|
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES
|
THỂ
THƯỢNG TRÍ
VỚI VIỆC TU DƯỠNG BẢN THÂN
(CHỨC NĂNG, SỰ PHÁT TRIỂN)
Trích quyển Self
Culture Tác giả I. K. TAIMNI Bản dịch của www.thongthienhoc.com |
|
CHỨC NĂNG CỦA THỂ THƯỢNG TRÍ (NHÂN THỂ)
Theo
môn Tâm Lư Học phương Tây, từ “trí” dùng một cách rất là mơ hồ và phức tạp
để chỉ một nhóm hiện tượng liên quan đến các chức năng của tâm thức. Nó gồm
có những t́nh cảm và cảm xúc ở phần thấp, và ở phần cao là những tư tưởng
trừu tượng và một năng khiếu gọi là “trực giác” ít được người ta hiểu biết
và thường bị nghi ngờ. Sự thiếu định nghĩa rơ rệt trong các phân loại những
điều thường được mang tên là hiện tượng tinh thần không thể tránh khỏi, khi
mà chúng ta cho rằng bộ óc là nguồn gốc của tất cả những hiện tượng đó, thay
v́ nó chỉ là một dụng cụ, một mặt để thu nhận tất cả rung dộng xuyên qua các
lối đến từ những giác quan khác nhau, và ở mặt kia,
dẫn xuống tâm thức vật chất các loại thần lực khác nhau từ các thế giới siêu
vật chất cao hơn. Ở một khía cạnh, bộ óc chỉ là một màn ảnh, nơi đó các hiện
tượng của nhiều thế giới khác nhau tạo ra những hinh bóng của chúng, và thật
khó mà hiểu biết các hiện tượng này xuyên qua các h́nh bóng, cũng như khó mà
có một ư niệm về bản chất thật sự của các vật thể ngụ ư ở màn ảnh trong một
cuộc chiếu bóng. Nếu ai muốn nghiên cứu kỹ lưỡng về các đối tượng để có một
ư niệm trung thực về bản chất của chúng, y phải t́m ngụ ư ở màn ảnh và trực
tiếp thấy chúng, thay v́ cố t́m cách suy đoán măi về chúng từ những h́nh
thức phỉnh lừa được chúng phóng lên màn ảnh. Các khoa học gia và tâm lư học
tân tiến hiện nay đang t́m cách suy đoán về các h́nh bóng ấy trên màn ảnh,
rất ít nhận thức rằng đó chỉ là những cái bóng, đó là bóng của các thực tại
đang ngự xa hơn, và chỉ có thể nghiên cứu được bằng cách t́m ngụ ư ở màn ảnh
và thấy những thực tại đó một cách trực tiếp.
Khi một nhà Huyền Bí Học t́m cách khảo sát những hiện tượng biểu lộ xuyên
qua bộ óc, y t́m thấy chúng bắt nguồn từ nhiều nơi khác nhau trong con
người. Như đă thấy ở phần trước, con người có một thể trạng phức tạp. Một
tập hợp gồm nhiều thể nối liền con người với tất cả cơi giới thâm sâu; mỗi
thể đều gởi các rung động riêng biệt của nó đến bộ óc và gây ra những hiện
tượng phức tạp và thay đổi của tâm thức vật chất. Như thế, các cảm giác và
t́nh cảm là do những tiếng vang của hệ thần kinh năo tủy, do những rung động
từ cơi trung giới mà đến. Tư tưởng của chúng ta là do sự tái xuất trong bộ
óc vật chất những rung động của cơi trí tuệ. Và trực giác, thật sự, là những
tiếng vang nhẹ nhàng của các rung động từ các cơi tinh vi mà đến; các cơi
này thật thâm sâu và an tịnh. V́ lư do có quá nhiều nguồn gốc mà từ đó các
hiên tượng trong tâm thức vật chất hiện ra, cho nên không một ai có thể phân
loại những hiện tượng này, và sắp xếp chúng đúng vào các nguồn gốc thích
ứng, trừ khi y có khả năng rời bỏ cái thể vật chất theo ư muốn và khảo sát
một cách hoàn toàn ư thức các hiện tượng ở các cơi siêu vật chất. Trên thực
tế, đúng với nghĩa thật sự của nó, và bởi v́ nó là nền tảng của Khoa Minh
Triết Cổ Truyền, môn Khoa Học Huyền Bí là kết quả của các cuộc nghiên cứu đă
được thực hiện lần hồi từ ngàn xưa xa xôi do một chuỗi dài các Đấng Chân Sư
xuyên qua các thời đại không gián đoạn.
Bây giờ, khi các hiện tượng mang danh là tư tưởng được các nhà tâm lư học
khảo sát, người ta đă chia chúng ra thành hai tiểu nhóm rơ rệt: một nhóm là
tư tưởng cụ thể, thuộc về tên gọi và h́nh dáng, và nhóm kia là tư tưởng trừu
tượng liên quan đến những khái niệm và nguyên lư trừu tượng, mặc dầu cả hai
nhóm tư tưởng hiện ra trong tâm thức vật chất chúng ta đều đi xuyên qua bộ
óc vật chất. Các cuộc nghiên cứu Huyền Bí Học cho biết hai loại tư tưởng đó
hoàn toàn khác biệt nhau, chúng có nguồn gốc từ hai thể khác nhau của tâm
thức hoạt động ở cơi trí tuệ. Trên thực tế, cơi trí tuệ với bảy cảnh của nó
được chia ra một cách rơ rệt thành hai nhóm; bốn cảnh thấp tạo thành một
nhóm riêng, là môi trường cho các tư tưởng cụ thể, và ba cảnh cao hơn họp
thành một nhóm khác, là môi trường của các tư tưởng trừu tượng. Sự phân chia
của hai nhóm ấy không phải độc đoán, nhưng là một cách hoàn toàn tự nhiên,
bởi v́ phần vật chất của hai nhóm các cảnh đă tạo ra thành phần của hai thể
hoàn toàn khác nhau của tâm thức hoàn toàn khác nhau – thể hạ trí, thể của
các tư tưởng cụ thể, và thể thượng trí, thể của các tư tưởng trừu tượng. Cả
hai thể này chẳng những được sử dụng như là hai thể cho các loại hiện tượng
riêng biệt của trí tuệ, mà lại c̣n thuộc về hai thành phần khác nhau của bản
chất nội tâm chúng ta, như đă thấy qua ở chương
2, thể hạ trí là thành
phần tinh vi nhứt của phàm nhơn vô thường; thể này thay đổi ở mỗi kiếp luân
hồi, trong khi thể thượng trí – được gọi là thể Nguyên Nhân – theo văn
chương Thông Thiên Học, và gọi là Vijnanamaya Kosha theo phái Vedanta. Thể
này là thể thấp nhứt của Chân Ngă trường tồn, sống măi từ kiếp này sang kiếp
khác, và theo suốt quá tŕnh tiến hóa trong các khoảng thời gian dài vô tận.
Như thế, lằn ranh giữa hạ trí và thượng trí chẳng những chia đôi hai nguyên
lư trí tuệ, mà cũng chia đôi phàm ngă và chân ngă trong con người. Chúng ta
đă xem xét thành phần và chức năng của thể hạ trí, thể của những tư tưởng cụ
thể. Bây giờ chúng ta sẽ đến Thể Thượng Trí (thể Nguyên nhân) và xét các
chức năng cùng vị trí của nó trong bản chất con người.
Thể Thượng Trí, như đă nói qua, gồm có vật chất của ba cảnh cao của cơi trí
tuệ, và đó là thể bên ngoài nhứt của Chơn Ngă
trường tồn, hoạt động xuyên qua Atma – Buddhi – Manas . Nó được tạo ra lần
đầu tiên khi công cuộc cá tính hóa được thực hiện và một tia sáng của Thượng
Đế Ngôi Thứ Nhứt rọi vào hồn khóm của một con thú. Nó là cái kho chứa đựng
tất cả kinh nghiệm, xuyên qua đó Chân Ngă trải qua nhiều kiếp luân hồi kế
tiếp, và những khả năng mà nó lần lần phát triển trọn thời gian tiến hóa của
nó. Ở buổi đầu, liền sau khi được tạo lập, vùng hào quang của nó giống như
một h́nh trứng tương tợ như một bong bóng xà bông, không màu sắc. Nhưng, khi
sự tiến hóa tiến hành và các khả năng của Chân Ngă được đánh thức lần lượt
từ trạng thái tiềm tàng sang trạng thái tích cực và bắt đầu hoạt động xuyên
qua nó, những màu sắc chói lọi lần lần hiện ra trong đó cho đến khi nó phát
triển như trường hợp một Đấng Chân Sư, có được kích thước đáng kể và chói
sáng sắc màu rực rỡ, đẹp đẽ không thể tưởng tượng được. Mặc dầu một vài
người viết có diễn tả vẻ đep lộng lẫy của nó, xuyên qua nghiên cứu với năng
khiếu thần nhăn, nhưng không làm sao tưởng tượng được các điều kiện và h́nh
dáng của những thế giới cao cả này, với những hạn chế của tâm thức vật chất
của chúng ta, bởi v́ các thế giới đó thuộc về những thế giới có bề đo cao
hơn thế giới chúng ta đang sống hiện nay. Vậy bây giờ chúng ta hăy xem xét
các chức năng của thể Thượng Trí, bởi v́ nhiều sinh viên sẽ nhận thấy khó
khăn để thấu hiểu những chức năng này, và đôi khi lầm lộn chúng với chức
năng của hạ trí, hoặc cả với chức năng của thể Bồ Đề. Chúng ta hăy xem từ
mỗi chức năng một với mục đích giản dị hóa vấn đề.
Chức năng đầu tiên của thể Thượng Trí là nó được sử dụng như cơ quan của tư
tưởng trừu tượng nghĩa là sự h́nh thành của những quan niệm trừu tượng tùy
thuộc vào những rung động của phần vật chất của thể này của tâm thức. Đúng
như những t́nh cảm và cảm giác là do nơi rung động của thể vía, những tư
tưởng cụ thể với tên gọi và h́nh dáng là do nơi những rung động của thể hạ
trí, th́ những tư tưởng trừu tượng là do nơi những rung động của thể Thượng
Trí tạo ra.
Bởi v́ có nhiều người không học qua môn Tâm Lư Học, nên có một ư niệm rất mơ
hồ về sự khác biệt giữa tư tưởng cụ thể và tư tưởng trừu tượng; chúng ta có
thể xét qua điểm này chốc lát trước khi tiến xa nữa. Vậy đâu là sự khác biệt
giữa tư tưởng cụ thể và tư tưởng trừu tượng? Cách tốt nhứt để nhận thức sự
khác biệt này là lấy một số thí dụ minh họa. Môn toán học cho chúng ta những
h́nh ảnh đúng đắn nhứt cho mục tiêu này. Hăy lấy thí dụ một h́nh tam giác.
Người ta có thể vẽ hay tưởng tượng ra vô số tam giác đủ thứ h́nh dáng và
kích cỡ: tam giác cân, tam giác vuông, tam giác thường, tam giác đều, tam
giác nhỏ, tam giác lớn.
Nhưng trong vô số h́nh tam giác được vẽ ra hay do tưởng tượng, dù ở h́nh
dáng hay kích cỡ nào, đều có một số đặc tánh chung cho tất cả mọi tam giác.
Chính những đặc tính này, trên thực tế, làm h́nh tam giác là một h́nh tam
giác. Toán học đă định nghĩa một cách rơ rệt các đặc tánh phân biệt này của
nó, và nếu chúng ta khảo sát tất cả mọi h́nh tam giác mà ta có thể tưởng
tượng ra, chúng ta sẽ nhận thấy rằng tất cả chúng nó đều có những đặc tánh
chung đó, và v́ thế, chúng ta có thể rút tỉa từ những h́nh tam giác này
những đặc tánh và tạo ra một h́nh tam giác lư tưởng. H́nh tam giác lư tưởng
này sẽ không có h́nh dáng hay kích cỡ chi cả. Nó chỉ là một khái niệm mà
thôi. Chúng ta không thể h́nh dung nó trong trí ḿnh, bởi v́ ngay khi tưởng
tượng ra một h́nh tam giác, chúng ta liền tạo nên một h́nh tam giác cụ thể
đặc biệt. Tương tự, chúng ta có thể lấy những h́nh h́nh học khác như h́nh
tṛn, h́nh vuông và từ vô số h́nh tṛn hay h́nh vuông mà chúng ta có thể
tưởng tượng, chúng ta có thể rút ra những đặc tánh riêng biệt của những h́nh
này và tạo nên những khái niệm về một h́nh tṛn hay h́nh vuông. Cũng như thế
ấy, ở những lănh vực khác của tư tưởng, khi chúng ta nói một “con ngựa”,
chúng ta khó mà nhận thức rằng ḿnh không nghĩ đến một con thú riêng biệt
nào, nhưng chỉ nhớ đến một khái niệm mà ḿnh đă tạo ra do sự quan sát một số
ngựa. Tất cả những danh từ chung như thế bằng cách ấy, chỉ là những khái
niệm mà chúng ta đă tạo do sự quan sát một số đồ vật cùng một loại với nhau
ghi chú những điểm đặc biệt của chúng, và từ các đặc điểm này tạo ra một
khái niệm gồm có tất cả những vật ấy, nhưng không giống với một cái nào cả.
Đó là điểm chúng ta phải ghi chú: khái niệm của một h́nh tam giác là một
điều thuộc về một loại khác nhau hay một thứ ở cơi khác hẳn và không giống
như bất cứ tam giác nào chúng ta có thể tưởng tượng được. Ngay lúc chúng ta
tưởng tượng một h́nh tam giác, từ cơi giới trừu tượng chúng ta rơi vào cơi
giới cụ thể.
Chúng ta đă xem qua một vài thí dụ đơn giản minh họa sự khác biệt giữa tánh
chất trừu tượng và cụ thể, nhưng cảnh giới trừu tượng lan rộng ra mọi lĩnh
vực của tư tưởng con người. Trên thực tế, ở bất cứ nơi nào chúng ta có những
vật với h́nh dáng và tánh chất riêng biệt mà những vật ấy liên quan với nhau
ở những điểm nào đó, liền có ngay tư tưởng trừu tượng để định nghĩa các mối
liên quan giữa chúng nó. Tất cả mọi định luật và cách nh́n tổng quát có tính
khoa học, tất cả mọi hệ thống triết lư, mọi nguyên lư đều t́m cách định
nghĩa các liên quan giữa sự vật hay ư nghĩ, cái này đối với cái kia, và
thuộc về lĩnh vực của tư tưởng trừu tượng. Như thế, đặc điểm trừu tượng và
cụ thể không thể tách rời ra được, mặc dù về bản chất chúng nó thật khác
nhau. Ở lĩnh vực trí tuệ, chúng nó là một cặp song đôi, ví như sợi chỉ dọc
và sợi chỉ ngang của một mảnh vải.
Ở bản chất bên trong của chúng ta, thể Thượng Trí là cái thể của tâm thức
được sử dụng như là cơ quan tạo tư tưởng trừu tượng. Quả thật, chúng ta tạo
tư tưởng trừu tượng xuyên qua bộ óc, nhưng óc chỉ là một dụng cụ ghi lại một
cách yếu ớt trong tâm thức vật chất những rung động tiên khởi do thể Thượng
Trí tạo ra. Vị trí của các rung động là nơi thể Thượng Trí. Những rung động
này được phản chiếu từ thể này sang thể khác, cho đến khi chúng hiện ra
trong bộ óc vật chất sau khi mất phần lớn cường độ và tánh chất rơ rệt của
chúng trong sự di chuyển. Ở tại cơi giới của Thượng Trí, những tư tưởng trừu
tượng không có mơ hồ, thiếu rơ rệt, như khi chúng xuất hiện trước chúng ta ở
cơi trần, mà lại là những thực tại có thật, có thể được các khả năng của thể
Thượng Trí nhận thức. Chơn Nhơn trong thể Thượng Trí, có thể vận dụng và làm
việc với những nguyên tắc và ư nghĩ trừu tượng, giống như chúng ta với thể
hạ trí, có thể vận dụng các ư nghĩ và h́nh ảnh cụ thể. Chỉ trừ khi nào một
trong các ư nghĩ trừu tượng này được phóng vào hạ trí, chừng đó nó khoác lấy
một h́nh dáng xác định, và t́nh trạng trừu tượng đổi thành t́nh trạng cụ
thể. Từ điểm liên quan giữa những ư nghĩ trừu tượng và cụ thể vừa xem qua,
rơ ràng khi một ư nghĩ trừu tượng từ cơi cao của nó đi xuống cơi hạ trí, nó
có thể mang lấy vô số h́nh dáng mà tất cả đều liên quan với nhau và có những
đặc trưng chung nằm trong ư nghĩ trừu tượng. Hăy lấy trở lại thí dụ h́nh tam
giác. Khi ư nghĩ trừu tượng thuộc về h́nh tam giác là một thực tại xác định
từ cơi Thượng Trí đi xuống lănh vực của trí cụ thể, nó nảy sinh ra vô số
h́nh tam giác. Ở cơi riêng biệt của nó, Chơn Nhơn biết các yếu tính của một
h́nh tam giác. Ở cơi hạ trí, nó có thể biết một h́nh tam giác riêng biệt có
tất cả tánh chất cần thiết của một h́nh tam giác.
Biết được thực chất của sự vật, tương phản với cái biết những sự vật cụ thể,
điều đó dĩ nhiên đem lại một lợi to tát. Khi chúng ta biết cái toàn thể,
đương nhiên chúng ta biết tất cả cái riêng rẽ được bao gồm trong loại đó.
Nhà toán học có được một ư nghĩ trừu tượng về một h́nh tam giác, tức nhiên
biết tất cả h́nh tam giác mà y có thể tưởng tượng. Nhà khoa học khám phá một
định luật khoa học thu thập được cách điều khiển tất cả hiện tượng nằm trong
định luật đó. Nhà Huyền Bí Học t́m ra được một định luật huyền bí trở nên
tinh thông ngay tức khắc, về một khía cạnh đặc biệt của sự sống. Nếu chúng
ta chỉ biết vô số sự việc hay chi tiết của một loại riêng biệt mà không biết
sự liên quan ngấm ngầm giữa chúng nó, không biết bản chất hay tánh chất
thiết yếu của chúng, chẳng những chúng ta không hiểu biết rơ ràng về chúng,
mà lại c̣n không thể sử dụng chúng trong công việc của chúng ta. Một khối
lớn những sự việc không liên quan, không giao tiếp với nhau, chỉ là một đống
rác to mà thôi. T́m ra được nguyên tắc ngấm ngầm liên kết những sự việc đó,
nó trở nên một nguyên liệu có giá trị khả dĩ được sử dụng dưới vô số h́nh
thức.
Một trong những mục tiêu chánh của khoa học là t́m ra những nguyên tắc và
định luật tiềm ẩn trong thế giới vật chất. Chính là các định luật và nguyên
tắc được t́m ra đến nay, đă giúp những khoa học gia kiểm soát các quyền lực
thiên nhiên của thế giới vật chất. Nhà Huyền Bí Học cũng thực hành điều đó
với các cơi giới siêu vật chất của Thiên Nhiên, bởi v́ khác với khoa học
gia, y không loại bỏ cơi giới nào của Thiên Nhiên ra ngoài công việc sưu tầm
của y. Nhờ vậy, y thu thập được sự hiểu biết và kiểm soát các quyền lực
trong tất cả các cơi giới của Thiên Nhiên.
Như thế, chúng ta thấy rằng sự hiểu biết các nguyên lư tiềm ẩn gạt bỏ đi
điều cần thiết sưu tầm các chi tiết và sự việc, bởi v́ chúng nó không xác
định, nhờ vậy mà tiết kiệm thời giờ và năng lực. Người ta nói rằng các Đấng
Chân Sư Minh Triết cao cả biết đầy đủ về tất cả nguyên lư căn bản ở mọi lĩnh
vực của đời sống và không lưu tâm đến các chi tiết. Nếu các Ngài muốn có
kiến thức về chi tiết liên quan đến việc ǵ, các Ngài chỉ cần vận dụng thể
hạ trí vào công việc để có kiến thức đó dễ dàng. V́ thể Thượng Trí của các
Ngài đă phát triển đầy đủ và các Ngài có thể sử dụng trọn tâm thức ở cơi
Thượng Trí, các Ngài có thể biết và sử dụng các nguyên lư căn bản này trực
tiếp ở cơi của các Ngài không cần phải hoạt động xuyên qua môi trường nặng
nề và tương đối ít đáp ứng của óc vật chất. Cái nh́n bên trong của các Chân
Sư vào các định luật thiên nhiên và nguyên lư căn bản của đời sống thật là
toàn hảo hơn bất cứ ai tâm thức
bị đóng khung ở cơi vật chất mà thôi. Nên ghi nhớ rằng các nguyên lư này đă
hiện hữu trường cửu trong Thể Trí Đại Đồng của Thượng Đế, và chỉ có sự phát
triển của thể Thượng Trí mới giúp mỗi cá nhân giao tiếp và hiểu biết các
nguyên lư đó. Mọi điều ǵ có thể được hiểu biết trong Thái Dương Hệ đều đă
có sẵn trong Thể Trí của Thượng Đế. Chỉ v́ các thể của tâm thức chúng ta
không ứng đáp được do chưa phát triển đă ngăn cản sự hiểu biết mọi vật của
chúng ta. Khi chúng ta phát triển khả năng ứng đáp với một loại rung động
đặc biệt nào đó th́ chúng ta mới có thể giao tiếp với phần tương ứng của tâm
thức Ngài.
Bây giờ đến một chức năng khác của thể Thựong Trí. Như đă thấy, thể Thượng
Trí được tạo nên khi linh hồn con người được sinh ra, và từ đó linh hồn đi
xuyên qua quá tŕnh tiến hóa nhân loại theo các định luật Luân Hồi và Nhân
Quả v́ kết quả của sự tiến hóa của nhân loại, những đức tánh của linh hồn ở
tính trạng phôi thai lần lần được khởi động lên từ tiềm tàng sang tích cực,
đương sự đi từ t́nh trạng man rợ bước sang t́nh trạng người văn minh, và từ
đó đến t́nh trạng Con Người Trọn Lành.. Cuộc khai mở lần hồi này của nhân
loại và của các đức tánh thiêng liêng được đánh dấu bởi một cuộc phát triển
đồng thời của thể Thựong Trí, bằng một h́nh dáng càng lúc càng to lớn thêm
của vầng hào quang của thể này, sự xuất hiện những đường vạch màu chói lọi,
và vầng hào quang tỏa sáng thêm ra. Một cuộc nghiên cứu về thể Thượng Trí
của nhiều nhân vật khác nhau cho thấy một điểm liên quan rơ rệt giữa các màu
sắc gặp ở các thể này và những đức tánh được khai mở do Chân Ngă. Cho nên,
chỉ cần nh́n vào một thể Thượng Trí, với năng khiếu thần nhăn có thể
biết.chắc chắn về giai đoạn phát triển đạt được của Chân Ngă đó và các đức
tánh đă hoạch đắc tới ngày nay. Đúng như một nhà sinh lư học nghiên cứu về
thể xác con người và biết mọi điều về cấu trúc chi tiết của nó, các nhà
Huyền Bí Học nghiên cứu về thể Thượng Trí khào sát trọn vẹn các thành phần
và các định luật cai quản sự lớn mạnh của nó. V́ đang sống trong các giới
hạn chật hẹp của tâm thức ở cơi vật chất, chúng ta không thể thấu hiểu được
– trừ ra thật mơ hồ - bản chất của thể Thượng Trí và cách mà tâm thức dùng
nó để hoat động.
Cho nên, chúng ta thấy rằng chức năng thứ hai của thể Thượng Trí là đóng vai
tṛ làm một thứ kho tích trử các kết quả của Cơ Tiến Hóa nhân loại – những
kết quả này đă thu thập trong suốt quá tŕnh của các kiếp sống liên tiếp của
Chân Ngă. Tuy nhiên, có hai điểm chánh yếu đáng ghi nhớ liên quan đến sự lớn
mạnh lần hồi này của thể Thượng Trí. Điểm thứ nhứt là trong thời gian trải
qua ở Lạc Cảnh (Devakhan) hay Cơi Trời sau khi một kiếp sống dương trần chấm
dứt, những kinh nghiệm của kiếp sống chót vừa trải qua trên trái đất được
chậm răi tiêu hóa và tinh hoa của chúng, dưới h́nh thức các khả năng, được
chuyển đến và biến thành một phần bản thể của thể Thượng Trí. Như thế, phàm
nhơn đă tinh lọc các kinh nghiệm nó đă thanh lọc và trước khi bị tan ră và
biến mất, nó trao lại tất cả các kết quả đă tinh lọc, những tinh hoa quư giá
của tất cả các kinh nghiệm này cho cha đẻ nó, là Chân Ngă; v́ chính Chân Ngă
này đă sinh ra nó khi xưa. Do đó, Chân Ngă kết nạp vào bản chất nó tất cả
bài học quư báu đă học trong kiếp sống vừa qua, và sẽ bắt đầu mỗi kiếp sống
mới khác với các kinh nghiệm đă gom tụ từ các tiền kiếp. Sự lớn mạnh này của
thể Thượng Trí hoàn toàn giống như sự lớn mạnh của một cái cây ở ngoài đời.
Mỗi năm sang thu, cây rụng những chiếc lá cũ, sau khi trao nhựa sống cho các
cành, để rồi sang xuân, đâm ra bao nhiêu lá mới, hấp thụ thức ăn từ bầu
không khí và sự lớn mạnh xa hơn nữa.
T́nh cờ, điểm này cho chúng ta thấy sự việc rằng: khi chúng ta bắt đầu một
kiếp sống mới với các thể xác, vía và hạ trí mới, chúng ta không c̣n nhớ các
kinh nghiệm đă trải qua trong những kiếp trước, nhưng vẫn hưởng đầy đủ các
lợi lộc do các kinh nghiệm đó mang lại dưới h́nh thức những khả năng và
quyền lực phát triển trong các kiếp đó và biểu hiện trong thể Thượng Trí.
Chúng ta không nhớ được điều ǵ trước kia, bởi v́ thể trí mới được tạo lập,
không có chứng kiến những kinh nghiệm đă qua, và không tồn trữ, hay lưu lại
dấu tích nào cả. Chỉ có Chân Ngă, đă trải qua các kinh nghiệm đó và lưu giữ
kư ức của các tiền kiếp – kư ức này có thể được sống lại đối với những người
có khả năng nâng ḿnh đến tâm thức của Chân Ngă, và rồi đó mang xuống bộ óc
vật chất những h́nh ảnh trí tuệ liên quan đến các kiếp sống quá khứ.
Điểm thứ nh́ mà chúng ta nên ghi nhớ là phần lớn các điều xấu xa chúng ta
nhận thấy trong con người không phải là điều tích cực, nhưng chỉ do sự thiếu
phần phát triển các đức tánh tốt tương ứng đối nghịch, và các khả năng trong
thể Thượng Trí. Trọn diễn tŕnh Cơ Tiến Hóa, các kinh nghiệm khác nhau và
các đặc tánh khác nhau của chúng ta, họp lại tạo một tánh t́nh tốt được phát
triển lần hồi, cái này sau cái kia, trong một đường lối bất thường, chứ
không đồng thời theo một trật tự nào. Điều đó ví như nhiều người khác nhau
bắt đầu tự vẽ lấy chân dung của ḿnh, và mỗi người bắt tay vào việc tùy theo
đường lối riêng của ḿnh. Nếu khi các chân dung đó chưa xong, mà có người
nào nh́n vào th́ sẽ thấy có tấm được vẽ xong cái đầu, có tấm được hai tay,
tấm khác xong được hai chân v.v. . . khi
hoàn tất xong th́ các tranh vẽ sẽ hài ḥa và cùng một tiêu chuẩn; nhưng
trong khi chưa rồi, th́ chúng có vẻ khác hẳn và không cân bằng. Đó cũng là
trường hợp tánh t́nh chúng ta. Chúng ta phát triển mọi đức tánh khác nhau
trong tánh t́nh ḿnh theo những thứ tự khác nhau, và bắt đầu phát triển
chúng ở những thời điểm khác nhau, và v́ thế mà có vẻ không cân bằng, và
không ai giống ai được. Tổng quát, th́ những điều mà chúng ta gọi là tật xấu
ở nhiều trường hợp, là do sự thiếu những đức tánh tốt tương ứng chưa được
khai mở trong thể Thượng Trí. Đó là những vạch đen trong quang phổ của tánh
t́nh chúng ta. V́ vậy thói quen nói láo là do nơi sự vắng mặt của đức tánh
tốt riêng biệt trong thể Thượng Trí tương ứng với tánh chân thật… Nếu nh́n
đồng loại ta dưới ánh sáng này, chúng ta sẽ sẵn ḷng giữ một thái độ nhân từ
hơn đối với các yếu đuối và khuyết điểm của tánh t́nh họ và thay v́ cho đó
là tật xấu hay tội lỗi th́ chỉ cho rằng họ chưa được phát triển đầy đủ.
Nhưng họ phải hoàn tất chân dung của họ – tất cả đều phải hoàn tất chân dung
của ḿnh – và chúng ta không thể có một thái độ nào khác hơn, hữu lư hơn, là
tỏ ra thông cảm và giúp đỡ.
Một điểm khác cần được lưu ư, liên quan đến điểm này là mặc dầu rốt ráo,
chúng ta phải phát triển tất cả tánh tốt cần thiết cho công cuộc hoàn thiện,
mục tiêu của quá tŕnh tiến hóa không phải cuối cùng tạo ra một kiểu mẫu y
như nhau. Tất cả chúng ta đều phải toàn hảo, tất cả phát triển một cách toàn
diện, nhưng vẫn phải đặc biệt, không ai giống ai cả. Không có hai nhân vật
giống hệt nhau, mặc dầu có 60 ngàn triệu linh hồn đang tiến hóa đến điểm
trọn lành trong kế hoạch mà chúng ta là một thành phần. Kế hoạch tiến hóa
cho nhân loại không giống như một nhà máy hiện đại sản xuất hàng triệu món
đồ nhất định, hoàn toàn giống hệt nhau, không thể phân biệt cái này với cái
kia. Làm thế nào Tạo Hóa có khả năng tạo ra trong pḥng thí nghiệm của Ngài
một số khổng lồ linh hồn tiến hóa đến mức trọn lành, nhưng vẫn giữ nguyên
vẹn bản chất riêng biệt cá nhân, đó là một trong những bí mật về sự sống mà
chúng ta không hy vọng giải đáp, trong khi vẫn đang sống trong các cảnh giới
ảo ảnh và chỉ nh́n mọi sự việc một cách phiến diện mà thôi.
Thể Thượng Trí được sử dụng, chẳng những như một cái kho chứa đựng mọi tinh
hoa của các kinh nghiệm thu thập do các phàm nhơn của những kiếp luân hồi
khác nhau, và các năng khiếu được khai mở xuyên qua chúng, mà c̣n tích trữ
các Nghiệp Quả tốt hay xấu do các phàm nhơn đă gây ra nữa. Những nghiệp quả
này được lưu lại như những ấn tượng tiềm tàng ví như những hạt giống nằm
trong thể Thượng Trí và lần hồi sẽ kết trái và định đoạt các điều kiện của
những kiếp vị lai.
Đó là lư do tại sao thể này gọi đó là Nhân Thể. (Nhân Thể là cái thể tích
trữ các loại nhân). Trong kho Nghiệp Quả này, một phần được chấm dứt và phần
khác được tăng thêm ở mỗi kiếp ví như một loại trương mục ngân hàng, được
duy tŕ xuyên qua các kiếp luân hồi liên tục của phàm nhơn. Trương mục riêng
này chỉ chấm dứt ở giai đoạn Giải Thoát, sau khi các nghiệp quả cá nhân được
thanh toán hoàn toàn.
Điểm chót có thể được ghi chú là các chức năng của thể Thượng Trí liên quan
đến các nhân tố giúp vào sự tăng trưởng của nó. Chúng ta đă biết cách nào
Chơn nhơn thu thập các kinh nghiệm từ kiếp sống này sang kiếp sống khác nhờ
sử dụng phàm nhơn mà phát triển. Nhưng sự tăng trưởng này không phải là t́nh
cờ. Nó được d́u dắt bởi hai ảnh hưởng tiềm tàng, luôn luôn áp chế và định
đoạt đường hướng của sự lớn mạnh đó. Ảnh hưởng thứ nhứt là bản chất độc nhất
vô nhị của cá nhân đang tiến hóa. Như đă được nói qua, mỗi linh hồn được tạo
ra không ai giống ai cả, và sự tăng trưởng của nó một phần nào do tánh chất
độc nhất ấy d́u dắt – bản chất này nằm sẵn trong Chơn Thần vĩnh cữu một cách
bí ẩn, như đă được nhắc nhở bóng dáng trong câu châm ngôn huyền bí: “Hăy trở
nên cái ǵ anh là hiện nay”. Điểm độc nhất này của cá nhân luôn luôn gây ảnh
hưởng mạnh cho sự tăng trưởng của linh hồn xuyên qua trọn quá tŕnh tiến
hóa, và chính ảnh hưởng từ bên trong này chắc chắn mang lại kết quả là sự
toàn thiện của linh hồn, đúng với bản chất độc nhất của cá nhân.
Nhân tố thứ hai cũng liên hệ mật thiết với nhân tố thứ nhứt, là chức năng mà
mỗi cá nhân – hay Chơn Thần – phải thực hiện trong Chương Tŕnh Thiêng
Liêng. Mỗi linh hồn đều phải đóng một vai tṛ rơ rệt trong kế hoạch của sự
tiến hóa, và sự tăng trưởng của nó ḥa hợp với vai tuồng mà nó phải thực
hiện một cách có hiệu quả. Các kinh nghiệm mà nó phải học hỏi và các năng
khiếu mà nó phải phát triển, đặc biệt ở những giai đoạn chót của cuộc tiến
hóa, phải như thế nào để đem lại sự độc nhất của cá nhân ấy và chuẩn bị để
nó đóng vai tṛ đă được chỉ định trong Kế Hoach Thiêng Liêng.
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỂ THƯỢNG TRÍ
Trong chương vừa rồi, chúng ta đă cố gắng xem qua tổng quát vai tṛ của
Thượng Trí trong đời sống của chúng ta, và cái thể mà nó sử dụng để hoạt
động. Khi t́m hiểu những sự việc về các cơi siêu vật chất, chúng ta phải cẩn
thận đừng coi những ư tưởng mơ hồ và tổng quát ở cơi vật chất như là những
thực tại mà chúng biểu hiện. Những ư tưởng này phải được nhận thức như là
những gợi ư, những điều chỉ dẫn, giúp chúng ta h́nh dung những thực tại ẩn
giấu ở phía sau chúng – thực tại mà chỉ khi nào sự phát triển nội tâm cho
phép trực tiếp nhận thức, th́ chúng ta mới có thể biết rành rẽ, Chúng ta cần
phải luôn lưu tâm đến điểm thực tế là chúng ta hiện nay bị hạn chế thật
nhiều, bởi đang hoạt động ở cơi trần vật chất; v́ thế mà con người có khuynh
hướng thịnh hành là dùng những từ ngữ để chỉ những ư tưởng, và những ư tưởng
để thay thế cho những thực tại chúng
biểu hiện. Một kết quả trực tiếp của khuynh hướng này là chúng ta dễ dàng
bằng ḷng với những ư tưởng suông thuộc về các sự việc ấy – nếu không phải
chỉ là những từ ngữ mà thôi – và quên rằng giữa một ư tưởng thuộc về một sự
việc và chính sự việc đó có một hố sâu to tát cần phải được lấp đi nếu thật
sự ḿnh hiểu sự việc đó, Rất nhiều người chỉ làm công việc bàn luận suông về
những sự việc thuộc về đời sống tâm linh cao cả mà quên lửng sự kiện rằng nó
chỉ đang hoạt động bằng ư tưởng mà thôi – đó là những ư tưởng thật mơ hồ
trên thực tế. Nói tóm lại, bàn luận về những ư tưởng này không có ǵ là tai
hại, mà lại là một bước khởi đầu cần thiêt. Cái phiền là khi chúng ta tự cảm
thấy ḿnh măn nguyện với bước đầu đó thay v́ phải vội vàng đi t́m cái thực
tại ẩn giấu phía sau chúng.
Trước khi nói đến những phương pháp tổng quát có thể được sử dụng để phát
triển Thể Nguyên Nhân, cần phải chuẩn bị trước bằng cách xem xét một vài sự
kiện quan trọng thuộc về đề tài này. Điểm thứ nhứt cần ghi chú là khai mở
thể này – đó là thể bên ngoài nhứt của Jivatma bất tử – hay là Ego – Chân
Ngă theo cách gọi của văn chương Thông Thiên Học. Sự khai mở đ̣i hỏi một
tiến tŕnh dài, thật dài, đến nhiều trăm kiếp sống để thành tựu. Người ta
thường ước đoán rằng, trung b́nh cần phải 777 kiếp sống ở trần gian, giữa
điểm “cá tính hóa” linh hồn và điểm đắc quả Chân Sư. Trong con số đưa ra ấy,
lối 700 kiếp được dùng để học kinh nghiệm trong điều kiện man rợ và bán
khai, lối 70 kiếp để học kinh nghiệm trong điều kiện văn minh và hoàn thiện
bản tính đạo đức; lối 7 kiếp chót để bước chân trên con đường Đạo dẫn đến
quả vị Chân Sư. Khi nh́n vào sự việc, chúng ta thấy cần phải một số lớn thời
gian trải qua ở các cơi giới siêu vật chất giữa hai cuộc luân hồi kế tiếp,
và thấy rằng cuộc hành tŕnh to tát và dài thăm thẳm của linh hồn xúc tiến,
từ khi nó bắt đầu sự tiến hóa nhân loại, và công việc khai mở Thể Nguyên
Nhân chậm chạp biết bao, v́ chính nó ghi chép và thể hiện diễn tŕnh tiến
hóa này. Ở giai đoạn đầu của cuộc hành tŕnh, sự tiến hóa của linh hồn chỉ
được d́u dắt từ bên ngoài, do các đoàn thể thiêng liêng hoạt động trong Thái
Dương Hệ, và linh hồn ít khi nhúng tay vào công việc khai mở cá nhân ḿnh.
Chỉ ở vào giai đoạn gần cuối của cuộc hành tŕnh, khi linh hồn ư thức được
mục đích của cuộc tiến hóa dài đăng đẳng mà nó đang dấn thân vào, chừng đó
nó mỗi lúc càng dự phần vào công việc tăng trưởng và khai mở của nó; các
giai đoạn chót của phát triển hầu hết chỉ được d́u dắt từ bên trong mà thôi.
Sự kiện nghe từ bên trong nội tâm, lời thúc hối của linh hồn thúc giục bắt
tay vào công việc tiến hóa của cá nhân ḿnh là một dấu hiệu của sự trưởng
thành, và cho thấy linh hồn đang tiến hóa đến giai đoạn cuối cùng của cuộc
hành tŕnh. Chừng đó, khi nảy sinh sự thúc giục từ bên trong này, một phần
rất lớn công việc đă dược thực hiện xong, v́ thế chỉ cần một số ít kiếp sống
tôi luyện và kỷ luật chặt chẽ đủ để hoàn tất công việc. Chính v́ lư do này
mà một số người khi cảm thấy niềm
thúc giục cấp bách th́ tự tay ḿnh điều khiển cuộc đời ḿnh để đoạt được sự
toàn thiện càng sớm càng hay, có được một vận may chánh đáng thành công
trong một vài kiếp sống, và đôi khi dường như họ thực hiện phép lạ là trong
một kiếp mà thôi. Ở một số ít trường hợp, Chân Ngă phát triển tốt đẹp, Thể
Nguyên Nhân khai mở đầy đủ, và sự khó khăn chánh là sự giao tiếp giữa Chân
Ngă và phàm nhơn thấp kém, do những trở ngại tạo bởi Nghiệp Quả xấu ở những
tiền kiếp. Một khi Nghiệp Quả này được thanh toán xong, th́ Chân Ngă liền
bắt đầu chói sáng, xuyên qua phàm nhơn, và có vẻ như một phép lạ của sự khai
mở đang xảy ra.
Vậy hăy để ai cảm thấy sự thúc giục tự thực hiện công việc hoàn thiện hóa
bản chất cá nhân ḿnh hiểu rơ rằng: đó là một công việc dài hạn và chán
chường mà ḿnh mong gánh vác, một công việc ở phần lớn trường hợp đ̣i hỏi
một số kiếp sống tích cực làm việc để thực hiện. Không một ai có thể tiên
đoán bao giờ nó sẽ thành tựu, và sự thành công mỹ măn sau cùng chỉ được bảo
đảm bằng một ḷng kiên nhẫn vô tận và một quyết tâm cố gắng đến kỳ cùng
trước mọi loại khó nhọc, phiền muộn và thất bại.
Điểm thứ nh́ cần lưu ư và hiểu rơ là sự tương quan giữa Phàm Ngă và Chân
Ngă, bởi v́ nếu không nhận thức rành mạch sự tương quan này th́ sự lầm lộn
sẽ xuất hiện măi, làm mờ tối trí thông minh và che khuất con đường ḿnh đang
dẫm chân trên ấy nữa. Như được nói qua ở đoạn trước, những kinh nghiệm do
phàm nhơn thu đạt ở trong một kiếp nhứt định được biến đổi thành những khả
năng khác nhau ở Cơi thiên đường; và tinh hoa của các kinh nghiệm này, như
thế được chuyển sang cho Chân Ngă để thu nhận vào bản chất của nó ở kiếp
luân hồi kế tiếp. Chính nhờ sự đóng góp thêm vào các khả năng, từ kiếp này
sang kiếp khác, đă một phần phụ giúp vào sự lớn mạnh của Chân Ngă và sự khai
mở các quyền năng của nó – một phần khác, v́ Chân Ngă sống một đời sống
riêng tư của nó ở các cơi cao và sự va chạm của các rung động ở cơi đặc biệt
của nó và các cơi cao hơn, cũng mang lại kết quả khởi động các khả năng
thiêng liêng của nó từ trạng thái tiềm tàng sang trạng thái hoạt động. Hiện
giờ, một kiếp sống riêng biệt ở trần gian giúp ích vào sự tăng trưởng của
Chân Ngă ít hay nhiều tùy thuộc phần lớn ở sự liên quan giữa Chân Ngă và
Phàm Ngă: Phàm Ngă đă do Chân Ngă tạo ra, nhưng trong thời gian một kiếp
sống, Phàm Ngă phát triển một đời sống bán độc lập riêng của nó. Điều này có
thể, hoặc tỏ ra đồng ư và phục tùng các quyền lợi của Chân Ngă, hoặc không
đồng ư. Nếu phàm ngă có khả năng tự liên kết để phù hợp với các quyền lợi
của Chân Ngă và để cho Chân Ngă sử dụng nó trong các mục tiêu cao cả và sâu
rộng, được vậy, kiếp sống là một thành công rực rỡ và các kinh nghiệm của
Phàm Ngă mang lại là một vụ gặt được mùa, để Chân Ngă sử dụng và phát
triển. Mặt khác, như đă thường xảy
ra cho trường hợp đại đa số nhân loại, nếu Phàm Ngă quyết liệt cho ḿnh một
nếp sống độc lập riêng biệt, không tuân theo các ảnh hưởng và sự d́u dắt của
Chân Ngă, để trọn vẹn dấn thân vào các quyền lợi tầm thường và tạm thời của
các cơi giới thấp kém, như thế mục đích của kiếp sống phần lớn sẽ là một
thất bại, Mặc dầu cũng thu đạt được một ít lợi lộc, và một vài tiến triển,
nhưng kết quả vụ mùa về phương diện cao cả thật là nghèo nàn.
Cái nh́n trên đây về sự liên quan giữa Phàm Ngă và Chân Ngă, không nên đem
lại cảm tưởng rằng có hai thực thể riêng biệt đang hoạt động bên trong chúng
ta. Trên thực tế, chỉ có một Sự Sống Duy Nhứt của Thượng Đế hoạt động khắp
mọi nơi. Một tia sáng của Tâm thức Ngài hoạt động trong một linh hồn
(Jivatma) xuyên qua một số các thể thích nghi ở những cơi khác nhau. Ở các
cơi tâm linh cao của Atma – Buddhi – Manas, tia sáng tâm thức này tạo ra một
trung tâm chơn ngă, nhưng ở trung tâm này, bản tánh của chơn ngă tràn ngập ư
thức hợp nhất và liên hiệp khắng khít với sự sống thiêng liêng, là nguồn cội
của nó. Tấm màn ảo ảnh (Maya) vẫn có nơi đây, nhưng đủ mỏng để cho Chơn ngă
thấy phần nào Thực Tại mà nó bao phủ. Khi tia sáng của tâm thức thiêng liêng
này phóng xuống sâu hơn trong vật chất và hoạt động xuyên qua ba hạ thể ở
các cơi hồng trần, trung giới, hạ thiên; nơi đây, những màn ảo ảnh trở nên
dầy và khó xuyên qua, khiến cho bản chất của sự hợp nhứt và sự ư thức với
nguồn sống thiêng liêng của nó mất đi. Tâm thức cứ măi ḥa hợp và tự động
hóa ḿnh với ba hạ thể, làm phát triển một nhận thức sai lầm về cái TA;
chính cái TA này là bản chất và nguồn gốc của phàm ngă. Đó là cây kim găm
kết liền tất cả mọi trí nhớ và kinh nghiệm của ḿnh thành một hợp chất trọn
vẹn. Mặc dầu nó do Chân Ngă mà có, do nguồn cội Chân Thần mà ra, đó là cách
cái TA hoạt động như một thực thể độc lập, quên đi nguồn cội thiêng liêng,
quên cả mục đích của sự sống c̣n của con người. Ở vào những giai đoạn đầu
của cuộc tiến hóa, điều này không quan hệ, bởi v́ những giai đoạn đó mọi
loại kinh nghiệm đều cần thiết để tạo dựng cá tính thô sơ và bất cứ kinh
nghiệm nào cũng là tốt để được sử dụng như vật liệu xây cất. Nhưng ở giai
đoạn cuối cùng, khi mà tánh phân biện cần được áp dụng để chọn lọc những
loại kinh nghiệm hầu thanh lọc cá tính và làm xuất hiện bản chất thiêng
liêng của nó, cũng như sự hợp nhất cá nhân, th́ lúc đó phàm ngă phải trở nên
một tôi đ̣i, phụng sự Chân Ngă. Dĩ nhiên, phàm nhơn mộng ảo với cái “TA” của
nó, chỉ là một thực thể vô thường, rồi đây sẽ bị tiêu tan và biến mất ở giai
đoạn chót của kiếp sống, khi mà các kinh nghiệm của nó đă được hấp thu ở cơi
Thiên đường, và tinh hoa của các kinh nghiệm ấy được chuyển đến Chân Ngă,
nhưng cách nó hoạt động làm nên sự khác nhau trong sự phát triển Chơn ngă ở
những trạng thái tiến triển của Cơ Tiến Hóa.
Như thế, chúng ta thấy bằng cách nào mỗi Chân Ngă này sinh nhiều Phàm Ngă,
mỗi phàm ngă sống đời sống riêng tư của nó, và nhờ nó, mang lại các kinh
nghiệm giúp cho Chân Ngă ngày càng phong phú thêm, cho đến khi Chân Ngă được
phát triển đầy đủ, chừng đó nó không cần những kinh nghiệm liên quan đến các
cơi giới ảo ảnh thấp kém nữa. Cũng nên nhớ rằng mỗi phàm ngă chẳng những
phát sinh từ Chân Ngă, mà c̣n chỉ là một biểu hiện từng phần của Chân Ngă.
Nó chỉ tượng trưng một mặt của Linh Hồn Kim Cương. V́ thế mà các kiếp sau
của cùng một linh hồn không giống nhau như người ta thường chờ đợi, khi nhớ
đến sự liên quan mật thiết giữa Chân Ngă và các phàm ngă của nó. Ở mỗi kiếp
đầu thai, chỉ có một số trạng thái và khả năng của Chân Ngă được mang ra sử
dụng và biểu hiện, trong khi những cái c̣n lại vẫn ở trạng thái đ́nh chỉ,
tiềm tàng và sẽ được biểu hiện ở những kiếp tương lai, Bởi v́ mỗi kiếp sống
đều được thực hiện trong một số hoàn cảnh, do nơi Nghiệp Quả và các đ̣i hỏi
tiến hóa của linh hồn định đoạt và những hoàn cảnh này hạn chế trong
những ranh giới cạn hẹp cái số ít nhiều đức tánh có thể được biểu hiện trong
phàm ngă đó. Giống dân trong đó linh hồn được sinh ra, tánh di truyền của
thân thể, những điều kiện khí hậu, phẩm tính của thể xác, phần Nghiệp Quả mà
nó phải thanh toán, những khả năng nào sẽ phải phát triển trong kiếp đó, tất
cả các nhân tố này phối hợp lại, hạn chế sự biểu lộ của Chân Ngă, và chỉ một
số hạn chế của thật nhiều các khả năng và đức tánh đă phát triển rồi, có thể
được diễn tả trong một kiếp sống mà thôi. Nhưng các phàm ngă khác nhau lần
lượt, từ cái một, xuất hiện trong đời sống rộng lớn của Chân Ngă, cung cấp
các hoàn cảnh khác nhau cần thiết và những cơ may cho sự phát triển toàn vẹn
và thành tựu viên măn bao gồm tất cả quyền năng và khả năng thiêng liêng.
Tạo Hóa hoạt động chậm răi, nhưng các phương pháp của Ngài thật chắc chắn,
và các mục đích được thực hiện một cách khéo léo tuyệt vời và một kiên nhẩn
không bao giờ suy giảm.
Cuộc thảo luận về điểm liên quan giữa Phàm nhơn và Chơn nhơn, hay giữa Phàm
Ngă và Chân Ngă không nên được xem như một tṛ đùa giải trí, hoặc như một đề
tài của lư thuyêt suông. Ở mặt khác, sự thông suốt rơ rệt điểm liên quan này
sẽ là một điều cần thiết quan trọng, giúp chúng ta thực hiện công việc khó
khăn về khai mở bản chất tâm linh cao cả của ḿnh. Sự tiến hóa tâm linh
không thể đi xa nếu chúng ta
không thấu hiểu một cách hoàn toàn thông suốt sự liên quan này giữa Phàm Ngă
và Chân Ngă, và thành công trong công việc khiến Phàm Ngă phải tuân theo sự
kiểm soát của Chân Ngă. Trong công việc khiến Phàm Ngă phục tùng Chân Ngă
không có ǵ giúp đỡ chúng ta bằng sự nhận thức tánh chất giả tạm, vô thường
của Phàm Ngă. Giây phút mà một cá nhân nhận thức – chứ không phải tưởng nghĩ
sơ sài thôi – rằng cái thực thể đang cảm giác, suy tư và hành động ở các cơi
thấp, cái thực thể mà để thỏa măn nó, y đă cung hiến tất cả thời giờ và năng
lực, nhưng nó chỉ là một vật vô thường, một tạo vật với sự sống ngắn ngủi,
mà rồi đây nó phải nhường chỗ cho một tạo vật khác cùng loại như nó trong
kiếp kế tiếp; giây phút mà y nhận thức được điều này th́ từ lúc đó y không
thể thản nhiên trước những quyền lợi cao cả của y nữa. Chính là v́ chúng ta
không ư thức được, quên lăng đi cái định mạng khắc khe và tàn nhẫn dành
riêng cho phàm ngă của ḿnh, đă khiến chúng ta tự măn, bằng ḷng cái số kiếp
của ḿnh sống trong cơi giới vô thường ảo ảnh này. Giây phút chúng ta thức
tỉnh về điều này và mặt đất có vẻ như rắn chắc của thực tế giả tạo bắt đầu
tan biến đi dưới chân chúng ta, chừng đó, chúng ta mới kinh hoàng ngạc nhiên
và sợ hăi khởi sự t́m kiếm một cái ǵ chân thật, bền bỉ, không phải với một
thái độ ung dung, lơ là, nhưng lại giống như một người sắp chết đuối nắm bắt
một cọng rơm, với cách sống c̣n nghiêm chỉnh. Chỉ chừng đó, bằng một thái độ
miễn cưỡng và ḷng đau như cắt, chúng ta mới quyết định rời bỏ con tàu bất
hạnh – là Phàm Ngă – để ẩn trú trong Chân Ngă của ḿnh, mà chúng ta tin
tưởng (chứ chưa biết rơ) là vĩnh cửu. Càng lúc càng nhiều hơn, chúng ta tự
đồng hóa ḿnh với Chân Ngă và nghiêm chỉnh bắt tay vào công việc biến đổi
Phàm Ngă, một khí cụ, một biểu lộ của Chơn ngă, cho đến khi Phàm ngă hoàn
toàn phục tùng và chúng ta ở trung tâm của Sự Sống Thiêng Liêng. Trong tâm
trạng này và với thái độ ấy của tâm trí, chúng ta mới có thể bắt tay hữu ích
vào công việc phát triển Thượng Trí của ḿnh, xuyên qua Thể Nguyên Nhân.
Các phương pháp phát triển Thể Nguyên Nhân, theo sau các chức năng của thể
này, vừa được tŕnh bày trong các trang trước. Định luật cai quản sự tăng
trưởng đă được áp dụng chẳng những trong cơi vật chất mà c̣n ở các cơi thanh
cao hơn như sau: Khi một chức năng được thực hành, nó tiến bộ thêm và sự
tiến triển trong chức năng đem lại cách cấu tạo hoàn hảo hơn của thể ấy
xuyên qua chức năng được thực hành. Sự cấu tạo hoàn hảo này của các thể mang
lại một lối thực hành có nhiều cách khác nhau của chức năng, giúp cho cả hai
sự sống và h́nh dáng đều được phát triển tốt đẹp, song song với nhau, và tạo
cho tâm thức một dụng cụ hữu hiệu hơn trong sự biểu lộ của nó. Định luật này
là một định luật căn bản của sự phát triển và nằm trong nền tảng của tất cả
phương pháp Tu Dưỡng Bản Thân, ở mọi lănh vực của sự sống và ở mọi cơi. Hăy
lấy thí dụ một thân thể vật chất yếu đuối. Bạn tập luyện thể xác. Xuyên qua
các bắp thịt, huyết quản, và dây thần kinh, sự sống tuôn chảy nhiều hơn, nhờ
vậy thân xác trở nên cường tráng, bắp thịt cũng rắn chắc hơn và khả năng
hoạt động, sự bền dẻo cũng tăng theo tỷ lệ. Lấy thí dụ thể vía – cái thể của
các t́nh cảm và dục vọng – bạn cảm thấy buồn bực và không ứng đáp với một
vài xúc cảm, như t́nh thương và sự thông cảm. Bạn hăy đặt ḿnh vào những
hoàn cảnh mà các cảm xúc ấy được dấy động lên. Bạn bắt buộc thể vía ứng đáp
với các cảm xúc này. Lần hồi sự sống bắt đầu tuôn chảy trong các đường dẫn
mới vừa tạo lập, càng lúc càng nhiều hơn. Do đó, bản chất của thể vía thay
đổi, trở nên thanh trong hơn và bấy giờ
bạn cảm thấy ḿnh ứng đáp dễ dàng trước những cảm xúc thanh cao hơn
này. Hăy lấy thí dụ thể hạ trí, bạn nhận thấy nó không có khả năng suy tư
đúng đắn và có mạch lạc. Bắt đầu bạn suy nghĩ, tập trung vào các đề tài khác
nhau. Sự thực hành tỏ ra buồn chán tẻ nhạt buổi đầu, nhưng mỗi lúc năng lực
trí tuệ tuôn vào thể trí càng thêm lên, nhờ đó công việc trở nên dễ dàng
hơn. Lần lần những ǵ ở bước đầu tỏ ra buồn chán tẻ nhạt trở nên thích thú
và dễ thực hành. Ḍng năng lực chuyển vào thể trí lần hồi tổ chức lại thể
ấy, biến nó thành một dụng cụ hữu hiệu hơn cho sự rèn luyện của quyền lực
trí tuệ, và như thế, chuẩn bị nó cho một công việc hữu hiệu hơn trong chức
năng chánh của nó – là suy tư. Và song song đó, dụng cụ của nó ở cơi vật
chất – bộ óc và hệ thống thần kinh “năo tủy” – cũng được tiến triển tốt đẹp
hơn, giúp cho sự thể hiện tư tưởng tốt đẹp hoàn hảo hơn, trong tâm thức vật
chất.
Mỗi chức năng của mỗi thể của tâm thức đều trở nên tốt đẹp hơn nhờ sự rèn
luyện dù ta thấy hay không thấy, và Thể Nguyên Nhân không đi ra ngoài định
luật đó. Như đă xem qua, một trong các chức năng chính của Thể Nguyên Nhân,
là được dùng như thể của tư tưởng trừu tượng. Do đó, nếu chúng ta muốn phát
triển nó, ta phải tập dượt nó suy nghĩ trừu tượng. Nhiều người có ư niệm sai
lầm về tư tưởng trừu tượng, và mỗi khi nghe nhắc đến từ “trừu tượng”, họ
liền có ngay cảm giác không thoải mái, và tự tưởng tượng ḿnh đang lâm vào
những diễn tŕnh chán ngắt và thê lương của tư tưởng khó hiểu và vô ích.
Chính điểm đó là một dấu hiệu chứng tỏ chức năng này của Thể Nguyên Nhân
chưa được khai mở phù hợp và cần phải được săn sóc, bởi v́ bất cứ một chức
năng nào, nếu được phát triển đầy đủ đều hoạt động dễ dàng và thích thú. Nếu
chúng ta có một chức năng nào hoạt động yếu ớt, lư do sẽ là: hoặc chúng ta
không biết cách sử dụng đúng đắn, hoặc có một nhược điểm hay một trở ngại
trong thể ấy, xuyên qua đó chức năng thể hiện. Ngoại trừ sự kiện này, tư
tưởng trừu tượng không phải là một việc buồn tẻ và khó khăn như phần lớn
người ta tưởng tượng. Điều đó có nghĩa là ǵ? Nó có nghĩa là trong nhiều
trường hợp, sự trừu tượng hóa bản chất của một số lớn sự việc gom tụ lại
chung với nhau cho bất cứ mục đích ǵ. Nó đi từ cái chi tiết đến cái đại
cương. Mỗi ngày chúng ta vẫn thường thực hành những tiến tŕnh trí tuệ này
trong đời sống, nhưng đă làm một cách không ư thức, vô hiệu quả và kém khoa
học, v́ thế mà chúng không giúp ích cho công việc tăng trưởng của trí tuệ,
hay là chỉ phần nhỏ nào hữu ích thôi. Trên thực tế, khuynh hướng tổng quát
hóa rất thường xảy ra và phần đông chúng ta đang tổng quát hóa những kinh
nghiệm thu thập hằng ngày một cách thiếu hệ thống và đôi khi khờ dại. Trong
vài ngày tôi ăn rau cải tươi sống. Có lẽ do bao tử tôi yếu nên không thích
hợp với thức ăn uống. Tôi kết luận rằng rau cải tươi sống không tốt đối với
sức khỏe, và đi quanh truyền rao ư tưởng rằng rau cải không nên ăn sống. Như
thế tôi đang t́m cách sử dụng năng khiếu suy nghĩ trừu tượng, nhưng đă làm
một cách luộm thuộm không đầy đủ dữ kiện và không sử dụng kinh nghiệm. Phần
lớn các trường hợp, chúng ta đều đang tổng quát hóa một cách vô hiệu quả và
thô thiển như thế, và điều phải làm là học thực hành nó một cách khoa học,
suy nghĩ cẩn thận và có hệ thống. Được vậy, chẳng những chúng ta sẽ tiến
triển về trí tuệ, mà lại c̣n tăng trưởng thật nhiều khả năng hoạt động hữu
hiệu trong đời sống. Cũng nên nhớ rằng phương pháp tổng quát hóa như thế là
bước đầu trên con đường hướng về cái Duy Nhất – vạn thù qui nhất bổn. Nó
hiến cơ hội luyện tập cách nh́n tổng hợp để t́m thấy cái Nhất Bổn giữa cái
Vạn Thù. Nếu chúng ta tiếp tục sự t́m kiếm các định luật và nguyên tắc th́
sẽ nhận thấy rằng những nguyên tắc bé nhỏ của sự sống đều kết hợp chung lại
với nhau, giống như những phụ lưu của một con sông cái, cho đến khi chúng ta
tự nhận thấy ḿnh, rốt ráo nằm trong Đại Dương của Sự Sống – cái Duy Nhứt
Làm thế nào chúng ta luyện tập Thượng Trí thực hành công việc suy tư trừu
tượng một cách hữu hiệu? Chúng ta hăy lấy một vài thí dụ đơn giản để minh
họa tiến tŕnh học tập này. Giả sử chúng ta lấy một cái ṿng tṛn và cắt chu
vi nó thành một số cung nhỏ, một cách không đồng đều. Nếu chúng ta bôi bỏ
một số ṿng cung, chỉ để lại một phần ít của cái chu vi tṛn mà thôi. Bất cứ
ai biết qua h́nh học đều có khả năng nói: chúng là thành phần của một ṿng
tṛn mặc dù không thấy được trọn vẹn h́nh ṿng tṛn. Tại sao vậy? Bởi v́
h́nh dáng và vị trí của các ṿng cung này tự nhiên gợi lên cho cái trí một
h́nh tṛn mà chúng nó là những thành phần. Đương nhiên, một số người có thể
tạo nên một ṿng tṛn trong trí họ, chỉ nhờ thấy một số ít ṿng cung, trong
khi một số người khác đ̣i hỏi một số nhiều hơn để có thể đi đến kết luận,
tùy thuộc nơi sự thông minh và hiểu biết của họ. Giống như thế, chúng ta có
thể có ở đồ h́nh thứ hai dưới đây một số đường gạch. Chúng sẽ tức khắc khiến
ta nghĩ đến một h́nh vuông đối với những ai biết qua h́nh học.
H́nh 1
H́nh 2
Điều tương tự như thế xảy ra khi một số nhiều chi tiết được sắp xếp có hệ
thống và phân loại, và cái trí xem xét chúng với mục đích t́m ra sự liên
quan tồn tại giữa chúng. Đó là chức năng của Thượng Trí để thấy sự liên quan
này - để thấy cái trọn vẹn mà chúng chỉ là một thành phần, và để chuyển ngay
vào tâm thức vật chất sự tổng quát hóa nguyên tắc hay dịnh luật đă hỗn hợp
lại tất cả các chi tiết này thành một cái toàn thể trọn vẹn. Tất cả mọi định
luật khoa học đều được khám phá bằng cách đó, do cách dùng thể Hạ trí gom
góp lại mọi sự kiện, chi tiết và hỗn hợp chúng nó trong một cái tổng quát
hóa nhờ sử dụng Thể Thượng Trí. Thể Nguyên Nhân càng được phát triển cao, nó
càng dễ dàng nhận thức được những mối liên quan giữa các sự kiện. Khoa học
không phải là lănh vực duy nhứt cống hiến chúng ta những cơ hội học cách
tổng hợp hóa. Trong mọi lănh vực của đời sống, chúng ta đều có thể t́m ra cơ
hội để luyện tập khả năng này, miễn là chúng ta cố ư t́m kiếm chúng và sử
dụng chúng một cách có hệ thống trong công viêc luyện tập. Toán học ở các
cấp cao cung hiến nhiều nhứt các môi trường rộng răi khác nhau cho việc
luyện tập khả năng này, và có lẽ là không phương pháp nào mau lẹ hơn để học
thực hành những việc suy nghĩ trừu tượng bằng cách học qua một khóa cấp tốc
toán học cao cấp. Sau Toán học là môn Triết Lư được xem như một lănh vực tốt
để luyện tập Thượng Trí, và ở quan điểm một sinh viên của Khoa Tu Dưỡng Bản
Thân, có lẽ Triết Lư càng hợp hơn để phát triển các khả năng của Thể Nguyên
Nhân.
Phương pháp thứ nh́ để phát triển Thể Nguyên Nhân được đặt nền tảng trên
chức năng khác của thể này, đă được nói qua trước đây. Ấy là chức năng sử
dụng nó như phương tiện để tạo một phần tử vĩnh cửu trong thể trạng của linh
hồn, chứa đựng tất cả đức tánh và khả năng đă thu thập được trong tiến tŕnh
tiến hóa. Chúng ta được chỉ rằng khi một đặc tánh riêng biệt hay một năng
khiếu được phát triển hoặc gia tăng trong một kiếp sống nào, điểm lợi ấy
được thu thập không mất đâu cả, mặc dầu phàm nhơn bị hủy diệt. Điều thu thập
sẽ được chuyển đến Thể Nguyên Nhân và biến thành trường cửu do sự tổ chức
lại của thể đó. Các sưu tầm của môn sinh lư học cho biết rằng khi chúng ta
suy nghĩ, chất xám trong bộ óc vật chất thay đổi, và một sự suy tư kéo dài
và liên tục khiến cho bộ óc có phần tốt đẹp hơn thêm, nhờ vậy nó sẽ trở
thành một dụng cụ tốt hơn cho Sự Sống Thiêng Liêng. Sự tiến bộ này chỉ ở
trong dụng cụ của cơi vật chất, nó bị hủy diệt theo sự hủy diệt của thể xác.
Nhưng có một sự tiến bộ tương xứng trong Thể Nguyên Nhân nó kéo dài từ kiếp
này qua kiếp khác và sự tăng thêm ở mỗi kiếp sống được thu thập và làm cho
linh hồn một dụng cụ càng lúc càng hữu hiệu hơn cho Sự Sống Thiêng Liêng.
Vậy phương pháp thứ nh́ để phát triển Thể Nguyên Nhân là sự tự chăm sóc lấy
ḿnh và bằng một cách có hệ thống xây dựng tánh t́nh ḿnh hướng đến một sự
toàn thiện ở mọi mặt. Tất cả những đức tánh như sự chân thật, ḷng can đảm,
tánh khiêm tốn, được kể trong kinh Bhagavad Gita và những kinh sách được tôn
kính khác của thế giới, phải được coi như là thành phần thường xuyên của
tánh t́nh ḿnh nhờ thực hành song đôi thiền định và luyện tập các đức tánh
này trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Đây là một diễn tiến dài hạn và
buồn chán, nhưng công việc phải được thực hành nếu linh hồn muốn trở nên một
dụng cụ thích ứng của Sự Sống Thiêng Liêng – một trung tâm xuyên qua đó tuôn
chảy t́nh thương, quyền lực và minh triết của Thượng Đế. Một khi tiến tŕnh
được hoàn tất, Thể Nguyên Nhân sẽ là một vật chói sáng lộng lẫy, một bầu
tṛn hào quang rực rỡ, mà ở cơi trần gian này chúng ta không thể quan niệm
được. Đó là những Thể Nguyên Nhân của những vị Chân Sư Minh Triết đă được sự
toàn thiện đối với các cảnh giới thấp.
Một nhân tố khác thật quan trọng trong việc khai triển Thể Nguyên Nhân là sự
khai mở thể Bồ Đề và thể Niết Bàn. Thể Nguyên Nhân lớn mạnh, một mặt nhờ
những thúc giục từ các cơi hồng trần, trung giới và hạ thiên, và mặt khác do
các động lực tâm linh tác động từ cơi Bồ Đề và Niết Bàn. Do đó, sự phát
triển tâm linh của Chân ngă là động lực thúc đẩy mạnh mẽ nhất, giúp cho sự
lớn mạnh của thể này, để hoàn tất trong một vài kiếp công việc đ̣i hỏi, theo
lệ thường phải một thời gian to tát hơn nhiều. Giống như những chức năng của
thể xác, vía và hạ trí không thể chia ra những phạm vi rơ rệt trong đời sống
phàm ngă nên những chức năng của những thể Niết Bàn, Bồ Đề và Thượng Trí
cũng không thể chia ranh giới trong đời sống của Chơn Ngă. Khi hạ trí hoạt
động, chẳng những thể hạ trí tiến triển, dụng cụ của nó trong thể xác – là
bộ óc – cũng đồng thời tiến triển. Tương tự thế ấy, khi các quyền lực của
thể Niết Bàn và Bồ Đề bắt đầu hoạt động tích cực, Thể Nguyên Nhân – dụng cụ
của chúng – cũng phát triển song song.
Cần nhớ rằng Thể Nguyên Nhân được ví như một tấm gương có thể phản chiếu lại
những Chân Lư hiện diện ở thể Trí Đại Đồng vào trong thể Hạ trí. Người nào
có được một Thể Nguyên Nhân phát triển đầy đủ và giao tiếp được với thể Hạ
trí là có được phương tiện cần thiết để phần nào giao tiếp được với thể Trí
Đại Đồng. Đó là một khả năng mà tất cả các sinh viên nghiêm chỉnh của Huyền
Bí Học phải cố gắng phát triển, nếu muốn ḿnh có được từ bên trong một nguồn
hiểu biết vô tận đúng thực mà đương sự có thể sử dụng mỗi khi cần; và rốt
ráo sẽ giúp y độc lập, không tùy thuộc vào mọi nguồn hiểu biết ở bên ngoài.
Thật ra, sự giao thiệp trực tiếp với thể Trí Đại Đồng chỉ có thể thực hiện
xuyên qua những thực hành của môn Yoga cao cấp, khi con người có khả năng
hoạt động ư thức xuyên qua Thể Nguyên Nhân của y. Nhưng trong khi chưa đến
giai đoạn này th́ một sinh viên cấp cao đă hành thiền, thanh lọc và hài ḥa
trí y vẫn có thể phát triển khả năng giúp y quan hệ tốt với Thượng Trí, và
qua đó nó giao tiếp với thể Trí Đại Đồng một cách gíán tiếp càng lúc càng
nhiều thêm. Khi điều này xảy ra, sự hiểu biết thuộc về các thực tại nội tâm
của đời sống bắt đầu xuất hiện bên trong thể Trí của người sinh viên ở các
đường lối khác nhau và phải kinh nghiệm qua mới nhận thức được
chúng.
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES