|
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES
|
NHỮNG CHUYỆN XUẤT VÍA ĐI CẦU CỨU
BẠCH LIÊN |
|
MỘT NGƯỜI THỦY THỦ MẶC ÁO MƯA ƯỚT DẦM.
TUY SAY CƠI TỈNH CHƯA TAN L̉NG PHÀM
Mảng riêng sanh những bàng hoàng,
Tuy say cơi tỉnh, chưa tan ḷng phàm.
Trót xưa túi sách con gươm,
Ví ta Sào, Hứa, ai làm Y, Chu.
Thưa rằng: Đă đứng trượng phu,
Sự đời vinh nhục chi cho bận ḷng.
Ví tham ngàn tứ muôn chung,
Con chim bay măi cũng trong khung trời.
Làm chi cho bạn Tiên cười,
Ai vui Viên Hạc, ai chơi Yên Hà.
Vởn vơ trong đám phồn hoa,
Ba mươi sáu động, ai là chủ nhân.
(Bích Câu Kỳ Ngộ)
QUAY MŨI THUYỀN VỀ NOROÎT
Trong quyển «Bên kia cửa tử» (L’autre côté de la mort), đức Leadbeater nói: Câu chuyện «Quay mũi thuyền về Noroît» (Route au Noroît) vốn của Ngài chép lại trong quyển «Những bước trên biên giới của một cơi khác» (Les pas sur les frontières d’un autre monde), trang 242, tác giả là Robert Dale Owen. Tôi xin viết lại câu chuyện cho dễ hiểu như sau:
Robert Bruce là phó thuyền trưởng nhứt của chiếc thương thuyền Ba Cột Buồm chạy đường Liverpool (Anh) – St John tức là Nouveau Brunswick (Gia Nă Đại).
Một lần kia, tàu chạy được 5, 6 tuần lễ rồi, chỉ mũi về hướng tây. Khi tàu gần tới phía đông ḷng chảo Terre Neuve (Bancs de Terre Neuve) th́ hai vị, chánh phó thuyền trưởng lên nhắm hướng rồi tính toán đường đi trong ngày.
Phía sau lái tàu có một căn pḥng nhỏ. Chiếc thang nhỏ đi lên pḥng lại nằm ngang chiếc tàu. Ngay cái thang, sau đầu cầu thang nhỏ vuông vức là pḥng của phó thuyền trưởng nhứt. Trên đầu cầu thang có hai cái cửa, một cái mở ra phía sau trong pḥng, một cái ở ngay cầu thang dắt xuống pḥng làm việc của thuyền trưởng. Trong pḥng làm việc, gần cửa có một cái bàn viết, ai ngồi tại bàn viết ngó lên trên th́ thấy tất cả trong pḥng. Phó thuyền trưởng Bruce chăm chú làm những bài toán, kết quả lại khác hơn ư anh muốn. Anh không chú ư đến những cử động của thuyền trưởng. Làm toán xong, anh không day mặt lại, hỏi lớn: Tôi t́m được vĩ độ bao nhiêu? Kinh độ bao nhiêu? Số nầy có thể đúng không? C̣n thuyền trưởng t́m được bao nhiêu? Không nghe trả lời, anh lặp lại câu hỏi một lần nữa, nh́n lên phía trên vai th́ thấy một người mà anh tưởng là thuyền trưởng đang lo viết trên tấm bảng đá. Không nghe trả lời anh đứng dậy, khi tới ngay cửa pḥng th́ người mà anh ngỡ là thuyền trưởng ngước đầu lên. Anh rất ngạc nhiên mà thấy một người rất lạ.
Bruce không phải là nhát gan, nhưng khi thấy người đó chăm chỉ ngó anh, có vẻ nghiêm nghị, mặc dù lặng thinh, thay v́ hỏi tại sao người đó lại vào đây được th́ anh lại chạy lên sắc mặt hơ hải, làm cho thuyền trưởng lấy làm ngạc nhiên mà hỏi: Bruce! Cái ǵ xảy đến cho anh vậy?
Bruce: - Cái ǵ xảy đến cho tôi? Thưa thuyền trưởng, ai ngồi tại bàn viết của ông?
Thuyền trưởng: - Không có ai hết?
Bruce: - Có mà. Có một người rất lạ, thưa thuyền trưởng.
Thuyền trưởng: - Một người rất lạ? Anh nói ǵ, Bruce? Anh có chiêm bao không? Có thể là anh thấy phó thuyền trưởng nh́ hay là anh bồi tàu, ngoài ra không có ai dám xuống dưới, nếu không có lịnh tôi.
Bruce: - Có, thưa thuyền trưởng. Y ngồi trên ghế thuyền trưởng day mặt ra cửa và viết trên tấm bảng của ngài. Y ngó ngay tôi. Trên đời nầy, người mà tôi thấy rơ ràng và đặc biệt, chính là y.
Thuyền trưởng: - Người đó là ai vậy?
Bruce: - Chỉ có Trời biết! Tôi thấy một người mà từ đó đến giờ tôi chưa gặp lần nào.
Thuyền trưởng: - Anh Bruce! Anh phát điên rồi sao? Chúng ta rời bến sáu tuần rồi, mà có một người lạ ư?
Bruce: - Tôi biết điều đó. Nhưng mà tôi thấy.
Thuyền trưởng: - Thôi anh hăy xuống dưới xem thử ai đó?
Bruce: - Bruce ngần ngại rồi nói: «Tôi không tin ma quỉ, nhưng nói thật với thuyền trưởng, tôi không muốn đối diện với y.»
Thuyền trưởng: - «Anh Bruce! Hăy xuống dưới lập tức, đừng để bọn thủy thủ thấy anh làm chuyện kỳ cục.»
Bruce: - Bruce tái mặt nói: «Tôi mong thuyền trưởng thấy tôi làm những việc hữu lư. Nếu không có việc chi quan trọng, tôi xin thuyền trưởng đi với tôi xuống dưới.»
Thuyền trưởng đi trước, Bruce theo sau.
Không có ai trong pḥng. Quan sát cùng hết, không thấy bóng dáng ai cả. Thuyền trưởng mới nói: «Bruce, tôi há không nói với anh rằng anh chiêm bao hay sao?»
- Bruce nói: «Thưa thuyền trưởng! Nếu tôi không thấy một người ngồi viết, th́ đừng cho tôi trở về thấy xứ sở, gia quyến tôi.»
- «À! Nếu y viết trên bảng đá th́ phải c̣n dấu tích.» Thuyền trưởng bèn lấy tấm bảng đá lên coi.
- «A! Có cái ǵ đây! Nầy Bruce! Có phải là tuồng chữ của anh không?»
Bruce cầm bảng đá lên xem th́ thấy có mấy chữ viết rất rơ ràng: «Quay mũi thuyền về Noroît.»
- Thuyền trưởng mới nói với giọng nghiêm nghị: «Bruce! Anh muốn giễu cợt với tôi sao?»
- Bruce bèn nói: «Lấy danh dự của con người và thủy thủ, tôi xin thề, tôi không biết chi về việc nầy cả, cũng như ngài vậy. Tôi chỉ nói sự thật với thuyền trưởng.»
- Thuyền trưởng ngồi tại bàn viết, để bảng đá trước mặt, rồi suy nghĩ nhiều lắm. Ông bèn đưa bảng đá cho Bruce, bảo anh hăy viết câu: «Quay mũi thuyền về Noroît.» Bruce vâng lời. Thuyền trưởng so sánh kỹ lưỡng hai tuồng chữ rồi nói: «Bruce! Anh hăy kêu anh phó thuyền trưởng nh́ xuống đây.»
Khi anh phó thuyền trưởng nh́ xuống rồi, anh nầy cũng viết câu đó, rồi tới phiên anh bồi tàu và tất cả những thủy thủ. Các tuồng chữ đều khác nhau, nhưng không có tuồng chữ nào giống như tuồng chữ viết trên tấm bảng đá một cách bí mật đó.
Khi tất cả lui ra rồi, thuyền trưởng mới nói, sau khi suy nghĩ rất lâu: «Phải có một người lạ mặt trên tàu. Nếu kiếm không được y th́ thật là y rất có tài đùa cợt. Tin đồn có người lạ mặt trên tàu lan ra; khi thủy thủ được lịnh lục soát khắp tàu, không có kẹt hóc nào mà không móc moi. Nhưng hoài công, vô ích, không gặp ai cả.
Trở về pḥng làm việc, thuyền trưởng mới nói: «Bruce! Anh nghĩ sao về việc nầy?»
- Tôi không biết sao mà nói. Tôi thấy một người ngồi viết, ngài cũng thấy tuồng chữ của y. Chắc chắn có một điều ǵ đây mà chúng ta không hiểu.
- Có lẽ đúng vậy. Trời hôm nay gió tốt. Tôi muốn đổi hướng đi để coi có cái chi xảy ra không?
- Bruce nói: «Tôi cũng có ư định đó. Nếu tôi ở địa vị thuyền trưởng, tôi cũng sẽ làm như vậy. Bất quá chúng ta mất vài giờ thôi.»
- «Được! Chúng ta hăy chờ xem. Bruce! Anh lên ra lịnh cho tàu quay mũi về Noroît. Phải cho một người gác trên cḥi canh, nên lựa một người mà chúng ta có thể tin cậy.»
Tới 3 giờ chiều, trên cḥi canh báo tin thấy một tảng băng trôi giạt phía đàng trước, dường như là có một chiếc tàu đụng vào đàng sau tảng băng. Khi tàu tới gần, thuyền trưởng bỏ ống ḍm thấy một chiếc tàu bị mắc kẹt giữa những tảng băng, trên tàu lô nhô những người, có lẽ là hành khách. Thuyền trưởng cho tàu ngưng lại, thả ca nô xuống rước những người bị nạn. Ấy là một chiếc tàu chạy từ Québec (Gia Nă Đại) qua Liverpool bị mắc vào nước đá đă nhiều tuần rồi, lương thực đă hết, nước uống gần cạn. Tàu bị lủng bể, trên tan nát. Thủy thủ và hành khách không c̣n hy vọng nào được sống cả, th́ th́nh ĺnh được chiếc tàu nầy tới cứu. Hăy tưởng tượng họ mừng rỡ tới bực nào.
Khi Bruce thấy một người từ chiếc ca nô thứ ba chở về bước lên tàu, th́ trong ḷng anh hồi hộp. Chính là anh thấy người nầy ngồi tại pḥng viết của thuyền trưởng 3, 4 giờ trước đây. Ban đầu anh nghĩ cái đó là do sự tưởng tượng của anh, anh cố gắng xua đuổi ư nghĩ đó đi. Nhưng càng quan sát anh nầy th́ anh càng tin chắc anh không lầm. Chẳng những gương mặt mà cho đến y phục cũng không sai chút nào.
Khi người ta săn sóc đoàn thủy thủ và cho hành khách ăn uống rồi, th́ Bruce nói riêng với thuyền trưởng tàu Ba Cột Buồm: «Dường như không phải tôi gặp ma, ấy là một người sống.»
- «Bruce! Anh nói sao? Một người sống? Ai là một người sống?»
- «Ấy là người hành khách mà chúng ta mới cứu. Chính tôi thấy rơ ràng anh đó ngồi viết tại pḥng thuyền trưởng lúc đúng ngọ.»
- «Việc nầy thật là lạ. Vậy chúng ta hăy đi t́m y.»
Thuyền trưởng và Bruce gặp y đang nói chuyện với thuyền trưởng tàu mắc nạn. Hai vị nầy gặp thuyền trưởng tàu Ba Cột Buồm và Bruce đi tới th́ đồng nói: «Chúng tôi rất cám ơn nhị vị ân nhân cứu chúng tôi và hành khách thoát khỏi cái chết lần ṃn, v́ đói và lạnh.»
Thuyền trưởng tàu Ba Cột Buồm và Bruce đáp lại rằng: «Chẳng có chi cả, nhị vị cứ yên tâm. Chúng tôi chỉ làm việc bổn phận. Nếu chúng tôi chẳng may lâm vào cảnh ngộ nầy, chắc chắn là quí vị cũng ra tay cứu giúp chúng tôi. Xin mời nhị vị xuống pḥng tôi tṛ chuyện.»
Tới nơi, phân ngôi chủ khách rồi, thuyền trưởng tàu Ba Cột Buồm mới nói với vị hành khách. Tôi có một việc muốn nhờ ông. Xin ông viết cho tôi vài chữ.
- Vị hành khách trả lời: «Tôi sẵn ḷng, nhưng tôi phải viết cái chi?»
- Thuyền trưởng đưa cho anh bề mặt tấm bảng đá không có chữ và xin anh viết câu nầy: «Quay mũi thuyền về Noroît.»
- Anh viết rồi th́ trao lại cho thuyền trưởng. Thuyền trưởng xem coi, không cho anh hành khách thấy, ông lật tấm bảng có hàng chữ viết lúc năy đưa cho anh coi rồi hỏi: «Có phải là anh viết câu nầy không?»
- Anh nh́n vô rồi nói: «Quả là chữ của tôi, ngài đă thấy tôi viết mà.»
- Thuyền trưởng lật tấm bảng lại rồi hỏi: «C̣n câu nầy?»
Anh xem thấy hai bề tấm bảng đều có câu: «Quay mũi thuyền về Noroît» cũng một tuồng chữ, anh lấy làm lạ rồi nói: «Cái nầy là nghĩa ǵ vậy? Tôi viết có một bề. C̣n bề kia, ai viết?»
Thuyền trưởng tàu Ba Cột Buồm mới nói: «Tôi cũng không biết sao mà nói. Chính là vị phó thuyền trưởng của tôi thấy ông ngồi viết câu nầy trên bảng đá tại bàn tôi, lúc đúng ngọ.»
Vị hành khách và thuyền trưởng tàu mắc nạn ngó nhau rất ngạc nhiên. Thuyền trưởng tàu mắc nạn hỏi vị hành khách: «Anh có chiêm bao thấy anh viết trên bảng đá nầy không?»
- Vị hành khách trả lời: «Tôi không nhớ chi cả.»
Thuyền trưởng tàu Ba Cột Buồm mới nói với vị thuyền trưởng tàu mắc nạn: «Ngài mới nói về chiêm bao. Xin ngài cho tôi biết lúc đúng ngọ, vị hành khách nầy làm cái chi?»
Thuyền trưởng tàu mắc nạn mới nói: «Chuyện nầy bí mật và lạ lùng lắm. Tôi cũng định thuật lại cho ngài nghe khi chúng tôi được yên ổn.
Anh bạn đây ṃn mỏi quá, trước lúc đúng ngọ, anh nằm xuống ngủ mê mang. Lối một giờ hay là hơn một giờ anh thức dậy rồi nói với tôi: «Nầy thuyền trưởng! Nội bữa nay chúng ta được cứu thoát.» Tôi mới hỏi anh: «Cái ǵ làm cho anh nói như thế,» th́ anh trả lời: «Anh chiêm bao thấy anh ở trên chiếc tàu Ba Cột Buồm và chiếc tàu nầy tới cứu chúng ta. Anh mô tả h́nh dáng chiếc tàu, trang cụ của nó. Chúng tôi rất ngạc nhiên khi thấy chiếc tàu nầy hiện tới giống như lời anh nói.»
Thuyền trưởng tàu Ba Cột Buồm mới nói: «Những chữ nầy từ đâu đến, việc đó không quan hệ, có một điều không c̣n chi nghi ngờ nữa là chính mấy chữ đó cứu mạng quí vị hành khách. Trong lúc đó thuyền chúng tôi đi về phía tây nam, tôi cho đổi hướng lại tây bắc, tôi cho một người lên gác trên cḥi canh để xem có việc chi xảy đến không?
Anh không có chiêm bao thấy viết trên bảng đá sao?»
- Vị hành khách đáp: «Tôi không nhớ chi cả. Tôi có cảm giác chiếc tàu Ba Cột Buồm tới cứu chúng tôi. Nhưng cái cảm giác đó ở đâu đến, tôi không thể nói được. Có một điều rất lạ là dường như tôi rất quen thuộc với tất cả những ǵ ở trên tàu của ngài, song tôi quả quyết rằng tôi chưa lên đây lần nào cả. Thật là một chuyện bí mật đối với tôi.
Nhưng ông phó thuyền trưởng nói với ngài điều chi?»
Bruce liền thuật lại chuyện anh đă thấy.
Tất cả đều kết luận: Chính là Thượng Đế thương xót những người mắc nạn, nên sai chiếc tàu Ba Cột Buồm tới cứu họ thoát khỏi t́nh trạng tuyệt vọng.
Chuyện nầy vốn do ông J. S Clarke, thuyền trưởng chiếc tàu Julie Hellock thuật lại cho ông Robert Dale Owen.
Tác giả bài nầy hỏi thuyền trưởng J. S Clarke: «Xin ông cho tôi biết Bruce là người thế nào?»
Sau đây là câu trả lời của J. S Clarke: «Trong đời tôi, tôi chưa gặp một người nào ngay thẳng và thành thật hơn Bruce. Chúng tôi thân mật với nhau như hai anh em ruột. Hai người không thể ở chung với nhau trên một chiếc tàu trong một thời gian 17 tháng mà không tin cậy nhau từ lời nói. Bruce thuật câu chuyện nầy luôn luôn với một cách kính cẩn, dường như đó là một dịp đưa anh đến gần Thượng Đế và một thế giới khác.
Tôi lấy sinh mạng tôi bảo đảm: Bruce không hề nói dối với tôi.»
HAI CHUYỆN TƯƠNG TỰ
Tôi xin kể thêm hai chuyện tương tự như câu chuyện của Bruce.
MỘT NGƯỜI THỦY THỦ MẶC ÁO MƯA ƯỚT DẦM
Trong tạp chí Thông Thiên Học tập XXII, trang 274, có một đoạn sau đây vốn của đức bà A. Besant viết ra (đại ư):
Trong những cuộc hành tŕnh của tôi, tôi thường dùng đường biển. Một lần kia, một vị thuyền trưởng thuật lại cho tôi nghe một trong những sự kinh nghiệm của ông.
Ông nói: «Có một anh thủy thủ mặc áo mưa ướt dầm tới xin tôi đổi hướng tàu chạy để cứu những người bị đắm tàu.
Tôi nghe theo lời anh, cho tàu chạy theo phương hướng anh chỉ th́ gặp một đám thủy thủ c̣n sống sót trên một chiếc ca nô, sau khi tàu của họ bị ch́m. Trong đám người nầy, tôi nh́n thấy có anh thủy thủ mặc áo mưa ướt dầm tới kêu tôi.»
Đức bà A. Besant nói tiếp: «Trong một tờ nhật báo của chúng ta có đăng một chuyện giống như chuyện của Bruce. Việc nầy đă xảy ra cho ông Benner, thuyền trưởng của chiếc thuyền Brick Mohawk, chở hàng hóa qua Mỹ Châu.»
CHIẾC TIỂU THUYỀN BRICK MOHAWK
Một đêm kia, thuyền trưởng đang ngủ trong pḥng, bỗng có một anh đội mũ mưa màu xanh đánh thức ông dậy, xin ông cho đổi hướng tàu chạy về phía tây nam.
Thuyền trưởng tưởng là vị phó thuyền trưởng sai anh nầy xuống gọi ông thức dậy, ông bèn lật đật lên trên , gặp phó thuyền trưởng, hỏi ra th́ mới biết phó thuyền trưởng không có ra lịnh cho ai cả. Thuyền trưởng xuống pḥng ngủ lại, anh nầy lại hiện ra gọi nữa. Thuyền trưởng lên th́ không gặp người nào. Ông trở xuống pḥng, cũng anh thủy thủ nầy lại đến gọi ông và nói nếu ông không lưu ư tới điều nầy, công việc sẽ trễ lắm. Ông bèn nghe theo cho đổi hướng tàu chạy. Chẳng bao lâu th́ gặp một chiếc ca nô chở bốn người thủy thủ, trong đó có một người đội mũ mưa màu xanh.
Đêm rồi, anh nầy chiêm bao thấy anh ba lần xuống pḥng thuyền trưởng xin đổi hướng tàu chạy để cứu bọn anh đang lâm nguy.
LỜI GIẢI
Tôi đem câu chuyện đắm tàu ngoài biển thuật cho quí bạn nghe, để quí bạn biết rằng người ta thấy hiện tượng mà không tri ra được nguyên nhân sanh ra hiện tượng. Nguyên nhân nầy không phải ở tại cơi trần mà vốn ở mấy cơi khác. Thế nên không thể nào lấy luật vật lư hồng trần mà giải thích cho đúng được.
Trong câu chuyện đắm tàu mới kể ra đây có vài điều mà chúng ta cần phải biết như:
1) – Số mạng chiếc tàu và những hành khách.
2) – Sự xuất vía có thật và chứng minh rằng con người không phải là xác thân nầy.
3) – Có sự can thiệp của những vị pḥ trợ vô h́nh.
Bây giờ trước hết xin nói về việc «Quay mũi thuyền về Noroît.»
Về chiếc tàu bị nạn tại Noroît th́ không thấy nói tên chiếc tàu, ngày giờ mắc nạn, không có tên thuyền trưởng và số người trên tàu, hành khách, thủy thủ được cứu thoát.
Về hai chiếc dưới cũng không đầy đủ chi tiết. Có lẽ người ta cho chuyện đắm tàu là chuyện rất thường, không có chi là lạ lùng, c̣n những người sống sót là nhờ cái may nào đó, chớ không bao giờ nghĩ rằng đó là một bài học sâu xa của tạo vật để dạy thế gian về luật nhân quả.
SỐ MẠNG CỦA CHIẾC TÀU VÀ HÀNH KHÁCH
Chiếc tàu có số mạng không? Tôi tin có. Số mạng nầy do ảnh hưởng của các hành tinh chiếu vào chiếc tàu lúc khởi sự đóng tàu và lúc thả tàu xuống biển.
Không biết sao mà giải thích cho mọi người đều hiểu.
Tuy nhiên không phải tàu nào đóng vào giờ xấu cũng bị ch́m cả.
Có chiếc hư liền liền, có chiếc trục trặc măi, không cái nầy th́ cái khác, có chiếc thường đụng thuyền bè khác, có chiếc ít ai ưa, nên không được nhiều hành khách. Không thể giải thích được, v́ lư do nào mà những việc thường xảy ra cho tàu nầy, lại không đến cho tàu kia cùng chạy một đường.
Cũng không phải những tàu xuyên đại tây dương đều đụng những tảng băng cả. Thí dụ: Chiếc Titanic là chiếc tàu xuyên đại tây dương lớn và đẹp nhất thế giới của Anh quốc vào lúc 61 năm trước (tính từ năm 1973).
Dài 271 thước, trọng tải 60.000 tấn. Anh quốc rất hănh diện về chiếc tàu nầy. Nhưng than ôi! Mới chạy lần đầu tiên qua Mỹ quốc, ngày 14-4-1912, tới phía nam Terre Neuve đụng nhằm tảng băng ch́m liền, trong lúc giàn nhạc trên tàu và hành khách đang hát bài: «Đức Thượng Đế, chúng tôi gần Ngài!» Có lối 1.500 người chết trong vụ đắm tàu nầy, cũng có một số ít người sống sót.
C̣n tại sao chiếc tàu mắc kẹt giữa đám tảng băng ở Noroît không ch́m? Hành khách được cứu sống. Thử hỏi hai chiếc tàu nầy có số mạng không? Và hành khách trên hai chiếc tàu nầy có số mạng hay không? Nếu không có số mạng th́ v́ lẽ nào cũng đồng bị tai nạn như nhau, có người chết, có người c̣n sống? Người học đạo và hành đạo tin chắc rằng đây là nhân quả, tức là có số mạng.[6]
Quí bạn sẽ hỏi: Số mạng là ǵ?
Số mạng là một số quả mà mỗi người phải trả trong một kiếp. Tới bài «Chuyện Quả Báo» tôi sẽ giải thích thêm.
Bây giờ xin nói về xuất vía.
Trong ba trường hợp đă kể ra chỉ nhờ xuất vía mà cứu được các hành khách và thủy thủ.
XUẤT VÍA LÀ G̀ ?
Xuất vía là thể vía ra khỏi xác thân.
Xin nhắc lại, trước đây tôi có nói: Con người có bốn thể thường dùng là:
1) – Xác thân để hành động.
2) – Phách để thu hút sanh lực vô ḿnh, để nuôi xác thân, kết hợp các tế bào và cũng làm cho con người biết cảm giác nữa.
3) – Thể vía để biểu lộ t́nh cảm và ư muốn.
4) – Thể trí (hạ trí) để học hỏi, xét đoán, ghi nhớ, tưởng tượng, phân biện….
Con người sẽ dùng thể vía và trí như dùng xác thân, khi qua cơi trung giới và thượng giới.
HAI CÁCH XUẤT VÍA
Có 2 cách xuất vía.
1) – Xuất vía tự nhiên.
2) – Tự ḿnh muốn xuất vía chừng nào cũng được.
1. XUẤT VÍA TỰ NHIÊN
Lúc ngủ là lúc xuất vía tự nhiên.
Thể vía xuất ra ngoài khỏi xác rồi, con người mới ngủ. Chừng nó về nhập vô xác th́ con người thức dậy.
2. TỰ M̀NH MUỐN XUẤT VÍA CHỪNG NÀO CŨNG ĐƯỢC
Muốn xuất vía chừng nào cũng được phải biết phương pháp, tức là phải học với một nhà huyền bí học lăo luyện có nhiều kinh nghiệm. Nếu học với một người thường th́ e có ngày sẽ gặp những điều nguy hiểm đến tánh mạng.
Cơi trung giới minh mông và dẫy đầy những cạm bẫy. Các nhà huyền bí học gọi cơi nầy là cơi của những ảo tưởng. Bọn ngũ hành và tinh quái thay đổi h́nh dáng và màu sắc lẹ làng. Mới qua trung giới lần đầu tiên th́ con người thấy ḿnh bơ vơ, tư bề lạ lùng, cảnh vật khác hẳn cơi trần, có nhiều sự nguy hiểm ŕnh ṃ những kẻ chưa kinh nghiệm. Đời xưa người ta gọi nó là «Cơi Lạ» rất đúng.
Chớ nên lầm tưởng rằng xuất vía là một việc dễ dàng.
Trong chuyện «Cô Katie King» tôi có nói vài lời về cách xuất vía rồi hiện h́nh ra.
TRƯỜNG HỢP CỦA VỊ HÀNH KHÁCH VÀ HAI NGƯỜI THỦY THỦ
Ba người nầy xuất vía rồi hiện h́nh ra. Có h́nh dạng như xác thân mới nói chuyện và hoạt động tại cơi trần được.
Nhưng họ có học phép xuất vía rồi hiện h́nh ra không? Không có cái chi để chứng minh điều nầy cả. Trong câu chuyện chỉ thấy nói họ nằm ngủ mê mang rồi chiêm bao thấy đi cầu cứu.
Vậy th́ làm sao họ hiện h́nh ra được? Làm sao họ biết có ba chiếc tàu đi tới gần đó để cầu cứu? Muốn hiểu tại sao th́ phải nói tới công việc của những vị pḥ trợ vô h́nh.
SỰ CAN THIỆP CỦA NHỮNG VỊ PH̉ TRỢ VÔ H̀NH
Trước hết nên biết những tai nạn xảy ra ở dưới trần, dù trên đường bộ, dưới đường thủy hay trên không gian tức là đi bộ, xe, tàu, máy bay, các Đấng cao cả đều biết trước. Các Ngài sai những vị thiên thần, đệ tử mà chúng ta gọi là những vị pḥ trợ vô h́nh tới những chỗ sẽ xảy ra tai nạn. Những người tới số chết mới chết, c̣n những người chưa tới số th́ phải ra tay cứu giúp. Tùy theo căn quả của họ, có người th́ bị thương tích nặng, có người bị thương tích nhẹ, mà cũng có người bị trầy sơ chút đỉnh ngoài da. Phải làm sao cho đúng với số tiền định của họ.
Những người chết qua trung giới đều được những người từ thiện tới an ủi và dạy dỗ đường đi nước bước (xin xem «Lá thơ của người chết»).
Chính là những vị pḥ trợ vô h́nh làm cho thể vía của vị hành khách và hai người thủy thủ hiện ra, rồi dắt họ đi tới ba chiếc tàu và chỉ cách cho họ cầu cứu.
Không có sự trợ giúp vô h́nh th́ không bao giờ vị hành khách viết được hàng chữ «Quay mũi thuyền về Noroît», c̣n hai người thủy thủ làm sao biết được pḥng thuyền trưởng ở chỗ nào để cầu cứu.
Họ đói khát mệt mỏi quá rồi, họ đă kiệt sức. Họ đâu có quen thuộc với ba vị thuyền trưởng, họ không biết ba chiếc tàu nầy đi về đâu.
Bao nhiêu cũng đủ thấy: Không thể nào nói rằng nhờ t́nh cờ những người bị tai nạn được cứu thoát, không có số tiền định.
Chúng ta tai phàm mắt thịt, nên không thấy cách hành động của luật nhân quả. Phải tu hành tới bậc La Hán, mở được huệ nhăn mới thấy đúng sự thật của mỗi trường hợp.
Tôi xin kể chuyện thánh François Xavier cứu một chiếc tàu nhỏ trong cơn dông tố giữa biển khơi. Quí bạn sẽ biết: Sự cứu trợ những người bị tai nạn giữa biển xảy ra thường lắm, chớ không phải là chuyện hi hữu.
CHUYỆN THÁNH FRANÇOIS XAVIER XUẤT VÍA CỨU CHIẾC TÀU NHỎ KHỎI BỊ CH̀M TRONG CƠN DÔNG TỐ DỮ DỘI GIỮA BIỂN KHƠI
Năm 1541, thánh François Xavier đi trên một chiếc tàu từ Nhật Bản qua Trung nguyên. Giữa đường gặp cơn dông tố dữ dội. Không biết v́ lẽ nào mà có 15 người xuống một chiếc tàu nhỏ. Chiếc tàu nhỏ nầy bị sóng gió đùa trôi mất dạng, những người ở trên chiếc tàu lớn lo sợ số phận của 15 người nầy.
Thánh François Xavier bèn nói: Quí vị hăy an ḷng. Trong ba ngày nữa chúng ta sẽ gặp lại họ. Ba ngày sau, dông tố đă tàn. Chiếc tàu nhỏ cập chiếc tàu lớn, 15 người bước lên tàu lớn b́nh an. Mấy người nầy nói trong lúc bị băo tố, họ vững bụng, không chút chi lo sợ, v́ thánh François Xavier cầm tay bánh chiếc tàu nhỏ nầy. Những người ở trên tàu lớn căi lại rằng: «Luôn luôn thánh ở trên tàu lớn, giữa cơn dông tố đi đâu được mà xuống tàu nhỏ cầm lái.»
Làm sao tin được chuyện lạ lùng như thế? Thánh nào ở trên tàu lớn, c̣n thánh nào điều khiển chiếc tàu nhỏ?
Thật vậy, chúng ta quen với cách sống trần thế, chỉ biết có xác thân nầy. Làm sao một người mà ở một lúc hai chỗ khác được, mà nhất là trong cơn dông tố dữ dội giữa biển khơi.
Các nhà huyền bí học đều biết rằng: Thánh xuất vía qua cầm lái chiếc tàu nhỏ để cứu 15 người nầy, v́ họ chưa tới số chết.
Nhưng làm sao mà chiếc tàu nhỏ bé như thế lại không bị ch́m trong khi sóng bủa ba đào lớn như trái núi, gió thổi với tốc độ cả trăm cây số một giờ.
Luôn luôn có bàn tay của những vị pḥ trợ vô h́nh giúp đỡ. Mấy vị nầy dùng thần lực bảo hộ chiếc tàu nhỏ, nên nó mới không bị nhận xuống biển sâu. Chớ sức người dầu tài ba lỗi lạc tới đâu cũng không đương đầu nổi với gió to sóng lớn giữa biển khơi trong lúc băo bùng.
Nghe ba chuyện nầy rồi, quí bạn sẽ bảo: Tôi công nhận thần quyền. Đúng vậy, tôi công nhận thần quyền, mà tôi không ỷ lại vào thần quyền.
Mặc dù con người không tin thần quyền. Thần quyền cũng vẫn hành động ngày đêm, giờ phút nào cũng có, ngay trước mắt ta. Tin hay không tin, không thành vấn đề, v́ không ai sửa đổi luật trời, cũng như không ai bắt buộc được mặt trời phải mọc ở hướng tây.
Trời sanh ra con người, th́ không khi nào con người mạnh hơn Trời, mà Trời cũng không bao giờ làm theo ư muốn của con người.
ĐỨC THƯỢNG ĐẾ CÓ HAI NGHĨA
Trong bài: «Quay mũi thuyền về Noroît», kết luận của bốn người: hai thuyền trưởng, một phó thuyền trưởng và một hành khách là đức Thượng Đế sai tàu Ba Cột Buồm tới cứu những người mắc nạn.
Đức Thượng Đế có hai nghĩa:
1. Nghĩa thứ nhứt: Ấy là Đấng chí tôn độc nhứt vô nhị, sanh hóa vũ trụ càn khôn, tức là cả ngàn triệu thái dương hệ trên không gian, tiếng Pháp là Logos Cosmique Dieu, hoặc Allah, Brahma, Thái Cực Thánh Hoàng.
2. Nghĩa thứ nh́: Ấy là Đấng chí tôn sanh hóa một thái dương hệ, tiếng Pháp là Logos d’un système solaire, tức là Thái Dương Thượng Đế.
Trong bài «Quay mũi thuyền về Noroît», đức Thượng Đế đây là đức Thái Dương Thượng Đế, Ngài là Cha lành của chúng ta. Ngài sanh ra con người và tất cả loài vật trên 7 dăy hành tinh của thái dương hệ chúng ta.
Lần lượt tôi sẽ giải thêm những chi tiết cần thiết.
XUẤT VÍA CẦU CỨU VỚI BẠN THÂN
W.và P. là hai vị giáo sĩ, bạn thân với nhau từ lúc c̣n ở trường trung học.
P. ở trong tu viện cách xa nhà W. lối 18 dặm Anh. [7]
Một đêm kia W. chiêm bao hai lần thấy rơ ràng P. hiện ra trước mặt anh, sắc diện sợ hăi và buồn bă. P. nói với anh W. «Anh ơi! Người ta sắp chôn tôi.»
Sáng ra, sau khi điểm tâm rồi, W. ngồi trên ghế dựa bỗng nghe có tiếng gơ cửa. W bảo: «Xin mời vào.» Anh nghe cửa mở và tiếng người đi vô. Anh ngỡ là đứa tớ trong nhà lên lo dọn dẹp, nên không nh́n lên, không để ư tới. Nhưng, anh lại nghe bên tai có tiếng quen thuộc của anh P. nói với anh một lần nữa: «Anh ơi! Người ta sắp chôn tôi.» Anh giựt ḿnh, lật đật lên xe lại tu viện. Tới nơi thấy xe tang đă đậu trước cửa. Người ta đă liệm anh P. vô ḥm, đóng đinh lại rồi sửa soạn đem đi chôn. Anh giải thích cho người ta xin đ́nh chỉ việc động quan. Anh mở ḥm đem thây anh P. để trên giường, mướn người thoa bóp, đánh dầu nóng. Một chặp anh P. tỉnh lại, rồi từ đó mạnh luôn. Tới 9 năm sau, anh P. mới thật từ trần.
Chuyện nầy đức Leadbeater trích trong quyển «Sights anh Shadows» của bác sĩ Lee, trang 88.
Câu chuyện những người hấp hối hay từ trần hiện về cho bà con thân thiết hay biết không có chi là lạ lùng. Việc nầy thường xảy ra, ở nước nào cũng có. Tại Việt Nam vẫn có những trường hợp như thế, song tại người ta không điều tra kỹ lưỡng, không viết bài tường thuật, nên ít ai nói tới.
Tuy nhiên, câu chuyện của anh P. có hơi khác thường một chút.
Anh P. đau cái chi không biết mà tắt hơi rồi, thân thể anh giá lạnh, người ta mới liệm anh vô ḥm. Tại sao anh lại biết anh chưa chết? Anh đến cho anh W. biết trong lúc chiêm bao: «Người ta sắp chôn anh.»
Tôi tin chắc anh có nói với anh W. rằng anh chưa thật chết. Nếu anh thật chết th́ người ta chôn anh là lẽ thường, đi cầu cứu với anh W. làm chi? Làm sao anh W. dám tới xin cạy ḥm ra? Tại sao anh P. biết anh W. không lại tu viện, nên anh đến nhà anh W. hiện h́nh, gơ cửa và nói bên tai một lần nữa?
Trước đây tôi đă nói: Muốn xuất hồn hiện h́nh, phải thông thạo khoa pháp môn. Muốn hiện h́nh ra được, luôn luôn hồn ma phải có sự hỗ trợ bên ngoài. Trường hợp anh P., tôi tưởng vẫn có một vị vô h́nh giúp đỡ anh ba lần.
Lần đầu là dắt hồn anh P. tới anh W. vào lúc nằm chiêm bao.
Lần thứ nh́: Giúp cho anh P. hiện h́nh, gơ cửa và nói ra tiếng.
Lần thứ ba: Cứu anh P. sống lại.
Anh W. không cho anh P. uống một nhỏ thuốc nào. Chỉ thoa bóp mà anh P. hồi dương, có phải đây là một việc phi thường không? Thử hỏi: Nếu anh P. không sống lại, anh W. sẽ trả lời làm sao với những người có mặt trong tu viện lúc đó về việc làm khờ dại của anh. Người chết đă liệm rồi, mà dám phá ḥm đem thây ra không phải là một chuyện giả bộ, tṛ chơi. Mà anh W. có tài ǵ cải tử hoàn sanh? Thật là hoàn toàn bí mật.
V́ mấy lẽ trên đây, tôi tin có sự hỗ trợ vô h́nh bên ngoài, nên anh W. mới mạo hiểm làm một việc táo bạo như thế.
Những chuyện nhân quả chằng chịt với nhau, nói một cách tổng quát th́ được. C̣n những chuyện cá nhân riêng biệt, th́ phải là những vị cao đồ của Chơn Sư mở huệ nhăn tri ra cả chục kiếp trước mới thật hiểu nguyên nhân. Chúng ta chưa tới tŕnh độ đó.
Tôi xin nhắc lại một lần nữa, tôi đem những chuyện xuất vía khác nhau thuật lại để chứng minh rằng: Linh hồn bất tử. Con người là linh hồn, chớ không phải là xác thân nầy và kiếp chết không phải là kiếp mất. Nó chỉ là một sự thay h́nh đổi dạng mà thôi.
------------------------
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES