thấy trên đó có một khối ánh lửa tṛn như một quả cầu lớn và sắc
trắng. Gần bên đó có một cây sung lớn, chúng tôi thấy có nhiều ngọn lửa nhỏ
chập chờn trên các cành cây. Những con chó rừng sủa trong đêm tối ở cách đó
một quăng không xa. Chúng tôi lại đốt thêm hương trầm. Khi đó, bà HPB truyền
lịnh
cho vị thần linh nào tọa trấn tại ngôi nhà lầu kia hăy
xuất hiện. Không bao lâu, một khối mây mù bốc lên và che khuất ánh trăng non
mờ ảo. Chúng tôi lại rắc thêm bột hương trầm lên đống củi cháy. Đám mây mù
tượng h́nh một vị lăo trượng có cḥm râu bạc, khi ấy chúng tôi nghe một
giọng nói vọng lại từ đằng xa, và phát âm xuyên qua cái h́nh ảnh lờ mờ vừa
xuất hiện. Ông lăo nói ngôi kiến trúc này xưa kia là ṭa linh điện của một
ngôi đền đă biến mất từ lâu. Ngôi đền cổ này được dựng lên để thờ một vị
thần, nhưng vị này từ đó đến nay đă đi qua một bầu thế giới khác.
Bà HPB hỏi:
“Lăo trượng là ai?”
Giọng nói kia đáp:
“Tôi là Hiero, một trong những vị tư tế của
ngôi đền.”
Khi đó bà HPB truyền lịnh cho ông lăo hăy chỉ
cho chúng tôi thấy địa điểm tọa lạc của ngôi đền như hồi đương thời. Ông lăo
cúi đầu tuân theo, và trong một lúc chúng tôi thấy xuất hiện h́nh dáng lung
linh huyền ảo của ngôi đền cổ và cảnh tượng một thành phố cổ xưa rộng lớn
mọc lên tràn khắp cánh đồng bằng diễn ra đến tận chân trời. Sau đó một lát,
cái linh ảnh biến mất, và h́nh ảnh ông lăo cũng tan mờ dần”.
(Câu
chuyện này đă được đăng trên nhật báo New York Word ra ngày 21 tháng 4 năm
1878, với cái tựa đề: “Những chuyện huyền linh”.)
II
Tuy những kinh nghiệm phũ phàng của quá khứ đă
dạy cho chúng ta biết rằng những hiện tượng thần thông chỉ là những điều
mỏng manh, vô lực, không đủ làm cái nền tảng vững chắc để xây dựng lên đó cả
một phong trào tâm linh vĩ đại, nhưng chúng cũng có một giá trị rơ rệt nếu
được đặt ở đúng chỗ và được kiểm soát chặt chẽ. Chỗ đó nằm trong phạm vi Mục
Đích thứ Ba, trong Ba Mục Đích của Hội Thông Thiên Học.
Những hiện tượng thần thông có một tầm quan
trọng bậc nhất như những bằng chứng sơ đẳng của quyền năng ư chí con người
đối với những sức mạnh vật chất thô kệch trong thiên nhiên. Trên địa hạt này,
chúng có liên hệ đến vấn đề bí hiểm của cái trí lực thông minh tác động
trong những hiện tượng đồng cốt. Tôi nghĩ rằng những hiện tượng của bà HPB
làm trong thuở ban đầu của Hội Thông Thiên Học đă đập một vố nặng nề và rơ
rệt vào cái lư thuyết mà mọi người đều tin tưởng cho đến khi đó, rằng những
thông điệp cơ bút nhận được qua đồng tử đều nhất thiết phải là của vong hồn
người chết. Những hiện tượng của bà HPB đă làm đều không có đi kèm với những
điều kiện được coi là cần thiết, mà có khi c̣n bất chấp cả những quy luật
thông thường. Những tài liệu ghi chép về những hiện tượng đó nay chỉ c̣n tồn
tại trong những bài tường thuật đăng trên các báo chí đương thời mà chúng
tôi đă cắt để dành, và trong kư ức của những nhân chứng hiện c̣n sống, họ có
thể xác nhận hoặc sủa sai những chuyện do tôi thuật lại về các sự việc xảy
ra mà chúng tôi đă cùng chứng kiến trước sự có mặt của bà HPB.
Trong những cuộc hội họp quan khách, chúng tôi
không hề có dụng ư lái câu chuyện ấy đến việc làm các hiện tượng nhiệm mầu.
Khi chúng tôi chỉ có hai người, bà HPB có thể làm một vài hiện tượng nào đó
để dẫn chứng cho một bài học mà bà dạy tôi; hoặc để đáp lại một câu hỏi của
tôi về tác dụng của một thứ mănh lực đặc biệt nào đó. Thường th́ bà làm các
phép thuật đó trong những cơn ngẫu hứng bất thần, và không do sự gợi ư của
một người nào đang có mặt tại chỗ. Tôi xin kể một vài thí dụ trong số bao
nhiêu những sự việc khác.
Một ngày nọ, một nhà Thần Linh Học người Anh đi
với con trai ông, một đứa bé độ mười tuổi, cùng với một người bạn ông đến
viếng chúng tôi. Đứa bé chơi một ḿnh và đi quanh khắp pḥng, lục lạo trong
các sách vở, xem xét những món vật lạ và đồ cổ, đánh thử trên đàn dương cầm,
và làm những tác động ṭ ṃ khác. Kế đó, nó bắt đầu nhàm chán và đ̣i về, kéo
tay áo cha nó và định làm cho ông ta gián đoạn một câu chuyện rất lư thú với
bà HPB. Người cha không hề ngăn chận sự quấy rối của nó và sửa soạn ra về,
th́ bà HPB nói:
“Không sao, nó chỉ muốn có một vật ǵ để chơi
thôi. Để tôi xem có thể nào tôi kiếm cho nó một món đồ chơi”.
Nói xong, bà đứng dậy, đưa tay sờ soạng vào một
cánh cửa ở phía sau lưng bà, và kéo ra một con trừu nhồi g̣n rất lớn dưới
chân có gắn bánh xe lăn, mà tôi biết chắc chắn là không hề có ở trong nhà
chỉ một lúc trước đó!
Trước ngày lễ Giáng Sinh, cô em gái tôi ở từng
lầu trên của “Lạt Ma Viện”, đi
xuống chỗ chúng tôi ở mời chúng tôi bước lên xem Cây Giáng Sinh mà cô đă
chuẩn bị cho mấy đứa con cô lúc ấy c̣n ngủ trên giường. Chúng tôi nh́n xem
qua một lượt các món quà, bà HPB bày tỏ sự hối tiếc rằng bà không có tiền để
mua quà tặng và đóng góp vào cái Cây cho các cháu. Bà hỏi cô em tôi đứa con
trai cưng của cô ấy thích món ǵ, và khi được trả lời là một cái c̣i thổi tu
hít kiểu lớn, bà nói:
“được rồi, hăy đợi một lát”.
Bà lấy xâu ch́a khóa từ trong túi áo ra, nắm
chặt lấy ba ch́a trong một bàn tay, và một lúc sau đó, bà cho chúng tôi xem
một cái c̣i tu hít lớn bằng sắt có khoen máng vào xâu ch́a khóa thay vào chỗ
của ba cái ch́a kia. Để làm cái c̣i này, bà đă dùng hết chất sắt của ba cái
ch́a khóa, và ngày hôm sau bà phải nhờ thợ khóa làm lại ba cái ch́a khác.
Đây là một chuyện khác nữa. Trong khoảng chừng
một năm sau khi chúng tôi định nơi cư trú tại “Lạt Ma Viện”, bộ đồ dọn ăn bằng bạc của gia đ́nh tôi được đem ra
dùng, nhưng sau cùng nó phải được gửi đi cho gia đ́nh thân quyến, và bà HPB
đă giúp tôi một tay để gói lại tất cả và cho vô thùng. Ngày đó sau bữa ăn
trưa, đến lúc dùng cà phê, chúng tôi nhận thấy không có cái kẹp gắp đường,và
khi tôi đưa cho bà cái hũ đường, tôi để thay vào đó một cái muỗng. Bà hỏi
cái kẹp gắp đường cục ở đâu, và khi tôi trả lời rằng hồi năy tôi đă gói
chung với các đồ bằng bạc kia để gửi đi, th́ bà nói:
“Nhưng rồi chúng ta cũng phải có một cái để
dùng chứ, phải không?”
Nói xong, bà đưa một bàn tay xuống một bên ghế
chỗ bà ngồi, rồi cầm lên một cái kẹp bạc có h́nh dáng lạ kỳ mà chưa ai từng
thấy bán ở các tiệm. Cái kẹp ấy có hai nhánh dài hơn kẹp thường, và hai đầu
nhánh lại có răng dài và nhọn giống như hai cái nĩa; bên trong có chỗ tay
cầm có khắc chữ mật tự, ám chỉ thánh danh của Chân Sư “M”. Tôi vẫn c̣n cất
giữ vật này tại Adyar.
Trong hiện tượng này, có sự tác động của một
định luật quan trọng. Muốn tạo ra một vật cụ thể từ cái chất liệu bằng bạc
trong không gian, bước đầu tiên là
nghĩ đến cái vật thể mong muốn, với tất cả mọi chi tiết như h́nh dáng
kiểu mẫu, màu sắc, chất liệu, trọng lượng và những đặc điểm khác. Cái h́nh
ảnh gợi trong trí phải dứt khoát rơ ràng từng chi tiết. Giai đoạn kế đó là
vận dụng Ư Chí đă được tập luyện thành thục, sử dụng kiến thức của ḿnh về
những định luật cai quản vật chất và phương pháp kết hợp các nguyên tử. Sau
cùng là sai khiến các tinh linh ngũ hành dùng chất liệu ấy để nhồi nắn thành
h́nh cái vật thể mà ḿnh muốn tạo nên.
Nếu hành giả làm thiếu sót điều ǵ trong những
sự việc kể trên, th́ kết quả sẽ không được hoàn toàn như ư muốn. Trong
trường hợp vừa kể, th́ rơ ràng là bà HPB đă lẫn lộn trong kư ức của bà những
h́nh dáng khác nhau của cái kẹp gắp đường và cái nĩa, và bà đă hỗn hợp cả
hai thứ chung lại với nhau thành một vật dị h́nh, khó tả và không thể t́m
thấy trên thị trường! Lẽ tất nhiên, việc này lại là một bằng chứng hùng biện
về tính cách chân thật của hiện tượng do bà làm, hơn là nếu bà đă tạo ra một
cái kẹp đường toàn hảo, v́ một vật như thế có thể mua được ở bất cứ nơi đâu.
Một đêm nọ, khi pḥng làm việc của chúng tôi có
đầy khách đến viếng, bà HPB và tôi ngồi đối diện nhau ở hai bên pḥng, bà ra
hiệu bảo tôi cho bà mượn cái khoen có mặt ấn lớn tṛn và chạm lơm sâu, mà
tôi đeo tối hôm ấy để buộc cái khăn choàng cổ. Bà cầm lấy nó giữa hai bàn
tay nắm chặt, không nói với ai một lời hay làm cho ai chú ư trừ ra tôi, và
xoa hai bàn tay độ một hay hai phút, kế đó tôi nghe có tiếng va chạm của hai
vật bằng chất kim loại. Bà nh́n tôi mỉm cười và x̣e hai bàn tay ra cho tôi
thấy cái khoen ấn của tôi cùng với một cái khác cũng lớn bằng nhưng lại có
một kiểu khác: cái mặt ấn này làm bằng đá huyết thạch màu xanh lục, c̣n cái
của tôi làm bằng đá hồng mă năo. Cái khoen ấy bà đeo luôn cho đến khi bà từ
trần và sau đó nó qua tay bà Annei Besant, mà hàng ngàn người đều nh́n thấy
quen mắt. Mặt đá của nó bị vỡ trong chuyến hành tŕnh của chúng tôi qua Ấn
Độ, và sau đó được thay một mặt đá khác ở Bombay. Trong trường hợp này cũng
vậy, không một lời nào trong câu chuyện giữa các quan khách đă đưa tới hiện
tượng này; trái lại, không một ai trừ ra tôi, đă biết việc ấy xảy ra, cho
đến măi về sau họ mới được kể lại cho biết.
III
Ông Sinnett (phó Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học)
trong quyển
“Những
ngẫu sự trong cuộc đời bà Blavatsky”, có viết một chuyện do ông Judge kể
lại về việc bà HPB đă tạo ra những ống màu nước cho ông dùng để vẽ một bức
họa Ai Cập. Tôi cũng có mặt trong dịp đó, và có thể xác nhận như một nhân
chứng:
Việc ấy xảy ra vào một buổi trưa tại “Lạt
Ma Viện”. Ông Judge đang vẽ cho bà một bức ảnh về một chuyện Thần Thoại
Ai Cập, nhưng không thể hoàn tất công việc v́ thiếu màu. Bà HPB hỏi ông cần
những màu ǵ, và khi được trả lời cho biết, bà bèn bước đến gần cây đàn
dương cầm đặt ở sát vách tường, rồi hai tay nâng vạt áo lên dường như để
hứng một vật ǵ. Kế đó, bà buông vạt áo và trút lên trên bàn ngay trước mặt
ông Judge mười ba lọ bột màu khô hiệu Winsor và Newton, trong số đó có những
màu mà ông cần dùng. Một lúc sau đó, ông Judge nói ông muốn có một ít sơn
vàng thật, th́ bà bảo ông hăy đi lấy một cái dĩa từ trong pḥng ăn. Ông làm
y theo, khi ấy bà mới bảo ông đưa cho bà cái ch́a khóa cửa bằng đồng, rồi bà
cọ mạnh cái ch́a khóa lên mặt dĩa. Sau đó một lát, chúng tôi thấy trên mặt
dĩa có phủ một lớp sơn vàng thật bằng chất kim loại thuần túy.
Tôi hỏi bà về tác dụng của cái ch́a khóa trong
cuộc thí nghiệm này, th́ bà nói rằng cái tinh hoa hay linh hồn của chất đồng
được cần dùng như một trung tâm hạt nhân để quy tựu từ trong chất Tiên Thiên
Khí (Akâsa) những nguyên tử của
bất cứ chất kim loại nào mà bà muốn phóng xuất. Cũng v́ lư do đó, bà đă cần
dùng đến cái khoen đồng có cẩn mặt đá của tôi làm cái khí cụ để tạo nên một
cái khoen khác cho bà dùng trong dịp trước đây.
Phải chăng đó chính là cái nguyên tắc được áp
dụng trong phép thuật luyện ch́ thành vàng và chuyển hóa kim loại của nhà
Luyện Kim thời xưa mà người ta thường nói đến? Tôi nghĩ như vậy, v́ có
truyền thuyết cho rằng cái thuật đó vẫn được biết rơ trong các giới đạo sĩ,
thuật sĩ hiện c̣n sống ở xứ Ấn Độ ngày nay. Hơn nữa, những sự khám phá gần
đây của các nhà bác học William Crookes về sự cấu tạo của các nguyên tố
(elements)(*)[14]
phải chăng đă đưa chúng ta
phải
tiến đến cái lư thuyết Âm Dương của Phương Đông? (tức
Purusha và
Prakriti
của Triết Học Ấn Độ).Và phải chăng cái lư thuyết sau này chỉ cho chúng ta
thấy rằng những nguyên tố của một thứ kim loại có thể được chuyển sang những
cách hóa hợp mới, mà kết quả là sẽ làm cho nó biến thành một chất kim loại
khác bằng cách sử dụng cái quyền năng mạnh mẽ vô địch của Ư Chí? Khoa học
Vật Lư vẫn chưa thực hiện được điều này, dẫu rằng bằng cách sử dụng những
năng lực
vô cùng lớn lao của điện khí. Nhưng điều vô cùng khó khan đối với nhà bác
học, hoàn toàn tùy thuộc nơi tác động của những sức mạnh vật chất thô kệch,
lại có thể rất dễ dàng dối với bậc Đạo Gia,
biết
sử dụng khả năng của Tinh Thần như một khí cụ tác động hữu hiệu. Thật vậy,
đó chính là cái quyền năng sáng tạo nên Vũ Trụ.
Giáo sư Crookes có nói:
“Tôi tin chắc rằng sự khảo cứu sưu tầm ráo riết
không gián đoạn sẽ được đền bù tưởng thưởng bằng một tia sáng chiếu rọi và
những điều huyền bí của thiên nhiên, mà hiện nay không ai có thể quan niệm
được”.
Nói được như thế tức là đem một điềm triệu báo
trước một ngày mai tươi sáng hơn, khi đó các nhà bác học sẽ thấy rằng phương
pháp quy nạp của họ làm tăng thêm gấp trăm lần những sự khó khan trong việc
t́m hiểu những “điều huyền bí của thiên nhiên”. Họ sẽ thấy rằng cái ch́a
khóa của tất cả mọi điều huyền bí là sự hiểu biết về Tinh Thần, và con đường
đưa đến sự hiểu biết đó đi xuyên qua một ngọn lửa c̣n dữ dằn hơn nữa, nó
được duy tŕ bằng ḷng ích kỷ, được nuôi dưỡng bằng nhiên liệu của sự đam mê,
và quạt cho bùng cháy lên bằng những cơn bạo phát của dục vọng.
Khi nào mà Tinh Thần lại được nh́n nhận như cái
yếu tố tối thượng trong sự cấu tạo các nguyên tố và trong cơ Sáng Tạo nên Vũ
Trụ Càn Khôn, th́ những hiện tượng thần thông như của bà HPB sẽ có một tầm
quan trọng tuyệt luân như những sự kiện khoa học, chứ nó không c̣n bị coi
như những tṛ ảo thuật bởi một hạng người, và bởi một hạng người khác như
những phép lạ để làm mê hoặc những kẻ khờ dại dễ tin!
CHƯƠNG MƯỜI HAI
PHÓNG ẢNH
Trong quyển “Modern Egyptians”, tác giả Lane có thuật chuyện một thanh niên đến
viếng một đạo sĩ Ai Cập và được thấy những khả năng thần thông của vị này.
Lúc ấy cha y ở xa đang đau yếu, y bèn yêu cầu đạo sĩ làm cách nào cho y nhận
được tin tức của người cha. Vị đạo sĩ bằng ḷng, bèn bảo y viết thư cho cha
để hỏi thăm tin tức. Khi người thanh niên viết xong thư, và trao cho vị đạo
sĩ, người này liền để bức thư ấy dưới cái gối dựa lưng của ông ta. Độ một
lát, vị đạo sĩ tḥ tay dưới gối cũng ở ngay chỗ ấy, lấy ra một bức thư trả
lời do chính bàn tay của người cha viết và niêm phong bằng con dấu riêng của
ông ấy. Cũng do lời yêu cầu của người thanh niên, vị đạo sĩ mời những quan
khách có mặt lúc ấy dùng cà phê. Khi dọn ra th́ cà
phê
được đựng trong những chén nhỏ loại đặc biệt của cha y thường dùng hằng ngày,
ở một làng hẻo lánh cách đó rất xa.
Một buổi tối nọ, bà HPB cũng đă làm một việc
giống y như thế. Lúc ấy, tôi đang muốn thỉnh ư một vị Chân Sư về một vấn đề.
Bà bảo tôi viết những ǵ tôi muốn hỏi, bỏ vào một bao thư dán kín, và để bao
thư ấy ở một chỗ mà tôi có thể nh́n thấy. Điều này c̣n cao tay ấn hơn thủ
thuật của vị đạo sĩ Ai Cập, v́ ông này đă dấu bức thư dưới cái gối, mà người
thanh niên kia không nh́n thấy được. Tôi bèn để bức thư lên cái kệ phía trên
ḷ sưởi, ở đằng sau cái đồng hồ, một nửa bao thư ló ra ngoài để cho tôi nh́n
thấy. Bà HPB và tôi tiếp tục nói chuyện về nhiều vấn đề trong khoảng chừng
một tiếng đồng hồ, kế đó bà nói rằng thư trả lời cho tôi đă đến. Tôi bèn lấy
cái bao thư trên kệ, nhận thấy cái bao vẫn dán kín và niêm khằng c̣n y
nguyên, trong đó là bức thư của tôi viết lúc năy, kèm theo là thư trả lời
của Chân Sư với tuồng chữ quen thuộc của ngài, bức thư này viết trên một tờ
giấy màu xanh kiểu lạ, loại giấy này theo chỗ tôi biết, không hề có ở trong
nhà. Lúc ấy chúng tôi đang ở New York, c̣n Chân Sư ở tận bên Á Châu. Hiện
tượng này thuộc về một loại mà tôi nh́n nhận rằng không thể nào có sự giả
trá, phỉnh lừa.
Một buổi tối, vào mùa thu năm 1876, bà HPB và
tôi đang ngồi đối bàn
về vấn đề xuất vía,xuất hồn. Hồi đó, v́ chưa quen thuộc với những danh từ
chuyên môn, nên sự giải thích của bà về những vấn đề khoa học không được rơ
ràng, chính xác lắm, và tôi nhận thấy rất khó hiểu. Sau cùng, bà lấy thí dụ
của Stainton Moses, người bạn của chúng tôi lúc ấy đang luyện phép xuất hồn
bằng cách dùng sức mạnh của ư chí. Bà đề nghị sẽ chỉ cho tôi thấy trong một
bức ảnh kết quả công phu tu luyện của S.M., và liền bắt tay vào việc. Bà
dứng dậy kéo trong một hộc tủ, lấy ra một cuộn vải
satin trắng, đặt trên bàn và cắt lấy một khoảnh bằng độ một trang giấy.
Kế đó, bà cất cuộn vải vào chỗ cũ, và ngồi lại bàn. Bà đặt mảnh vải
satin bề mặt úp xuống bàn, lấy một
tờ giấy thấm c̣n nguyên vẹn phủ lên trên, và chống khuỷu tay lên đó, trong
khi đó bà vấn một điếu thuốc lá, và bật diêm quẹt hút thuốc. Độ một lát bà
yêu cầu tôi đem cho bà một ly nước. Tôi tỏ ư sẵn ḷng, nhưng c̣n đưa ra một
câu hỏi để bà trả lời và để làm tŕ hoăn thời giờ, trong khi đó, tôi vẫn
chăm chú nh́n miếng vải satin ló
ra dưới tờ giấy thấm. Thấy tôi vẫn đứng yên một chỗ, bà hỏi tại sao tôi
không lấy cho bà ly nước lạnh, mà c̣n đợi ǵ nữa? Tôi nói:
“Tôi c̣n đợi xem bà sắp làm ǵ với miếng vải
satin đó”.
Bà nh́n tôi với cái nh́n trách móc, dường như
bà thấy rằng tôi c̣n nghi nan, không trọn tin để bà ngồi một ḿnh với miếng
vải satin. Kế đó, bà để hai tay
xuống tờ giấy thấm và nói:
“Tôi sẽ có ngay, ngay bây giờ!”
Nói xong, bà lấy tờ giấy thấm ra, và lật miếng
vải satin lên, bà đưa cho tôi.
Bạn đọc hăy thử tưởng tượng sự ngạc nhiên của
tôi! Trên bề mặt miếng vải, tôi thấy một bức ảnh màu thật là độc đáo, phi
thường. Đó là một bức chân dung rất khéo của Stainton Moses, gương mặt rất
giống như bức h́nh chụp của y đang treo trên tường.Từ trên đỉnh
đầu, túa ra những tia dáng như lửa có ánh vàng,
ở những nơi bí huyệt tim và rốn, cũng xẹt ra những tia lửa đỏ vàng giống như
vậy, ví như những hỏa diệm sơn phun lửa. Phần đầu và ngực bao phủ trong một
hào quang giống như đám mây trôi màu xanh dương. Rải rác lấm tấm những vệt
nhỏ màu vàng ánh. C̣n phần dưới thân ḿnh bao phủ cũng những đám mây trôi
màu hồng và xám đục, tức là những hào quang có tính chất nặng trược, thấp
kém hơn phần trên.
Hồi đó, tôi chưa biết ǵ về những luân xa (chakrams),
hay bí huyệt trong cơ thể con người, được đề cập đến trong kinh
yoga shastras của Ấn Độ, một vấn
đề quen thuộc đối với các môn đệ của Đạo Sư Patanjali. Bởi vậy, tôi không
hiểu ư nghĩa của hai con trốt xoáy bốc lửa trên chỗ tim và rốn; nhưng về sau
khi tôi đă hiểu biết về vấn đề này, th́ bức ảnh trên
Satin này càng tăng giá trị đối với tôi, v́ nó chỉ rằng nhà huyền học
nào tạo ra nó hẳn đă biết rằng trong phép Xuất Vía ra khỏi xác thân, hành
giả phải tập trung ư chí của ḿnh lần lượt nơi các luân xa hay bí huyệt, và
sự tách rời thể Vía được hoàn thành với sự luân phiên thức động mỗi luân xa
theo thứ tự trước sau.
Theo chỗ tôi hiểu, th́ Stainton Moses đă làm
cuộc thí nghiệm này như một cuộc khảo sát t́m hiểu thuộc về lư trí hơn là
một phép tu luyện tâm linh, v́ phần hào quang trên đầu y có h́nh dáng rơ rệt
c̣n những phần khác trong thể Vía của y hăy c̣n trong trạng thái lu mờ, hỗn
độn, chứ chưa ổn định để tượng h́nh một cách rơ ràng. Những đám mây màu xanh
dương chỉ tính chất tịnh khiết chứ không có sự long lanh chói rạng như cái
hào quang của một người tiến bộ tâm linh, thường được diễn tả như chiếu sáng
rạng ngời như ánh bạc. Tuy nhiên những điểm nhỏ màu vàng ánh xuất hiện rải
rác trên màu xanh dương là những điểm linh quang của tinh thần, biểu lộ
những hoài băo tâm linh; c̣n những đám mây mờ màu hồng và xám của hào quang
ở phần dưới thân ḿnh biểu lộ tính chất nặng nề ô trọc thuộc về phần thú
tính của con người. Màu xám này càng trở nên đục ngầu u tối và xám xịt khi
phần thú tính của con người phát triển trội hơn phần trí tuệ, tinh thần và
tâm linh, c̣n trong những người hoàn toàn tội lỗi sa đọa, trụy lạc đến cực
điểm, th́ theo nhận xét của những vị có thần nhăn, nó trở nên sậm đen như
mực….
Dưới đây là một trường hợp phóng ảnh khác nữa
do bà HPB thực hiện. Sau bữa ăn, chúng tôi bước qua pḥng khách và câu
chuyện xoay qua vấn đề phóng bút, phóng ảnh. Một người khách yêu cầu bà HPB
phóng ảnh cho chúng tôi xem. Bà hỏi vị ấy muốn có ảnh của ai, người khách
đáp rằng y muốn có bức ảnh của một người Yogi, người này là một vị đạo sĩ Ấn
Độ mà chúng tôi biết tên, và được các Chân Sư rất kính nể. Bà HPB bước lại
bàn giấy của tôi, lấy một tờ giấy xé làm hai phần, và giữ lấy một phần rồi
để nó xuống mặt bàn có lót một tờ giấy thấm. Kế đó, bà lấy con dao gọt lấy
một ít bụi viết ch́ để trên tờ giấy, rồi lấy tay xoa theo h́nh tṛn trên mặt
giấy độ chừng một phút, xong rồi bà đưa kết quả cho chúng tôi xem. Trên tờ
giấy là bức chân dung mong ước của người khách, ngoài ra tính cách phóng ảnh
kỳ diệu, nó c̣n là một tác phẩm mỹ thuật rất thần t́nh. Nhà chân dung họa sĩ
Mỹ nổi tiếng là Họa Sĩ Le Clear tuyên bố rằng bức ảnh này thật là độc đáo,
với một nghệ thuật siêu đẳng mà không một họa sĩ nào trong giới quen biết
của y có thể sáng tác….Người Yogi được tŕnh bày trong cơn đại định (samâdhi),
cái đầu hơi nghiêng về một bên, đôi mắt không nh́n ra ngoại cảnh mà gom vào
nội tâm, toàn thân dường như không c̣n tri giác, mà linh hồn đă phiêu diêu ở
cơi giới xa xăm nào…
Người Yogi này tên là
Tiravala, vốn là một triết gia rất
được quư trọng ở Mylapore, một làng ở ngoại thành Madras, và là vị bảo trợ
tinh thần của những người cùng đinh, hạ tiện, thuộc giai cấp “bất khả tiếp xúc” (Pariah).Về vấn đề ông ta có c̣n ở trong xác thân
hay không, tôi không thể biết chắc, nhưng theo lời bà HPB thường nói về ông
ta, th́ tôi đoán rằng ông ta c̣n sống. Tuy nhiên, điều này có vẻ khó tin đối
với tất cả mọi người, trừ ra đối với người Ấn Độ, v́ người ta nói rằng nhà
Yogi này đă từng viết ra bộ Kinh “Kural”
bất hủ của ông cách đây độ chừng một ngàn năm! Ở miền Nam Ấn, ông ta được
coi như một trong những vị đạo sĩ đă phát huệ và đắc pháp thần thông, và
cùng với mười bảy vị đạo sĩ đắc Đạo khác hiện đang c̣n sống trên các vùng
núi Tirupati và Nilgiri với sứ mạng bảo trợ, chăm sóc về phần tâm linh cho
Ấn Độ Giáo. Tuy mai danh ẩn tích, các vị ấy vẫn trợ giúp bằng quyền năng ư
chí mạnh mẽ của ḿnh, những nhà tu sĩ chân chính và những người phụng sự vị
tha v́ t́nh thương nhân loại. Ước mong ân huệ của các vị đến với chúng tôi!
Khi tôi nhớ lại việc cũ để viết tập “Hồi
Kư” này, tôi ghi nhận là trên đầu vị đạo sĩ không thấy có vẽ một hào
quang tâm linh, tuy rằng những giai thoại do bà HPB kể lại về nhà đạo sĩ đă
xác nhận quan niệm của những người Ấn Độ ái mộ ông rằng nhà Yogi này là một
vị chân tu có tŕnh độ tâm linh cao cả và đạo hạnh rất tinh thâm. Điều ghi
nhận trên cũng áp dụng cho bức chân dung đầu tiên của Chân Sư, do họa sĩ
Harrisse vẽ tại New York, trong đó cũng không thấy có hào quang. Ít nhất
trong trường hợp này, tôi có thể chứng minh là bức ảnh rất giống như thật,
cũng như những người khác đă từng có diễm phúc nh́n thấy ngài. Từ lâu, tôi
vẫn mong ước có một bức ảnh của Sư Phụ tôi để treo trong gian pḥng và để
chiêm ngưỡng nếu tôi không có diễm phúc được hội kiến với ngài trong kiếp
này. Bởi vậy, tôi đă yêu cầu bà HPB phóng họa cho tôi một bức ảnh của Chân
Sư và bà hứa sẽ làm khi có dịp thuận tiện. Trong trường hợp này, bà không
được phép trực tiếp phóng ảnh cho tôi, mà một phương pháp giản dị hơn và rất
lư thú được áp dụng: một người họa sĩ thường không phải là đồng tử hay đạo
sinh Huyền Môn, được yêu cầu họa bức chân dung của ngài cho tôi mà y không
biết y đang làm ǵ. Đó là một họa sĩ tài tử, ông Harrisse, một người Pháp và
là bạn của chúng tôi.
Một buổi tối, khi chúng tôi đang đàm luận, câu
chuyện xoay qua vấn đề Ấn Độ và ḷng dũng cảm của dân miền Rajput, bà HPB
th́ thầm nói nhỏ với tôi rằng bà sẽ yêu cầu nhà họa sĩ này vẽ chân dung của
Sư Phụ chúng tôi nếu tôi có thể cung ứng vật liệu. Trong nhà không có sẵn đồ
họa cụ, tôi mới đi đến một tiệm tạp hóa gần bên và mua một tờ giấy loại đặc
biệt cùng với vài cây viết ch́ đen và trắng. Người chủ tiệm gói chung các
món lại thành một gói đưa cho tôi qua quầy hàng, tôi trả y một đồng tiền trị
giá là một nửa đô la (năm mươi xu) và bước ra. Khi về tới nhà, tôi vừa mở
gói ra, th́ có hai đồng tiền, mỗi đồng là hai mươi lăm xu từ trong gói rơi
xuống sàn gạch! Thật rơ ràng là Chân Sư cố ư tặng cho tôi bức chân dung của
ngài mà tôi khỏi phải tốn tiền.
Khi đó, bà HPB yêu cầu họa sĩ Harrisse hăy vẽ
diện mạo của một vị tù trưởng Ấn Độ, tùy theo quan niệm của y. Người họa sĩ
nói y không h́nh dung được trong trí là phải vẽ như thế nào, và muốn đổi qua
một đề tài khác. Nhưng thấy tôi cứ khăng khăng một mực đ̣i hỏi, y mới vẽ thử
một đầu người Ấn Độ. Bà HPB ra dấu cho tôi hăy ngồi yên ở phía bên kia gian
pḥng, c̣n bà đến ngồi gần bên người họa sĩ và lẳng lặng hút thuốc lá. Thỉnh
thoảng, bà rón rén đi đến sau lưng người họa sĩ dường như để xem y làm việc,
nhưng vẫn im lặng không nói ǵ cho đến độ một giờ sau, khi bức họa đă vẽ
xong.
Tôi cám ơn nhà họa sĩ khi nhận bức chân dung,
đem lộng vào khuôn và treo trong buồng ngủ của tôi. Nhưng một việc lạ lùng
đă xảy ra. Khi bức họa c̣n ở trước mặt họa công, sau khi chúng tôi ngắm nh́n
lần cuối cùng và khi bà HPB cầm lấy để đưa cho tôi, th́ chữ kư bằng ám hiệu
của Chân Sư đột nhiên hiện trên bức ảnh. Đó là một cách biểu thị sự có mặt
và bút tích của ngài trên bức họa, và điều này càng làm tăng thêm giá trị
món quà quư báu mà ngài tặng cho tôi. Nhưng hồi đó, tôi không biết là nó có
giống Sư Phụ tôi hay không, v́ tôi chưa từng nh́n thấy ngài bao giờ. Về sau,
khi tôi được gặp ngài, tôi mới nhận thấy rằng bức họa ấy thật giống, và hơn
nữa tôi c̣n được ngài tặng cho cái khăn vấn đầu của ngài mà nhà họa sĩ tài
tử đă vẽ trong bức họa.
Đây quả là một trường hợp
chuyển di tư tưởng, do đó cái h́nh ảnh của một người vắng mặt được chuyển di
đến tâm thức trí năo của một người hoàn toàn xa lạ. Cái h́nh ảnh đó đi xuyên
qua tư tưởng của bà HPB hay không? Tôi nghĩ rằng có. Tuy nhiên, với sự khác
biệt này, là trí nhớ của bà HPB cung ứng bức chân dung cần được chuyển đi
qua trí óc của ông Harrisse, và nhờ bởi khả năng thần thông điêu luyện, bà
đă chuyển di trực tiếp mà không cần qua một vật trung gian, tức là không cần
phải vẽ trước cái h́nh kiểu mẫu trên một tấm b́a, để cho bà h́nh dung sẵn
trong trí rồi mới chuyển qua bộ óc của nhà họa sĩ.
CHƯƠNG MƯỜI BA
XUẤT HỒN, XUẤT VÍA
Tất cả những lư thuyết và suy luận về tính chất
lưỡng thể của con người, tức là nói rằng y có một Thể Vía ngoài ra cái Thể
Xác vật chất hữu h́nh, đương nhiên làm cho người ta đ̣i hỏi phải có một bằng
chứng trước khi đưa vấn đề đi xa hơn. Đối với những đầu óc duy vật, đó là
một vấn đề vượt ngoài sự thường t́nh và khó tin đến nỗi nó hầu như bị gạt
phăng đi như một việc hăo huyền, thay v́ được tạm chấp nhận như một giả
thuyết để c̣n khảo sát lại.
Thật vậy, đó là thái độ của nhà bác học trung
b́nh, và khi một nhà khảo cứu can đảm hơn người b́nh thường khẳng định điều
đó như sự tin tưởng của y, th́ y bị coi như thiếu sự dè dặt, thận trọng của
nhà bác học chân chính, chưa kể đến việc y có thể bị làm tṛ cười như một kẻ
chủ trương một lư thuyết bấp bênh, mơ hồ. Tuy nhiên, có nhiều tác phẩm rơ
ràng chính xác như của D’Assier và của những tác giả khác đă được công bố
vào những thời kỳ khác nhau, và tŕnh bày những sự kiện vững chắc không thể
chối căi, dẫu rằng khó tin đến đâu. Vấn đề này hiện nay đă được chứng minh
trên một quy mô rộng lớn bởi sự sưu tập hằng ngh́n những hiện tượng đă được
quan sát kỹ lưỡng thuộc về loại này; và nay dường như đă đến lúc mà nhà siêu
h́nh học nào không biết đến những sự kiện đó không thể được coi như một bậc
Thầy đáng tin cậy của nhân loại.
Tuy vậy, mặc dù bao nhiêu những bằng chứng dồn
dập kể trên có thể làm thỏa măn lư trí, nhưng sự thật về Thể Vía và khả năng
tách rời của nó ra khỏi Thể Xác con người chỉ có thể biết được bằng một
trong hai cách: hoặc nh́n thấy Thể Vía của một người khác, hoặc tự ḿnh Xuất
Vía và ngắm nh́n cái Thể Xác của ḿnh một cách khách quan. Với một trong hai
loại kinh nghiệm đó, người ta mới có thể nói rằng ḿnh BIẾT. và khi có đủ
hết cả hai, th́ sự hiểu biết ấy mới thật là tuyệt đối và không thể lay
chuyển. Tôi có đủ cả hai loại kinh nghiệm trên. Tôi có thể làm nhân chứng,
và chứng minh sự thật để giúp đỡ cho sự hiểu biết của các bạn đồng môn của
tôi.
Tôi chỉ kể sơ qua những trường hợp mà tôi đă
nh́n thấy bà HPB trong thể vía trên một đường phố ở New York, trong khi cái
xác phàm của bà ở tại Philadelphia. Tôi cũng nh́n thấy một người bạn khác
trong trường hợp tương tự (trong Thể Vía ở New York) trong khi y đang hoạt
động trong xác phàm nơi một tiểu bang dưới miền Nam, ở cách đó nhiều trăm
dặm. Những lần khác, tôi nh́n thấy trong một chuyến xe lửa và trên một chiếc
tàu ở Mỹ, một vị Chân Sư mà thật sự lúc ấy ngài đang ở trong xác phàm ở tận
bên Châu Á. Có lần ở tại Jummu tôi nhận được một bức điện tín của bà HPB gửi
cho tôi từ Madras, và do một vị Chân Sư đích thân cầm đưa cho tôi. Khi đó
ngài ngụy trang trong bộ y phục của một thư tín viên sở Bưu Điện tỉnh
Kashmir, và một lúc sau đó ngài đột nhiên biến mất dạng dưới ánh trăng rằm
khi tôi bước ra cửa để theo dơi động tác của ngài. Một lần nữa, trên cầu
Worli ở Bombay tôi được gặp một vị Chân Sư khác vào một buổi chiều nóng bức
khi bà HPB, bạn Damodar và tôi đang ngồi trên xe ngựa trên bờ biển để hóng
gió mát. Khi đó, tôi thấy ngài từ đằng xa đi về phía chúng tôi, ngài đến gần
một bên chiếc xe, đặt bàn tay ngài trên bàn tay bà HPB, rồi quay lưng bước
đi và th́nh ĺnh biến mất khỏi tầm mắt chúng tôi giữa con đường lót đá,
chung quanh không hề có một gốc cây, bụi rậm, hay một chướng ngại vật nào có
thể làm chỗ ẩn núp hoặc có thể che khuất h́nh dáng của ngài.
Tôi xin thông qua những sự việc kể trên và
những kinh nghiệm khác nữa, để bắt đầu kể một chuyện quan trọng xảy ra, nó
đă có những ảnh hưởng quyết định đối với cuộc đời tôi. Chuyện này đă được kể
lại ở nơi khác, nhưng nó cần được nhắc lại ở đây, v́ nó là một trong những
nguyên nhân chính đă làm cho tôi từ bỏ cuộc đời thế gian để t́m thấy quê
hương tinh thần của tôi bên xứ Ấn Độ. Bởi đó, nó cũng là một trong những yếu
tố chính của việc xây dựng nên Hội Thông Thiên Học Thế Giới.
Tôi không nói rằng nếu không có xảy ra việc
này, th́ tôi đă không đi sang Ấn Độ, v́ trong thâm tâm tôi đă muốn sang đó
từ lâu, kể từ khi tôi được biết về ảnh hưởng tinh thần của Ấn Độ đối với thế
giới, và triển vọng tâm linh của xứ ấy trong tương lai. Một niềm mong ước
cuồng nhiệt không thể dập tắt đă chiếm lấy tôi và thúc đẩy tôi đi đến giải
đất lành của các Chân Sư và các vị Phật, tức là nơi Thánh Địa của mọi mối
liên hệ nó trói buộc tôi với Mỹ Quốc, và do đó tôi đă có thể đ́nh chỉ mọi kế
hoạch cho đến khi có “dịp thuận tiện”, nó thường không bao giờ đến đối với
người diên tŕ do dự và chờ đợi thời cơ.
Tuy nhiên, sự việc nói trên đă giải quyết định
mệnh của tôi. Trong khoảnh khắc, mọi sự nghi ngờ đều tiêu tan như mây khói,
cái viễn ảnh xuất hiện rơ ràng đă chỉ đường cho tôi, và trước khi trời rựng
sáng sau một đêm không ngủ, tôi bắt đầu thảo kế hoạch và thu xếp mọi việc.
Việc ấy xảy ra như sau: Công việc soạn bộ “Vén
màn isis” đêm hôm ấy đă xong, tôi chúc bà HPB ngủ yên giấc và lui về
pḥng riêng. Tôi đóng cửa cẩn thận như thường lệ và c̣n ngồi xem sách đến
khuya; quyển sách tôi xem, nếu tôi c̣n nhớ rơ, là quyển “Du
lịch xứ Yucatan” của Stephens. Dầu sao, đó không phải là sách nói về
chuyện Liêu Trai, hay loại sách có tác dụng khêu gợi sự tưởng tượng của độc
giả cho y nh́n thấy ma quái hiện h́nh.
Tôi đang chăm chú đọc sách trong bầu không khí
im lặng. Không có việc ǵ xảy ra lúc ban chiều làm cho tôi nghĩ đến việc
nh́n thấy một vị Chân Sư trong Thể Vía; tôi không có mong muốn việc ấy, hoặc
tưởng tượng đến nó, cũng không hề có ư trông đợi chút nào cho việc ấy xảy
ra.
Th́nh ĺnh, trong khi tôi vẫn đang nh́n vào
quyển sách, tôi chợt thoáng thấy một ánh sáng nơi khóe mắt bên mặt của tôi.
Tôi day đầu
lại và làm rơi quyển sách trong sự ngạc nhiên
khi tôi nh́n thấy đứng sừng sững giữa pḥng,một người Đông Phương h́nh dung
cao lớn, ḿnh mặc áo rộng trắng, đầu bịt một cái khăn bằng lụa trắng có sọc
màu vàng lợt. Một mái tóc dài và đen huyền tḥng xuống dưới chiếc khăn chấm
đến hai vai, một cḥm râu đen chẻ hai ở phía dưới cằm theo kiểu Raijput. Đôi
mắt ngài linh động và sáng ngời, cái nh́n của đôi mắt đó vừa hiền lành vừa
như soi thấu tâm hồn tôi. Đó vừa là đôi mắt nghiêm nghị của một người dẫn
đạo và một vị quan toà nhưng lại thoảng một nét dịu hiền và t́nh thương của
một người cha nh́n đứa con đang cần sự hướng dẫn và khuyên bảo. Ngài có một
phong độ hùng tráng oai nghi, toàn thân ngài toát ra một sức sống tâm linh
cao cả và một mănh lực huyền bí phi thường, nó làm cho tôi cảm thấy mất b́nh
tĩnh trước mặt ngài, tôi vừa cúi đầu vừa quỳ xuống đất đảnh lễ một cách tự
nhiên như người ta chiêm bái một vị thần thánh hay một đấng Thiêng Liêng cao
cả.
Ngài đặt nhẹ một bàn tay trên đầu tôi, một
giọng nói vừa êm dịu vừa hùng tráng bảo tôi hăy ngồi dậy, và khi tôi ngẩng
mặt nh́n lên, th́ ngài đă ngồi an tọa trên một chiếc ghế ở bên kia bàn. Ngài
nói rằng ngài đến đây trong khi tôi đang gặp cơn khủng hoảng và cần đến
ngài; rằng những việc làm của tôi
đă đưa tôi đến điểm đó; rằng tôi
có trọn quyền tự do quyết định việc ngài với tôi sẽ thường gặp nhau trong
kiếp hiện tại để cùng hợp tác chung v́ sự lợi ích cho nhân loại;
rằng một công tŕnh lớn lao vĩ đại
sẽ phải được thực hiện cho nhân loại, và tôi có quyền tham dự vào công việc
đó nếu tôi muốn; rằng một sợi dây nhân duyên huyền bí, mà ngài không thể giải thích
cho tôi biết ngay lúc này, đă làm cho bà HPB và tôi gặp gỡ và hợp tác chặt
chẽ với nhau trong kiếp này, một sợi dây nhân duyên vô cùng bền chặt không
thể nào cắt đứt, dẫu cho một đôi khi nó bị căng thẳng đến mức độ nào.
Ngài nói cho tôi biết nhiều điều về bà HPB mà
tôi không tiện nói ra đây, cùng những chuyện có liên hệ đến riêng tôi, nhưng
không can dự ǵ đến người khác. Ngài ngồi đó đă bao lâu, tôi cũng không thể
nói được: có thể là nửa giờ hoặc một giờ; nhưng xem dường như chỉ có một
phút, trước mặt ngài, tôi đă mất cả ư thức về thời gian.
Sau cùng, ngài đứng dậy; tôi c̣n đang ngạc
nhiên về dáng vóc cao lớn lạ thường và chiêm ngưỡng cái phong độ huy hoàng
cao cả của ngài. Th́nh ĺnh, một tư tưởng thoáng qua trong trí tôi:” Phải
chăng đây chỉ là một ảo ảnh, hay một cơn nắng quáng đèn ḷa do bà HPB dùng
thuật thôi miên để đánh lừa tôi? Tôi ước mong rằng tôi nắm được một vật cụ
thể nào đó để chứng tỏ rằng ngài đă thật sự đến đây, một vật mà tôi có thể
cầm trên tay làm bằng chứng sau khi ngài đă đi rồi!”
Chân Sư mỉm cười một cách khoan dung, dường như
ngài đă đọc được tư tưởng của tôi. Ngài bèn tháo gỡ chiếc khăn bịt trên đầu
để lên bàn, chào từ giă tôi một cách dịu dàng khả ái và liền… biến mất!
Chiếc ghế bành của ngài ngồi lúc năy đă trống
trơn, bỏ tôi ngồi lại một ḿnh với những cảm xúc của tôi! Tuy vậy, tôi không
phải chỉ có một ḿnh, v́ bên cạnh tôi là chiếc khăn lụa mà Chân Sư vừa để
lại trên bàn, một bằng chứng cụ thể và chắc nịch rằng tôi không phải đă bị
ảo ảnh hay thôi miên, mà tôi đă gặp gỡ tận mặt một trong những bậc Anh Cả
của Nhân Loại, một vị Chân Sư cao cả của hàng ngũ nhân loại c̣n thấp kém và
vô minh như chúng ta.
Cái phản ứng tự nhiên trước hết của tôi là chạy qua
đập cửa pḥng bà HPB và thuật cho bà nghe cái kinh nghiệm huyền diệu của
tôi. Bà rất lấy làm vui mừng mà nghe câu chuyện cũng như tôi đă rất sung
sướng mà thuật lại.
Tôi trở về pḥng ngồi suy nghĩ triền miên và
thức luôn tới sáng. Đêm đó tôi đă suy nghĩ rất nhiều và có những quyết định
quan trọng. Những tư tưởng và quyết định của tôi trong đêm đó đă đưa tôi đến
những hoạt động Thông Thiên Học suốt đời tôi về sau này, với một ḷng chân
thành với các đấng Chân Sư đă nâng đỡ phong trào Thông Thiên Học với những
bàn tay vô h́nh, một ḷng trung kiên như sắt đá mà những sự va chạm phũ
phàng và thất vọng đắng cay, đau khổ nhất cũng không bao giờ làm lung lạc
được.
Từ khi đó về sau, tôi đă có diễm phúc được hội
ngộ nhiều lần với đấng Chân sư trên và những vị Chân Sư khác nữa. Nhưng thật
không ích ǵ mà lập lại những kinh nghiệm khác về loại này, tôi chỉ nêu câu
chuyện trên đây như một thí dụ điển h́nh thôi cũng đủ. Những người
khác kém may mắn hơn tôi có thể nghi ngờ chuyện
này ra sao cũng được, nhưng thật sự là tôi đă …BIẾT.
Với lư tưởng thành thật trong mọi chuyện, tôi
phải kể lại một sự nghi ngờ về lời khai của tôi như một nhân chứng của hiện
tượng kể trên. Hồi năm 1884, tôi được mời làm nhân chứng trước một phiên họp
Ủy Ban Đặc Biệt của hội Khảo Cứu Tâm Linh (Society
for Psychical Research) tại Luân Đôn, và đă thuật lại câu chuyện trên
trong số những sự việc khác. Một nhân viên của Ủy Ban, trong cuộc thẩm vấn,
đă đưa ra câu hỏi: làm sao tôi có thể chắc rằng bà HPB đă không sử dụng một
người Ấn Độ cao lớn nào đó để chơi cái tṛ đùa đó đối với tôi, c̣n những chi
tiết có vẻ huyền bí khác th́ biết đâu óc tưởng tượng mộng mơ của tôi đă
chẳng làm cho tôi tưởng rằng sự thật! Khi đó tôi có cảm giác chán ngấy về sự
nghi ngờ độc ác của họ đối với bà HPB, và sự tránh né có vẻ hèn nhát, thiếu
tinh thần danh dự của họ đối với những sự kiện tâm linh hiển nhiên không thể
chối căi, khi họ núp dưới bức màn che dấu của một thái độ khôn ngoan sắc sảo
giả tạo. Tôi bèn trả lời mau chóng, giữa những lư luận khác, rằng cho đến
khi đó tôi chưa hề thấy một người Ấn Độ bao giờ trong đời tôi!
II
Bây giờ, tôi xin nói về những kinh nghiệm bản
thân của tôi trong vấn đề Xuất Vía. Trước hết, tôi có lời cảnh giác các bạn
sơ cơ trên đường Đạo:
khả năng Xuất Vía ra ngoài Thể
Xác không nhất thiết phải là cái bằng chứng của sự phát triển tâm linh.
Phần đông, những kẻ mới chập chững bước vào đường Đạo có lẽ đă nghĩ trái
lại, nhưng họ đă lầm. Một bằng chứng đầu tiên và đầy đủ là sự Xuất Vía rất
thường xảy ra với những người nam và nữ không hề có thời giờ để khảo cứu về
khoa Huyền Môn, không có tu luyện theo pháp môn Yoga nào, cũng không hề thử
tập phép Xuất Vía và thường sợ hăi hay xấu hổ và bất b́nh khi bị cho là tập
luyện phép ấy. Họ cũng không có chút ǵ trội hơn những người thường về sự
tịnh khiết trong tư tưởng và trong đời sống hằng ngày, về lư tưởng tâm linh,
hay về những khả năng tinh thần, mà thường là trái ngược hẳn lại.
Một mặt khác, những sử liệu của khoa Hắc Thuật
(Bàn Môn Tả Đạo) có dẫy đầy những trường hợp Xuất Vía hữu h́nh hay vô h́nh
bởi những kẻ sa đọa, tội lỗi dùng phép thuật ấy để hăm hại người khác; những
trường hợp Phân Thân, ám ảnh những nạn nhân thù địch, biến h́nh thành chó
sói, và những ma thuật tà đạo khác.
Ngoài ra, c̣n có đến hằng ngh́n trường hợp Xuất Vía
bởi những người thuộc đủ mọi thành phần và đủ mọi hạng, thường là những loại
người bất hảo, nếu không là sa đọa, đă được Hội Khảo Cứu Tâm Linh (S.P.R.)
xem xét kỹ lưỡng và ghi nhận vào hồ sơ tài liệu của họ, và hằng ngh́n những
trường hợp khác nữa chưa được ghi vào sổ.
Tất cả những sự việc kể trên kết hợp
lại đă chứng minh cho lời cảnh giác của tôi rằng khả năng Xuất Vía của một
người, dù hữu thức hay vô thức, không phải là một bằng chứng chỉ rằng người
ấy tốt lành hơn, khôn ngoan hơn, tiến bộ tâm linh hơn, hay có đủ tư cách làm
một bậc Đạo Sư hơn mọi người thường. Nó chỉ
là một dấu hiệu chỉ rằng đương sự hoặc do bẩm sinh hoặc do công phu cố gắng,
đă làm tách rời Thể Vía ra khỏi cái vỏ xác thịt của nó, và như vậy, đă làm
cho nó xuất ra và trở về dễ dàng, khi mà Thể Xác của y không gây chướng ngại,
trong giấc ngủ tự nhiên hay trong giấc ngủ thôi miên. Về vấn đề này, độc giả
sẽ nhớ lại bức họa phóng ảnh trên tấm vải lụa
“satin” mô tả những trạng thái tâm linh qua Thể Vía của Stainston Moses,
mà bà HPB đă thực hiện trước đây.
V́ lư do nào đó, tôi không hề có th́
giờ tu luyện theo pháp môn Yoga từ khi tôi bắt đầu hoạt động thực tế trong
phong trào Thông Thiên Học. Dường như không bao giờ tôi nghĩ đến việc ḿnh
có thể sở đắc phép thuật thần thông hay không, tôi không hề mong ước làm một
vị đạo sư, cũng không màng đến việc tôi có thể đạt tới sự Giải Thoát hay
không trong kiếp này.
Đối với tôi, phụng sự nhân loại là
pháp môn cao quư nhất, và nếu tôi có thể làm một ít việc nhỏ nhoi khiêm tốn
nào để truyền bá Đạo Lư và làm giảm thiểu sự vô minh, th́ đó cũng là một
phần thưởng hậu hĩ của tôi. Trong những thuở
ban đầu của Hội Thông Thiên Học, không bao giờ thoáng qua trong đầu óc tôi
cài ư nghĩ rằng tôi có thể luyện ḿnh để trở thành một nhà linh thị hay một
người có phép thuật thần thông, một đạo gia hay một nhà huyền học. Tôi vẫn
tiếp tục làm việc theo sự chỉ thị của Chân Sư, ngài dạy tôi rằng con đường
tốt nhất để t́m các ngài là xuyên qua Hội Thông Thiên Học. Đó có lẽ là một
môi trường hoạt đông khiêm tốn, nhưng thích hợp với khả năng hữu hạn của tôi,
một việc làm đầy hứng thú và đồng thời cũng rất hữu ích.
Bởi vậy, khi tôi kể những
chuyện Xuất Vía của tôi, đừng ai nghĩ rằng tôi có ư phô trương sự phát triển
tâm linh giả tưởng của ḿnh, hay tự hào về sự khôn ngoan của ḿnh như một
nhà thông linh lỗi lạc.
Sự thật là, theo tôi nghĩ, tôi được trợ giúp cho có cái khả năng đó, cùng
với nhiều kinh nghiệm huyền linh khác, để làm cái nền tảng huấn luyện cần
thiết cho một người được giao phó cái công tác đặc biệt như của tôi.
Dưới đây là một trường hợp:
Một đêm nọ, sau khi bà HPB và tôi đă viết xong một
Chương của bộ sách “Vén màn Isis”,
và khi chia tay để lui về pḥng riêng nghỉ ngơi, chúng tôi xếp chồng giấy
bản thảo lên một cái khay gỗ, trang đầu ở trên hết và trang cuối ở dưới đáy.
Sau khi đă ai về pḥng nấy, chúng tôi mỗi người đều khóa cửa buồng riêng của
ḿnh trước khi đi ngủ để đề pḥng kẻ trộm. Trong khi thay đồ để mặc quần áo
ngủ, tôi mới nghĩ rằng nếu tôi thêm ba chữ nữa vào câu cuối cùng của đoạn
chót, th́ ư nghĩa của đoạn văn ấy sẽ được tăng thêm cường độ và trở nên súc
tích hơn.
Sợ rằng nếu để đến sáng ngày mai tôi có thể
quên đi việc ấy, tôi mới có ư nghĩ bông đùa là tôi hăy thử Xuất Vía đi xuống
pḥng ăn ở tầng dưới và viết thêm ba chữ nữa bằng cái Thể Vía của tôi.
Tôi chưa từng di chuyển bằng
Thể Vía một cách ư thức như vậy bao giờ, nhưng tôi biết phương pháp thực
hiện điều đó, tức là tập trung ư muốn Xuất Vía một cách mănh liệt trong trí
trước khi ngủ, và tôi bèn làm như vậy. Tôi
không biết ǵ nữa cho đến sáng hôm sau, khi đă thay y phục và ăn điểm tâm
xong, tôi mới ngừng trước cửa pḥng bà HPB ở tầng dưới để chào hỏi bà một
câu trước khi ra đi đến văn pḥng Luật của tôi. Bà nói:
“Ơ ḱa! Ông hăy nói cho tôi biết ông đă làm ǵ ở đây
đêm qua sau khi ông đă đi ngủ?.
Tôi đáp:
“Làm ǵ à? Bà muốn nói chi?
Bà nói tiếp:
“Tôi đang nằm trên giường c̣n chưa ngủ, th́
bỗng nhiên tôi nh́n thấy Thể Vía của ông Đại Tá vọt ra xuyên qua vách tường!
Coi ông có vẻ buồn ngủ và đờ đẫn nữa đấy! Tôi có hỏi chuyện ông, nhưng ông
không trả lời. Kế đó ông bước qua buồng viết, tôi nghe tiếng động của ông
lục lạo trong đống giấy tờ, rồi thế là hết. Ông làm ǵ vậy?”
Khi đó, tôi mới cho bà biết sự thí nghiệm của
tôi. Chúng tôi bèn đi qua buồng bên kia, lật chồng giấy bản thảo xem lại,
th́ thấy nơi trang cuối cùng, ở câu chót của đoạn kết luận, có hai trong số
ba chữ định thêm vào được viết bằng tuồng chữ của tôi, và chữ thứ ba chỉ mới
bắt đầu nhưng viết chưa hết: khả năng tập trung tư tưởng dường như đă kiệt
quệ, và chữ ấy chỉ viết được có nửa phần đầu, c̣n nửa phần sau chỉ là một
vết nguệch ngoạc! Tôi đă sử dụng cây bút ch́ như thế nào, tôi có cầm nó trên
tay không, và làm sao tôi viết được mà không cầm lấy cây viết, tôi cũng
không thể nói được. Có lẽ chỉ một lần đó tôi đă phóng bút với sự trợ giúp
của một trong những tinh linh có hảo ư của bà HPB, bằng cách sử dụng những
nguyên tử ch́ trong ruột những cây bút ch́ để trên bàn cùng với xấp giấy bản
thảo. Dù sao, đó cũng là một kinh nghiệm hữu ích cho tôi.
Độc giả hăy ghi nhận sự kiện này là sự phóng
bút bằng phương pháp huyền linh của tôi bị gián đoạn ở một điểm mà, do sự
thiếu kinh nghiệm, tôi đă để cho ư chí của tôi lo ra và tách rời ra khỏi cái
việc đang làm. Tập trung ư chí cho vững chắc không thể lay chuyển là điều
cần thiết để thành công trong những hiện tượng thuộc loại này, cũng như
trong mọi việc khác trên b́nh diện trí năng thông thường.
Trong một bài tường thuật nhan đề “Hiện
tượng phóng ảnh” của tôi đăng trên tạp chí “Theosophist
tháng 7 năm 1888, tôi có giải thích mối tương quan ảnh hưởng giữa sự tập
trung ư chí đă được huấn luyện thành thục, và tính chất lâu bền của những
tác phẩm phóng bút, phóng ảnh, cùng những tác phẩm tương tự khác do việc sử
dụng lư
thú và gợi ư về vấn đề Xuất Vía và phóng bút mà ông Wilkie Collins đă diễn
tả trong quyển “Hai Định Mệnh”. Đó là một quyển sách đáng đọc bởi mọi sinh viên
Huyền Môn cũng như cuốn Zanoni, Một Chuyện Lạ Lùng, hay Chủng Tộc Tương Lai.
Tuy nhiên, dù có đọc sách và học hỏi kinh
nghiệm của người khác nhiều đến bao nhiêu về các vấn đề này cũng không thể
so sánh với một kinh nghiệm bản thân dù nhỏ bé như chuyện của tôi đă kể trên,
bởi v́ nó làm cho người ta nhận thức được sự thật của định luật Tư Tưởng sáng tạo H́nh Thể, định luật này vẫn tác động luôn luôn
trong Vũ Trụ Càn Khôn. Kinh Upanishad
của Ấn Độ có đoạn viết: “Phạm Thiên
(Brahma) muốn: Ta hăy sinh sôi nảy nở, Ta hăy biến thành thiên h́nh vạn
trạng. Ta hăy tăng trưởng…Rối ngài đắm ch́m trong cơn suy tư trầm lặng…Sau khi ngài đă
suy tư, ngài bèn phóng xuất ra muôn ngh́n sắc tướng, muôn loài vạn
vật trên thế gian. Sau khi đă phóng xuất ra mọi h́nh thể sắc tướng, ngài bèn
thể nhập vào mỗi h́nh sắc, mỗi sinh vật…”
Đoạn kinh ấy có ư nghĩa rất sâu xa đối với tôi.
Ư nghĩa của nó c̣n vô cùng sâu hơn thật hơn, gợi ư hơn đối với người nào đă
có tự ḿnh suy tư, rồi sáng tạo
nên một h́nh thể, hơn là đối với những người chỉ có đọc chữ trên những trang
sách, mà không cảm nhận được sự thật vang dội từ chỗ thầm kín sâu thẳm bên
trong tâm hồn.
III
Tôi c̣n nhớ một trường hợp Xuất Vía khác của
tôi, nó giải thích một định luật gọi là”Luật
Phản Dội”.Độc giả có thể t́m thấy rất nhiều tài liệu dồi dào phong phú
về vấn đề này trong các sách vở nói về khoa Phù Thủy và Phương Thuật. Danh
từ “Phản Dội” (Repercussion) ở đây
có nghĩa là tác động phản dội lại trên thể xác của những cú đấm, vết đâm
chém hay những vết thương khác gây ra trên Thể Vía trong khi nó được phóng
xuất ra ngoài và di chuyển như là một thực thể cá biệt. C̣n danh từ Phân Thân có nghĩa là sự xuất hiện của một người ở hai chỗ cùng một
lúc; ở một chỗ là cái Thể Xác, c̣n Thể Vía đồng thời xuất hiện ở một nơi
khác.
Trong quyển “Humanité
posthume”, ông D’Assier có đề cập
đến cả hai vấn đề này. Nói về việc gây thương tích cho các nạn nhân do các
nhà phù thủy xuất vía để tác hại cho họ, tác giả viết:
“Bà phù thủy xuất vía đi vào nhà của một người
mà bà có việc muốn trả thù, và khuấy phá y bằng đủ mọi cách. Nếu người này
cương quyết tự vệ, và nếu y có sẵn một thứ khí giới nào đó, y có thể chém
vài nhát vào cái bóng ma. Khi bà phù thủy tái hồi nhập xác và trở lại trạng
thái b́nh thường, bà ta sẽ thấy xuất hiện trên Thể Xác ḿnh những vết thương
mà bà đă nhận được trong cơn xung đột bằng Thể Vía với người kia”.
Những văn khố lưu trữ của Sở Tư Pháp Anh có ghi
nhận trường hợp mụ phù thủy Jane Brooks xuất vía đến khuấy phá một đứa trẻ
tên Richard Jones một cách rất độc ác. Trong một dịp nọ, đứa trẻ la lên rằng
bóng vía của mụ Jane đang có mặt trong nhà, và đưa ngón tay lên như chỉ vào
cái bóng ấy. Lúc ấy một nhân chứng có mặt, tên Gilson, bèn phóng tới chỗ ấy
và cầm dao chém đùa vào khoảng không tuy rằng y không nh́n thấy ǵ, mà cái
bóng ma ấy chỉ có đứa trẻ nh́n thấy. Ngay lập tức, Gilson cùng với người cha
đứa trẻ và một người cảnh binh đi đến nhà mụ Jane, và thấy mụ ấy đang ngồi
trên ghế, một bàn tay nâng đỡ lấy cái bàn tay kia. Trước sự thẩm vấn, mụ ấy
nói không có ǵ xảy ra, nhưng khi người ta kéo tay y ra, th́ thấy cái bàn
tay kia có dính đầy máu, và bị một vết chém y như đứa trẻ đă nh́n thấy lưỡi
dao của Gilson chém vào bàn tay của cái bóng ma.
Rất nhiều trường hợp tương tự đă được ghi nhận,
tất cả đều chứng tỏ rằng một vết thương gây trên Thể Vía đă phóng xuất ra
ngoài, sẽ phản dội lại trên cái Thể Xác ở ngay chỗ bị thương. Dưới đây là
kinh nghiệm cá nhân của tôi.
Trong pḥng làm việc của chúng tôi tại
“Lạt Ma Viện”, bên cạnh ḷ sưởi, có treo trên tường một cái đồng hồ lớn
mà tôi có thói quen lên giây mỗi đêm trước khi đi ngủ. Một buổi sáng nọ, sau
khi rửa mặt, tôi nh́n vào tấm kiếng th́ thấy mắt bên phải bầm đen và tím
lại, dường như tôi vừa bị một cú đấm vào mắt. Tôi không biết lư do tại sao,
và càng ngạc nhiên hơn khi thấy rằng chỗ bị thương lại không đau nhức chi
cả. Tôi cố nhớ lại xem việc ǵ đă xảy ra để t́m nguyên nhân của sự việc ấy,
nhưng vẫn vô hiệu. Trong buồng ngủ của tôi, không có cột đứng, góc cạnh
tường, hay chướng ngại vật nào có thể làm cho tôi va đầu vào để nhận lấy vết
thương, nếu giả thiết rằng tôi đă đi trong giấc ngủ, nhưng thật ra tôi lại
không có cái chứng tật đó. Lại nữa, một sự va chạm khá mạnh để làm cho mắt
tôi bầm đen như vậy, đương nhiên là phải làm cho tôi thức giấc ngay tức khắc
trong lúc đó, nhưng trái lại, như thường lệ tôi đă ngủ thẳng giấc suốt đêm
cho tới sáng.
Thế là tôi vẫn tiếp tục hoang mang, cho đến lúc tôi
ngồi lại bàn ăn điểm tâm cùng với bà HPB và một bà bạn của bà đă đến chơi từ
hôm qua và ngủ lại trên giường bà HPB đêm ấy. Bà bạn này đă đem lại cái đáp
số cho điều bí hiểm kia. Bà ấy nói, khi bà nh́n thấy con mắt bầm tím của
tôi:
“À, ông Đại Tá, chắc ông đă đụng nhằm vật ǵ đêm qua
khi ông xuống đây để lên giây cái đồng hồ!”
Tôi đáp:
“Lên giây đồng hồ? Bà muốn nói ǵ vậy? Phải chăng bà
đă khóa cửa pḥng cẩn thận khi tôi đi lên buồng của tôi?”
Bà ấy nói:
“Phải, chính tôi đă đích thân khóa cửa; nhưng làm sao
ông có thể xuống đây? Tuy vậy, bà
HPB và tôi đều nh́n thấy ông đi xuyên qua vách tường và cửa buồng chúng tôi
qua pḥng bên kia, và nghe tiếng động của ông lên giây đồng hồ. Tôi gọi ông,
nhưng ông không trả lời, và tôi không thấy ǵ nữa”.
Khi ấy tôi mới nghĩ rằng nếu tôi đă đi vào
pḥng viết bằng Thể Vía và lên giây đồng hồ, th́ có hai việc tất nhiên phải
xảy ra:
a)
Cái
đồng hồ đă được lên giây đêm qua và không chết;
b)
Từ cửa
pḥng đến chỗ ḷ sưởi bên cạnh đồng hồ, chắc phải có một chướng ngại vật nào
đó đă chạm vào mắt tôi.
Chúng
tôi xem xét qua một lượt và nhận thấy rằng:
1)
Cái
đồng hồ vẫn c̣n chạy, dường như nó đă được lên giây vào đúng giờ như mọi
khi.
2)
Gần
cánh cửa pḥng có một kệ sách nhỏ đóng vào tường, một góc kệ nhô ra ngoài,
chiều cao vừa tầm con mắt tôi để cho tôi có thể đụng vào nếu tôi sơ ư.
Kế
đó, tôi mới nhớ mang máng rằng tôi đă đi từ phía bên kia pḥng đến gần cánh
cửa, với bàn tay mặt đưa thẳng ra trước dường như để ḍ đường trong đêm tối,
th́nh ĺnh tôi đụng đầu vào một vật ǵ làm cho tôi “tá hỏa tam tinh”, “nh́n
thấy ba mươi sáu ngôi sao sáng” như người ta thường nói, rồi kế đó th́…tôi
không c̣n nhớ ǵ nữa cho đến sáng.
Đó là một điều rất lạ lùng; v́ một cái chạm mạnh trên
đầu đáng lẽ phải làm cho một người thức giấc trong trường hợp b́nh thường,
nhưng khi nó chạm vào Thể Vía đă xuất ra, th́ do hiện tượng
Phản Dội, nó để lại dấu vết rơ
ràng trên Thể Xác mà không làm cho tôi thức giấc. Trường hợp này c̣n có
những khía cạnh lư thú khác nữa. Nó chỉ rằng, với những điều kiện thuận lợi
để cho Thể Vía rút lui ra khỏi Thể Xác một cách nhẹ nhàng êm thấm, th́ sự
Xuất Vía có thể xảy ra dưới sự thúc đẩy của một ư định cố hữu, chẳng hạn như
một thói quen làm một việc ǵ mỗi ngày vào một giờ nhất định. C̣n nếu gặp
những điều kiện không thuận lợi cho sự Xuất Vía, mà bị đặt dưới một loạt
những điều kiện khác hẳn, th́ đương sự sẽ trở nên một người “thụy du”, y sẽ đứng dậy trong giấc ngủ, rồi đi làm những việc ǵ
c̣n lởn vởn trong trí y lúc đó, và trở về giường ngủ say mê li b́ mà không
nhớ rơ việc ǵ đă xảy ra.
Một trong những kinh nghiệm lư thú nhất của tôi,
là gặp những người chưa hề quen biết bao giờ ở nhiều nơi khác nhau trên thế
giới, họ quả quyết rằng đă nh́n thấy tôi ở những nơi công cộng, rằng tôi đă
đến viếng họ bằng Thể Vía, đôi khi đă nói chuyện với họ về những vấn đề
Huyền Môn, hoặc đă chữa họ khỏi bịnh, thậm chí cũng có khi cùng đi với họ
lên cơi Trung Giới để viếng các đấng Chân Sư; nhưng tôi không nhớ được ǵ cả
về những sự việc này. Tuy nhiên, nếu suy nghĩ kỹ, th́ điều ấy cũng không lạ
ǵ, xét v́ một người mà trọn cuộc đời, và mỗi tư tưởng, nguyện vọng, ước mơ
khi thức tỉnh trong đời sống hằng ngày đều có liên quan mật thiết đến một
phong trào tâm linh vĩ đại như của chúng tôi, người ấy không có ước muốn nào
khác hơn là sự thành công của nó, không có tham vọng nào khác hơn là thúc
đẩy nó tiến tới mục đích tối hậu đă vạch sẵn, một người như thế đương nhiên
là phải chuyển di đời sống nội tâm hữu thức của ḿnh sang qua cơi vô thức
tiềm ẩn trong giấc ngủ, và tiêu diêu phưởng phất theo những luồng sóng điện
của chất Tinh Quang để quy tựu với những linh hồn cùng đồng thanh khí, theo
luật đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.
CHƯƠNG MƯỜI BỐN
MỘT ĐỊNH LUẬT HUYỀN BÍ
Ít lâu trước khi chúng tôi rời khỏi New York,
một buổi tối bà HPB và tôi cùng đi ra phố để mua sắm vài món đồ cần dùng cho
bà. Những phẩm vật mua sắm trị giá đến năm mươi đô la, và v́ lúc ấy bà không
có tiền, nên tôi trả tiền thay cho bà và nhận biên lai. Bận về khi chúng tôi
sắp bước vào nhà, bà nắm lấy bàn tay tôi, nhét vào đó vài tờ giấy bạc và nói:
“Đó là năm mươi đô la của ông!”
Tôi nói lập lại rằng bà không có tiền riêng, và
không có người khách nào đến nhà trước khi đó mà bà có thể mượn tiền. Khi
chúng tôi từ nhà ra đi, bà cũng không biết rằng bà sẽ mua những gí, và sẽ
phải tiêu xài bao nhiêu tiền.
Tiền luôn luôn đến với bà khi bà cần dùng, và
khi nào đó là một sự nhu cầu chính đáng.
Có lần tôi được yêu cầu đi đến một thành phố nọ
để làm một vài công việc rất quan trọng cho các Chân Sư. Tôi phỏng định rằng
làm công việc đó phải mất đến ít nhất là một hay hai tháng, và v́ tôi là
người đài thọ mọi khoản tiền chi phí của Hội Quán, cùng những khoản chi tiêu
lớn khác nữa, tôi mới nói với bà HPB rằng thật t́nh tôi không thể rời khỏi
New York. Bà nói:
“Được rồi, ông hăy làm ǵ ông nghĩ là đúng. Ông
chưa phải là một đệ tử đă tuyên thệ, và các Chân Sư không có quyền bắt ông
phải gián đoạn công việc làm ăn thuộc về nghề nghiệp của ông”.
Tuy vậy,tôi không thể chịu đựng nổi cái ư nghĩ
từ chối bất cứ một việc nhỏ nhặt nào khi các Chân Sư cần dùng đến tôi, và
tuy tôi không thấy rơ làm sao tôi có đủ huê lợi để đài thọ mọi thứ nhu cầu
khi tôi vắng mặt, rốt cuộc tôi vẫn nói rằng tôi sẽ đi với bất cứ giá nào. Bà
HPB hỏi tôi sẽ bị thiệt hại mất bao nhiêu nếu tôi đi, tôi mới trả lời rằng
nếu tính với cái giá thấp nhất, th́ tôi sẽ mất không dưới năm trăm đô la mỗi
tháng.
Thế rồi tôi đi, và chỉ trở về hai tháng sau đó.
Khi tôi đến nhà Ngân Hàng để xem trong trương mục của tôi c̣n bao nhiêu
tiền, th́ tôi lấy làm vô cùng ngạc nhiên mà nghe nói rằng tôi có đến một
ngàn đô la trội hơn số tiền mà tôi đă kư thác! Hay là người giữ sổ đă lầm?
Không, quả thật đúng như vậy. Khi đó tôi mới hỏi y có nhớ rơ h́nh dáng của
người đến gửi tiền vào trương mục của tôi không, mà gửi đến hai lần, mỗi lần
năm trăm đô la. Cũng may mà y c̣n nhớ, bởi v́ người đến gửi tiền có một h́nh
dáng lạ kỳ: đó là một người phương Đông, h́nh dung rất cao lớn, có những lọn
tóc đen và dài phủ đến tận vai, đôi mắt đen rất tinh anh như soi thấu ḷng
người, ḿnh mặc áo rộng trắng, nước da màu nâu sậm. Cũng một người ấy đến
luôn hai lần, chỉ đưa tiền và yêu cầu bỏ vào trương mục của tôi. Người ấy
không có quyển sổ ngân hàng của tôi, và yêu cầu người nhân viên hăy điền vào
những mẫu giấy in sẵn để làm thủ tục gửi tiền, v́ người “không biết Anh
Ngữ”.
Khi chúng tôi qua Ấn Độ, bà HPB luôn luôn nhận
được tiền trong những lúc nhu cầu cấp bách. Khi vừa đổ bộ xuống Bombay,
chúng tôi chỉ vừa có đủ tiền để trang trải những nhu cầu thiết yếu thường
nhận trong nhà khoảng độ vài tháng, đừng nói chi những việc mua sắm những đồ
xa xí phẩm.Tuy vậy, chúng tôi cũng đă đi lên tỉnh Punjab cùng với hai người
bạn Ấn Độ trong một chuyến hành tŕnh đáng ghi nhớ, mà bà HPB đă viết thành
một chuyện du kư nhan đề: “Non Cao
Rừng Thẳm Của Ấn Độ Huyền Bí”, và đă chi tiêu hết độ chừng hai ngàn
Ru-pi mà vẫn không sao cả.
Những nhu cầu thiết yếu của chúng tôi luôn luôn
được đáp ứng, cơm gạo, thực phẩm không bao giờ khô cạn, bởi v́ đă có các
Chân Sư cung ứng cho chúng tôi khi chúng tôi làm công việc của các ngài. Khi
tôi hỏi làm sao có thể như vậy, v́ các Chân Sư là những vị sống ngoài ṿng
tục lụy của thế giới tiền bạc vật chất, th́ bà HPB cho tôi biết rằng các
ngài là những đấng giữ ǵn, bảo quản bao nhiêu những kho tàng, hầm mỏ báu
vật và của cải chôn dấu mà, tùy theo cái Nghiệp Quả dính liền với chúng, có
thể sử dụng v́ lợi ích của nhân loại qua nhiều đường lối khác nhau. Tuy
nhiên, có vài thứ kho tàng của cải đó bị ô nhiễm bởi một thứ hào quang sắt
máu, tội lỗi, đến nỗi nếu được đào xới lên để đem ra sử dụng trước khi những
nghiệp quả báo ứng đă được thanh toán xong, th́ chúng lại nuôi dưỡng thêm
những tôi lỗi sát phạt mới nữa và làm cho những nỗi khổ đau của nhân loại
càng tăng thêm.
Một mặt khác, Nghiệp Quả của một vài người
khiến cho họ sẽ phát hiện, dường như do sự ngẫu nhiên tính cờ, những hũ
vàng, bạc hay bảo vật chôn dấu; hoặc tạo nên của cải tiền bạc dễ dàng bằng
con đường kinh doanh sự nghiệp. Những Nghiệp Quả báo ứng đó được thực hiện
qua sự trung gian của những tinh linh của loài kim thạch, mà theo sự tin
tưởng của người phương Đông, những người được ân sủng của Thần Tài có liên
hệ mật thiết do ảnh hưởng của “hành Kim” ngự trị trong khí chất của họ.
Nói tóm lại, những người thuộc loại kể trên
dường như hay gặp may mắn lạ lùng về phương diện tiền tài, làm cho họ “mó
vào đâu là hóa ra vàng đến đó”; dù cho họ có thể ngu dại đến đâu trong các
vấn đề thế sự, sự may mắn vẫn luôn luôn đi kèm với họ không lúc nào rời.
Cũng y như thế, những người có khí chất trội
hẳn về “hành Thủy”, sẽ có khuynh
hướng hoạt động trên mặt nước và sống cuộc đời phiêu lưu trên sông hồ; họ
rất thích thú với nghề thủy thủ và sẽ theo đuổi nghề nghiệp ấy đến cùng, bất
chấp mọi nỗi gian nguy hay đau khổ.
Người nào có sự tương quan thích hợp với những
tinh linh của Không Khi1trong bản chất tự nhiên của họ, lúc nhỏ thường hay
thích trèo cao, leo cây hay leo nóc nhà; và khi lớn lên, họ sẽ thích leo
núi, ngồi trên khinh cầu, lái máy bay, hoặc theo đuổi những nghề nghiệp ǵ
làm cho họ tách rời khỏi mặt đất. Bà HPB có kể cho tôi nghe nhiều chuyện để
giải thích cái nguyên tắc đó, và đời người có vô số những trường hợp lạ lùng
khó hiểu, chỉ có thể giải thích được bằng định luật tương quan về khí chất
với các chủng loại Tinh Linh Ngũ Hành như đă nói ở trên.
C̣n nói về Hội Thông Thiên Học, tôi có thể nói
rằng trong khi bà HPB và tôi không ai được phép tiêu xài hoang phí, nhưng
chúng tôi không bao giờ bị để cho phải khổ sở thiếu thốn về những nhu cầu
cần thiết cho đời sống và cho công việc làm của ḿnh. Đă có biết bao nhiêu
lần chúng tôi bị cạn tiền, triển vọng về tài chánh vô cùng bấp bênh và chàn
nản đến mức làm xuống tinh thần, nhưng rốt cuộc tôi luôn luôn nhận được vào
giờ chót, từ phía này hay phía khác, những món tiền để trang trải mọi chi
phí cần thiết, và công việc của chúng tôi không hề bị ngưng trệ một ngày nào
v́ lư do thiếu phương tiện để xúc tiến các hoạt động của Hội.
Người đệ tử của Chân Sư thường không đủ tư cách
xét đoán xem lúc nào là cần thiết hay không để cho y nhận được tiền khi y
thừa hành lệnh trên để hoàn thành công tác. Khi bà HPB được lệnh đi từ Paris
sang New York hồi năm 1873, không bao lâu bà đă bị túng quẩn, thiếu thốn đến
cùng cực, và đă phải nấu lại xác cà phê cũ để uống lại nhiều lần v́ không có
tiền mua cà phê mới; và v́ sinh kế bà đă phải làm nghề may thuê vá mướn cho
một lăo chủ tiệm tạp hóa. Bà không hề nhận được những món quà bất ngờ, và
không đá nhằm một bị bạc ở dưới chân giường khi bà thức giấc! Đó là v́ thời
giờ chưa đến.
Tuy nhiên, mặc dù sống trong cơn túng thiếu, ít
lâu sau khi đến New York, bà đă cất dưới đáy rương một số tiền lớn (độ chừng
hai mươi ba ngàn quan) mà Sư Phụ bà giao cho bà cất giữ, để c̣n chờ lịnh.
Sau cùng, bà được lịnh đi đến Buffalo. Thành phố này ở đâu, và đi đến đó
bằng cách nào, bà cũng không biết ǵ cả, cho đến khi bà hỏi:
“Con phải làm ǵ ở Buffalo?”
Ngài đáp:
“Không cần biết: hăy cứ đem số tiền kia theo.”
Khi đến nơi, bà được lịnh hăy kêu một chiếc xe
ngựa rồi đi đến một địa chỉ, và đưa số tiền ấy cho một người nào đó. Bà sẽ
không cần giải thích ǵ cả, mà chỉ lấy biên nhận rồi ra đi. Bà làm theo lời
dặn: người kia có ở tại địa chỉ nói trên, và đang ở trong một t́nh trạng bi
đát. Y đang viết một lá thư từ biệt cho gia đ́nh, với một khẩu súng lắp đạn
để trên bàn, và sẽ tự bắn vào đầu trong ṿng nửa giờ nếu không có bà HPB đến
giải cứu!
Sau đó bà có kể cho tôi biết rằng đó là một
người rất cao quư, tốt lành nhưng đă bị lừa gạt mất hai mươi ba ngàn quan,
và v́ những biến cố sắp xảy ra như một hậu quả (những biến cố có tầm mức
quan trọng cho thế giơi), nên y cần được phục hồi lại số tiền đă mất trong
một cơn khủng hoảng đặc biệt, và bà HPB là người được chỉ định làm cái công
tác cứu trợ đó.
Khi chúng tôi gặp nhau, bà đă hoàn toàn quên
mất tên họ và địa chỉ của nhười kia. Đây là một trường hợp mà người được
chọn làm sứ giả đem tiền cho người thụ hưởng lại là bà HPB trong cơn quẫn
bách cùng cực, nhưng không được phép tiêu xài một quan tiền nào trong số
tiền được giao phó cho bà cất giữ, để mua lấy cho ḿnh một gói cà phê!
Tôi c̣n nhớ một trường hợp khác nữa mà bà HPB
được chỉ định để “ban phát ân huệ của Thần Tài”, nói theo ngôn ngữ b́nh dân.
Cũng may mà người thụ hưởng đă ghi lại câu chuyện này trên giấy trắng mực
đen.
Dường như trong một buổi họp của vài nhà Thần
Linh Học danh tiếng ở Boston, có người nói chuyện tờ tạp chí Spiritual
Scientist có thể ngưng xuất bản v́ thiếu sự bảo trợ tài chánh. Ông Charles
Foster, một nhà đồng tử trứ danh đang có mặt lúc ấy, mới phát ngôn trong
trạng thái nhập đồng, và tuyên bố quả quyết rằng sự thất bại ấy chỉ là một
vấn đề thời gian. Thật vậy, cơn khủng hoảng tài chánh quả thật đang hăm dọa
sự sống c̣n của tờ tạp chí, v́ vị chủ nhiệm tờ báo là ông Gerry Bown sắp
phải trả một khoản tiền lớn, mà ông lại không có đủ phương tiện để thanh
toán. Những sự kiện trên đă được công bố trong tờ tạp chí cùng với mẩu
chuyện đối thoại dưới đây mà tôi có cắt để dành:
“vài ngày trước đây, vị Giám Đốc tờ
Spiritual Scientist nhận được giấy
báo đến nhận tiền tại Sở Bưu Điện do một bưu phiếu điện tín gửi cho ông. Ông
đi đến nơi và trải qua cái kinh nghiệm sau đây:
Địa điểm:
Sở Bưu Điện.
Thời gian:
Giữa trưa. Ngồi bên trái là nhân viên Sở Bưu Điện. Từ cửa bên mặt, bước vào
một người đưa ra cái giấy báo nhận tiền.
Người thư
kư: Ông có trông đợi tiền của ai gửi không?
Người lănh tiền:
Đó là tên họ và địa chỉ của tôi trên giấy báo, mà Sở Bưu Điện đă gởi đến cho
tôi. Tuy nhiên, tôi cũng không biết người gửi tiền cho tôi là ai.
Người thư kư:
Ông có quen biết người nào tên Sir Henry de Morgan không?
Người kia(miệng
cười toang hoác): À, tôi có nghe nói đó là vong hồn của một nhà hiệp sĩ
đă sống cách đây trên hai trăm năm mươi năm, người ấy chăm sóc đặc biệt đến
cuộc sống tiện nghi của tôi. Tôi sẵn ḷng kư tên nhận tiền.
Người thư
kư (bật ngửa người và đổi giọng): Ông có
quen biết ai ở đây có thể xác nhận căn cước của ông không?
Người kia:
Có.
Đến đây, một nhân viên Sở Bưu Điện được gọi đến
để nhận diện người kia và y được trả tiền ṣng phẳng.
Một giờ sau đó, một bức điện tín được gửi đến
với lời lẽ như sau:
“Tôi đóng
góp số tiền X… đô la để trả khoản chi phí phải thanh toán vào ngày 19 tháng
6, và thách thức ông Charles Foster thực hiện lời tiên tri của ông ta. Yêu
cầu lời thách thức này được công bố. Hăy đến Sở Bưu Điện mà lănh tiền và gửi
điện tín cho biết đă nhận.
Sir Henry de Morgan”
Số tiền ấy được gửi đến từ một thành phố cách
đây rất xa. Theo lời yêu cầu của người gửi, chúng tôi đă công bố bức điện
văn trên. Chúng tôi không có ư kiến ǵ về việc này. Chúng tôi đă đưa bức
điện văn cho nhiều nhà Thần Linh Học tên tuổi xem và một người trong bọn họ
đưa ư kiến rằng có lẽ một người nào trong giới đồng tử đă đùa ghẹo chúng tôi.
À, ra thế đấy! Chúng tôi sẵn ḷng muốn bị ghẹo đùa càng nhiều lần càng hay,
bao lâu mà có người muốn đùa ghẹo chúng tôi bằng cách đó!”
Lẽ tất nhiên, “thành phố cách xa” đó là
Philadelphia, và người gửi là bà HPB, v́, như đă nói trước đây, chúng tôi
muốn giúp đỡ vị Chủ Nhiệm tờ tạp chí ấy vượt qua một cơn khủng hoảng tài
chánh. Tôi hoàn toàn biết rơ t́nh h́nh tài chánh của bà HPB lúc ấy, và tôi
biết chắc chắn rằng bà không có khả năng gửi tiền bạc, dù số lớn hay số nhỏ,
cho bất cứ một người nào. Bà hẳn là đă nhận được tiền, cũng như bà đă nhận
được để mua sắm phẩm vật ở New York, và để chi tiêu trong chuyến du hành ở
Ấn Độ, tức là của Quần Tiên Hội. Tên Henry de Morgan trong bức điện tín tức
là John King, một vong linh khuất mặt của bà HPB dùng để sai vặt và để làm
các hiện tượng.
Hết
[1]
Nhà ái quốc Ư đấu tranh cho sự thống nhất
của Ư Đại Lợi (1807 – 1882) chống sự phân
chia nước ư, do nước Áo, Pháp, và Ṭa Thánh
La Mă chủ trương.
[2]
Một làng gần La Mă, nơi nghĩa quân Ư của
Garabaldi bị quân đội của liên minh Pháp và
Ṭa Thánh La Mă đánh bại. Bà Blavastsky bị
thương nặng trong trận này khi bà được 37
tuổi (LDG).
[3]
Cả hai loại trên đều được gọi chung là âm
binh (Lời dịch giả)
[4] Isis Unveiled: Isis là tên vị Nữ Thần Ai Cập, Tượng trưng sự Minh Triết Thiêng Liêng. Tựa sách ngụ ư là: Vén Màn Bí Mật của Thiên Cơ
[5]
Các
bạn
bè
thân
hữu
đều
thân
mật
gọi
bà
bằng
cái
tên
ghép
HPB.
Trong
sách
này
tác
giả
cũng
gọi
như
thế
luôn
cho
tiện.
[6]
Giúp
Denis
Papin
t́m
ra
năng
lực
của
hơi
nước
để
phát
minh
ra
máy
tầu
thủy. (Lời
Dịch
Giả).
[7]
Bản
dịch
việt
ngữ
nhan
đề “tây
phương
huyền
bí”.
Nhà
xuất
bản
Xuân
Thu
USA
ấn
hành
1993.
[8]
(*) ISIS
UNVILED: Bộ
sách
đầu
tiên
của
bà
HPB, đă
được
trích
dịch
một
vài
đoạn
nhan
đề “Thiên
Nhiên
Huyền
Bí".
[9]
Với
Chân
Sư
bên
xứ
Tây
Tạng.
[10]
Hamsa: danh từ ẩn dụ của Huyền Học Ấn Độ,
ngụ ư Tinh Thần hay Tiểu Linh Quang. Huyền
thoại Ấn Độ cho rằng con hạc có khả năng gạn
lọc sữa với nước, ngụ ư Tinh Thần con người
vốn Toàn Năng, biết phân biệt Thực Hư, Chân
Giả.
[11]
(*) Các nhà Đông Phương học ưu tú nhất đều
coi bộ sách này như một ngụy thư thời cổ.
Tôi chú thích sách ấy ở đây chỉ với ư định
diễn tả phương pháp nhập xác mà thôi.
[12]
(*)
Mật hiệu của Tập Đoàn Tiên Thánh phân
bộ Á Châu.
[13]
(*)
Trụ sở Hội Thông Thiên Học đặt tại tư
gia của hai nhà Sáng Lập tại 302 West 47 St,
New York Citi, Tiểu bang New York, Hoa Kỳ.
[14]
(*) Một nguyên tử không phải là một đơn vị
thuần nhất, mà là một hợp tố của chất liệu
không gian do tác động của điện khí tạo nên.
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES