trang nhà trang sách l bản tin l thiền học l tiểu sử trang thơ l h́nh ảnh l bài vở 
 

VĂN HÓA VÀ SỰ TIẾN BỘ CỦA CON NGƯỜI

(CULTURE AND HUMAN PROGRESS)
RADHA BURNIER
Bản Dịch Chơn Như 2006

Bài thuyết tŕnh để kỷ niệm Đại đức Venkatarama Sastri

đọc ngày 22 tháng 11 năm 1986 ở Madras

Sự tiến bộ có tính chất lừa dối. Chúng ta sống trong một thế giới càng ngày càng hiểu biết nhiều; một đằng chúng ta đă thâm nhập vào cốt lơi của nguyên tử và của tế bào, c̣n một đằng th́ chúng ta đă thám hiểm được khoảng không gian vũ trụ rộng lớn. Sự hiểu biết này suy ra từ sự khảo cứu kiên nhẫn, sự lư luận tinh vi và những sự thấu hiểu liên ngành đă làm thay đổi những nét chấm phá trong sinh hoạt hằng ngày. Những tiến bộ dường như phép lạ trong công nghệ truyền thông hầu như có một tính chất thần thoại. Những báo cáo gần đây cho ta biết rằng trong thế giới thịnh vượng ngày nay người ta đă xây dựng hàng ngàn căn nhà đóng một vai tṛ song hành với vai tṛ của người quản gia, v́ chúng được cài đặt chương tŕnh để bật đèn hoặc tắt đèn, để đun nóng nước, để tiếp nhận các thông điệp và báo cho cảnh sát biết trong trường hợp có trộm cắp. Những tiến bộ về công nghệ cũng đă mang lại những khái niệm mới về sức khỏe và vệ sinh, và những phép lạ về phẫu thuật đang hằng ngày đă kéo dài tuổi thọ của con người.

Mặc dù có mọi sự tiến bộ này thế giới đang bị xáo trộn về mỗi mực độ. Cuộc chạy đua vũ trang đă mang lại cho chúng ta viễn ảnh hủy diệt khủng khiếp sự sống trên hành tinh.

Trong phạm vi nhiều biên giới quốc gia, bóng ma khủng bố, bạo lực của các giáo phái và sự xung đột tương tàn đang làm u ám đi cuộc sống của mọi người. Ở mức độ cá nhân, sự vong thân, bức xúc và cầu bất đắc đă tạo ra những cơn dịch làm bại hoại tâm trí mà trước nay ta chưa từng biết tới. Việc nghiện ma túy và do đó gia tăng tội ác, những hoạt động mafia trên toàn thế giới và bạo lực diễn ra trên đường phố đang trở thành một phần của xă hội đô thị hóa quá nhiều trong chúng ta. Sự tham nhũng tràn lan là hậu quả tất yếu của một xă hội dựa trên ḷng tham. Chủ nghĩa tiêu thụ và lối sống cạnh tranh song hành với sự suy đồi các giá trị. Những mối bất ḥa cá nhân và những sự căng thẳng trong nội bộ gia đ́nh đă trở nên nhức nhối hơn do xu hướng thịnh hành trong sinh hoạt xă hội.

T́nh h́nh này của thế giới chứng tỏ rơ ràng điều mà Malinowski có nói theo đó sự tinh xảo về công nghệ không hàm ư sự ưu việt về đạo đức hoặc sự cao siêu về trí tuệ. Vấn đề của con người đương đại không phải là vấn đề chính trị, kinh tế hoặc xă hội, v́ không một giải pháp nào được đề ra trong bất kỳ của ba địa hạt nêu trên mà lại có thể cung ứng một phương thuốc hữu hiệu chống lại được những khuynh hướng tồi tệ này. V́ họ không biết được những yếu tố tâm lư ẩn bên dưới và không thể khơi dậy được những tiềm năng sâu xa của con người cho nên họ không thể hóa giải được sự suy đồi của xă hội.

Ngay tận tâm khảm của t́nh trạng hiện nay là sự thật chúng ta không giáp mặt với một vấn đề công nghệ, định chế hoặc tổ chức; chúng ta đang đương đầu với một cuộc khủng hoảng sâu sắc về văn hóa. Cuộc khủng hoảng này không bắt nguồn từ môi trường xung quanh và cấu trúc của xă hội mà biểu diễn một sự bất cập sâu sắc trong tinh thần của con người. Việc t́m ra những con dê tế thần trong một phân bộ nào đó của xă hội hoặc trong những nguyên nhân ngoại tại chỉ đánh lạc chú ư của ta đối với cội rễ của vấn đề vốn ở trong tâm thức của con người. V́ thế cho nên ta cần phải khảo sát kỹ lưỡng khái niệm về sự tiến bộ.

Vấn đề văn hóa chỉ liên quan tới tâm trí con người thôi. Ư nghĩa của việc làm người chính là năng lực tự biết về ḿnh và đánh giá được bản chất của vai tṛ con người trong sự vận động của cuộc sống. Sự đánh giá lệch lạc ắt trách nhiệm về đủ thứ việc tự ḿnh làm khổ ḿnh mà con người đang phải chịu.

Đức Phật có nhắc tới điều này. Theo cách tŕnh bày của Edwin Arnold th́ ngài có dạy rằng:

 

“Tự con làm con đau khổ. Đâu có ai khác bắt buộc con hoặc khiến cho con phải sống hay chết. Rồi trôi lặn theo bánh xe sinh tử luân hồi, cứ đắm đuối ôm gh́ lấy những cái căm khổ sở của nó”.

 

Văn hóa có hàm ư là nhận thức đúng đắn được vai tṛ và mối quan hệ của chính ḿnh với các biến cố, với những con người và với cuộc sống phức tạp để rồi hành động theo nhận thức đó một cách trong sạch và đầy phẩm cách. Đó là tri thức có ư thức về mối quan hệ và các giá trị. Người có văn hóa phản ánh được các giá trị trong mọi tư tưởng, lời lẽ và tác phong của ḿnh.

Trong bất kỳ xă hội nào th́ đại đa số con người đều biểu diễn một cách vô ư thức những tiêu chuẩn và những kiểu mẫu ứng xử hiện hành. Sự thích ứng vô ư thức đó đối với những kiểu mẫu qui ước không phải là một biểu lộ có ư nghĩa văn hóa. Ananda K. Coomaraswamy có nêu rơ: “Con người thật ra đâu chỉ là một con thú sống theo thuyết ứng xử bản năng . . . sự tung tăng của những con chim cho dù quyến rủ đến đâu đi nữa cũng chưa phải khiêu vũ”. Đó là v́ khiêu vũ đ̣i hỏi phải có một sự hữu thức điều động năng lực của cơ thể để có được nhịp điệu và sự duyên dáng v. v. . .

Mặc dù thật đa năng, thiên nhiên vẫn thể hiện được một sự hài ḥa và trật tự nhiệm mầu. Những nhà thấu thị thời xưa ở Ấn Độ đă nhận thức được điều này và ngất ngây ca tụng cái Trật tự thiêng liêng mà họ gọi là nghi thức. Nhờ nghiên cứu về sinh thái học và những điều rối rắm của Thiên nhiên, con người hiện đại đang khám phá ra sự tương thuộc kỳ diệu của nhiều dạng sự sống và một sự quân b́nh vốn duy tŕ được các quá tŕnh trong vũ trụ. Nhà vật lư David Bohm nêu ra quan điểm theo đó trật tự là nền tảng của thế giới hiện tượng; các nhà sinh vật như nhân vật Wald đoạt giải Nobel cũng ủng hộ định đề này. V́ sự hài ḥa và trật tự là nền tảng của những quá tŕnh thiên nhiên trong cơ tiến hóa cho nên ở địa hạt này không có nảy ra những vấn đề quan hệ. Mọi tạo vật khác hơn con người đều đóng trọn vẹn chức năng riêng của ḿnh theo một bản năng bẩm sinh vốn chẳng có ǵ klhác hơn là trí thông tuệ tận trong tâm khảm của chính vũ trụ. Sự hài ḥa của những mối tương quan trong Thiên nhiên đó không hề tạo ra văn hóa.

Đặc điểm của con người là phải khám phá ra sự hài ḥa và trật tự để rồi biểu diễn chúng trong những mối quan hệ và hành động của ḿnh. Đây chính là những mối quan hệ và những hành động. Đây chính là lư do ẩn sau lời tuyên bố của các bậc thánh hiền theo đó được sinh ra làm người là một đặc quyền quí báu và phi thường. Pháp Cú Kinh có tuyên bố như sau:

“Thật khó thay khi được sinh ra làm người; thật khó thay khi sống cuộc đời của một con người; thật khó thay khi được nghe giảng chánh pháp; thật khó thay khi chư Phật giáng sinh”.

Kiếp người là một mối quan hệ. Tồn tại có nghĩa là quan hệ. Ngay cả kẻ nào xét theo bề ngoài không chịu hành động th́ xét theo bên trong vẫn tiếp tục có quan hệ với hằng hà sa số yếu tố thông qua tâm trí của ḿnh. Suy gẫm về bản chất của những mối quan hệ và những giá trị bao hàm trong việc biểu hiện mối quan hệ đó chính là văn hóa theo nghĩa rộng nhất của từ này.

Trong tác phẩm nổi tiếng Hiện tượng Con người, Teilhard de Chardin có nói rơ:

“Con người theo như khoa học ngày nay có thể tái tạo lại được chỉ là một con thú giống như những con thú khác – xét về mặt giải phẫu cơ thể, nó ít tách rời khỏi loài khỉ giống người đến nỗi mà những phép phân loại hiện đại của các nhà động vật học lại quay về với lập trường của Linnaeus và bao gồm con người cùng với loài khỉ giống người trong cùng một siêu họ, tức là homonidae. Thế nhưng, khi đánh giá theo những kết quả sinh học của việc con người xuất hiện th́ thực ra chẳng lẽ y lại không phải là một điều ǵ đó khác hẳn hay sao ?” . . .

Nếu chúng ta muốn giải quyết vấn đề về ‘tính ưu việt’ của con người đối với loài thú (và rất cần giải quyết nó v́ ích lợi của khoa đạo đức về sự sống cũng như để phục vụ cho tri thức thuần túy) th́ tôi chỉ có thể thấy một cách thức tiến hành – dẹp qua một bên tất cả những biểu lộ thứ yếu và lập lờ về hoạt động nội tâm trong cách ứng xử của con người và đi thẳng vào hiện tượng trung tâm tức là sự suy gẫm.

Mạng lưới những mối quan hệ của con người thật là phức tạp và tinh vi. Quan hệ bao gồm chẳng những là sự tiếp xúc bên ngoài với những người khác mà c̣n là những thái độ không nói nên lời tŕu mến hoặc oán ghét, sợ hăi, lững lờ v. v. . .  và vô số những động cơ thúc đẩy ẩn giấu đâu phải lúc nào cũng biểu hiện ra. Quan hệ thật là đa dạng và bao gồm sự ứng đáp của con người đối với thiên nhiên, cây cỏ, thú vật, nước chảy, rặng núi, quả đất, bầu trời và những ngôi sao. C̣n có ư nghĩa hơn nữa là quan hệ của con người với những ư tưởng và niềm tin của ḿnh, với những điều mà ḿnh ưa và ghét – nói cách khác là với những ǵ chất chứa trong tâm trí của chính ḿnh. Trong một mức độ lớn lao quan hệ của con người với chính ḿnh chế định những mối quan hệ khác của y. Sự cầu bất đắc bên trong nội tâm y rơ rệt là làm ô nhiễm tác động của y đối với những người khác. Tầm nh́n của y đă bị mờ ám đi. V́ vậy, thật là quan trọng ở tầm mức sống c̣n khi một người cần biết được những đáp ứng và những phản ứng của chính ḿnh.

Ta xin trích dẫn de Chardin một lần nữa:

‘Kẻ nào vốn là đối tượng suy tư của chính ḿnh th́ do chính sự hồi quang phản chiếu đó trong chớp mắt có thể vươn lên tới một lănh vực mới mẻ”

Khi không có việc tự quan sát th́ những mối quan hệ sẽ ràng buộc con người và làm vô hiệu hóa tầm nh́n và sự hiểu biết của y. Mọi vấn đề đều nảy sinh từ một tâm trí không tự biết ḿnh. Việc dính mắc vào gia đ́nh hoặc cộng đồng, vào vợ con, thường là một hàng rào ngăn cản những ái lực rộng lớn hơn. Những sự dính mắc đó không khuyến khích được sự nhạy cảm của xúc cảm, vốn là cốt yếu cho sự phát triển văn hóa. Con người trở nên người nguyên thủy hoặc người bộ lạc khi những dính mắc của y giam hăm y trong phạm vi chật hẹp. Những h́nh thức tinh vi của các bộ tộc vốn ẩn khuất đằng sau những bề mặt có vẻ đúng làm cho các cuộc xung đột trên thế giới và ngay trong cộng đồng trở nên rộng lớn hơn. Khi sự nhạy cảm không c̣n bị hàng rào che chắn nữa, th́ nó tự biểu lộ trong mối quan hệ với vạn vật – với con người, với thú vật, với chính quả đất nữa. Văn hóa biểu hiện ra hoặc vắng mặt trong mọi tư tưởng, lời lẽ và hành động.

Từ ngữ ‘thẩm mỹ’ biểu thị nhận thức về sự hài ḥa và đẹp đẽ trong thiên nhiên và trong nghệ thuật. Chính v́ một dạng nhạy cảm thẩm mỹ nào đó biểu hiện ra trong nghệ thuật cho nên người ta thường coi nghệ thuật là đồng nhất với văn hóa. Tuy nhiên, văn hóa có một ư nghĩa rộng lớn và sâu sắc hơn hẳn nghệ thuật. Nó có liên quan mật thiết với sự đơm hoa kết trái của những năng lực nội tâm, vốn là tiêu chuẩn tiến bộ của con người. Văn hóa có thể tồn tại mà không cần nghệ thuật, trong khi nghệ thuật chỉ là sự biểu diễn một phần của cái sự nhạy cảm toàn diện vốn chính là văn hóa.

Theo ư nghĩa thông thường của từ này th́ nghệ thuật là năng lực chuyên biệt để làm bộc lộ ra một khía cạnh mỹ lệ nào đó qua việc trau dồi một h́nh thức đặc thù. Mọi nghệ thuật chân chính đều hàm ư là có sự hài ḥa. Mỗi h́nh thức nghệ thuật đều có những hạn chế của riêng ḿnh để biểu lộ được vẻ đep, bản thân h́nh thức này là một thể loại hạn chế.

Theo nghĩa rộng nhất th́ nghệ thuật phải bao gồm cả sinh hoạt v́ lúc bấy giờ th́ ta mới có thể đồng nhất hóa được nó với văn hóa. Những tài năng hoặc ngay cả thiên tài của một nghệ sĩ không nhất thiết khiến cho y hiểu được nghệ thuật sống, và thường th́ cuộc đời của các nghệ sĩ lại biểu hiện ra cái sự bất cập bi thảm này.

Trong quá tŕnh tiến hóa, không cần phải có sự chuyên biệt hóa h́nh thức hoặc chức năng. Sự chuyên biệt hóa của một giống loài trở thành sự hạn chế của ṇ, v́ nó giới hạn giống loài đó bên trong biên giới của sự chuyên biệt hóa. Chẳng hạn như sự cồng kềnh của những con vật thời tiền sử đă khiến cho nó bị tuyệt chủng. Cho dù sự chuyên biệt hóa ở nơi tốc độ hoặc tầm nh́n, hoặc bất kỳ năng lực nào khác, th́ nó cũng trở nên một sự tù hăm. Đạo Đức Kinh cổ điển của Trung Hoa có cảnh báo rằng:

“Kẻ nào đứng trên đầu ngón chân ắt không đứng vững được;

Kẻ nào bước đi những bước dài nhất ắt không đi được nhanh nhất . . .

Kẻ nào khoe khoang điều mà ḿnh sẽ làm được ắt chẳng thành đạt được điều ǵ;

Kẻ nào kiêu hảnh về công việc của ḿnh ắt chẳng thành tựu được điều ǵ lâ

Những giới hạn của việc chuyên biệt hóa tồn tại đối với một cá nhân, một chủng loại cũng như đối với một quốc gia và một nền văn minh. Cánh cửa mở ra những sự nhận thức rộng lớn hơn và sự phát triển khoáng đạt hơn ắt bị khép chặt lại khi năng lượng được dẫn truyền theo một hướng độc đoán. Sự chuyên biệt hóa có thể là một cách thức phủ nhận tiềm năng tiến bộ mà cho đến nay người ta chưa biết được và chưa triển khai được.

Thật là thú vị khi nhận thấy rằng mọi nền văn minh đều tiến tới mức nào đó để  rồi bắt đầu suy thoái. Chính những công trạng khiến cho nó trở nên lỗi lạc lại cản trở nó phát triển thêm nữa. Sự thành công nhằm đối phó với một vài sự thách đố vốn dựa trên những năng lực đă được chuyên biệt hóa. Khi những sự thách đố thuộc một loại khác xuất hiện th́ những tài năng trước kia vốn hữu dụng lại trở thành những chướng ngại nếu những người có tài năng đó không thể vứt bỏ những khuôn mẫu tư tưởng và hành động cố định của ḿnh để đương đầu những sự thách đố với một sức sống mới. Sự suy vong của các nền văn minh đều có một đặc điểm là sự thất bại về mặt văn hóa này.

Toynbee có nêu rơ rằng: “Dường như thể hiếm có những sự đáp ứng sáng tạo nào đối với hai hoặc nhiều hơn nữa những sự thách đố liên tiếp trong lịch sử của một nền văn minh mà cùng một thiểu số người lại có thể thành đạt được. Thật vậy, cái phe vốn nổi bật lên khi đương đầu với một thách đố này th́ thường thất bại thảm hại khi cố gắng đương đầu với một cố gắng kế tiếp”.

Các nền văn minh bị suy vi v́ người ta cứ say đắm với quá khứ. Do thỏa măn với những thành tựu trước kia họ tỏ ra thờ ơ và bất tài khi đương đầu với sự thách đố trong hiện tại. Rơ rệt là quan trọng khi ta phải giữ cho tâm trí và tâm hồn ḿnh rũ bỏ được những gánh nặng và những hoài niệm thành tựu trong quá khứ; những sự chuyên biệt hóa nguyên là vốn quí trong quá khứ ắt không c̣n hữu dụng để tiến bộ thêm nữa.

Sự tự do của tâm trí thật cốt yếu để cho văn hóa đơm hoa kết trái được. Một tâm trí tự do không chỉ nh́n qua một khung cửa chật hẹp mà có một tầm nh́n toàn vẹn không biên giới. Một nền văn minh vốn giam hăm ḿnh bên trong những biên giới đă biết của tri thức và kinh nghiệm ắt trở nên tŕ trệ và sẽ tự ḿnh bị suy vong.

Toynbee có nhận xét rằng sự chuyển dịch từ một xă hội nguyên thủy sang một nền văn minh cao siêu hơn là sự chuyển tiếp từ một t́nh trạng tĩnh tại sang sinh hoạt năng động. Không thể có được động lực trong một dân tộc mà tâm trí và năng lực đă bị kết tinh thành ra sự bảo thủ và thiếu khoan dung. Nền văn minh Ấn Độ đă mất đi thiên tài đồng hóa và tổng hợp của ḿnh khi động lực của nó bị xói ṃn đi và những định chế xă hội trở nên xơ cứng. Hệ thống giai cấp (thoạt tiên dựa vào guna và nghiệp quả) đă mất đi tính linh động của ḿnh để rồi theo thời gian trở thành một gánh nặng chết cứng. Tương tự như vậy, tôn giáo đâm ra bao gồm những h́nh thức nghi lễ rỗng tuếch, và việc truy t́m điều chưa biết (vốn là cốt tủy của tinh thần tôn giáo) đă nhường chỗ cho sự súng bái điều đă biết và v́ thế cho nên tục thờ cúng ngẫu tượng mới sinh sôi nảy nở.

Nền dân chủ hiện đại của Tây phương nảy sinh từ ḷng ham mê tự do, b́nh đẳng và t́nh huynh đệ mà nó nghĩ rằng ắt đưa lối mở đường cho một trật tự mới của xă hội. Nhưng chẳng bao lâu sau, các quốc gia lại sa lầy vào cuộc đấu tranh để chiếm độc quyền tài nguyên và những tham vọng đế quốc của chúng đă làm biến mất sự chân chính của việc chúng ủng hộ những lư tưởng nêu trên. Trong cuộc chạy đua v́ bá quyền quốc gia, sự b́nh đẳng và tự do đă bị tổn thất. Tương tự như vậy, nước Nga cách mạng tràn đầy khí thế, t́m cách chấm dứt quyền tư hữu v́ coi như đó là phương tiện để thống trị và xiển dương bản ngă, nhưng nó đă làm mất đi lư tưởng của ḿnh với cái chiêu bài đặc thù là khủng bố và tập thể hóa. Người ta giả định rằng quốc gia sẽ phải ‘tàn lụi’ đi v́ tự do và phúc lợi của nhân dân, thế mà nhà nước lại biến thành một con quái vật tàn bạo.

Trong những nền văn minh khác nhau, các định chế dự tính dùng làm phương tiện để giải phóng được năng lực của nhân dân và hỗ trợ cho phúc lợi của nhân dân th́ cứ bị đông cứng đi đông cứng lại thành ra một sự cứng ngắt bóp nghẹt sáng kiến, sức sống và phẩm giá của nhân dân. Các định chế đều bị xơ cứng và các cấu trúc xă hội trở nên cứng ngắt, vậy là làm cho nền văn hóa càng mau bị suy vong. Cũng giống như vậy, những người nào cứ bám lấy những thói quen tư tưởng và hành động, những người nào cứ bị các tiên kiến và những dính mắc làm cho không thoát khỏi những ư tưởng và những ư niệm đă lạc hậu, th́ những người đó đă mất đi động lực tiến bộ và không thể đối phó được với những t́nh h́nh và thách đố mới với một óc sáng tạo mà không có nó văn hóa không thể thịnh vượng được.

Như vậy, lịch sử đă cảnh báo chúng ta đừng quan trọng hóa và vĩnh cửu hóa các h́nh thức đến nỗi quên mất đi những giá trị vốn mang lại sức sống cho những h́nh thức đó. Các giá trị mới là có thực và bất diệt, c̣n h́nh thức sẽ mất đi sự đúng đắn của ḿnh và theo thời gian ắt phải biến đổi hoặc suy vong. Khi h́nh thức trở nên quan trọng hơn nội dung th́ nền văn hóa ắt suy sụp.

Giữa văn hóa và các giá trị có một mối liên hệ bất khả ly. Vấn đề giá trị đă được quan tâm rất nhiều cả ở phương Tây lẫn ở phương Đông. Khái niệm về purusharthas, tức là các mục đích sống, vốn có liên quan tới những giá trị kể từ giá trị thuần túy duy vật, chẳng hạn như artha và kama, tức là của cải và vui sướng, cho tới giá trị kém duy vật hơn và có tầm nh́n xa hơn được hàm ư trong thuật ngữ dharma. Nhưng ngoài tầm giá trị này, từ giá trị thô thiển tới giá trị tinh vi hơn, ta c̣n có những giá trị có bản chất tuyệt đối. Paramapurushartha là việc mưu t́m giá trị tối thượng.

Các giá trị có tính chất hoặc là thực nghiệm hoặc là siêu việt. Giá trị là thực nghiệm v́ chúng có liên quan tới những lợi ích vật chất, thuộc về địa hạt mà ta có thể áp dụng thang bậc đo lường. Mỗi xă hội loài người đều có thang bậc của riêng ḿnh, không nhất thiết là đúng nhưng thuận tiện cho cấu trúc quyền lực hoặc thích hợp với tính khí của nhân dân. Vậy là họ đă được nhồi sọ để phải vâng lời hoặc phải thành công, phải bằng ḷng hoặc phải chinh phục, và điều đó trở thành một phần phong cách của họ. Đối với mỗi tập hợp những con người và đối với mỗi cá nhân th́ một trong những giá trị thuộc thang bậc nêu trên dường như là quan trọng hơn giá trị khác. Sự ưu ái vốn dựa vào sự thuận tiện và lợi ích ngay trước mắt, nảy sinh ra từ tầm nh́n thiển cận.

Vượt lên trên mọi sự đo lường thuộc loại này cũng như vượt lên trên mọi hạn chế và thiên kiến thuộc cá nhân hoặc chủng tộc, ta có giá trị thuộc một loại khác hẳn. Những giá trị siêu việt này vốn không định nghĩa được, v́ ta chỉ có thể biết được chúng thông qua sự trải nghiệm mà thôi. Vui sướng có thể được đo lường dựa trên một thang bậc và gắn liền với những sự vật mang lại cho ta ít nhiều sự thỏa măn về xúc động. Nhưng hạnh phúc (vốn đă được mô tả là cốt tủy của tự tại) không thể đo lường hoặc định nghĩa được. Một sự mô tả cái trạng thái giải thoát nội tâm đó chẳng truyền đạt điều ǵ về kinh nghiệm thực chứng cho kẻ nào chưa chia xẻ trải nghiệm đó. Việc mô tả cái ghế có thể mang lại cho ta một ư tưởng xem cái ghế giống như thế nào, nhưng việc mô tả hạnh phúc, t́nh thương hoặc sự thật không mang lại mùi vị của thực tại đó. Mặt khác, việc định nghĩa thường trở thành một điều thay thế gây lầm lạc, thế chỗ cho thực tại. Như vậy ngôn từ đă trở thành một hàng rào cản trở kinh nghiệm thực chứng.

Văn hóa mang lại cho ta tri thức thực chứng về những giá trị khôn tả mà tâm thức con người cùng lắm cũng chỉ chứng ngộ được. Tri thức về điều vô cùng tốt, chân thực và đẹp đẽ chính là văn hóa đạt đỉnh cao nhất. J. Krishnamurti có diễn tả bằng những lời lẽ minh bạch như sau:

“Nền văn hóa Ấn Độ hơi khác với nền văn hóa Âu Tây, nhưng sự vận động bên dưới cũng giống như nhau. . . Sự vận động để t́m ra hạnh phúc, khám phá xem Thượng Đế và sự thật là ǵ, khi sự vận động này ngừng lại th́ nền văn hóa bị suy vi (trong xứ sở này th́ nó đă bị như vậy). Khi quyền lực, truyền thống, sự sợ hăi phong tỏa sự vận động này th́ ta có sự suy đồi. Sự thôi thúc để phát hiện chân lư là ǵ, Thượng Đế là ǵ, đó là sự thôi thúc chân thực duy nhất và mọi sự thôi thúc khác đều là thứ yếu. Khi bạn ném một viên đá xuống mặt nước đang yên tịnh, th́ nó lan ra những ṿng tṛn. Những ṿng tṛn lan ra đó là sự vận động thứ yếu, là những phản ứng của xă hội, c̣n sự vận động chân thực vốn ở tâm điểm, tức là sự vận động để t́m ra hạnh phúc, Thượng Đế, chân lư; và bạn không thể t́m thấy nó chừng nào bạn c̣n bị sợ hăi, c̣n bị đe dọa. Ngay khi có một sự đe dọa, một sự sợ hăi nổi lên, th́ văn hóa bèn bị suy đồi”.

Việc phát hiện ra những giá trị tối hậu khôn tả này phục hồi lại cho con người nhân phẩm không thể vong thân và khiến cho y có thể viên măn được vận mệnh của ḿnh. Theo lời của Kabir th́: “Tận trong thâm tâm, tôi yêu quí hơn bất cứ thứ ǵ khác cái t́nh thương khiến cho tôi sống một cuộc đời vô hạn trên thế giới này”. Các bậc thánh hiền, các đấng thiêng liêng, đều là gương mẫu tối cao của văn hóa khi đạt tột đỉnh. Sự thức tỉnh văn hóa là cửa ngơ dẫn vào sự chứng ngộ tâm linh tức là sự phát triển đa chiều của tâm thức con người cùng với năng lực sẵn có nơi con người. Văn hóa là sự đáp ứng nhạy cảm vốn thấu hiểu được cái tinh vi cũng như cái thô thiển, cái bên trong cũng như cái bên ngoài, cái đại đồng chứ không phài là cái đặc thù.

Một tâm trí đờ đẫn và tự măn không thể đạt được các giá trị có bản chất cao siêu. Tâm trí sẽ lọt vào cạm bẫy khi nó gán giá trị cho những khái niệm và những hành động dựa vào sự xoay sở chụp giựt và tự tư tự lợi. Muốn trau dồi được sự nhạy cảm đó th́ điều cốt yếu là phải có một óc điều tra cảnh giác. Sự điều tra không được tự giới hạn ḿnh, tâm trí cũng không được tự đánh lừa ḿnh nếu nó muốn phát hiện ra giá trị theo nghĩa chân thực nhất. Qui ước và truyền thống không được hạn chế tâm trí dấn thân vào một sự truy t́m như thế cho dù đó là tâm trí của một cá nhân hoặc một dân tộc.

Nhà khoa học hiện đại đang dấn thân theo đuổi kiến thức, nhưng sự điều tra và nghiên cứu của y tất nhiên là chỉ hạn chế vào môi trường xung quanh bên ngoài. Y hoàn toàn không biết tới bản chất bên trong của sự sống và v́ vậy quan điểm khoa học đă được mô tả là không có giá trị. Chính v́ nó thờ ơ với những giá trị cho nên thế giới ngày nay (vốn bị thống trị bởi óc khoa học) mới là một thế giới hủy diệt và độc ác không thể trị nỗi.

Văn hóa có liên quan tới tri thức về bản chất của sự sống – cái bản thể vốn ẩn tàng đối với đầu óc thô thiển, nhưng lại bộc lộ ra đối với tâm trí nào biết cách trau dồi năng lực nhận thức và không hề thỏa măn cho tới khi nó phát hiện được điều vốn ở tận thâm tâm của vạn vật dù là có tri giác hay vô tri vô giác.

Như vậy, văn hóa có những hàm ư sâu xa về đạo đức. Hiển nhiên là nghệ thuật không tự động khơi dậy được cái tri giác đạo đức đó. Nghệ thuật đ̣i hỏi phải có kỷ luật, nhưng kỷ luật này đă bị chuyên biệt hóa. Việc phát hiện ra những giá trị cốt yếu tạo ra một loại kỷ luật nội tâm khác vốn làm nảy sinh những mối quan hệ đúng đắn. Kỷ luật bên ngoài (cho dù dưới dạng các bộ luật đạo đức, các qui ước xă hội, các kỹ thuật hoặc những khuôn mẫu khác được áp đặt từ bên ngoài) sớm muộn ǵ cũng sẽ sụp đổ và tiềm thức sẽ nổi loạn chống lại những kỷ luật đó, tạo ra những sự mất thăng bằng cưỡng chế. Mặt khác, kỷ luật vốn bắt nguồn từ bên trong do việc nhận thức rơ ràng được những giá trị đúng đắn sẽ mang lại sự ổn định cùng với một trạng thái giải thoát và hạnh phúc. Nó hồn nhiên điều khiển mọi tư tưởng, lời lẽ và hành động, v́ tất cả những thứ này đều xuất phát từ cái trạng thái tâm thức hài ḥa đó.

Tri giác về giá trị là sự chứng ngộ được ư nghĩa nội tại của vạn vật trong cuộc sống cũng như của toàn thể cuộc sống. Cái lối sống cạnh tranh hướng về vui sướng  như ngày nay ắt khuyến khích một thái độ thực dụng vốn biến mọi chuyện thành ra một đối tượng của vui sướng, lợi nhuận và sự chiếm hữu. Nhưng vô số biểu lộ của sự sống tự thân chúng vẫn tồn tại mà không chỉ là đối tượng để cho con người sử dụng và mưu t́m vui sướng. Trong sơ đồ tổng thể của cuộc sống th́ mỗi thứ đều có ư nghĩa và chủ đích cố hữu của riêng ḿnh. Một con chiên không phải là đối tượng để nấu ăn, ư nghĩa của cái cây không chỉ hạn chế vào việc dùng nó làm gỗ. Cái tâm trí tự tư tự lợi vơ vét cho bản thân, mưu t́m sự viên măn và thỏa măn của riêng ḿnh ắt không thấy được ư nghĩa sâu xa của cuộc sống. Có nhiều điều mà ta cần phải suy gẫm về tiêu chuẩn trong Áo Nghĩa Thư vốn phân biệt preyas (điều mang lại vui sướng) với sreyas (điều thiện). Cái tâm thức hướng về vui sướng ắt bỏ qua bản chất quí báu của tự tại, vẻ đẹp, giá trị và sự thật của nó.

Mặc dù các giá trị tối hậu dường như là đa dạng, song thật ra chúng chỉ là một, v́ một có vẻ là cả chân lẫn thiện và mỹ. T́nh thương và trí tuệ dường như ở tận gốc rễ của sự biểu lộ. Khi suy đoán về lực điều động sự tiến hóa, nhà sinh vật học lỗi lạc, ngài Alister Hardy có nêu định đề rằng lực đó là t́nh thương. Nhà vật lư học Hoyle có gợi ư rằng trí tuệ vốn không tách rời khỏi vũ trụ. Theo quan điểm toàn  diện th́ giá trị cao nhất chính là cái sự đơn nhất vốn bao gồm mọi giá trị tuyệt đối khác.

Tri giác được tính đơn nhất thể hiện thành ra sự quan tâm quên ḿnh và hành động mang lại phúc lợi cho đại đồng thế giới. Cao và thấp biến mất dưới ánh sáng của sự nhất quán với vạn vật, ngay cả với các dạng tồn tại vô tri vô giác hoặc dường như là vô nghĩa. Một tâm hồn đầy ắp sự quan tâm như thế ắt che chở cho không những là con người mà c̣n là con thú, con chim, cây cỏ, ngay cả trái đất, nước và không khí nữa. Những nguy cơ ô nhiễm tàn phá trái đất, tàn nhẫn sát hại các loài động vật hoang dă ắt không tồn tại trên thế giới nếu văn hóa theo đúng nghĩa đă thấm nhuần tâm thức con người. Thái độ chung của mọi người trên thế   giới là bỏ mặc cho những nhà cầm quyền, những nhà quản trị và những người khác chăm lo cho xă hội. Người ta cứ nghĩ rằng ḿnh thật bơ vơ v́ họ đâu có muốn chấp nhận trách nhiệm. Mặt khác, sự trau dồi nội tâm của bất kỳ cá nhân nào cũng biến y thành ra một trung tâm an b́nh và hạnh phúc. Nếu các thành viên của một cộng đồng không đem lại sự hiểu biết và văn hóa cho cộng đồng đó, th́ xă hội không thể làm thăng tiến được phẩm chất sống của họ. Xă hội không thể tự thân nó tồn tại được; nó được cấu thành bởi những mối tương quan của mọi người hợp thành nó.

Nếu ta không xem xét cuộc sống một cách toàn diện, th́ các phần tử không thể có được giá trị đúng đắn v́ ta không thấy được thực chất của chúng là những khía cạnh cố hữu của toàn thể. Điều này dường như thể người ta phải tách ra một nốt nhạc hoặc một phân đoạn từ một bản nhạc rồi cố gắng thấu hiểu ư nghĩa rời rạc của nó. Cốt tủy của văn hóa chính là việc biết được ư nghĩa và vẻ đẹp của toàn thể cũng như giá trị và ư nghĩa cố hữu của mọi bộ phận. 

Tạp chí Nhà Thông Thiên Học, năm 1987


 trang nhà trang sách l bản tin l thiền học l tiểu sử trang thơ l h́nh ảnh l bài vở