Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  BOOKS  MAGAZINES

 

HỒI KƯ  H.S. OLCOTT

Bản Dịch Nguyễn Hữu Kiệt

Đánh Máy Như Khuê Tiểu Hoa Nhi 2010

 

CHƯƠNG MỘT

CUỘC GẶP GỠ ĐẦU TIÊN GIỮA HAI NHÀ SÁNG LẬP

  quyển  Hồi  kư’’  này    liên  quan đến  lịch  sử  Hội  Thông  Thiên  Học  Thế  Giới,  nên  tôi  phải  kể  lại  từ  đầu,    tường  thuật  cuộc  gặp  gỡ  giữa  hai  nhà  sang  lập  hội.

Câu  chuyện  cũng  rất  b́nh  thường;  tôi  nói  mở  lời: “Xin    cho  phép,’’    quẹt  một  cây  diêm  cho    hút  thuốc  để  mượn  dịp  làm  quen. Cuộc  gặp  gỡ  của  chúng  tôi  bắt  đầu  bằng  một  làn  khói  thuốc,  nhưng    đă  bùng  cháy  lên  thành  một  ngọn  Lửa  Thiêng  trường  cửu  muôn  đời.Những  sự  việc  đưa  đến  cuộc  gặp  gỡ  này  cũng  khá  ly  kỳ,  như  tôi  sẽ  tŕnh  bày  sau  đây.


        Một  ngày  nọ, vào  tháng  7  năm  1874, ngồi  tại  văn  pḥng  Luật,  tôi  đang  nghiên  cứu  một  vụ  kiện  quan  trọng,  liên  quan  đến  ṭa  Đô  Chính  thành  phố  Nữu  Ước,  tự  nhiên  tôi  lại  nghĩ  rằng  từ  nhiều  năm  nay  tôi  không  chú  ư  đến  phong  trào  Thần  Linh  Học.  tôi  không  hiểu  tại  sao  trí  óc  tôi  lại  liên  tưởng  từ  vụ  kiện  nọ  đến  phong  trào  này.    sao,  tôi  cũng  đă  bước  ra  phố  để  mua  một  tờ  nhật  báo  “Banner  of  Light’’,  trong  đó  tôi  thấy    bài  tường  thuật  về  một  hiện  tượng  hồn  ma  hiện  h́nh  xảy  ra  tại  một  nông  trại    thị  trấn  Chittenden,  thuộc  tiểu  bang  Vermont,  cách  Nữu  Ước  độ  vài  trăm  dặm.  Tôi  liền  nghĩ  rằng  nếu  quả  thật  đúng    người  ta    thể  nh́n  thấy,  sờ  mó,    nói  chuyện  được  với  những  thân  nhân  đă  chết  nhưng  đă  t́m  cách  hiện  nguyên  h́nh  để  tạm  thời  xuất  hiện  trở  lại  thế  gian,  th́  đây    một  sự  kiện  tối  quan  trọng  về  khoa  học  vật    hiện  đại. Tôi bèn  quyết  định  đi  quan  sát  ngay  tại  chỗ.


Tôi
  đến  tận  nơi  xem  xét  các  hiện  tượng,    thấy  rằng  câu  chuyện  quả    thật,  tôi  bèn
 ở  lại  đó  thêm  ba  ngày.  Khi  trở  về  Nữu  Ước,  tôi  viết  một  bài  tường  thuật  những  điều  tôi  đă  nhận  xét  cho  tờ  báo  New  York  Sun.

Bài  báo  của  tôi  được  các  báo  trên  thế  giới  in  lại    phổ  biến  khắp  nơi,    tính  cách  hấp  dẫn    quan  trọng  của  những  việc  đă  xảy  ra.  Kế  đó,  vị  chủ  nhiệm  báo  Daily  Graphic  đề  nghị  vối  tôi  hăy  trở  lại  Chittenden  để  viết  phóng  sự  với  một  họa    cùng  đi  theo  tôi  để  vẽ  h́nh  ảnh,    để  mở  cuộc  điều  tra  quan sát  tường  tận  về  vấn  đề  này.

Việc  ấy  làm  cho  tôi  thích  thú  đến  mức  tôi  phải  thu  xếp  mọi  việc  của  văn  pḥng,    ngày  17  tháng  9  năm  đó  tôi  trở  lại  nông  trại  của  gia  đ́nh  Eddy  một  lần  nữa.  Tôi  lưu  trú  tại  ngôi  nhà    mật  đó  trong  mười  hai  tuần,    hằng  ngày  tôi  đă  thu  nhập  được  những  kinh  nghiệm    cùng  kỳ  dị.  Trong  thời  gian  đó,  tôi  viết  bài  đăng  trên  báo  Daily  Graphic  mỗi  tuần  hai  lần,    kèm  theo  những  bức  vẽ  các  hồn  ma  hiện  h́nh  do  tôi    người  họa  sĩ,  ông  Kappes  đă  nh́n  thấy  tận  cùng  với  độ  bốn  mươi  quan  khách  đến  viếng. Chính  những  bài  tường  thuật  của  tôi  trên  mặt  báo  đă  làm  cho    Blavatsky  đến  Chittenden,    do  đó  chúng  tôi  mới  quen  biết  nhau.

 

Tôi  c̣n  nhớ    cái  ngày  đầu  tiên    chúng  tôi  gặp  nhau  dường  như  chỉ  mới  ngày  hôm  qua.  Đến  bữa  ăn  trưa  tại  nông  trại  Eddy,  tôi    họa    Kappes  vừa  bước  vào  pḥng  ăn  th́  thấy  nơi  bàn  ăn  đă    hai  người  phụ  nữ.  Đó      Blavatsky    một  người  bạn  người  Gia    Đại.  Hôm  ấy    mặc  một  cái  áo  màu  đỏ,  nổi  bật  giữa  những  y  phục  tầm  thường của  người  chung  quanh.  Gương  mặt  vuông,    bề  ngang,  đôi  mắt  tinh  anh  biểu  lộ  một  tinh  thần  cương  dũng,  đầy  hào  khí,  trội  phần  nam  tính  hơn  nữ  tính,  cũng  làm  cho      một  phong  độ,  cốt  cách  khác  thường  so  với  những  gương  mặt  b́nh  dị  của  số  đông  du  khách  đến  viếng.  Những  người  thuộc  đủ  mọi  thành  phần  luôn  luôn  văng  lai  không  ngớt  để  xem  các  hiện  tượng  dị  kỳ.  Đứng  trước  ngưỡng  cửa,  tôi  nói  nhỏ  vào  tai  ông  Kappes:
     “Này,  anh  hăy  nh́n  xem  cái    kia,    lạ  không?’’

Kế  đó,tôi  bèn  đi  thẳng  lại  chỗ  bàn  ăn,  chọn  một  ghế  ngồi  đối  diện  với    để    dịp  thực  tập  về  khoa  tướng  pháp,  như  tôi  vẫn    thói  quen  nh́n  xem  tướng  diện  khi  gặp  những  nhân  vật    tôi  chú  ư.

Hai    khách  lạ  nói  chuyện  với  nhau  bằng  tiếng  Pháp.  Nghe  giọng  nói  sành  âm  điệu    ngôn  ngữ  lưu  loát  trôi  chảy  của  bà,  tôi  đoán  ngay  rằng  nếu    không  phải    một  người  Pháp  chính  cống    Paris,  th́  ít  nhất    cũng  phải    một  học  giả  uyên  thâm  về  môn  pháp  ngữ.

Buổi  ăn  trưa  vừa  xong, hai    bước  ra  ngoài.    Blavatsky  vấn  một  điếu  thuốc  lá,  tôi  bèn  bật  diêm  quẹt  cho    đốt  thuốc  để  lấy  cớ  mở  đầu  câu  chuyện.    tôi  mở  lời  bằng  một  câu  tiếng  Pháp: “Vous permettez,  Madame,’’  nên  chúng  tôi  liền  nói  chuyện  với  nhau  bằng  tiếng  Pháp  luôn.    hỏi  tôi  đến  đây  từ  bao  giờ,    tôi    cảm  tưởng  ra  sao  về  việc  này?    nói  chính    cũng  rất  thích  thú  về  những  hiện  tượng  đó    đă  đến  Chittenden  do  những  bài  báo    đă  đọc  trong  tờ  Daily  Graphic.  Dân  chúng  thích  những  loạt  bài  phóng  sự  đó  đến  nỗi  chỉ  một  giờ  sau  khi  phát  hành,  báo  đă  bán  hết  sạch,      đă  phải  trả  một  đô  la  để  mua  một  tờ  với  giá  chợ  đen.    nói:
  “Tôi  rất  do  dự  trước  khi  đến  đây,    tôi  sợ  sẽ  gặp  Đại    Olcott.’’

Tôi hỏi

“Thưa  Bà,  tại  sao    lại  sợ  gặp  ông  ta?’’

“Bởi    tôi  sợ  ông  ta  sẽ  viết  về  tôi  trên  mặt  báo!’’

Tôi   mới  nói  rằng    hăy  yên  ḷng  về  việc  đó,    tôi  chắc  rằng  Đại    Olcott  sẽ  không  nói    đến    trong  các  bài  báo  nếu    không  muốn  như  vậy.  Tôi bèn tự giới  thiệu.  Ngay  tức  khắc  chúng  tôi  đă  trở  nên  hai  người  bạn  thân.  Mỗi  người  trong  chúng  tôi  đều  cảm  thấy  dường  như  chúng  tôi  vẫn  cùng  chung  một  thành  phần    hội,  thuộc  về  giới  tự  do    tưởng    gần  gũi  với  nhau  hơn  so  với  những  người  khác  trong  nhóm  quan  khách.  Đó    sự  đồng  thanh  đồng  khí  về  phương  diện  tâm  linh,  một  sự  thông  cảm  giữa  hai  linh  hồn,  chứ  không  phải    sự  hấp  dẫn  giữa  nam  nữ  tính.  Kể  từ  lúc  mới  quen  cho  đến  măi  về  sau,  không  một  người  nào  trong  chúng  tôi    cái  ư  nghĩ  rằng  người  bạn  của  ḿnh    người  khác  phái.  Chúng  tôi  chỉ  coi  nhau  như  bạn,    chỉ    thế  thôi,  không  hơn  không  kém.  Thảng  một  đôi  khi  cũng    kẻ  xấu  miệng  nói  rằng  giữa  chúng  tôi  chắc    một  cảm  t́nh  sâu  đậm  hơn,  cũng  như  họ  đă  từng  vu  khống    HPB    t́nh  nhân  của  những  người  đàn  ông  khác,  nhưng  không  một  người  quang  minh  chính  đại  nào    thể  nghĩ  như  thế  sau  khi  đă  được  gần  gũi  quen  biết    một  thời  gian  để    dịp  nhận  xét  tính  chất    tác  phong  đặc  biệt    nữ  tính  của  bà.

Sau  cuộc  gặp  gỡ    làm  quen,  chúng  tôi  nói  chuyện  về  những  hiện  tượng  quái  gở    nông  trại  Eddy      những  xứ  khác.  Tôi  được  biết    đă  từng  đi  du  lịch  nhiều  nơi,  thấy  biết  nhiều  điều    ẩn,  diệu  hiền    nhiều  bậc  danh    trong  giới huyền  môn,  nhưng  lúc  đầu    không  nói    đến  các  Chân    bên  Tây  Tạng    những  quyền  năng  của  bà.

  nói  về  khuynh  hướng  duy  vật  của  phong  trào  Thần  Linh  Học  bên  Mỹ,  vốn  quá  chú  trọng  đến  những  hiện  tượng  vật  chất  hữu  h́nh    không  biết  đến  những  khía  cạnh  triết    siêu  h́nh.      một  phong  độ,    cách  rất  duyên  dáng    hấp  dăn,  những  sự  b́nh  phẩm  chỉ  trích  của    về  người    vật  rất  độc  đáo    linh  hoạt.    t́m  cách  biết  những  ư  nghĩ,  quan  niệm  của  tôi  về  các  vấn  đề  tâm  linh,    lấy  làm  thích  thú    nhận  thấy  rằng  tôi    những    tưởng  phù  hợp  theo  đường  lối  của  Huyền  Môn      vẫn  theo  đuổi.    nói  chuyện  không  phải  với    cách  một  đạo  gia  thấm  nhuần   đạo    Đông  Phương,    với    cách  một  nhà  Thần  Linh  Học  uyên  bác.  Về  phần  tôi,  hồi  ấy  tôi  chưa  biết  hay  hầu  như  không  biết    cả  về  triết  học  Đông  Phương,    lúc  đầu    giữ  im  lặng  không  nói    đến  vấn  đề  ấy.

Những  buổi  họp  đàn  của  William  Eddy,  nhà  đồng  tử  chính  của  gia  đ́nh  này,  diễn  ra  mỗi  đêm   trong  một  gian  pḥng  rộng    trên  lầu.  Ông  William    người  em  trai    Horatia,  đều    những  nông  dân  siêng  năng  cần    làm  việc;  người  em  lo  việc  đồng  áng,  c̣n  người  anh  lo  việc  bếp  núc,  dọn  bữa  ăn  cho  các  quan  khách  hàng  ngày  tấp  nập  đến  từ  khắp  nơi  trong  xứ  Hoa  Kỳ.  Họ    những  nông  dân  nghèo,  thất  học,      nhiều  thành  kiến,  đôi  khi  lại  cau  có,  gắt  gỏng  đối  với  những  du  khách  tự  nhiên  không  mời    đến.  Mỗi  buổi  chiều,  đồng  tử  William  Eddy  ngồi  trong  pḥng  tối  để  đợi  cho  các  hiện  tượng  xảy  ra.  Khi  y  vừa  bước  vào  pḥng,  người  ta  kéo  tấm  màn  che  qua  một  bên,  th́  từ  bên  trong  bước  ra  một  bóng  ma  hiện  h́nh  một  người  đàn  ông,  đàn    hoặc  trẻ  con,  coi  như  một  pho  tượng  biết  cử  động,  tạm  thời  đông  đặc    chắc  nịch,  nhưng  trong  giây  phút  liền  tan  biến  mất  dạng  trước  mắt  của  mọi  người.

Trước  ngày    Blavatsky  đến  đây , những  bóng  ma  hiện  h́nh  đều    những  người  Da  Đỏ,  người  Mỹ  hay  người  Âu,  họ  hàng  thân  thuộc  của  những  khach  đến  viếng.  Nhưng  kể  từ  buổi  đầu  tiên  khi    vừa  đến,  th́  những  bóng  ma  thuộc  những  quốc  tịch  khác  đă  xuất  hiện  trước  mắt  chúng  tôi.  Trong  số  đó,    một  thanh  niên  người  xứ  Causase;  một  người  lái  buôn  Hồi  Giáo    Tiflis;  một    thôn  nữ  Nga,    những  h́nh  bóng  khác.  Tối  hôm  nọ ,  hiện  h́nh  một  người  kỵ    Thổ  Nhĩ  Kỳ  đeo  gương  cong,  súng  đoản    cầm  giáo  dài;  một  nhà  phù  thủy  Phi  Châu  h́nh  thù  dị  hợm,  gớm  ghiếc,  đầu  đội    miện  cắm  bốn  cái  sừng      gắn  lục  lạc  đồng;    một  người  Âu  ḍng  quư  tộc  mặc  triều  phục  với  phù  hiệu  Nữ  Thánh  Anna,      Blavatsky  nhận  ra    người  chú  của  bà.

Sự  hiện  h́nh  của  những  vong  linh  ấy  trong  pḥng  họp  đàn  của  những  người  nông  dân  nhèo    thất  học,  không  hề    đủ  tiền  bạc   để  mua  sắm  những  đồ  y  trang  sân  khấu,  cũng  không    sự  hiểu  biết,  kinh  nghiệm  để  sử  dụng  những  thứ  y  trang  đó  dẫu  cho  họ    thể  sắm  được,    một  bằng  chứng    rệt  trước  mắt  ngưới  đi  xem,  rằng  những  hiện  tượng  ấy      thật,  đồng  thời,  những  buổi  họp  đàn  này  cho  thấy  rằng  sự    mặt  của    Blavatsky  toát  ra  một  sức  hấp  dẫn  lạ  lùng  làm  cho  những  nhân  vật  kỳ  lạ  xuất  hiện  từ  cơi  giới    h́nh.  Măi  rất  lâu  về  sau,  tôi  mới  được  cho  biết  rằng    đă  sử  dụng  quyền  năng  phương  thuật  sai  khiến  tinh  linh  ngũ  hành  để  tạo  nên  những  hiện  tượng  đó.

Trong  thời  gian    Chittenden,    Blavatsky    kể  cho  tôi  nghe  nhiều  chuyện  vế  cuộc  đời    văng  của  bà, trong      việc    đă  từng  gia  nhập  nhóm  phụ  nữ  chí  nguyện  tùng  chinh  theo  Garibaldi [1] trong  trận  đánh  lưu  huyết    Mentana[2] .

Để  chứng  minh  chuyện  này,    cho  tôi  xem  cánh  tay  trái  của    bị  những  vết  gươm  chém  gẫy  xương    hai  chỗ,  vai  bên  hữu    một  viên  đạn  vẫn  c̣n  nằm  nguyên  trong  thớ  thịt,    một  viên  đạn  nữa  trong  bắp  chân.    cũng  chỉ  cho  tôi  xem  một  cái  thẹo  ngay  phía  dưới  trái  tim,  do  một  nhát  đâm  bằng    khí  nhọn.  Vết  thương  này  hơi  nứt  ra  một  ít  trong  khi      tại  Chitenden    sở      cho  tôi  xem    để  hỏi  ư  kiến  tôi  về  cách  chữa  trị  sao  cho  mau  lành.    c̣n  kể  cho  tôi  nghe  nhiều  chuyện  phiêu  lưu  mạo  hiểm  đầy  thú  vị  khác  nữa,  trong  số  đó    chuyện  nhà  phù  thủy  Phi  Châu  đội    cắm  sừng      gấn  lục  lạc  đồng,      đă  từng  gặp  khi  ông  ta  trổ  tài  nghệ    miền  thượng  du  Ai  Cập  đă  nhiều  năm  về  trước.

  Blavatsky  cố  gắng  giải  thích  cho  tôi  hiểu  rằng  những  hiện  tượng  vừa  kể  không  phải    bằng  chứng  về  sự  kiểm  chế  đồng  tử  bởi  các  vong  linh  người  chết.    nói  rằng  nếu  những  hiện  tượng  đó    thật,  th́  đó  phải    cái  Thể  Vía  của  người  đồng  tử  xuất  ra  ngoài  thể  xác    khoác  lấy  mọi  h́nh  thể  đa  h́nh  đa  dạng,  nhưng  tôi  không  tin  như  thế.  Tôi    luận  rằng  những  h́nh  bóng  xuất  hiện  ra  đó  thật  khác  biệt  nhau  quá  xa  về  vóc  hạc,  bề  cao,  tác  phong    dáng  điệu,  để    thể  nói  đó    cái  Thể  Vía  người  đồng  tử,    như  vậy  đó  phải    những  vong  linh  người  chết  hiện  h́nh  thật  sự  như  mọi  người  đều  thấy.  Sự  tranh  luận  của  chúng  tôi  đôi  khi  rất  sôi  nổi,    hồi  đó,  tôi  chưa  được  biết  nhiều  về  tính  chất  co  giăn  của  Thể  Vía  con  người  để  nhận  thấy    luận  điệu  chính  xác  của  bà,c̣n  về    thuyết  Ảo  Ảnh  Ảo  Giác  (Maya)  của  phương  Đông,  th́  hồi  đó  tôi  không  biết    cả.  Tuy  nhiên,  nhờ  vậy      mới  biết    bản  chất  của  tôi    không  chấp  nhận  bất  cứ  điều    nếu  chỉ  căn  cứ   trên  niềm  tin    không    đủ    do  vững  chắc.  Chúng  tôi  càng  hiểu  nhau  hơn  với  thời  gian  qua,    đến  lúc  chia  tay,  chúng  tôi  tạm  biệt  nhau  như  hai  người  bạn  tốt  sẵn  sang  tiếp  tục  t́nh  quen  biết  thân  hữu  đă  bắt  đầu  một  cách  vui  vẻ  tốt  đẹp  trong  những  ngày  vừa  qua.

 

II

 

Tháng  11 năm 1874, sau  khi  đă  hoàn  tất  cuộc  khảo  sát  về  những  hiện  tượng  thần  linh    nông  trại  Eddy,  tôi  trở  về  New  York    đến  viếng    Blavatsky  tại  địa  chỉ      đă  cho  tôi  trước  khi  chia  tay  tạm  biệt.  Tại  đây,    đă  biểu  diễn  cho  tơi  xem  vài  hiện  tượng    bút,    nhịp,  xoay  bàn,  phần  nhiều    do  tác  động  của  một  vong  linh  khuất  mặt  tự  xưng  danh    ‘’Jonh  King’’.

Đó    một  cái  tên  quen  thuộc  đối  với  những  người  thường  đi  tham  dự  những  buổi  họp  đàn  hồi  giữa  thế  kỷ  trước     khắp  nơi  trên  thế  giới.  Vong  linh  ấy  tự  giới  thiệu    vong  hồn  của  Sir  Henry  Mogan,  một  nhà  hiệp    kiêm  hải  tặc  sống  bên  Anh  Quốc  cách  đây  vài  thế  kỷ.  Y  đă  hiện  h́nh  một  phần  cho  tôi  xem  mặt    đầu    quấn  khăn,  trong  khi  tôi  xúc  tiến  một  cuộc  điều  tra  về  những  đồng  tử  Holmes    Philadelphia  cùng  với    Blavatsky    vài  nhân  vật  khác  ít  lâu  sau  đó.  Y    một  lối  viết  dị  kỳ,    sử  dụng  lối  văn  Anh  cổ  xưa  cũng  rất  lạ.  Hồi  đó,  tôi  không  tin  chắc  đó    Jonh  King  thật,    mọi  sự  đă  được  chứng  minh    ràng  về  thành  tích    con  người  của  y.  Nhưng  bây  giờ,  sau  khi  đă  thấy    quyền  năng  của    Blavatsky  trong  việc  tạo  nên  ảo  giác    sai  khiến  âm  binh,  tôi  mới  biết  rằng “John  King’’  chỉ    một  tinh  linh  mạo  danh    phỉnh  lừa,      sử  dụng  như  một  h́nh  nộm  để  sai  khiến    dung  làm  một  khí  cụ  để  chỉ  dẫn  cho  tôi  học  hỏi  thêm  về  khoa  Huyền  Môn.  Nói  tóm  lại,  các  hiện  tượng  đều    thật,  nhưng  không  phải  do  một  vong  linh  người  chết  thực  hiện,    chỉ    do  sự  trợ  giúp  của  một  tinh  linh  ngũ  hành[3] .

  vẫn  duy  tŕ  cái  ảo  tưởng  đó  đối  với  tôi  trong  vài  tháng,    tôi  đă  chứng  kiến  nhiều  hiện  tượng  huyền  linh  khác  mệnh  danh    do  tác  động  cùa  John  King,  chẳng  hạn  như  toàn  bộ  một  loạt  các  hiện  tượng  biểu  diễn  tại    gia  của  các  đồng  tử  Holmes    của  chính    HPB  như  đă  kể  trên.  Trước  hết  y    một    tính  riêng  biệt  tên  J. King,  kế  đó  y    John  King  thư  tín  viên    thừa  sai  của  các  Chân    c̣n  sống  trên  thế  gian,    sau  cùng,  đó  chỉ    một  tinh  linh  do    HPB  sử  dụng  để  làm  các  phép  thuật  lạ  kỳ.

Không  ai  phủ  nhận  rằng  trong  thời  gian  đầu  tiên    Mỹ,    HPB  tự  xưng    một  nhà  Thần  Linh  Học,  nhiệt  liệt  bênh  vực  khoa  Thần  Linh  Học    các  đồng  tử  chống  lại  những  kẻ  đả  kích  gồm  các  giới  độc  giả  nông  cạn,  nửa  mùa.  Những  thư  từ    bài  vở  của    đăng  trên  các  báo  chí  Anh    Mỹ    chứa  đựng  nhiều  bằng  chứng  về  việc  ấy.  Trong  một  bức  thư  gởi  đăng  trên  tạp  chí  Spiriualist  ngày  13  tháng  12  năm  1874,    viết  như  sau:

“Như  t́nh  trạng  hiện  nay,  tôi  chỉ    làm  việc  bổn  phận,  trước  hết  đối  với  khoa  Thần  Linh  Học,    tôi  bênh  vực  đến  mức  tối  đa  chống  lại  những  đ̣n  công  kích xuyên tạc  của  các  giới  thiển  cận  đội  lốt  khoa  học;    kế  đó  đối  với  hai  nhà  đồng  tử    thế  bị  vu  khống…

Nhưng  tôi  phải  thú  nhận  rằng  thật  sự  tôi  không  tin    ḿnh  đă  giúp  ích  được    cho  khoa  Thần  Linh  Học…  Tôi  cảm  thấy  một  nỗi  buồn  thấm  thía    nh́n  nhận  điều  ấy,    tôi  bắt  đầu  nghĩ  rằng    thật      phương  cứu  văn.  Tôi  đă  chiến  đấu  cho  chân  lư từ  trên  mười  lăm  năm  nay;    mục  đích  sưu  tầm    phổ  biến  chân  lư,  tôi  đă  đi  ngao  du  sơn  thủy  từ  các  vùng  núi  non  tuyết  phủ  của  xứ  Caucase  đến  những  vùng  đồng  cát    lưu  vực  sông  Nil.    mục  đích  đó,  tôi  đă  rời  khỏi  gia  đ́nh,  từ  bỏ  cuộc  đời  ấm  êm  nhung  lụa  trong  một    hội  văn  minh  để  đi  ta    khắp  nơi  trên  mặt  Trái  Đất, v.v…

“Hai  nhà  đồng  tử    thế’’      nói  trong  thư  tức    hai  ông    Holmes,    tôi  vẫn  đánh  giá  rất  thấp  về  hạnh  kiểm  cũng  như  về  thành  tích  bất  hảo.  tuy  nhiên,  trước  sự    mặt  của    Blavatsky,    dưới  những  điều  kiện  thử  thách  gắt  gao  do  tôi  thực  hiện  tại  nhà  ông    Holmes,  tôi  đă  chứng  kiến  tận  mắt  một  loạt  những  hiện  tượng  đồng  tử  thỏa  đáng    chân  thật  nhất  không  thể  chối  căi.  Hồi  đó,  tôi  đă  ngờ  rằng  cái  quyền  năng  tạo  ra  những  hiện  tượng  đó    của    HPH,  chứ  nếu  chỉ    hai  ông    Holmes,  th́    lẽ  tôi  đă  thấy  những  tṛ  giả  mạo,  hoặc    không    ǵ.  Bây  giờ,  lục  soát  lại  những  tài  liệu  cũ,  tôi  t́m  thấy  bản  văn  kiện  sau  đây  do  chính  tay    viết    hiển  nhiên    với  ư  định  sẽ  được  công  bố  sau  khi    từ  trần:

THÔNG ĐIỆP  QUAN  TRỌNG

Tôi  rất  tiếc    nói  rằng  tôi  phải  đứng  về  phe  các  nhà  Thần  Linh  Học  trong  vụ  tố  giác  hai  nhà  dồng  tử  Holmes.  Tôi  phải  cứu  văn  t́nh  thế,    tôi  được  biệt  phái  từ  Paris  sang  Mỹ  để  chứng  minh  sự  thật  của  những  hiện  tượng  thông  linh,    vạch    sự  sai  lầm  của  giả  thuyết  cho  rằng  tất  cả  những  hiện  tượng  thông  linh  chỉ    do  tác  động  của  vong  hồn  người  chết.  Nhưng tôi có thể làm    tốt  nhất?  Tôi  không  muốn  cho  người  ta  biết  rằng  tôi    thể  tạo  ra  các  hiện  tượng  tùy  ư  muốn.  Tôi  được  lịnh  phải  làm  trái  lại,  tuy  nhiên  tôi  phải  duy  tŕ  đức  tin  nơi  các  hiện  tượng  đó  trong  ḷng  của  những  người  từ  óc  duy  vật để  trở  thành  duy  linh,  nhưng  nay      sự  tố  giác  nhiều  nhà  đồng  tử,  nên  họ  đă  quay  trở  về  với  thái  độ  hoài  nghi  của  họ  trước  kia.

Bởi  vậy,  tôi  đă  chọn  lựa  vài  tín  hữu  cùng  đi  với  tôi  đến  nhà  ông    Holmes,    vối  sự  trợ  giúp  của  Chân    M.    quyền  năng  của  ngài,  tôi  đă  làm  cho  những  tinh  linh  John  King    Katie  King  xuất  hiện  từ  cơi    h́nh,  tạo  nên  những  hiện  tượng “hiện  h́nh’’, và  làm  cho  các  giới  thông  linh    khắp  nơi  tưởng  rằng  đó    do  khả  năng  đồng  tử  của    Holmes  tạo  nên.    này  đă  trải  qua  một  cơn  hoảng  sợ  khủng  khiếp, v́    biết  rằng  lần  này  các  vong  linh  đă  hiện  h́nh  thật  sự!

Tôi đă làm đúng hay sai?  Thế  gian  chưa  đủ  chuẩn  bị để  hiểu    triết    của  khoa  Huyền  Môn; trước hết họ hăy nhận định rằng có những sinh vật trong cơi giới vô h́nh, dù đó là tinh linh ngũ hành hay vong linh người chết; và con người có những quyền năng  ẩn  tang  khả    làm  cho  họ  trở  thành  một  đấng  thần  tiên  bất  tử.

Sau  khi  tôi  qua  đời,    lẽ  người  ta  sẽ  nhận  thức  tấm  ḷng      của  tôi.  Tôi  đă  phát  nguyện  nêu  cao  Chân    để  giúp  đỡ  người  đời  trên  đường  t́m  đạo,    tôi  sẽ  giữ  vẹn  lời  nguyền.  Mặc  cho  người  thế  gian  vu  khống    phỉ  bang  tôi,  họ    thể  gọi  tôi    đồng  bóng,  phù  thủy,  bịp  bợm,  hay      tùy  ư.  Một  ngày  kia, hậu  thế  sẽ    dịp  biết    tôi  hơn.  “Ôi!  Thế  gian  đau  khổ    tội  lỗi,  tôi  biết  làm  sao  hơn!’’

Toàn  thể  vấn  đề  đă  được  giải  bày  một  cách    ràng:  khoa  Pháp  Môn      được  lịnh  đem  truyền    sang  Mỹ  để  thay  thế  khoa  Thần  Linh  Học  Tây  Phương  vốn  nặng  nề  phần  hiện  tượng    bút,    khoa  Huyền  Môn  của  Đông  Phương  tức    nền  Minh  Triết  Thiêng  liêng  hay  Brahma  Vidya.    Tây  Phương  chưa  sẵn  sang  chấp  nhận  khoa  này,  nên  công  việc  đầu  tiên  được  giao  phó  cho      bênh  vực  sự  thật  về  các  hiện  tượng  thông  linh  chống  lại  những  thành  kiến  của  khoa  học  duy  vật    các   giới  liên  hệ.  Vấn  đề  cần  thiết  duy  nhất  của  thời  đại    chặn  đứng  đánh  đổ  óc  hoài  nghi  duy  vật    củng  cố  nền  tảng  tâm  linh  của  mọi  sinh  hoạt  tinh  thần.  Bởi  vậy,  khi  bước  vào  ṿng  chiến,    đứng  về  phe  các  nhà  Thần  Linh  Học  Mỹ,    tạm  thời  hăy  cất  ngọn  cờ  duy  linh    nêu  cao  một    tưởng  chung  với  họ.  Phải,  hậu  thế  sẽ  xét  đoán    một  cách  công  b́nh.

 

III

Tôi  c̣n  nhớ    phép  thuật  đầu  tiên      đă  làm  bằng  cách  sử  dụng  ư  chí,  ngay  sau  khi    bắt  đầu  viết  bộ  sách “Vén  Màn  Isis [4]’’.  Trong  số  những  quan  khách  đến  viếng  nhà  bà,    một  nghệ    người  Ư,  tạm  gọi    ông  B (Signor B).  Tôi  đang  ngồi  với    nơi  pḥng  khách  th́  ông  B. đến viếng.  Trong  câu  chuyện  trao  đổi  qua  lại  về  các  vấn  đề  của  nước  Ư,  th́nh  ĺnh  y  thốt  ra  tên  của  một  vị  Chân    trong  số  những  đấng  Cao  Cả  nhất.    HPB  giật  ḿnh  dường  như  bị  điện  giật,  nh́n  thẳng  vào  đôi  mắt  người  khách  lạ    nói  bằng  tiếng  Ư:

“Có việc ǵ vậy?  Tôi sẵn sàng.’’

Người kia  thản  nhiên  nói  qua  chuyện  khác, và  thảo  luận  về  các  vấn  đề  Phương  Thuật,  các  nhà  Thuật      các  đấng  Chân  Sư.

Khi ấy, ông B.  đứng dậy  mở  cửa  sổ, đưa  tay  khoát  vài  cái  trên  không  khí  bên  ngoài,  th́  một  con  bướm  trắng  liền  bay  vào  pḥng    bay  lượn  trên  trần  nhà.  Bà HPB cười thoải  mái  vui  vẻ    nói:

“Khá đấy, nhưng tôi cũng làm  được  như  vậy!’’

  cũng  đến  chỗ  cửa  sổ,  khoát  tay  vài  cái  tương  tự,  th́  một  con  bướm  trắng  thứ  nh́  cũng  liền  bay  vào  pḥng.    bay  lên  trần  nhà,  đuổi  theo  con  bướm  kia  khắp  chung  quanh  pḥng,  thỉnh  thoảng  hai  con  bướm  lại  đùa  giỡn  với  nhau,  rồi  cùng  bay  đến  một  góc  pḥng  th́  cả  hai  đều  biến  mất  ngay  trước  mắt  chúng  tôi.

Tôi hỏi việc ấy nghĩa là thế   nào, th́ bà đáp:

“Nó có nghĩa là ông B. có  thể  làm  cho  một  tinh  linh  biến  thành  một  con  bướm,    tôi  cũng    thể  làm  y  như  vậy. Chỉ có thế thôi.’’

Th́  ra,  hai  con  bướm  chỉ    những  vật  giả  tạo  chứ  vốn  không    thật.

Tôi  cũng  nhớ  những  hiện  tượng  thần  thông  khác  của  bà,  do  việc  sử  dụng  khả  năng  sai  khiến  âm  binh.  Một  đêm  nọ  chúng  tôi  làm  việc  soạn  quyển  sách  của    măi  đến  khuya.  Bữa  cơm  chiều  hôm  đó,  tôi  đă  ăn  vài  món  mặn,  nên  lúc  một  giờ  khuya  cảm  thấy  rất  khát  nước,  tôi  nói:

“ Chà! Bây  giờ  nếu    một  chum  nho  tươi    ăn  th́  hay  quá,  hả?

“ À, phải đấy.  Ta hăy ăn nho đi.’’

“Nhưng  các  tiệm  đă  đóng  cửa  từ  lâu,  làm  sao  mua  được  vào  giờ  này?

Không sao.  Chúng ta vẫn có nho ăn như  thường’’

“Làm sao có, và lấy đâu ra?’’

“Rồi ông sẽ thấy. Bây giờ ông hăy vặn bấc đèn thấp xuống.’’

Tôi  vặn  thấp  ngọn  đèn  hơi,  nhưng  lỡ  tay  vặn  quá  trớn  làm  đèn  tắt.  Bà nói:

“Ông  không  cần  làm  vậy.Tôi  chỉ  muốn  ông  vặn  nhỏ  lại  thôi!  Ông hăy thắp lại  đi.’’

Tôi  thắp  đèn  sáng  trở  lại    hạ  bấc  đèn  thấp  xuống  chỉ  c̣n  ánh  sang  lờ  mờ.  Bà kêu lên:

“Kia ḱa!  Ông hăy  nh́n  xem!’’

  đưa  tay  chỉ  cái  kệ  đựng  sách  trên  vách  trước  mặt  chúng  tôi.  Tôi    cùng  ngạc  nhiên    thấy  treo  lủng  lẳng  nơi  hai  đầu  cái  kệ    hai  chum  nho  tươi  lớn,  loại  nho  đen    chin,    chúng  tôi  lấy  xuống  ăn.  Tôi  hỏi    đă  dung  phương  pháp  nào,  th́    nói  đó    do  tác  động  của  vài  loại  tinh  linh  dưới  quền  sai  khiến  của  bà.

Về  sau,    đă    dịp  tái  diễn  phép  thuật  ấy  hai  lần  khác  nữa  để  đem  trái  cây  về  cho chúng  tôi  ăn  giải  khát  giữa  đêm  khuya  trong  khi  chúng  tôi  soạn  bộ  sách “Vén  Màn  Isis.’’

 

IV


           Lần  lần,  Bavatsky  nói  cho  tôi  biết  về  sự  hiện  diện  của  các  Chân    cùng  những  quyền  năng  của  các  ngài,    bằng    số  các  hiện  tượng  huyền  linh,    cho  tôi  thấy  bằng  chứng  về  quyền  năng  của    đối  với  những  mănh  lực  huyền    trong  thiên  nhiên.  Trước  hết,  như  đă nói    trên,    gán  cho  âm  bing  “John  King”  vai  tṛ  tác  động  nên  các  hiện  tượng  ấy,    chính  nhờ  sự  trợ  giúp  của  y    lần  đầu  tiên  tôi  được  tiếp  xúc  bằng  thư  từ  với  các  Chân  Sư.  Tôi  đă  ǵn  giữ  nhiều  bức  thư  cũa  các  ngài,    ghi    ngày  tháng  nhận  được  những  bức  thư  ấy.


        Trong  nhiều  năm,  cho  đến  ngày  tôi  rời  Nữu  Ước  để  sang  Ấn  Độ,  tôi  được  kết  nạp  vào  hang  đệ  tử  đặt  dưới  quyền  chỉ  đạo  của  phân  bộ  Phi  Châu  trong  QUẦN  TIÊN  HỘI.  Về  sau,  khi    HPB    một  sự  biến  đổi  huyền  diệu  về  tâm  linh    thể  chất mà  tôi  không  tiện  nói  ra,    cho  đến  nay  vẫn  không  ai  ngờ  mặc    họ  được  đối  xử  thân  mật    hoàn  toàn  tin  cẩn  của  bà ( như  họ  vẫn  tưởng ),  tôi  được  thuyên  chuyển  sang  phân  chi  Ấn  Độ,  dưới  sự  chăm  sóc  điều  hành  của  một  nhóm Chân sư khác.


         Từ  bao  giờ,  khắp  trên  thế  giới luôn  luôn  vẫn    một  tổ  chức    đại  gồm  một  TẬP  ĐOÀN  TIÊN  THÁNH  chăm  lo  d́u  dắt  sự  tiến  hóa  của  nhân  loại.  Tổ  chức  ấy  dược  chia  làm  nhiều  phân  chi  tùy  theo  những  nhu  cầu của  nhân  loại  trong  những  giai đoạn  tuần  tự  tiến  hóa  khác  nhau.  Trong  một  thế  hệ,  trung  tâm  điều  hành  của  TẬP  ĐOÀN  TIÊN  THÁNH,  tức  QUẦN  TIÊN  HỘI,  được  đặt    một  nơi  nhất  định;  vào  một  thế  hệ  khác,  trung  tâm  ấy  lại  được  đặt    một  nơi  khác.  Tuy    h́nh    ảnh  nhưng  cần  thiết  cho  sự  tiến  bộ  tâm  linh  của  nhân  loại,  quyền  năng  phối  hợp  của  TẬP  ĐOÀN  TIÊN  THÁNH  được  duy  tŕ  từ  thế  hệ  này  sang  thế  hệ  khác  để  trợ  giúp  người  hành  giả  chiến  đấu  không  ngừng  trên  con  đường  Đạo  xa  xôi  diệu  vợi  đưa  đến  Chân    thiêng  liêng. Kẻ  hoài  nghi  phủ  nhận  sự  hiện  diện  của  các  đấng  Tiên  Thánh  bởi    họ  không  nh́n  thấy  hay  nói  chuyện  với  các  ngài,  cũng  không  hề  thấy  lịch  sử  nói  về  sự  can  thiệp  hữu  vi  của  các  ngài  trong  những  biến  cố  của  các  quốc  gia.  Nhưng  sự  hiện  diện  của  các  ngài  đă  được  nh́n  nhận  bởi  hang  ngh́n  những  bậc  đạo  gia  chân  tu  của  nhiều  thế  hệ  lien  tục,  đă  giải  thoát  khỏi  sự  ô  nhiễm  của  cuộc  đời  thế  gian  để  bước  vào  cơi  giới  tâm  linh  huyền  diệu.  Trong  nhiều  thời  kỳ,  các  ngài  đă  từng  giao  tiếp  thân  mật  với  những  người  chỉ  nguyện    thân  cầu  Đạo,  hoặc  dành  trọn  cuộc  đời  phụng  sự  hiến  dâng  để  đem  lại  hạnh  phúc    t́nh  thương  trong  muôn  loài.
         Vài  người  trong  số  đó,  rất  mực  khiêm  tốn    bề  ngoài    vẻ  kém  hèn  như  chúng  tôi    những  người  lănh  đạo  phong  trào  THÔNG  THIÊN  HỌC,  đă    diễm  phúc  được  sự  ưu  ái    chỉ  giáo  của  các  ngài.  Vài  người  như    Blavatsky      đệ  Damodar  đă  được  nh́n  thấy  ngài  trong  những  cơn  linh  ảnh  từ  khi  c̣n  nhỏ.  Những  người  khác  đă  gặp  các  ngài  dưới  những  h́nh  dáng  ngụy  trang  lạ  lùng    những  nơi  thật  bất  ngờ.  Tôi  được    Blatsky  giới  thiệu  cho  các  ngài  xuyên  qua  nhân  vật  trung  gian  quen  thuộc  trong  những  kinh  nghiệm  trước  đây:  đó    vong  linh  mệnh  danh “John  King”.  Y  giúp  tôi  giao  tiếp  bằng  phương  tiện    Vi  với  bốn  vị  Chân  Sư,  trong  số  đó    một  vị  Chân    Ai  Cập,  một  vị    đại  diện  của  môn  phái  Alexandrie,  một  vị    Chân    Venitien,    một    hậu  thân  của  một  triết  gia  người  Anh,  tuy  đă  qua  đời  nhưng  vốn  bất  tử.


       Chân    Serapis (Ai  Cập)    vị    Phụ  đầu  tiên  của  tôi,  ngài    một  tác  phong  hào  hung  dũng  cảm    đầy  vẻ  cương  nghị  của  một  người  trội  hẳn  phần  nam  tính.


        Về  sau,  tôi  được  các  Chân  Sư cho  biết  rằng    Blavatsky    một  đệ  tử  trung  kiên  của  các  ngài,  tuy  rằng      những  tính  chất  bất  thường,  làm  cho    khó  dung  ḥa  được  với  vài  vị  Chân    để    thể  làm  việc  chung  với  các  ngài.  Điều  này  không  lạ    khi  ta  biết  rằng  mỗi  người  đều  tiến  hóa  theo  một  Cung  nhất  định  trong  Thiên  Cơ.  Họ    sự  ḥa  hợp  tâm  linh  với  những  linh  hồn  đồng  Cung  với  ḿnh,      thể  đối  nghịch  với  những  linh  hồn  thuộc  về  một  Cung  khác  khi  khoác  lấy  xác  phàm  để  hoạt  động  trên  cơi  hồng  trần  hạ  giới.  Đó    lẽ    cái    do  căn  bản  của  mọi  sự  ḥa  hợp  hay  xung  khắc  giữa  người  nọ  với  người  kia  trên  thế  gian.


           sao,  vài  vị  Chân    không  thể  làm  việc  chung  với    Blavatsky.    chỉ  hợp  tác  được  với  những  vị  khác,    tôi    liên  hệ  mật  thiết  trong  những  năm  đầu  của  phong  trào  Thông  Thiên  Học  thế  giới.


          Trong  những  chuyện  tâm  sự  với  nhau  khi  tôi  đă  đi  khá  sâu  vào  vấn  đề  để  biết  về  QUẦN  TIÊN  HỘI    mối  liên  hệ  của    với    quan  ấy,    HPB  (  tên  viết  tắt  của    Blavatsky )[5]  nói  cho  tôi  biết  rằng    đă  đến  Paris  từ  năm  trước ( 1873)  với  ư  định    lại  đó  ít  lâu  dưới  sự  bảo  trợ  của  một  người  thân  quyến,  nhưng  một  ngày  nọ    nhận  được  mật  lệnh  của  Chân    truyền  cho    phải  đi  ngay  sang  New  York  để  chờ  lệnh  mới.


         Qua  ngày  hôm  sau,    liền  vượt  biển  trùng  dương  với  chỉ  vừa  đủ  số  tiền  để  mua    tàu.    viết  thư  cho  cha    bên  Nga  yêu  cầu  ông  gửi  tiền  cho    qua  Lănh  Sự  Quán  Nga    New  York,  nhưng    phải  chờ  đợi  một  thời  gian,      viên  Lănh  Sự  Nga  từ  chối  không  cho    mượn  trước,  nên    phải  t́m  việc  làm  để  sống  qua  ngày.      tại  trong  những  khu  phố  nghèo  nàn  nhất    khu  Madison  của  thành  phố  New  York,    sống  bằng  nghề  may  thuê    mướn  cho  một  lăo  chủ  tiệm  tạp   hóa  người  Do  Thái  rất  tốt  bụng.    luôn   luôn  nhắc  đến  người  này  với  một  ḷng  biết  ơn.    sống  như  vậy  lây  lất  qua  ngày,  nhưng  vẫn  chưa  nhận  được  tin      tương  lai  hoàn  toàn  mờ  mịt.  Nhưng  năm  sau,  tháng  10  năm  1874,    được  mật  lệnh  đi  đến  Chittenden  để  gặp  một  người  đồng  môn  sẽ  cùng  cộng  tác  với    trong  một  công  việc    đại  trong  tương  lai:  người  ấy,  ai  ngờ  chính  lại  là…  tôi.  Những  bạn    thân  hữu  của    đều  nhớ    câu  chuyện      đă  kể  cho  họ  nghe  về  sự  lên  đường  ra  đi  bất  ngờ  của    từ  Paris  sang  New  York  theo  mật  lệnh  của  Chân  Sư.  Nhưng  những  người  bạn  thân  ấy  chỉ  nghe    kể  lại  măi  về  sau    thôi,    những  kẻ  thù  nghịch  với      thể  nói  rằng  đó  chỉ    một  việc      mới  nghĩ  ra  sau  này,  một  chuyện  giả  dối  được  bịa  đặt  ra  để  cho  ăn  khớp  với  cái  tṛ  đùa  ngộ  nghĩnh      ngụy  tạo  ra  sau  đó.


           Tuy  nhiên,  trong  khi  tôi  viết  những  trang  này  tại  Adyar  th́  một  việc  t́nh  cờ (nếu  đó    do  sự  t́nh cờ)  vừa  đem  đến  cho  tôi  một  bằng  chứng  xác  nhận  sự  việc  trên.


           Vừa  đến  lưu  trú  tại  Adyar,      Anna  Ballard,  một  nữ    giả  lăo  thành  người  Mỹ,  hội  viên  kỳ  cựu  của  Câu  Lạc  Bộ  Báo  Chí  thành  phố  New  York.  Do  hoạt  động  nghề  nghiệp,    này  đă  từng  đến  phỏng  vấn    Blavatsky  trong  tuần  lễ  đầu  tiên  sau  khi    HPB  vừa  đổ  bộ  lên  đất  Mỹ.  Trong  khi  tiếp  xúc  với  chúng  tôi,    Ballard  ngẫu  nhiên  nói  cho  tôi  nghe  hai  chuyện,    tôi  liền  yêu  cầu    viết  lại  trên  giấy  trắng  mực  đen  để  làm  tài  liệu.  Điều  thứ  nhất    khi    đến  viếng  HPB    một  nơi  nhà  trọ  nghèo  nàn  tại  New  York,    HPB    nói  rằng    từ  giă  Paris  th́nh  ĺnh    không    dự  tính  trước,  do  một  quyết  định  đột  xuất  chỉ  báo  trước    một  ngày;    việc  kế  đó      HPB  đă  từng  viếng  xứ  Tây  Tạng.  Dưới đây    lời  tường  thuật  của    Anna  Ballad:


                  Adyar, 17  tháng  1,  1892


                  Kính gởi  Đại    Olcott,


              Sự  quen  biết  của  tôi  với    Blavatsky  c̣n  lâu  hơn    ông  tưởng.  Tôi  gặp    hồi  tháng  7  năm  1873  tại  New  York,  độ  một  tuần  lễ  sau  khi    vừa  cặp  bến.  Hồi  đó,  tôi    phóng  viên  của  nhật  báo  New  York  Sun,  được  chỉ  định  viết  một  bài  về  một  đề  tài  Nga.  Khi  tôi  c̣n  đang  t́m  tài  liệu,  th́  một  người  bạn  cho  tôi  hay  rằng    một  phụ  nữ  Nga  vừa  nhập  cảnh  do  chuyến  tàu  mới  đến.


            Tôi  bèn  t́m  đến  gặp  bà,    từ  đó  bắt  đầu  một  sự  quen  biết  thân  hữu  kéo  dài  đến  nhiều  năm  sau.  Trong  cuộc  phỏng  vấn  đầu  tiên  của  tôi,    HPB  cho  tôi  biết  rằng    không  hề    ư  định  rời  Paris  để  sang  Mỹ  cho  đến  ngày  cuối  cùng  trước  khi    xuống  tàu,  nhưng      do      ra  đi    ai  thúc  hối    đi  gấp  như  vậy,  th́    không  nói.


             Tôi  c̣n  nhớ      nói  với  một  vẻ  sung  sướng  khoái  trá  lộ  ra  mặt:  “Tôi      bên  Tây  Tạng.”  Hồi  đó,  tôi  không  hiểu  tại  sao    lại  cho  đó    một  vấn  đề  quan  trọng,  c̣n  đặc  biệt  hơn  những  chuyến  du  hành    Ai  Cập,  Ấn  Độ    những  nước  khác      đă  kể  chuyện  cho  tôi  nghe,  nhưng    lại  nói  câu  ấy  với  một  vẻ  mặt  nghiêm  trọng  lạ  thường.  Bây  giờ  th́,  lẽ  tất  nhiên,  tôi  hiểu  ư    muốn  nói  ǵ.


                                                                 Kư tên:  Anna  Ballard.


 
           Độc  giả  sẽ  nhận  thấy  rằng  những  sự  việc      HPB  đă  kể  cho  người  bạn  đầu  tiên  này    New  York  hồi  hai  mươi  năm  về  trước,  đă  xác  nhận  đúng  đắn  những      từ  đó  về  sau    cũng  đă  thuật  lại  với  một  số  đông  người,  về  hai  vấn  đề  quan  trọng  nhất  trong  lịch  sử  lien  hệ  giữa    với  hội  Thông  Thiên  Học,  là:


       1._  Giai  đoạn  chuẩn  bị  của    bên  xứ  Tây  Tạng  dưới  sự  chăm  sóc  của  các  đấng  Chân  Sư; 


       2._  Cuộc  hành  tŕnh  của    đột  xuất  sang  Mỹ  để  t́m  người  bạn  đồng  môn    nghiệp  duyên  cùng  hợp  tác  với    để  phát  động  phong  trào  Thông  Thiên  Học  trên  thế  giới.


         Hồi  năm  1871,    đă    một  lần  thất  bại  khi  mưu  tính  thành lập  một    Quan  Tinh  Thần  tại  Cairo,  thủ  đô  Ai  Cập,  dựa  trên  nền  tảng  các  hiện  tượng  thần  linh.    không  t́m  được  người    đủ  khả  năng  tổ  chức    lănh  đạo,  nên  việc  ấy  không  thành;    đă  đem  đến  cho    nhiều  sự  chỉ  trích    bực  ḿnh. Tuy  nhiên,  những  phép  thuật  thần  thong      đă  biểu  diễn  với  sự  trợ  giúp  của  các  vị  Chân    Ai  Cập    một  vị  Chân    khác    về  sau  tôi  được  dịp  tiếp  xúc,  đều    những  hiện  tượng    cùng  độc  đáo.  Việc  ấy    vẻ  như  một  sự  hoang  phí  thần  lực  một  cách    ích,    cho  thấy  công  tŕnh  nầy  dường  như  thiếu  sự  hướng  dẫn của  thiêng  liêng.  Tôi  không  thể  hiểu  tại  sao  sự  việc  lại  xảy  ra  như  vậy.


        Nói  về  hội  Thông  Thiên  Học  th́  mọi  sự  diễn  biến  đều  chỉ  rằng      một  lịch  tŕnh  tiến  hóa  tuần  tự,    bị  chi  phối  bởi  hoàn  cảnh  do  tác  động  của  những  sức  mạnh  tương  phản.  Khi  th́  sinh  hoạt  êm  ái  điều  ḥa,  khi  th́  trải  qua  những  cơn  song  gió    ạt,  Hội  được  thịnh  vượng  hay  bị  trầm  trệ  tùy  theo  sự  quản  trị  thông  minh  sáng  suốt  hay  kém  khôn  ngoan  của  các  nhà  lănh  đạo.  Đường  lối  đại  cương  của  Hội  vẫn  luôn  luôn  được  ǵn  giữ,  phương  châm  hướng  dẫn  bao  giờ  cũng  vẫn  đồng  nhất,  nhưng  chương  tŕnh sinh  hoạt  của    đôi  khi  được  sửa  đổi,  nới  rộng  hay  cải  tiến  một  cách  linh  động,  uyển  chuyển  tùy  theo  kiến  thức    kinh  nghiệm  của  chúng  ta.  Mọi  sự  đều  chứng  minh  cho  tôi  thấy  rằng  phong  trào  Thông  Thiên  Học  nói  chung  đă  được  các  bậc  Tiên  Thánh  chuẩn  bị  từ  trước,  nhưng  c̣n  tất  cả  mọi  chi  tiết  đều  để  cho  chúng  ta  thực  hiện  với  sự  cố  gắng  tối  đa.  Nếu  chúng  ta  thất  bại  th́  cái    hội  quư  báu    Nghiệp  Quả  đă  dành  cho  chúng  ta  sẽ  rơi  vào  tay  người  khác,  cũng  như  hiện  nay  tôi    người  thừa  kế  những    hội  lỡ  làng    nhóm  tín  hữu  của    Blavatsky  đă  bỏ  dở  không  thực  hiện  được tại  Cairo  hồi  năm  1871.


         Trong  thưở  ban  đầu,  tôi  không  hề  nghe    Blavatsky  nói    ngụ  ư  rằng    đă  được  cho  biết  trước ,  cho  đến  khi    được  lịnh  đi  đến  Chittenden  để  gặp  tôi,  về  việc  chúng  tôi  sẽ  cùng  cộng  tác  với  nhau  trong  tương  lai,  hay    về  việc  thành  lập  hội  Thông  Thiên  Học  thế  giới.  Chúng  tôi  chỉ  nghe    nói,  như  đă  kể  trên,  rằng    được  gởi  từ  Paris  đi  New  York  với  mục  đích  truyền    giáo    Huyền  Môn,và  trước  khi  chúng  tôi  gặp  nhau,    đă  từng  tham  dự  những  buổi  họp  đàn    tiếp  xúc  với  các  đồng  tử  nhưng  vẫn  c̣n  ẩn  mặt  chứ  chưa  hề  được  công  chúng  biết  đến.


         Tháng  5  năm  1875,  với  sự  đồng  ư  của    HPB,  tôi  bắt  tay  vào  việc  tổ  chức  một  nhóm  thân  hữu  chuyên  khảo  cứu  về  Khoa  Học  Huyền  Bí,  lấy  tên    Câu  Lạc  Bộ  Huyền  Linh ( Miracle  Club ).  Trong  một  đoạn    sự  về  việc  này,    viết  như  sau:


          “Đó    một  mưu  toan  do  lệnh  dạy của  T. B. (một  vị  Chân  Sư),  nhận  được  qua  trung  gian  của  P. (một  tinh  linh)  mệnh  danh  John  King.  Được  lệnh  phải  bắt  đầu  nói  cho  công  chúng  biết  sự  thật  về  các  hiện  tượng    các  đồng  tử.  Thế    cuộc  pháp  nạn  của  tôi  sẽ  bắt  đầu!  Tôi  sẽ  gặp  phải  sự  chống  đối  của  các  nhà  Thần  Linh  Học,  thêm  vào  sự  thù  nghịch  của  bên    Đốc  Giáo    những  kẻ  hoài  nghi.  Ôi ! Chân    M.,  ư  muốn  của    Phụ  sẽ  phải  được  thực  hiện.
 HPB.”
        Câu  lạc  bộ  này  được  dự  định    sẽ  nhóm  riêng,  không  thâu  nhận  người  ngoài  trừ  ra  những  thành  viên  của  nhóm,    họ  cũng  bị  ngăn  cấm  không  được  tiết  lộ  nơi  họp.  Bà viết  thêm:


         “Tất  cả  những  hiện  tượng  Thần  Linh,  gồm  cả  các  sự  hiện  h́nh,  đều  sẽ  diễn  ra  dưới  ánh  sáng, và  sẽ  không  sử  dụng  một  pḥng  tối.”


          Theo  lời    nói  như  trên,  th́  dường  như  sẽ  không    Hội  Thông  Thiên  Học,  nếu  rốt  cuộc  người  đồng  tử  của  Nhóm  Huyền  Linh  không  hoàn  toàn  suy  thoái  rồi  rút  lui    tôi  đành  bỏ  dở  không  thể  hoàn  thành  công  việc  ấy.


                                            CHƯƠNG  HAI


                     VÀI NÉT ĐẶC THÙ  CỦA    BLAVATSKY


         Trong  chương  một ,  chúng  tôi    nói  rằng    HPB  được  lệnh  của  Chân    phải  rời  Paris  đi  New  York  một  cách  đột  ngột,  do  tin  báo  trước  chỉ    một  ngày,    khi  đó    chỉ    vừa  đủ  tiền  để  mua    tàu.Tôi  c̣n  nhớ  một  việc  liên  hệ  đến  chuyến  đi  ấy  do    thuật  lại,  việc  ấy  cũng  biểu  lộ  một  nét  đặc  biệt  trong  tính  chất  đa  dạng  của  bà,  ấy    tính  hào  sảng  tự  nhiên.


           đă  mua  một    tàu  hạng  nhất  đi  từ  Havre  đến  New  York,    khi  ra  bến,    nh́n  thấy  một  phụ  nữ  nhà  quê   ngồi  bên  vỉa    vừa  ôm  con  vừa  khóc  rất  thảm  thiết.    bước  đến  gạn  hỏi  th́  được  biết  rằng  đó    một  phụ  nữ  Đức  định  xuống  tàu  để  sang  gặp  chồng    bên  Mỹ,  nhưng  bị  một  kẻ  gian  đă  bán    giả  cho    ta    Hambourg.  Thế    khi  đến  đây,    ấy  bị    vơ,  lạc  lơng,  không  tiền  bạc    tứ  cố    thân  nơi  đất  khách.  Lẽ  tự  nhiên,  Công  Ty  Hàng  Hải  cũng  không  làm    được.  Động ḷng  trắc  ần,    HPB  nói:


          “Chị  hăy  yên  tâm,  để  tôi  xem    cách  nào  giúp  chị  được  không?”


             Kế  đó,    vận  dụng  tất  cả  mọi  khả  năng  hùng  biện,  hết  thuyết  phục  rồi  đến  quở  trách  người  đại  diện  Công  Ty,  nhưng  rốt  cuộc  vẫn  không    kết  quả.  Sau  cùng,      không    đủ  tiền  để  trợ  giúp  người  phụ  nữ  bất  hạnh  ấy  nên    phải  dùng  đến  phương  sách  tối  hậu,  chứ  không  c̣n  cách  nào  khác.    liền  đổi  vé “cabin’’  hạng  nhất  của    thành    hạng  chót,  nằm  dưới  hầm  tàu,    dùng  số  tiền  sai  biệt  để  mua    hạng  chót  luôn  cho  cả  hai  mẹ  con  người  đàn    kia!


             Nhiều  người  thuộc  loại  “nề  nếp”, “mực  thước,” thường  tỏ  ra  hoang  mang  kinh  ngạc    những  cử  chỉ  ngang  tàng  ngáo  ngổ    cả  những  điều  sống  sượng  bất  nhă  nữa  của    HPB,  nhưng  tôi  nghĩ  rằng  một  cử  chỉ  hy  sinh  hào  phóng  như  vậy  cũng  đủ  làm  nghiêng  lệch  đ̣n  cân,    quét  sạch  tất  cả  những    gọi    bất  lịch  sự  trong  phép    giao  của  người  đời!  Ai  không  tin,  hăy  thử  xuống  nằm  dưới  hầm  tàu  chở  dân  di  trú  một  lần  th́  biết!


           Trên  đây    nói  trong  trường  hợp  nào  nữ    giả  Ballard  đến  gặp    HPB  tại  một  ngôi  nhà  trọ  nghèo  nàn    một  khu  phố  b́nh  dân  của  thành  phố  New  York  trong  khi    c̣n  chờ  đợi  tiền  nhà    phải  làm  việc  may  thuê    mướn  để  sống  tạm  qua  ngày.  Đó là vào  tháng  7,  năm  1873.  Tháng  mười  năm  ấy,    nhận  được  một  bức  điện  tín  từ  Stavropol ( Nga )  của    em  gái    Elise,  cho  biết  tin  phụ  thân    từ  trần      để  lại  cho    một  phần  gia  tài.    em  cho  biết  thêm  rằng  một  ngân  phiếu  một  ngàn  Nga  Kim (roubpes)  đă  được  gửi  cho  bà.  Sau  đó  ít  lâu,    nhận  được  tiền    dời  chỗ    đến  một  khu  phố  khang  trang  lịch  sự  hơn,    đường  East 16th,  công  trường  Irving,  New  York.  Chính    địa  chỉ  này    tôi  đến  gặp    sau  khi  từ  nông  trại  Eddy  trở  về.  Tuy  nhiên,  số  tiền  ấy  không    với    được  lâu,    như  ông  Sinett    nhận  xét    ghi  lại  trong  quyển  sách  của  ông  (về  tiểu  sử  của    HPB)  th́  một  mặt      thể  chịu  đựng  một  cách    cùng  nhẫn  nhục  những  cơn  nghèo  túng    nghịch  cảnh  khó  khăn,  nhưng  khi  tiền  bạc  vừa  đến  tay  bà,  th́    dường  như  lấy  làm  băn  khoăn  khổ  sở  trừ  khi    đem  vứt  quăng  đi  với  cả  hai  tay  bằng  những  phương  tiện  dại  dột  nhất.


            Đó    một  cuộc  chung  vốn  làm  ăn      hợp  đồng  để  khai  thác  nông  trại  của  một  người  tên    C.G.  trong  một  kỳ  hạn    ba  năm.  Trong  bản  hộp  đồng    điều  khoản  quy  định  rằng    HPB  sẽ  bỏ  ra  số  tiền  một  ngàn  đô  la  để  chung  vốn,  tất  cả  những  lợi  tức  thu  hoạch  được  về  hoa  màu,  rau  trái,    vịt,    nhũng  hoa  lợi  linh  tinh  khác  sẽ  được  chia  đều    mọi  phí  tổn  cũng  sẽ  cùng  gánh  chịu  đều  nhau, v..v…


          Điều    người  ta    thể  tiên  liệu  trước  đă  xảy  ra:    HPB  đến    tại  nông  trại,  lợi  tức  đâu  chẳng  thấy,  đâm  ra  tranh  chấp,  căi  lẫy,  rồi  mắc  nợ    vướng  vào  một  vụ  kiện    rất  lâu  về  sau  các  bạn    thân  hữu  của    mới  giúp    giải  quyết  xong.  Thế    tan  tành  cái  giấc  mộng  về  lợi  tức  của    về  rau  trái,  hoa  màu,  nuôi    sữa,    đẻ  trứng, v..v…Ba  tháng  sau  đó,  tôi  mới  gặp    tại  ngôi  nhà    hồn  ma  hiện  h́nh    tại  Vemont,  Chittenden, và  bánh  xe  nghiệp  quả  của  chúng  tôi  mới  bắt  đầu  chuyển  động.


           Những  bài  phóng  sự  của  tôi  đăng  trên  nhật  báo  Daily  Graphic  đă  hấp  dẫn  đến  Chittenden  một  vị  lương  y  danh  tiếng  của  thành  phố  New  York,  bác    Beard.  Khi  trở  về,  y  đă  viết  một  bài  b́nh  phẩm  ngu  xuẩn    khoác  lác  đăng  trên  báo,  nói  rằng  những  chuyện  hồn  ma  hiện  h́nh    nông  trại  Eddy  chỉ    những  tṛ  giả  mạo,    y  đă  bị    HPB “cạo  sát  da”  trong  một  bức  thư  trả  lời  nảy  lửa  gởi  đến  ṭa  soạn  báo  Graphic.  Bức  thư  của      một  sự  biện  hộ  can  đảm    độc  đáo  bênh  vực  cho  những  đồng  tử  Eddy    sự  thật  của  những  hiện  tượng  xảy  ra,  làm  cho    đột  nhiên  vang  dậy  tên  tuổi  khắp  các  giới  kể  từ  đó  trở về  sau.  Đây    lần  đầu  tiên    quần  chúng  Mỹ  được  nghe  tên  tuổi    liên  quan  dến  những  vấn  đề  huyền  linh,    cuộc  tranh  luân  với  một  bác    nổi  tiếng    New  York  thời  ấy    cái  nguyên  nhân  chính  làm  cho    được  nổi  danh  một  cách  bất  ngờ.


          Hồi  đó,    luôn  luôn  phát  ngôn  với  một  giọng  sôi  nổi,  hào  hùng    vui  nhộn  trong  tất  cả  mọi  cuộc  đàm  thoại    trên  diễn  đàn  ngôn  luận,  báo  chí;    thu  hút  mọi  người  bằng  cách  nói  chuyện  linh  động    ư  nhị;  khinh  bỉ  những  nghi  thức    giao  giả  dối  của  người  đời,    gây  sự  ngạc  nhiên  trong  các  giới  bằng  những  quyền  năng  thần    của  bà.    thường  rút  trong  cái  kho  tang    ức    cùng  dồi  dào  phong  phú  về  những  chuyện  phiêu  lưu  mạo  hiểm      đă  trài  qua  do  kinh  nghiệm  bản  thân,    trong  kho  kiến  thức  thâm  sâu  về  khoa  Huyền  Môn,    theo  chỗ  tôi  biết  th́  không  ai    thể    kịp  trong  số  các  nhân  vật  xuất  hiện  ở Mỹ  thời  bấy  giờ.  Khi  tôi  đă  kết  thúc  loạt  bài  phóng  sự  đăng  trên  báo  Daily  Graphic  về  các  hiện  tượng  thần  linh    Chittenden,  tôi  bèn  chuẩn  bị  in  ra  thành  sách.  Vào  lúc  này,    HPB  cũng  dời  chỗ  đến    Philadelphia.  Hồi  đó,  khoa  Thần  Linh  Học  đang  trải  qua  một  giai  đoạn  xuống  dốc  do  hậu  quả  của  việc  đồng  tử  Holmes  bị  nhà  bác  học  Dale  Owen  công  khai  tố  giác    dối  trá,  bịp  bợm.  Những    quan  ngôn  luận  của  phong  trào  bị  mất  độc  giả  rất  nhiều,  những  sách  vở  Thần  Linh  Học  sang  giá  nhất  đều  bị  mất  khách  hang    nằm  trong  các  nhà  sách  không  ai  mua. Nhà  xuất  bản  quyển  sách  của  tôi  bị  giao  động  tinh  thần  dến  nỗi  tôi  phải  đề  nghị  vối  ông  Dale  Owen      đồng  tử  Holmes  mở  một  cuộc  trắc  nghiệm  dài  hạn  dưới  những  điều  kiện  của  tôi  đưa  ra  để  chúng  tôi  thực  hiện  những  cuộc  thử  thách  này  tại  nhà  ông    Holmes.  Sau  đó,  tôi  đến  Havana,  tiểu  bang  New  York,    chứng  kiến  những  hiện  tượng  đồng  tử  thật    kỳ  diệu  của    Compton.  Tất  cả  những  cuộc  khảo  sát  trên  đây  đều  được  tường  thuật  lại  đầy  đủ  trong  quyển  sách  của  tôi  nhan  đề  “Người  về  từ  cơi  âm”    sau  cùng    được  đem  phát  hành.


               
                                               II
          
          Trong  khi    HPB    Philadelphia,  tôi  nhận  lời  mời  của      đến  đó    nghỉ  vài  ngày  sau  một  thời  gian  làm  việc  mệt  nhọc.  Tôi  định  đi  vắng  nhà    vài  ngày  thôi  nên  không  dặn  người  nhà    văn  pḥng  Luật  chuyển  thơ  từ  cho  tôi,  nhưng  khi  đến  nơi  tôi  mới  biết    không  muốn  để  tôi  về  sớm  như  vậy.  Qua  ngày  hôm  sau,  tôi  đến  Sở  Bưu  Điện,    yêu  cầu  họ  đem  thư    của  tôi  nếu  có,  đến  địa  chỉ  của  tôi  đang  ở.  Khi  đó  th́  xảy  ra  một  việc  làm  tôi  ngạc  nhiên,    hồi  đó  tôi  chưa  được  biết  nhiều  về  những  quyền  năng  thần  thông  của  các  Chân        HPB    chí  đến  bây  giờ  đối  với  tôi,    vẫn  c̣n    một  kỳ  quan  lạ  lung  dẫu  rằng  tôi  đă  từng  trải  qua  một  thời  kỳ  kinh  nghiệm  lâu  dài  về  các  hiện  tượng  huyền  linh.
         Ngay  chiều  hôm  đó,  người  đem  thơ  đem  đến  cho  tôi  vài  bức  thơ  gởi  từ  ngoại  quốc,  ngoài  bao  thơ  đề  địa  chỉ  của  tôi    New  York,    đóng  dấu  các  trạm  bưu  điện  xuất  xứ  nhưng  KHÔNG    CON  DẤU  CỦA  SỞ  BƯU  ĐIỆN  THÀNH  PHỐ  NEW  YORK.  Bất  chấp  mọi  luật  lệ  của  quy  tắc  bưu  điện,  những  bức  thư  đó  đă  được  giao  thẳng  đến  tay  tôi    Philadelphia    không  đi  qua  Sở  Bưu  Điện  thành  phố  New  York.    New  York  không  ai  biết  địa  chỉ  của  tôi  tại  Philadelphia    chính  tôi  cũng  không  biết  khi  tôi  rời  khỏi  nhà  ra  đi.  Khi  mở  các  bao  thơ,  tôi  thấy  trên  các  thơ  đều    những  gịng  chữ  viết,  đúng    tuồng  chữ  trên  những  bức  thơ  của  các  Chân      tôi  đă  nhận  được    New  York  trước  đây,  những  gịng  chữ  này  được  viết  hoặc    ngoài  lề,  hoặc    những  khoảng  trống  trong  thơ  của  những  người  giao  dịch  với  tôi.  Những  gịng  chữ  đó  hoặc  b́nh  phẩm  về  tính  hạnh  hay  ư  đồ  của  các  đương  sự,  hoặc    những  lời  khuyên    liên  quan  đến  vấn  đề  học  Đạo  của  tôi.  Việc  ấy  mở  màn  cho  toàn  thể  một  loạt  những  hiện  tượng  kỳ  diệu  khác  nữa  trong  khoảng  thời  gian  độ  hai  tuần    tôi  trải  qua  tại  Philadelphia.


           Phân  tích  những  hiện  tượng  thần  thông  của    HPB,  hoặc    liên  quan  đến  bà,  chúng  tôi  nhận  thấy  chúng    thể  được  chia  làm  nhiều  loại,    khả  năng  tạo  nên  những  iện  tượng  đó  đ̣i  hỏi  một  sự  hiểu  biết  về  những  điều  sau  đây:


      _  Biết    những  năng  dụng  rốt  ráo  của  vật  chất,  mănh  lực  kết  cấu  các  nguyên  tử,  nhất    sự  hiểu  biết  về  tiềm  năng  của  chất  TINH  QUANG  hay  TIÊN  THIÊN  KHÍ (Akâsha).


    _  Khả  năng  tác  động  của  các  Tinh  Linh  Ngũ  Hành  khi  đặt  dưới  ư  chí  điều  khiển  của  con  người.


   _   Quyền  năng  sáng  tạo  của    tưởng , có  thể  dùng  thuật  thôi  mien  tạo  ra  những  ảo  giác  mắt  thấy, tai  nghe  và xúc  cảm  những  điều    thật  ra  vốn  không  có.


   _  Khả  năng  phóng  xuất  h́nh  ảnh  hay  chữ  viết  bằng  sức  mạnh  của  ư  chí.


   _Khả  năng  đọc    tưởng  của  người  khác,    thần  nhăn  nh́n  thấy  quá  khứ  vị  lai.


   _  Khả  năng  thần  giao  cách  cảm  tùy  ư  muốn  giữa  ḿnh  với  những  nhân  vật  ngang  hàng  hoặc  cao  hơn  ḿnh  về  tŕnh  độ  phát  triển  tâm  linh.


  _  Khả  năng  đọc  được    Ức  của  Thiên  Nhiên,  ẩn  tang  trong  chất  Tinh  Quang  hay  Tiên  Thiên  Khí  nơi  đó  chứa  đựng  tất  cả  những  kho  tang  hiểu  biết  của  con  người.


         Hồi  tưởng  lại  những  nhận  xét  của  tôi  trong  hai  chục  năm  qua,  tôi  nghĩ  rằng  tất  cả  những  chuyện    tôi  đă  từng  kể,  hay  sẽ  thuật  lại  trong  quyển  sách  này,  sẽ  thuộc  về  một  trong  những  loại  kể  trên.


         Những  kẻ  hoài  nghi  chắc  sẽ  nói  rằng  sự  phân  loại  như  trên    vẻ  độc  đoán    những  giả  thuyết  của  tôi    hăo  huyền.  Họ  sẽ  yêu  cầu  tôi  chứng  minh  sự  thật  về  các  Tinh  Linh  Ngũ  Hành;  về  hiện  tượng  thần  nhăn;  về  sự  chuyển  di  đồ  vật  xuyên  qua  không  gian;  về  sức  mạnh  hấp  dẫn    kết  cấu  các  nguyên  tử,v..v… Tôi  chỉ    thể  thuật  lại  những  điều    tôi    nhiều  người  khác  đă  nh́n  thấy,    thách  đố  kẻ  hoài  nghi  t́m  ra  được  trong  cơi  thiên  nhiên  bất  cứ  một  định  luật  nào  ngoài  ra  những  điều  đă  nêu  trên  để  giải  thích  các  sự  kiện  không  thể  chối  căi.  C̣n  nếu  người  ta  cho  rằng  đó    phép  lạ,  hay  ma  thuật,  th́  chừng  đó  tôi  sẽ  ngậm  miệng,    điều  đó  chận  đứng  mọi  cuộc  tranh  luận.  Tôi  không  tự  hào    thể  giải  thích  tất  cả  những  hiện  tượng  thần  thông  của    HPB,    điều  ấy  đ̣i  hỏi  một  tŕnh  độ  hiểu  biết  ít  nhất    tương  đương  với      điều    tôi  không  bao  giờ  có.


                                                          III

          Những  ngày    tôi  trải  qua    Philadelphia  đều  bận  rộn  với  việc  học  Đạo    chứng  kiến  những  hiện  tượng  thần  thông  của    HPB.   Ngoài  ra,  tôi  c̣n    một  số  bạn    thân  hữu,      đă  làm  những  phép  thuật  huyền  linh  này  trước  mặt  mọi  người.  Trong  số  những  phép  thuật  đó,  tôi  c̣n  nhớ    lần    làm  cho  một  bức  ảnh  trên  tường  th́nh  ĺnh  biến  mất  khỏi  cái  khung,    thay  vào  đó    một  bức  chân  dung  hoạt  họa  của  John  King,  trong  khi  một  người  trong  số  quan  khách  đang  nh́n  vào  bức  ảnh.


           Lần  lần,  tôi  được    giảng  giải  cho  nghe  những    thuyết  của  Huyền  Môn  Đông  Phương  về  tinh  thần    vật  chất    về  những  vong  linh  khuất  mặt  trong  cơi    h́nh.    không  bảo  tôi  từ  bỏ  giả  thuyết  Thần  Linh  Học,    chỉ  cho  tôi  thấy    nhận  định  rằng  như  một  khoa  học  chân  chính,  khoa  Thần  Linh  Học  thật  sự  chỉ    thể    phương  Đông,    những  người  tinh  thông  về  khoa  này  chỉ    thể    những  bậc  đạo      đệ  tử  của  các  đạo  phái  Huyền  Môn  Đông  Phương.
           Với  tấm  ḷng  thành  thật  khách  quan  đối  với  các  nhà  Thần  Linh  Học,  tôi  phải  nói  rằng  cho  đến  nay,  chưa    một    thuyết  khoa  học  nào  được  đưa  ra  về  những  hiện  tượng  đồng  tử    phần  đông  nói  chung  họ  đă  chấp  nhận.    tôi  cũng  không  thấy    một  bằng  chứng  cụ  thể  nào  chỉ  rằng  trong  số  những  tín  hữu  Tây  Phương  của  phong  trào  này,    ai  đă  từng  khám  phá  một  phương  pháp  nào  để    thể  kêu  gọi  các  vong  linh  xuất  hiện  hoặc  tạo  ra  các  hiện  tượng  tùy  ư  muốn.  Không  một  người  đồng  tử  nào    tôi  đă  từng  gặp  hoặc  nghe  nói  đến,  đă    một    quyết  hay  chân  ngôn  để  thực  hiện  được  những  việc  đó,  vốn    những  điều  rất  thông  thường    quen  thuộc  từ  nhiều  thế  hệ    các  xứ  phương  đông.


            Trong  khi    HPB  làm  cho  tôi    các  bạn  hữu  tin  rằng  những  hiện  tượng  xảy  ra  hầu  như  mỗi  ngày  đều    do  tác  động  của  vong  linh  John  King,  mạo  nhận    vong  hồn  một  hải  tặc  lừng  danh  khi  xưa  tên    Sir  H. Morgan,      chỉ  trợ  giúp  y  với    cách    một  người  trung  gian  hay  phụ  tá,    HPB  đă  làm  nhiều  hiện  tượng  chứng  tỏ        một  bản  lĩnh  cao  cường  về  ngành  Phương  Thuật (Magic ).


            Tôi  xin  kể  một  thí  dụ,  đồng  thời  cũng  nói  thêm  rằng  những  phát  minh  khoa  học  lớn  lao  thường  bắt  nguồn  từ  việc  t́nh  cờ  nhận  xét  những  sự  việc  rất  đỗi  thông  thường,  chẳng  hạn  như  một  trái  táo  rụng  xuống  đất giúp  Newton  khám  phá  Luật  Hấp  Dẫn (Gravitation ); và  việc  nh́n  thấy  cái  nắp  thiếc  nhảy  dựng  trên  cái  ấm  nước  đang  sôi[6]


            Ngày  nọ,  nhận  thấy  trong  nhà  thiếu  khăn  mặt  để  dùng,  tôi  mua  vài  cái  khăn  lớn  đem  về,    cắt  ra  làm  độ  một  chục  chiếc  khăn  nhỏ.   Khi  thấy    HPB  định  lấy  ra  dùng  ngay    không  chịu  viền  các  cạnh  khăn  lại  cẩn  thận,  tôi  mới  phản  đối  lối  sống  thiếu  ngăn  nắp  đó,      liền  lấy  kim  chỉ  ra  may.    chưa  kịp  bắt  đầu  bỗng  nhiên    đá  một  cái  dưới  gậm  bàn    nói  với  một  giọng  giận  dữ:


          “Đồ  láo,  đi  ra!”


           Tôi hỏi:


          “Cái    vậy?”


          Bà đáp:


          “Có ǵ  đâu!  Chỉ    một  tinh  linh    kéo  vạt  áo  tôi    muốn    một  việc    làm!”


           Tôi nói:


         “À, hay quá!  Sẵn đây, bà  hăy  đưa  khăn  cho    may.    cần    phải  làm  cho  nhọc,  vả  lại    cũng  chẳng  khéo  tay    cho  lắm  về  đường  kim  mũi  chỉ?”


             cười    mắng  tôi  chê    may  dở,  nhưng  cũng  chưa  chịu  làm  theo  sự  thỉnh  cầu  của  kẻ  khuất  mặt    dưới  gậm  bàn,  sẵn  sàng  trợ  giúp  một  tay  nếu    dịp.  Sau  cùng,  nghe  lời  thuyết  phục  của  tôi,    bảo  tôi  hăy  để  khăn  mặt    kim  chỉ  trong  một  cái  tủ  kiếng    khóa,    che  màn  lụa  xanh    phía  tường  bên  kia.  Tôi  làm  theo    trở  lại  tiếp  tục  ngồi  nói  chuyện  với    về  đề  tài    thú  duy  nhất    bất  tận  của  chúng  tôi,    vấn  đề  khoa  học  huyền  bí.  Sau  độ  mười  lăm  hay  hai  mươi  phút,  tôi  nghe  một  tiếng  động  nhỏ  giống  như  tiếng  chuột  kêu    dưới  gậm  bàn,  khi  đó    HPB  cho  tôi  biết  rằng  “nó”  đă  viền  xong  mấy  cái  khăn.  Tôi  bèn lại  mở  tủ    thấy  mười  hai  cái  khăn  mặt  đă  viền  xong,  tuy  rằng  hơi  vụng  về,  giống  như  của  trẻ  em  mới  tập  may  trong  các  lớp  may  nhi  đồng.  Thế    mấy  cái  khăn  mặt  đă  được  viền  b́a  thật  sự  không  thể  nghi  ngờ,  trong  cái  tủ  đă  khóa  kín      HPB  không  hề  bén  mảng đến  gần  trong  suốt  thời  gian  đó.  Lúc  ấy,  vào  độ  bốn  giờ  chiều,  giữa  ánh  sang  ban  ngày.  Chúng  tôi  chỉ    hai  người  trong  pḥng,  không    người  nào  khác  bước  vào  cho  đến  khi  mọi  việc  đă  xong.


             lần  trong  khi  chúng  tôi  đang  ngồi  nói  chuyện    pḥng  khách,    HPB  th́nh  ĺnh  biến  mất.  Tôi  đă  từng  trải  nhiều  kinh  nghiệm  về  các  hiện  tượng  huyền  linh,  nhưng  việc  này  làm  tôi  ngạc  nhiên    lo  lắng.  Sau  khi  đi  lục  soát  khắp  trong  nhà    không  thấy  ǵ,  tôi  trở  lại  pḥng  khách  châm  ống  điếu  hút  thuốc,    thử  t́m  hiểu  điều    mật  này.  Hồi  đó    năm  1875,  tức    nhiều  năm  trước  khi  khoa  thôi  miên  được  thí  nghiệm    phổ  biến,  cho  nên  tôi  không  hề  biết  rằng  lúc  ấy  tôi  chỉ    một  đối  tượng  thụ  cảm,      HPB  chỉ    làm  che  lấp  thị  giác  của  tôi  để  tôi  không  nh́n  thấy    trong  khi    vẫn    mặt  tại  chỗ.


           Một  lúc  sau    xuất  hiện  trở  lại  nơi  pḥng  khách,  tôi  mới  hỏi  năy  giờ    đi  đâu,  thí    cười    nói  rằng        việc  phải  làm  về  phần  “ vô  vi ”  nên    đă  tàng  h́nh  trong  chốc  lát.  Nhưng    tàng  h́nh  bằng  cách  nào  th́    không  nói.    cũng  làm  phép  thuật  đó  trước  mặt  tôi    những  người  khác  nhiều  lần  nữa, trước    sau  khi  chúng  tôi  đi  sang  Ấn  Độ,  nhưng  tất  cả  những  lần  đó  đều  xảy  ra  nhiều  năm  trước  khi  tôi  được  biết    về  khoa  thôi  miên,  vốn    cái  đáp  số  dễ  dàng  của  thuật  tàng  h́nh.  Như  tôi  đă    lần  giải  thích,  thuật  thôi  miên  của  Đông  Phương  c̣n  cao  tay  ấn  hơn  nhiều  so  với  Tây  Phương,    trong  trường  hợp  này,  sự  dẫn  dụ  để  che  lấp  giác  quan  của  người  thụ  cảm  được  thực  hiện  bằng    tưởng  trong  âm  thầm,  chứ  không  phải  truyền  lệnh  bằng  giọng  nói    âm  thanh.  Người  thụ  cảm  không  được  cảnh  giác  để  chống  lại  sự  dẫn  dụ,    sự  việc  xảy  ra  tự  nhiên  trong  khi  y  không  hay  biết    cả.


              HPB  c̣n  biểu  diễn  nhiều  hiện  tượng  thần  thông  lạ  lùng  khác  nữa.  Tôi  chỉ  thuật  lại  vài  sự  việc  đáng  kể,    làm  thỏa  măn    trí    óc  phê  b́nh  của  tôi  về  sự  thật  của  khoa  huyền  thuật  Đông  Phương.  Đó    thời  kỳ    tôi  được  biết    HPB  như  một  bạn  đồng  môn,  mối  liên  hệ  giữa    với tôi  được  thiết  lập  trên  một  cương  vị  hoàn  toàn  b́nh  đẳng    mật  thiết.  Nhờ  đó,  tôi  mới    thể  nhận  xét   như  một  người  thường,  trước  khi    được  các  bạn  Đạo  suy  tôn  gần  như  thần  thánh,  những  người  này  không  được  biết    về  những  sở  trường,  sở  đoản    tính  chất  rất  cận  nhân  tính  của  bà.


            Như  tôi  sẽ  tŕnh  bày  một  cách  trung  thực, cái  h́nh  ảnh    tưởng  đă  phai  mờ  của  tác  giả  các  bộ  sách  “Vén  Màn  Isis” và “Giáo      Truyền” sẽ    h́nh  ảnh  của  một  người  bằng  xương  bằng  thịt;  một  người  phụ  nữ  thật  sự  tuy  rằng  trội