Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  BOOKS  MAGAZINES

 

Tập sách nhỏ số 104 của Tủ sách Adyar

tháng 8 năm 1919

THẦN LINH HỌC và THÔNG THIÊN HỌC

(Spiritualism and Theosophy)

Tác giả H. S. Olcott

 

 

THẦN LINH HỌC và THÔNG THIÊN HỌC

Thuyết tŕnh trước diễn đàn của Viện Phục vụ Liên bang Ấn Độ tại Simla

Ngày 7 tháng 10 năm 1880.

Nhà Xuất bản Thông Thiên Học, Adyar, Chennai (Madras), Ấn Độ.

 

Cách đây 13 năm, một trong những thẩm phán lỗi lạc nhất của nước Mỹ hiện đại – John W. Edmonds, Chánh thẩm Ṭa Tối cao New York – có tuyên bố trong một tạp chí ở Luân đôn rằng vào lúc bấy giờ ở nước Mỹ có ít ra là 10 triệu nhà Thần linh học. Lúc bấy giờ không ai có đủ tư cách hơn ông để nêu ư kiến về đề tài này, v́ chẳng những ông có liên lạc thư tín với mọi người ở khắp nơi trong xứ ấy, mà v́ đức tính cao cả của con người cùng với học thức, ḷng vô tư về luật pháp và tính bảo thủ của ông đă khiến ông trở thành một nhân chứng có thẩm quyền nhất và đầy sức thuyết phục nhất. C̣n một người có thẩm quyền khác nữa, một nhà tuyên truyền nổi tiếng cả trong giới công luận lẫn tư luận không có t́ vết, Đức Ông Robert Dale Owen, trong khi ủng hộ ước tính của Thẩm phán Edmonds, đă nói thêm rằng ít ra trong giới Ki Tô giáo c̣n lại cũng có một số người tương đương như thế. [Vùng đất c̣n Tranh chấp giữa Thế giới này và Thế giới bên kia, trang 174, ấn bản Luân đôn, năm 1874]. Tuy nhiên để tránh mọi nguy cơ thổi phồng sự thật, ta chỉ suy diễn một phần tư của mỗi bên rồi cộng lại th́ (đến năm 1874), tổng số người được gọi là nhà Thần linh học đă lên tới 15 triệu người. Nhưng dù có bao nhiêu người được qui cho là tin vào sự giao tiếp công khai hiện nay giữa thế giới vật chất của ta với thế giới u hồn th́ vẫn có một sự thật mà ai cũng biết là trong số đó có một số trí thức sắc xảo nhất thời nay. Bây giờ không c̣n là vấn đề của những kẻ quê mùa và những cô thôn nữ nô t́ ưa động kinh lừa gạt ḿnh. Những kẻ nào chối bỏ sự thật của những hiện tượng đương đại này ắt phải đối đầu với đông đảo những nhà khoa học tài ba nhất đă từng dốc hết sức lực chuyên nghiệp của ḿnh để xác định bản chất của lực đang tác động để rồi bâng khuâng đi t́m bất cứ lời giải thích nào khác hơn là một loại tác nhân siêu mộ phần nào đó. Bắt đầu từ Robert Hare (người phát minh ra ống thổi Hydro Oxy) cho tới Nestor của ngành Hóa học nước Mỹ và cuối cùng là Fr. Zollner, Giáo sư Vật lư Thiên văn ở Đại học Leipzig, danh sách những nhà thực nghiệm đă cải giáo này bao gồm một loạt các chuyên gia về Khoa học Vật lư thuộc hạng chuyên nghiệp nhất. Có lẽ ngoại trừ Zollner – ông muốn kiểm chứng lại thuyết của ḿnh về chiều đo thứ tư trong không gian – mỗi nhà khoa học đều bắt đầu nhiệm vụ khảo cứu với mục đích rành rành là lật tẩy điều bị nghi là lường gạt để phục vụ lợi ích đạo đức của công chúng; thế mà mỗi người lại bị biến thành một kẻ rơ ràng tin vào sự thật về các hiện tượng đồng cốt do cái luận lư không thể cưỡng lại được của sự thật.

Những nhà khoa học này đă phát minh ra những dụng cụ tinh xảo bậc nhất để trắc nghiệm quyền năng của giới đồng cốt. Các khí cụ ấy thuộc bốn loại (a) – máy móc để xác định xem liệu có một ḍng từ hoặc điện nào đang tác động hay chăng, (b) – liệu chuyển động của những đồ vật nặng (chẳng hạn như những cái bàn) do người đồng cốt chạm vào có do sự co cơ hữu ư hoặc vô ư hay chăng, (c) – liệu một người tham gia buổi lên đồng có thể giao tiếp một cách thông minh hay chăng trong những t́nh huống đă pḥng ngừa được bất kỳ mánh khóe có thể nào của người đồng cốt, (d) – đâu là điều kiện để biểu hiện cái dạng năng lượng mới và giới hạn cực độ của các tác động của nó. Dĩ nhiên trong một bài thuyết tŕnh kéo dài một tiếng đồng hồ tôi chẳng thể miêu tả tới 1/10 của các máy móc ấy, nhưng tôi xin đưa ra hai thứ máy để minh họa cho hai ngành khảo cứu nêu trên. Máy thứ nhất được miêu tả trong tác phẩm của giáo sư Hare. Người đồng cốt và người điều tra ngồi đối diện với nhau, tay người đồng cốt được đặt lên trên một tấm bảng được treo lủng lẳng và điều chỉnh sao cho dù y có ấn lên cái bảng hay không th́ y cũng chỉ làm di động được cái bảng chứ không c̣n ǵ khác nữa. Trước mặt người tham quan là một mặt đồng hồ chung quanh đó có bố trí các chữ cái trong bộ mẫu tự, 10 con số, những từ “có”, “không”, “chưa chắc” và có lẽ một số từ khác. Một cái kim chỉ gắn liền với một đ̣n bẫy, đầu kia của đ̣n bẫy được bố trí sao cho nó tiếp nhận bất cứ ḍng lực nào chạy xuyên qua hệ thống của người đồng cốt nhưng không chịu ảnh hưởng bất kỳ áp lực cơ học nào mà y có thể tác động lên điểm tựa để kê cái kim chỉ, qua đó chạy ṿng ṿng trên mặt đồng hồ chỉ vào một chữ cái hoặc các từ mà sinh linh thông tuệ đang giao tiếp muốn viết ra. V́ mặt sau của mặt đồng hồ hướng về người đồng cốt cho nên dĩ nhiên y không thể nh́n thấy kim chỉ đang chỉ vào đâu và nếu người điều tra giấu nhẹm không cho y thấy tờ giấy ghi tốc kư lại buổi giao tiếp th́ thậm chí y cũng chẳng phỏng đoán được người ta nói chuyện ra sao.

Một khí cụ khác được miêu tả và minh họa trong sách chuyên môn mang tựa đề Khảo cứu về Hiện tượng Thần linh học của ông William Crookes, hội viên Hội Hoàng gia, Tổng biên tập tạp chí Khoa học Tam cá nguyệt và là một trong những nhà hóa học thực nghiệm thành công nhất đương thời. Một tấm bảng bằng gỗ gụ, dài 36 phân Anh, rộng 9,5 phân Anh và dày một phân Anh, tựa một đầu trên cái bàn, bên trên một dải giấy cắt bằng mép dao; đầu bên kia của nó được treo vào một cái cân ḷ xo được cải tiến dùng làm dụng cụ ghi đo tự động, treo lơ lửng từ một cái kiềng ba chân vững chắc. Trên mép bàn của cái bảng ấy, ngay bên trên điểm tựa có đặt một cái b́nh lớn chứa đầy nước. Một lọ bằng đồng nhúng ch́m trong nước tới độ sâu 1,5 phân Anh tính từ mặt nước, đáy b́nh bằng đồng được đục lỗ để cho nước tràn vào; b́nh bằng đồng này được đỡ bằng một vành đai sắt cố định hàn cứng vào một cái đế bằng sắt vững chăi trên nền nhà. Người đồng cốt phải nhúng tay vào nước ở bên trong b́nh bằng đồng, và v́ b́nh bằng đồng được nâng đỡ vững chắc bằng cái đế và vành đai của chính nó chứ không đụng chạm ǵ tới cái b́nh bằng thủy tinh chứa nước, cho nên ta thấy rằng nếu có xảy ra một sự đè lên kim chỉ của cái cân ḷ xo ở đầu bên kia của tấm bảng, th́ điều này dứt khoát cho thấy rằng có ḍng lực (cân được tính bằng cân Anh nhân với lại bộ Anh), lực ấy đang chạy xuyên qua cơ thể của người đồng cốt. Thật vậy, cả Tiến sĩ Hare với khí cụ của ông lẫn ông Crookes với máy móc của ḿnh đều đạt được mục đích như mong muốn chứng tỏ rằng một vài hiện tượng đồng cốt có xảy ra mà không có sự can thiệp, dù là trung thực hay không trung thực của người đồng cốt. Dựa trên lời gợi ư của ông Serjeant Cox đă quá cố, ông Crookes đặt tên cho cái năng lượng được biểu lộ ấy một cái tên thỏa đáng là Lực Tâm linh, cho nên từ đây về sau trong bài thuyết tŕnh này tôi cũng xin gọi nó như thế.

Tôi đề cập tới hai loại máy móc này chỉ để cho những người có lẽ chưa bao giờ điều tra về vấn đề này, đừng có sa vào cái lỗi lầm thông thường nghĩ rằng các hiện tượng lạ toàn là chuyện lừa gạt bởi v́ các nhà khoa học khôn khéo nhất đă cực kỳ cẩn thận pḥng ngừa khả năng bị lừa bịp trong quá tŕnh thí nghiệm. Nếu có một sự kiện mà khoa học đă chứng minh được là có một loại lực nào đó mới lạ và rất bí hiểm đă từng biểu lộ từ tháng 3 năm 1848, khi cái tṛ hiển thánh hiện đại này đă bộc lộ ra với một loạt những cú gơ ở một thôn hẻo lánh tại Tiểu bang New York. Bắt đầu bằng những âm thanh phản kích này, từ đó trở đi nó đă phô trương năng lượng của ḿnh qua hàng trăm hiện tượng lạ khác mà bất kỳ giả thuyết đă biết nào của khoa học đều không giải thích được và các hiện tượng ấy xảy ra hầu hết (nếu không phải là hoàn toàn) ở mọi xứ trên quả địa cầu. Để dễ dàng cho việc nghiên cứu nó, phô diễn các định luật của nó, phổ biến những biểu lộ thông minh của nó, cứ chốc một lại có hàng trăm tạp chí và quyển sách được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng khác nhau; phong trào này có những trường phái và giáo hội, những pḥng hội họp, những người thuyết giảng và giảng dạy, một đoàn thể gồm những người nam và nữ ít ra lên tới hàng ngàn người đang dồn hết thời giờ và sức sống cho cái nghề đồng cốt. Đi đến đâu ta cũng đụng phải những người đồng cốt hay “thông linh” này, ở các cung điện của hoàng gia cũng như trong mái lá của người nông dân, đều thấy có những năng khiếu đồng cốt hoặc thông linh đa dạng chẳng khác nào cá tính của họ.

Điều ǵ đă gây ra một sự lan tràn trên khắp thế giới của phong trào mới này làm cho công chúng phải tốn khá nhiều tiện nghi, thời giờ, tiền bạc và gây ra hậu quả xă hội rộng lớn như thế? Điều ǵ đă thôi thúc biết bao nhiêu người thông minh nhất thuộc mọi xứ sở, mọi giáo phái và mọi dân tộc tiếp tục khảo cứu như thế? Điều ǵ đă giữ cho sống động măi đức tin của biết bao triệu người, bất chấp vô số những sự lật tẩy ngao ngán về tṛ xỏ lá của đám đồng cốt, về khuynh hướng vô luân của nghề đồng cốt không ai kiểm soát cũng như nói chung là các cuộc giao tiếp mà ta nhận được đều mang tính ấu trĩ và thường xuyên tạc bịa đặt? Đó là v́ trong ḷng người đă dâng lên một niềm hi vọng cuối cùng người ta cũng có được bằng chứng thực nghiệm về việc sống sót sau khi cái xác đă chết và thoáng nh́n được (nếu không phải là khải huyền trọn vẹn được) số phận tương lai của ḿnh. Giống như người chết đuối vớ được cọc, tất cả hàng triệu người này đều bám lấy một hi vọng duy nhất là giờ đây vấn đề xưa như trái đất “con người là cái ǵ, từ đâu đến rồi đi về đâu” sẽ được giải quyết một lần cho dứt khoát. Chỉ cần liếc nh́n qua kho tài liệu của Thần linh học là ta ắt thấy niềm vui, niềm an ủi và sự an dưỡng đời đời đang khích lệ cho những hiện tượng quái đản thường hay làm điên tiết người ta trong buổi lên đồng. Nước mắt đă ngừng chảy từ hàng tỉ đôi mắt khi người thân đă quá cố phải tử biệt, chuyện sinh ly giữa những người yêu thương nhau và bạn bè chí cốt của nhau không c̣n bị những tín đồ này coi là chuyện măi măi nữa. Cơn băo tố không c̣n làm ai sợ sệt, những cuộc khủng bố trên chiến trường và dịch bệnh đă mất đi quyền lực ghê gớm nhất đối với nhà Thần linh học thời nay. Việc giả định rằng có thể giao tiếp được với người chết cùng với thông điệp của người chết đă làm xói ṃn thẩm quyền không thể sai lầm của thần học theo giáo điều. Nhà Thần linh học nhắm vào tín ngưỡng mới giờ đây lờ mờ thấy được những nét phác họa của một Thế giới Trường hạ nơi chúng ta sinh hoạt bận bịu chẳng kém ǵ trên Trần thế. Thay v́ dường như là cái miệng há hốc ra nuốt chửng vào một cơi hư vô u ám th́ ngôi mộ phần đâm ra chỉ có vẻ là ngưỡng cửa u linh đưa tới một xứ sở với ánh sáng thanh thiên bạch nhật không ngừng tiến bước về trạng thái tột đỉnh có thể toàn bích được. Không đâu, những nét phác họa hoang tưởng của Thế giới Trường hạ này đă trở nên xác định đến nỗi người ta thường đọc thấy chuyện trong thế giới vong linh, con nít lớn lên thành người lớn, có cả những trường đại học và hàn lâm viện để hướng dẫn kẻ phàm phu mà chủ tŕ là các nhà hiền triết trên thế giới đă quá cố; thậm chí có những cuộc hôn nhân giữa những người nam nữ c̣n sống sờ sờ với đám công dân của thế giới vong hồn! Một trường hợp điển h́nh là Đức Ông Thomas Lake Harris – người sáng lập ra Công đồng xă hội chủ nghĩa ở Hồ Erie mà Laurence Oliphant và mẹ ông đă gia nhập – công bố rằng ông kết hôn môn đương hộ đối với một vong linh nữ và một đứa trẻ con đă ban phước cho cuộc hôn nhân ấy! C̣n một trường hợp khác là cuộc hôn nhân của hai vong linh trước sự hiện diện của các nhân chứng c̣n sống, do một tu sĩ c̣n sống làm phép; chuyện này được tường tŕnh năm ngoái trong những tờ báo của  phong trào Thần linh học: một ông tên là Pierce, con của một vị cựu Tổng thống Mỹ và đă chết từ lâu rồi, nghe đâu “hiện h́nh” ra (nghĩa là tạo ra cho ḿnh một h́nh dáng trông thấy được và sờ thấy được) ở nhà một người đồng cốt Mỹ nào đó; một giáo sĩ được triệu thỉnh tới trong dịp này đă làm phép kết hôn ông ta cho một vong hồn phụ nữ chết yểu lúc mới tṛn 7 tháng nhưng giờ đây đă lớn bổng lên trổ mă thành một thiếu nữ xuân th́ và cũng hiện h́nh ra trong lễ cưới! Hai bên trao đổi lời thệ nguyện và tiếp nhận bí tích hôn nhân, tân lang và tân giai nhân ngồi vào bàn vui vầy với bạn bè được mời tới; sau khi uống cạn một hai chén rượu mừng, cả hai biến mất thành mây khói, kể cả xiêm y, găng tay trắng, vải sa tanh, đăng ten và đủ mọi thứ khác! Ắt hẳn quí vị gọi đây là chuyện vớ vẩn của Thần linh học và quí vị đúng thôi; tuy nhiên điều này cho thấy rơ ràng rành rành rằng nếu không muốn nói là duy vật thô thiển th́ cái quan điểm của trật tự thế giới bên kia cửa tử đă thay thế cho nỗi niềm lo sợ mơ hồ xưa cũ đă đè nặng trĩu lên chúng ta với những lo âu thấp thỏm. Trong một chừng mực nào đó th́ tâm trạng này dứt khoát là thắng lợi, nhưng tôi rất tiếc là phải nói rằng các nhà Thần linh học đă thừa thắng xông lên để trở thành những kẻ giáo điều mới. Dần dần một đoàn thể những kẻ cuồng nhiệt đang được h́nh thành, họ đă khoác một hào quang thánh thiện lên cho người đồng cốt và bằng cách dẹp đi những điều kiện thử thách họ đă mời gọi việc thực hiện những tṛ lừa đảo thô thiển. Quả thật, người ta đă từng bắt tại trận đám đồng cốt dùng mánh khóe xung quanh toàn là đạo cụ tư trang, gỗ ván giả, tóc giả và con rối để có thể lừa bịp khiến người ta coi họ là thánh tử v́ đạo làm cho đám đa nghi phải lồng lộn lên; bằng chứng đầy tội lỗi của họ đă được bí mật cung cấp qua những kẻ không tin và giáng một đ̣n chí tử cho chính nghĩa thiêng liêng của họ! Sự cả tin hau háu của một đoàn thể đông đảo những nhà Thần linh học đă làm nảy sinh ra 90% các mánh khóe thiếu trung thực của đám đồng cốt. Trong bài đề tựa cho Tam cá nguyệt san Khoa học, ông Crookes có nhận xét trung thực rằng: “Trong vô số những điều quan sát mà tôi đọc được biên bản phúc tŕnh, dường như ít có một trường hợp hội họp nào được tổ chức với mục đích rơ rệt là đặt những hiện tượng lạ đó trong t́nh huống trắc nghiệm được”. Thế nhưng, mặc dù đúng như vậy, hầu như cũng chắc chắn là trong ṿng 32 năm vừa qua, những người điều tra về các hiện tượng lạ này đă kiểm chứng được hàng ngàn chứng cớ cho thấy các hiện tượng lạ xảy ra trong t́nh huống hoàn toàn độc lập với tác nhân vật lư của những người có mặt; có một trí thông minh, đôi khi cá tính nổi bật, đang được phô diễn qua việc kiểm soát các lực huyền bí tạo ra hiện tượng lạ ấy. Niềm tin không thể lay chuyển được của hàng triệu nhà Thần linh học vốn dựa trên cái kho bao la những sự kiện đă được trắc nghiệm này, v́ nó vững như bàn thạch. Số lớn những kinh nghiệm cá nhân này là thành lũy mà các nhà Thần linh học ẩn núp sau đó bất cứ khi nào thế giới bên ngoài gồm những kẻ đa nghi xục xạo t́m xem liệu cái “ảo giác” tập thể ấy có sụp đổ tan tành trước sự công kích của một kẻ phê phán sắc xảo mới mẻ nào đó, hoặc là cái việc lật tẩy mới nhất tṛ bịp bợm giả dối của đám đồng cốt có làm họ xấu hổ hay chăng. Đến lúc này th́ ta mới khám phá ra rằng thật c̣n tệ hơn nữa khi cố gắng chế nhạo bằng chứng hiện thực của các giác quan con người khi thấy một vật rất nặng tự ḿnh được nhấc bổng lên treo lơ lửng trên không trung hoặc thấy chữ được viết ra mà không có ai tiếp xúc, hoặc thấy một h́nh người tan biến đi trước mắt ḿnh, để rồi tin vào cái thuyết cho rằng mọi hiện tượng đồng cốt chỉ là do “sự co cơ bắp”, do “sự chú ư đầy mong ước” hoặc do “tác động trí năo vô ư thức”. Chính v́ thử làm như thế cho cả đoàn thể khoa học gia đă bị nhà tâm lư học lăo luyện tỏ thái độ vừa coi thường vừa thương hại. Ông Wallace cho ta biết rằng sau khi điều tra kỹ lưỡng, ông chưa bao giờ thấy có một người nào, sau khi đă tự ḿnh hiểu biết nhiều về các giai đoạn chính yếu của hiện tượng lạ mà sau đó lại không tin vào sự thực ấy. Kinh nghiệm của tôi th́ cũng thế thôi. Một số người không c̣n là “nhà Thần linh học” nữa và cải đạo thành Ki Tô hữu Công giáo, nhưng họ chưa bao giờ nghi ngờ sự thực về các hiện tượng lạ. Sẽ có một ngày đẹp trời mà mọi kẻ yêu chuộng khoa học chân chính hân hoan chào đón khi các giáo sự thời nay vứt bỏ được cái ư tưởng ngông cuồng cho rằng chỉ có thời nay mới đầy hiểu biết để hạ ḿnh khiêm tốn không c̣n nghi vấn các tài liệu ghi chép lại của khoa học cổ sơ.

Chúng ta đă thấy rằng các thí nghiệm của Tiến sĩ Hare và ông Crookes chứng tỏ được sự tồn tại của một ḍng lực; v́ vậy ta chẳng cần phải bận tâm thêm nữa với nhiều phỏng đoán thô thiển cho rằng sự chuyển động của cái bàn, sự bay bổng của cái ghế và những tiếng gơ nhịp là kết quả của năng lượng cơ bắp thuộc người đồng cốt hay khách viếng thăm; ta nên chuyển sang chú ư tới một dạng nào đó của loại thần lực này khi nó phô diễn động năng của ḿnh. Ta có thể phân loại nó ra thành các hiện tượng lạ biểu thị trí thông minh cũng như trao truyền thông tin và hiện tượng lạ thuần túy biểu lộ năng lượng vật lư. Thuộc lớp thứ nhất và xếp hàng đầu ta có cái gọi là “tiếng gơ của vong linh”. Chính những tín hiệu đơn giản này đă làm bộc phát cái phong trào hiện đại mà ta gọi là Thần linh học. Những tiếng phản kích nghe thấy được này biến thiên mức độ từ âm thanh của một tiếng tích tắc nho nhỏ cho đến tiếng gơ búa hoặc gơ vồ đủ mạnh để làm tan nát một cái bàn bằng gỗ gụ. Ḍng lực tâm linh tạo ra chúng dường như tùy thuộc vào trạng thái của người đồng cốt kết hợp với t́nh h́nh điện khí và độ ẩm của bầu khí quyển. Khi một trong hai thứ đó bất lợi th́ những tiếng gơ nếu có nghe được cũng chỉ nhỏ thôi, khi cả hai hài ḥa th́ những tiếng gơ lớn nhất và dai dẳng nhất. Tự bản thân chúng th́ hiện tượng tiếng gơ này cũng đủ kỳ diệu rồi, thế nhưng chúng c̣n cả trăm lần hơn thế nữa khi ta thấy nhờ có chúng mà các sinh linh thông tuệ tự xưng là bạn bè đă quá cố của ta có thể giao tiếp được với ta. Cuộc giao tiếp ấy thường tiết lộ những điều bí mật mà chỉ có kẻ điều tra mới biết thôi c̣n chẳng ai khác đang có mặt biết được; trong những trường hợp hiếm hoi, thậm chí nó c̣n cung cấp những sự kiện mà chẳng có người nào hiện diện trong pḥng lúc bấy giờ biết và măi sau này người ta mới kiểm chứng được bằng cách tham khảo những tài liệu ghi chép thời xưa hoặc tham vấn những nhân chứng ở xa. Có một dạng tiếng gơ thanh lịch hơn, đó là tiếng nhạc giống như cú gơ trên một cái ly bằng thủy tinh hay một cái chuông bằng bạc mà ta nghe thấy được hoặc là phát ra từ bàn tay của người đồng cốt hoặc là giữa không trung. Người ta đă thường lưu ư thấy hiện tượng lạ đó ở nhà của ông Stainton Moses tức “M. A. Oxon” và ông Alfred R. Wallace cũng mô tả nó xảy ra ngay tại nhà của ông Wallace trước sự có mặt của cô Nichol, nay là bà Volckmann. Người ta đặt một ly để uống rượu vang trống rỗng trên bàn do cô Nichol và ông Humphrey vịn chặt để ngăn ngừa nó rung rinh. Ông Wallace cho chúng tôi biết rằng “sau một thời gian ngắn im lặng, người ta nghe thấy một âm thanh cực kỳ thanh bai giống như tiếng gơ vào cái ly, nó tăng âm lên những nốt lanh lảnh giống như tiếng leng keng của cái chuông bằng thủy tinh. Những tiếng này tiếp tục ở các mức độ khác nhau trong một vài phút v.v. . .” Ông Wallace lại bảo rằng khi một ḿnh phụ nữ người Đức hát lên một bài ca bằng tiếng Đức th́ kèm theo tiếng hát của bà có “một âm nhạc tinh tế nhất giống như một thùng nhạc cụ tuyệt hảo . . . Điều này xảy ra trong bóng tối nhưng lúc nào cũng có thể có đồng lỏa”. Bà Blavatsky có cho phép nhiều người hiện diện trong thính pḥng hôm nay được nghe những tiếng chuông leng keng du dương như kiểu thần tiên từ khi bà đến Simla. Nhưng họ nghe tiếng ấy trong ánh sáng thanh thiên bạch nhật không có người đồng lỏa và ở bất cứ nơi đâu mà bà chọn để phục vụ họ. Hiện tượng này chẳng khác ǵ hiện tượng cô Nichol nhưng t́nh huống th́ khác hẳn và tôi sẽ c̣n nói thêm một điều ǵ nữa về nó.

Ông Crookes thấy ḍng thần lực biến thiên rất nhiều nơi cùng một người đồng cốt vào những ngày khác nhau và nơi người đồng cốt biến thiên từ phút này sang phút khác th́ ḍng thần lực chạy rất lung tung. Trong tác phẩm của ḿnh ông có tŕnh bày một số bản in khắc gỗ để minh họa những sự biến thiên ấy cùng với khí cụ tinh xảo mà ông dùng để ḍ t́m các biến thiên.

Trong số nhiều ngàn cuộc giao tiếp được gán cho là giao tiếp với các vong hồn vốn được công khai phổ biến, hầu hết chỉ chứa đựng những thông điệp tầm thường về gia đạo hoặc chuyện cá nhân, chi tiết của chúng ít ra th́ người điều tra cũng có biết được và ta có thể gán cho đó là đọc tư tưởng của người điều tra; đôi khi chúng tôi gặp một số trường hợp cần phải giải thích khác đi.

Tôi có ư muốn nói những chi tiết được nhắc đến mà không ai có mặt trong buổi lên đồng biết. Ông Stainton Moses có ghi được một số trường hợp như thế khi một thông điệp đưa ra ở Luân đôn với ngụ ư xuất phát từ một ông già đă tham chiến ở Mỹ trong cuộc chiến tranh năm 1812 và đă tử trận ở đó. Chẳng ai ở Luân đôn đă từng nghe nói tới nhân vật ấy, nhưng khi người ta lục t́m trong kho tài liệu ghi chép của Bộ Quốc Pḥng Mỹ tại Washington th́ t́m thấy tên của người ấy và hoàn toàn bổ chứng được cho thông điệp ở Luân đôn. V́ không tiếp cận được với sách vở ở đây cho nên tôi bắt buộc phải tường thuật theo trí nhớ, nhưng tôi nghĩ rằng quí vị ắt thấy, xét về cốt lơi, th́ những điều tôi tŕnh bày là chính xác. Trong một trường hợp khác được ông J. M. Peebles xác nhận, nhà quí tộc này nhận được – hoặc là ở Mỹ hoặc là ở một nơi nào khác xa tít khỏi nước Anh – một thông điệp được qui cho là của một vong hồn, y bảo rằng ḿnh đă sống và chết ở New York và nếu ông Peebles lục t́m văn khố của đô thị cổ ấy th́ những phát biểu của vong hồn sẽ tỏ ra hoàn toàn chính xác. Theo thời gian ông đến viếng thăm New York và khi lục lọi sổ hộ tịch khai sinh và khai tử ở đó th́ ông t́m được đúng những dữ kiện mà người ta đă hứa với ông.

Ngoài việc giao tiếp bằng tiếng gơ, cái gọi là các vong hồn c̣n sử dụng nhiều phương tiện khác để truyền tin cho người sống. Trong số đó có việc độc lập viết những thông điệp lên giấy đặt trên sàn nhà dưới cái bàn hoặc trong một ngăn kéo đóng kin, giữa những trang sách đóng kín, trên trần nhà hoặc trên tường hay khăn trải giường; trong những trường hợp ấy không hề có bàn tay con người nào ở gần nơi mà chữ viết hiện ra. Tôi đă thấy tất cả những hiện tượng này xảy ra dưới ánh sáng thanh thiên bạch nhật và trong t́nh huống đó th́ không thể dùng mánh khóe bịp bợm được. Tôi cũng đă có một kinh nghiệm thỏa thích về năng lực đồng cốt hiếm có của Tiến sĩ Henry Slade; các bạn hẳn c̣n nhờ ông đă bị bắt giam v́ một lời vu cáo ông thiếu trung thực ở Luân đôn, nhưng sau đó ông đă tŕnh diễn một loạt những cuộc trắc nghiệm hoàn chỉnh nhất trước mặt Zollner và các nhà bác học đồng chí ở Leipzig, Aksakof, Boutlerof và Wagner, ở Saint Petersburg, cũng như Đại Hầu tước  Constantine. Chính bà Blavatsky và tôi đă biệt phái Tiến sĩ Slade từ Mỹ đi Âu châu từ năm 1876. Một nhân vật rất cao cấp đă đặt hàng một cuộc điều tra của khoa học về Thần linh học, các giáo sư ở Đại học Hoàng gia Saint Petersburg đă tổ chức một Ủy ban thực nghiệm; Ủy ban này đă đặc biệt yêu cầu hai người chúng tôi tuyển lựa ra từ trong đám đồng cốt ưu tú nhất ở Mỹ người nào mà chúng tôi có thể tiến cử đem ra trắc nghiệm. Sau khi nghiên cứu nhiều lần chúng tôi chọn Tiến sĩ Slade; người ta đă gửi cho tôi ngân quỹ cần thiết để chi tiêu cho việc của ông và đến đúng lúc th́ ông được tiến cử ra nước ngoài. Trước khi tôi giới thiệu chọn ông th́ tôi yêu sách điều kiện là ông phải được trắc nghiệm trong tầm tay của một Ủy ban thuộc Hội Thông Thiên Học trước đă. Tôi cố t́nh chọn những thành viên của Ủy ban này là những người là rơ ràng đa nghi hoặc là hoàn toàn không quen biết với các hiện tượng lạ của Thần linh học. Slade được trắc nghiệm rốt ráo trong nhiều tuần và khi cuối cùng Ủy ban Thông Thiên Học báo cáo th́ người ta chứng nhận các sự kiện sau đây đă xảy ra. Các thông điệp được viết ở bên trong bảng đá gồm hai lớp đôi khi được dán lại hoặc ép lại với nhau trong khi các bảng đá ấy hoặc là nằm trên bàn mà ai cũng thấy được hoặc là đặt trên đầu của các Ủy viên của Hội đồng, hoặc là nằm ép bên dưới bề mặt của cái bàn, hoặc là nằm trong tay một người thuộc Ủy ban mà không có người đồng cốt chạm vào. Chúng tôi cũng thấy có những bàn tay rời ra – nghĩa là bàn tay trôi nổi hoặc lao vọt qua không trung mà không có cánh tay hoặc thân ḿnh gắn vào đó. Những bàn tay này chụp lấy sợi dây đeo đồng hồ của chúng tôi, nắm lấy tay chân chúng tôi, chạm vào bàn tay chúng tôi, giựt lấy những bảng đá hoặc các đồ vật khác bên dưới  bàn, móc lấy những khăn mùi xoa từ trong túi áo của chúng tôi v.v. . . Và xin quí vị lưu ư rằng mọi chuyện này xảy ra trong ánh sáng, nơi mà mọi cử động của người đồng cốt đều có thể bị nh́n thấy rành rành giống như bất kỳ thính giả nào hiện diện có thể thấy được.

Có một dạng truyền tín hiệu khác đó là việc người đồng cốt bị bắt buộc viết ra các thông điệp khi một quyền năng vô h́nh nào đó kiểm soát bàn tay và cánh tay của y bất chấp ư chí của y. Chẳng những hàng ngàn mà c̣n hàng vạn trang giấy đă từng được viết ra theo kiểu cơ bút này, một số đề tài cũng đáng được lưu trữ, nhưng phần lớn chỉ là văn chương ba xu.

Có một phương pháp khác là sinh linh thông tuệ vô h́nh gây ấn tượng lên bộ óc nhạy cảm của một người đồng cốt bằng những ư tưởng và ngôn từ ngoài tầm hiểu biết của chính y, chẳng hạn như ngoại ngữ, tên người chết, hoàn cảnh chết của họ, yêu cầu thanh lư tài sản, ra lệnh t́m lại những tài liệu hoặc đồ vật quí đă bị thất lạc, thông tin về chuyện sát nhân hoặc bi kịch từ xa mà người chết chính là nạn nhân, chẩn đoán những bệnh c̣n đang thời ủ bệnh và gợi ư liệu pháp điều trị v.v. . . Quí vị ắt thấy có nhiều ví dụ trong mỗi nhóm hiện tượng lạ này đă được ghi chép lại và được kiểm chứng thỏa đáng.

Trong tác phẩm Vùng đất c̣n tranh chấp của Dale Owen có tường thuật một giai thoại rất thú vị về lai lịch của một chiếc đàn cổ mà người ta mua được ở một tiệm bán đồ cũ ở Paris do cháu của nhà soạn nhạc nổi tiếng Bach vớ được. Chi tiết rất ly kỳ và quí vị nên đọc v́ thiếu thời giờ cho nên tôi không thể đi sâu vào chi tiết thêm nữa của đề tài này.

Nhưng trong số mọi sự giao tiếp thông minh của thế giới bên kia với thế giới của chúng ta, dĩ nhiên không điều ǵ so sánh được với hiện thực đáng kinh ngạc về những tiếng nói nghe thấy được. Tôi đă nghe thấy những tiếng nói thuộc đủ mọi âm lượng, từ tiếng th́ thào kề sát bên tai nghe như tiếng ŕ rào của ngọn gió hiu hiu thổi qua cành cây, cho tới tiếng rền vang như sấm hầu như làm căn pḥng rung chuyển và cách căn nhà cả chục thước vẫn c̣n nghe thấy được. Tôi đă nghe thấy những tiếng nói với ḿnh đi xuyên qua những cái ống bằng giấy, qua những cái kèn bằng kim loại và qua không gian trống rỗng. Trong trường hợp người đồng cốt lừng danh trên thế giới là William Eddy, th́ những tiếng nói này nói bằng bốn ngôn ngữ mà người đồng cốt th́ dốt đặc cán mai. Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ nói tới hiện tượng lạ của Eddy.

Một trong những hiện tượng lạ hay ho nhất – tôi xin nói là hấp dẫn nhất ngoại trừ việc nhớ lại âm nhạc thần tiên trong các hiện tượng đồng cốt – là việc mang những đóa hoa c̣n tươi đẫm ướt sương mai, cây cối và cây nho cùng với các sinh vật như chim chóc, cá vàng và bướm vào trong các buồng kín khi người đồng cốt rơ ràng không tự ḿnh mang chúng vào được. Ở nhà bạn tôi, đích thân tôi đă giữ tay một người đồng cốt mà trước đó tôi đă chụp lên đầu y một cái bao rồi thắt lại ở cổ y bằng dải rút và trong nhà không có đồng lỏa; trên trọn cái bàn có phủ đầy những bông hoa, cây cỏ và chim chóc bay phấp phới vào ḷng tôi, mà chúng ở đâu ra th́ có trời mới biết được. Chuyện này xảy ra khi mọi cửa ra vào và cửa sổ đều đóng chặt lại c̣n được dán kín bằng những dải giấy để không ai ra vào được. Những hiện tượng lạ này xảy ra hầu hết là trong bóng tối, nhưng có một lần tôi thấy một cành cây được mang vào pḥng giữa lúc thanh thiên bạch nhật. Có một lần tôi hiện diện ở buổi lên đồng tại nước Mỹ khi nhà quí tộc yêu cầu “các vong linh mang lại cho ḿnh một cây nhỏ trồng ở vùng đất đầm lầy tại Tô cách lan; đột nhiên một cây bị nhổ bật gốc và đất tươi rói c̣n bám vào rễ rớt độp xuống bàn ngay trước mặt tôi.

Có một ví dụ rất thú vị về loại hiện tượng không thông minh mà tôi lưu ư trong quá tŕnh t́m kiếm một người đồng cốt để biệt phái đi Nga. Một bà đồng cốt tên là bà Youngs lừng danh v́ đă khiến cho cây dương cầm bốc lên khỏi sàn nhà, đu đưa ăn nhịp với việc bà chơi dương cầm. Có một buổi chiều bà Blavatsky và tôi đến viếng thăm bà đồng cốt, thế là ngày hôm sau trên báo chí ở Nữu Ước có tường tŕnh chuyện xảy ra. Khi bà đồng cốt ngồi chơi dương cầm th́ nó chắc chắn là nghiêng đi trên hai cái chân ở phía ngoài (hai cái chân ở cách xa bà nhiều hơn) c̣n hai cái chân ở gần bà nhấc cao lên khỏi mặt đất từ 6 tới 8 phân Anh và đu đưa ăn nhịp với tiếng nhạc. Thế rồi bà Youngs đi tới một bờ mép của chiếc dương cầm, đặt chỉ một ngón tay vào mặt bên dưới của thùng đàn và dễ dàng nhấc bổng cái trọng lượng khổng lồ ấy lên. Nếu bất kỳ ai trong quí vị thử tính toán khối lượng lực tâm linh cần phải dốc vào đó th́ quí vị hăy thử nhấc một bên của cái đàn dương cầm có bảy bát độ rưởi xem nó có bổng lên được 6 phân Anh tính từ sàn nhà hay chăng. Để trắc nghiệm sự thực của hiện tượng lạ này tôi đă mang theo một quả trứng c̣n tươi mà tôi nắm trong ḷng bàn tay rồi t́ nhẹ nó vào một đầu ở mặt bên dưới của thùng đàn dương cầm. Sau đó tôi yêu cầu bà đồng cốt đặt ḷng bàn tay của bà lên trên mu bàn tay đang nắm giữ quả trứng của tôi, rồi bảo bà ra lệnh cái đàn dương cầm bay bổng lên. Chỉ cần một lúc ngưng lại là tôi sửng sốt khi thấy một đầu đàn dương cầm bốc lên mà không có bao nhiêu áp lực đè lên quả trứng nhằm làm bể vỏ trứng. Với tư cách một cuộc trắc nghiệm về tính chân thực của lực tâm linh, tôi nghĩ rằng đây hầu như là một cuộc thực nghiệm mang tính thuyết phục chẳng kém ǵ cái bồn chứa nước và cái cân ḷ xo của ông Crookes. Ít ra th́ đó cũng là điều chứng nhận đối với bản thân tôi v́ tôi có thể đoan chắc rằng người đồng cốt không gây một áp lực lên mu bàn tay tôi nhiều hơn trọng lượng một ounce (gần 30 gr) và hoàn toàn chắc chắn rằng chỉ cần một áp lực khoảng 100 gr là đă làm vỡ vụn cái vỏ mỏng tanh của quả trứng.

Một trong những biểu lộ không thể chối căi được của lực độc lập là việc nhấc lên hoặc làm di chuyển một trọng lượng nặng nề mà không có người tiếp xúc với nó. Cùng với nhiều nhà khảo cứu khác tôi đă chứng kiến điều này. Khi ngồi tại một cái bàn ở giữa căn pḥng khách của ḿnh được chiếu sáng, tôi đă thấy chiếc đàn dương cầm bốc lên và di chuyển rời xa bức tường một bộ Anh, một cái tay ghế nặng nề bằng da phóng từ một góc ở xa hướng về phía chúng tôi rồi chạm vào người khi không có ai ở trong ṿng cả chục bộ Anh cách xa chúng. Vào một dịp khác, người bạn đă quá cố của tôi và là giáo sư hóa học, ông Mapes, vốn là một người rất lực lưỡng cùng với hai người khác cũng cường tráng như vậy được yêu cầu ngồi lên trên một bàn ăn làm bằng gỗ gụ. Thế là tất cả được nhấc bổng lên khỏi mặt đất, người đồng cốt chỉ đặt một tay trên nóc của cái bàn. Ở nhà của bà Youngs vào buổi chiều tối mà ta đă nêu trước kia cũng có nhiều người như vậy ngồi trên nóc của cái đàn dương cầm được nhấc bổng lên cùng với nhạc cụ ấy trong khi bà đang chơi một bản waltz. Trong tài liệu ghi chép có đầy những ví dụ mà các căn pḥng hoặc ngay cả trọn căn nhà bị một lực huyền bí làm cho chấn động và rung chuyển dường như thể có một cơn băo đang thổi qua mặc dù bầu không khí vẫn yên tĩnh.

Và ta có bằng chứng của các ngài Lindsay, Aberdare, Dunraven và những nhân chứng khác không thể bác bỏ được; họ công nhận sự kiện cơ thể của một người đồng cốt trôi nổi xung quanh căn pḥng rồi bay lướt qua một cửa sổ cách mặt đất 70 bộ Anh để lại đi vào một cửa sổ khác. Điều này xảy ra trong ánh sáng mờ mờ, nhưng trong ánh sáng nhá nhem tôi có thấy một người bị nhấc bổng ra khỏi cái ghế ngồi cho đến khi đầu bà ta cao bằng những quả cầu trên cái đế đèn, thế rồi lại từ từ hạ xuống.

Quí vị ắt thấy tôi đang kể cho quí vị nghe những câu chuyện kỳ diệu đến nỗi nếu không được bổ chứng bằng kinh nghiệm cá nhân của ḿnh th́ chẳng ai có thể hoàn toàn tin được. Quí vị hăy tin tôi đi, tôi ắt chẳng kể cho quí vị nghe – v́ đâu có ai muốn bị người khác nghi ngờ lời của ḿnh – nếu tôi không hoàn toàn biết rơ là những hiện tượng như thế đă được chứng kiến hàng trăm lần ở hầu hết mọi xứ sở dưới ánh mặt trời, và bất cứ ai dành thời giờ khảo cứu chúng đều có thể thấy được. Mặc dù tôi chối bỏ nhưng quí vị có thể nghĩ rằng tôi đang coi là chuyện hiển nhiên quí vị hoàn toàn thỏa măn giống như bản thân tôi về tính chân thật của các hiện tượng đồng cốt, nhưng tôi đoan chắc rằng tôi không có ư đó. Tôi luôn luôn nhớ rằng cho dù thính giả có thể tôn trọng sự liêm khiết và tài khéo của tôi, cho dù rơ ràng là y có thể thấy tôi chẳng có động cơ thúc đẩy tối hậu nào nhằm lừa gạt y; thế nhưng y không thể tin được nếu bản thân y chưa có những bằng chứng thuyết phục mà chính tôi đă có. Y ắt hẳn – bởi v́ y nhất định phải – suy nghĩ rằng những chuyện như thế nằm ngoài tầm kinh nghiệm thông thường của con người và theo cách diễn tả của Hume th́ thật là hợp lư hơn khi tin rằng người ta nói dối thay v́ tin rằng lộ tŕnh bằng phẳng của định luật thiên nhiên bị xáo trộn. Quả thật điều đó giả định một tiêu đề phi lư là người b́nh thường biết được đâu là giới hạn của định luật thiên nhiên, nhưng chúng ta chưa bao giờ coi ư kiến ḿnh là phi lư, bất chấp người khác nghĩ như thế nào đi chăng nữa. Như tôi vừa mới nhận xét, v́ biết rằng điều mà tôi miêu tả đă từng được hàng ngàn người chứng kiến và bất cứ lúc nào khác hàng ngàn người khác cũng có thể chứng kiến được, cho nên tôi tiến hành kể chuyện với vai tṛ là người nói sự thật và cây ngay không sợ chết đứng. Thật là một chuyện kỳ diệu khi điều mà chúng tôi đă được chứng kiến hiện nay độc lập với sự quan tâm trịnh trọng gắn liền với vấn đề liệu người chết có giao tiếp với chúng ta hay chăng v́ ta không thể đánh giá thấp tầm quan trọng của sự kiện này về mặt khoa học. Ngay từ đầu – nghĩa là trải qua suốt 28 năm mà tôi quan sát – tôi đă từng đeo đuổi cuộc điều tra theo tinh thần ấy v́ tin rằng con người ắt thấy tầm quan trọng tối cao của nó khi nhận biết được mọi điều mà ta có thể biết về quyền năng của con người và các lực thiên nhiên xung quanh ḿnh.

Bây giờ điều mà tôi sẽ tường tŕnh về cuộc phiêu lưu ở Eddy Homestead tại Vermont, nước Mỹ, ắt thử thách ḷng độ lượng của quí vị hơn hẳn những điều trước kia. Trong một số năm trước năm 1874, tôi đă từng tích cực quan tâm tới các hiện tượng đồng cốt. Người ta chẳng tường tŕnh được điều ǵ đặc biệt mới lạ và thông tin mà các đồng cốt cung cấp thường không đủ mang tính giáo huấn để khiến người ta phải rời bỏ sách vở cùng với những tác giả nổi tiếng. Nhưng vào năm ấy, nghe đồn là ở một làng hẻo lánh trong thung lũng Green Mountains, có một người nông dân thất học và anh em của y cũng dốt nát như vậy, hằng ngày lại được những vong hồn “hiện h́nh” ra đến viếng thăm mà bất cứ người khách nào cũng có thể nh́n thấy, nghe thấy và có những trường hợp sờ thấy được. Tin sốt dẻo hấp dẫn ấy khiến tôi quyết định phải làm nhân chứng v́ nó chắc chắn là có mức độ thú vị và tầm quan trọng vượt xa bất cứ điều ǵ mà ta nghe nói tới vào bất cứ thời đại nào. Thế là vào tháng 8 cùng năm, tôi đi tới Chittenden, là ngôi làng được nhắc đến, tôi ở ĺ đó cho tới cuối tháng 10 mà chỉ có một thời gian tạm ngưng ngắn ngủi là 10 ngày. Tôi hi vọng rằng quí vị ắt tin tôi đă chọn theo mọi sự pḥng ngừa khả hữu để không bị đám dân quê dùng mánh khóe biến ḿnh thành tṛ cười cho thiên hạ. Căn pḥng có ma là một buồng lớn chiếm trọn cả tầng trên của một chái nhà có hai tầng. Nó có lẽ rộng 20 bộ Anh, dài 40 bộ - tôi nói theo trí nhớ. Ở tầng dưới có hai pḥng: một nhà bếp và một kho trữ đồ ăn; ở đầu hồi nhà có một ống khói của nhà bếp cố nhiên nó phải đi xuyên qua căn pḥng lên đồng để tới tận nóc nhà. Nó xuyên qua căn pḥng ở mức 2 bộ Anh, c̣n ở bên phải, giữa nó và bên hông căn nhà có một buồng kín trét thạch cao với một cửa ra vào ngay kế bên ống khói. Một cửa sổ h́nh vuông, mỗi bề 2 bộ Anh, in sâu vào tường bên ngoài của căn pḥng kín để thông gió. Chạy dọc theo đầu bên này của căn buồng lớn là một bục giảng hẹp, được đấp cao khoảng 18 bộ Anh so với nền nhà, có nấc thang để leo lên ở ngay đầu mút phía bên trái cùng với tay vịn cầu thang hoặc cái lan can dọc theo mặt trước của cái bục giảng. Mỗi buổi chiều sau bữa ăn cuối cùng, William Eddy (một nông dân lực lưỡng, vai h́nh vuông, tay chân gân guốc) ắt leo lên cầu thang và treo một tấm khăn len dầy ngang qua cửa ra vào rồi bước vô trong pḥng kín ngồi trên một cái ghế thấp đặt ở đầu mút căn pḥng. Khách viếng thăm (đôi khi lên tới 40 người mỗi buổi chiều) an tọa trên những ghế dài đặt trong ṿng vài bộ Anh xung quanh cái bục giảng. Horatio Eddy ngồi trên một cái ghế phía trước mặt phát ra một điệu nhạc vĩ cầm thê lương rồi lĩnh xướng – nếu ta có thể gọi điều đó như vậy mà không khiến cho hồn Mozart phải đội mồ sống dậy; có một đèn dầu đặt trên sàn nhà ở đầu mút căn pḥng cách xa bục giảng nhất, nó được đặt vào trong một cái trống cũ đă bị lấy mất hai đầu cho nên chỉ phát ra ánh sáng yếu ớt. Mặc dù ánh sáng chắc chắn là rất mờ, thế nhưng nó cũng khiến cho chúng tôi thấy được liệu có ai rời bỏ chỗ ngồi của ḿnh hay chăng và qua bóng tối chúng tôi có thể phân biệt được chiều cao và y phục của khách viếng thăm từ thế giới bên kia cửa tử. Trong buổi lên đồng đầu tiên th́ khó mà nh́n thấy, nhưng chẳng bao lâu sau việc thực hành đă khiến cho mắt người ta được điều tiết làm quen với t́nh huống ấy.

Sau một thời gian hát ḥ và kéo vĩ cầm (đôi khi 5 phút, đôi khi tới 20 phút hoặc 30 phút) chúng tôi ắt thấy cái khăn lay động rồi bị vén lên và từ bục giảng bước ra một h́nh người nào đó. Có thể là đàn ông, đàn bà hoặc con nít, một cựu chiến binh già lụ khụ hoặc một em bé sơ sinh do một người phụ nữ ẵm trên tay. H́nh người này tuyệt nhiên chẳng có điều ǵ là siêu tự nhiên hoặc ma quái. Một người lạ bước vào đầu bên kia của căn buồng ắt chỉ tưởng tượng rằng một kẻ phàm phu c̣n sống nào ấy đang đứng ở đó sẵn sàng thuyết tŕnh trước thính giả. Quần áo của nó cũng giống như y phục sinh hoạt hàng ngày, mặt mũi, tay chân, dáng vẻ của nó hoàn toàn tự nhiên thoải mái. Đôi khi nó c̣n gọi tên người bạn đang sống mà nó tới để hội ngộ. Nếu nó khỏe mạnh th́ giọng nói ắt có âm lượng tự nhiên, nếu nó yếu th́ lời nói nghe cứ như tiếng th́ thào; nếu nó yếu hơn nữa th́ chẳng nghe nói ǵ hết mà chỉ thấy h́nh người đứng dựa vào ống khói hoặc tay vịn cầu thang trong khi đám thính giả lần lượt hỏi “có phải bạn của tôi không?” và nó hoặc là cúi đầu hoặc là gơ nhẹ tạo một âm thanh trên bức vách khi đúng người nó cần gặp nêu lên câu hỏi. Thế rồi một khách viếng thăm băn khoăn ắt nhô người về phía trước, căng mắt ra nh́n vào dáng vẻ của h́nh người dưới ánh sáng mờ mờ để rồi chúng tôi thường nghe thấy một tiếng hét thất thanh mừng rỡ “ôi mẹ, cha, chị, em, con trai, con gái của tôi” hoặc không biết chừng là “tôi biết ông rồi”. Thế là người ta thấy người khách viếng thăm quái đản ấy cúi rạp đầu xuống hoặc dang rộng tay ra để rồi dường như thu hết tàn lực cuối cùng lướt trở lại vào trong buồng kín khi tấm khăn lại phủ xuống trước cặp mắt hau háu đăm đăm nh́n của khán giả. Nhưng có khi h́nh người ấy tồn tại lâu hơn nhiều. Lắm lần tôi đă thấy từ trong buồng kín bước ra một bà già mặc đồng phục của phái Quaker có mũ vải phin và khăn quàng gài kim trên ngực, áo dài màu xám, yếm nội trợ, bà gọi con trai của ḿnh lên bục giảng, ngồi kế bên y trong một cái ghế dựa rồi sau khi âu yếm hôn nó, bà nói chuyện vài phút với nó bằng giọng th́ thào về chuyện gia đạo. Lúc nào bà cũng có vẻ đăng trí vân vê đường viền của cái yếm rồi lại thả nó ra và cứ tiếp tục như vậy làm đi làm lại đúng hệt như - theo lời con trai bà kể lại với tôi – bà vẫn có thói quen làm như thế trong lúc sinh tiền. Có nhiều lần đúng ngay khi bà sẵn sàng biến mất th́ nhà quí tộc này lại níu tay bà dắt ra tới tận lan can và bảo rằng ông được mẹ già – người mà chúng tôi thấy ở đó mặc dù bà đă qua đời nhiều năm rồi – yêu cầu chứng nhận đó chính thật là bà chứ không phải chuyện lừa gạt để cho người ta hiểu ra rằng con người vẫn c̣n sinh hoạt bên kia cửa tử và v́ vậy khi sống trên dương thế phải  sống sao cho bảo đảm được hạnh phúc ở thế giới bên kia.

Trong một vài phút của bài thuyết tŕnh này tôi không thể toan tính cung cấp cho quí vị ngay cả chỉ phác họa sơ lược về những quan sát của tôi trong những tuần lễ đầy sóng gió ấy. Chỉ cần nói rằng tôi đă thấy một buổi có khoảng 17 người đội mồ sống dậy và từ đầu chí cuối tôi đă thấy chừng 500 người. Chỉ có một ít người dường như đặc biệt gắn bó với phạm vi ảnh hưởng của người đồng cốt, kỳ dư là bạn bè của những người xa lạ xuất hiện trước những kẻ hằng ngày bu đông đảo nơi ấy xuất phát từ những địa phương xa nhất – một số địa phương xa tới tận hai ngàn dặm Anh. Có những người Mỹ và người Âu châu, người Phi châu và người Á châu, người da đỏ sống ở vùng đồng cỏ và người da trắng, mỗi người đều mặc quần áo quen thuộc, một số người thậm chí c̣n mang theo cả những vũ khí quen thuộc. Có một buổi chiều, h́nh một người Kurd – một người mà bà Blavatsky có quen biết ở Kurdistan – bước từ pḥng kín ra, đội một cái mũ vải cao, chân đi giày bốt cao, quần áo bảnh bao. Trong cái khăn quấn chặt quanh thắt lưng của y có giắt một lưỡi gươm cong và những vũ khí nho nhỏ khác. Tay y thoạt đầu trống rỗng nhưng sau khi chào mừng bạn tôi theo kiểu dân địa phương th́ xem ḱa tay phải của y đang cầm một ngọn giáo dài 12 bộ, ở bên dưới mũi nhọn bằng thép c̣n có cả một chùm lông vũ. Thế mà giả sử rằng người đồng cốt nông dân ấy đă từng bịp bợm th́ ở cái thôn xóm hẻo lánh này y kiếm đâu ra bộ quần áo người Kurd đó, thắt lưng, vũ khí và nhất là cái ngọn giáo vào lúc mà chúng tôi vừa nhắc tới – bởi v́ bà Blavatsky chỉ mới đến Chittenden cho nên cả bản thân tôi lẫn người nào khác chẳng ai biết lai lịch của bà cũng như bà từ đâu đến. Tôi đă từng miêu tả mọi kinh nghiệm của ḿnh ở đó, trước hết là trong một loạt những bức thư gửi cho một tờ báo ở New York, rồi sau đó là dưới dạng sách [Tác phẩm Người về từ Thế giới bên kia] và tôi khuyên kẻ nào ṭ ṃ hăy tham khảo tài liệu ấy để có chi tiết cả về những ǵ tôi đă chứng kiến lẫn những điều pḥng ngừa của tôi để khỏi bị lừa gạt. Chắc chắn là có hai điều nảy ra trong trí quí vị khi tôi đang nói (a) có một kẻ đồng lỏa hoặc nhiều đồng lỏa tiếp cận với người đồng cốt qua cửa sổ của căn pḥng riêng hoặc là quần áo, búp bê đă được tuồng cho y từ phía dưới thông qua một nắp hầm hoặc một tấm ván kéo trượt. Cố nhiên bất cứ ai chẳng mất công suy nghĩ cũng có thể giả định như vậy. Tôi cũng đă từng nghĩ như thế và làm như sau. Tôi kiếm một cái thang rồi leo lên phía bên ngoài căn nhà, may lược một tấm vải mùng trùm lên toàn bộ cái cửa sổ, kể cả khung cửa kéo nữa rồi niêm phong những chỗ may lược ấy bằng sáp đóng dấu ấn bằng ấn triện trên cái nhẫn đeo tay của tôi. Việc này sẽ ngăn cản hữu hiệu bất cứ chuyện lẩm cẩm nào xuất phát từ cái góc đó. Thế rồi tôi cầu viện tới một kiến trúc sư, một người Mỹ tài khéo phát minh về máy móc cùng với tôi khảo sát tỉ mỉ thực tiễn ống khói, sàn nhà, bục giảng, những căn pḥng ở tầng trệt và mái gỗ phía trên đầu. Tất cả chúng tôi hoàn toàn thỏa măn khi thấy nếu trường hợp này mà có mánh khóe ǵ th́ chỉ mỗi một ḿnh William Eddy là thủ phạm chứ không có đồng lỏa và nếu y dùng bộ y phục trên sân khấu hoặc các tư trang khác th́ y phải mang kè kè theo ḿnh. Trong cái lỗ nhỏ xíu của căn buồng kín không hề có một ngọn nến, cái gương soi, bàn chải, tóc giả, quần áo, bồn nước, khăn mặt, son phấn trang điểm, cũng chẳng có đạo cụ nào khác của diễn viên; mà nói thật ra th́ người nông dân nghèo đào đâu ra tiền để mua sắm. Y không đ̣i tiền thù lao cho buổi lên đồng và khách viếng thăm chỉ trả một số tiền rất nhỏ là được bao ăn ở tại chỗ. Tôi đă ngồi hút thuốc với y ở dưới bếp cho đến khi bắt đầu buổi lên đồng, đi kè kè theo y lên buồng trên, khảo sát căn buồng kín trước khi y bước vào, lục soát người y; thế mà tôi vẫn cứ thấy chính những h́nh người kỳ diệu ấy xuất hiện như thường lệ với đủ thứ y phục. Tôi nghĩ rằng ḿnh có thể tự cho là đă tiến hành rất thận trọng v́ trong một bài tranh căi gần đây với giáo sư W. B. Carpenter, ông A. R. Wallace, hội viên Hội Hoàng gia, đă trích dẫn và ca ngợi quyển sách của tôi. Bản thân ông Carpenter đi Mỹ để điều tra xem coi tính t́nh tôi có ngay thật không rồi cũng phải công khai thừa nhận là không thể nghi ngờ được. Giáo sư Wagner ở Saint Petersburg đă duyệt công tŕnh ấy trong một tập sách nhỏ đặc biệt – trong đó ông đă khẳng định rằng tôi đă hoàn thành mọi yêu cầu về nghiên cứu khoa học – c̣n ba hội Tâm lư học Âu châu th́ đă bầu tôi làm hội viên Danh dự. Ta cũng nên lưu ư rằng với 4 năm khảo sát nhiêu khê và rất có trách nhiệm phục vụ cho Bộ Quốc pḥng – trong trận chiến tranh vừa qua ở Mỹ mà chính nhà cầm quyền da đỏ đă chứng nhận cho việc phục vụ của tôi – tôi có đủ tư cách để tiến hành việc điều tra với ít ra là mức chắc chắn có thể nếu tôi không bị áp đặt điều ǵ. Như vậy, sau khi đă thấy mọi điều được phác họa cho ḿnh th́ liệu quí vị có lấy làm ngạc nhiên chăng khi tôi hoàn toàn tin chắc vào sự thực của một số lớn các hiện tượng tâm linh mà khoa học đang cố gắng một cách tuyệt vọng để đưa ra lời giải thích. Liệu quí vị có lấy làm lạ chăng khi bất cứ nhà khoa học nào từ năm 1848, sau khi đă kiên nhẫn nghiêm chỉnh điều tra về Thần linh học hiện đại đều trở thành một kẻ được cải giáo bất kể đức tin tôn giáo hoặc khuynh hướng nghề nghiệp của y?

Việc đề cập đến tôn giáo đưa tôi tới một sự kiện chắc chắn. Trong khi hiện nay Giáo hội Tin lành cứ khăng khăng chối bỏ sự thực về những biểu lộ như thế của các tác nhân huyền bí, th́ Giáo hội Roma luôn luôn công nhận là đúng sự thật. Trong tiêu đề của Giáo hội vẫn có những dạng đặc biệt trục tà, và khi cô Laura Edmonds, con gái cưng của nhà thẩm phán người Mỹ được trọng vọng nêu trên, một trong những người đồng cốt đáng chú ư nhất của phong trào hiện đại – liên kết với Giáo hội Công giáo th́ linh mục nghe cô xưng tội là một huynh ở New York theo phái thánh Phao lô đă trục được “đám ma quỉ” ám ảnh cô sau khi – theo lời ông kể với tôi – có một trận thư hùng quyết chiến. Chính Đức Giáo hoàng đă quá cố nguyền rủa thuật đồng cốt là một công cụ nguy hiểm của phái Tà, rồi cảnh báo tín đồ đừng có lân la tới pḥng lên đồng v́ các tác nhân ở đó có thể hủy hoại linh hồn. Ở Pháp, trong ṿng vài năm vừa qua có xuất hiện một loạt sách của Hiệp sĩ des Mousseaux đă được các giám mục Công giáo nhiệt liệt tán thưởng, chúng đặc biệt được thiết kế để sưu tầm bằng chứng nổi bật nhất của tác nhân ma quỉ trong các hiện tượng lạ. Đó đều là các kho chứa có giá trị về những sự kiện thông linh mà người ta đặc biệt nên đọc, nhất là quyển Phong tục và Phép thực hành của Ma quỉ đối với mọi người nghiên cứu Huyền bí học. Tác giả cần cù này dĩ nhiên là chẳng thuyết phục được ai chấp nhận các tiêu đề của ḿnh ngoại trừ trong giới Công giáo, nhưng các sự kiện mà ông nêu ra thật gợi ư và đáng hoan nghênh. Mặc dù tôi chẳng bao giờ có chút xíu óc chính thống tôn giáo nào và chẳng hề có thiện cảm với thuyết ma quỉ, thế nhưng sau khi đă học được khoa tâm lư học Á đông th́ tôi thấy phái Công giáo c̣n gần sự thật hơn hẳn phái Tin lành khi họ công nhận và cảnh báo trước nguy cơ đồng cốt, chứ Tin lành chỉ mù quáng chối bỏ sự thật của những hiện tượng lạ này. Đồng cốt thật sự là nguy hiểm và tôi chưa bao giờ muốn thấy một người mà tôi quan tâm lại trở thành đồng cốt. Người Ấn độ - vốn đă biết những hiện tượng này từ xửa từ xưa rồi – gọi những nạn nhân này bằng một tên gọi thích hợp nhất là bhitta dak tức là tiền đồn của ma quỉ. Tôi thành thật hi vọng rằng sớm muộn ǵ th́ người ta cũng sẽ nghiên cứu kinh nghiệm của Ấn độ về vấn đề này; và nếu người ta muốn khuyến khích tục đồng cốt th́ người ta phải đặt nó vào một khuôn khổ bảo vệ giống như những bà đồng cốt thời xưa trong các đền thờ đă từng được các tu sĩ điểm đạo đồ chăm chú để mắt tới. Đây không phải là ngôn ngữ của nhà Thần linh học và tôi cũng đâu phải theo Thần linh học; thật ra th́ tôi tin một cách không dè dặt và sự thực của các hiện tượng lạ cùng sự tồn tại của lực tâm linh, nhưng ở đây tôi cũng đồng ư với các nhà Thần linh học. Đó là v́ trong hơn 20 năm, tôi đă đồng ư với họ và chia xẻ cùng với ông Owen và ông Wallace niềm tin chắc rằng ta không thể gán cho hiện tượng lạ bất kỳ tác nhân nào khác hơn là của người quá cố. Tôi không thể hiểu được làm sao giải thích trí thông minh ẩn sau những pha tŕnh diễn ấy nhất là trong những trường hợp mà tôi có nhắc tới khi những sự kiện được tường thuật chẳng ai có mặt nơi buổi lên đồng biết được và chỉ được kiểm chứng măi sau này ở những xứ xa xôi; nhưng cho đến khi hội ngộ với bà Blavatsky ở nhà Eddy th́ thậm chí tôi c̣n chưa biết có một khoa học tên là Huyền bí học Á đông. Tôi coi những chuyện kể của đám du khách và chuyện kể trong 1001 đêm chỉ là những lời ngoa ngoắc hoang đường; và mọi điều được viết ra về đám sơn đông măi vơ ở Ấn độ cùng với thần thông của các vị ẩn sĩ dường như chỉ là tường tŕnh về những tṛ ảo thuật thành công. Bây giờ tôi nh́n lại th́ mới thấy cuộc hội ngộ ấy là diễn biến diễm phúc nhất đời tôi, v́ nó soi sáng cho mọi ngóc ngách tối tăm, đưa tôi tới sứ mệnh pḥ trợ cho khoa huyền bí học Aryan vốn đang càng ngày càng được người ta miệt mài nghiên cứu. Tôi thật hân hạnh chẳng những góp phần vào việc mở rộng biên cương của khoa học Âu Tây bằng cách chỉ ra đâu là chỗ mà người ta có thể nghiên cứu thực nghiệm về các bí mật của thiên nhiên và con người để cho những người Anh Ấn phải kính nễ hơn đối với quốc gia thần phục mà ḿnh đang cai trị; tôi lại c̣n góp phần vào việc làm nhen nhúm bên trong ḷng giới thanh niên Ấn độ sự tự hào về di sản tổ tiên quang vinh và mong muốn bắt chước tiền nhân đạt được những thành tựu cao cả về Khoa học và Triết học. Thưa quí ông, quí bà, đây là lư do duy nhất khiến cho chúng tôi đến với Ấn độ; điều này giải thích được mối quan hệ nồng thấm của chúng tôi với dân tộc quí vị, ḷng tôn kính của chúng tôi với các đạo sĩ yoga chân chính. Mỗi một người trong quí vị cứ mong ngóng đến ngày ḿnh sẽ hồi hương về quê cha đất tổ là nước Anh, c̣n chúng tôi xin chọn nơi này làm quê hương nghĩa là xin gửi nắm xương tàn nơi đây.

Những tờ bướm quảng cáo đă loan báo việc tôi đắc cử Hội trưởng Hội Thông Thiên Học và quí vị tề tựu nơi đây để học biết xem Thông Thiên Học là ǵ và nó quan hệ ra sao với Thần linh học.

Thế th́ tôi xin nói theo ư nghĩa được sử dụng bởi những người tiền phong th́ thuật ngữ này có nghĩa là minh triết thiêng liêng hoặc hiểu biết về minh triết thiêng liêng hoặc hiểu biết về việc thiêng liêng. Những người soạn từ điển đă gây tù túng cho ư tưởng này bằng cách gợi ư rằng nó nghĩa là hiểu biết về Thượng Đế mà Đấng thiêng liêng trong trí óc họ lại là một đấng nhân h́nh; nhưng đó không phải là ngụ ư của các nhà Thông Thiên Học tiền phong. Xét về cốt lơi th́ Hội Thông Thiên Học khuyến khích người ta trau dồi sự hiểu biết mới lạ về những điều c̣n ẩn tàng trong vũ trụ qua đường lối giáo dục để hoàn thiện những quyền năng ẩn tàng nơi chính ḿnh. Thông Thiên Học khác hẳn với triết học cũng như thần học. Nói thật ra th́ khi nghiên cứu về bản chất và các thuộc tính của Thượng Đế, triết học hoàn toàn tiến hành theo phương pháp biện chứng, đặt cơ sở cho sự khảo cứu dựa trên những ư tưởng xuất phát từ lư trí tự nhiên; thần học vẫn sử dụng phương pháp ấy nhưng thêm thắt vào các nguyên tắc của lư trí tự nhiên bằng những nguyên tắc rút ra từ thần quyền và thiên khải. Ngược lại, Thông Thiên Học công khai loại trừ mọi tiến tŕnh biện chứng và rút ra mọi sự hiểu biết về Thượng Đế từ trực giác và sự nhập định. Ngay từ thời xa xưa nhất mà chúng ta c̣n bảo tồn được bất cứ sử liệu nào th́ đă có Thông Thiên Học rồi, và mọi bậc giáo chủ đều là người mưu cầu minh triết thiêng liêng bằng tiến tŕnh tự giác ngộ của Thông Thiên Học. Thời nay liệu ta biết t́m ở đâu ra phương tiện để theo đuổi công tŕnh nghiên cứu vinh quang ấy? Ở đâu mà có những trường huấn luyện xứng đáng được gọi là kế nghiệp cho các trường của phái Tân Platon ở Alexandria, phái Đạo trưởng ở Ai cập, phái được thần linh dạy dỗ ở Hi lạp và nhất là các bậc thánh triết ở Aryavarta, vốn là các điểm đạo đồ cao cả nhất ngoại trừ Đức Phật Thích Ca toàn giác vô nhiễm.

Chúng ta hăy nhớ rằng việc nghiên cứu Thông Thiên Học đ̣i hỏi người ta phải thật sự thâm nhập vào các bí pháp để trở thành một người giác ngộ chân chính. Những tham dục của xác thịt, niềm kiêu hảnh trong cuộc sống, những thành kiến về gia thế, chủng tộc, tín điều (đến mức sinh ra giáo điều) đều phải bị dẹp hết sang một bên. Thể xác phải phục vụ thuận lợi cho chơn ngă thay v́ ức hiếp chơn ngă. Những thanh sắt ngục tù Giác quan đă giam cầm con người Vật chất phải được mở khóa để cho trong khi vẫn sinh hoạt đóng một vai tṛ nơi ngoại giới; nhà Thông Thiên Học vẫn có thể hướng nội, hoạt động trong đó rồi lại trở ra v́ trong đó có đầy dẫy sự thật thiêng liêng. Chúng ta thắc mắc chẳng biết liệu có hay chăng những người như thế, những bán thần linh như thế? Có chứ, đă có và đang có. Các huyền thoại trong quá khứ đối với chúng ta dường như có vẻ thấm đượm sự sai lầm, hoang đường và thậm chí hoang tưởng nữa; tuy nhiên những người như thế đă tồn tại và hiển lộng thần thông ở nhiều xứ sở, trong nhiều thời kỳ khác nhau.

Và không ở đâu hơn xứ Ấn độ - cái xứ sở được Mặt trời ban phước – mà lại có người nghèo khổ, xuống tinh thần, đói khát và suy thoái đến thế. Đây là nơi chôn nhau cắt rún của Thông Thiên Học cổ truyền, ở đây trên vùng núi Hi mă lạp sơn cao sừng sững tít mù đă có sống những con người đạt vinh dự là được truyền dạy minh triết thiêng liêng. Minh triết này là một nguồn cội bồi đấp chảy qua các kinh dẫn của Hi lạp và Ai cập để hướng về phương Tây. Dù quí vị có tin tôi hay chăng th́ tôi vẫn hoàn toàn tin chắc rằng trong những thành lũy này từ bầu không khí đạo đức bị ô nhiễm của sinh hoạt xă hội vào thế kỷ 19 xa rời khỏi tai họa và sự hành hạ của thói ngu tín và mê tín dị đoan thiếu khoan dung ngày nay, xa rời khỏi ác ư độc hại của ḷng đa nghi, vẫn c̣n có những người lưu luyến vốn là các nhà Thông Thiên Học chân chính. Không lạc quan cũng chẳng bi quan, nhưng tôi không lấy làm hài ḷng trước việc dân tộc chúng ta có số phận bị hủy diệt hiện nay hoặc trong tương lai, ư thức đạo đức của xă hội cũng không thể bị suy giảm nếu không có sự đổi mới thường xuyên từ cội nguồn tổ tông. Tôi quan niệm cái cội nguồn ấy là việc nghiên cứu Thông Thiên Học và sự giác ngộ tự thân; tôi coi người nào vạch đường chỉ lối cho kẻ đa nghi, kẻ đang thất vọng, kẻ mỏi mệt với thế gian, kẻ đói khát trong ḷng th́ người ấy chính là bậc ân nhân cho đồng loại v́ những hư danh của thế gian không thỏa măn được những khát vọng của linh hồn, và ta chỉ có thể đạt được chân hạnh phúc nhờ vào việc tự thân phát triển trong nội tâm thanh tẩy và giác ngộ. Ắt là sẽ không có phù hợp với những nguyên tắc trừu tượng về Công bằng khi ta bỏ mặc cho thế gian hoàn toàn không có gương mẫu nào để noi theo về minh triết tâm linh. Tôi không tin điều này đă hoặc sẽ măi măi như thế.

Đối với kẻ nào bước theo lộ tŕnh nỗ lực này th́ các hiện tượng đồng cốt là cực kỳ quan trọng v́ chúng đưa y vào địa hạt của cơi Vô h́nh, chỉ cho y thấy một số bí mật kỳ quặc nhất trong bản chất con người. Cùng với thuật đồng cốt, y c̣n nghiên cứu từ khí sinh vật, các định luật và hiện tượng của nó và Odyle của Nam tước Richenbach cũng đều cho ta thấy thực chất và tính phân cực của Lực này; sự thật là nó dường như tương cận với một lực vĩ đại duy nhất thấm nhuần trọn cả thiên nhiên. Y sẽ rút ra được thêm bằng chứng qua thuật trắc tâm của Buchanan cùng với các thí nghiệm đối với những người mà y thấy được thiên phú về năng lực trắc tâm. Nếu có ai ở đây cảm thấy đó là một từ ngữ mới lạ th́ tôi xin bảo rằng đây là một tên gọi mà người khám phá ra nó thời nay dùng để chỉ một quyền năng nào đó mà cứ bốn người th́ có một người sở hữu; y có thể nhận được các ấn tượng trực giác về tính t́nh của người viết một lá thư hoặc vẽ một bức tranh bằng cách trực tiếp tiếp xúc với bản thảo chữ viết tay hoặc bức tranh vẽ. Mọi người trong chúng ta đều thường xuyên để lại ấn tượng về tính t́nh của ḿnh tồn đọng trong mọi vật mà chúng ta có tiếp xúc, cũng giống như đá nam châm truyền lại một số đặc tính của ḿnh cho mọi cây kim mà người ta cạ vào nó. Có một điều tinh vi nào đó – từ khí tức lưu chất sinh động, tức lực thông linh – thường xuyên rỉ rịn ra khỏi chúng ta. Chúng ta để nó tồn đọng lại trên mặt đất khiến cho con chó t́m thấy chúng ta, nó tồn đọng trên quần áo của chúng ta khiến cho con chó săn theo người nô lệ đánh hơi được đường đi nước bước của kẻ nghèo khó chạy trốn về nơi trú ẩn. Chúng ta làm cho nó thấm đẫm những bức tường trong nhà ḿnh và một nhà trắc tâm nhạy cảm khi bước vào pḥng khách nhà ta trước khi hội ngộ với gia quyến vẫn có thể nói không sai lầm liệu đây là một gia đ́nh hạnh phúc hay một gia đ́nh lục đục. Chúng ta bị nó vây quanh như một bầu hơi nhạy cảm và khi chúng ta gặp nhau th́ chúng ta lặng lẽ tiếp nhận một ấn tượng về việc chúng ta thích hợp với nhau hay phản cảm với nhau. Phụ nữ có nhiều ư thức này hơn đàn ông và đă có nhiều trường hợp khi trực giác tiên tri của bà vợ đối với một kẻ mới quen nào đó bị ông chồng chế nhạo và gát bỏ ngoài tai, th́ sau này được nhớ lại một cách tiếc nuối v́ lẽ ra ḿnh không nên xem thường nó. Các nhà trắc tâm học lỗi lạc thậm chí có thể rút ra được một ấn tượng sống động về mọi hoạt cảnh trong lịch sử xuất phát từ một mảnh vật chất vô tri vô giác chẳng hạn như một chút xíu của ṭa nhà cổ kính hoặc một mảnh vụn của bộ quần áo cũ. Khi biểu lộ cao độ th́ khoa trắc tâm trở thành thần nhăn chân thật; lúc bấy giờ thị giác của linh hồn thực sự mở ra, con mắt bên trong ta vốn chưa bao giờ mờ xỉn chỉ cho ta thấy những điều Bí ẩn của Vũ trụ Vô h́nh.

Thông Thiên Học cho người nghiên cứu biết tiến hóa là sự thật nhưng cơ tiến hóa không phải chỉ riêng phần và bất toàn theo cách tŕnh bày trong thuyết của Darwin. Cũng như có một cơ tiến hóa trong thiên nhiên vật lư mà đỉnh cao và tinh hoa của nó là con người vật thể, cũng vậy có một cơ tiến hóa song hành trong lănh vực tinh thần. Kết quả của cơ tiến hóa này là con người nội tâm tức tâm linh; và cũng giống như trong vũ trụ hữu h́nh xung quanh ta thấy có hằng hà sa số h́nh tướng tiến hóa thấp hơn bản thân ta, cũng vậy nhà Thông Thiên Học t́m thấy trong vùng đất chưa ai biết của nhà vật lư – lănh vực “Bất khả tri” – vô số loại h́nh tâm linh thứ yếu mà con người đang đứng đầu ṿng cung đi lên. Nhà vật lư chỉ biết các nguyên tố xét về tính chất hóa học hoặc những tương quan động lực học; nhưng người này đă quán triệt được Khoa học Huyền bí ắt t́m thấy trong lửa, không khí, đất và nước có những cấp đẳng sinh linh dưới nhân loại, một số thù địch, một số gây thuận lợi cho con người. Chẳng những y biết được về các sinh linh ấy mà c̣n đạt được khả năng kiểm soát chúng. Chuyện dân gian trên thế giới thấm đẫm nhiều sự thật về khả năng này; mặc dù nhà sinh học thời nay tỏ ra khinh thường nó, song le đây lại là sự thật. Người nào nguyên quán ở Ái nhỉ lan hoặc vùng sơn cước Tô cách lan ắt biết được những sinh linh này có tồn tại. Tôi không phỏng đoán đâu mà tôi biết điều ấy. Tôi nói một cách b́nh tĩnh và táo bạo như thế về đề tài này v́ tôi đă gặp những người tinh thông Huyền bí học Á đông và thấy họ hiển lộng thần thông. Chính v́ thế mà tôi mới không c̣n tự xưng là nhà Thần linh học vào năm 1874 để rồi đến năm 1875 tôi hợp tác với những người khác để sáng lập ra Hội Thông Thiên Học ngơ hầu xúc tiến việc nghiên cứu những hiện tượng tự nhiên này. Tôi đă thấy một người học được các khoa bí nhiệm ở Ấn độ và Ai cập tùy ư tạo ra những sự kiện kỳ diệu nhất về thuật đồng cốt ngay dưới ánh sáng thanh thiên bạch nhật. Trong những t́nh huống ấy, tôi đă thấy hàng loạt đóa hoa hồng rơi xuống pḥng, những bức thư từ các xứ sở xa xôi được người ta gửi tới rồi rớt từ trên không trung xuống ḷng tôi, tôi đă nghe thấy tiếng nhạc du dương văng vẳng từ xa trên không trung rồi càng ngày càng lớn dần lên cho tới khi nó vào tận pḥng để rồi lại dịu bớt đi trong bầu không khí im lặng cho đến khi tắt hẳn. Tôi đă thấy chữ viết xuất hiện trên giấy và trên bảng đá đặt trên sàn nhà, những bức vẽ trên trần nhà quá tầm với của bất cứ người nào, những bức tranh trên giấy mà không thấy dùng tới bút ch́ hoặc màu vẽ, những bài báo được sao chép lại trước mắt tôi, một người c̣n sống tức khắc biến mất ngay trước mắt tôi, lọn tóc đen được cắt ra từ đầu của một người đầu tóc bù xù, tôi đă thấy trong một khối pha lê những người bạn đang vắng mặt và những phong cảnh ở xa; c̣n ở nước Mỹ có tới hơn 100 lần khi mở bức thư viết về đủ thứ đề tài mà bưu điện mang đến cho tôi từ những người viết thư liên lạc với tôi ở khắp mọi nơi trên thế giới, tôi đă thấy bên trong đó có viết theo thủ bút quen thuộc thông điệp dành cho tôi xuất phát từ những người đang ở Ấn độ vốn có được hiểu biết về định luật thiên nhiên theo Thông Thiên Học. Ở đâu đó, có mỗi một lần tôi đă thấy triệu thỉnh tới trước mắt tôi một nhân vật đă được “hiện h́nh” hoàn toàn giống bất kỳ nhân vật nào đă từng bước ra khỏi cái pḥng kín kỳ diệu của William Eddy. Nếu đó không phải là điều kỳ diệu khi một nhà Thần linh học chứng kiến những hiện tượng lạ về đồng cốt mà chẳng biết ǵ về khoa huyền bí học cho nên mới tin vào sự can thiệp của vong hồn người chết, th́ liệu có ǵ lạ lẫm hơn chăng khi một người như tôi sau khi tiếp nhận biết bao nhiêu bằng chứng về điều mà ư chí lăo luyện của con người có thể thành tựu được, lại trở thành một nhà Thông Thiên Học chứ không phải là nhà Thần linh học nữa? Thậm chí tôi cũng chưa dốc hết toàn bộ danh mục những bằng chứng mà tôi đă biết chắc trong ṿng 5 năm vừa qua về thực tại của khoa tâm lư học Á đông; nhưng tôi hi vọng là ḿnh đă liệt kê đủ để chứng tỏ cho quí vị thấy rằng ở Ấn độ có những điều bí nhiệm đáng được mưu t́m, và thiên hạ ở đây quen thuộc với các lực huyền bí trong thiên nhiên hơn bất cứ nhà quí tộc nào đă từng hành nghề giáo sư và nhà sinh học. Người ta ắt hỏi biết đâu những bằng chứng mà tôi đưa ra về các hiện tượng thông minh của giới đồng cốt lại chẳng được gán cho những người bạn đă quá cố của chúng ta. Để trả lời tôi xin hỏi liệu có bằng chứng nào không chối bỏ được là có những người bạn ấy chăng? Nếu người ta có thể chứng tỏ rằng phần hồn của người đồng cốt c̣n sống – mà chính bản ngă trên cơi trần của y vẫn chưa có ư thức về nó – có thể rịn ra và nhờ vào bản chất có thể thiên biến vạn hóa để khoác lấy dáng vẻ của bất cứ người quá cố nào do nó thấy h́nh ảnh trong trí nhớ của khách viếng thăm; nếu mọi hiện tượng lạ ấy đều có thể được một nhà tâm lư học có giáo dục tùy ư tạo ra; nếu h́nh ảnh của mọi người và mọi diễn biến cũng như rung động của mọi âm thanh đều được bảo tồn măi măi trong chất æther của khoa học – Ākāsa của người Ấn độ, Hồn thế giới (Anima Mundi) của nhà Thông Thiên Học, Tinh tú quang (Astral Light) của phái Kabalah – theo như các nhà huyền bí học đă khẳng định và chứng tỏ bằng thực nghiệm; nếu mọi điều này đều đúng sự thật th́ tại sao lại cần phải cầu viện tới vong hồn người chết để giải thích những điều mà người sống có thể thực hiện được? Chừng nào chưa tiếp cận được với một thuyết khác cạnh tranh th́ các nhà Thần linh học vẫn là thành tŕ kiên cố chống lại khoa học duy vật, phương án của họ là đường lối khả hữu duy nhất để giải thích điều mà họ chứng kiến. Nhưng nếu đă có sẵn một thuyết cạnh tranh cho thấy nguồn dữ liệu của tâm lư học và bản chất của Vũ trụ Vô h́nh th́ ta thấy các nhà Thần linh học ngay tức khắc bị dồn vào thế thủ mà không có khả năng bịt miệng được những người phê phán. Kẻ nào quan sát hời hợt ắt bảo rằng chẳng hạn như h́nh ảnh của bà già theo phái Quaker không thể là ǵ khác hơn ngoài cái vong hồn của bà trở lại – con trai bà không thể nhầm lẫn và nếu có chút nghi ngờ nào khác th́ sự hiểu biết quen thuộc của bà về chuyện gia đạo thậm chí cái thói quen cũ của bà cứ hết vê tṛn rồi lại buông ra cái yếm nội trợ làm bằng vải mịn của ḿnh ắt đă nhận diện được bà rơ ràng. Nhưng nhân vật ấy chẳng làm hoặc nói điều ǵ không in hằn sâu trong trí nhớ của đứa con trai cho dù những ấn tượng đă bị ngủ quên ấy từ lâu rồi có thể bị những h́nh ảnh mới mẻ hơn làm cho mờ tối đi. Cơ thể người đồng cốt đang lên cơn xuất thần th́ sinh lực hoạt động của y bèn được truyền cho cái bản ngă bên trong tức là cái song trùng thể (double), song trùng thể ấy có thể xuất hiện dưới dạng người mệnh phụ đă quá cố thu tóm và b́nh luận những diễn biến quen thuộc mà nó t́m thấy trong bầu hào quang từ điện của đứa con trai. Quí vị ắt khó mà hiểu được điều này v́ cho đến nay các khám phá khoa học phương Tây chưa hề băng qua được ngưỡng cửa của thế giới Thần lực ẩn tàng này. Nhưng tiến bộ là định luật trong tư tưởng của con người và giờ đây ta đang đến gần bờ mép của cái vực thẳm phân chia khoa học vật lư với khoa học tâm linh đến nỗi chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ bắc cầu vượt qua vực thẳm ấy. Cứ coi đây là lời tiên tri đi, nếu quí vị kiên nhẫn chờ đợi th́ quí vị ắt thấy có ngày nó sẽ được thực hiện. Bấy giờ thái độ của các phe sẽ khác đi. Việc truyền bá quan điểm của chúng tôi cùng với nhiều phúc tŕnh của những người chứng kiến tận mắt về những sự việc do các hội viên Thông Thiên Học thực hiện đă khiến cho thiên hạ bàn tán xôn xao trên khắp thế giới. Một số lớn những nhà Thần linh học thông minh đă gia nhập hàng ngũ chúng tôi và khích lệ công tŕnh của chúng tôi. Các nhóm cảm t́nh viên đă được tổ chức thành các chi bộ ở nhiều xứ khác nhau, ngay cả ở đây, tại Simla cũng đă nảy sinh ra một hạt nhân vốn sẽ trở thành một Chi bộ Anh Ấn. Không một xứ sở nào trên thế giới lại cung cấp được một môi trường rộng lớn để nghiên cứu tâm lư học như ở Ấn độ. Ở đây người ta đă biết tới và thực hành cái mà người Âu Tây gọi là Từ khí Động vật dưới dạng hoàn thiện nhất từ biết bao thế kỷ nay. Người Ấn độ cũng biết rất rơ nguyên sinh khí nơi con người, động vật và cây cỏ. Nếu quí vị t́m kiếm khắp nơi ở Ấn độ th́ quí vị ắt t́m thấy dân bản xứ có sở hữu nhiều sự thật mà Âu Mỹ rất cần biết tới. Và quí vị là những nhà quí tộc thuộc các nhánh quân sự và dân sự phục vụ cho công ích, ắt là những người thích hợp để đảm đương công tŕnh này với sự trợ giúp của người Ấn độ. Quí vị cứ đối xử công bằng và tử tế với họ th́ họ sẽ kể cho quí vị cả ngàn chuyện mà hiện nay họ đang giấu kín trong nội bộ. Chính sách của chúng tôi nói chung là ḥa giải và hợp tác để t́m ra sự thật. Một số kẻ hớt lẻo đă bắt đầu phúc tŕnh rằng Hội chúng ta đang rao giảng một tôn giáo mới. Điều này không đúng sự thật: Hội không có tôn giáo nào khác hơn so với Hội Nghiên cứu Á châu của Hoàng gia, Hội Địa lư học Hoàng gia hoặc Hội Thiên văn học Hoàng gia. Cũng như các hiệp hội này có những phân bộ riêng, mỗi phân bộ dành cho một chuyên ngành khảo cứu nào đó; chúng tôi cũng có những phân bộ như thế. Chúng tôi tiếp nhận mọi người thuộc đủ mọi tôn giáo và mọi chủng tộc, đối xử với mọi người trân trọng và vô tư b́nh đẳng. Trong hàng ngũ của chúng tôi có những người mang ḍng máu vương giả, quí tộc và thứ dân. Hội viên chúng tôi có Edison, Wallace, Camille Flammarion, ngài Lindsay, Nam tước Du Potet và ông lăo bát tuần Cahagnet cùng với cả chục người có phẩm chất trí thức như thế. Chúng tôi chỉ có một tham vọng, đam mê cháy bỏng – muốn biết con người là ǵ và có bản chất ra sao. Có ai ở đây mà chẳng đồng cảm với những khát vọng ấy hay chăng? Có ai mà lại chẳng cảm thấy trong ḷng ḿnh le lói việc mưu t́m nhân tính chân chính, có ai dám đánh giá cao minh triết thiêng liêng hơn hẳn những danh dự và phần thưởng của cuộc sống nơi trần thế hay chăng? Thế th́ những anh em đang mơ mộng ấy hăy cứ đến đây để cho chúng ta kết hợp những nỗ lực và thiện chí của ḿnh. Ta hăy làm hết sức ḿnh để phục hồi lại từ trong quên lăng hàng thế kỷ cái tri thức vô giá về những sự việc thiêng liêng mà chúng ta gọi là Thông Thiên Học.

 

H Ế T

 HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  BOOKS  MAGAZINES