|
HOME NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES
|
SUY NGHĨ VỀ QUYỂN
“DƯỚI CHƠN THẦY”
(THOUGHTS ON “AT THE FEET OF THE MASTER”)
Tác giả: GEORGE S. ARUNDALE Bản Dịch: Chơn Như
|
|
SUY NGHĨ VỀ QUYỂN
“DƯỚI CHƠN THẦY”
Của Sở
Giáo Dục Quốc gia (Ấn Độ)
Nhà Xuất
bản Thông Thiên Học Adyar, Chennai Ấn Độ, 1918
NHẬN XÉT MỞ ĐẦU
Các chương sau đây được
in lại từ một loạt Tài liệu học Hàm thụ về quyển
Dưới Chơn Thầy mà tôi đă viết
trong hai năm vừa qua để phục vụ hội viên của Hội Những Người phục vụ Ngôi
sao.
Tôi đă để cho khóa học
này hầu như nguyên vẹn theo nguyên bản mà chỉ sửa lại đôi chút câu văn ở đây
đó. Có thể có một số việc lập đi lập lại v́ tôi bắt đầu viết loạt bài này ở
Bude, Cornwall vào năm 1914 và chỉ kết thúc ở Adyar, Madras vào năm 1918. Và
tôi cũng chẳng có thời giờ viết lại hoặc ngay cả duyệt lại tỉ mỉ.
Nhưng một số bạn tôi
nghĩ rằng chúng có ích và ít ra th́ chúng khiến cho bạn đọc quan tâm tới
quyển sách kỳ diệu đă gợi linh hứng cho họ. Về phần ḿnh, tôi có thể nói
thật rằng Dưới Chơn Thầy thường
xuyên là người bạn đồng hành, người dẫn dắt và cố vấn cho tôi. Lúc nào tôi
cũng kè kè theo ḿnh cái bản sao nhỏ xíu mà vị thầy trẻ tuổi của tôi đă tặng
tôi. Tôi cố gắng t́m hiểu điều mà thầy đă nghe được; và tôi thấy trong những
lời lẽ vô giá gói ghém giáo huấn đó quả thật có tất cả những ǵ vượt xa mức
mà tôi cần để giữ giới luật và rèn luyện bản thân.
Dưới Chơn Thầy mang lại một thông
điệp thỏa đáng cho bất cứ người nào phấn đấu sống một cuộc đời vị tha. Tôi
tha thiết giới thiệu nó cho những người đang giảng dạy và học hỏi thuộc đủ
mọi tín ngưỡng và đủ mọi giống dân. Cùng với quyển sách đồng hành là
Giáo dục để Phụng sự, người dạy
cũng như người học đă có được một quyển chỉ nam hoàn chỉnh cho sinh hoạt
hàng ngày. Và những sự thật được quí chuộng trong hai quyển sách lớn này là
những sự thật mà mọi công dân chân chính đều công nhận và tuân theo.
Dưới Chơn Thầy và
Giáo dục để Phụng sự là những Điềm báo của Thời đại Mới, những Dấu hiệu
của Thời Vị lai, kẻ nào mưu t́m sự hợp tác với tương lai chứ không nô lệ cho
thành kiến và tập quán th́ phải nghiên cứu kỹ lưỡng những quyển này.
Adyar,
GEORGE S.
ARUNDALE
MỤC LỤC
CHƯƠNG
I.
Việc ban ra các giáo huấn
II.
Lời nói đầu của Alcyone
III.
Những đức tính cần có để làm đệ tử
IV.
Có
thời gian để đạt được sự Hoàn hảo
V.
Cuộc đời thật là linh hoạt
VI.
Rèn luyện Thể Xác
VII.
Thể
Vía và Thể Trí
VIII.
Những
Định luật Ẩn tàng trong Thiên nhiên
IX.
“Một chuyện nhỏ”
X.
Phụng sự để Giáo dục
XI.
Phân
biện
XII.
Vô
dục
XIII.
Vô
dục (hết)
XIV.
Sáu
điều về hạnh kiểm
XV.
Sáu điều về hạnh kiểm (tiếp theo)
XVI.
Sáu điều về hạnh kiểm (tiếp theo)
XVII.
Sáu điều về hạnh kiểm (tiếp theo)
XVIII.
Sáu điều về hạnh kiểm (hết)
XIX.
T́nh thương
XX.
Những Tội ác chống lại T́nh thương
XXI.
Những sự Trắc nghiệm về T́nh thương
XXII.
Sự Tăng trưởng T́nh thương
XXIII.
T́nh thương và Phụng sự
XXIV.
KẾT LUẬN
CHƯƠNG I
VIỆC BAN RA CÁC GIÁO HUẤN
Xét về nhiều mặt th́
quyển sách nhỏ mà chúng ta sắp cùng nhau nghiên cứu là tác phẩm quan trọng
nhất mà thế gian đă nhận được trong hàng trăm năm nay v́ những lời lẽ được
thốt ra từ một bậc Đạo sư đầy uy quyền mà thế giới đă từng biết là Pythagore
và một số trong chúng ta biết đó là Thánh sư Koot Hoomi mà kho tài liệu
Thông Thiên Học gọi Ngài là Chơn sư K. H. Tôi cho rằng bạn hiển nhiên đă
biết các Chơn sư là ai – nếu không th́ bạn ắt t́m được nhiều thông tin qua
những quyển sách như Các Bậc Đại Đạo
Sư của Herbert Whyte, và Chơn sư
và con Đường dẫn tới các Ngài của bà Besant. Ta hăy thử xem những giáo
huấn này được áp dụng ra sao để cho ta có thể tuân theo chúng một cách thông
minh.
Trong Lời nói đầu bà
Besant có viết: “Giáo huấn được Chơn sư ban cho em để chuẩn bị cho em được
Điểm đạo”. Ở đây có nhiều thắc mắc: Giáo huấn được ban cho em ra sao ? Giáo
huấn được ban cho em ở đâu ? Điểm đạo là ǵ ?
GIÁO HUẤN ĐƯỢC BAN RA SAO
Thắc mắc 1.
Có lẽ bạn biết rằng một số người hoàn toàn có thể hữu dụng trên cơi trung
giới – tôi xin dành việc giải thích thuật ngữ này cho một người bạn nào đó
nếu bạn đọc không hiểu thuật ngữ này – và cố gắng trợ giúp vào mọi việc tốt
lành đến mức tối đa. Nhiều người trong các bạn đang đọc các ḍng này có lẽ
sẽ giúp đỡ được rất nhiều khi thể xác đang yên ngủ, và thể vía là hiện thể
mà nhất thời bạn đang sống và hoạt động trong đó. Nhưng cũng có nhiều điều
cần phải học cũng như viêc giúp đỡ và nhiều người c̣n trẻ - tức là những
người chưa tiến bộ nhiều – tụ tập xung quanh một người tiên tiến hơn và học
hỏi nhiều điều chẳng những hữu dụng cho họ trên cơi trung giới mà c̣n hữu
dụng trên cơi trần nữa. Đến lượt những bậc lăo thành này ngồi dưới chân [một
cách diễn tả bóng bẩy để chỉ “sự học tập” và ở Đông phương th́ nó đúng theo
sát nghĩa] một người nào đó c̣n biết nhiều hơn nữa, trong khi một số ít
người lại nhận được giáo huấn của chính các Chơn sư.
Thế mà Alcyone – tên này
được dùng để ghi dấu linh hồn tách biệt với đủ thứ hạ thể mà linh hồn đă
khoác lấy từ kiếp này sang kiếp khác – là một trong những bậc lăo thành, “quả
thật là cái xác c̣n trẻ nhưng phần Hồn th́ không trẻ” theo như bà Besant nói
với chúng ta trong Lời nói đầu. V́ đă nổi bật lên do có một số phận đặc biệt
cho nên ông được đặc quyền tiếp nhận giáo huấn trực tiếp của Chơn sư. Chơn
sư bảo ông mỗi sáng viết lại những câu tóm tắt và diễn tả những giáo huấn mà
ông đă nhận được trong đêm. Alcyone ở vào một vị thế đặc biệt v́ ông đă là
đệ tử của Chơn sư rồi khi bắt đầu có những giáo huấn đặc thù này; do đó
chúng dự tính giúp cho ông nhanh chóng đạt tới giai đoạn kế tiếp trong cuộc
hành hương tâm linh của ḿnh, tức là được Điểm đạo. Ta nên lưu ư rằng ngôn
từ ở đây rất đơn giản, v́ trong trường hợp này Chơn sư ngỏ lời với một bộ óc
phàm vẫn c̣n rất non nớt và như vậy Ngài phải cẩn thận nói ra những lời lẽ
sao cho bộ óc non nớt đó có thể nhớ được và hiểu được vào ngày hôm sau. Thật
vậy, mỗi câu nói đều cực kỳ trong sáng v́ lúc bấy giờ Alcyone không biết
nhiều tiếng Anh – giáo huấn được ban ra vào mùa thu và mùa đông năm 1909 –
và chỉ được dạy rất ít trong một buổi học, một phần để cho ông có thể nhớ
lại tất cả những điều được nói ra và một phần để cho ông có thể thực hành
mọi lời gợi ư khi nó đă được đưa ra. Dĩ nhiên ông biết nhiều hơn khi ở ngoài
thể xác; nhưng mỗi hiện thể đều là một sự hạn chế cho hiện thể ngay bên trên
ḿnh (có lẽ tôi nên nói là làm bằng vật chất ít thô trược hơn, v́ không có “trên”
hoặc “dưới”) và giáo huấn phải được thích ứng với nhu cầu của các hạ thể sao
cho người ta có thể kiểm soát hoàn toàn được chúng.
Tôi cũng chẳng biết liệu
thể xác của Chơn sư có đang yên ngủ hay chăng khi Ngài ban ra các giáo huấn.
Có lẽ Chơn sư đi nghỉ sớm v́ Ngài có thể sử dụng mọi hạ thể của ḿnh một
cách hoàn hảo, và do đó hoạt động bên ngoài thể xác cũng dễ dàng như vậy, có
lẽ c̣n dễ dàng hơn v́ vật chất của các thể khác ít thô trược hơn. Bởi
Alcyone không ở ngay tại nhà Chơn sư có lẽ măi cho tới 9 tuổi hoặc ngay cả
lúc sau này, cho nên nếu vậy th́ giáo huấn ắt do Chơn sư ban ra khi Ngài ở
trong một thể tinh vi và cố nhiên là Alcyone nhận được trong thể vía, nghĩa
là ở trên cơi trung giới. Mặt khác, có thể có những dịp mà Chơn sư vẫn c̣n
dùng thể xác; trong trường hợp này bạn có thể tưởng tượng là Ngài ngồi trong
một cái ghế bành lớn ở gian pḥng rộng răi nơi Ngài thường tiếp khách hoặc
có lẽ ở trong pḥng nghiên cứu của Ngài ngay kế bên; Alcyone đă nhận được
giáo huấn “dưới chơn Ngài”. Đối với Chơn sư, Ngài có thể tiếp cận với mọi
cơi như nhau và mặc dù Ngài đang tỉnh thức trong thể xác th́ Ngài vẫn có thể
nh́n thấy và nói chuyện với Alcyone trong thể vía cũng giống như Ngài có thể
nh́n thấy và nói chuyện với bất cứ người nào trên cơi trần. Có lẽ Ngài đă
rút sự chú ư của ḿnh ra khỏi cơi trần để chuyển sang cơi trung giới cùng
lúc với việc Ngài vận dụng các giác quan của thể tinh vi. Lúc bấy giờ các
vật thể trên cơi trần không c̣n là tụ điểm chú ư nữa cũng như các vật ở gần
dường như mờ đi khi ta chăm chú nh́n các vật ở xa. Có lẽ Chơn sư không cảm
thấy sự mờ đi đối với những sự vật mà Ngài không trực tiếp nh́n vào, tôi
cũng chẳng biết nữa. Dù sao th́ Alcyone trong thể vía cũng có thực đối với
Ngài – có lẽ c̣n có thực hơn – giống như bất kỳ vật thể trên cơi trần nào ở
gần Ngài, chẳng hạn như chiếc ghế trường kỷ hoặc cái bàn; và Ngài nói chuyện
với đệ tử bằng cách dùng cơi trung giới làm phương tiện truyền tải lời nói
của ḿnh.
GIÁO HUẤN ĐƯỢC BAN RA Ở ĐÂU
Thắc mắc 2.
Tôi đă nói với bạn rằng giáo huấn có lẽ đươc ban ra tại nhà Chơn sư ở Tây
Tạng. Nếu bạn giở bản đồ Á châu ra rồi t́m xem xứ Tây Tạng ở phía Bắc rặng
núi Hi Mă Lạp Sơn vĩ đại th́ bạn có thể thấy tên của một thị trấn được gọi
là Shigatse. Chơn sư sống trong thể xác ở lân cận thị trấn này, c̣n Alcyone
sống ngay tại miền Nam Ấn Độ ở Adyar, rất gần Madras, cho nên khó ḷng mà
nhận được giáo huấn khi ở trong thể xác. Adyar là một làng với đặc điểm
chính yếu là có Tổng Hành Dinh của Hội Thông Thiên Học – tọa lạc trên một
miếng đất rộng quay mặt ra biển và nằm ven sông Adyar. Tổng Hành Dinh này có
một dinh thự đẹp đẽ bao gồm những căn pḥng dành cho những người làm việc
khác nhau, ở tầng một có chỗ ở của Hội Trưởng Quốc tế Hội Thông Thiên Học
cùng với một vài pḥng khác được dành cho đủ thứ thành viên của các vị chức
sắc thuộc Tổng Hành Dinh. Alcyone và em của ḿnh sống gần pḥng của bà
Besant, cách xa căn pḥng lớn của ông Leadbeater; xuất phát từ đó hết đêm
này sang đêm kia khi xác phàm đang yên ngủ th́ chủ nhân ông của chúng lại
giương buồm bay tới những đỉnh cao đầy tuyết phủ thuộc rặng Hi Mă Lạp Sơn
đến tận nhà Chơn sư – đây là một cụôc hành tŕnh dài mà nếu xác phàm đi du
hành th́ phải mất nhiều ngày, nhưng đối với các cư dân trên cơi trung giới
th́ hầu như chỉ nghĩ là đến nơi rồi. Chắc chắn là các nhà du hành của chúng
ta cũng dừng chân dọc đường để ngắm nghía phong cảnh hoặc có lẽ giúp đỡ một
người nào đó đang gặp hoạn nạn, nhưng họ không được phép đến nhà Chơn sư trễ
v́ Ngài rất bận rộn và chúng ta không được phép làm phiền Ngài v́ lỗi bất
cẩn như thế. Có lẽ giáo huấn cũng không mất thời gian nhiều lắm – chỉ khoảng
chừng mười lăm phút thôi; như vậy khi cuộc hội họp đă xong rồi th́ phần c̣n
lại trong đêm ắt đầy ắp đủ thứ kinh nghiệm hữu ích để rèn luyện thể vía và
các hạ thể khác của Alcyone cho công việc tương lai. Vào khoảng năm giờ rưởi
sáng chủ nhân ông đă phải đánh thức thể xác dậy rồi; sau khi tắm rửa, ăn
uống rồi tập thể dục và học hành, Alcyone bèn đi tới pḥng bà Besant ngồi
vào một cái bàn đặt ở hành lang. Ở đó ông đích thân viết ra rất kỹ lưỡng
những ǵ mà Chơn sư đă dạy cho ông, Chơn sư đă tổng kết chỉ trong một câu
cốt lơi của bài giáo huấn một khắc đồng hồ. Vậy là quyển
Dưới Chơn Thầy đă dần dần được
viết ra; phần lớn là sao chép lại lời của chính Chơn Sư; đúng ra th́ không
sao chép nguyên văn mà là tư tưởng của Chơn sư được thể hiện qua lời lẽ của
đệ tử.
ĐIỂM ĐẠO LÀ G̀
Thắc mắc thứ 3.
“Chuẩn bị cho em được Điểm đạo”. Điều này có nghĩa là ǵ ? Được thôi, chúng
ta phải bắt đầu lùi lại một chút nếu chúng ta muốn hiểu Điểm đạo nghĩa là ǵ.
Tôi hi vọng rằng tất cả các bạn đều biết “chơn ngă” của chúng ta (ẩn sau các
hiện thể mà chúng ta ngẫu nhiên sử dụng trong kiếp đặc biệt này) là các điểm
linh quang bất tử của ngọn lửa Thượng Đế và mỗi điểm linh quang nho nhỏ đó (vốn
là một người trong chúng ta) đă trải qua các giới khoáng vật, thực vật và
động vật trước khi nhập vào giới nhân loại mà chúng ta hiện nay thuộc vào nó.
Trong những thời kỳ sơ khai cách đây hàng triệu năm và ở trên trái đất này,
các điểm linh quang nhờ đó không tách rời khỏi nhau như t́nh trạng hiện nay
trong giới nhân loại. Chúng không “hữu ngă thức” (tạm dùng một từ khó hiểu)
hoặc linh hoạt đối với thế giới xung quanh. Trong giới khoáng vật, các điểm
linh quang nho nhỏ này hầu như không thức tỉnh ǵ hết. Tuy nhiên, trong giới
thực vật chúng đă bớt yên ngủ hơn; c̣n trong giới động vật th́ chúng thực sự
bắt đầu ngọ ngoạy. Các điểm linh quang có thể bắt đầu sống kiếp tồn tại
riêng biệt thay v́ bằng ḷng như trước kia chịu chia xẻ kinh nghiệm với các
điểm linh quang anh em và sống một cuộc sống chung. Có lẽ bạn đă nhận thấy
rằng trong khi hầu hết những con thú thuộc một loài đặc biệt có nhiều đặc
điểm chung th́ một số lại có những cá tính của riêng ḿnh. Đây là sự khởi
đầu của con đường đưa chúng trực tiếp tới giới nhân loại và sẽ tới một lúc
có trường hợp một con thú bắt đầu sống dứt khoát cuộc đời của riêng ḿnh đến
nỗi mà điểm linh quang ngự trong đó cuối cùng bứt ra khỏi các điểm linh
quang đồng loại, và nói theo kiểu Thông Thiên Học th́ đă “biệt lập ngă tính”
nghĩa là nhập vào giới nhân loại.
BƯỚC MỘT
Thế
mà sự
biệt
lập
ngă tính này lại
là
bước
lớn
lao đầu
tiên của
điểm
linh quang trên con đường
thực chứng
được
thiên tính
thực
sự
nghĩa
là ǵ. Linh hồn đă tiến bước dứt khoát đầu tiên trên con đường dẫn tới sự
hoàn hảo khi có thể nói là nó băng qua cây cầu dẫn từ giới động vật sang
giới nhân loại, cây cầu này dứt khoát ngăn cách sự tồn tại cá thể với một sự
tồn tại ít nhiều hữu thức chia xẻ chung với các linh hồn khác. Trong các
giới hạ đẳng của thiên nhiên, linh hồn được góp lại thành từng nhóm theo
chủng loại, và như tôi đă nói bước vĩ đại đầu tiên trên con đường tiến hóa
chính là trên giai đoạn tồn tại riêng biệt khi linh hồn trong giới động vật
nhập vào giới nhân loaị.
BƯỚC HAI
Bước vĩ đại thứ nh́ xảy
ra khi con người cuối cùng bắt đầu phát triển được dứt khoát ư thức đúng và
sai, và nhận ra được (cho dù rất lờ mờ) rằng không được làm điều sai và phải
tuân theo điều đúng. Ta có thể gọi điều này là sự chớm nở của lương tâm trải
qua biết bao nhiêu giai đoạn kinh nghiệm khi hạnh phúc nối tiếp hành động ít
ích kỷ hơn c̣n đau khổ nối tiếp hành động nhiều ích kỷ hơn. Cuối cùng th́ cá
nhân bắt đầu nhận ra được rằng ḿnh không chỉ sống cho riêng ḿnh, và Thượng
Đế nội tâm y hoan hỉ chứng kiến một hiện thể dần dần thích ứng với sự hài
ḥa thiêng liêng. Cuộc chiến tuyệt nhiên không dứt khoát hẳn. Thật vậy nó
chỉ mới bắt đầu, nhưng gương mặt con người đă xoay về phía mục tiêu và cuối
cùng th́ bản chất cao thượng bắt đầu nhận được sự đáp ứng hữu thức để rèn
luyện và uốn nắn những lớp vỏ bên dưới sao cho cả hai đều trở thành những
công cụ tốt hơn trong thiên cơ của Đấng là Chúa tể thế gian.
Mỗi một trong các bước
này đều là một sự bành trướng tâm thức - từ mức chẳng qua chỉ là một tế bào
vô ư thức trong cơ thể Thượng Đế - linh hồn bắt đầu thức tỉnh và tiến những
bước dứt khoát đầu tiên hướng về việc trở thành một vị Thượng Đế; và đây
chính là mục đích của Thượng Đế khi ban rải ngă thức cho mỗi bộ phận thuộc
cơ thể của Ngài chính là Ngài.
BƯỚC BA - ĐIỂM ĐẠO
Thế mà Điểm đạo là bước
lớn thứ ba - một sự bành trướng lớn khác của tâm thức, một sự tăng trưởng
thêm nữa của linh hồn. Như ta đă thấy bước lớn thứ nh́ là sự thức tỉnh của
lương tâm. Nhưng lương tâm phải dứt khoát được xác lập là yếu tố chiếm ưu
thế trong bản chất con người và y c̣n phải học cách nhận ra được rằng trong
khi bản năng sinh tồn có thể là một định luật cần thiết ở một giai đoạn nào
đó th́ sự xả thân mới là kẻ dẫn dắt duy nhất đúng đắn đối với linh hồn nào
tha thiết muốn tự biết ḿnh là thiêng liêng. Thật vậy, trong khi lương tâm
đă dứt khoát thức tỉnh th́ cá nhân vẫn c̣n phải thực hiện được những quyền
năng của chính ḿnh, c̣n phải tự khẳng định và nhất thời phải tập trung vào
bản thân và sự tăng trưởng cá nhân. Nói cách khác, y phải thực hành lương
tâm theo đủ mọi kiểu. Nếu mượn lời của ông Leadbeater th́ y phải trở nên
“tâm điểm của ṿng tṛn ḿnh”, phải học được những quyền năng của các hạ thể
cũng như các hạn chế của chúng, và ứng dụng lương tâm để sử dụng chúng. Cuối
cùng th́ dần dần đủ thứ năng lực của y cũng phát triển được và dần dần y đạt
đến kết luận rằng sự xả thân mang lại hạnh phúc lâu bền hơn việc tự tư tự
lợi, y bắt đầu sống v́ mọi người thay v́ trông mong mọi người sống v́ ḿnh.
Thỉnh thoảng th́ y chắc chắn là cũng sa vào một cách sinh hoạt ích kỷ hơn,
nhưng sự vị tha bắt đầu chiếm ưu thế so với ḷng ích kỷ; và khi các Chơn sư
thấy rằng về lâu về dài không có điều ǵ ảnh hưởng tới quyết tâm phụng sự
thế gian của y th́ một trong các Chơn sư (Ngài đă theo dơi người này qua
nhiều kiếp sống) quyết định ban cho y sự giáo huấn đặc biệt để cho y có thể
nhanh chóng được thêm quyền năng giúp đời.
GIAI ĐOẠN LÀM ĐỆ TỬ
Bấy giờ cá nhân nhập vào tập sự trong đạo tràng của một Chơn sư đặc biệt và
bắt đầu một loạt kiếp sống rất cực nhọc nhưng rất hữu ích. Có lẽ bạn biết
rằng sự cai trị thế giới nằm trong một huyền giai các Đấng nhiều Quyền năng
mà chúng tôi gọi là Quần Tiên Hội (huyền giai được dùng theo nghĩa của Hội
Tam Điểm tức là một hội đoàn huynh đệ có tổ chức) đứng đầu huyền giai này là
Đấng Chủ Tể thế gian và xung quanh Ngài có tập hợp các Chức sắc, một số đóng
vai tṛ nhà tổ chức, nhà cai trị cầm đầu các giống dân trên thế giới, một số
đóng vai các bậc đạo sư của các tôn giáo, những người khác dẫn dắt đủ thứ
lục địa và quốc gia, những người khác ảnh hưởng tới các chủng loại phi nhân
loại chẳng hạn như Chư thiên và các Thiên thần, c̣n những người khác đóng
vai trợ tá cho các Đấng Cao Cả và chuẩn bị thế chỗ cho các Ngài khi các Ngài
chuyển sang công tác c̣n cao hơn nữa. Thế mà hầu hết các người trẻ như bạn
đều thuộc về một trong các bộ môn này của chính quyền thế giới, và một Chơn
sư nào đó đă để mắt tới bạn, tạm thời giám sát khi trong thâm tâm bạn dự
tính hiến ḿnh để phụng sự thế gian và cho thấy những dấu hiệu tha thiết
không thể nhầm lẫn được. Chẳng hạn như Alcyone thuộc về bộ môn giáo huấn và
một ngày kia sẽ trở thành một bậc đại đạo sư trong tôn giáo. V́ vậy, Chơn sư
dạy dỗ y, chính Ngài cũng là một bậc Đạo sư đầy quyền lực với sứ mệnh là bậc
tiền bối của Alcyone trong chức vụ lớn lao thuộc bộ môn giáo huấn. Cũng như
những người muốn làm kỹ sư phải thực tập về kỹ thuật để được rèn luyện bởi
kỹ sư có năng lực hoàn toàn; cũng vậy trong những nghề nghiệp thực sự của
cuộc sống có thể sẵn có việc rèn luyện có tính cách hợp khoa học hơn nữa; và
Chơn sư Koot Hoomi sẽ rèn luyện Alcyone để làm tṛn hoàn toàn sứ mệnh mà ông
được hiệu triệu. Việc rèn luyện này có những giai đoạn nhất định – giai đoạn
đầu khi Chơn sư quyết tâm nhận để cho học tṛ có thể được thử thách; giai
đoạn này được gọi là giai đoạn đệ tử dự bị. Khi thành công vượt qua giai
đoạn dự bị hoặc thử thách (dài hay ngắn tùy theo hoàn cảnh) th́ đệ tử được
dứt khoát đăng kư là thành viên thuộc đạo tràng của Chơn Sư và trở thành một
đệ tử thực thụ. Rất thường khi phải trải qua nhiều năm (bảy hoặc thậm chí
nhiều hơn nữa) trước khi một ứng viên đạt tới giai đoạn thứ nh́, nhưng trong
những kiếp trước Alcyone đă thỏa măn được Chơn sư về điều kiện thích hợp làm
đệ tử Ngài cho nên trong trường hợp này hai giai đoạn đó cùng với giai đoạn
thứ ba (Con của Chơn sư; một mối quan hệ đặc biệt mật thiết) được trải qua
trong ṿng có một vài tháng, và tiếp theo đó là cuộc Điểm đạo của ông ngày
11 tháng giêng năm 1910. Vậy th́ đạo tràng của Chơn sư có mục đích chuẩn bị
đệ tử cho việc phụng sự thế gian và nó tồn tại một phần để rèn luyện đệ tử
về mặt tự chủ và thanh khiết sao cho họ có thể được tiến cử làm ứng viên
nhận vào hàng ngũ thấp nhất của Quần Tiên Hội. Việc thâu nhận này là giai
đoạn lớn thứ ba trên con đường tiến hóa – tôi hi vọng rằng bạn c̣n nhớ hai
giai đoạn kia - và nó được gọi
là Điểm đạo, v́ chẳng những nó có nghĩa là việc ứng viên được phê chuẩn gia
nhập vào một hội đoàn huynh đệ có tổ chức với đủ mọi hàm ư (tức là nghi lễ
điểm đạo của Hội Tam Điểm) mà c̣n là v́ trong buổi lễ đó ứng viên lần đầu
tiên được tiếp xúc với một vài sự thật lớn trong cuộc đời mà cho tới lúc đó
y chỉ lờ mờ cảm nhận được. Y đă biết sự thật này bằng cái trí từ lâu rồi và
từ lâu rồi y đă phấn đấu để thực hành chúng; nhưng măi đến lúc có lễ Điểm
đạo th́ y mới cảm thấy chúng là những qui luật trong bản chất ḿnh và y mới
trải nghiệm chúng là những thực tại sống động. Tâm thức của y, sự tiếp xúc
của y với Thượng Đế mở rộng ra và sự thật vốn ở ngoài y (cho dù y nhận thức
được chúng bằng cái trí nhiều đến đâu đi nữa) giờ đây trở thành một phần của
chính bản thể y và y chẳng bao giờ c̣n có thể suy nghĩ, cảm nhận hoặc hành
động như thể chúng ở bên ngoài y nữa.
SỰ MỞ RỘNG TÂM THỨC
Hãy tưởng tượng có một vòng tròn bao trùm mọi điều mà bạn đang
là và đang biết.
Hăy tưởng tượng có nhiều kiến thức ở bên ngoài bản thân bạn và
thường xuyên có một áp lực từ bên trong vòng tròn muốn bao gồm
kiến
thức
ở bên ngoài. Ở nhiều chỗ, vòng tròn mở rộng ra nhằm cố gắng
tiếp xúc với những sự thật vượt ngoài nó. Sau một thời gian, một
sự thật nào đó ở bên ngoài (vốn đã được tiếp xúc một cách kiên
trì) bị rút vào bên trong vòng tròn và vòng tròn tăng trưởng kích
thước của mình qua số lượng kiến thức mà nó thu thập được. Có
thể nói rằng Điểm
đạo
là lúc mà một số sự thật đặc biệt (nhất là định luật nhất
nguyên) chuyển vào bên trong vòng tròn. Cho tới lúc đó thì người ta
chỉ chấp nhận sự thật, chỉ thừa nhận sự tồn tại của chúng. Từ
nay trở đi người ta nhận ra được rằng sự thật là một phần của
chính tâm thức.
GIÁ TRỊ CỦA ĐIỂM ĐẠO
Nói cho chính xác thì tôi xin nhận xét rằng mục đích của Điểm
đạo
là ban cho người được Điểm
đạo
khả năng phụng sự, một phần là do có thêm những sự thật, một
phần là do sự kiện cá nhân giờ
đây đã là một thành viên của Quần Tiên Hội, và chia
xẻ
quyền năng mà sự thống nhất của Quần Tiên Hội sản sinh ra cho mọi
người cùng dùng. Từ “Điểm
đạo”
mà quyển Dưới Chơn Thầy dùng
có nghĩa là được nhận làm thành viên thuộc hàng thấp nhất trong
Huyền giai cai trị thế giới, hàng ngũ này trải dài lên trên cho
tới địa vị duy nhất cao chót vót của Đấng Chúa Tể thế gian. Mỗi
cấp lại ngăn cách với cấp bên dưới mình do có kiến thức sâu sắc
và khả năng phụng sự vị tha hơn, việc được đề bạt từ cấp thấp
lên cấp cao kế tiếp tùy thuộc vào việc có chứng tỏ được chăng
sự xả thân trong thế giới loài người vì nhu cầu của những người
khác. Điểm
đạo
là sự mở rộng tâm thức vĩ đại thứ ba; ở đây mở rộng có nghĩa
là tâm thức cá thể càng ngày càng nhận ra được tính đơn nhất của
mọi sự sống, và Thượng Đế bên
trong
chúng ta đồng nhất với Thượng Đế bên ngoài. Chính trong buổi lễ
đó, Chơn
sư
tiến dẫn đệ tử mình để được thâu nhận vì trước đó Ngài đã hài
lòng với công quả của đệ tử, và ứng viên được phê chuẩn nhập vào
Hội đoàn Huynh đệ từ nay chính thức hiến mình cho những đời sống
để trợ giúp thế gian. Bạn ắt để ý thấy rằng trong Lời nói đầu
của bà Besant gọi Alcyone là “em” và bạn phải nhớ rằng bà cố
tình dùng từ này để đánh dấu mối quan hệ đặc biệt của họ, cả
hai đều là Huynh đệ (không phân biệt giới tính) trong một Hội đoàn
Huynh đệ duy nhất.
MỤC ĐÍCH CỦA ĐIỂM ĐẠO
Người ta thường thắc mắc tại sao
cần phải trải qua lễ Điểm đạo. Lễ Điểm đạo có làm tăng khả năng phụng sự của
ta về mặt nào chăng ? Thật vậy, tôi tưởng tượng rằng nhờ vào một quá tŕnh
tăng trưởng rất chậm chạp, loài người nói chung cũng đạt tới những kết quả
giống vậy mà không phải trải qua bất kỳ lễ Điểm đạo nào, họ hầu như trôi nổi
một cách vô ư thức cái bước thứ ba này. Nhưng một số người tha thiết muốn
đẩy nhanh cái điều mà bằng không th́ y phải mất nhiều thời gian, và họ tuân
chịu điều có thể được gọi là một loại tăng trưởng cưỡng bức sao cho họ có
thể hoàn tất trong ṿng một vài kiếp điều vẫn thường phải trải ra trong
nhiều kiếp. Muốn vậy phải làm việc rất khó nhọc trong đạo tràng của Chơn sư
và học viên cần phải được giúp đỡ nhiều. V́ sự tha thiết tiến bộ hoàn toàn
có tính cách vị tha cho nên sau khi được rèn luyện một thời gian, Chơn sư
chỉ cho học viên cách vận dụng những quyền năng mà thông thường chỉ đến với
y măi về sau này. Sự thanh khiết trong cuộc sống và giới luật tự giác cộng
thêm với giáo huấn nhất định của Chơn sư chứng nhận ban cho y tŕnh độ tâm
linh đủ để tiếp nhận các quyền năng nhất định, và những quyền năng này được
một bậc đại diện của Đấng Duy Nhất (vận mệnh của chúng ta nằm trong tay
Ngài) giải thích cho y trong lễ Điểm đạo. Lễ Điểm đạo là một cuộc khảo thí
chính thức chứng tỏ ứng viên đă đủ thích ứng để vận dụng những quyền năng
mới được ban cho y để y có thể pḥ trợ tốt hơn cho thế giới loài người.
Những quyền năng này không thông dụng trong thời kỳ thế giới đang sống hiện
nay, và nếu cá nhân nào muốn nhận được chúng th́ y phải tỏ ra là ḿnh thích
hợp trước mặt các Đấng mà chỉ có Ngài mới có thể ban cấp quyền năng trước
thời hạn b́nh thường.
“DÀNH CHO NGƯỜI GƠ CỬA”
Xin bạn cũng vui ḷng để
ư bà Besant viết “Cánh Cửa lớn” đă mở ra như thế nào để tiếp đón huynh đệ
mới, và về vấn đề này, bạn xem cụm từ có trước Lời nói đầu: “Dành cho những
kẻ gơ cửa”. Người ta tin rằng Huyền giai Chánh đạo – “chánh đạo” v́ chánh
đạo là biểu tượng của thanh khiết và thánh linh – là một Đền thờ của Minh
triết, người ta nhập vào đó qua “Cánh Cửa lớn”, cánh cửa này “mở ra cho
những kẻ gơ cửa” vớí tinh thần là tha thiết yêu thương thế gian mà ḿnh sống
trong đó, sẵn ḷng tha thiết dùng quyền lực của ḿnh v́ ích lợi của người
khác, và khiêm tốn biết ơn các bậc đă chiếu cố dẫn dắt ḿnh đạt được sự lợi
ích lớn lao hơn và t́nh thương tuyệt mỹ hơn.
SỐNG THEO GIÁO HUẤN
Thế th́ Điểm đạo là bước
thứ ba, bước mà tôi hi vọng rằng giờ đây nhiều người trong số bạn đang tới
gần. Ta đạt tới một bước tiến khác khi một Huynh đệ chuyển từ giới nhân loại
sang giới siêu nhân loại, cơi giới của các Con Người toàn bích, đạt được sự
mở rộng liên quan tới cuộc Điểm đạo thứ năm - cuộc Điểm đạo được đề cập
trong quyển Dưới Chơn Thầy là
Điểm đạo thứ nhất – và trở thành một Chơn sư, Người đă học hết mọi điều mà
thế gian này có thể dạy được. Tuy nhiên chúng ta không cần xét tới bước này.
Có đủ giáo huấn thích hợp để cho Alcyone được nhận vào Quần Tiên Hội và theo
lệnh của Đức Chưởng Giáo ban ra cho bạn. Chúng ta đă có quá đủ đặc quyền để
biết ta phải sống ra sao nếu ta muốn trở thành một người trong nhóm người
phụng sự và pḥ trợ này. Nhưng bà Besant có nói rằng: Giáo huấn chỉ có ích
lợi nếu ta sống theo nó cũng như
em đă sống theo nó từ khi Chơn sư thốt ra lời giáo huấn đó”. Như vậy, giờ
đây ta phải thử xem giáo huấn này là ǵ, làm thế nào mà chúng ta áp dụng
được nó vào đời sống hằng ngày. Để khích lệ, nên nhớ rằng người ta không
trông mong chúng ta sống hoàn toàn theo giáo huấn – muốn làm được như vậy
th́ cần phải có linh hồn của chính Chơn sư. Nhưng có cố gắng th́ mới đo
lường được thành công, và trên đời này chẳng có điều ǵ mà ta không thể thử
cố gắng làm được. Những người c̣n trẻ ở nhiều nơi trên thế giới đang cố gắng
khó nhọc và một số đă được nhận vào đạo tràng của Chơn sư. Đức Chưởng Giáo
cần nhiều người giúp việc cho Ngài trên thế gian. Liệu bạn có cố gắng hữu
ích cho Ngài bằng cách tự rèn luyện trước để cho khi Ngài giáng lâm Ngài có
thể t́m được một nhóm hành giả có giới luật sẵn sàng đi tới bất cứ nơi đâu
và làm bất cứ điều ǵ; một nhóm người chẳng những sẵn ḷng trợ giúp Ngài mà
c̣n (điều này quan trọng hơn nhiều) có khả năng lăo luyện để trợ giúp nữa.
ĐIỀU CÓ THẬT VÀ ĐIỀU KHÔNG THẬT
Câu thơ tiếng Bắc phạn ở
trước Lời nói đầu hoặc Lời dẫn nhập của chính Alcyone có thể nói là đă tổng
kết được trọn cả giáo huấn mà bất kỳ Chơn sư nào cũng có thể ban ra cho đệ
tử. “Xin dẫn con từ điều không thật tới điều có thật”, đó là tiếng kêu than
của mọi kẻ tha thiết. Hơn bất kỳ điều nào khác, chúng ta muốn phân biệt giữa
điều chân thực và điều giả dối, giữa điều mang lại đau khổ và điều mang lại
vui sướng; và trong mỗi kiếp sống th́ những bài học mà chúng ta học được qua
sự đau khổ ắt dạy ta nhận ra một cách không sai lầm (và do đó vứt bỏ) những
tư tưởng, xúc cảm và hành động vốn thuộc về điều không có thật, thuộc về
điều ngăn cách ta với tri thức về Thượng Đế. Điều không có thật là điều
không lâu bền, đó là cái h́nh tướng che khuất linh hồn và nếu ta có thể phân
biệt rơ hơn chơn ngă với những lớp vỏ của nó th́ thế gian này ắt bớt đi rất
nhiều sự bất hạnh. Chẳng những phải biết nó bằng cái trí mà ta c̣n phải biết
nó bằng tâm hồn. Hầu hết chúng ta biết bằng cái trí rằng thể xác chỉ là một
hinh hài tạm bợ mà linh hồn chọn dùng trong một kiếp đặc biệt, nhưng ta đă
gắn kết cái h́nh tướng đó với sự sống ở bên trong nhiều đến nỗi ta cảm thấy
ḿnh bị mất linh hồn khi cái h́nh tướng đó bị phân ly vào lúc chết. Như vậy
ta thấy ḿnh vẫn c̣n bị ràng buộc rất nhiều với điều không có thực cho dù
trên lư thuyết chúng ta có thể phân biệt nó với điều có thực đến mức nào đi
chăng nữa. Nhưng không phải v́ thế mà bạn lại nghĩ rằng điều không có thực
là vô dụng. Chính nhờ điều không có thực mà ta đạt được điều có thực, chúng
bộc lộ ra một cách rành rành hơn qua sự tương phản. Những ngôi sao chiếu
sáng bên trên ta cả ban ngày lẫn ban đêm, nhưng nhờ có sự tương phản trong
đêm đen cho nên ta mới có thể ngẩn ngơ nh́n đăm đăm vào sự rực rỡ của bầu
trời đầy sao.
Thế giới vật chất tương
ứng với đêm đen, c̣n linh hồn con người có thể ví với những ngôi sao. Khi
sống trong thế giới vật chất, do các h́nh tướng trong đó là vô thường, cho
nên ta mới học cách nhận ra được rằng có một điều ǵ đó vẫn thường trụ đằng
sau những h́nh tướng vô thường này. Khi sống giữa điều vô thường, điều không
có thực, ta bắt buộc phải t́m kiếm điều thường trụ, điều có thực, và mỗi
người trong chúng ta dần dần học cách hiểu ra được rằng mọi tâm trạng và xúc
cảm vô thường không phải là biểu lộ rốt ráo của chính ta. Cũng giống như cơ
thể của một đứa con nít không biểu hiện trọn vẹn được linh hồn bên trong. Cơ
thể đứa con nít tăng trưởng thành ra cơ thể của một thanh niên và cơ thể
thanh niên trở thành cơ thể một người trưởng thành. Đằng sau mỗi cơ thể,
linh hồn đều khẩn thiết muốn biểu hiện rốt ráo hơn nữa và đằng sau một tâm
trạng cũng như mỗi xúc cảm đều như thế cả. Tâm trạng này đi qua rồi lại tới
một tâm trạng khác và một tâm trạng khác nữa. Thế là linh hồn có thể nh́n
lại những tâm trạng đă qua đi và tự nhủ: “Tôi đâu phải là cái tâm trạng đó
v́ nó đă chết mất rồi mà tôi th́ vẫn c̣n sờ sờ ra đây”. Như vậy mục đích của
mọi giáo huấn là khám phá ra cái “chơn ngă” vẫn cứ c̣n măi đấy, và làm cách
nào để biểu hiện nó tốt nhất sao cho h́nh tướng là tấm gương phản chiếu trọn
vẹn linh hồn. Ngay cả lúc bấy giờ th́ h́nh tướng vẫn c̣n là không thực về
mọi điều che khuất linh hồn đều giống như một h́nh bóng phù du nhưng h́nh
tướng càng tinh vi th́ nó càng trường tồn, và ngay cả xác phàm thô trược
cũng tồn tại lâu hơn nếu các hạt cấu thành nó là thanh khiết. Thật vậy, nghe
nói các Chơn Sư đang c̣n dùng thể xác có thể khiến cho thể xác trường tồn
trong nhiều trăm năm nếu Ngài muốn, và điều này cho ta thấy rằng sự thanh
khiết có thực hơn sự ô trược v́ thể xác của chính chúng ta chẳng bao giờ tồn
tại được lâu như thế.
BÓNG TỐI VÀ ÁNH SÁNG
Ḍng thứ nh́ “Xin dắt
con từ bóng tối tới ánh sáng” cũng như ḍng thứ ba “Xin dẫn con từ sự chết
tới sự bất tử” đều là một dạng khác cũng của ư tưởng đó. Ta có thể coi từ “bóng
tối” là biểu tượng của vô minh, c̣n “ánh sáng” là dấu hiệu của minh triết,
cũng như mặt trời là cội nguồn của mọi sự sống. Tôi dùng từ “minh triết” chứ
không phải là “kiến thức” v́ kiến thức chẳng qua chỉ thuộc về cái trí, c̣n
minh triết là khoa học của tinh thần. “Xin dẫn con từ sự chết tới sự bất tử”
nghĩa là mong sao bản chất thấp hèn hăy qua đi để cho bản chất cao thượng
được chói sáng măi măi.
Cố nhiên ta có thể viết
nhiều hơn nữa để giải thích về câu thơ mỹ lệ này, nhưng tôi xin dành cho một
người bạn lăo thành minh giải bất kỳ điều nào khó hiểu.
CHƯƠNG II
LỜI NÓI ĐẦU CỦA ALCYONE
Bây giờ ta xét tới chính
Lời nói đầu và ngay trước tiên đă minh định rằng ḿnh chỉ chuyển giao giáo
huấn đă giúp cho ḿnh thành công khi gơ vào cánh cửa dẫn tới Đền thờ Điểm
đạo. [Ở đây tôi xin chú thích rằng nghi thức Điểm đạo thực sự diễn ra trong
một loại đền thờ, cho nên cách so sánh bóng gió này đúng theo nghĩa đen cũng
như nghĩa biểu tượng]. “Đây không phải là lời của tôi, đây là lời Chơn sư
dạy tôi”. Thế rồi tới điều mà tôi coi là một trong những câu quan trọng nhất
của trọn cả cuốn sách: “Nếu không có Ngài th́ tôi chẳng làm được ǵ, nhưng
nhờ có Ngài giúp đỡ tôi đă đặt chân trên Thánh đạo”. Nhiều người cứ triền
miên thắc mắc tại sao lại có nhiều hành giả vị tha và tha thiết dường như
vất vả ngày đêm, hết năm này qua năm khác, mà xét theo biểu kiến chẳng tiến
bộ ǵ hết. Chắc chắn là X hoặc Y hoặc Z, những người nào dường như thực hành
hoàn toàn giáo huấn trong quyển Dưới
Chơn Thầy đều có đặc biệt tiếp xúc với một Huynh trưởng nào đó, đều là
đệ tử của một Chơn sư nào đó, và đă là thành viên của Quần Tiên Hội. Thế mà
ta phải đương đầu với điều khó hiểu này một cách thẳng thắn. Chỉ nội ḷng
tốt thôi không đủ để nhận vào đạo tràng của Chơn sư bằng không th́ đạo tràng
đă có hàng trăm ngàn thành viên. Chỉ nội kiến thức không thôi (cho dù sâu
sắc đến đâu đi nữa) cũng không đủ, bằng không th́ mọi nhà khoa học hàng đầu
và các học giả lỗi lạc đều là đệ tử. Ngay cả sự tổ hợp ḷng tốt với kiến
thức cũng không đủ. Thế th́ đâu mới là tiêu chuẩn ? Chắc chắn là phải có một
cung bậc tâm linh dứt khoát và thành tích trong kiếp này hoặc trong những
kiếp đă qua, phải có cố gắng tận hiến cho nhu cầu của thế giới. Cũng phải có
một mức độ trí thức nào đó, không nhất thiết của một thiên tài, nhưng là của
một thiện nam tín nữ b́nh thường có giáo dục. Nhưng ngoài điều đó ra th́ c̣n
phải có những yếu tố minh triết thực sự, thực sự hiểu biết mục đích của cuộc
sống. Tôi không tự cho là ḿnh đề ra một tiêu chuẩn tổng quát mà dưới tiêu
chuẩn đó th́ Chơn sư không chịu tuyển sinh vào đạo tràng của Ngài, nhưng
theo như tôi được dạy dỗ th́ chẳng những phải nhận ra được thiên cơ tổng
quát của chính quyền thế giới mà c̣n phải chấp nhận cho các Huynh trưởng Dẫn
dắt và Dạy dỗ. Làm sao người ta gia nhập đạo tràng được nếu y không công
nhận là nó tồn tại ? Làm thế nào mà ta trông mong Chơn sư lại mất thời giờ
dạy những bài học sơ đẳng trong cuộc đời của những kẻ có thể học bài học đó
từ bậc lăo thành nhưng kém tiến hóa hơn chính các đại Đạo sư, những vị lăo
thành này ít ra cũng có đủ thông tin để truyền thụ giáo huấn cần thiết ?
Trong suốt nhiều cuộc đời của ḿnh nếu chúng ta học chưa hết những bài học
mà đời sống ở ngoại giới dạy ta được th́ ta chưa đủ tư cách để nhập vào thế
giới của Chơn sư tức thế giới của các thực tại mà trường đời của ta chỉ là
dự bị.
Alcyone tức khắc tuyên
bố rằng ḿnh thích đáng được nhận làm thành viên trong đạo tràng của Chơn sư
khi khẳng định nếu “không có Ngài th́ tôi chẳng làm được ǵ”. Chắc chắn là
nhiều người tin vào Đức Ki Tô, Shri Krishna, Đức Phật hoặc Muhammad, nhưng
hoặc là v́ họ tin tưởng để được một điều ǵ đáp lại chẳng hạn như được cứu
rỗi bản thân, hoặc là v́ họ coi ḷng sùng tín của ḿnh là một cột trụ vững
mạnh với chức năng chính yếu là che chở cho họ khỏi phô bày ra những lỗi lầm
v́ yếu kém. Nói cách khác, niềm tin của hầu hết mọi người đối với một trong
các Huynh trưởng đầy Quyền lực này dựa vào ḷng khao khát được cứu chuộc cá
nhân hơn là việc công nhận nếu các Đấng Cao Cả đạt được đến đâu th́ một ngày
kia chúng ta cũng đạt đến như thế khi chúng ta dần dần học được cách sống
cuộc đời của ḿnh giống như các Ngài sống cuộc đời của các Ngài trước khi
đạt tới đỉnh cao thành tựu hiện nay. Một số người đạo tâm bằng ḷng sống
cuộc đời bắt chước yếu ớt (song vẫn thành thật) gương mà Chúa của ḿnh nêu
ra, chẳng đ̣i hỏi điều ǵ cho bản thân và ban cho tất cả mọi người nào đang
cần bất chấp tín ngưỡng hoặc chủng tộc; những người đó đang tiến dần tới
giai đoạn đệ tử chính thức vốn xảy ra cho những kẻ phấn đấu mà không được ǵ
đền đáp lại, ngoại trừ t́nh yêu rộng lớn để sống cuộc đời đệ tử nơi ngoại
giới. [Tôi nghĩ rằng ḿnh nên nêu rơ việc dùng từ người có đạo tâm để chỉ
những kẻ gần tới giai đoạn làm đệ tử, nhưng không ngụ ư rằng đó là những mẫu
mực về đức hạnh. Ta chỉ đạt tới hàng ngũ đệ tử điểm đạo cao cấp bằng cách
thường xuyên thực hành mọi đức tính, nhưng ta có thể chuyển vào giai đoạn
làm đệ tử và bước qua cánh cửa Điểm đạo trong khi ứng viên vẫn c̣n lâu lắm
mới phô diễn thỏa đáng được cuộc sống toàn bích. Nếu bạn biết bất kỳ người
nào trong hàng ngũ những đệ tử cấp thấp th́ bạn ắt nhận thấy rằng tất cả đều
có nhiều nhược điểm, trong đó có một số người tuyệt nhiên không tuân theo
những tiêu chuẩn ứng xử theo qui ước của thế gian. Đệ tử phải có tâm trí
trong sáng, tâm hồn kính cẩn, bản chất yêu thương, thái độ khoan dung và tha
thiết với việc phụng sự của Chơn sư. Ngoài việc có được những tính cách này
đă phát triển ở một mức phải chăng c̣n phải có một quyền năng tương đối nổi
bật nào đó khiến cho y vượt lên trên mức b́nh thường nhằm hữu dụng cho Chơn
sư. Có lẽ y là một người phát ngôn tài ba, một văn sĩ lỗi lạc, một người
linh hứng, một nghệ sĩ tuyệt luân, một người chữa trị mát tay – có một sức
mạnh nào đó mà người ta có thể dùng để thu hút thiên hạ tiến gần hơn tới
thực tại. Thế rồi Nhân quả phải
thuận lợi v́ kẻ nào c̣n phải trả Nghiệp th́ kẻ đó c̣n có thể cản trở Chơn sư
rất nhiều qua việc sử dụng y. Chúng ta ắt không được hữu dụng lắm nếu chúng
ta phải mất quá nhiều thời giờ để trả nợ của riêng ḿnh. Nhưng sở trường ắt
cũng có thể là sở đoản, và trong khi đệ tử rất có thể đă tự làm chủ ḿnh
được th́ bạn ắt rất sai lầm khi nghĩ về người đệ tử nếu bạn tưởng tượng rằng
đó là một nhân cách tiêu cực hơn là một nhân cách tích cực, do đó có một bẩm
tính hơi xao động. Bạn không nên trông mong những đệ tử non nớt đă hoàn hảo,
nhưng chắc chắn bạn sẽ thấy y có một loại quyền năng nào đó]. Nhưng tất
nhiên người ta phải có những niềm tin khá vô minh đối với các Đại Đạo sư (cho
dù niềm tin đó thành thật đến đâu đi chăng nữa) trước khi ta có thể biết
được địa vị chân thực của các Ngài trong cuộc đời ta; và khi nhiều người
khép ḿnh không nhận nhiều sự linh hứng như thế mà bằng không họ có thể nhận
được th́ họ ắt tưởng tượng rằng bậc Đạo sư đặc biệt này là nguồn chân lư duy
nhất dành cho mọi người. Giữa phát biểu Đấng Ki Tô là Đấng Cứu Thế duy nhất
và sự hiểu biết là có nhiều Đấng Cứu Thế th́ phải có trọn cả một thời gian
phát triển cho đến khi nhờ kinh nghiệm mà ta học biết rằng có nhiều con
đường dẫn tới Thượng Đế, mỗi người đang đi theo con đường cũng thẳng bước
như con đường của ta mặc dù trên con đường của y th́ y có thể ở đằng sau ta,
đến lúc đó ta mới có quyền trợ giúp mỗi người đi theo con đường của riêng
ḿnh, đâu là điều kiện cần thiết để được nhận vào đạo tràng của Chơn sư. Chỉ
bằng ḷng tốt không thôi, chúng ta có thể lôi kéo những người khác đi theo
con đường của riêng chúng ta, nhưng đó là một ḷng tốt hẹp ḥi và vô minh;
đạo tràng của Chơn sư rèn luyện đệ tử để phụng sự và tôn vinh mọi tín
ngưỡng, giúp đỡ mỗi cá nhân đi theo con đường của riêng ḿnh phù hợp với kế
hoạch mà Thượng Đế ngự bên trong y đă vạch ra cho y.
VIỆC LEO LÊN CAO
Nếu bạn hiểu điều mà tôi
đă viết ra, th́ bạn ắt nhận thức được rằng một khi chúng ta bắt đầu thoáng
thấy được những nguyên lư chân thực của sự tiến hóa và biết rằng có nhiều
người ở phía trước chúng ta trên con đường sinh tồn cũng như nhiều người ở
phía sau chúng ta, th́ tự nhiên là chúng ta ắt trông mong được những bậc
hiểu biết hơn dẫn dắt ḿnh, chẳng phải để cho một ḿnh ta biết điều đó thôi,
mà để cho ta có thể giúp người khác nhiều hơn nữa. Ta phải phấn đấu khó nhọc
mới biết được sự thật, phải từ bỏ mọi điều mà thế gian quí chuộng miễn là sự
thật có thể soi sáng cho ta, ta phải bỏ đi những ràng buộc theo qui ước, vứt
bỏ những điều trong đó có ẩn tàng cốt tủy của tôn giáo mà chúng ta ngẫu
nhiên thuộc về. Khi đọc Tự Truyện
của bà Besant, ta thấy con đường dẫn bà đến các Chơn sư trắc trở và dốc đứng
biết là dường nào. Cuối cùng th́ chỉ bám lấy một quyết tâm son sắt nhằm
phụng sự thế gian đến mức tối đa, biết đến đâu th́ hiến dâng đến đó, bà đă
t́m ra con đường đến dưới chân của Chơn sư. Bà chỉ mong ước có quyền năng và
minh triết để bà có thể dùng chúng giúp cho người khác; khi không một sự
phiền năo hoặc thất vọng cá nhân nào ngăn cản bà khích lệ mọi người bằng
quyền năng bảo vệ những kẻ đang than khóc th́ cuối cùng bà tỏ ra ḿnh xứng
đáng với cái tri thức chân chính vốn chỉ được ban cho những kẻ nào không bao
giờ sử dụng nó cho bản thân ḿnh mà thôi. Bạn và tôi cũng như các bạn trẻ
phải trải qua trận chiến đấu như thế. Có lẽ sự phấn đấu sẽ không khó nhọc
đối với chúng ta giống như đối với bà, v́ bà đă đi cùng trời cuối đất để học
hết mọi điều mà trường đời dạy được, cho nên trong kiếp này, lần cuối cùng,
bà sống lại những nỗi gian khổ của việc con người leo lên trên chỉ nội trong
một thời gian ngắn vài năm trời. Có thể nói là bà đă ôn lại những bài học mà
ḿnh đă học được qua nhiều kiếp sống nơi trường đời sao cho khi đứng trước
mặt các Chơn sư bà đă tỏ ra là ḿnh đă thuộc ḷng những bài học đó. Chúng ta
c̣n đang học bài học trường đời và những bài học mà chúng ta đang học được
thích ứng với khả năng hiểu biết của ta. Nhưng v́ có biết những bậc trưởng
thượng cho nên chúng ta tin chắc rằng các Ngài chỉ sống để chỉ đường cho ta
đi tới sự sống đời đời và cho dù chúng ta chỉ có thể cảm thấy chút ít sự dẫn
dắt của các Ngài th́ ít ra chúng ta cũng lờ mờ biết được rằng các Ngài kề
cận với chúng ta và không có các Ngài th́ chúng ta chẳng làm được ǵ. Trong
lúc này, ta có thể quên rằng các Ngài hiện diện để rồi cứ phấn đấu theo kiểu
bà Besant, nhưng sớm muộn ǵ chúng ta cũng đến với các Ngài và cũng như một
tia nắng soi sáng cho một căn pḥng tối tăm, cũng vậy lúc bấy giờ ta ắt biết
rằng nếu không có các Ngài th́ chúng ta chẳng làm được ǵ và mọi điều mà ta
làm được cũng chỉ là v́ các Ngài thôi. Các bạn trẻ ơi, đừng nghĩ rằng đây là
việc lệ thuộc vào người khác v́ chẳng những ta hoàn toàn được tự do phụng sự
các Ngài mà c̣n có một Sự Sống Duy Nhất làm linh hoạt tất cả chúng ta, và
xin nói kính cẩn rằng nếu không có chúng ta th́ các Ngài chẳng làm được ǵ
cũng như chúng ta chẳng làm được ǵ nếu không có các Ngài. Tất cả chúng ta
đều là một xét về tinh thần; điều mà các Ngài đang là th́ chúng ta sẽ là;
điều mà chúng ta đang là th́ các Ngài đă là, và đối với vị Chủ chiên vĩ đại
th́ tất cả chúng ta đều là những con chiên trong hội thánh chuồng chiên toàn
cầu của Ngài.
Tôi đă viết dài ḍng về
đề tài này v́ tôi nghĩ rằng bạn rất cần hiểu được những sự kiện quan trọng
đó bởi v́ nếu bạn hiểu được đúng th́ chúng sẽ che chở cho bạn khỏi nhiều sự
nghi ngờ và khó khăn khi bạn bước vào nội giới.
THÀNH CÔNG CỐT Ở VIỆC CỐ GẮNG ĐI CỐ GẮNG LẠI
Tôi muốn bạn đặc biệt
chú ư tới phần c̣n lại của Lời nói đầu: “Bảo rằng lời nói của Chơn sư là
đúng và hay ho th́ cũng chưa đủ, kẻ nào muốn thành công phải làm đúng như
điều được nói ra”. Lại nữa: “Bạn phải làm điều mà Ngài nói, chăm chỉ từng
tiếng một, lĩnh hội từng lời bóng gió một . . . Ngài không nói hai lần”.
Biết bao nhiêu người trong chúng ta đă sẵn sàng ngồi dưới chơn thầy với điều
kiện như thế ? Biết bao nhiêu lần chúng ta nghe bà Besant hoặc ông
Leadbeater hoặc các bậc trưởng thượng nào khác cũng nói với ta điều giống
như thế và cứ lập đi lập lại. Phải chăng ta không thường nghĩ rằng các diễn
giả cứ thường xuyên lập lại, họ liên tục nhắc lại cùng một chân lư măi cho
tới khi chúng ta hầu như chán ngán khi nghe tới chúng ? Tuy nhiên đó là
nhiệm vụ của người đệ tử nơi ngoại giới – ôn đi ôn lại cùng một sự thật cho
tới khi rốt cuộc ta bắt đầu sống bên trong sự thật đó thay v́ bên ngoài nó.
Chơn sư không thể dành thời giờ làm điều này, nhưng v́ thế gian phải học hỏi
nên Ngài cho phép đệ tử đưa giáo huấn của Ngài ra ngoại giới để người ta
chấp nhận nó, vượt qua sự thờ ơ, thù hằn, chế nhạo; để cho chúng được thám
sát và cuối cùng được thấu hiểu. Có những dịp rất quan trọng người ta biết
là Chơn sư đă lập lại những huấn lệnh vốn không được thi hành nghiêm chỉnh,
nhưng trường hợp này rất ngoại lệ và có tầm quan trọng sống c̣n. V́ vậy nếu
bạn muốn trở thành đệ tử của một Chơn sư th́ bạn hăy tự hỏi xem chẳng hạn
như bạn có kiên tŕ cố gắng biến sinh hoạt hằng ngày của ḿnh cho phù hợp
với minh triết trong quyển Dưới Chơn
Thầy hay chăng ? Bạn luôn luôn phải có quyển sách nhỏ này để cho bạn có
thể thường xuyên tham khảo nó và trắc nghiệm theo sự minh giải qua các giáo
huấn của nó, điều mà trong lúc này đang làm bạn bận tâm. Có lẽ tôi xin phép
làm chứng cá nhân cho sự thật là bất cứ tiến bộ nào mà tôi thực hiện được
hoặc bất cứ sự gia tăng khả năng hữu dụng nào mà tôi đạt được đều phần lớn
là do tôi liên tục tham khảo quyển
Dưới Chơn Thầy khi gặp khó khăn hoặc nghi ngờ. Quyển sách này là một
loại b́nh luận hiện đại về các Kinh điển Cổ truyền và chúng ta biết ơn
Alcyone v́ đă giúp chúng ta tham khảo nhiều lần lời khuyên răn mà chúng ta
chưa đủ tha thiết để nghe Chơn sư thốt ra. Như tôi có nói, một trong những
đặc quyền của đệ tử là có thể lập lại nhiều lần điều mà Chơn sư chỉ thốt ra
một lần. Nhưng đừng quên rằng bạn vốn có giáo huấn vô giá này luôn luôn ở
trong tay mà lại tồi tệ hơn chứ không được may mắn hơn những người chưa bao
giờ có nó, nếu ít ra bạn không cố
gắng tuân theo lời khuyên của nó. Thật đáng buồn khi chẳng nhận tặng
phẩm nào cả, nhưng chắc chắn là có hại khi nhận được một tặng phẩm từ một
nguồn như thế mà ta thờ ơ đối với nó v́ kết quả là trong một kiếp tương lai
bạn sẽ hoài công mưu t́m điều mà bạn giờ đây đang bỏ qua. Người ta không yêu
cầu bạn phải hoàn chỉnh. Người ta yêu cầu bạn đừng nản chí khi thất bại. Nỗ
lực chăm chú lắng nghe điều mà Chơn sư nói có thể đưa bạn vào trong ṿng các
đệ tử của Ngài, v́ Chơn sư đ̣i hỏi trước hết là sự tha thiết và kiên tŕ.
Ngài không coi là thất bại đối với những lầm lỗi vốn sẽ nảy sinh ra một
quyết tâm mạnh mẽ hơn nữa để thành công.
Nên nhớ rằng giáo huấn
của Chơn sư áp dụng được cho bất cứ nơi đâu và cho mọi người. Nó áp dụng
được ở Quốc hội cũng như ở trong nhà, đối với những người được thế gian coi
là vĩ nhân cũng như đối với kẻ cần lao hạ tiện nhất sống giữa chúng ta như
một kẻ vô danh tiểu tốt chẳng ai đoái hoài tới. Quả thật giáo huấn là một
lời khuyên ta trở nên hoàn hảo, nhưng giá trị và giáo huấn của nó đều có
trong mọi giai đoạn leo lên; và một trong những lỗi lầm lớn nhất mà ta mắc
phải chính là việc tưởng tượng rằng không thể đạt tới sự hoàn hảo. Sự không
tưởng đâu phải là không đạt tới được v́ có một số người đă đạt được, và nếu
bạn cố gắng hết sức uốn nắn mọi tư tưởng, lời lẽ và hành vi của ḿnh theo
lời khuyên của Chơn sư, th́ bạn ắt thấy rằng ḿnh gần gũi với mục tiêu của
ḿnh hơn nhiều so với mức tưởng tượng của bạn trong những mơ mộng lạc quan
nhất. Bất cứ điều ǵ có chủ đích cao cả nơi bạn – tham vọng, t́nh thương, hi
vọng, tinh tấn – đều đến với bạn chắc chắn khi bạn càng chú ư tới lời của
Chơn sư và một ngày kia bạn sẽ tin chắc với kinh nghiệm ẩn sau những lời lẽ
này khi bạn cũng bảo rằng: “Nếu không có Ngài th́ tôi chẳng thể làm được ǵ,
nhưng nhờ có Ngài giúp đỡ, tôi đă đặt chân lên Thánh đạo”.
CHÚ THÍCH
Nếu bạn nghiêm chỉnh
nghiên cứu quyển Dưới Chơn Thầy
th́ bạn ắt thấy rơ rằng nhiều lời khuyên của Chơn sư xung đột với những ư
kiến và thái độ theo qui ước, và tôi biết có những người nghi ngờ Chơn sư
không hiểu được t́nh h́nh của thế gian “v́ Ngài quá xa rời những rắc rối và
náo động mà chúng ta đang sống trong đó”. Chẳng hạn như một vài sinh viên
muốn dịch quyển Dưới Chơn Thầy ra
tiếng bản xứ của ḿnh đôi khi muốn bỏ bớt hoặc sửa đổi cái gọi là những lời
gợi ư “không áp dụng được” v́ họ tưởng tượng rằng kiến thức hạn hẹp của ḿnh
có giá trị thực tế lớn hơn minh triết của Chơn sư. Chẳng hạn như đoạn văn: “Nếu
con thấy có người vi phạm luật pháp của xứ sở, th́ con nên báo cho nhà cầm
quyền”; một số người nghĩ rằng nó ngược hẳn lại với những ư tưởng theo qui
ước về ḷng trung thành và danh dự. Người ta nằng nặc cho rằng Chơn sư xúi
ta phản bội một đồng sự nếu ta nhận thấy y đang vi phạm pháp luật của xứ sở
ta sống trong đó !
Thế mà ở giai đoạn
nghiên cứu này của ta, tôi không muốn xét tới nhiệm vụ quan trọng ẩn sau lời
khuyên gói gọn trong câu mà tôi vừa trích dẫn. Chúng ta sẽ xét tới nó khi
đến lượt nó xuất hiện theo thứ tự có lớp lang. Nhưng tôi nghĩ rằng cần vạch
ra nguyên tắc lớn là nền tảng của toàn bộ giáo huấn được ban ra cho chúng
ta. Chơn sư nhấn mạnh tới điều có thực và nhiệm vụ của chúng ta là phải trắc
nghiệm những điều chúng ta đang trải nghiệm xung quanh ḿnh theo sự minh
giải của thực tại mà một Chơn sư Minh triết tŕnh bày với ta – trải qua biết
bao nhiêu thời đại phấn đấu khó nhọc, Ngài đă đạt khả năng tức khắc phân
biệt được giữa điều có thực và điều không có thực.
Khi nghiên cứu quyển
sách này, chúng ta đang ngồi dưới chơn một Đấng có hiểu biết chứ không phải
một người chỉ suy nghĩ và phán đoán. Ta hăy xem bất kỳ quyển sách đạo đức
thông thường nào mà tác giả của nó là tư tưởng gia xuất sắc nhất thế gian đă
chứng kiến th́ ta ắt chỉ đọc được tư tưởng của một người nào đó trên thế
giới cũng giống như ḿnh, mặc dù có lẽ với năng lực lớn hơn và trực giác sâu
sắc hơn. Đường lối tư tưởng của y không nhất thiết là của bạn và bạn có bổn
phận phải phê phán một cách kính cẩn mặc dù cố nhiên là sẽ thám sát một cách
khiêm tốn. Nhưng trong quyển Dưới
Chơn Thầy bạn có minh triết của một Đấng đă học hết mọi điều mà thế gian
có thể dạy được, trong quá khứ Ngài đă giáp mặt với cốt lơi của mọi rối rắm
và phiền năo mà bạn đă, đang và c̣n chưa trải qua. Ngài đă chinh phục được
thế gian và không một khó khăn nào do thế gian gây ra lại có thể làm Ngài
phân vân trong một lúc. Ngài đă quán triệt được những nguyên tắc sống và cho
dù Ngài đang sống trên thế giới vào thế kỷ thứ 20 hoặc thế kỷ thứ 50 hoặc
thế kỷ thứ 5 th́ tất cả những ǵ xung quanh Ngài chẳng qua chỉ là một khía
cạnh của những nguyên tắc vĩ đại này, là sự áp dụng những định luật mà các
nguyên tắc đó bắt buộc.
Ngài phát biểu bằng ngôn
từ rất đơn giản một số những nguyên tắc tổng quát này và tuyệt nhiên không
hạn chế giáo huấn của Ngài cho bất kỳ xứ sở đặc thù nào hoặc bất kỳ tôn giáo
đặc biệt nào. Thật vậy, Ngài đang ngơ lời với những người muốn được nhận vào
đạo tràng của Chơn sư, nhưng những ứng viên như thế là những người biết
nhiều hơn hầu hết những người khác và người ta trông mong họ sống với danh
dự khắc khe hơn đại đa số mọi người. V́ vậy mọi lời khuyên mà Ngài đưa ra
phải thuộc một cung bậc vô cùng tinh vi hơn mức mà đạo đức theo qui ước làm
ta rung động.
V́ vậy bạn phải cố gắng
hiểu được vấn đề ở đâu khi quan điểm của bạn xung đột với quan điểm của Chơn
sư, chứ đừng nghĩ rằng hoặc là Chơn sư không rành chuyện thế gian hoặc là
giáo huấn của Ngài không áp dụng được cho bạn và cho xứ sở bạn. Chơn sư
không yêu cầu bạn chấp nhận giáo huấn của Ngài và mù quáng đi theo nó, Ngài
cũng chẳng khuyên bạn bác bỏ nó v́ nó không thích hợp với nhân sinh quan của
bạn. Hăy cố gắng t́m hiểu điều mà bạn chưa hiểu. C̣n điều mà bạn không hiểu
được th́ hăy để cho khả năng soi sáng của thời gian và kinh nghiệm giúp bạn.
Nếu bạn vứt bỏ sự thật th́ nó chỉ trở lại với bạn sau khi bạn đă đeo đuổi nó
dài lâu, c̣n nếu bạn chỉ để dành nó sẽ xét tới trong tương lai khi có cơ
hội, th́ bạn ắt thấy rằng trong thời gian đó vô h́nh trung bạn đă tăng
trưởng hướng về sự thấu hiểu nó.
Bạn hăy dùng những qui
ước của thế gian khi chưa có những thái độ chân thực hơn v́ sự khôn ngoan
của thế gian là tiêu chuẩn dành cho những người nam nữ b́nh thường. Khi một
Chơn sư hạ cố thuyết pháp th́ bạn hăy lắng nghe. Đừng vội vă kết luận khi
bạn tha thiết muốn theo lời dạy của Ngài, v́ trong khi Ngài t́m cách xóa bỏ
những mê tín dị đoan đă lỗi thời th́ Ngài không làm phương hại đến những tín
ngưỡng vẫn c̣n cần thiết cho sự tăng trưởng của thế gian. Bạn hăy cẩn thận
suy đi nghĩ lại lời Ngài dạy và cố t́m hiểu việc ứng dụng nó vào cuộc sống
b́nh thường hằng ngày và nên nhớ rằng ở thị trấn Shigatse xa xăm Ngài vẫn
biết nhiều hơn về thế gian so với chính khách lỗi lạc nhất của ta, triết gia
khôn ngoan nhất của ta, nhà nhân ái tốt bụng nhất của ta và doanh nhân tài
khéo nhất của ta.
Khi
bạn nghi ngờ th́ hăy suy gẫm; khi bạn phản đối th́ hăy tạm ngưng sự phán
đoán; nhưng khi bạn đă thực chứng th́ hăy theo đuổi nó một cách không
nao núng cho dù điều qui ước có chống lại bạn đến đâu đi chăng nữa miễn là
bạn sẵn ḷng can đảm đương đầu không cần ai trợ giúp, hành động mốt cách dịu
dàng và khoan dung đối với tất cả mọi người.
CHƯƠNG III
NHỮNG ĐIỀU KIỆN CỦA GIAI ĐOẠN LÀM ĐỆ TỬ
Giờ đây ta xét tới những
đức tính cần được thực hành nếu chúng ta muốn có cái quyền năng phụng sự đặc
biệt chỉ được ban cho tất cả những người nào được gia nhập vào Quần Tiên Hội
khi trải qua cuộc Điểm đạo thứ nhất. Ở đây tôi có thể nhận xét đúng đắn rằng
các Bí pháp của Hi lạp và La mă mà bạn thấy đă được viết rất nhiều trong
những quyển sách cổ cũng như trong Hội Tam Điểm hiện đại đều chỉ là những sự
bắt chước sơ sài của chính nghi lễ thực sự và những sự khảo thí mà ứng viên
phải trải qua. Các Bí pháp Cổ truyền nhất là dưới dạng thuần khiết quả thật
đ̣i hỏi tín đồ phải có những đức tính rất xác định không giống như những đức
tính mà chúng ta sắp bàn tới. Hội Tam Điểm thời nay có ít sinh hoạt tâm linh
đến nỗi người ta chỉ tôn trọng nó do nó có nguồn gốc từ xa xưa và do hoạt
động từ thiện; nhưng ngay cả Hội Tam Điểm cũng chỉ thu nhận làm hội viên
những người nào xét ra là có danh tiếng không bị hoen ố. Và khi đến đâu cũng
nằng nặc đ̣i phải có đức tính, phải có nghi lễ, phải có sự trao truyền một
số năng lực th́ người ta ắt phải cố gắng nhớ ra rằng có những nghi thức thực
sự gắn liền với các quyền năng có thực giúp cho ta nhập vào Hội đoàn Huynh
đệ vốn là hạt nhân trên cơi tâm linh của một t́nh huynh đệ mà một ngày nào
đó sẽ tồn tại nơi ngoại giới.
BỐN NGUYÊN TẮC SỐNG
Các điều kiện mà Chơn sư
nêu ra là (1) Phân biện, (2) Vô dục, (3) Hạnh kiểm tốt, và (4) T́nh thương;
ở đây Ngài chọn dùng cách phân loại của Đông phương, có lẽ v́ nó đặc biệt
hấp dẫn đối với sự hiểu biết của học tṛ Ấn Độ. Nên nhớ rằng trong mỗi tôn
giáo người ta đều đề cập tới đại Đạo mà các cuộc Điểm đạo lần lượt chỉ là
các giai đoạn và trong mỗi tôn giáo người ta đều thấy có liệt kê những đức
tính mà chỉ có nó mới giúp người ta bước trên Thánh đạo được. Trong quyển
Ki Tô giáo Bí truyền bà Besant đă
truy nguyên cho chúng ta thấy thuật ngữ Ki Tô giáo ám chỉ đủ thứ cuộc Điểm
đạo và những điều kiện dẫn tới đó, tôi xin giới thiệu với bạn đọc những ǵ
mà bà nói về đề tài này. Cũng vậy, các tôn giáo khác đều đưa ra thông tin
giống nhau nhưng chúng ta chọn dùng cách phân loại Ấn Độ mà Chơn sư đă nêu
ra, một phần v́ rơ ràng là chúng ta có thể dễ dàng hiểu được nó, bất kể
chúng ta thuộc về tôn giáo nào, và một phần v́ giá trị thực tế của nó đă
được chứng tỏ qua sự thật là những người khác đă theo gót Alcyone bước qua
Cửa Đạo v́ đặt những nỗ lực của ḿnh trên cơ sở lời khuyên mà họ nhận được
từ quyển Dưới Chơn Thầy. V́ vậy
đừng nghĩ rằng bạn đang nghiên cứu một điều ǵ đó không áp dụng được vào
thực tế. Những huấn điều trong quyển sách nhỏ này đă được đem ra thực hành
trong đời sống hằng ngày hiện nay bởi những người tương đối b́nh thường, và
họ đă t́m đường về được Thánh đạo. Lại nữa, nên nhớ rằng việc thực hành hoàn
hảo những huấn điều này chỉ có thể đạt được bởi bậc đă trải qua cuộc Điểm
đạo lớn ban cho Ngài quả vị Chơn sư.
Bạn chỉ đang cố gắng
nhập vào Sân Thánh điện tức là đạo tràng của Chơn sư; v́ vậy thật là điên rồ
khi trông mong rằng giờ đây bạn hoàn thành được điều mà bạn chỉ có thể thực
hiện được sau nhiều kiếp. Hăy cứ tiếp tục cố gắng và nên nhớ rằng một sự
thành tựu c̣n lâu mới đạt tới mức hoàn hảo cũng đủ đưa bạn tới chơn của Chơn
sư rồi. Khi bà Besant nói trong
Lời nói đầu theo đó ta phải sống theo giáo huấn th́ tôi nghĩ rằng bà ngụ ư
ta phải nghiêm chỉnh đối với nó và tập trung về nó. Mọi sinh hoạt của ta đều
bất toàn nhưng ta càng tha thiết bao nhiều th́ nó càng ít bất toàn bấy nhiêu.
Nhiều người viết cho Alcyone bảo rằng ông ban cho thế gian giáo huấn thật
hay ho nhưng hầu hết mọi người chỉ sử dụng được nó qua việc mong ước rằng
những người khác quan tâm tới nó
nhiều hơn chính họ. Sống theo một tiêu chuẩn nào đó th́ chúng ta đâu dễ ǵ
bị dao động đối với nó, và khi lời khuyên có giá trị được nêu ra cho ta th́
ta tưởng tượng rằng ḿnh đang hết sức để tuân theo nó. Các bạn trẻ thân mến
của tôi ơi, mong rằng các bạn sẽ nỗ lực mạnh mẽ hơn nữa, và bạn sẽ cố gắng
nhận ra được rằng người ta đang nêu ra cho bạn một tiêu chuẩn cao hơn để
phấn đấu hướng về nó, và do đó bạn phải duyệt lại những ư tưởng, thái độ và
hành động của ḿnh theo sự minh giải mà bạn có được. Hăy tích cực nghiên cứu
quyển sách này, noi theo phương pháp của chính Alcyone là “sống” với giáo
huấn của Chơn sư bằng cách xét tới nhiều điều, từng điều một, và thực hành
chúng trong những thời gian nhất định.
SỰ PHÂN BIỆN
Hai hoặc ba trang trong
quyển sách này bận tâm tới việc nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phân biệt
giữa những người thật hiểu biết và những người không được như vậy. Một số
bạn có thể thắc mắc tại sao Chơn
sư lại khăng khăng nói tới một sự kiện hiển nhiên như thế. Cố nhiên là “chỉ
có hai loại người, hiểu biết và người không hiểu biết”. Đây là một vấn đề
đơn giản về mặt lư luận. Tuy nhiên thực ra th́ sự thật hiển nhiên này nói
chung không hề được ứng dụng, ngay cả bởi những kẻ lẽ ra nên biết nó và nếu
bạn không bắt đầu ứng dụng nó trong quan hệ với ngoại giới th́ bạn ắt không
tiến bộ nhiều hướng về Thánh đạo mà bạn muốn đặt chân trên đó. Người nào
biết đều có khả năng phân biện. Phân biện ở đây nghĩa là ǵ ? Sự hiểu biết
khiến người ta có thể phân biệt những điều vốn phù du, vô thường và điều vốn
trường tồn, vĩnh hằng. Chơn sư có dạy: “Những kẻ không hiểu biết làm việc để
có được của cải hoặc quyền lực, nhưng những thứ đó cùng lắm cũng chỉ dùng
được trong một kiếp thôi và v́ vậy không có thực”. Và sau này Ngài c̣n mở
rộng định nghĩa đó bằng cách nêu rơ rằng: “Ta phải phân biện giữa điều đúng
và điều sai, điều quan trọng và điều không quan trọng, điều hữu ích và điều
vô ích, điều chân thực và điều giả dối, điều ích kỷ và điều không ích kỷ”.
Như vậy bạn thấy rằng đức tính phân biện này tham gia vào sinh hoạt hằng
ngày của mỗi người trong chúng ta.
Đừng nghĩ rằng Chơn sư
đang chê trách những kẻ không hiểu biết. Vô minh không phải là một tội ác,
nó chỉ là một giai đoạn của sự tăng trưởng và chính bạn cũng trở thành một
người không hiểu biết khi bạn sốt ruột với sự vô minh. Nhưng trong khi bạn
không chê trách, thậm chí không thương xót th́ ít ra bạn cũng có thể phân
biệt được giữa điều vô minh và điều vốn là sự hiểu biết; để cho bản thân bạn
không phạm phải sai lầm và có thể giúp đỡ những người kém hiểu biết hơn ḿnh.
Mọi sự biểu biết đều tương đối, và bạn ắt phải nhớ tới những lời của Chơn
sư: “Cho dù con đă khôn ngoan đến đâu đi nữa, th́ trên Con Đường này con
cũng c̣n nhiều điều cần phải học hỏi”. Những người hiểu biết hơn bạn vốn
hoàn toàn kiên nhẫn với sự hiểu biết mà bạn có được, nhưng lại là sự vô minh
so với minh triết của bạn. Bạn biết rằng sự ḥa lẫn hiểu biết với vô minh mà
bạn có được chính là sự trộn lẫn thích hợp cho giai đoạn tiến hóa của ḿnh,
khiến cho bạn có thể giúp đỡ hữu hiệu nhiều người c̣n ở tŕnh độ thấp hơn
nữa. Nhưng cho dù bạn có tin chắc vào việc ḿnh không thể sai lầm th́ những
người minh triết hơn bạn sẽ chẳng bao giờ để cho bạn ảnh hưởng tới họ về tư
tưởng và hành động, ngoại trừ trong những vấn đề đặc biệt mà bạn đă thu thập
được thông tin chính xác hơn họ. Cũng giống như vậy, bạn phải cẩn thận đừng
sa vào cái ảo tưởng cho rằng bởi v́ bất kỳ người nào nói một cách quả quyết
cho nên y phải đúng. Bạn phải vận dụng sự phân biện của ḿnh. Nhiều người
rất lười biếng và sống bám vào những tư tưởng đến với ḿnh từ bên ngoài mà
không chịu vận dụng khả năng của ḿnh để xác định xem điều nào phải chấp
nhận và điều nào phải vứt bỏ. “Chính thống giáo” là tên gọi cho sự lười
biếng này, “tập tục, qui ước” là những tên gọi khác. Tôi tập hợp những thứ
này dưới tựa đề “lười biếng” v́ bạn ắt lười biếng nếu bạn để cho ḿnh đi
theo cái lối ṃn nhẵn thín mà đa số loài người đi trên đó. Nếu Chơn sư nói
tới “Thánh đạo” th́ đó v́ nó là “Thánh đạo” chứ không phải một con đường; v́
có ít người bước trên đó. Mặt khác, trong khi dùng sự phân biện bạn nên nhớ
rằng kiến thức hạn hẹp của những người không hiểu biết lại có thể thích hợp
cho việc dạy dỗ những người c̣n kém tiến hóa hơn họ nữa. Chẳng hạn như Chơn
sư bảo ta rằng không có nghi lễ nào là cần thiết v́ vậy chúng ta có thể làm
việc mà không cần nghi lễ. Nhưng đối với một số người th́ nghi lễ có thể là
cần thiết và ắt là không phân biện khi ta suy nghĩ một cách khinh bỉ về
những người đánh giá cao nghi lễ, hoặc những tu sĩ cứ nhồi sọ nghi lễ. Bạn
hăy để cho người khác tăng trưởng theo kiểu thích hợp với họ. Có điều là bạn
đừng tưởng tượng rằng v́ “mọi người” suy nghĩ theo một kiểu đặc thù nào đó
th́ bạn cũng phải suy nghĩ theo kiểu đó; bạn cũng đừng suy nghĩ lười biếng
đến nỗi mà bởi v́ một số người quả quyết rằng họ đúng và nhấn mạnh như vậy
cho nên bạn để cho ḿnh chịu ảnh hưởng của một bản chất cương quyết hơn bạn.
Suy tư sắc sảo và độc lập là một đặc điểm cốt yếu trong tính t́nh của kẻ
muốn bước trên Thánh đạo, v́ cho dù Chơn sư trợ giúp cho y nhiều đến đâu đi
nữa th́ về lâu về dài, tảng đá chắc chắn của y phải dựa vào Thượng Đế nội
tâm và sẽ có lúc người học đạo phải bước trên Thánh đạo khi mọi sự trợ giúp
bên ngoài dường như đều không thể được và y bắt buộc phải rút ra sức mạnh từ
bên trong. Cuối cùng tôi xin nhận xét rằng bạn không nên hấp tấp kết luận
ḿnh phải thề bỏ hoàn toàn tất cả những ǵ mà ḿnh không c̣n cần thiết nữa.
Có thể bạn có bổn phận phải tham dự những nghi lễ v́ ích lợi của những người
khác vẫn c̣n cần tới chúng. Có thể bổn phận của bạn là phải khoác lấy nhiều
tập quán, qui ước và chính thống giáo, nhưng đó chỉ là v́ ích lợi của những
người khác. Bổn phận trước hết của bạn là phụng sự, và bạn ắt không phải là
một người thầy thành công nếu bạn không thay đổi cách giáo huấn của ḿnh để
thích ứng với trí thông minh của lớp học. Tuy nhiên bạn ắt không phải là
người thầy thành công nếu kiến thức của bạn không vượt xa kiến thức của lớp
học, và trong khi bạn có thể tự ḿnh sử dụng những cây nạn để chỉ cho một
người què cách tự đứng vững th́ không v́ vậy mà bạn lại cũng sử dụng chúng
vào những dịp khác. Nếu bạn hạn chế ḿnh bên trong những h́nh thức đă lỗi
thời (trừ trường hợp để trợ giúp) th́ bạn quả thật là lười biếng; nhưng
những người nào không c̣n cần tới những h́nh thức đó th́ lại không phải là
lười biếng. Như vậy, trong khi bản thân bạn cần tránh lười biếng th́ bạn nên
nhớ rằng những người khác có thể tạm thời được cứu chuộc qua điều mà đối với
bạn là sự ngưng trệ, và bạn sẽ chu cấp cho nhu cầu của họ bằng cách ban cho
họ điều sẽ giúp họ nhiều nhất.
SỰ HIỂU BIẾT CHÂN THỰC
Thế mà đâu là cái sự
hiểu biết làm cho bạn nổi bật lên so với những người không hiểu biết ? Tôi
đă bảo bạn rằng nó phần nào cốt ở việc có thể phân biệt được giữa điều vốn
phù du và điều vốn trường tồn. Thật vậy, trong suốt quyển sách nhỏ này, Chơn
sư liên tục giải thích cho chúng ta qua việc đối chiếu tương phản điều có
thực khác với điều không thực ra sao. Chẳng hạn như: “Con phải phân biệt
giữa điều ích kỷ và điều không ích kỷ”, “đừng tỏ ra giận dữ hoặc sốt ruột”,
đừng bao giờ để cho con cảm thấy buồn hoặc nản ḷng”. Tại sao vậy ? Bởi v́
nếu bạn cảm thấy giận dữ, sốt ruột hoặc nản ḷng th́ bạn nhất thời đang sống
với một điều ǵ đó thế nào cũng qua đi, c̣n về lâu về dài th́ sự thanh thản
và hoan hỉ mới mang bạn tới mục đích. V́ vậy ta thấy một phần lời giải đáp
cho câu hỏi của tôi chính là việc nghiên cứu những điều tương phản này.
Nhưng Chơn sư cũng nêu rơ rằng “điều thật sự quan trọng là việc hiểu biết
Thiên cơ dành cho loài người”. Dĩ nhiên là mọi đức tính mà bạn cần đạt được
đều là một phần Thiên cơ dành cho loài người. Nhưng đạt được đức tính là v́
một chủ đích nào đó. “Đó là v́ Thượng Đế có một Thiên cơ tức là Cơ tiến hóa”,
và những đức tính mà bạn dần dần xây đấp vào trong bản tính của ḿnh được dự
trù để tẩy trược nó sao cho nó có thể “ḥa nhịp với Vô hạn”, hài ḥa với
công tŕnh thiên nhiên của Thượng Đế. Các định luật trong thiên nhiên đều là
các qui tắc tiến hóa, là dấu hiệu cho thấy Thượng Đế trở nên hữu ngă thức
nơi mỗi điểm linh quang và bạn phải hiểu được những định luật này để có thể
“đứng về phía Thượng Đế, về phe với điều thiện chống lại điều ác, làm việc
để tiến hóa chứ không phải để phục vụ ḷng ích kỷ”. Thế gian đă biết được
một số những định luật này. Chúng ta nói tới các định luật của khoa học,
luật của nghệ thuật, luật của văn chương: chúng ta có biết luật của hấp dẫn
và những định luật khác liên quan tới vật chất. Sớm muộn ǵ th́ bạn cũng
phải học những định luật này, nếu không ở kiếp này th́ cũng ở kiếp khác; đó
là v́ bạn không thể trợ giúp hoàn hảo nếu bạn không biết những định luật để
cho Thượng Đế phát triển. Nhưng hiện nay chúng ta không liên can ǵ tới
những định luật đặc thù này v́ Chơn sư hướng dẫn chúng ta bên trong thay v́
từ bên ngoài. Trước hết ta hăy học một điều ǵ đó về những định luật của
tinh thần rồi ta sẽ thấy những định luật về vật chất chẳng qua chỉ là phản
ánh những định luật tinh thần dưới một dạng thô hơn. Khi hiểu được nền tảng
của cuộc sống tâm linh th́ bạn ắt dễ dàng làm quen hơn nhiều với những
nguyên lư của nghệ thuật và khoa học theo như ta biết hiện nay. Hơn nữa thế
gian sẽ ban cho bạn những nguyên lư nghệ thuật và khoa học. C̣n ngoại trừ có
lẽ chỉ trong triết học Ấn Độ th́ cho đến nay chẳng có bao nhiêu khoa học về
linh hồn xứng đáng với tên gọi đó.
NHỮNG ĐỊNH LUẬT CỦA CUỘC SỐNG CAO THƯỢNG
Những linh hồn non nớt
như chúng ta chỉ có thể biết chút ít về những định luật cao cả này (bà
Besant gọi chúng là “những định luật của cuộc sống cao thượng) do đó tôi
không hi vọng có thể liệt kê thậm chí một vài định luật. Nhưng Chơn sư đưa
ra nhiều lời bóng gió về việc phải t́m chúng ở đâu, và những gợi ư của Ngài
giúp ta có được một ư niệm tổng quát về cái định luật mà ta có thể trông
mong t́m thấy. Ngài dạy rằng: “Tất cả đều là một, và chỉ điều nào mà Đấng
Nhất Như muốn th́ mới có thể làm hài ḷng mọi người”. Đây là định luật về sự
đơn nhất. “Tất cả đều là một”. V́ vậy “chỉ điều nào mà Đấng Nhất Như muốn
th́ mới thật sự làm mọi người hài ḷng” – đây là định luật về một chủ đích
chung. Chúng ta đang chia xẻ một t́nh huynh đệ chung và đang hướng về một
mục tiêu chung. Nếu sự phân biện của bạn đă dẫn dắt bạn tới chỗ này th́ bạn
đang đi đúng đường v́ Chơn sư có nói rằng: “Sự phân biện này là bước đầu
tiên”. Hai định luật này trong bản thể của chúng ta cung cấp bí quyết của
phát biểu: “Những kẻ nào ở về phía Thượng Đế đều biết tại sao ḿnh ở đây và
ḿnh phải làm ǵ”. Họ ở đây v́ Thượng Đế nội tâm muốn họ ở đây, và họ biết
điều ḿnh cần phải làm là phối hợp với những người khác nhằm cố gắng đạt tới
mục tiêu chung. Tôi không gợi ư rằng sự hiểu biết của chúng ta về hai định
luật này là minh bạch và dứt khoát. Chúng ta chỉ lờ mờ cảm thấy được chúng,
và mục đích của việc phát triển các đức tính là khiến cho ta có thể hiểu rơ
hơn. Tuy nhiên, khi ta càng gần với bản chất cao thượng của ḿnh bao nhiêu,
càng gần tới cái bộ phận của Đấng Nhất Như ngự trong chúng ta bao nhiêu, th́
chúng ta càng chắc chắn bấy nhiêu về những định luật này cho dù đôi khi
chúng ta có thể “hành động điên rồ và cố gắng phát minh ra những đường lối”
cho chính ḿnh, những đường lối mà ta nghĩ rằng làm cho chính ḿnh hài ḷng.
Thế mà liệu chúng ta có
bằng chứng ǵ về việc vận hành của hai định luật này ? Một là việc càng ngày
càng đánh giá cao t́nh huynh đệ nhằm đưa tới sự an b́nh và hạnh phúc. Tôi
không cần đưa ra những ví dụ từ ngoại giới v́ chính bạn cũng có thể nghĩ
được nhiều ví dụ. Thế giới đang chầm chậm bước một cách không sai lầm trên
con đường hướng về mục đích t́nh huynh đệ và v́ cuộc sống sẽ tốt hơn đối với
những bước mà ta biết rằng Đấng Nhất Như đang muốn ta thực hiện. Vậy là một
lần nữa căn cứ theo những phát biểu của các nhà nhân ái, thần bí gia, nhà
thấu thị, những người sáng lập các phong trào nhằm mục đích truyền bá tinh
thần huynh đệ, ta biết rằng những lúc có thực và do đó có được niềm vui lâu
bền chỉ xảy ra khi người ta chia xẻ điều người ta đang là và đang có với
những người khác. C̣n có ư thức về một sự sống rộng lớn hơn, về một tinh
thần tự do hơn khi chúng ta chia xẻ với những người khác và khi chúng ta
sống v́ những người khác. Con người ích kỷ không có được thú vui lâu bền do
những hành vi ích kỷ, mặc dù chắc chắn là y có thể trải nghiệm những sự đê
mê tạm thời mỗi khi thành công trong việc tự tư tự lợi. Nhưng những sự đam
mê này lại được nối tiếp bằng phản ứng, và con người ích kỷ càng thu đoạt
được nhiều th́ y càng ít thỏa măn, cho đến khi thất vọng v́ không thể thỏa
măn những khao khát càng ngày càng tăng, y mưu t́m một con đường nào khác.
Niềm vui chia xẻ khác hẳn với sự hân hoan thoáng qua khi chiếm đoạt mà gây
thiệt hại cho người khác. Niềm vui chia xẻ không gây phản ứng và do đó không
gây sự bất hạnh; nó mang lại một sự yên b́nh càng ngày càng tăng và một khả
năng càng ngày càng cho ra thêm nữa. Sự không ích kỷ - nghĩa là làm việc v́
tự ngă lớn hơn thay v́ làm việc cho bản ngă nhỏ nhoi – tự nó là phần thưởng
rồi, c̣n ḷng ích kỷ bao giờ cũng phải mưu t́m một phần thưởng ở bên ngoài
ḿnh, và khi thời gian trôi qua th́ phần thưởng này càng ngày càng tuột khỏi
tay ḿnh. Phải chăng những sự kiện này không phải là bằng chứng về sự thật
của phát biểu “chỉ những ǵ mà Đấng Nhất Như muốn th́ mới có thể làm cho mọi
người vui ḷng”, v́ ta càng sống cho một số nhiều hơn người khác th́ chẳng
những ta càng hạnh phúc hơn mà c̣n nhờ đó ta biểu hiện được nhiều hơn Đấng
Nhất Như vốn ngự nơi tất cả chúng ta ? Chúng ta càng tự đồng nhất hóa với
Đấng Nhất Như th́ chúng ta càng trở nên hạnh phúc hơn.
PHỤNG SỰ LÀ CỐT LƠI CỦA HI SINH
Giờ đây ta hăy rán nh́n
rơ hơn một chút bản chất của cái ư chí vốn cai trị thế giới này. Ta thấy
ngay rằng ư chí của Đấng Nhất Như là một sự hi sinh triền miên, v́ sự hi
sinh của chính chúng ta đưa ta tới gần Ngài hơn.
Không phải là việc vừa
tự hi sinh vừa nuối tiếc, mà là việc vui vẻ hi sinh mặc dù chắc chắn là có
đau khổ, v́ nếu không có sự tương phản đau khổ đó th́ niềm vui ắt là không
được đẹp như thế. Đó là mọi sự hi sinh dù có muốn hay là không muốn. Người
đầy tớ phục vụ nhu cầu của gia chủ, người buôn bán cung cấp thực phẩm cho ta,
viên chức chính quyền quản trị quốc gia, thầy giáo dạy dỗ và học giả nghiên
cứu – mọi người đều hằng ngày thực hiện sự hi sinh, và mức độ hạnh phúc nơi
sự hi sinh đó xác định việc kẻ hi sinh gần gũi đến đâu đối với Đấng Nhất
Như; Ngài đang hi sinh vĩ đại khi đang rèn luyện mỗi người trong chúng ta (vốn
là một bộ phận của Ngài) trở nên hữu ngă thức về thiên tính của Ngài cũng
như là thiên tính của chúng ta. Ở Đông phương người ta nhấn mạnh tới sự hiến
tế và một phần của bổn phận chính qui hằng ngày bao gồm việc hiến tế cho các
Tổ phụ, cho chư thiên, cho súc vật v.v. . . Dĩ nhiên ta không sống trên đời
mà cứ nghĩ rằng mỗi hành vi là một sự hiến tế, v́ chúng ta đă
có thói quen xấu tưởng tượng rằng sự hiến tế đ̣i hỏi chúng ta phải
chối bỏ một thú vui nào đó và như vậy chúng ta cố gắng né tránh sự hiến tế
v́ e rằng niềm vui sống sẽ mất đi trong khi thật ra th́ tinh thần hiến tế
chân chính mới mang lại sự an b́nh lâu dài cho chúng ta. “Chúng ta phải hi
sinh v́ sự giáo dục của con ḿnh”, “Bạn phải hi sinh một điều nào đó nếu bạn
muốn có được điều này hay điều kia”. Hi sinh chỉ có nghĩa là từ bỏ một điều
ǵ đó thấp thỏi hơn chứ không bao giờ từ bỏ một điều ǵ đó cao thượng hơn,
và nếu người đầy tớ của ta, viên chức của ta, thầy giáo của ta, học sinh của
ta, thương nhân của ta và nhất là chính chúng ta sống trên đời mà mục đích
chủ yếu là sự hi sinh – hiến tế phần thấp hèn trên bàn thờ của phần cao
thượng – th́ công việc của ta ắt được thực hiện tốt hơn nhiều và thế gian ắt
là một nơi mà ta có thể sống trong đó hạnh phúc hơn nhiều. Không có một việc
buôn bán nào, không một nghề nghiệp nào, không một loại nghiệp vụ nào, không
một hành vi nào cho dù nhỏ mọn đến đâu đi nữa mà lại không có được vẻ đẹp
nếu nó được thực hiện theo tinh thần hi sinh chân chính, tức là hiến tế cho
Đấng Chúa Tể. Đây quả thật là một nhiệm vụ khó khăn đối với tất cả chúng ta
v́ chúng ta phải bắt đầu, và cách tốt nhất để mỗi ngày hoàn thành được một
hành vi hi sinh hữu thức là một hành vi dứt khoát được thực hiện nhân danh
và vinh danh Đấng Cao Cả Hi Sinh mà nhờ có sự hi sinh của Ngài chúng ta mới
sống, vận động và hiện tồn được. Các Hướng đạo sinh có nói tới một “nghĩa cử”,
những con Trai và con Gái của Thiên quốc đều ra lệnh phải có “một hành vi
phụng sự mỗi ngày” – đây là những sự hi sinh chân chính, v́ phụng sự là cốt
lơi của hi sinh.
CHƠN NGĂ VÀ PHÀM NGĂ
Mọi sự hi sinh nếu có
giá trị th́ phải là sự hi sinh có trật tự và chúng ta càng học về những định
luật hi sinh th́ sự hi sinh của ta lại càng hữu hiệu. Thật vậy, một người có
thẩm quyền về những nguyên tắc hi sinh có thể viết nhiều quyển sách về vấn
đề này, và chúng ắt là những quyển sách hấp dẫn nhất. Nhưng trong phạm vi
của những bài nói chuyện này, tôi phải hạn chế ḿnh vào một hay hai định
luật đặc biệt của cuộc sống cao cả mà bạn đă cần tới.
Trước hết bổn phận chính
của bạn là phải hiểu ra được rằng cá thể mà bạn gọi là “tôi” chỉ là một phần
của cái “chơn ngă” vốn là một điểm linh quang trong ngọn lửa của Thượng Đế.
Nói cách khác, có cái “tự ngă” vĩnh hằng tḥ một xúc tu vào ngoại giới để
thu lượm được tất cả những ǵ mà ngoại giới có thể ban ra. Xúc tu đó không
phải là “chơn ngă”, cũng như cái rễ không phải là trọn cả cái cây. Bạn c̣n
có nhiều hơn mức làm cho tâm thức tỉnh táo của bạn linh hoạt trong xác phàm,
và chính “bạn” vĩ đại hơn này mới dẫn dắt bạn có được những kinh nghiệm mà
cuộc đời bạn trải qua. Bạn có thể gọi cái “bạn “ vĩ đại này là chơn ngă nếu
muốn, nhưng bạn đừng đồng nhất hóa nó với các hạ thể mà nó phải sống trong
đó. Chơn ngă chỉ muốn h́nh thức sinh hoạt tinh anh nhất không dựa dẫm theo
những sự yếu kém của bạn, không chán nản khi bạn thất bại và nhất là trên
cơi tồn tại của riêng ḿnh nó biết hết những ǵ mà “bạn” ở bên dưới này phải
học hỏi. Nhiều người c̣n trẻ cứ nghĩ rằng chơn ngă ắt phải hài ḷng với sự
hiểu biết của ḿnh. Nhưng sự hi sinh sẽ không hoàn chỉnh nếu tri thức không
ở khắp mọi nơi, nếu thiên tính không hữu ngă thức nơi mọi bộ phận của ḿnh.
Thượng Đế vốn toàn tri trên cơi của riêng ḿnh, nhưng Ngài muốn ngă thức của
chính ḿnh phải làm thức tỉnh trên mọi cơi bản thể của Ngài sao cho chúng ta
(những tế bào trong cơ thể Ngài)
trở nên tỉnh thức với thiên tính mà chúng ta chia xẻ và do chính hành vi
tỉnh thức đó có thể trở thành chính Thượng Đế. Tuy nhiên trước hết chúng ta
phải làm chủ được đủ thứ cấp độ vật chất từ mức cao nhất (vốn hầu như không
phải là vật chất mà đúng ra là tinh thần) măi xuống tới vật chất cấu thành
thể xác của ta, và có lẽ c̣n thấp hơn nữa.
SỰ NỞ RỘ THIÊN TÍNH CỦA CHÚNG TA
Sau khi đă làm chủ được chúng, ta có thể vứt bỏ chúng từng chút một cho tới khi ta sống trên cơi tồn tại tâm linh cao nhất, trên cơi Thiên tính, chỉ xuất lộ khi gần đến lúc có hành động hi sinh cũng giống như hành động mà chính Thượng Đế hiện nay đang thực hiện. Điều này xảy ra trong tương lai vô lượng, nhưng nó thật chắc chắn – chắc chắn đến nỗi ngay cả ở giai đoạn tăng trưởng hiện nay ta cũng có thể nhận thấy rằng Thượng Đế bên trong ta, bản chất cao thượng của ta, đang dần dần làm chủ được những hạ thể mà nhờ đó Ngài bước vào tiếp xúc nhất định với các cơi thấp. Ngài làm việc hằng ngày, và trong khi sự tự chủ phải mất nhiều thời gian để thực hành, và các công cụ đâu phải lúc nào cũng vận hành như mong muốn, tuy nhiên ngày trôi qua th́ mỗi người trong chúng ta đều có một tiến bộ nào đó, và không có ai chậm chạp hoặc thoái hóa đến nỗi y không vượt lên theo mức độ khả năng của ḿnh. Nếu muốn, tôi muốn bạn nhớ cho rằng sự kiện củng cố một cách áp đảo này đến mức tối đa bên trong bạn th́ sự hoàn hảo chưa được phát triển, và nó là một cái mầm nụ hoa sẽ trở thành một đóa hoa. Nhưng nụ hoa ấy đă có ở đó rồi, và trong những giờ phút gây cấn nhất khi bạn cảm thấy rằng ḿnh đă hoàn toàn thất bại và có lẽ vô phương cứu văn th́ điều sẽ hoàn hảo vẫn c̣n ở lại với bạn và là nguồn gốc thường xuyên tạo ra sự nỗ lực mới mẻ khiến bạn tiếp tục sống cuộc đời cao thượng cho dù bạn làm ǵ đi chăng nữa. Có lẽ nói là khi bị đắm ch́m trong vật chất, bị bao quanh bởi những sự vật của giác quan th́ chúng ta đâm ra bối rối, tưởng tượng rằng ḿnh đắm ch́m trong ṿng xoáy của chúng. Nhưng vật chất bao xung quanh ta cấu tạo thành các hạ thể của ta và những đối tượng của giác quan – cho dù thuộc cơi trí tuệ, cơi trung giới hoặc cơi hồng trần – th́ bản thân chúng đều đang chờ được chế ngự. Bạn hăy làm chủ được chúng, hăy tỏa ra thiên tính của bạn lên trên chúng th́ chúng sẽ trở thành những quyền năng để cho bạn sử dụng thay v́ là những thần lực mà bạn phải chiến đấu và có lẽ bạn phải sợ hăi.
CHƯƠNG IV
CÓ THỜI GIAN ĐỂ ĐẠT ĐƯỢC SỰ HOÀN HẢO
Tôi nghĩ rằng sự thật mà
tôi cố gắng diễn tả trong bài nói chuyện trước kia có tầm quan trọng sống
c̣n v́ chúng ta càng tham thiền về nó th́ nó càng trở nên có thực và chúng
ta bắt đầu nhận ra được rằng cho dù ta c̣n lâu mới có thể thực hành thành
công được những đức tính qui định trong
Dưới Chơn Thầy th́ một ngày nào
đó ta cũng phải trở nên hoàn toàn, và do đó có được hạnh phúc của việc phụng
sự hoàn hảo.
Thật vậy, cần phải có
thời gian để hoàn tất, nhưng nếu một định luật về bản thể là thiên tính ngự
trị bên trong ta dần dần phát triển thành ra đóa hoa hoàn hảo th́ một định
lụật khác lại nói cho ta biết rằng sự phát triển diễn ra chậm chạp nhưng
chắc chắn (1) theo nguyên lư tác động và phản tác động, tức nhân quả, (2) do
liên tục ch́m sâu xuống rồi lại rút ra khỏi vật chất của các cơi thấp, nói
cách khác là luân hồi. Ta hăy thoáng nh́n cái định luật về thời gian này, nó
cũng bao hàm cơ hội nữa th́ thời gian ắt là vô giá trị nếu ta không có khả
năng vận dụng nó. Diễn tả định luật này bằng cách khác, ta có thể bảo rằng
sự phát triển của thiên tính bên trong ta diễn ra theo sự cưỡng bách của
kinh nghiệm – kinh nghiệm bao giờ cũng sàng lọc điều có thực với điều không
thực, điều thường trụ với điều vô thường. Theo ngôn ngữ của Ki Tô giáo th́
ta được biết rằng ta gieo ǵ th́ sẽ gặt nấy. Ấn Độ có nói tới
Nghiệp báo (Karma), một nhà Thông
Thiên Học có thể nói về luật Nhân quả. Diễn tả một cách rành mạch th́ định
luật phát biểu rằng chúng ta suy nghĩ và hành động ra sao th́ ta sẽ trở
thành như thế, và v́ cần phải có thời gian th́ ta mới suy nghĩ và hành động
hoàn hảo được, cho nên ta liên tục đắm ch́m vào trong vật chất thô trược
nhất của các bầu hành tinh để từng bước hiểu được bản chất của nó và do đó
làm chủ được nó. Cuộc đời mà ta đang sống hiện nay, cái cơ thể mà sự đắm
ch́m mới nhất diễn ra trong đó, chỉ là những sự việc trong một chuỗi dài các
kiếp sống; bạn đă sống nhiều kiếp trước kia và trước kia bạn đă sử dụng
nhiều cơ thể. Có thể nói là qua mỗi kiếp bạn đă tổng kết nhiều tài khoản có
và nợ của ḿnh khi c̣n đang ở trên trần thế; và rồi khi có một cán cân thăng
bằng tâm linh càng ngày càng tăng (ta dùng từ này theo nghĩa tài chính) do
đó bạn lại nhập vào doanh nghiệp trên cơi trần vừa để trả dứt những món nợ
cũ vừa để vay thêm những món nợ mới, vậy là tích lũy được một tài sản tâm
linh càng ngày càng gia tăng do các món nợ mới càng ngày càng dần dần ít đi
khi minh triết của bạn càng ngày tăng lên. Bạn tiếp tục làm như vậy trong
hàng trăm ngàn năm hoặc hàng triệu năm nếu bạn xét tới cả thời gian ngủ,
thời gian nằm mơ và thời gian mới chớm nở sự tỉnh thức lần lượt trong các
giới khoáng vật, thực vật, động vật. Thượng Đế cấp vốn ban đầu cho bạn là
những khả năng tâm linh của bạn, và mặc dù đôi khi vốn của bạn dường như bị
ứ đọng rất nhiều, nhưng bạn lại chẳng bao giờ mó tới được v́ Ngài đă tạm
thời rút bạn ra khỏi sự tham gia hoạt động trong doanh nghiệp mà Ngài dấn
thân vào khi bạn hành động liều lĩnh đến nỗi không thể tin cậy bạn để quản
lư các thương vụ một cách thỏa đáng của bạn cũng như của Ngài. Thật vậy có
thể h́nh dung là bạn cần phải khởi sự trở lại, có lẽ không phải ngay từ đầu
mà là hơi chậm lại một chút so với lúc mà bạn bắt đầu tỏ ra không biết lo
xa. Nhưng đây có lẽ là một diễn biến tương đối hiếm hoi, v́ hầu hết chúng ta
đều tăng trưởng vốn một cách chậm chạp nhưng chắc chắn.
HAI ĐỊNH LUẬT CỦA CUỘC SỐNG CAO THƯỢNG
Việc biết con đường giúp
cho mỗi người trong chúng ta cuối cùng đạt được sự hoàn hảo ắt có giá trị và
tầm quan trọng ghê gớm v́ chẳng những chúng ta không bao giờ hoàn toàn bị đè
bẹp do thất vọng hoặc làm cho khả năng rút vốn của ta hầu như mất đi v́ ta
đă được số tích lũy nợ quá nhiều, mà c̣n v́ ta có thể giúp đỡ, củng cố nhiều
nhất cho những người chẳng thấy ǵ trước mắt ngoại trừ những món nợ phải trả
và chỉ có ḷng hào phóng của Đấng vĩ đại Cấp tín dụng (cho dù chắc chắn đến
đâu đi nữa) mới khiến cho họ bám víu vào được (cho dù có đúng như thế). Và
v́ ta cũng cần phải lĩnh hội rơ ràng những đặc điểm cốt yếu của các định
luật thuộc đời sống cao thượng quan trọng biết dường nào, cho nên tôi xin ôn
lại ngắn gọn những sự thật đă được phát biểu cho đến nay. Trước hết th́
“tất cả đều là một”. Tôi xin phép
được dùng ẩn dụ về một cơ sở ngân hàng để nói rằng Đấng Chúa Tể thế gian là
vị giám đốc tối cao của một doanh nghiệp gia đ́nh lớn trong ngành ngân hàng
tâm linh. [Tôi phân biệt “Đấng Chúa Tể thế gian” với “Thượng Đế”. Tôi dùng
từ Thượng Đế để chỉ nguyên lư thiêng liêng làm linh hoạt mọi sinh linh ở
khắp nơi, tức là Đức Chúa Cha. Mặt khác, Đấng Chúa Tể thế gian là chức sắc
đứng đầu Quần Tiên Hội, là thành viên tối cao có địa vị độc tôn. Ngài có
nhiều quyền lực hơn tất cả những vị khác, v́ không phải là thành viên của
chính nhân loại thế gian, Ngài là Phó vương của Thượng Đế trên trái đất.
Kinh điển của Ấn Độ giáo nhắc tới hồng danh của Ngài là
Sanat Kumara]. Chính Ngài lập
nghiệp bằng số vốn mà Ngài đă phát triển do kinh nghiệm vô số thời đại
trước, cũng như mọi vốn khác, số vốn này nguyên thủy là của Thượng Đế. Ngài
có chức năng là giúp cho mọi thành viên trong gia đ́nh ḿnh có thể phát
triển được vốn của họ giống như Ngài đă phát triển được vốn của Ngài. Có thể
nói là Ngài thệ nguyện sắp xếp doanh nghiệp của Ngài sớm muộn ǵ th́ mọi
thành viên trong gia đ́nh Ngài rốt cuộc cũng phải phát triển được vốn của
ḿnh đến trị số tối đa mặc dù đôi khi cũng gặp thất bại. Ở đây có sự thống
nhất với phát triển trong định luật thứ hai là
có tồn tại một mục tiêu chung.
Thật vậy định luật thứ nhất có hàm chứa định luật thứ hai v́ sự đơn nhất
không thể hoàn chỉnh nếu ta không có chung một số phận, nếu tương lai không
có sự đơn nhất giống như quá khứ mà truy nguyên ra đều là cội nguồn chung
của ta. Tôi đă gọi số phận chung này là sự hoàn hảo và nếu dùng ngôn từ để
diễn tả ẩn dụ về doanh nghiệp ngân hàng th́ tôi có thể nói rằng mục đích của
doanh nghiệp là giúp cho mỗi thành viên của ḿnh phát triển được một số vốn
tâm linh (công đức) đáng kể sao cho theo thời gian mỗi thành viên đều có thể
lập ra một doanh nghiệp dựa vào tài khoản của riêng ḿnh. Thế là có thắc mắc:
mỗi thành viên sẽ đạt tới mức đó ra sao ? Câu trả lời cũng minh bạch trong
thế giới tâm linh giống như trong thế giới kinh doanh thực sự trên cơi trần.
Nhờ vào kinh nghiệm, theo thời gian, bằng cách lập doanh nghiệp ở qui mô nhỏ
lúc khởi đầu, sau khi đă được rèn luyện sơ bộ qua một mức nào đó, tích lũy
một số lớn món nợ chẳng những khó trả hết mà c̣n phải mất thời gian mới trả
hết được. Đây là giai đoạn đầu tiên mà tôi có nhắc tới trong phần đầu của
loạt bài nói chuyện này ? Lúc biệt lập ngă tính chuyển từ giới động vật sang
giới nhân loại. Trước đó thành viên chỉ yên ngủ. Y học được những điều vỡ
ḷng của các môn học mà sau này y mới nghiên cứu sâu hơn. Y hầu như chưa
kinh doanh ǵ hết, thật ra y chỉ là một cổ đông nhưng không có cổ phần hữu
thức trong doanh nghiệp nhiều hơn mức đứa trẻ sơ sinh của vị giám đốc ngân
hàng có cổ phần hoạt động trong thương vụ của cha ḿnh. Nhưng đứa trẻ sơ
sinh sẽ lớn lên để trở thành một đứa con nít có ư thức mơ hồ cha ḿnh làm ǵ.
Cái con người mới biệt lập ngă tính đó cũng mơ hồ ư thức được sự tồn tại của
một chủ đích trong cuộc đời vây quanh ḿnh nhưng cho đến nay y chẳng màng ǵ
tới nó ngoại trừ khi nó ảnh hưởng tới phúc lợi cá nhân ngay trước mắt của y.
Nhưng rồi cũng đến giai đoạn thứ hai: lương tâm thức tỉnh. Người thiếu niên
trở thành nhân viên trong doanh nghiệp của cha ḿnh bắt đầu từ cấp thấp nhất
có rất ít trách nhiệm. Người ta từng bước giao cho y một phần nhỏ vốn để
thực nghiệm, y được biệt phái nhập thế để xem y có thể dùng số vốn đó (lương
tâm) mà cho đến nay y chưa hề biết là nó tồn tại. “Tôi có lương tâm, tôi có
khả năng phân biệt đúng với sai. Cho đến nay tôi vẫn chia xẻ mà không suy
nghĩ ǵ cái lương tâm của vũ trụ trong đó lương tâm của chính tôi chỉ là một
bộ phận, nhưng giờ đây tôi biết rằng tôi có lương tâm của riêng ḿnh, tôi
phải sử dụng nó đến mức tối đa sao cho nó càng ngày càng lớn mạnh”. Như vậy
người cổ đông giờ đây càng ngày càng ư thức được ḿnh chẳng những là cổ đông
để nhận cổ tức mà c̣n là thành viên để tạo ra cổ tức, y nhập thế (các cơi
thấp) với tư cách là một tác nhân hoạt động để xây đấp tài sản của riêng
ḿnh.
Cũng giống như một doanh
nhân sau khi hết giờ làm việc bèn về nhà để nghỉ ngơi sau những giờ lao
động, y nghĩ đi nghĩ lại xem trong ngày đó việc kinh doanh của ḿnh là tốt
hay xấu và y hưởng hạnh phúc bên cạnh những người thân thương của ḿnh; cũng
vậy mỗi người trong chúng ta sau khi đă qua một kiếp sống đều yên nghỉ nơi
những thế giới khác để thu thập những năng lượng mới – nảy sinh do những sự
phấn đấu trong những kiếp đă qua – cho kiếp sống sắp tới, cho “ngày” làm
việc mới trên cơi trần. Chúng ta không thể phát triển được mọi số vốn cần
thiết chỉ nội trong một ngày. Chúng ta phải học cách sử dụng vốn, cần tránh
thương vụ nào và thương vụ nào th́ có lời; thời gian ta cần có là biểu hiện
của luật luân hồi. Nhưng chẳng những ta cần thời gian mà ta c̣n cần kinh
nghiệm nữa. Ta ắt phải đau khổ trong những thương vụ lỗ lă và gặt hái được
hạnh phúc trong những thương vụ có lời. Nhưng chúng ta không thấy được kết
quả th́ chúng ta cũng chẳng biết cách so sánh giá trị tương đối của đủ thứ
thương vụ mà trong nhất thời chúng ta chẳng biết ǵ về bản chất của chúng.
Nguyên nhân không thể nói cho biết được bản chất của chính nguyên nhân mà
chỉ có kết quả mới nói rơ hơn nhiều. Luật nhân quả dạy rằng nhân nào th́ quả
nấy, nhưng theo kinh nghiệm thực tế th́ trước hết ta học biết rằng quả nào
th́ nhân nấy. Chỉ sau khi trải nghiệm nhiều kết quả th́ chúng ta mới biết
cách tránh nguyên nhân, tức là biết cách phát động nguyên nhân khiến cho tùy
theo đó mà kết quả mang lại là hạnh phúc hay đau khổ. Ngay cả đến lúc đó,
chúng ta cũng chỉ tạm thời thỏa măn với những nguyên nhân tạo ra các kết quả
mà khả năng mang lại thú vui chỉ rất hạn chế. Nói cách khác, chúng ta hài
ḷng với kết quả ngay trước mắt cho dẫu phù du nếu là nó thỏa măn được ta
nhất thời. Đây là trường hợp của hầu hết mọi người khiến cho họ bị xếp vào
hàng ngũ không hiểu biết. Tuy nhiên bạn nên nhớ rằng có một giai đoạn thứ ba,
giai đoạn mà cá nhân dứt khoát thệ nguyện đi theo một đường lối cư xử nào đó
để cho ḿnh xứng danh là người ít ra th́ cũng đang học cách hiểu biết bằng
việc trải qua cuộc Điểm đạo nhập vào cuộc sống rộng lớn thênh thang hơn. Y
là thành viên sau khi đă tỏ ra ḿnh có thể quản lư khôn ngoan số vốn của
ḿnh trong một phạm vi tương đối hẹp th́ chẳng những được tạo cho cơ hội
phát triển vốn nhanh hơn và rộng lớn hơn mức b́nh thường có thể được mà c̣n
được phép chia xẻ trách nhiệm được giao phó cho ban giám đốc của doanh
nghiệp điều hành việc kinh doanh theo sự dẫn dắt của Đấng Chúa Tể nhằm giúp
cho các thành viên trẻ tuổi đạt được kinh nghiệm cần thiết. Thật vậy, y là
một giám đốc trẻ nhưng chính hiệu là giám đốc mặc dù có những người trên y
đảm đương những trách nhiệm c̣n lớn hơn nữa; những người này thuộc hàng ngũ
các Điểm đạo đồ cao cấp.
CON ĐƯỜNG TIẾN HÓA
Người ta đă trải qua
nhiều giai đoạn tiến hóa khác nhau bằng cách đó và cá nhân dần dần học cách
phát triển số vốn tâm linh của ḿnh sao cho một ngày kia trong một tương lai
xa tít vời, y sẽ trở thành chủ nhân của một doanh nghiệp, Chúa Tể của một
thế giới. Chúng ta biết rằng có một lớp thương vụ có lời (ta dùng từ này
theo nghĩa cao thượng nhất) đó là lớp bao hàm việc phụng sự vốn là cốt lơi
của hi sinh. Thượng Đế là Đấng Hi Sinh vĩ đại bởi lẽ thay v́ chỉ sống dựa
vào số vốn của ḿnh, Ngài chẳng những chia xẻ vốn cho tất cả chúng ta mà
thông qua Đấng Chúa Tể thế gian c̣n rèn luyện cho ta phát triển vốn của ḿnh
đến mức tối đa. Tôi xin kính cẩn nói rằng ngay cả Đấng Chúa Tể thế gian cũng
là vĩ đại v́ Ngài đă hi sinh để dẫn dắt cơ tiến hóa của ta khiến cho từ mức
độ cao cả của Ngài, Ngài c̣n thăng tiến lên một sự rực rỡ tâm linh nhiều hơn
nữa. Khi ta đạt tới mức của Ngài thực hiện sự Hi sinh vĩ đại và cao cả th́
vẫn cứ quần quật lao động trong khi lẽ ra đă thừa sức được hưởng thụ để cho
số vốn tâm linh của ta phát triển đến mức ta có được một kinh phí khổng lồ,
sao cho ta cũng sẽ hi sinh để rồi được tưởng thưởng. Muốn làm như thế ta
phải từng bước trải qua những sự hi sinh trung gian, bước nhỏ đưa tới bước
lớn; và chỉ khi ta phụng sự và hi sinh tỉ lệ với số vốn mà ta có th́ ta mới
có thể hi vọng phát triển được số vốn ấy và phát triển thêm nữa. Tuy nhiên
nghệ thuật phụng sự - lẽ ra tôi nên gọi nó là “khoa học” – đâu phải chỉ học
được trong một ngày hoặc chỉ nội trong thời gian ngắn ngủi trong một kiếp.
Trước hết là phải phụng sự bản ngă nhỏ mọn. Xét về thế giới phương Tây và
càng ngày cũng giống như vậy ở phương Đông, trọn cả khuynh hướng ngày nay
đều nhằm cưỡng chế cá nhân nhấn mạnh tới bản thân. Y học tập qua đủ thứ cạnh
tranh, tranh chấp, theo những mệnh lệnh của tham vọng cá nhân, chỉ quan tâm
tới phúc lợi của riêng ḿnh và có lẽ của những người trực tiếp tùy thuộc vào
ḿnh. Phúc lợi cá nhân, quyền lực cá nhân, ảnh hưởng cá nhân, năng lực cá
nhân – người ta đeo đuổi theo hết và phải học bài học là thấy tất cả đều phù
phiếm ngoại trừ khi nó được dùng cho việc phụng sự lớn lao hơn. Thường
thường là cuối mỗi kiếp sống được dành cho những sự đeo đuổi như thế, con
người thấy rốt cuộc chẳng mang lại được hạnh phúc chân thực bao nhiêu cho
ḿnh, và y hối hả chạy theo con đường khác bằng cách hoang phí những ǵ ḿnh
thu lượm được trong một thế giới mà xưa kia ḿnh đă chiếm đoạt từ đó. Nếu
không c̣n kiếp sống nào khác th́ hành động như vậy ắt là quá muộn v́ chỉ nội
trong một năm bạn không thể chuộc tội cho thời gian ích kỷ trọn đời. Nhưng
tương lai c̣n mở ra trước mắt y và có lẽ y sẽ học được bài học này trong
thời kỳ yên nghỉ giữa kiếp này và kiếp tới, y sẽ có đủ thời giờ nhàn rỗi
(cũng như tầm nh́n trong sáng hơn mà nội giới ban cho y) để quyết định về
một cuộc đời sẽ ít hạn hẹp hơn so với cuộc đời mà y đă dành trọn cho những
quyền lực nhỏ mọn của ḿnh. Quả thật là y sẽ phải trả giá cho mọi sự gây hại
mà y đă tạo ra, phải trả giá trọn vẹn cho những món nợ trong những thương vụ
lỗ lă, nhưng chẳng những y có thời gian để trả nơ mà c̣n có thời gian và cơ
hội để hoạch định những kế hoạch mới hài ḥa với tầm nh́n rộng lớn hơn mà y
đă có được. [Ta hăy so sánh sự tăng trưởng của linh hồn với một căn nhà có
một số lớn cửa sổ và cửa ra vào hầu hết đều bị đóng kín. Mặt trời đang chiếu
sáng ở bên ngoài nhưng tia nắng chỉ vào được một hoặc hai pḥng thôi. Dần
dần th́ người ở trong nhà – linh hồn – đánh giá cao hơi ấm mang lại sự sống
của mặt trời, mặc dù y vẫn c̣n phần nào sống trong bóng tối và tưởng tượng
rằng thế là cũng đủ rồi. Nhưng khi y bước vào những căn pḥng có cửa sổ và
cửa ra vào mở toang đón ánh nắng, th́ sự tương phản giữa bóng tối và ánh
sáng bắt đầu làm y choáng váng. Khi trở lại bóng tối y nhớ tha thiết ánh
sáng và mưu t́m cửa sổ cũng như cửa ra vào để cho y cũng có thể mở cửa được.
Hết pḥng này đến pḥng khác được chiếu sáng cho tới khi căn nhà hầu như
không c̣n là nhà nữa – chỉ c̣n là một số bức tường ở giữa các cửa ra vào và
cửa sổ - và chỉ dùng vào mục đích tập trung ánh nắng bên trong giới hạn của
ḿnh. Căn nhà là phàm nhơn của con người, là các thể trí, vía và xác của y.
Mỗi pḥng là một quyền năng hoặc năng lực và chủ nhà là Chơn ngă – Chơn nhơn
tức Linh hồn. Căn nhà càng tối th́ nó càng thiếu lành mạnh, càng có nhiều
bụi bậm th́ nó càng lôi thôi lếch thếch. Nhưng “nhà” của Chơn sư chỉ là lối
đi dành cho ánh nắng, và các hạ thể của Ngài chỉ là những lăng kính (tạm
dùng một ẩn dụ khác) để cho các tia sinh khí tuôn ra với cường độ tập trung.
Nếu tính khí của bạn thích hợp th́ hăy suy gẫm điều nêu trên theo cách tŕnh
bày biểu tượng của nó].
Ta có thể viết nhiều hơn
nữa về sự thật vĩ đại và cốt yếu này. Ta có thể đề cập tới nhiều định luật
khác và có vô số cách ứng dụng chúng. Nhưng tôi chỉ có thể hi vọng rằng bạn
sẽ suy gẫm kỹ về những điều này và tự ḿnh lấp đầy khoảng trống mà tôi bắt
buộc phải bỏ dở. Quyển Dưới Chơn Thầy
dạy cho ta phân biện những thương vụ có lời và những thương vụ không có
lời. Có thể là nó chỉ cho ta cách đầu tư vốn sao cho vốn có thể tăng lên gấp
nhiều lần. Bạn hăy đầu tư vào một tư tưởng tốt, một xúc cảm tử tế, một lời
nói hoặc hành động tốt bụng, và sẽ có nhiều điều được đền đáp lại cho bạn –
trước hết là có thêm khả năng suy nghĩ, xúc cảm, nói năng và hành động tử tế.
Nếu bạn đầu tư vào sự ích kỷ th́ vốn của bạn (quyền năng của bạn) sẽ giảm
đi. Khi vốn của bạn giảm đi – có lẽ ta nên nói chính xác hơn là càng ngày nó
càng bị bỏ lơ – th́ hạnh phúc của chính bạn cũng như của những người khác
cũng giảm theo tỉ lệ đó cho tới lúc hạnh phúc của bạn khô kiệt đến nỗi bạn
thất vọng phải t́m một con đường khác hơn là sự ích kỷ.
CHÚ THÍCH
Trọn cả vấn đề về chủ
đích của thế giới cũng như sự tồn tại của Thượng Đế và nguồn gốc của tự tại
là phức tạp nhất và thường gây ra sự rối trí. Một người bạn trẻ mà tôi quen
biết khi nghe nói Thượng Đế tạo ra thế giới lại muốn biết ai tạo ra Thượng
Đế, và thắc mắc này là hợp lư nhất. Mặt khác, các bậc phụ huynh và trưởng
thượng ắt có chính sách tốt hơn nếu hiểu ra được rằng chẳng mong ǵ ḿnh có
thể giải đáp được mọi thắc mắc mà lũ con trẻ nêu ra; đó cũng là thẳng thắn
hơn nữa. Cá nhân tôi có lập trường rằng với vai tṛ là một đơn vị vô nghĩa
trong thế giới phức tạp này th́ tôi chẳng thể nào hiểu được nhiều ngoại trừ
một phần rất hạn chế của Thiên cơ dành cho loài người. Mọi điều mà tôi có
thể hi vọng đạt được là một giả thuyết để kiểm chứng tương đối bất toàn phù
hợp với tính khí và số phận của tôi; mặc dù giả thuyết này có thể soi sáng
cho những người khác, song le họ phải nghĩ ra giả thuyết của chính ḿnh kết
hợp những đặc điểm trong giả thuyết của những người khác sao cho nó có thể
hài ḥa với kế hoạch chung trong cấu trúc của họ. Chủ điểm trong giả thuyết
của tôi tập trung vào sự thật là trên thế giới có sự phiền năo và bất hạnh;
trong khi tôi có thể mang lại một mức độ nào đó sức mạnh và sự an ủi về mặt
thể chất và xúc động cho những người chịu ảnh hưởng của tôi th́ tôi cũng có
thể mang lại sức mạnh và sự an ủi trí tuệ - trước hết bằng cách cố gắng t́m
hiểu mục đích của cuộc sống để rồi áp dụng sự hiểu biết đó mà ḿnh đă được
nhằm trợ giúp đồng loại, cả hai thực tế là đang phấn đấu trợ giúp họ để thấy
rơ hơn sự rực rỡ trong tương lai của họ, cho dù nó có thể bị che khuất đi
bởi những đám mây vô minh và chán nản xen vào giữa.
Tôi xin lập lại bằng một
cách nói khác những ư tưởng giúp tôi lập nên giả thuyết của ḿnh.
Một linh hồn Thượng Đế -
ư thức bản thân ḿnh là Thiêng liêng – chỉ sống trên cơi thiên tính thuần
túy không bị hạn chế bởi vật chất thô trược hơn vật chất của cơi hoặc mức độ
mà Ngài sống trên đó. Trong quá khứ vô lượng Ngài cũng giống như chính chúng
ta hiện nay, một đốm lửa cháy bùng lên thành ngọn lửa do sự ma sát của vật
chất dưới mọi h́nh tướng và mật độ. Giờ đây đă là một Ngọn Lửa rồi, Ngài
tuôn ra những đốm lửa – những ngọn lửa tiềm tàng – và khoác lên chúng hết
lớp này đến lớp khác vật chất càng ngày càng thô trược, bản thân nó là chất
liệu tạo ra ngọn lửa. Theo thời gian đốm lửa cháy hết lớp này đến lớp khác
và trong quá tŕnh mà ta gọi là kinh nghiệm th́ nó càng ngày càng chói sáng,
và cuối cùng bùng vỡ ra thành một Ngọn Lửa chói lọi. Một điểm linh quang từ
lửa nếu được đặt đúng chỗ có thể chính ḿnh trở thành lửa giống như lửa là
cội nguồn của nó. Việc quạt cháy đốm lửa được hoàn thành do những định luật
của thiên nhiên, do nhân quả luân hồi, và vô số tác động và phản tác động
liên quan tới thế giới bên ngoài chúng ta mà chúng ta không ngừng sống trong
đó. Chính vật chất mà chúng ta ngự trong đó cũng tăng trưởng đến nỗi từ đó
sẽ tuôn ra các đốm lửa giống như những đốm lửa là chúng ta. Sự khác nhau
giữa vật chất xung quanh tôi, những cái cây, biển cả, thú vật, khoáng vật,
đó là vật chất bên trong tôi có tập trung đủ nhiệt Thiêng liêng của Thượng
Đế khiến cho một đốm lửa có thể bành trướng ra thành một ngọn lửa riêng
biệt, c̣n thiên tính làm linh hoạt cây cối thú vật và khoáng vật được trải
ra trên một vùng rộng hơn, không được thu hẹp lại và tụ tập lại nơi một
điểm. Một số con thú, một số cây cối c̣n lớn hơn nữa, một đống kim loại c̣n
lớn hơn nữa chia nhau nhiệt của thiên tính và phải trải qua biết bao nhiêu
thời đại th́ nhờ vào kinh nghiệm thuộc lớp của ḿnh, bất kỳ h́nh tướng cá
biệt nào mới tập trung được bên trong ḿnh nhiệt sao cho nó có thể bùng vỡ
ra thành một đốm lửa; và kim loại phải nhập vào giới thực vật để được chia
nhỏ ra nữa, rồi từ đó chuyển sang giới động vật để c̣n được chia nhỏ ra thêm
nữa cho tới khi nó đạt tới giới nhân loại mà mỗi đơn vị trong đó chính là
một điểm linh quang.
V́ vậy để đạt tới Thượng
Đế, chúng ta phải trở thành chính Thượng Đế, và không có một sự kính cẩn nào
đối với Ngài, không có một bằng chứng thuyết phục nào về sự toàn tri và toàn
hiện của Ngài lại nhiều hơn mức gán cho Ngài ư muốn khiến cho mỗi một người
trong chúng ta hoàn hảo theo h́nh ảnh của riêng Ngài. Đó là v́ Ngài chẳng
thể làm được điều ǵ khác hơn là khiến cho chúng ta giống như Ngài. Tôi có
thể viết nhiều hơn nữa về đề tài này cho dù điều mà chính tôi đă nêu ra tua
tủa những khó khăn, nghi ngờ và điều khả hữu, nhưng nếu bạn đọc suy gẫm kỹ
th́ họ ắt thấy bắt đầu có một đường lối tư tưởng mang lại trật tự cho một
thế giới xét theo biểu kiến là hữu hạn và không có mục đích.
CHƯƠNG V
SINH HOẠT TRÊN ĐỜI
Chơn sư tiếp tục vạch ra:
“Giữa điều thực và điều không thực có rất nhiều loại”, và trước đó Ngài đă
đề cập tới một biến thể khi Ngài nhận xét rằng “chẳng có chi là quan trọng
cho dù một người tự xưng là người Ấn giáo hay Phật giáo, Ki Tô giáo hay Hồi
giáo, cho dù y là người Ấn Độ hay người Anh, người Trung Hoa hay người Nga”.
Đó là v́ “nếu y ở về phía Thượng Đế th́ y là một với chúng ta”. Thế mà từ
phát biểu nêu trên bạn không được kết luận rằng tôn giáo không quan trọng và
có rất ít giá trị; mặc dù người ta cho chúng ta biết thêm rằng nghi lễ không
quan trọng đối những người đă ở một tŕnh độ phát triển nào đó. Tôn giáo rất
quan trọng nhưng sự thật c̣n vô cùng quan trọng hơn và những người nào hiểu
biết – trong khi dùng một vài dạng đặc biệt nào đó của sự thật được phô bày
trong một tôn giáo đặc thù – đều mưu t́m sự thật bên trong h́nh tướng và
biết rằng Thượng Đế (Ngài là hiện thân của Sự Thật) biểu lộ theo nhiều cách.
Thật vậy, một dạng tôn giáo đặc biệt có rất nhiều giá trị đối với những kẻ
nào chưa biết rằng mọi tôn giáo đều xuất phát từ cùng một nguồn gốc; Đấng
lănh đạo bộ môn giáo huấn của thế gian ngay cả giờ đây vẫn trông chờ thế
giới sẵn sàng đón tiếp Ngài một lần nữa. Tôn giáo khiến cho sự thật rành
rành ra đối với những kẻ nào c̣n phải chứng ngộ rằng có nhiều con đường dẫn
tới Đấng Nhất Như và Ngài hoan nghênh tín đồ của ḿnh trên mỗi con đường đó
(Xin trích dẫn một kinh điển của Ấn Độ). Hầu hết mọi người đều cần có những
qui tắc sống được áp đặt từ bên ngoài trước khi họ học cách rút tỉa được
chúng từ bên trong, và thỉnh thoảng có các vị đại Đạo sư giáng lâm để h́nh
thành những qui tắc đặc biệt cho những hoàn cảnh đặc biệt mà một giống dân
đang được rèn luyện theo đó, hoặc sửa đổi những qui tắc cũ phù hợp theo tiến
bộ đă đạt được. Ki Tô giáo được ban ra cho thế giới phương Tây là sự phát
biểu tập hợp lư tưởng đặc biệt mà nó phải dọn đường hướng về những lư tưởng
ấy. Ấn Độ giáo trổi lên một nốt nhạc khác hẳn, tuy nhiên nó cũng cần thiết
cho sự hoàn thành bản hài âm của vũ trụ. Tiếc thay thiên hạ thường có khuynh
hướng chẳng những tưởng tượng rằng các qui tắc của chính ḿnh diễn tả trọn
cả sự thật cho toàn thế giới, mà c̣n là họ được Thượng Đế bổ nhiệm để tuyên
bố sự vô giá của mọi qui tắc khác, và khiến cho tín đồ của những qui tắc
khác phải qui y theo giáo hội chân chính duy nhất. Rơ ràng đây là trường hợp
ngă mạn, tự cho ḿnh là đúng. Vào thời Ṭa án Tôn giáo, người ta dùng những
phương tiện bạo lực để ép buộc những người theo một h́nh thức chân lư khác
hoặc là phải thề bỏ h́nh thức này hoặc là sẽ bị tiêu diệt. Thời nay chúng ta
có những phong trào truyền giáo cho cái gọi là “người ngoại đạo” thật là
đáng khâm phục xét về phương diện thuần túy y học và giáo dục khi dành cho
các bộ lạc thổ dân, nhưng nó lại bị hư hỏng do ḷng ích kỷ không biết khoan
dung và ḷng tự măn vốn tưởng tượng rằng Thượng Đế đă tuyển chọn ḿnh. Nếu
những nhà truyền giáo tiếp tục làm những ǵ mà giờ đây họ đang làm theo
đường lối thế tục và phải phối hợp điều này với một sự kính cẩn thám sát tôn
giáo mà họ phải làm việc bên trong đó, th́ họ ắt cũng thuộc vào hàng ngũ
những người hiểu biết thay v́ thuộc hàng ngũ kẻ vô minh khi bảo rằng: “Điều
mà tôi tin là đúng, c̣n điều mà tôi không tin là sai”.
MỌI TÔN GIÁO ĐỀU CÓ MỘT NGUỒN GỐC CHUNG
Theo phát biểu của Chơn
sư th́ chúng ta biết rằng h́nh thức tôn giáo mà một người sinh ra trong đó
là không quan trọng. Nói cách khác, chúng ta sinh vào một tôn giáo đặc biệt
hoặc là v́ ta cần tới những ảnh hưởng đặc thù của nó để phát triển bản chất
của ḿnh, hoặc là ta phải t́m cách vượt qua h́nh thức ràng buộc của nó mà
không mất đi ḷng tôn trọng sự thật là cho ta cao cả. Chẳng hạn như ta nên
khuyên hầu hết Ki Tô hữu hăy tuân theo những nguyên tắc chung trong tôn giáo
của chính ḿnh, tuy nhiên lại không chú ư nhiều hơn nữa tới h́nh tướng mà
phải chú ư tới việc tỏ ra hữu dụng. Các nghi thức và nghi lễ Ki Tô giáo có
lẽ có giá trị đối với họ, nhưng qua việc thực hành h́nh thức nên dần dần t́m
đường đi vào tinh thần bên trong sao cho cuối cùng th́ h́nh thức sẽ bị bỏ đi
v́ công việc nó đă xong rồi. Bạn hăy nh́n xung quanh ḿnh nào là con người,
nào là thú vật, nào là cây cối, nào là hoa quả, nào là biển cả với đủ dạng
thức, nào là những tảng đá cao ṿi vọi. Tinh thần Thượng Đế quả thật thấm
nhuần tất cả, nhưng chính h́nh tướng mới khiến cho bạn mưu t́m chủ nhân ông
bên trong nên chẳng lấy ǵ làm lạ khi hiện nay th́ h́nh tướng cũng đủ rồi.
Bạn biết rằng Thượng Đế ở bên trong h́nh tướng, nhưng Thượng Đế và h́nh
tướng lại hiệp nhất với nhau đến nỗi bạn bám lấy h́nh tướng th́ bạn có thể
sờ thấy, cảm thấy, và bạn coi Thượng Đế là hiển nhiên. Đối với các nghi thức
tôn giáo th́ cũng vậy, chúng hấp dẫn các giác quan và ta coi ư nghĩa nội tại
của chúng là hiển nhiên đến nỗi theo thời gian th́ ta hoàn toàn bỏ qua chúng,
thậm chí có lẽ nh́n bề ngoài cũng chẳng thấy. Tuy nhiên sớm muộn ǵ th́ ta
cũng không c̣n có thể coi Thượng Đế là hiển nhiên nữa, và đă đến lúc bắt đầu
học bài học theo đó h́nh tướng chỉ là những đốm lửa tạm thời mà Thượng Đế
phóng ra để khiến người ta chú ư tới bản chất của Ngài. Bạn hăy đùa giỡn với
những đốm lửa và học cách yêu thương chúng – tất nhiên là như vậy v́ ngay cả
các đốm lửa cũng chập chờn và biến mất; các đốm lửa mới sẽ túa ra, các h́nh
tướng mới sẽ thế chỗ cho h́nh tướng cũ; và trong khi tuyệt vọng bám lấy
những h́nh tướng tất yếu phải chết đi th́ bạn lại nảy sinh ra ư muốn một
điều ǵ đó trường tồn đằng sau mọi sự biểu lộ vô thường. Lúc bấy giờ bạn bắt
đầu hiểu ra được tín đồ Ấn giáo, Phật giáo, Ki Tô giáo, Hồi giáo đều sống
bên trong phần chân lư của riêng ḿnh. Họ giống như những người sống trong
các căn pḥng khác nhau bên trong cùng một căn nhà. Một số người hảnh diện
về pḥng của riêng ḿnh và không biết rằng có những pḥng khác cũng đẹp như
pḥng của ḿnh. Khi thấy người ta ở những pḥng khác, họ bèn bảo người ta
rằng: “Hăy vào pḥng tôi. Pḥng tôi đẹp hơn pḥng các bạn nhiều. Pḥng của
bạn trống không và thiếu đồ đạc. Hăy xem pḥng tôi dễ sống hơn nhiều !”. Và
người ta trả lời y: “Pḥng tôi thích hợp với tôi. Tôi đă quen với nó rồi. Đồ
đạc trong đó hữu ích nhất cho công việc mà tôi phải làm. Nó có những tiện
ích mà pḥng bạn lại thiếu, cũng như pḥng bạn có những tiện ích dành cho
bạn mà pḥng của tôi lại thiếu”. Chúng ta đều sống trong cùng một căn nhà.
Chừng nào chúng ta chưa di chuyển đi từ pḥng này sang pḥng khác mà không
phải phê phán và kính cẩn đánh giá cao những sự sắp xếp trong pḥng người
khác th́ mỗi người tốt hơn là nên ở trong pḥng của riêng ḿnh. Nhưng sẽ đến
lúc khi chỉ sống trong một pḥng thôi không c̣n dễ chịu nữa và kẻ thật sự ở
trong nhà phải là kẻ thấy ḿnh thoải mái và được đánh giá cao khi ở trong
mọi pḥng mà làm vui ḷng những người đă ở sẵn trong pḥng đó, mặc dù chắc
chắn là y thích căn pḥng đặc biệt của riêng y.
CÁC GIỐNG DÂN LÀ CÁC LỚP HỌC TRONG TRƯỜNG HỌC CỦA ThưỢng ĐẾ
Cũng giống như vậy, một
người nam nữ thuộc về giống dân nào th́ không quan trọng “cho dù là y là
người Ấn Độ hay người Anh, người Trung Hoa hay người Nga”. Mỗi giống dân đều
có việc phải làm cũng như mỗi tôn giáo của ḿnh và những người hiểu biết
chẳng những không có thành kiến về chủng tộc mà c̣n đánh giá cao đức tính
của mọi giống dân, c̣n biết ơn khi giúp đỡ ở bất cứ xứ sở nào mà việc phụng
sự Chơn sư kêu gọi họ tới. V́ tôn trọng tập quán và đức tin của những người
mà họ nhất thời làm việc trong đó, cho nên họ t́m ra được mục đích tồn tại
của giống dân này và phấn đấu xúc tiến mục đích cho đạt mức tối đa. Mỗi
giống dân đều có nốt nhạc của riêng ḿnh để trổi lên trong bản hài âm vũ trụ,
cũng như đều có mỗi tôn giáo của riêng ḿnh và nếu chúng ta không ưa một tôn
giáo hoặc một giống dân th́ có lẽ là một ngày kia chúng ta sẽ phải sinh ra
trong hàng ngũ của họ để khắc phục được sự vô minh của ta về vai tṛ mà họ
thủ diễn trong sự tăng trưởng của tất cả chúng ta.
Lúc bấy giờ chúng ta sẽ
đạt được đủ thứ nguyên tắc tổng quát vốn là nền tảng của một vài loại phân
biện: phân biện “giữa điều đúng và điều sai, điều quan trọng và điều không
quan trọng, điều hữu ích và điều vô ích, điều đúng thật và điều giả dối,
điều ích kỷ và điều không ích kỷ”.
CHƠN SƯ VÀ CHÚNG TA
Chơn sư dạy rằng: “không
khó khăn ǵ để chọn lựa giữa điều đúng và điều sai, v́ kẻ nào muốn theo Chơn
sư th́ đă phải quyết định chọn điều đúng bằng bất cứ giá nào”. Đây là một sự
thật lớn được nêu ra theo một cách thức khá kỳ lạ. Có lẽ bạn thắc mắc liệu
Ngài có nói về chính ḿnh không. Cá nhân tôi tưởng tượng rằng Ngài nói về
những Đấng c̣n cao cả hơn Ngài nữa, Alcyone chuyển dịch tư tưởng của Chơn sư
về thượng cấp của Ngài thành ra để diễn tả mối quan hệ của chính ông với
Chơn sư. Điều này không quan trọng, nhưng ta học được sự thật rất có ư nghĩa,
theo đó cá nhân nào muốn được Chơn sư Minh triết dẫn dắt th́ phải quyết định
quan trọng tách rời ḿnh ra khỏi những kẻ không hiểu biết. Sự thật quả thực
là mục tiêu tối hậu của chúng ta, nhưng sớm muộn ǵ chúng ta cũng tất yếu
phải hợp nhất với những Đấng gần mục tiêu hơn chính chúng ta. Bạn ắt thấy có
những người ở đủ mọi giai đoạn trung gian, và bạn nên nhớ một số những giai
đoạn này là ǵ. Chẵng hạn như một số người tận tụy với những lư tưởng trừu
tượng và nhất thời không cảm thấy cần được Chơn sư dẫn dắt. Những người khác
dấn thân vào việc hi sinh hết ḿnh nhưng trong các hạ thể th́ họ lại không
biết Chơn sư tồn tại, thậm chí có lẽ c̣n chối bỏ sự tồn tại của Chơn sư nữa.
Một số người lại muốn theo một Chơn sư nhưng chẳng biết phải theo ai. Nên
nhớ rằng cho dù thái độ của bất cứ ai có ra sao đi nữa đối với chính Chơn sư
th́ Ngài cũng biết mỗi một và mọi người trong chúng ta, Ngài dẫn dắt chúng
ta tiến về số phận của ḿnh theo con đường mà chúng ta đă quyết định bước
trên đó. Làm sao có thể khác hơn được ? Trong gia đ́nh nào xứng đáng với tên
gọi này mà bậc cha mẹ, anh chị lớn lại không yêu thương che chở và d́u dắt
đàn con em thơ dại ? T́nh thương càng thuần khiết th́ sự d́u dắt càng hoàn
hảo và trong gia đ́nh thế gian th́ những Người Hoàn Hảo (các bậc Huynh
trưởng) ắt là dẫn dắt hoàn hảo. Người ta có thể muốn bác bỏ sự giúp đỡ hoặc
nổi loạn chống lại sự can thiệp xét theo biểu kiến; nhưng họ không thể tránh
được sự quan tâm của Chơn sư cũng như họ không thể thoát được sự đơn nhất
ràng buộc chúng ta lại làm một; trong khi đó Chơn sư thừa biết rằng không ai
có thể trở nên hoàn hảo nếu y không được hoàn toàn tự do. Nhưng chính t́nh
huynh đệ của trọn cả loài người đă khiến cho các Ngài hiệp nhất với chúng ta,
và sự dẫn dắt của các Ngài là biểu tượng bên ngoài của sự đơn nhất mà chúng
ta được chia xẻ. Nếu sự đơn nhất là việc hạn chế tự do th́ quả thật chúng ta
không được tự do; nhưng sự đơn nhất mang lại cho chúng ta khả năng tự do và
là bằng chứng sống động về thiên tính của chúng ta.
Mỗi cá nhân đều nhất
thời thỏa măn với những lư tưởng của ḿnh và người ta ắt thường bảo bạn rằng
ư niệm làm học tṛ của một Chơn sư không giúp đỡ ǵ cho họ, và tính khí của
họ loại trừ ư tưởng lệ thuộc hoặc trông cậy vào bất kỳ ai nếu đó không phải
là Thượng Đế nội tâm của ḿnh. Nếu họ đang hài ḷng th́ bạn chẳng việc ǵ mà
thử làm họ phiền nhiễu. Họ đang học bài học mà giai đoạn này phải dạy dỗ và
khi họ đă thực sự t́m ra Thượng Đế nội tâm th́ họ sẽ thức tỉnh với sự thật
là họ không thể tách ḿnh ra khỏi những bộ phận khác của một tổng thể lớn
hơn. Lúc bấy giờ họ sẽ biết rằng các Chơn sư là các bậc Huynh trưởng và ắt
hiểu ra được rằng cũng như bản thân họ phải có nghĩa vụ dẫn dắt những người
vô minh hơn ḿnh; cũng vậy các Chơn sư giúp đỡ họ do minh triết lớn hơn bao
giờ cũng có nghĩa vụ giúp minh triết nhỏ hơn.
Thượng Đế nội tâm có ư thức về sự dẫn dắt này và nhất thời th́ việc
phàm ngă vẫn không có ư thức hoặc chối bỏ không có ǵ là quan trọng. Đứa trẻ
sơ sinh ngủ an toàn trong ṿng tay người mẹ; người thanh niên khi lớn lên có
ngă thức t́m các đo lường quyền năng của ḿnh bằng cách tỏ ra độc lập; người
trưởng thành khi đă biết hết quyền năng và những hạn chế của ḿnh bắt đầu
đánh giá cao sự âu yếm ấp ủ của người mẹ, và có lẽ giờ đây tôn kính bà hơn
bao giờ hết. Khi nh́n ngoái lại cuộc đời ḿnh y thấy được vai tṛ của bà thủ
diễn nhằm dẫn dắt y qua những rắc rối của cuộc đời, và y nhận thấy rằng sớm
muộn ǵ th́ xét theo biểu kiến y cũng có tự do lớn nhất do bà chăm chú theo
dơi và săn sóc ḿnh, tuy rằng tích cực nhưng không ai nhận ra và chú ư tới.
C̣n về phần người mẹ chưa được hoàn hảo th́ Chơn sư lại hoàn hảo rồi, và tất
cả chúng ta đều phải trải qua giai đoạn từ sơ sinh tới trưởng thành. Giống
như những đứa trẻ con, chúng ta phải học cách nghĩ rằng chúng ta độc lập,
nhưng bước đi hạnh phúc nhất thực ra là khi chúng ta có thể nh́n đăm đăm vào
các bậc Huynh trưởng thân thương trước mắt ta cùng với những người bạn ở bên
cạnh ta, và những người trẻ hơn ít hiểu biết hơn chúng ta đang bước vào
những chỗ mà chúng ta đă bước chân qua rồi.
THỂ XÁC VÀ CON NGƯỜI LÀ HAI THỨ KHÁC NHAU
Bây giờ chúng ta xét tới
câu tổng kết minh bạch của Chơn sư về cuộc xung đột mà tất cả chúng ta phải
trải qua đó. “Thể xác và con người là hai thứ và con người không luôn luôn
muốn điều mà thể xác mơ ước”. Nên nhớ rằng “những kẻ muốn theo Chơn sư th́
phải quyết tâm chọn điều đúng bằng bất cứ giá nào”.
Bằng bất cứ giá nào. Nhưng quyết
định này phải được thực hiện bởi phần cao siêu nhất nơi chúng ta, và trong
khi các hạ thể phải chịu ảnh hưởng của quyết định đó th́ đâu phải lúc nào
chúng cũng muốn thi hành nó trong phạm vi của riêng ḿnh. V́ vậy “bằng bất
cứ giá nào” có nghĩa là bất cứ giá nào đối với các hạ thể mà phần cao siêu
nhất nơi chúng ta đă đạt được việc kiểm soát vật chất thuộc đủ mọi mật độ.
Điều cao nhất nơi chúng ta không thể không quyết định. Quyết định này thuộc
về bản thể của nó, nhưng người ta phải trải qua biết bao nhiêu thời đại
trước khi ta có thể dạy dỗ các hạ thể để đáp ứng với ước vọng của Chơn sư,
cũng như phải mất một thời gian dài mới rèn luyện được con thú được hoàn hảo.
Vậy là quyết định chỉ mới bắt đầu hữu hiệu sau khi trải qua biết bao nhiêu
thời đại tiến hóa chậm chạp th́ Thượng Đế đang h́nh thành bên trong chúng ta
cuối cùng bắt đầu nhận được một sự đáp ứng
hữu thức từ bản chất thấp hèn.
Tuy nhiên trong một thời gian dài sự đáp ứng này phải có bản chất gián đoạn
v́ hai cực c̣n chưa được điều chỉnh với nhau để tạo ra một tia lửa thường
xuyên. Vậy là Chơn sư giải thích cho chúng ta đủ kiểu mà các hạ thể không
chịu đáp ứng như lẽ ra chúng phải vậy. Ngài cảnh báo chúng ta rằng: “Khi thể
xác con muốn một điều ǵ đó, hăy dừng lại và suy nghĩ xem liệu con có thực
sự muốn điều đó chăng. V́ con là
Thượng Đế cho nên con chỉ muốn điều mà Thượng Đế muốn; nhưng con phải đào
sâu vào bên trong chính ḿnh th́ mới t́m được Thượng Đế nội tâm, và hăy lắng
nghe tiếng nói của Ngài, đó chính là tiếng nói của
con vậy”. Khi giải thích điều này,
Ngài nhắc chúng ta nhớ rằng chúng ta không được nhầm lẫn các hạ thể với chơn
ngă – “cả thể xác, thể vía và thể trí đều không phải là chơn ngă”. “Mỗi một
thể đều giả vờ là Chơn ngă để có được điều mà ḿnh muốn. Nhưng con phải biết
chúng hết và biết ḿnh là chủ của chúng”.
Khó khăn là ở chỗ phải
biết ngay lúc đó. Sau một thời gian nào đó, chúng ta có thể nh́n lại đủ kiểu
mà các hạ thể giả vờ làm Chơn ngă, và chúng ta tự nhủ: “Sao tôi lại ngu thế
không biết” hoặc “Chuyện không có ǵ mà tôi cũng ầm ĩ” hoặc “Vào lúc đó tôi
chẳng c̣n nghĩ được điều ǵ khác hơn”. Nhưng tại sao những hạ thể này lại
giả vờ làm Chơn ngă ? Bởi v́ quyền lợi của chúng là phải làm cho ta tiến hóa
càng chậm càng tốt. Nơi chúng sự sống và h́nh tướng dường như ràng buộc với
nhau đến nỗi mà nếu h́nh tướng diệt vong th́ sự sống có vẻ chẳng c̣n giá trị
ǵ, thậm chí chẳng c̣n tồn tại được nữa. H́nh tướng là thế giới của chúng –
thế giới của thể xác, thể vía và thể trí – và bất kỳ quá tŕnh nào có khuynh
hướng tiêu diệt h́nh tướng đều là sự công kích vào thế giới tồn tại của
chúng. Bạn hăy nghĩ xem biết bao nhiêu người vẫn c̣n tin rằng chết là hết.
Liệu Thượng Đế nội tâm có nghĩ như thế chăng ? Thượng Đế nội tâm biết rằng
ḿnh vốn vĩnh hằng, thế nhưng các hạ thể dưới đây lại “giả vờ” rằng sự diệt
vong của hiện thể có nghĩa là sự sống bị diệt vong. Điều này không đúng,
nhưng khi c̣n ở trong các hạ thể th́ con người chẳng thể biết được điều ǵ
khá hơn. V́ vậy các hạ thể mới nôn nóng muốn tự bảo tồn ḿnh càng lâu càng
tốt và tưởng tượng rằng sự bảo tồn ḿnh tùy thuộc vào sự tự tư tự lợi hơn là
sự xả thân.
Hầu hết mọi sự cạnh
tranh trong đời sống hiện nay, nhiều chuyện mạnh hiếp yếu, giàu hiếp nghèo,
con người hiếp thú vật, đều bắt nguồn nơi việc các hạ thể của chúng ta rất
thành công trong việc giả vờ làm Chơn ngă. Quả thật, tất cả chúng ta đều ít
nhiều sống dưới bóng dáng của sự giả vờ này, v́ nhiều điều xa xỉ trong nền
văn minh của thế kỷ 20 là do ḷng ích kỷ tất yếu của phàm ngă chúng ta.
Chẳng hạn như người giải phẩu thú vật c̣n sống quả quyết rằng chúng ta có lư
do chính đáng khi thí nghiệm với những con vật để cho chúng ta có thêm khả
năng chống lại bệnh tật và như vậy kéo dài được mạng sống của các hạ thể.
Tôi không kết án người giải phẩu thú vật c̣n sống, y chỉ phát biểu theo sự
giả vờ của phàm ngă; và tất cả chúng ta đều là nạn nhân của sự quỉ quyệt của
nó theo một cách nào đó. Lại nữa, chúng ta tự coi ḿnh là có quyền giết súc
vật để có thực phẩm; và hầu hết chúng ta chẳng ngần ngại ǵ ăn thịt, ngay cả
khi giả sử rằng cho đến lúc đó chúng ta vẫn ăn chay nếu bác sĩ quả quyết với
chúng ta rằng chúng ta phải chọn giữa việc ăn thịt hoặc là chết. Nhưng bây
giờ tôi xin tiết lộ cho bạn biết thái độ của một người không c̣n tuân phục
cái cạm bẫy đó nữa. Bà Besant thường bảo tôi rằng bà chẳng thà chịu chết c̣n
hơn ăn thịt, một phần v́ đây là vấn đề nguyên tắc và một phần là v́ việc
tiếp nhận những phần tử thịt thô trược ắt cản trở một công việc đặc biệt nào
đó của bà. Lời tuyên bố đó không phải là sự bộc phát anh hùng mà chỉ là phát
biểu theo đó trong khi ta phải chăm sóc thể xác đúng mức th́ nó chẳng hi
vọng ǵ sẽ được chiều ư theo đủ kiểu. Nếu nó bảo rằng: “Bạn mà không cho tôi
thịt th́ tôi sẽ chết”; th́ bạn ắt phải trả lời rằng: “Bạn ơi, bạn đâu phải
là niềm hi vọng duy nhất của tôi. Tôi có thể có được một thể xác khác, và
mặc dù tôi có bổn phận phải giữ cho bạn sống càng lâu càng tốt, nhưng tôi
không thể bảo tồn bạn mà gây thiệt hại cho công việc của tôi đă quyết tâm
làm. V́ vậy bạn phải ra đi”. Liệu có bất kỳ cá nhân đặc biệt nào có bổn phận
giữ giới luật cho các hạ thể như bà Besant hay chăng, liệu chúng ta có phải
nhượng bộ chúng trong bất kỳ hoàn cảnh nào hay chăng th́ tôi cũng chẳng dám
nói. Mỗi người phải xét nhiệm vụ của riêng ḿnh. Chúng ta hăy để cho thể xác
có được những sự sung sướng và sự giải trí cũng như phải để cho nó có kỷ
luật và được luyện tập, nhưng phải biết rằng nó không được t́m cách lôi kéo
chủ ra khỏi điều vốn nối liền y với Thượng Đế, tức là những nguyên tắc sống
của y. Bạn phải biết các hạ thể của ḿnh “và biết ḿnh là chủ của chúng”.
CÁC ĐỐI TƯỢNG CỦA GIÁC QUAN
Tôi nghĩ rằng ḿnh phải
nhấn mạnh tới sự thật người ta không bảo chúng ta né tránh những sự thật của
giác quan – mọi thứ tạo nên các cơi hồng trần, trung giới và thượng giới của
ta. Sở dĩ những sự vật đẹp đẽ và ham muốn chúng chịu ảnh hưởng của một xúc
động phấn khởi và mưu t́m xúc động đó, thích thú với những sự vật của trí
năng và phấn đấu đạt được sự hiểu biết – mọi thứ này chẳng những hữu dụng mà
c̣n cốt yếu cho sự tăng trưởng của chúng ta. Trong ba hạ giới, chúng ta phải
trở nên quen thuộc với các đối tượng của giác quan, nhưng chúng ta không
được đồng nhất hóa ḿnh với chúng nếu chúng ta muốn có đủ tư cách được nhận
vào đạo tràng của Chơn sư. Những người ở mức độ tiến hóa nào đó đồng nhất
hóa ḿnh với thế giới mà ḿnh sống trong đó, là nô lệ của nó; bằng không th́
họ ắt chẳng thể sẵn sàng cho giai đoạn tiếp theo là làm chủ được nó. Nếu họ
không trải nghiệm sự câu thúc của nó th́ họ không thể đồng cảm một cách hữu
ích với những người vẫn c̣n là nạn nhân cho sự giả vờ của các hạ thể. Nhưng
bạn và tôi phải hi vọng rằng ḿnh đă trải qua giai đoạn trước, mặc dù những
người c̣n trẻ chắc chắn là sẽ ôn lại giai đoạn này một khi ở trong các cơ
thể mới họ lại một lần nữa làm quen với một thế giới đầy những đối tượng của
giác quan từ khi họ đến ở thế giới đó vào lần trước kia. Chúng ta phải biết
rằng những đối tượng của giác quan là ǵ, các tư tưởng và xúc cảm lần lượt
lấp đầy các cơi thượng giới, trung giới và hạ giới với những đối tượng như
thế. Đây là căn bản thực sự có liên quan tới “sự giả vờ” của đủ thứ hạ thể.
Chơn ngă quả thực ở trong mỗi một các hạ thể này và cho đến nay mỗi hạ thể
đều có quyền rêu rao rằng nó được một phần của Chơn ngă làm cho linh hoạt.
Về phương diện này th́ chúng ta phải mưu t́m các đối tượng của giác quan nơi
mỗi hạ thể v́ sự tăng trưởng của chúng ta chính là ở nơi sự mưu t́m đó. Tiếc
thay, các hạ thể tự đánh giá ḿnh quá cao, tưởng tượng rằng ḿnh rất cần
thiết, không biết rằng luật luân hồi sẽ tức khắc xua tan sự giả vờ đó cho
nên mới rêu rao rằng ḿnh là Chơn ngă. “Tôi giận dữ”, “Tôi ghen tuông”, “Tôi
tin điều này”, “Tôi không tin điều kia”, “Tôi thích những sự giải trí như
thế”, “Tôi thưởng thức thực phẩm hoặc các loại thức ăn đặc biệt” – đây là
một trong nhiều phát biểu mà các hạ thể của chúng ta cứ lải nhải suốt ngày
này sang ngày khác. Chơn ngă không bao giờ giận dữ; Chơn ngă không bao giờ
ghen tuông; Chơn ngă hiểu biết; Chơn ngă dung thứ cho mọi sự giải trí nhưng
ta khó ḷng bảo rằng Chơn ngă thích giải trí; Chơn ngă coi thực phẩm là
phương tiện để bảo tồn thể xác chừng nào cơ thể c̣n cần thực phẩm; Chơn ngă
chỉ quan tâm tới sự tinh khiết của thực phẩm chứ không màng tới việc nó có
thể kích thích thể vía. Bạn cứ dùng những cụm từ qui ước này nếu bạn muốn,
nhưng xin hăy hiểu cho rằng lúc nào bạn cũng có thể phân biệt Chơn ngă với
các hạ thể của ḿnh. Ít nhất th́ bạn cũng phải biết trên lư thuyết rằng Chơn
ngă không bị các đối tượng giác quan khống chế, th́ bạn mới bắt đầu làm chủ
thực sự được chúng. Ít ra th́ bạn cũng phải biết trên lư thuyết rằng Chơn
ngă không bao giờ giận dữ th́ bạn mới bắt đầu đặt nền móng cho một sự b́nh
thản mà không điều ǵ làm xáo trộn được.
Bắt đầu như thế nào ?
“Khi cơ thể con muốn một điều ǵ đó, con hăy dừng lại và suy nghĩ liệu con
có thực sự muốn như vậy chăng”. Đây là một nhiệm vụ rất khó v́ chúng ta phải
dừng lại liên tục và suy nghĩ suốt ngày. Nhưng vào ngày bà Besant lần đầu
tiên khởi sự loạt bài nói chuyện về quyển
Dưới Chơn Thầy đúng ngày 27 tháng
11 năm 1910, bà có bảo thính giả rằng cho dù nhiệm vụ này khó chịu đến đâu
đi nữa th́ chúng ta cũng phải đương đầu với nó. Bà bảo rằng đó là một phần
của sự chuẩn bị, và chỉ kẻ nào thành tựu khi không thấy mỏi mệt lúc cố gắng.
Nó nghĩa là không được nói vội vă, không hành động vội vă, thậm chí không
suy nghĩ vội vă: tất cả đều phải được kiểm soát. Các bạn trẻ ơi, đừng cảm
thấy hăi hùng với viễn ảnh này. Để có được đặc quyền bao la thu nhận vào đạo
tràng của Chơn sư, chúng ta phải mong rằng ḿnh sẽ làm việc khó nhọc và chỉ
cần cố gắng th́ ta sẽ thành công. Bằng cách chỉ dừng lại một lời nói vội vă,
tư tưởng hoặc hành động vội vă trong tuần này th́ bạn đă gần gũi với Chơn sư
hơn những kẻ bằng ḷng tự nhủ rằng: “Ước ǵ tôi có thể làm được điều đó,
nhưng tôi không thể làm được, v́ vậy thật là vô ích khi thử cố gắng”. Chơn
sư thừa nhận nỗ lực, Ngài biết chúng ta quá nhiều nên mới trông mong có sự
thành công.
TỪ NGỮ “GIẢ VỜ”
Từ ngữ “giả vờ” mà Chơn
sư dùng trong cụm từ “mỗi thể [thể xác, thể vía hoặc thể trí] đều giả vờ là
Chơn ngă”, dường như gợi ư là các hạ thể lừa gạt, có một điều ǵ đó có bản
chất lén lút mà chúng ta phải cảnh giác. Tôi nghĩ rằng từ này được cố t́nh
dùng để nhấn mạnh tới sự thật là người ta trông mong đệ tử nhận được giáo
huấn hăy sống với Chơn ngă hơn là để cho ḿnh chịu sự khống chế của các hạ
thể. Các ham muốn của thể xác, thể vía và thể trí phải được gán cho là không
có thực đối với kẻ nào đang học cách sống từ bên trên, và đối với y các hạ
thể chẳng qua chỉ là một công cụ để phục vụ cho một tâm thức cao siêu hơn đă
thức tỉnh. Alcyone trong nội giới ắt thừa biết cách phân biệt giữa các thực
tại này và t́nh huống phù du của ngoại giới. Nhưng mỗi khi đi ra nhập vào
vật chất thô trược hơn – từ cơi trí tuệ đến cơi hồng trần – th́ chơn ngă
phải chịu một sự hạn chế sao cho quyền năng của nó sẽ yếu đi một cách tương
ứng như thế. Hơn nữa, trong khi linh hồn của Alcyone đă già rồi th́ các hiện
thể mới mẻ của nó vẫn c̣n trẻ trung và chưa được rèn luyện. Hai t́nh huống
này, theo tôi nghĩ khiến phải dùng từ “giả vờ” sao cho nơi các hạ giới
Alcyone có thể nhớ ra rằng cho dù đối tượng của chúng có thể tạm thời dường
như có thực đến đâu đi nữa, cho dù các hạ thể vẫn c̣n non trẻ có thể khao
khát những đối tượng đó đến đâu đi nữa th́ thực tại của chúng vẫn chỉ là một
sự giả vờ so với thực tại trong thế giới của Chơn sư. Theo một quan điểm nào
đó th́ không có sự giả vờ nơi điều mà Thượng Đế đă tạo ra. Chẳng có điều ǵ
là vô giá trị trong cơ tiến hóa, và ngay cả thứ phù du nhất trong số những
đối tượng của giác quan cũng có vai tṛ phải thủ diễn để giúp cho chúng ta
tăng trưởng. Vào mỗi giai đoạn tăng trưởng của chúng ta, các đối tượng của
giác quan bao xung quanh chúng ta, và tùy theo tŕnh độ, chúng ta không biết
tới một số này, bác bỏ một số khác, khao khát những thứ này và ghê tởm những
thứ kia. Chúng ta tăng trưởng bằng cách trải nghiệm các đối tượng của giác
quan, vậy là chúng ta học cách đạt tới những thực tại mà chúng chỉ là những
h́nh bóng ở thế giới này của chúng ta. Như tôi có nói, nếu chúng ta chưa
biết tới các thực tại th́ các h́nh bóng của thực tại cũng đủ rồi. Và việc
h́nh bóng giả vờ làm thực tại đâu có ǵ là vô lư, v́ xét cho cùng th́ nó là
h́nh bóng của một thực tại và sự tồn tại của nó tùy thuộc vào thực tại mà nó
đại diện. Nhưng ít ra là đối với hầu hết các đối tượng của giác quan nơi hạ
giới, th́ bạn và tôi phải đạt tới các thực tại mà chúng chỉ là biểu diễn và
chúng ta phải chấp nhận h́nh bóng chỉ là sự giả vờ của thực tại, là một sự
tưởng tượng, v́ chúng ta đă biết chính thực tại rồi. Khi ở trong cơ thể,
chúng ta phải giả vờ và để cho chúng ta có lập trường minh bạch th́ Chơn sư
đă tách chúng ta ra khỏi các hạ thể và giải thích rằng chỉ khi chúng ta ở
trong một hạ thể th́ chúng ta mới có thể tưởng tượng rằng bộ phận là trọn cả
tổng thể.
CHƯƠNG VI
RÈN LUYỆN CƠ THỂ
Vài trang kế tiếp trong
quyển Dưới Chơn Thầy có những lời
b́nh luận về sự thật chính yếu: “Cơ thể là con thú của con, con ngựa mà con
cưỡi trên đó”. Đây có thể là xác phàm hoặc thể vía, hoặc thể trí mà cái trí
ở trong đó; tất cả đều là những con thú của bạn và chúng là một bầy đàn rất
khó cưỡi. Chơn sư nêu rơ điều này trong những ví dụ thuộc đời sống thường
nhật khi những con thú không chịu để cho người ta cưỡi và hất người cưỡi
xuống. “Khi có công việc cần phải làm th́ thể xác lại muốn nghỉ ngơi, đi dạo
mát, ăn và uống. Kẻ không hiểu biết ắt tự nhủ rằng: “Tôi muốn làm những thứ
này và tôi phải làm”. Nhưng kẻ hiểu biết lại bảo rằng: “Nó muốn chứ tôi có
muốn đâu, và nó phải chờ một chút”. Người cưỡi ngựa nói với con ngựa đặc
biệt mà y đang sử dụng vào lúc đó hoặc với con ngựa đặc biệt lúc đó có
khuynh hướng bất kham: “Mi không được ngăn cản ta làm điều tốt”. Thế mà bạn
ắt thấy rằng nhiều người tuyệt hảo nghĩ rằng ḿnh có bổn phận phải lèo lái
cơ thể của ḿnh đến mức tối đa. Những tu sĩ nam và nữ tự hành hạ ḿnh, được
gọi là các nhà tu khổ hạnh ở Ấn Độ hi vọng sẽ đạt được giải thoát bằng cách
bắt cơ thể làm điều mà người ta không dự tính nó phải làm – đây là những ví
dụ của loại người như thế. Nhiều người trong xứ sở chúng ta nghĩ thật sai
lầm khi làm đủ thứ hành động quả thực là vô hại sao cho thỏa măn được một
cách bệnh hoạn, thiếu tự nhiên ư muốn hành hạ hoặc bỏ đói các hạ thể mà lẽ
ra Chơn ngă có thể chói sáng qua đó rơ rệt hơn bởi v́ chúng bị gầy ốm đi và
yếu đuối. Chơn ngă cần có vẻ đẹp chứ đâu thích sự xấu xa, cần có sự vui vẻ
chứ đâu phải sự u buồn, cần có một công cụ hài ḷng và được nuôi nấng tử tế
chứ đâu cần một cơ thể đói khát phải chịu phục tùng thay v́ phát triển trong
sự hợp tác.
Chơn sư có dạy rằng:
“Con phải đối xử tử tế với nó và chăm sóc nó kỹ lưỡng; con không được bắt nó
làm việc quá sức, con phải nuôi dưỡng nó thích đáng chỉ bằng đồ ăn thức uống
tinh khiết thôi, và phải giữ cho nó luôn luôn thật sạch sẽ thậm chí không
dính một chút bụi nhỏ nào. Đó là v́ nếu không có một cơ thể hoàn toàn sạch
sẽ và khỏe mạnh th́ con không thể làm công việc chuẩn bị nhọc nhằn. Con
không thể chịu được sự căng thẳng liên miên”. Chúng ta vốn đang học cách
thích ứng với việc được nhận vào đạo tràng của Chơn sư th́ lúc nào cũng phải
nhớ những điều này. Ta nên nhận thấy rằng Chơn sư không hề lên án những thú
vui lành mạnh và vô hại, dĩ nhiên miễn là chúng không làm hại đến bạn và
cũng không làm hại cho những kẻ liên quan tới việc mua vui. Nhưng ta không
được để cho các hạ thể sa đà vào những thú vui như thế mà gây thiệt hại cho
việc làm điều tốt. Tôi nghĩ rằng những thú vui định kỳ - ngay cả những thứ
không đặc biệt có tác dụng ích lợi – đều là những thú vui đơn thuần giúp cho
các hạ thể của chúng ta thích ứng; nhưng chúng ta phải cẩn thận không được
quên mục tiêu đặt ra trước mắt ḿnh, kẻo khi để cho các hạ thể của ḿnh sa
đà quá trớn th́ một ngày kia chúng ta mới tỉnh ra rằng ḿnh đă trở thành nô
lệ của chúng thay v́ là chủ của chúng. “Nhưng con phải luôn luôn kiểm soát
cơ thể chứ không để cho nó kiểm soát con”.
NHỮNG THÚ VUI
Chơn sư dạy: “Con không
được bắt nó làm việc quá sức”. Đối với những tính khí hoạt động th́ đây
dường như là một huấn lệnh tương đối khó nghe. Chúng ta nghĩ rằng có những
lúc đặc biệt căng thẳng mà thể xác không được xá miễn về bất kỳ phương diện
nào. Có lẽ trong những trường hợp hiếm có th́ điều này có thể đúng, nhất là
nếu bạn phải chọn lựa giữa việc xá miễn cho cơ thể và kiên định theo những
nguyên tắc của ḿnh. Nhưng hầu hết chúng ta đều không đương đầu với một t́nh
huống như thế và chúng ta có thể an toàn coi như hiển nhiên bất cứ khi nào
chúng ta làm việc quá sức – do bất kỳ nguyên nhân nào – th́ chúng ta cũng
gây thiệt hại cho chính ḿnh và cho những người khác nữa. Tập luyện quá sức,
học hành quá sức, ăn quá đà, ngủ quá giấc đều khiến cho cơ thể không đạt
được mức cần thiết để có sức khỏe hoàn toàn; mọi điều này đều bị cấm v́
chúng cản trở việc bạn phụng sự hữu ích cho Chơn sư. Nhất là khi bạn c̣n trẻ
th́ cơ thể đang tràn đầy nhựa sống có khuynh hướng che giấu không cho bạn
biết điều ác ư mà bạn có thể đang làm. Bạn thấy ḿnh vẫn thật khỏe khoắn
ngay cả khi các bậc huynh trưởng bảo rằng cơ thể bạn đang căng thẳng quá sức,
và chỉ măi về sau này khi cơ thể bắt buộc phải thú nhận rằng lúc đó nó không
đủ sức đáp ứng với nhu cầu của bạn hướng về tương lai, th́ giờ đây nó chẳng
c̣n bao nhiêu sức lực để tiếp tục sống c̣n. Không có ǵ quan trọng hơn là
biết được những giới hạn của ḿnh v́ khi biết được chúng chẳng những chúng
ta nhận ra được những điều căng thẳng ở đâu mà c̣n biết cách dùng sức mạnh
để thay thế cho những chỗ yếu kém mà măi những năm về sau này có thể gây ra
nhiều rắc rối cho chúng ta. Ngoài cái sự phi lư hiển nhiên là phải thi cử
cạnh tranh để biểu thị giá trị thật sự, chúng ta hăy xem chúng gây ra sự ṃn
mỏi cho cơ thể như thế nào nhất là cho bộ óc và nên nhớ rằng mặc dù có ít
người chịu đựng nỗi sự kiệt quệ nguồn lực thể chất của ḿnh, nhưng hầu hết
đều tham gia vào những sự cạnh tranh dứt khoát làm giảm thấp sinh lực của
ḿnh nếu không phải là làm cho nó bị thiệt hại hoàn toàn. Nhiều đặc điểm của
cuộc sống hiện nay là như thế, và bạn phải quyết định xem liệu bạn sẽ thích
hợp với việc được thế gian đánh giá cao hay là được Chơn sư trân trọng.
Nên chú ư tôi viết là
được “đánh giá cao” chứ không phải là “phục vụ”. Thế gian luôn luôn được
phục vụ tốt nhất do những kẻ đă biến ḿnh thành những công cụ thích ứng với
công việc của Chơn sư mặc dù thế gian có thể không biết tới họ, tốt hơn là
nên để cho những nỗ lực của họ không được công nhận so với công tŕnh của
hầu hết những kẻ được thế gian ưu đăi ăn trên ngồi trước. Nhưng tôi xin
thoải mái công nhận rằng nên khuyến khích những người c̣n trẻ được những sự
ủng hộ của những vị có ư kiến mang đầy trọng trách và dĩ nhiên là họ thấy
trong thế giới có vô số những điều thỏa măn phù du. Thế nhưng sự hăo huyền
của ngoại giới không bao giờ được phép làm cho chúng ta mù quáng đi trước sự
thật là chỉ có sự trân trọng của Chơn sư th́ mới đáng giá trị. C̣n sự tán
thành của thế gian thường khích lệ chúng ta đi theo những đường lối sai trái.
Dù sao đi nữa chúng ta hăy vui hưởng cuộc sống miễn là không ai chịu đau khổ
do sự vui hưởng của ta và bạn đừng để cho những sự vui hưởng của các hạ thể
can thiệp vào những sự vui hưởng chân chính của chơn ngă (tạm dùng từ vui
hưởng này). Các hạ thể cũng cần được vui hưởng như chơn ngă, nhưng hầu hết
chúng ta sống quá nhiều nơi các hạ giới nên có nguy cơ là phàm ngă của ta
trở nên độc ác với chơn ngă. Bạn thường sốt ruột với những người nói bạn
không nên có cái loại vui sướng mà bạn đánh giá cao, nhưng đừng quên rằng
chính bạn thường từ chối không cho chơn ngă những vui sướng mà nó vui hưởng
– những vui sướng thuộc loại vô cùng lâu bền hơn những vui sướng mà phàm ngă
đeo đuổi một cách tha thiết xiết bao. Hạnh phúc lớn nhất mà bạn có thể dành
cho chơn ngă chính là khiến cho các hạ thể của ḿnh thích ứng với các nhu
cầu của Chơn sư, nhưng chơn ngă đâu phải là không biết điều, nó cũng sẵn
ḷng để cho các hạ thể được vui hưởng mà chỉ gợi ư rằng các vui sướng của
phàm ngă và chơn ngă càng được hài ḥa và lâu bền bao nhiêu th́ cả hai bên
hữu quan càng hạnh phúc bấy nhiêu. Về lâu về dài th́ mọi chuyện sẽ diễn tiến
suôn sẻ nếu cả hai đều chạy theo cùng một hướng.
THỰC PHẨM DÀNH CHO CƠ THỂ
Chơn sư tiếp tục: “Con
phải nuôi dưỡng nó thích đáng chỉ bằng đồ ăn thức uống tinh khiết thôi, và
giữ cho nó luôn luôn sạch tinh thậm chí không dính một chút bụi nào”. Từ
“thích đáng” có nghĩa là những thời khoảng cách đều nhau vào những lúc có
thể mang lại sức khỏe tốt nhất với số lượng đúng mức và loại h́nh đúng đắn “chỉ
đồ ăn thức uống tinh khiết thôi”.
Thế mà tôi không cung
cấp cho bạn một bảng hoàn chỉnh gồm đủ thứ thực phẩm mà bạn nên ăn, bạn phải
ăn ra sao và lúc nào. Bạn phải tự ḿnh t́m ra điều đó v́ mỗi cơ thể đều phản
ứng khác nhau với những loại thực phẩm khác nhau. Nhưng tôi phải nhấn mạnh
rất nhiều tới việc cần thiết ăn chay, không phải v́ ngẫu nhiên tôi là người
ăn chay mà v́ gần cuối quyển sách Chơn sư có nói tới “sự mê tín độc ác là
con người cần ăn thịt”. Chắc chắn là tất cả chúng ta đều chịu ảnh hưởng của
một số loại mê tín, nhưng ít ra th́ chúng ta phải cố tránh những điều mê tín
độc ác, và v́ ăn thịt là một điều mê tín độc ác – Chơn sư dạy như thế - cho
nên chúng ta phải từ bỏ điều đó. Tôi muốn bạn xem xét vấn đề này theo quan
điểm lư trí. Chúng ta gây đau đớn cho súc vật để tự cấp dưỡng ḿnh loại thực
phẩm không cần thiết. Đây là phát biểu trắng trợn về sự thật này theo như
Chơn sư thấy. Dĩ nhiên sẽ có vô số khó khăn cản đường ta thực hiện lời gợi ư
của Chơn sư. Cơ thể bạn không chịu nỗi điều ăn chay. Cha mẹ bạn không đồng ư
cho bạn ăn chay. “Liệu chúng ta có phải bỏ không dùng loại đồ vật làm bằng
da kể cả giày ủng, ḥm rương đi xe lửa v.v. . . ? Liệu chúng ta có gây phiền
hà cho bạn bè khi ăn hầu như chẳng được thứ ǵ lúc chúng ta dùng bữa ăn chay
với bạn bè ?”
Bạn đừng nghĩ rằng những
con thú của ḿnh trở nên khá bất kham khi bạn để cho chúng căi lư như thế ?
V́ những điều khó khăn đó phải được suy nghĩ sau (nếu có) chứ không phải suy
nghĩ trước. Nhiều người tha thiết muốn gặp Chơn sư, muốn được các Ngài giáo
huấn, và ganh tị với những kẻ có đặc quyền ấy. Nhưng nên nhớ rằng một trong
những điều kiện để được Chơn sư trực tiếp dẫn dắt là phải nhanh chóng chú ư
tới điều mà Chơn sư dạy. Trong Lời nói đầu, Alcyone có nhận xét: “Bạn phải
làm điều mà Ngài dạy. Phải chăm chú tới mọi lời,
phải tiếp nhận mọi lời bóng gió”.
Chơn sư bảo chúng ta hăy ăn chay. Liệu bạn có cố gắng ăn chay hay bạn làm
cho các hạ thể đau khổ v́ phải nghe theo lệnh của chơn ngă ? Liệu bạn có bị
lừa gạt bởi những “sự giả vờ” của các hạ thể lẽ ra phải tuân phục chúng ta ?
Tôi không có ư gợi ra rằng thật dễ thay đổi ngay từ việc ăn thịt sang việc
ăn chay, một phần v́ thể xác và thể vía th́nh ĺnh mất đi một đồ ăn đă kích
thích chúng, làm tăng cường những khía cạnh thấp thỏi của chúng và một phần
v́ thân bằng quyến thuộc không được may mắn như chúng ta ắt không hiểu được
bất kỳ phương pháp nào mà xét theo biểu kiến đối với họ là điên rồ. Nhưng
khi phụng sự Chơn sư, chúng ta cần khởi sự
ngay tức khắc khi Ngài đưa ra một
lời bóng gió và cố hết sức khắc phục những khó khăn xuất hiện. Nói cách
khác, nếu chúng ta chưa thực sự đi đến những con sông cần phải vượt qua th́
chúng ta đừng nghĩ tới việc bắc cầu. Ở đây những người cẩn thận sẽ kêu ầm
lên phản đối tôi: “Nhưng chắc chắn là chúng ta phải thấy chúng ta đang đi
tới đâu trước khi chúng ta khởi hành. Có lẽ những khó khăn là không vượt qua
được. Có lẽ chẳng hạn như thân bằng quyến thuộc sẽ không thể tha thứ cho
việc chúng ta khởi sự đổi mới”. Tôi xin trả lời điều này như sau: “Một lời
gợi ư của Chơn sư hàm ư một lộ tŕnh hành động khả thi. Ngài không gợi ư
điều không thể làm được, Ngài cũng chẳng cần biết tới những hoàn cảnh cá
biệt của tất cả chúng ta mặc dù bạn có thể thấy điều này thật khó tin. Nếu
quyển Dưới Chơn Thầy lọt vào tay
chúng ta th́ chúng ta có thể cho rằng Ngài biết điều đó. Như vậy, lời lẽ của
Ngài trở thành một thông điệp cho chúng ta qua đứa em c̣n nhỏ tuổi là
Alcyone. Chắc chắn là bạn sẽ thất bại. Nhiều lần tái diễn việc ăn thịt trừ
phi bản chất của bạn đặc biệt kiên cường. Nhưng liệu bạn có nghiêm chỉnh cố
gắng trước những thất bại và sẽ nghiêm chỉnh cố gắng trở lại sau khi thất
bại chăng ? Đây mới là điều mà Chơn sư cần. Ở đây tôi xin lập lại và nhấn
mạnh rằng Ngài trông chờ sự cố gắng và trông mong có được thành công chừng
nào người ta chưa gặp nhiều thất bại và chưa nhiều lần cố gắng. “Thành La Mă
đâu phải chỉ được xây dựng nội trong một ngày”.
Lúc mà bạn biết rằng
Chơn sư kết án việc ăn thịt là điều mê tín độc ác và Ngài mong rằng cơ thể
sẽ được nuôi nấng bằng đồ ăn thức uống tinh khiết, th́ bạn sẽ ngay tức khắc
bắt đầu ngưng việc ăn thịt và bất kỳ dạng thực phẩm nào khác mà bạn nghĩ
rằng được bao hàm trong lời kết án đó. Đừng nói huyên thuyên về việc liệu ta
có coi việc ăn cá, ăn trứng hoặc ăn phó mát, sữa là ăn chay hay chăng ? Bạn
hăy dùng sự phán đoán của ḿnh v́ Chơn sư là bậc đạo sư hoàn hảo nên chỉ nêu
ra nguyên tắc và dành cho bạn việc áp dụng nó trong sinh hoạt hằng ngày. Cá
nhân tôi rất ít kiên nhẫn với những người tự thôi miên ḿnh bằng chữ nghĩa
đến nỗi không tuân thủ tinh thần của nó. Họ bảo tôi rằng nếu chúng ta muốn
trước sau như một th́ chúng ta phải tránh dùng một loại thực phẩm nào đó.
Tôi không tự cho ḿnh là hoàn toàn trước sau như một, nhưng tôi cố gắng đến
mức tối đa. Và nếu khi cố gắng trước sau như một, tôi có phạm lỗi lầm bao
hàm trong những món ăn kiêng của ḿnh, một món nào đó có lẽ nên phải loại ra,
th́ tôi cảm thấy rằng ḿnh đă xúc phạm nhiều tới tinh thần của các nguyên
tắc mà tôi hành động theo đó mặc dù chắc chắn tôi đă vi phạm theo nghĩa đen.
Một ngày nào đó tôi sẽ làm mọi chuyện được hoàn hảo c̣n trong khi chờ đợi
tôi chẳng rỗi hơi mà ngồi đó than thở bất hạnh v́ giờ đây tôi không được như
mức mà sau này tôi có thể làm được. Nếu bạn chưa ăn chay trường được th́ hăy
ăn chay kỳ đến mức tối đa chứ đừng đếm xỉa tới những kẻ chẳng làm ǵ cả v́
họ không thể làm mọi điều hoàn hảo.
CÁC NGUYÊN TẮC SỐNG
Tuy nhiên người ta mong
đợi rằng bạn sẽ vận dụng việc khéo xử và kín miệng – đừng phô trương lộ liểu
và cũng đừng giấu giếm những nguyên tắc của ḿnh. Hăy hành động một cách tự
chế và âm thầm, và nhất là đừng tỏ ra khiêu khích và có mặc cảm tự tôn v́
nghĩ rằng ḿnh có một sự thật mà người khác chưa chia xẻ được. Thật vậy, bạn
không có được sự thật đâu chừng nào tác dụng của nó đối với bản chất bạn c̣n
chưa tạo ra một thông cảm và đồng cảm lớn lao hơn so với mức khi bạn chưa có
sự thật đó. Mọi sự thật mà bạn biết thêm phải khiến cho bạn khoan dung và
cảm kích nhiều hơn nữa v́ nhờ sự thật đó mà bạn tiến gần hơn tới việc hiểu
biết tính đơn nhất khiến cho chúng ta đồng nhất với tất cả. Nếu kiến thức
mang lại sự kiêu hảnh khiến cho bạn xa rời đồng loại của ḿnh th́ bạn chỉ có
được khía cạnh trí thức của nó thôi. Bạn chưa có được cốt lơi tâm linh của
nó. V́ vậy, khi bạn chấp nhận lời nói bóng gió của Chơn sư về việc ăn chay
th́ tôi muốn bạn chứng tỏ bạn có được một sự thật mới; một là bằng cách biểu
lộ thêm một chút nữa tinh thần thiện chí so với mức mà bạn có thể biểu lộ
trước kia, hai là kiên định với sự thật mới của ḿnh một cách dịu dàng và
không gây phiền hà. Tôi nghĩ rằng bạn không được nhượng bộ. Không một thân
bằng quyến thuộc thông cảm nào mà lại yêu cầu bạn từ bỏ vấn đề có tính
nguyên tắc nếu cách cư xử của bạn cho thấy rằng nguyên tắc đó có tác dụng
làm cho bạn cao thượng hơn. Nhưng bạn đừng trông mong họ coi là nguyên tắc
khi có một điều ǵ đó khiến cho bạn đỏng đảnh hơn và gây rắc rối hơn trước
kia. Mặt khác nếu bạn không tôn trọng nguyên tắc th́ lộ tŕnh hành động của
bạn ắt tùy thuộc vào bạn có được bao nhiêu sức mạnh. Ở Ấn Độ các bạn trẻ
thường viết thư cho bà Besant xin bà khuyên răn về đủ thứ lộ tŕnh hành động
gây ra sự mâu thuẫn với tập quán đă được xác lập và do đó gây rất nhiều khó
khăn cho cá nhân hữu quan. Theo chỗ tôi nhớ th́ lập trường chung của bà là
nếu người ta xin bà khuyên răn th́ điều này thường có nghĩa là người hỏi
không đủ mạnh để tự ḿnh quyết định và tự ḿnh chịu trách nhiệm, y muốn đằng
sau ḿnh có một người nào đó sẽ chia xẻ bất cứ khó khăn nào xảy ra. Cũng vậy,
lời khuyên được đưa ra c̣n tùy thuộc vào khả năng cá nhân thực hiện nó, và
thật là hoài công khi khuyên có những biện pháp anh hùng đối với một phàm
ngă có nhă ư nhưng lại thụ động tiêu cực. Những người đưa ra lời khuyên
trong một chừng mực nào đó phải dính mắc vào kết quả của những lời khuyên
đó, và cho đến nay khi đă biết lư tưởng rồi th́ kế hoạch tốt nhất là ta càng
tiến gần tới nó càng tốt mà chỉ tự ḿnh chịu trách nhiệm thôi. Bằng mọi cách
ta phải học nơi các bậc trưởng thượng những nguyên tắc hành động đúng đắn –
trong quyển Dưới Chơn Thầy bạn có
hết những điều đó – nhưng hăy thực hiện chúng theo kiểu của riêng ḿnh tùy
theo hoàn cảnh và khả năng, bao giờ cũng phấn đấu hành động một cách chân
chính nhất, phối hợp sự tỉ mỉ rốt ráo với việc thể theo mong ước của những
người khác về mọi vấn đề không có tầm quan trọng nguyên tắc.
Khi đọc điều này, các
bạn trẻ thường phản đối rằng ḿnh khó ḷng có được bất kỳ nguyên tắc xác
định nào và trong nhất thời họ ngần ngại không hành động theo những nguyên
tắc ảnh hưởng đến ḿnh kẻo chúng khiến cho ḿnh trở nên một của nợ, chứ đừng
nói là lố bịch v́ làm xáo trộn môi trường gia đ́nh với một bầu nhiệt huyết
chỉ có thể kéo dài một thời gian rất ngắn. Tôi công nhận rằng đây là một
điều khó khăn, nhưng tôi thấy dường như: một là mọi người phụ huynh biết
điều đều sẵn ḷng để cho gia đ́nh bị xáo trộn do những nỗ lực của những bạn
trẻ đang đi t́m căn bản đạo đức của ḿnh; hai là chẳng thà có một nguyên tắc
tạm thời rồi lại đánh mất nguyên tắc đó c̣n hơn là chẳng có một nguyên tắc
nào hết. Các bạn trẻ tất nhiên phải ṃ mẫm con đường của ḿnh. Chơn ngă phải
mất một thời gian ổn định được trong môi trường mới; và dĩ nhiên là ta phải
trông mong một chơn ngă có quyền năng sẽ húc đầu vào vô số thái độ tâm trí
và xúc cảm, chạy lăn xăn hết nơi này đến nơi khác cho tới khi thu thập đủ
kinh nghiệm để có thể chọn lựa một nhân sinh quan kéo dài được một thời gian.
Chúng ta đang không ngừng tăng trưởng, và ngay cả những nguyên tắc được quí
chuộng nhất của những người khôn ngoan nhất trong chúng ta cũng phải chịu sự
thay đổi theo thời gian, thậm chí sớm muộn ǵ cũng phải bị băi bỏ hoàn toàn.
V́ vậy nói cho cùng th́ đây là vấn đề tăng trưởng và ta không được quở trách
tuổi trẻ nếu nó tăng trưởng một cách cà giựt và nhát gừng. Nhưng nếu bạn
chân thực hết mức với nguyên tắc khống chế bạn th́ mặc dù người ta có thể
cười nhạo bạn trong lúc bồng bột nhiệt thành, nhưng đến lúc về già bạn sẽ
chẳng bao giờ lấy làm nuối tiếc v́ chúng bao giờ cũng có tác dụng tốt. Mặt
khác, bạn hăy từng bước rèn luyện ḿnh để tiếp cận với nguyên tắc mới một
cách thận trọng và gạt bỏ nó một cách miễn cưỡng v́ bạn phải đối xử với nó
một cách kính cẩn, đó là vấn đề danh dự - bạn đừng chấp nhận nó nếu bạn
không chắc mẫm rằng khi tuân theo nó th́ sẽ có lợi, bạn cũng đừng vứt bỏ nó
mà không cảm thấy biết ơn về điều tốt mà nó mang lại cho ḿnh. Ít ra th́ bạn
cũng nên thành thực bảo rằng cho dù một nguyên tắc có tác dụng khác khi tạm
thời có một chỗ đứng trong tâm hồn bạn th́ nó cũng mang lại cho bạn khả năng
thông cảm và đồng cảm với những người chịu ảnh hưởng mà bản thân bạn vượt
qua từ lâu rồi.
HĂY CHÂN THẬT VỚI CHÍNH M̀NH
Tôi xin kết luận phần
này trong đề tài của chúng ta bằng cách cảnh báo bạn đề pḥng những kẻ lập
luận rằng v́ một thủ lănh không hoặc có ăn chay mà chúng ta phải theo gương
thủ lănh đó. Có một lối lập luận thông thường là ăn thịt hoặc hút thuốc lá
chẳng có ǵ nguy hại đặc biệt v́ chính nhà sáng lập vĩ đại Thông Thiên Học –
bà H. P. Blavatsky – vừa ăn thịt lại vừa hút thuốc lá. Thế mà theo quan điểm
ngược lại th́ nếu bà Besant và ông C. W. Leadbeater đều là những người
trường chay và không hút thuốc lá th́ tốt hơn là chúng ta nên theo gương
những vị đó chứ. Vậy th́ biết làm sao đây, theo H. P. Blavatsky hay theo
Annie Besant ? Rơ ràng là chúng ta không thể theo cả hai !
Sự thật là chúng ta
chẳng dính dáng ǵ tới những hoàn cảnh đặc biệt mà mọi vĩ nhân tất nhiên
phải sống trong đó. Để là một vĩ nhân, một cá nhân phải có một tính khí đặc
thù, và để là một huyền bí gia th́ ta cần phải có những điều kiện hoàn toàn
nằm ngoài tầm hiểu biết của kẻ phàm phu. Sự vĩ đại luôn luôn nằm ngoài tầm
phàm phu, và các qui tắc thích hợp với sự tầm thường th́ lại thường là những
xiềng xích đối với bậc thiên tài. Lại nữa, có bao nhiêu chức năng th́ có bấy
nhiêu loại vĩ đại, và thật là phi lư khi lập luận rằng bởi v́ một người nào
đó mà chúng ta công nhận là vĩ nhân hành động theo một cách đặc biệt nào đó
cho nên kẻ nào không cư xử giống như vậy th́ không phải là vĩ nhân. Hơn nữa,
ta hoàn toàn có thể quan niệm được rằng công tŕnh của đệ tử trên thế gian
cần thiết cho kế hoạch của Chơn sư đến nỗi Ngài phải chiều theo một chút
biệt nghiệp của đệ tử để cho thể xác của đệ tử đỡ phải chịu sự căng thẳng mà
việc phụng sự cần tới nếu nó không được làm thô trược đi bằng cách dùng thực
phẩm động vật. Thật vậy, chúng ta có thể dùng lư trí tưởng tượng ra vô vàn
hoàn cảnh trong đó những qui tắc hoàn toàn thích hợp với chúng ta ở tŕnh độ
của ḿnh và có lẽ nói chung là thích hợp với mọi tŕnh độ mà những qui tắc
đó lại phải bị từ bỏ v́ những lư do đặc biệt. Dứt khoát đây không phải là
chuyện của chúng ta. Đây là vấn đề giữa Chơn sư và đệ tử, trong trường hợp
bà Blavatsky hoặc bà Besant hoặc ông Leadbeater dường như chúng ta nên biết
ơn họ v́ sự hay ho trong giáo huấn của họ hơn là ta xen vào những t́nh huống
theo đó giáo huấn được ban ra. Đối với những kẻ muốn soi bói vào đời tư của
những vị dạy dỗ chúng ta th́ tôi xin trả lời rằng nếu giáo huấn của những vị
đó khiến tôi có được nhiều cảm hứng th́ tôi sẽ làm hết sức ḿnh để biến cảm
hứng đó thành hành động chứ không phí phạm thời giờ quí báu để t́m biết xem
liệu vị giảng dạy điều đó có sống hoàn toàn – nghĩa là theo ư niệm hoàn toàn
của riêng tôi – theo những điều mà ḿnh giảng dạy không. Tôi có thể nói thêm
rằng những người tầm thường như chúng ta sẽ phạm sai lầm lớn nếu chúng ta
dám phán đoán những vị cao cả hơn ḿnh theo những tiêu chuẩn mà các ngài có
lẽ đă vượt qua từ lâu rồi. Một trong những trở ngại lớn nhất cản đường kẻ
phàm phu nam nữ nhận ra được Đức Chưởng Giáo khi Ngài giáng lâm, đó là việc
họ trông mong rằng Ngài sẽ tự hạn chế ḿnh theo quan niệm của riêng họ về sự
cao cả tâm linh. Mỗi giáo phái hẹp ḥi của Ki Tô giáo hoặc Ấn Độ giáo hoặc
Phật giáo hoặc Hồi giáo hoặc Bái Hỏa giáo đều trông mong rằng Ngài sẽ đặc
biệt bênh vực họ chống lại mọi giáo phái hẹp ḥi khác. Mọi kẻ có thiên kiên
đều trông mong Ngài nhiệt thành đi theo thiên kiến đặc biệt mà sinh hoạt tâm
linh của y vốn bắt nguồn từ đó. Ngài bắt buộc phải mặc quần áo như thế này,
ăn thực phẩm như thế kia, rao giảng chân lư như thế đó và sinh hoạt theo một
kiểu nào đấy. Ngài sẽ sinh hoạt tùy theo nhu cầu của thế gian chứ không phải
theo yêu cầu của những cá nhân. Ngài giáng lâm để giúp cho toàn thể nhân
loại sống một cuộc đời tốt đẹp hơn chứ không phải để xu nịnh ḷng ngă mạn
tâm linh của một thiểu số người. Bạn và tôi đều biết rằng Ngài là Đức Chưởng
Giáo của thế gian và thay v́ yêu cầu Ngài sinh hoạt theo một cách nào đó khi
Ngài giáng lâm để cho chúng ta dễ dàng nhận ra được Ngài th́ tốt hơn là
chúng ta nên tự yêu cầu ḿnh sống hiện nay sao cho chúng ta xứng đáng nhận
ra được Ngài khi Ngài giáng lâm giữa nhân quần. Việc Đấng Cao Cả Nhất sinh
hoạt và dạy dỗ như thế nào là chuyện Đấng Cao Cả phải quyết định, bằng không
th́ chẳng hóa ra là chính chúng ta vĩ đại hơn Ngài cho nên tiêu chuẩn của
chính chúng ta mới có thể chỉ đạo được Ngài. Điều liên quan tới chúng ta là
việc chúng ta sẽ sinh hoạt và giảng dạy ra sao đây để cho Ngài có thể nhận
ra chúng ta là những kẻ đang phụng sự Ngài. Thế gian chưa hề thành công rơ
rệt với sự vụ của ḿnh th́ làm sao mà nó đủ tư cách để vạch đường chỉ lối
cho chính Đức Chưởng Giáo cần phải cải cách và giảng dạy ra sao. Ngài giáng
lâm v́ chúng ta cần Ngài trợ giúp và giờ đây điều mà thế gian cần nhất là
phải phát triển đúng mức ḷng khiêm tốn để tiếp nhận được sự chỉ đạo có thể
ngược hẳn lại mọi lư thuyết qui ước đang tồn tại hiện nay về cuộc sống. Ḷng
Sùng tín, sự Kiên định, sự Dịu dàng – tất cả những thứ này thế gian đều cần
hết, nhưng trong quá khứ sự ngă mạn đă là hàng rào nổi bật nhất ngăn cách
bậc Đạo sư với thế hệ đương đại. Mong sao điều này sẽ không xảy ra trong thế
kỷ thứ 20.
SỰ SẠCH SẼ
Chơn sư tiếp tục nhấn
mạnh tới sự thật là “Nếu không có một cơ thể hoàn toàn sạch sẽ và khỏe mạnh
th́ con không thể làm được công việc chuẩn bị khó nhọc, con không thể chịu
đựng được sự căng thẳng không ngừng”. Không ai chưa trải qua giới luật chuẩn
bị phụng sự Chơn sư một cách rốt ráo hơn lại có thể quan niệm được chút xíu
nào về sự căng thẳng mà nó đ̣i hỏi. Mọi cá nhân dứt khoát hiến ḿnh cho Chơn
sư sử dụng th́ chính qua hành vi đó y đă bắt đầu tinh chỉnh các hạ thể của
ḿnh để đáp ứng với những rung động tinh vi thuộc thế giới của Chơn sư, đồng
thời lại vô cùng nhạy cảm hơn với sinh hoạt của thế giới mà y đang sống
trong đó. Chẳng những đệ tử phải nghe được “tiếng th́ thầm nhỏ nhất của Chơn
sư át hẳn bài ca ầm ĩ nhất của trần thế” mà y c̣n phải tự động cảm nhận được
sự khốn khổ, rắc rối và nhu cầu của những kẻ đang nhun nhúc trong cái thế
giới mà y sống trong đó, y phải gửi đến cho họ sức mạnh của Chơn sư dưới
dạng ḷng can đảm và ḷng từ bi. Điều này có nghĩa là cơ thể phải trong sạch,
càng ít thô trược càng tốt, phải dần dần thay thế những vi hạt mà đại đa số
loài người đang sử dụng bằng những vi hạt có thành phần cấu tạo tinh vi hơn.
Đệ tử tiên tiến hơn thế hệ của ḿnh cho nên mức mà y đạt được hiện nay th́
sau nhiều năm nữa thế gian nói chung mới đạt đến được. Trong sinh hoạt hằng
ngày y phải là hiện thân của một lư tưởng hoặc nguyên tắc sống mới: nói cách
khác, y phải là một gương sống động đối với những kẻ xung quanh về cái tŕnh
độ ngay trước mắt họ, cái tŕnh độ mà họ giờ đây đang trải qua.
SỰ CĂNG THẲNG KHÔNG NGỪNG
Quyển
Dưới Chơn Thầy có tŕnh bày với
chúng ta một mô h́nh để dựa vào đó xây dựng đủ thứ hạ thể của ḿnh, và chúng
tôi ắt phải trông mong rằng những kẻ nào không nhận thức được sự thiết yếu
của những nỗ lực mà chúng tôi đang thực hiện th́ những kẻ đó ắt cười nhạo
chúng tôi, ắt coi chúng tôi là thuộc loại quậy phá chính sách ru ngủ trôi
dật dờ theo ḍng sóng. Người ta thường bảo tôi rằng, những người cải cách
thường kém xă giao đến nỗi sống chung với họ hầu như chỉ thiệt vào thân;
chắc chắn là hầu như ta không thể coi những nhà cải cách là những kẻ phàm
phu theo qui ước. Tôi hoàn toàn đồng ư và tôi chân thành đồng cảm với những
kẻ vốn bằng ḷng với sự sống như nhiên thấy ḿnh bắt buộc phải giao thiệp
với những người xung đột với những bộ luật theo qui ước mà việc tuân thủ
những bộ luật đó khiến cho cuộc sống tiêu cực hơn và do đó dễ chịu hơn.
Nhưng nếu bạn có ư nói như vậy th́ bạn bắt buộc phải chống lại đa số những
lối sống đă được chấp nhận, và đây chính là vai tṛ của “sự căng thẳng triền
miên” mà Chơn sư đề cập tới. Sức mạnh của thói quen, áp lực của công luận,
khuynh hướng tự nhiên tương đối là ù ĺ, tất cả đều phối hợp với nhau để gh́
kéo bạn lại trong giới hạn hẹp ḥi của sinh hoạt theo qui ước. Nhưng thế th́
bạn đâu có làm tṛn được vai tṛ
của bạn là một thủ lănh, một nhà tiên phong, một lực lượng tích cực theo
chiều hướng mang lại một lối sống tốt đẹp hơn so với lối sống mà hiện nay
chúng ta đang bằng ḷng tuân theo. Trong một chừng mực rất lớn, bạn phải
sống ngoài ṿng “xă hội”. Bạn bắt buộc phải được chỉ đạo sinh hoạt theo
những nguyên tắc chưa hấp dẫn được đa số mọi người, bạn không thể trông mong
thiên hạ nói chung sẽ chấp nhận bạn theo mức mà bạn đang cố gắng phấn đấu.
Bạn luôn luôn phải đấu
tranh với phàm ngă nơi bản thân cũng như đấu tranh với phàm ngă nơi ngoại
giới. Bạn liên tục phải dựng nên một tiêu chuẩn sống cao đẹp hơn tiêu chuẩn
mà thế gian tạm thời đang tuân theo, và bạn phải căng hết mọi dây thần kinh
của ḿnh ra để tự ḿnh sống theo tiêu chuẩn đó; v́ chỉ khi bản thân bạn đă
gần đạt được tiêu chuẩn đó th́ bạn mới đủ tư cách để biện hộ cho nó đối với
những người xung quanh ḿnh. Thế gian bao giờ cũng gây sức ép lên bạn và
những nỗ lực của bạn, c̣n về phần ḿnh bạn bao giờ cũng phải phấn đấu kéo
thế gian theo sau ḿnh khi bạn tinh chỉnh các hạ thể của ḿnh để hợp tác một
cách hài ḥa hơn với những thực tại mà chúng phải tinh chỉnh theo. Bạn vốn
là một với thế gian và chính sự đơn nhất đó có khuynh hướng tŕ kéo bạn vào
bên trong phạm vi sự tiến bộ tà tà của thế gian. Mặt khác, bạn lại đang phấn
đấu biến sự đơn nhất này thành ra sống động hơn bằng cách tự ḿnh trở nên
một gương mẫu mà thế gian có thể đạt được trong tương lai không xa, vậy là
bạn kích thích cho toàn thể gia tăng sự bóng bẫy của ḿnh bằng cách hài ḥa
hơn với sự sáng chói của một bộ phận.
Sự căng thẳng quả thật
là “triền miên”. Ta không thể có một lúc nào lơ là mất cảnh giác. Có mọi sự
cám dỗ từ hạ giới muốn ta từ bỏ việc phấn đấu để trở lại con đường thoải mái
hơn nhiều là cam chịu được dẫn dắt. Có vô số hành động mà thế gian tán thành
th́ bạn lại chối bỏ. Bạn phải thề bỏ nhiều thú vui mà thế gian sa đà vào đó,
nếu bạn muốn ban ra cho thế gian điều mà nó cần hơn điều mà nó yêu sách. Khi
tôi viết ra những ḍng chữ này, tôi có thể nghe thấy một số bạn đọc kêu ầm
lên: “Vậy th́ tất cả những điều này có lợi ích ǵ ? H́nh như đây là một sự
phấn đấu lẻ loi, một cuộc sống ảm đạm biết dường nào. Chẳng lẽ không được
đền bồi ǵ sao ?” Khi mọi chuyện đều suôn sẻ và không có ǵ rắc rối th́ tôi
công nhận rằng sự đền bồi dường như thể là không có. Khi cuộc sống trên thế
gian đang thoải mái hoặc khi cuộc sống của cá nhân đang phè phỡn th́ dường
như là phi lư nhất khi đi lệch ra khỏi đường lối của ḿnh để cứ duy tŕ một
sự căng thẳng mà xét theo biểu kiến th́ đâu có ǵ cần phải như vậy. Nhưng
cuộc đời có bao giờ thoải mái lâu dài và cuộc sống của hầu hết mọi người có
bao giờ phè phỡn đâu; cho nên giá trị của người đệ tử khi rèn luyện mọi hạ
thể của ḿnh cũng giống như giá trị của người lực sĩ chỉ rèn luyện thể xác
không thôi, đó là chỗ y chẳng những có thể chịu đựng được sự rắc rối vốn đè
bẹp một kẻ phàm phu mà y c̣n tích lũy được một kho dự trữ ḷng can đảm để hỗ
trợ cho những kẻ đang gặp rắc rối có thêm sức mạnh đương đầu với những tai
họa mà nếu không có nguồn dự trữ đó th́ họ có thể trở nên tuyệt vọng và bị
nghiền nát.
Tuy nhiên nên nhớ rằng
cho dù bạn với các bằng hữu có thể đang sống một cuộc đời phè phỡn và sung
sướng đến đâu đi nữa th́ cũng có biết bao nhiêu người khác cận kề bạn đang
phấn đấu với mọi đa đoan, thiếu thốn, ốm đau, buồn khổ. Nên nhớ rằng không
một hạnh phúc cá nhân nào có thể kéo dài lâu được trừ phi y loại bỏ thế giới
ra. Bạn là ai nếu bạn vui hưởng tiện nghi, sự xa hoa, sự chán chê những ham
muốn trong khi những người khác ngay vào lúc bạn đang sung sướng tột cùng
th́ lại oằn lưng gánh chịu điều dường như là tuyệt vọng về mọi mặt. Niềm vui
được mang ra chia xẻ ắt kéo dài lâu tùy theo số người được chia xẻ, và đệ tử
phấn đấu nhận biết hoàn cảnh có được niềm vui chân chính sao cho khi dẫn dắt
người khác đạt sự hiểu biết, an b́nh và hạnh phúc th́ y mới có thể bắt đầu
thấy niềm vui thường trụ thay v́ chỉ là niềm vui phù du bởi bị hạn chế vào
một số ít người. Do đó, thực ra trong khi đệ tử phải chịu sự căng thẳng rất
lớn th́ y cũng càng ngày càng có khuynh hướng đạt được sự an b́nh và hỉ lạc
v́ kẻ muốn làm đệ tử bao giờ cũng dấn thân vào việc cố gắng chú trọng tới
những khía cạnh này nơi những người xung quanh ḿnh. Y đang học cách để trở
thành một kẻ mang lại niềm an b́nh và niềm vui cho người khác, do đó y không
được phàn nàn nếu quá tŕnh giáo dục đôi khi khiến cho y không được hưởng
nhiều niềm vui phù du mà đồng loại của y quí chuộng xiết bao. Một đứa trẻ
đang thực tập sử dụng nhạc cụ có thể phải bỏ học và gia nhập vào cái tṛ
cười vui vẻ của đám bạn đồng môn ấu trĩ đang nô đùa ngoài vườn, nhưng nếu nó
kiên tŕ rèn luyện cơ thể ḿnh để mô phỏng lại (cho dù yếu kém đến đâu đi
nữa) thông điệp của Thượng Đế chuyển tải qua âm nhạc, th́ một ngày kia nó sẽ
mang lại an b́nh cho hàng ngàn người và mang lại cho chính ḿnh một niềm vui
rất xứng đáng với cái sự hi sinh nhỏ nhoi một thứ hạnh phúc tạm bợ mà vào
lúc đó dường như quyến rủ xiết bao.
Đôi khi việc ăn thịt
hoặc tuân theo những thói quen tư tưởng qui ước ắt đơn giản hơn nhiều cũng
như việc chấp nhận lời tuyên bố chính thức theo qui ước của một giai cấp,
nhưng người ta không được từ bỏ cái thường trụ để đổi lấy cái vô thường. Một
con chim nắm được trên tay đâu có đáng giá bằng hai con chim đang ẩn trong
bụi rậm, miễn là bạn biết rằng nếu bạn cố gắng đúng mức th́ sớm muộn ǵ bạn
cũng bắt buộc phải chộp được những con chim ẩn trong bụi rậm. Đôi khi người
ta nghĩ rằng ḿnh có thể vừa có con chim nắm trên tay vừa có những con chim
ẩn trong bụi rậm (vừa có mồi vừa được bóng), nhưng chúng ta rơ ràng đă được
dạy bảo rằng chúng ta không thể vừa thờ Chúa vừa thờ Thần tài; và theo chỗ
tôi biết, th́ kinh nghiệm của những môn sinh tha thiết nhất là việc loại trừ
mọi thú vui cứ chăm chăm vào ḷng ích kỷ và sự buông thả bản thân gây thiệt
hại cho những người khác. Tôi thừa nhận rằng trong một chừng mực nào đó ta
phối hợp hai mục đích lại được, và như tôi có nói trước kia chẳng có lư do
ǵ khiến ta không được vui hưởng những tṛ giải trí vô hại và vô tội. Nhưng
ḷng ích kỷ bao giờ cũng tŕ kéo sự tinh tấn của con người trong việc sống
cuộc đời đệ tử, và người ta càng tỏ ra ít ích kỷ th́ y càng tiến nhanh hơn.
Hầu hết chúng ta đều ít nhiều ích kỷ, kết quả là chúng ta chỉ thành công ít
nhiều khi mưu t́m sự thật. V́ vậy về phần ḿnh, chúng ta phải sắp xếp cuộc
đời lại sao cho chúng ta liên tục hoạch định phúc lợi cao cả hơn cho những
người xung quanh, một phần bằng cách tích cực giúp đỡ họ và một phần bằng
cách tự rèn luyện ḿnh. Mọi sự chuẩn bị như thế đều gây ra sự căng thẳng, v́
thật vậy suốt ngày đêm chúng ta đều phải phấn đấu để chuyển hóa mọi rung
động thô trược ngoại lai thành ra các thần lực tinh vi hơn. Sự thù ghét,
không ưa, ác cảm, nghi ngờ, ngờ vực – tất cả đều trút xuống đầu ta. Và để
đáp lại chúng ta phải rèn luyện chính ḿnh để chứng tỏ thiện chí. Thoạt đầu
chúng ta không phải lúc nào cũng làm được như thế, thậm chí chúng ta thường
không làm như vậy, nhưng kẻ nào đă từng một lần dĩ đức báo oán đều biết được
sự an b́nh mà nó mang lại cho mọi hạ thể của ḿnh và cảm giác nhiệt thành,
sung sức mà nó mang lại cho toàn bộ bản thể của ḿnh. Tôi cảm thấy vô cùng
mănh liệt rằng ngay hiện nay bất kỳ cố gắng nào mà tôi đă thực hiện trong
quá khứ đều được đền đáp lại nhiều hơn qua sức mạnh mà tôi có ư thức được
trong những giờ phút khó khăn, qua ḷng tha thiết mà tôi trải nghiệm được
khi phục vụ cho nhiều người chịu sự khốn khổ và phiền năo của Chiến tranh.
Chiến tranh đă mang tất cả chúng ta lại gần kề với nhau hơn. Nhất là nó đưa
Chơn sư lại gần chúng ta hơn mức chúng ta để cho các Ngài đến với chúng ta
trước kia, và nó đă khiến cho một số người trong chúng ta có được hạnh phúc
khi biết rằng Thông Thiên Học là suối nguồn vĩ đại duy nhất mà ta có thể rút
ra được từ đó ḷng can đảm và sự hoan hỉ để dùng phục vụ kẻ đau khổ. Những
giai đoạn như thế này có đầy dẫy bằng chứng cho thấy rằng “sự căng thẳng
triền miên” rất đáng giá để chịu đựng v́ nó có khả năng giúp ta phụng sự
được nhân loại. Khi ḍng đời suôn sẻ th́ sự căng thẳng đôi khi có vẻ là một
sự hành xác không cần thiết, nhưng chỉ trong những lúc khó khăn th́ chúng ta
mới biết rằng sự căng thẳng triền miên đó là nền tảng của một đức tin mà nếu
không có nó không thể có được đức tin chân chính được.
CHƠN NGĂ Ở BÊN NGOÀI THỂ XÁC
Thế rồi Chơn sư chỉ cho
chúng ta cách tiến hành việc rèn luyện. “Luôn luôn là con phải kiểm soát cơ
thể đó chứ không để cho nó kiểm soát con”. Về vấn đề này bà Besant đưa ra
giáo huấn sau đây mà lời lẽ không phải của bà: “Điều bạn phải làm là coi cơ
thể bạn giống như một con thú được giao phó cho bạn; bạn không được bắt nó
làm quá sức v́ nếu bạn làm như thế, nó ắt không đủ năng lượng thể chất để
dành lại cho những cố gắng khác về các phần việc nữa của bạn. Bạn phải cho
nó ngủ và ăn đúng mức theo nó cần để giữ cho nó có được t́nh trạng hữu hiệu
cao nhất, chứ không nhất thiết là phải cung cấp cho nó mọi thứ mà nó muốn.
Nhiều người trong các bạn vẫn c̣n cung cấp cho cơ thể quá nhiều thức ăn và
điều này không tương thích với mức hữu hiệu cao nhất mà chúng ta luôn luôn
nhắm tới. Dĩ nhiên, thể xác của người trẻ tuổi cần nhiều thức ăn hơn thể xác
của người già; cơ thể phải có đủ thức ăn nhưng bạn không được để cho nó có
nhiều hơn mức cần thiết. Nhiều người tốt bụng phạm phải chính cái lỗi lầm đó
đối với những con thú của ḿnh, kết quả là những con thú có sức khỏe không
được hoàn hảo và đau ốm khi phải bước đi. Bạn phải xét đoán cơ thể ḿnh. Bạn
phải kiểm soát hoàn toàn cơ thể ḿnh sao cho bạn có thể bắt nó chờ đợi mà
không khó chịu khi bạn bảo rằng: “Nó muốn điều này chứ tôi không muốn đâu.
Bây giờ tôi c̣n một chuyện khác quan trọng hơn cần phải làm và nó phải chờ
cho đến khi tôi có thể quan tâm tới nó”.
“Đây là điều mà tôi
khuyên bạn nên suy đi gẫm lại và tiến hành dừng lại liên tục để hỏi: Liệu
chính tôi hay thể xác của tôi muốn chuyện này ? Điều này sẽ dần dần khiến
cho bạn đạt được t́nh trạng tự phản tỉnh (self recollectedness) vốn rất
thiết yếu, và làm một điều mà những kẻ chưa lăo luyện không bao giờ có được
. . . bất cứ khi nào bạn mơ ước một điều ǵ đó hăy xét xem liệu có thực
bạn muốn như vậy không. Có một
bài học lớn mà bạn phải học đó là đồng nhất ḿnh với Thượng Đế vốn là Đấng
Nhất Như, thay v́ đồng nhất ḿnh với con thú vốn là công cụ của ḿnh”.
Tôi xin nhấn mạnh tới từ
“tự phản tỉnh”. Chúng ta phải nhớ
đến bản thân, chúng ta phải nhớ phân biệt giữa cổ máy và nguyên động lực,
giữa dụng cụ và người sử dụng. Trong hai trang kế tiếp Chơn sư giải thích
cho chúng ta cách giúp chúng ta có thể tự phản tỉnh bằng cách cho chúng ta
thấy rằng thể vía và thể trí lần lượt muốn
những điều của riêng ḿnh. Ngài
đă cho chúng ta biết cái cách thức mà thể xác cố gắng chinh phục chơn ngă
bên trong – “thể xác muốn nghỉ ngơi, đi dạo, ăn uống; kẻ nào không biết ắt
tự nhủ rằng Tôi muốn làm những điều này”. “Nhưng chúng ta phải nói với cả ba
hạ thể - xác, vía, trí: Các ngươi không được cản trở ta làm điều tốt”. Nói
cách khác, chúng ta phải nhớ tới chơn ngă của ḿnh, cho dù các hạ thể của ta
(các công cụ của chơn ngă) có thể đấu tranh, yêu sách để cho ta phải nghe
chúng nói om ṣm đến đâu đi nữa. Người nào không biết ắt bận tâm rất nhiều
tới các hạ thể đến nỗi họ hầu như đồng nhất hóa hoàn toàn bản thân ḿnh với
các hạ thể, và chỉ khi chịu một áp lực đạo đức lớn lao nào đó th́ họ mới
nhận ra quá trễ sự lộng hành của các phàm ngă, có nghĩa là chơn ngă đă bị
rút lui ra khỏi địa vị mà lẽ ra nó phải giữ, đă bị tước mất quyền lực mà nó
cấp cho các công cụ của ḿnh. Giá trị của các hạ thể cốt ở việc chúng có thể
thu lượm kinh nghiệm cần thiết trên cơi mà vật chất cấu tạo nên chúng thuộc
về cơi đó. Nếu chúng chỉ đắm ch́m vào những hoạt động trên cơi của riêng
ḿnh thay v́ để cho các thể trên cơi cao tuyển lựa càng nhiều càng tốt những
kinh nghiệm có thể giúp vào sự tăng trưởng của cá nhân; th́ nói chung kết
quả là các hạ thể sẽ càng ngày càng bị vướng mắc vào những lớp càng ngày
càng thấp trên cơi của riêng ḿnh, và cuối cùng là phải chịu đau khổ rất
nhiều do bị chơn ngă vứt bỏ v́ coi thường mệnh lệnh của chơn ngă. Luật
Nhân Quả rất nghiêm khắc và một
hạ thể bị sa đọa dùng vào những mục đích thấp hèn trong một kiếp khi lẽ ra
nó phải lắng nghe Thượng Đế nội tâm th́ hạ thể đó không thể phục vụ chủ nhân
ông của ḿnh trong tương lai, và trong sự khốn khổ của việc mưu t́m trợ giúp
kết hợp với những công cụ không thể dùng làm việc được th́ dần dần con người
học được bài học là y chỉ có thể được hạnh phúc và tiến bộ chân chính khi
phàm ngă hành động mà hoàn toàn kính nễ ư chí của chơn ngă. Biết bao nhiêu
lần tinh thần không muốn khi xác thịt quá yếu đuối – kết quả là không học
được những giá trị tương đối của đủ thứ hạ thể nhờ vào chúng ta tiếp xúc
được với nhiều chiều sâu thẳm trong vũ trụ của Thượng Đế ? Xác thịt ắt yếu
đuối khi nó chỉ cố gắng dựa vào sức ḿnh thôi, nhưng nó trở nên vô cùng mạnh
mẽ khi chỉ đóng vai tṛ phản ánh đối thể tâm linh của ḿnh.
CHƯƠNG VII
THỂ VÍA VÀ THỂ TRÍ
Chơn sư dạy rằng: “Thể
vía có những ham muốn của nó – cả tá ham muốn; nó muốn con giận dữ, nói xẳng
giọng, cảm thấy ghen tuông, tham tiền, ganh tị với những thứ người khác có,
bị nản ḷng . . . chẳng phải v́ nó muốn hại con mà v́ nó thích những rung
động thô bạo và muốn thay đổi chúng liền liền. Nhưng con đâu có muốn những
thứ này và v́ vậy con phải phân biệt giữa điều mà con muốn và điều mà thể
vía muốn”.
Tôi lại xin trích dẫn
những chú giải thuộc phần giáo huấn của bà Besant bàn về đoạn văn này: “Bạn
phải liên tục cảnh giác, thường xuyên đề pḥng v́ muốn nhận ra được rằng
ḿnh không phải là thể vía ắt khó hơn việc nhận ra được rằng ḿnh không phải
là thể xác. Nhưng nếu bạn xét tới những ví dụ mà Chơn sư đưa ra th́ bạn ắt
thấy ḿnh liên tục đồng nhất hóa bản thân với thể vía. Bạn ắt bảo: “Tôi giận
dữ hoặc bực ḿnh”. Có lẽ bạn cũng chẳng nói ‘Tôi ghen tuông’ nếu bạn có ư
thức về xúc cảm ghen tuông, bởi v́ chúng ta có thể tự đồng nhất hóa ḿnh với
các xúc cảm nhưng chúng ta lại cố gắng che đậy những xúc cảm thấp hèn sao
cho ta có thể gọi cái xúc cảm đó là t́nh yêu chứ không phải là sự ghen tuông.
‘Tôi bị tổn thương v́ thế này thế nọ, người mà tôi yêu lại yêu một người
khác hơn tôi. T́nh thương là một đức tính viên dung và có tầm mức rất bao
quát đến nỗi mà chúng ta thích núp bóng nó và gán cho nó đủ thứ chuyện chẳng
dính dáng ǵ tới nó. Tốt hơn là ta nên thẳng thắn xem xét xúc cảm của ḿnh
chứ đừng vờ vịt với bản thân và tự đánh lừa ḿnh bằng những ngôn từ hoa mỹ.
Trong trường hợp mà ta đang xét, bạn đâu có bị tổn thương v́ bạn yêu thương
bằng hữu của ḿnh mà chỉ v́ bạn muốn chiếm hữu người bằng hữu ấy cho riêng
ḿnh. Ở đâu có cái xúc cảm bị tổn thương đó th́ ở đó có bóng dáng của ḷng
ích kỷ vốn là đối cực với t́nh thương. Bạn, tức Chơn ngă, th́ không cảm thấy
ghen tuông, nhưng thể vía của bạn th́ có thể; bạn cũng đâu có giận dữ hay
bực ḿnh: chúng đâu chỉ là các tâm trạng của thể vía.
Tôi muốn nhấn mạnh tới
sự thật là khi chúng ta cảm thấy bị tổn thương hoặc xúc phạm th́ thực ra
chúng ta đang chịu ảnh hưởng của ḷng ích kỷ. Thiên hạ ắt bảo bạn rằng cũng
tự nhiên thôi khi đôi lúc ta cảm thấy rằng ḿnh bị tổn thương hay bị xúc
phạm, và tôi hoàn toàn đồng ư nếu họ dùng từ “tự nhiên” để ngụ ư là “tất yếu
ở một tŕnh độ phát triển nào đó”. Chúng ta không thể thấy đồng cảm với
những người bị tổn thương hoặc bị xúc phạm nếu bản thân ta chưa trải nghiệm
cái xúc phạm đó. Mặt khác, chúng ta không thể vẽ đường chỉ lối cho họ khắc
phục được xúc cảm này nếu bản thân chúng ta không ít nhiều khắc phục được
nó, và Chơn sư nhấn mạnh tới sự thật là Chơn ngă nơi mỗi người chúng ta (cái
bản ngă mà chúng ta diễn tả một cách mơ hồ qua lời lẽ của sinh hoạt hằng
ngày) liên tục đồng nhất hóa ḿnh với những hạ thể mà điều này chỉ tồn tại
trong một thời gian ngắn; chơn ngă đó chẳng bao giờ cảm thấy những tâm trạng
phù du ấy. Theo kinh nghiệm của bản thân, mặc dù tôi cũng chỉ vừa mới bắt
đầu làm việc thực sự, tôi có thể dứt khoát làm chứng cho sự thật là tôi càng
chú ư tới chơn ngă nội tâm th́ rơ ràng là tôi càng nhận ra được chơn ngă ghê
tởm những tâm trạng và xúc cảm thuộc loại thấp hèn. Tôi thường nhượng bộ
những cám dỗ thuộc đủ mọi thứ, trải qua những tâm trạng và xúc cảm nhưng
càng ngày tôi càng ư thức được một sự không thoải mái ghê gớm bất cứ khi nào
phàm ngă lộng hành. Mặc dù chưa làm chủ trọn vẹn được các hạ thể của ḿnh
(chúng cũng nhiều lần lộng hành lắm rồi) nhưng tôi đâu có hạnh phúc ǵ khi
chúng chiến thắng, và ngay cả khi chúng tạm thời chiến thắng th́ tôi cũng
thừa biết rằng ḿnh không được thoải mái lắm, có thể nói là chơn ngă của tôi
đang đau ốm. Chúng ta chắc biết nhiều về sự đau ốm của thể xác, nhưng ngay
khi chúng ta bắt đầu đặt chân trên Thánh đạo th́ chúng ta ắt học được ư
nghĩa của sự đau ốm tâm linh mà các phương thuốc chữa ắt được t́m thấy nội
dung trong quyển Dưới Chơn Thầy.
Sự đau ốm tâm linh cũng gây ra đau khổ chẳng khác nào sự đau đớn do thể xác
đau ốm – tôi nghĩ c̣n nhiều hơn nữa; bởi v́ khi ta tha thiết phụng sự mà lại
không có quyền năng, ta không có quyền năng v́
đă buông xuôi theo những tâm trạng phù du của các hạ thể lẽ ra phải làm
đầy tớ chứ không được làm chủ. Và chẳng có ǵ nhức nhối hơn là không thể bắt
các hạ thể tuân lệnh của tinh thần.
Tôi muốn nhấn mạnh tới
phát biểu của Chơn sư theo đó thể vía muốn những chuyện ấy “không phải v́ nó
muốn hại bạn mà v́ nó thích những rung động thô bạo và thích thay đổi chúng
liền liền”.
Bạn phải nhớ rằng đủ thứ
hạ thể của ta được cấu tạo bằng vật chất vẫn c̣n ở trên ṿng cung tiến hóa
đi xuống. Kết quả là vật chất đó tiến hóa qua những rung động thô bạo và
thường xuyên thay đổi. Bà Besant có nhận xét rằng: “Sinh viên đôi khi có nêu
ra một thắc mắc kỳ cục đối với tôi: Liệu ta có nên tạo cho nó cơ hội tiến
hóa chăng ?” Không đâu ! Bạn có thể từ chối tạo cơ hội cho những rung động
này mà không phải e ngại là ḿnh ích kỷ. Nó có thể t́m thấy những rung động
đó nơi những người dă man và nơi những con thú, những người này
cần tới những rung động đó để
trải nghiệm phô bày các tâm trạng trong tâm thức, c̣n bạn không được quyền
hi sinh cơ tiến hóa cao cả của ḿnh cho chuyện đó. Việc thể vía thường xuyên
muốn những sự thay đổi thô bạo chính là điều ắt giúp cho bạn nhận ra được
rằng nó không phải là bạn. Các tâm trạng đổ ụp xuống đầu bạn mà không có một
nguyên nhân biểu kiến nào và lư trí của bạn cũng chẳng tán thành, chúng
chẳng dính dáng ǵ tới bạn mà chỉ là các hoạt động độc lập của thể vía. Bạn
phải nhận ra được điều này chứ đừng để cho ḿnh trở thành sân chơi của mọi
thứ tâm trạng tùy duyên.
Chơn sư nhấn mạnh sự
thật là bạn đâu có muốn những thứ đó; v́ vậy bạn phải phân biệt giữa điều mà
ḿnh muốn và điều mà thể vía muốn.
Tôi nghĩ ta nên nhớ rằng chúng ta càng tiến bộ th́ càng có nhiều thần lực
tuôn đổ qua đủ thứ hạ thể của ḿnh. Kết quả là trong khi các xúc động cao
thượng của ta vô cùng mạnh mẽ hơn bao giờ hết th́ các xúc động thấp hèn của
ta cũng lại có thêm được sức mạnh. Mỗi người trong chúng ta vốn đă dứt khoát
tự nguyện bước trên con đường Phụng sự đều trải nghiệm điều khó khăn là
trong khi ḿnh có thể làm được nhiều điều tốt hơn trước th́ dường như ḿnh
cũng gặp nhiều chướng ngại hơn mức mà trước kia ḿnh chưa hề biết tới; thật
vậy mọi hạ thể đều trở nên linh hoạt hơn và thần lực tuôn đổ qua đó ảnh
hưởng tới cả điều cao thượng lẫn điều thấp hèn. Như vậy khi nỗ lực đặc biệt
muốn được an toàn th́ ta phải đoan chắc rằng cho dù phần thấp hèn có được
tiếp thu bao nhiêu sinh lực đi chăng nữa th́ phần cao thượng bao giờ cũng có
thể chế ngự được.
Mỗi người trong chúng ta
khi dứt khoát đặt ḿnh về phe cơ tiến hóa, về phía xả thân hơn là phía tự tư
tự lợi, th́ ta đều phải chuẩn bị trả giá cho những sự đồng cảm sâu sắc hơn
mà ḿnh tất yếu phải trải nghiệm bằng cách tha hồ bị những cám dỗ lớn lao
hơn mức từ trước đến nay đă cản đường ḿnh. Nếu y thật sự tha thiết th́ sớm
muộn ǵ y ắt cũng thành công và khi y cảm thấy rắc rối đang đè bẹp ḿnh th́
y nên tự nhủ rằng: “Những cái khó khăn thêm nữa này chính là cái giá mà tôi
phải trả để có được khả năng phụng sự lớn lao hơn”. Cho dù chuyện ǵ xảy ra
đi chăng nữa th́ ít ra ta cũng chẳng khôn ngoan khi ngẫm nghĩ về những thất
bại, hoặc tưởng tượng rằng một lỗi lầm trong quá khứ không bao giờ được sửa
sai. Một trong những câu châm ngôn xưa nhất có bảo rằng chúng ta không nên
ngoái nh́n lại đằng sau. Nếu chúng ta ngoái nh́n lại đằng sau chúng ta ắt
cảm thấy thất vọng, ăn năn, hối hận. Bà Besant có dạy rằng tất cả những tâm
trạng này chỉ tổ phí sức. Năng lượng mà bạn cung cấp cho sự hối hận tốt hơn
là nên cung cấp cho việc trau dồi xúc cảm đối ngược với điều gây ra sự hối
hận đó. “Đừng ngoái nh́n lại đằng sau . . . hăy lựa ra mọi tâm trạng đối lập
với nó và thực hành chúng suốt ngày. Nếu thể vía muốn bạn sốt ruột th́ hăy
quan tâm tới sự kiên nhẫn, hăy nghĩ tới sự kiên nhẫn trong buổi tham thiền
sáng sớm và thực hành nó trọn cả ngày. Nếu thể vía muốn bạn cảm thấy ghen
tuông th́ đừng nghĩ tới ghen tuông nữa mà nghĩ tới ḷng vị tha và ráo riết
thực hành nó. Thế là chẳng c̣n chỗ đâu cho sự ghen tuông nữa. Trong cùng một
lúc, tâm trí của bạn không thể chất chứa hai điều đối nghịch”. Nói cách
khác, chúng ta phải phấn đấu càng tích cực càng tốt, càng tích cực được lâu
bao nhiêu càng tốt. Chúng ta phải phấn đấu nhấn mạnh tới bản chất tốt đẹp
của ḿnh thay v́ cảm thấy phiền năo do những lỗi lầm mà chúng ta mắc phải.
Cá nhân tôi tin mănh
liệt rằng quá khứ có thể sửa đổi được cả bằng hiện tại lẫn bằng tương lai.
Tôi nghĩ rẳng thái độ của chúng ta trong hiện tại có thể sửa đổi được quá
khứ nhiều đến mức chúng ta có thể chuyển hóa một lỗi lầm thành ra một sức
mạnh để làm điều thiện. Cũng vậy khi kỹ lưỡng trong hiện tại th́ chúng ta sẽ
khiến cho tương lai được an toàn và đến lượt nó sẽ phản tác động lại lên quá
khứ. Theo một quan điểm nào đó của tâm thức th́ vạn vật đều ở trong trạng
thái “HIỆN TẠI VĨNH HẰNG”. V́ tất cả những ǵ chúng ta đă làm, tất cả những
ǵ chúng ta đang làm, tất cả những ǵ chúng ta sẽ làm, đều được tổng kết nơi
“Hiện Tại Vĩnh Hằng” này. Cái điều ác hại mà tôi đă lỡ gây ra cho bạn ḿnh
năm ngoái th́ ngày hôm nay tôi có thể sửa đổi lại nó một cách đáng kể bằng
việc phục vụ y. Cái tư tưởng ghen tuông mà xưa kia tôi đă có lần mắc phải
th́ tôi có thể khiến cho nó tương đối bất lực bằng cách đổ ào lên người bạn
của ḿnh những tư tưởng mạnh mẽ với thiện chí vị tha bất cứ khi nào tôi có
dịp. Tôi không có ư gợi ra rằng mọi hành động đều không kèm theo nghiệp báo
tương ứng. Nhưng ai mà biết được hành động bắt đầu ở đâu và chấm dứt ở đâu ?
Ở dưới đây, chúng ta thấy sự vật được ngăn cách ra thành những ngăn kín bít:
Chơn sư có thể thấy được tính đơn nhất nhiều hơn mức mà chúng ta có thể thấy
được trong cái thế giới tồn tại biệt lập này.
THỂ TRÍ
Chơn sư tiếp tục nêu ra
bằng cách nào mà thể trí lại dùng các h́nh tư tưởng thấp hèn để đấu tranh
phục vụ cho nhu cầu của vật chất cấu tạo nên nó. Ngă mạn dường như là một
trong những đặc tính thông thường nhất của thể trí. “Thể trí của con muốn
ngă mạn, chỉ nghĩ riêng tới ḿnh nhiều hơn nghĩ tới người khác. Ngay cả khi
con bắt nó xa ĺa những chuyện thế tục th́ nó vẫn c̣n cố tính toán cho bản
thân, xúi giục con nghĩ tới sự tiến bộ của riêng ḿnh thay v́ nghĩ tới công
việc của Chơn sư và việc giúp đỡ người khác”. Bà Besant nhận xét rằng có lẽ
thể trí là thể khó kiểm soát nhất. Theo kinh nghiệm của chính ḿnh th́ tôi
thấy thể trí dường như có khả năng lừa gạt chúng ta thành công hơn các thể
khác, v́ cái trí liên kết với sự tiến bộ cá nhân của mỗi người và xúi giục y
nghĩ tới xem ḿnh được ǵ mất ǵ. “Chẳng biết tôi đă tiến gần tới giai đoạn
nhất định kế tiếp trên đường đời hay chưa ?” Đây là một tư tưởng thường lởn
vởn trong đầu những kẻ phấn đấu sống cuộc đời linh thánh, và đó chắc chắn là
một tư tưởng tự nhiên thôi. Mặt khác, sự tiến bộ tâm linh tùy thuộc vào việc
phục vụ người khác chứ không tùy
thuộc vào sự tăng trưởng cá nhân, ngoại trừ trong chừng mực chắc chắn là
đúng theo đó bạn càng tăng trưởng th́ bạn càng có nhiều năng lực hữu dụng.
Chúng ta không được quên
tính đơn nhất bản thể của vạn vật (vạn vật đồng nhất thể) và điều này có
nghĩa là không có một sự tăng trưởng cá nhân nào có thể đạt được nếu những
người khác không tăng trưởng theo, trong khi sự tăng trưởng của những người
xung quanh chúng ta tất yếu sẽ kích thích sự tăng trưởng của chính ta. Nói
cách khác, chẳng ích lợi ǵ khi chỉ nghĩ tới bản thân ḿnh hoặc tới một số
ít người, chúng ta phải nghĩ tới nhiều người sao cho dần dần chúng ta đạt
tới tŕnh độ của Chơn sư khi chỉ c̣n nghĩ tới mọi người.
Chắc chắn là muốn cho
phần thấp thỏi của ḿnh được hoàn chỉnh th́ thể trí cần phải phát triển
những năng lực và quyền năng đặc biệt; sự phát triển đó bắt đầu bằng cách để
cho các năng lực và quyền năng này tăng trưởng theo sự thôi thúc cưỡng chế
của việc cạnh tranh và chủ nghĩa cá nhân. Nhưng tất cả những người nào đọc
đến những trang này đều đă trải qua giai đoạn tăng trưởng đó rồi và ắt đă
đạt tới mức hiểu ra được rằng bất cứ quyền năng nào cũng chẳng có giá trị ǵ
nếu nó không được dùng để giúp cho tổng thể. Và như vậy khi thể trí muốn ngă
mạn nghĩ rằng ḿnh biệt lập th́ chúng ta phải coi t́nh trạng này chỉ là tàn
dư của quá khứ, là một điều ǵ đó mà thực ra chúng ta đă vượt qua rồi và
chúng ta lẽ ra chẳng cần chú ư tới nữa. Theo kinh nghiệm riêng của ḿnh, tôi
thấy cách nhanh nhất để phát triển các năng khiếu của thể trí ở tŕnh độ
phát triển của chúng ta chính là việc dùng các năng khiếu đó để phục vụ
người khác. Một đứa trẻ yếu kém về một môn học đặc biệt nào đó có thể kích
thích tối đa điều mà ḿnh đang thiếu sót bằng cách rán t́m cho ra một đứa
khác thậm chí học c̣n kém hơn ḿnh nữa sao cho y có thể thấy ḿnh sử dụng
được hữu ích ngay cả một chút xíu quyền năng mà ḿnh mới có được.
Mỗi người trong chúng ta
đều có mầm mống sự hoàn hảo nơi bản thân, và chúng ta chỉ yếu kém ở một
phương diện đặc biệt nào đó so với những người khác vốn mạnh về phương diện
đó. C̣n khi so sánh với những kẻ yếu kém hơn chúng ta, th́ chúng ta lại
tương đối là mạnh. Ta nên luôn luôn nhớ rằng đằng sau những sự bất toàn biểu
kiến đều có mầm mống của sự hoàn hảo vốn được chôn chặt bên trong Thượng Đế
nội tâm. Chúng ta là Thượng Đế đang h́nh thành và cho dù năng lực của chúng
ta dường như chẳng thấm vào đâu so với năng lực của các Huynh trưởng, th́
những năng lực đó vẫn có giá trị rất đáng kể đối với những kẻ c̣n kém hiểu
biết hơn chúng ta nữa. Và khi giúp đỡ những kẻ mà so sánh với họ sự yếu kém
của chúng ta tương đối lại là “mạnh đối với họ” th́ chúng ta sẽ dần dần chú
trọng tới sức mạnh đó và thế là phát triển được những năng khiếu cho đến nay
xét theo biểu kiến là chưa mạnh. Như vậy bạn ắt thấy rằng về lâu về dài th́
cái sự thật vĩ đại về tính đơn nhất ắt bảo đảm cho mỗi người trong chúng ta
là sớm muộn ǵ chúng ta cũng có được quyền năng trở nên đấng giống như các
Chơn sư ngày nay vậy. Tất cả chúng ta đều tùy thuộc vào nhau, tất cả chúng
ta đều tăng trưởng qua nhiều lần thất bại và mọi sự yếu kém chẳng qua chỉ là
một sức mạnh chưa được phát triển ra.
NHỮNG CÁM DỖ VÀ NHỮNG CƠ HỘI
Bà Besant thường dạy
chúng ta rằng người phụng sự và huyền bí gia chân chính thấy mọi chuyện xung
quanh trên đời này đều là những cơ hội thay v́ là những cám dỗ. Đối với kẻ
phàm phu th́ y phải tránh sự cám dỗ hoặc ít ra cũng phải đề pḥng nó. Sự cám
dỗ là một điều ǵ đó khiến chúng ta có thể sa ngă, do đó chúng ta có thể bị
sụp hầm hố. Nhưng đối với một hành giả tha thiết đang bắt đầu hiểu được chân
giá trị của cuộc sống, th́ sự cám dỗ lại là cơ hội để cho ta củng cố một chỗ
yếu kém, để vun bồi một đức tính, trau dồi một sức mạnh thay v́ là một nhược
điểm. Y không cố gắng tránh bị cám dỗ, thay vào đó y b́nh chân như vại giữa
cám dỗ và phô bày chính cái sức mạnh mà chỉ v́ thiếu nó cho nên người ta mới
bị cám dỗ. Tôi hoàn toàn công nhận rằng có những người tốt hơn là nên tránh
xa chuyện cám dỗ, nhưng bất cứ kẻ nào tha thiết nên cố gắng tập trung sức
mạnh để khắc phục chuyện cám dỗ bằng chính cái sức lực dự trữ của ḷng tha
thiết vốn sẽ chấp cánh cho y bay qua hầu hết mọi rối rắm miễn là y quyết tâm.
Một lần nữa, về vấn đề này tôi xin nhấn mạnh là cần phải tự phản tỉnh. Nên
nhớ bạn là ai và bạn đang phấn đấu cho điều ǵ và nhất là phải nhớ như thế
khi một khó khăn hoặc một cám dỗ đang đe dọa một cái trí chỉ nhấp nha nhấp
nhỏm xao lăng khỏi Chơn ngă. Chỉ nội cố gắng ghi nhớ thôi (chứ đừng nói tới
hành vi khắc sâu vào kư ức) cũng mang lại sức mạnh của riêng ḿnh giúp cho
bạn làm chủ được t́nh h́nh khó khăn hoặc cám dỗ thay v́ chịu nô lệ cho nó.
Chơn sư dạy “Con phải không ngừng cảnh giác kẻo con sẽ thất bại”. Trong
những vấn đề này chủ yếu là thói quen, và nếu bạn cứ có thói quen để cho cám
dỗ khuất phục th́ bạn cũng có thể tạo ra thói quen chuyển hóa cám dỗ đó
thành ra cho ta có thêm năng lực. Bạn hăy lập ra một thói quen tốt th́ nó sẽ
chấp cánh mang bạn vượt qua những rắc rối mà bạn chẳng bao giờ nghĩ được
rằng ḿnh có thể chịu đựng nỗi. Nếu bạn tập nhiễm một thói xấu th́ nó sẽ dẫn
bạn trong một thời gian lâu dài đi theo con đường gỡ rối những nút buộc mà
tự bạn đă trói lấy thân ḿnh chứ có ai đâu gỡ rối cho bạn. Tự phản tỉnh có
nghĩa là “nghĩ tới công việc của Chơn sư và việc giúp đỡ người khác”, khi
bạn suy nghĩ theo kiểu này th́ bạn đang học cách phù phép để khắc phục được
những cám dỗ của ḿnh.
ĐÚNG VÀ SAI
Giờ đây chúng ta xét tới
một phát biểu quan trọng nhất của Chơn sư “giữa Đúng và Sai, Huyền bí học
không chấp nhận sự thỏa hiệp. Bằng bất cứ giá biểu kiến nào, con phải làm
điều đúng và không được làm điều sai cho dù kẻ vô minh có nghĩ hoặc nói sao
đi chăng nữa”. Huyền bí gia là ai ? Về vấn đề này chúng ta có một lời giải
đáp ở phần đầu của quyển Dưới Chơn
Thầy: “Việc một người thuộc tôn giáo nào, thuộc giống dân nào th́ chẳng
có chi là quan trọng, điều thật sự
quan trọng là biết được Thiên cơ dành cho loài người”. Tôi đă viết
nghiêng câu cuối cùng v́ tôi tin rằng huyền bí gia là người ít ra cũng bắt
đầu phần nào biết được Thiên cơ; chẳng ai có thể biết trọn cả Thiên cơ.
Huyền bí gia đă bắt đầu dùng óc phân biện của ḿnh để phân biệt giữa điều có
thực và điều không thực, giữa bóng tối và ánh sáng, và biết rằng sự chết
chẳng qua chỉ là phương tiện để thực hiện sự bất tử. Các bạn là những người
phụng sự Hội đoàn Ngôi sao, có lẽ là hội viên của Hội Thông Thiên Học nữa,
các bạn học tập trở thành huyền bí gia v́ các bạn biết một số sự thật mà đa
số loài người hiện nay c̣n chưa biết. V́ vậy, Chơn sư ngơ lời với các bạn
khi Ngài tuyên bố rằng bằng bất cứ giá
biểu kiến nào bạn cũng phải chọn
điều đúng. Ta hăy lưu ư từ “biểu kiến”. Khi bạn chọn điều đúng và không chọn
điều sai th́ chính bạn hoặc những người khác thực ra không phải trả giá ǵ
cả. Chân lư quả thật là vĩ đại và nó sẽ chiếm ưu thế cho dù điều lầm lỗi
trong nhất thời dường như có vẻ chiến thắng đến đâu đi nữa. Đau khổ xảy ra
v́ ta làm sai và mặc dù quả thật là một hành động đúng thường gây cho ta
nhiều đau khổ, nhưng đó là v́ chúng ta đang phá vỡ cái thói quen ưa làm sai
và phàm ngă vẫn c̣n đấu tranh để
gh́ kéo chúng ta trong ṿng kềm kẹp của nó. Nỗi đau của phàm ngă chẳng qua
chỉ là bản dạo đầu tất yếu của niềm vui thuộc chơn ngă khi bắt đầu cảm thấy
được tự do và không bị kềm kẹp nữa. Chẳng bao lâu th́ phàm ngă sẽ không c̣n
ràng buộc, đến lúc đó th́ đâu có đau khổ - “Chơn sư bao giờ cũng thanh thản
và hoan hỉ”, chẳng phải v́ Ngài thờ ơ với sự đau khổ mà v́ Ngài biết rằng
mọi sự đau khổ đều có thể dạy dỗ do Ngài đang sống với Chơn ngă vốn đă được
giải thoát khỏi một sự tù túng mà ư nghĩa của sự giải thoát đó th́ chỉ có
tăng trưởng mới hiểu được. Chỉ có một cái giá phải trả “biểu kiến” khi ta
xem xét t́nh trạng đó theo quan điểm của những người c̣n vô minh hơn chính
ta nữa, của những người không hiểu được động cơ nào thúc đẩy ta hành động.
Nói cách khác, cái “giá phải trả” là nỗ lực tẩy trược phàm ngă và ta chỉ có
thể coi nỗ lực này là cái “giá phải trả” khi ta đồng nhất hóa ḿnh với một
phàm ngă đang mất dần thế lực. Người ta ưa xét đoán người khác và xét đoán
thiên hạ khắc khe hơn xét đoán bản thân. Chúng ta tùy thuộc quá nhiều vào ư
kiến của người khác đánh giá chúng ta. Kết quả là chúng ta thường hành động
ngược lại với mệnh lệnh của lương tâm với hi vọng rằng việc đó sẽ che chắn
ḿnh khỏi sự xét đoán của đồng loại. Tôi nghĩ rằng đây là ngụ ư của từ “thỏa
hiệp”. Ta hăy nghe lời dạy của bà Besant: “Nếu bạn thẳng thắn xem xét điều
đó th́ bạn ắt thấy rằng đời thường là một chuỗi những thỏa hiệp nơi ngoại
giới; thiên hạ luôn luôn làm ít hơn một chút cái mức mà họ biết rằng như vậy
là đúng, để cho sự việc suôn sẻ hơn đối với bản thân, ngơ hầu đương đầu với
cái câu hỏi chết người: ‘Thiên hạ sẽ nói ra sao đây ?’ Nỗi sợ hăi dư luận
của người khác một phần là do nhược điểm bắt nguồn từ chuyện dễ thương là
muốn vuốt đuôi, lấy ḷng . . . Nhiều người thấy những điều c̣n khiếm khuyết
về mặt tôn giáo và xă hội, nhưng có mấy ai tiến hành cải cách đâu . . . Tôi
biết bạn không thể thực hiện những lư tưởng cao siêu nhất của ḿnh ngay tức
khắc, cũng như bạn không thể nhảy vọt từ chân núi lên đỉnh núi. Nhưng nếu
bạn có ư muốn leo núi th́ bạn phải leo mỗi bước nhằm mục đích lên tới đỉnh
và mỗi bước phải mang bạn lên tới gần đỉnh hơn. Đừng bao giờ hạ thấp lư
tưởng của ḿnh. Điều này thật tai hại chết người. Một kinh điển Ấn Độ có nói:
‘Đúng là một chuyện, c̣n dễ chịu lại là chuyện khác; kẻ minh triết thích
điều đúng hơn điều dễ chịu’ ”.
Tôi công nhận với bạn
rằng con đường vạch ra cho chúng ta như thế là khó đi v́ cho đến nay chúng
ta cứ sống trong một thế giới thỏa hiệp. Nhưng chúng ta càng ít thỏa hiệp
th́ cuộc sống càng mang lại cho chúng ta nhiều niềm vui đích thực hơn và
chúng ta càng ư thức rơ rệt được hơn thế giới của Chơn sư mà tất cả chúng ta
đều thuộc về. Về sau tôi sẽ xem xét phần sau này của trọn cả vấn đề đúng và
sai theo minh giải trong huấn lệnh của Chơn sư để chỉ cho chúng ta cách đạt
tới điều đúng và có thể phân biệt được những cơn ngẫu hứng, những thành kiến
và hoang tưởng của ta với điều thật sự là đúng.
CHƯƠNG VIII
CÁC ĐỊNH LUẬT ẨN TÀNG CỦA THIÊN NHIÊN
Tôi không muốn làm rộn
bạn nhiều về các định luật ẩn tàng của thiên nhiên, v́ khi bạn tăng trưởng
bạn sẽ bắt đầu t́m ra cho chính ḿnh những định luật ẩn tàng này là ǵ. Nói
ngắn gọn th́ bạn phải rán hiểu được rằng các qui luật của thế gian (những
điều mà ta gọi là qui ước và tập quán) tuyệt nhiên không nhất thiết phải
trói buộc bạn. Thiên hạ rất thường chấp nhận thế gian như vậy đó và buông
trôi ḿnh theo nó hơn là mất công cố gắng tự chỉ đạo ḿnh. Mỗi người trong
chúng ta phải cố gắng t́m ra lập trường của chính ḿnh và lập trường đó phải
dựa vào những nguyên tắc mà ḿnh đă thử nghiệm trước kia chấp nhận. Muốn làm
như vậy, bạn không được tự măn với sự vật như nó vốn có, cũng không bằng
ḷng với cách giải thích thông thường về cuộc đời mà kẻ phàm phu chấp nhận.
Lương tâm và lư trí là Thượng Đế nội tâm bạn, và bao giờ bạn cũng phải ra
sức để cho hai thần lực này có cơ hội dẫn dắt bạn đạt được tư duy đúng, ngôn
ngữ đúng và hành động đúng. Nếu bạn làm được như thế th́ bạn ắt thấy rằng
chúng sẽ nói cho bạn biết nhiều về thiên nhiên mà kẻ phàm phu không biết chỉ
v́ y điều chỉnh cách hành xử của ḿnh trong cuộc sống tuân theo điều ở bên
ngoài hơn là tuân theo Thượng Đế nội tâm. Như vậy, bạn ắt tiếp xúc được với
những định luật của thiên nhiên ẩn tàng với cặp mắt soi bói của đa số mọi
người, chúng sẽ mạnh mẽ trợ giúp bạn nhằm xác lập ḿnh theo đường lối tăng
trưởng đúng đắn. Chẳng hạn như hầu hết mọi người đều nghĩ rằng điều tốt nhất
dành cho số người lớn nhất ắt phải là mục tiêu và mục đích của mọi quá tŕnh
lập pháp và hành pháp, nhưng theo định luật của thiên nhiên th́ chỉ những
điều nào dễ chịu cho mọi người th́ mới có thể thật sự dễ chịu cho bất kỳ cá
nhân nào (xin trích dẫn phát biểu của Chơn sư). Trong hoàn cảnh hiện nay
chúng ta có khuynh hướng lờ đi thiểu số v́ chúng ta chưa biết cách đối xử
với thiểu số; nhưng đối với Đấng Nhất Như th́ thiểu số cũng quan trọng như
đa số. Bạn và tôi phải học cách đưa định luật cho đến nay vẫn c̣n ẩn tàng
này ra chốn được thực hiện sao cho ta chỉ làm những ǵ mà Thượng Đế muốn, v́
đây là những điều duy nhất thực sự hữu ích cho mọi người. Vậy th́ định luật
ẩn tàng của chúng ta là: chúng ta chẳng quan tâm tới đa số mà cũng chẳng
quan tâm tới thiểu số, chúng ta chỉ quan tâm tới ư chí của Thượng Đế và miễn
là chúng ta có thể hiểu được ư chí của Ngài th́ chúng ta ắt thấy được làm
thế nào mà đủ mọi lối sống – cho dù đối nghịch với nhau đến đâu đi nữa xét
theo biểu kiến – đều chẳng qua chỉ là các phương tiện của Ngài khi được xem
xét từ một góc cạnh nào đó. Điều này khiến cho chúng ta có được khoan dung
khi cùng lúc đó chúng ta có thể cảm thấy bổn phận của ḿnh là mạnh mẽ xúc
tiến bất kỳ khía cạnh đặc biệt nào thuộc ư chí của Ngài xét theo một quan
điểm đặc biệt mà lương tâm và lư trí của chúng ta bảo rằng có giá trị áp đảo
trong lúc này. Về sau, khi chúng ta xét tới sự khoan dung th́ tôi sẽ nói
nhiều hơn về nhu cầu khoan dung mà lại dũng mănh. Ở đây tôi chỉ xin bạn hăy
nhớ cho rằng dù bạn có thể khoan dung đối với quan điểm và thái độ của người
khác đến đâu đi chăng nữa th́ bạn cũng đừng bao giờ quên rằng chính bạn cũng
có thông điệp để tŕnh bày với thế gian – bạn cũng có góc nh́n của ḿnh cần
phải nhấn mạnh và bạn không nhất thiết phải thiếu khoan dung với những góc
nh́n khác v́ bạn đang toàn tâm toàn ư với góc nh́n của ḿnh.
Lại nữa, khi xét những
định luật khác cho đến nay vẫn c̣n ẩn tàng của thiên nhiên, ta biết rằng mỗi
người chúng ta đều có nhiều hạ thể, ta biết một phần trong Thiên cơ dành cho
loài người mà thế gian chưa khám phá ra, ta biết các bậc Huynh trưởng có tồn
tại, và ta cũng biết các định luật về sức khỏe và từ điển. Nhiều sự hiểu
biết như thế hiện nay bị che khuất khỏi tầm nh́n soi bói của hầu hết chúng
ta. Nhưng rồi dần dần bạn cũng học được giống như một số chúng tôi, bấy giờ
bạn sẽ cẩn thận hơn, cân nhắc nhiều hơn, đắn đo nhiều hơn v́ bạn biết rằng
mặc dù không có điều chi là quan trọng và hầu hết mọi chuyện đều không quan
trọng, thế nhưng động cơ thúc đẩy ẩn đằng sau “mọi chuyện”, thái độ của tâm
trí và xúc cảm đối với những chuyện đó – những chuyện này rất quan trọng. Và
bạn chỉ có thể phụng sự Chơn sư đúng mức khi bạn suy nghĩ kỹ trước khi nói
hoặc hành động, hay có thể nói là khi bạn “nh́n kỹ trước khi nhảy”. Ta không
được coi dĩ nhiên là phải có sự hấp tấp và sự bốc đồng cho dù thông thường
đến đâu đi chăng nữa và dễ tha thứ. Hấp tấp là vô ư vô tứ, vô ư vô tứ là lôi
thôi luộm thuộm và theo quan điểm này th́ lôi thôi luộm thuộm là ô uế về mặt
tâm linh. Chúng ta cần sạch sẽ về mặt tâm linh và muốn được vậy th́ chúng ta
phải cẩn thận suy nghĩ trước về kết quả của xúc cảm, hành động và tư tưởng
mới chớm nở. Như vậy bạn ắt thấy việc biết được một số định luật ẩn tàng này
sẽ làm thay đổi triệt để chính bản chất của bạn và đưa bạn đi theo những
đường lối rất xa cách với con đường mà thế gian hiện đang bước trên đó.
ĐIỀU QUAN TRỌNG VÀ KHÔNG QUAN TRỌNG
Chơn sư giờ đây dạy
chúng ta về tầm quan trọng tương đối của đủ thứ lộ tŕnh hành động theo quan
điểm của Ngài chứ không theo quan điểm thế gian. “Hăy vững vàng như đá tảng
khi xét tới việc đúng và sai, hăy luôn luôn nhượng bộ người khác về những
điều không quan trọng”. Hoặc theo cách tŕnh bày khác của Ngài: “Giữa đúng
và sai, Huyền bí học không chấp nhận sự thỏa hiệp”.
Câu mà tôi trích dẫn
trước câu vừa nêu đóng vai tṛ b́nh luận cho câu này, và cho thấy sự vững
vàng bao giờ cũng phải có trước nhờ sự phân biện – đây là một đức tính mà bà
Besant đă nêu rơ là ngoại giới sẽ chuyển dịch thành đức tính “khéo xử”. Điều
khó khăn với hầu hết mọi người là phải quyết định xem điều ǵ thật sự đúng
và điều ǵ thật sự sai. Họ bảo rằng: “Miễn là chúng ta biết được
điều đó th́ ắt không khó khăn ǵ
hết và chúng ta có thể dễ dàng thu xếp mọi chuyện”. Thế mà ở phần trước kia
của quyển sách này Chơn sư đă dạy chúng ta rằng chúng ta phải cố nhận ra
được rằng các hạ thể không phải
là chúng ta. “Con phải đào sâu vào bên trong ḿnh để t́m thấy Thượng Đế nội
tâm và lắng nghe tiếng nói của Ngài, vốn là tiếng nói của chính con. Đừng
nhầm lẫn các hạ thể là chính con, cả thể xác, thể vía lẫn thể trí đều không
phải là con. Mỗi thể này đều giả vớ là Chơn ngă để có được điều mà nó muốn”.
Vậy là việc bạn phải làm chính là cố gắng biết chắc được đến mức tối đa bất
cứ ư tưởng nào trong lúc này đâu là đúng đâu là sai, đừng để cho một trong
các hạ thể của ḿnh giả vờ làm Thượng Đế nội tâm sao cho nó có được một điều
ǵ đó mà nó muốn cho chính ḿnh. Nếu bạn muốn tránh việc hành động vội vă,
nếu bạn chịu bỏ ra một chút ít thời giờ để đào sâu vào điều mà Chơn sư dạy,
th́ bạn hầu như sẽ chắc chắn biết liệu điều được mong muốn có thật sự đúng
hay chăng. Tất cả đều là vấn đề thực hành v́ bạn càng thực hành th́ kênh dẫn
đưa tới chơn ngă càng lớn hơn và bất cứ lúc nào bạn cũng có thể nhanh chóng
đi vào trong nội tâm để biết được ư chí của Thượng Đế nội tâm. Vậy là bạn
càng đạt tới được Thượng Đế nội tâm th́ bạn càng làm chủ được đủ thứ hạ thể
của ḿnh thay v́ để cho đến lượt chúng khống chế bạn. Do đó đủ thứ ham muốn
sẽ càng ngày càng yếu hơn cho đến khi có một lần bạn có thể phân biệt ngay
được giữa điều mà chúng muốn và điều mà chơn ngă muốn. Đừng trông mong có
thể ngay tức khắc phân biệt không sai lầm giữa đúng và sai, giữa cái “đúng”
hư ảo của các hạ thể và cái “đúng” chân thật của chơn ngă. Thoạt tiên bạn
chỉ cố gắng dừng lại khi bạn sắp làm một điều ǵ đó xét theo biểu kiến là
“đúng” và đào sâu thêm một chút nữa nghĩa
là cầu viện thêm một chút điều tốt nhất nơi bạn. Nếu bạn để cho ḿnh
bị lôi cuốn đi ngay tức khắc th́ có nhiều khả năng là bạn đang để cho một
trong các hạ thể thuyết giải theo kiểu của riêng ḿnh về “đúng” và “sai”,
bạn bắt đầu lừa gạt lương tâm bằng cách bảo rằng: “Tốt thôi, dù sao đi nữa
làm như vậy đâu có hại ǵ”. Nên nhớ rằng không có điều cho quan trọng lắm,
hầu hết mọi chuyện đều chẳng quan trọng ǵ cả, v́ vậy 99% những cơ hội mà
bạn nghĩ rằng ḿnh đang theo một nguyên tắc th́ thực ra bạn chỉ bị dẫn dắt
bởi những hạ thể lẽ ra phải làm đầy tớ cho bạn chứ không phải làm chủ bạn.
Không ai có thể thờ hai chủ chứ đừng nói tới ba chủ là thể vía, thể xác và
thể trí. Chúng ta chỉ có thể thờ một
chủ duy nhất tức Thượng Đế nội tâm.
Bà Besant cũng tŕnh bày
ư tưởng đó theo một cách khác khi bà dạy rằng: “Hăy nhượng bộ về mọi chuyện
ngoại trừ những vấn đề có tính nguyên tắc”. Và sự thật là trong khi bạn phải
vững như kiềng ba chân đối với đường lối hoặc nguyên tắc ứng xử chung mà
cuộc đời ḿnh dựa vào đó, th́ trong hầu hết mọi hành vi sinh hoạt hằng ngày,
trong hầu hết mọi quan hệ với những người khác, bạn đều có thể nhượng bộ.
“Con phải luôn luôn dịu dàng, tử tế, biết điều và biết thích ứng, để cho
người khác cũng được hoàn toàn tự do giống như chính con cũng cần được hoàn
toàn tự do”. Làm được như vậy là chúng ta đă vận dụng óc phân biện chân
chính hoặc nói theo kiểu người đời là “khéo léo”. Nhưng nên nhớ rằng khéo xử
theo nghĩa này không hề ngụ ư như người ta thường giả sử là khiến cho mọi
chuyện dễ chịu mà lại gây thiệt hại cho sự thật. Nó có nghĩa là sự đồng cảm
và sự biết điều dịu dàng, “để cho người khác cũng có được tự do hoàn toàn
giống như chính con cũng cần được điều đó”. Bạn không thể có định nghĩa nào
về việc khéo xử đúng hơn định nghĩa này.
Ta hăy lắng nghe bà
Besant nói về vấn đề quan trọng này:
“Bạn ắt thấy có một điều
ǵ đó quan trọng cần phải làm và bạn cứ chăm chăm làm như thế; đối với những
thứ c̣n lại bạn cứ để cho thiên hạ làm đúng như điều họ muốn, và bạn khẳng
định ư chí của ḿnh về điều duy nhất đó trong số những điều quan trọng. Họ
ắt nghĩ rằng sao bạn thoải mái và dễ nhượng bộ thế cho nên sẽ vui vẻ nghe
theo bạn đối với điều bạn cho là quan trọng mà lại không hề ư thức rằng ḿnh
đang nghe theo người khác. Bạn đă dùng óc phân biện; bạn đă nhường nhịn
người ta đủ mọi chuyện khác, những chuyện mà họ cho là quan trọng và bạn chỉ
khăng khăng đi theo điều duy nhất mà bạn muốn. Đây là điều mà kẻ cuồng tín
thường ưa quên cho nên y chẳng thành công trong khi huyền bí gia luôn luôn
thành công. Bạn nên nhớ rằng yoga là “hành động khéo léo”. Kẻ cuồng tín
không chịu nhượng bộ về những điều chẳng có ǵ quan trọng, y không chịu phân
biện giữa điều quan trọng và điều không quan trọng, v́ vậy y mới làm phật ư
người khác để rồi họ đâu có chịu theo y cho dù y đúng và mục đích chính yếu
của y có quan trọng đến đâu đi chăng nữa. Nếu thay v́ làm như thế bạn lại
làm cho thiên hạ nguôi giận th́ họ sẽ thích chí mà làm theo bạn ngay. Sự
kiện này vốn dựa vào một sự kiện quan trọng trong thiên nhiên. Cả con người
lẫn con thú đều có bản năng tŕ kéo ngược chiều với bất cứ người nào đang ra
sức lôi ḿnh đi. Đừng kéo mà cũng đừng đẩy thiên hạ th́ họ sẽ sẵn ḷng đến
với ḿnh. Có một ngày kia tôi chứng kiến một ví dụ nhỏ về sự thật ở đây. Có
một người đang ra sức kéo một con bê đi và dĩ nhiên con bê bám bốn chân
xuống dưới đất, chổng đuôi lên và gh́ kéo lại con người đó bằng hết sức ḿnh.
Nếu người này mà nhạy cảm th́ y sẽ ngưng không kéo nữa, thế rồi con vật cũng
ngưng không tŕ kéo chống lại y và chỉ cần một chút sự vỗ về thôi th́ y cũng
có thể khiến nó ngoan ngoăn đi theo ḿnh. Ta hăy nên nhớ bài học này. Nếu
thiên hạ không làm theo ư ḿnh th́ ta hăy tự trách ḿnh. Nói chung là bạn ắt
thấy rằng trong cách hành động của ḿnh có một điều ǵ đó khiến cho thiên hạ
khó chịu. Bản thân tôi có noi theo kế hoạch này. Khi có sự va chạm và rắc
rối ở một nơi nào đó th́ tôi ngồi xuống và nghĩ xem tôi đă làm cái ǵ mà đến
nông nỗi này và t́m một cách làm khác. Cố gắng cưỡng chế thiên hạ th́ chẳng
ích lợi ǵ. Chắc chắn là bạn có thể cưỡng chế thiên hạ theo một chừng mực
nào đó, nhưng làm như vậy th́ bạn chỉ gây ra sự chống đối và rắc rối. Nhưng
bạn cứ nhữ nhữ trước mắt họ một thứ ǵ rất hấp dẫn th́ họ sẽ tự nguyện bằng
ḷng làm ngay. Điều này hàm ư là có khả năng lănh đạo và đây là khả năng mà
Chơn sư muốn bạn cố gắng phát triển trong tương lai. Chơn sư muốn bạn biết
cách lănh đạo để cho bạn có thể giúp đỡ thiên hạ dài dài thay v́ quất roi
vào họ dài dài”.
CHƯƠNG IX
MỘT ĐIỀU NHỎ NHẶT
Chơn sư tiếp tục đưa ra
một sự phân biện rất quan trọng giữa điều đáng làm và điều không đáng làm.
Ngài dạy: “Con hăy rán xem điều ǵ đáng làm và nên nhớ rằng con không được
xét đoán theo tầm cỡ của sự việc. Một việc nhỏ trực tiếp hữu dụng cho công
tŕnh của Chơn sư ắt đáng làm hơn một việc lớn mà thế gian gọi là điều thiện”.
Khi trải qua nhiều kinh
nghiệm, tôi có gặp nhiều người muốn tham gia vào một loại hoạt động nào đó,
có nhiều người đến xin được phụng sự. Tôi luôn luôn gặp khó khăn với những
người này v́ tôi chẳng bao giờ biết được liệu họ có tha thiết hay chăng. Một
mặt người ta không muốn làm cho họ nhụt chí, mặt khác người ta cũng không
muốn qui tụ một số người rồi lại phải kiếm một loại việc đặc biệt nào đó cho
họ làm. Nếu người ta thực sự muốn phụng sự Chơn sư th́ y ắt chẳng màng tới
việc ḿnh phải làm ǵ. Nhưng hầu hết mọi người đâu có bằng ḷng làm bất cứ
điều ǵ sẵn trong tầm tay ḿnh. Hoặc là có một việc đặc biệt nào đó mà họ
muốn làm và không màng ǵ tới việc làm bất kỳ chuyện ǵ khác, hoặc là họ
trông mong người ta sẽ tạo ra một hoạt động nào đó cho họ làm. Lại nữa, có
nhiều người không sẵn ḷng khởi sự từ đầu. Họ muốn làm một việc mà đồng loại
sẽ có nhiều thiện cảm đối với họ, và do đó họ muốn bắt đầu từ khúc giữa thay
v́ chịu cần cù trải qua những giai đoạn sơ khởi mà mọi công tŕnh tốt đẹp
tất yếu đều phải trải qua.
TINH THẦN PHỤNG SỰ
Giờ đây tôi muốn các bạn
đang đọc những ḍng chữ này hăy xem bạn tự nguyện phụng sự với tinh thần ǵ.
Chơn sư tŕnh bày vấn đề này một cách thật minh bạch. “Một chuyện nhỏ trực
tiếp hữu dụng cho công tŕnh của Chơn sư đáng làm hơn một việc lớn mà thế
gian ắt gọi là điều thiện”. Do đó ta hăy rán xem liệu có phần việc nào cần
phải làm mà ta có thể gọi là công việc của Chơn sư chăng: Chính cá nhân bạn
phải xét đoán xem công việc của Chơn sư là ǵ. Hội Thông Thiên Học, Hội Ngôi
sao Đông phương và mọi hoạt động phụ trợ cho những tổ chức này rơ rệt là
công việc của Chơn sư và nếu bạn t́m được một vị trí khiêm tốn khiến bạn có
thể dứt khoát nằm trong biên chế phục vụ cho các tổ chức đó th́ bạn đang làm
một điều ǵ đó đáng làm hơn nhiều so với một việc khác có lẽ phô trương hơn
nhưng ít liên quan trực tiếp tới việc phụng sự Chơn sư. Tôi được phép thoải
mái nhớ lại chuyện cá nhân một chút, th́ tôi bắt đầu việc phụng sự Chơn sư
qua chuyện dán tem lên phong b́ và viết địa chỉ của Hội Thông Thiên Học khi
Tổng Hành Dinh của nó c̣n ở số 26 phố Albemarle. Tôi nhớ rằng ḿnh dứt khoát
muốn có một địa vị ở văn pḥng và dĩ nhiên trong khi công việc của tôi không
lấy ǵ làm hứng thú lắm th́ tôi cảm thấy rằng ḿnh đă nhét được cái lưỡi
mỏng của chiếc nêm vào khe nứt và tôi chỉ c̣n phải lấy búa gơ vào cái nêm đó
th́ chắc chắn là sẽ trúng đích. Tôi biết rằng ḿnh thừa sức làm việc này và
có lẽ tôi sẽ không giở quẻ miễn là tôi không tỏ ra bất măn hoặc muốn làm một
việc khác mà vào lúc đó không sẵn có cho tôi làm. Mặt khác, tôi vẫn trực
chiến và nếu có bất cứ việc nào khác đột xuất th́ tôi đă có mặt sẵn tại chỗ
để đảm đương nếu người ta không t́m được người nào khác tốt hơn.
Dĩ nhiên người ta phải
sẵn ḷng tiếp tục làm một công việc đặc biệt trong một thời gian vô hạn.
Chúng ta phải tin rằng Chơn sư trực tiếp chỉ đạo công việc của Hội Thông
Thiên Học và Hội Ngôi sao Đông phương cũng như Ngài chỉ đạo nhiều phong trào
khác trên thế giới và chúng ta có thể nhận thức được rằng Ngài biết ai đang
làm việc cho ḿnh dù y có năng lực khiêm tốn đến đâu đi chăng nữa, và khi có
cơ hội th́ Ngài sẽ cho họ làm được việc phù hợp hơn. V́ Ngài là bậc Thầy về
mặt Tổ chức, cho nên bạn có thể tin cậy Ngài tận dụng được mọi năng lực mà
bạn có. Tôi xin nhấn mạnh tới việc trực chiến có giá trị như thế nào. Nó tỏ
ra là vô giá đối với tôi trong thời kỳ đầu, khi ông Keightley phải rời nơi
này đi Ấn Độ th́ các vị cầm quyền ở Hội Thông Thiên Học phải nh́n quanh quất
xem có ai tạm thế chỗ được cho ông chăng, và tôi đă có mặt sẵn ở đó. Tôi
không đ̣i được thế chỗ cho ông, nhưng các vị cầm quyền của Hội Thông Thiên
Học biết – ít ra th́ tôi cũng hi vọng rằng họ biết – là tôi tha thiết và tôi
sẽ không giở quẻ khi phụng sự Chơn sư do sự thật là tôi đâu có làm ǵ nhiều.
Kết quả là trong khi có thể có nhiều ứng viên khác tốt hơn dành cho chức vụ
lâm thời này, nhưng tôi lại được tuyển lựa v́ họ chẳng mất công đi xa cũng
kiếm được tôi.
Bạn hăy rán nghĩ xem bạn
sẽ mang lại niềm vui ra sao khi bạn ngay cả chỉ phụng sự chút ít cho những
người mà bạn yêu thương. Tất nhiên bạn cũng không cần phải làm được những
chuyện lớn ǵ cho họ. Đâu phải lúc nào cũng có thể thực hiện được những việc
phụng sự lớn lao, nhưng những người mà bạn yêu thương cũng vui ḷng với
những nghĩa cử nho nhỏ chẳng khác nào đối với những nghĩa cử lớn lao. Thật
vậy, tôi không thể không nghĩ rằng chính những chuyện nho nhỏ mới làm cho
cuộc đời ta suôn sẻ và mặc dù ta phải làm những việc lớn lao th́ những việc
này thường ảnh hưởng tới quần chúng nói chung hơn là ảnh hưởng tới cá nhân.
Như vậy nếu bạn có thể nhận ra được rằng Chơn sư là một trong những đấng mà
bạn kính yêu th́ bạn ắt thấy ư nghĩa của câu sau đây minh bạch hơn: “Một
chuyện nhỏ trực tiếp hữu dụng cho công tŕnh của Chơn sư ắt đáng làm hơn một
việc lớn mà thế gian gọi là điều thiện”.
KHỞI SỰ NGAY TỪ ĐẦU
Trọn cả vấn đề chỉ là âm
thầm quyết tâm. Nếu bạn muốn trở thành một kỹ sư th́ bạn phải khởi sự ngay
từ đầu. Nhiều người biết lái xe hơi nhưng hầu hết những người biết lái xe
lại chới với khi xe bị hỏng. Lúc bấy giờ họ phải nhờ tới dịch vụ của một
người nào đó đă bỏ ra nhiều năm trời để học hết về động cơ xe hơi, cách kiến
tạo và sửa chữa động cơ xe hơi. Điều này cũng áp dụng cho việc phụng sự Chơn
sư. Khi mọi việc đều hoàn toàn suôn sẻ th́ tất cả chúng ta đều làm được hết,
nhưng thỉnh thoảng lại có chuyện trục trặc. Chuyện này có thể xảy ra ở Văn
pḥng; có thể là do thái độ của thiên hạ đối với công việc hoặc đối với
chính bạn, có thể là giữa hai người cùng làm việc với nhau có va chạm ǵ đó.
Muốn điều chỉnh công việc th́ bạn phải có kinh nghiệm về cách thức làm việc
cho dù đó là công việc ở văn pḥng hay là do tính khí của con người. Có lần
trong một bài thơ, Ella Wheeler Wilcox diễn tả như sau: “Bạn cứ cười lên đi
thế là thiên hạ sẽ cười theo bạn; bạn cứ thử khóc đi rồi bạn sẽ khóc một
ḿnh”. Tất cả chúng ta đều có thể cùng nhau cười đùa (khi vui vẻ th́ vỗ tay
vào), nhưng các nhà Thông Thiên Học và hội viên Hội Ngôi sao Đông phương
phải rèn luyện ḿnh để đến trợ giúp những người đang khóc. Muốn làm như thế
bạn phải rán học được minh triết qua những điều nho nhỏ trước khi bạn có thể
hi vọng đạt được minh triết trong những vấn đề lớn lao hơn nơi ngoại giới.
Một lần nữa, tôi xin
nhắc lại chuyện quan trọng là sẵn ḷng làm
bất cứ điều ǵ ngay trong tầm tay
ḿnh. Trong trận chiến tranh hiện nay có nhiều người chẳng bao giờ nhúng tay
làm bất cứ chuyện ǵ lại thấy ḿnh lau nhà, chùi rửa song nồi, làm mọi thứ
được coi là hạ tiện v́ giờ đây họ phải giúp đỡ và v́ họ biết rằng ḿnh cần
giúp đỡ. Thật đáng buồn là chúng ta cần phải có một cuộc chiến tranh để dạy
cho ḿnh bài học rất hiển nhiên này. Thật ra th́ bao giờ mà chẳng có chuyện
cần phải giúp đỡ và chúng tôi muốn thiên hạ làm đủ thứ mọi chuyện đơn giản
(cho dù chúng có vẻ tầm thường đến đâu đi nữa dưới mắt của thế gian) mà
những chuyện đó là những điểm linh quang nho nhỏ soi sáng cho sự cao thượng
của linh hồn người đang làm việc ấy. Những hành động như thế tức khắc thu
hút sự chú ư của Chơn sư và từ nay trở đi ân huệ của Ngài sẽ tuôn đổ cho cá
nhân đó sao cho xuất phát từ việc làm những chuyện đơn giản, y sẽ có khả
năng phụng sự lớn lao hơn.
Nên nhớ rằng khi chúng
ta đang đọc quyển Dưới Chơn Thầy
th́ chúng ta đang bước ra khỏi thế giới của ḿnh để nhập vào thế giới của
Chơn sư, và trong thế giới của Ngài mọi việc đều dường như khác hẳn so với
khi chúng xuất hiện dưới đây trong thế giới phàm tục mà chúng ta thường bị
bao vây trong đó. Đừng bao giờ nghĩ tới sự phán xét của thế gian về điều mà
bạn đang làm hoặc muốn làm. Hăy cố nhớ rằng Chơn sư nh́n vào tâm hồn bạn để
xem tinh thần làm việc của bạn
chứ không giống như ngoại giới, Ngài ít chú ư tới công việc thực mà bạn đang
dấn thân vào đó. Thoạt tiên ṿng ảnh hưởng của bạn rất hạn chế, nhưng nếu
bạn làm nhiệm vụ của ḿnh trong phạm vi hạn hẹp đó, th́ Chơn sư sẽ tự đảm
đương việc mở rộng ṿng ảnh hưởng này để cho bạn có cơ hội làm việc cho Ngài
trong một địa hạt rộng lớn hơn. Tóm lại: Hăy khởi sự ngay từ đầu và cứ tiếp
tục ngay từ đầu chừng nào mà người ta c̣n cần bạn làm.
VIỆC PHÂN BIỆN KHI PHỤNG SỰ
Thế rồi Chơn sư bảo
chúng ta hăy cố gắng phân biệt giữa điều hữu dụng hơn và điều kém hữu dụng
hơn. Ngài dạy rằng: “Nuôi người nghèo là một việc tốt, cao thượng và hữu
dụng; thế nhưng nuôi linh hồn người nghèo c̣n cao thượng và hữu dụng hơn
nuôi thể xác họ. Bất cứ người giàu nào cũng có thể nuôi được thể xác; nhưng
chỉ những người hiểu biết mới có thể nuôi được linh hồn. Nếu con hiểu biết
th́ con có bổn phận phải trợ giúp người khác hiểu biết”.
Những lời lẽ này bao hàm
một sự thật rất quan trọng. Chúng ta (vốn là hội viên Hội Ngôi sao Đông
phương và Hội Thông Thiên Học) theo giả định, có những chân lư ắt giúp cho
thế gian trở nên mạnh mẽ hơn, hữu dụng hơn, và có thể đương đầu với nhiều
khó khăn hơn. Không có nhiều người trong chúng ta ư thức được sự thật này và
ân huệ lớn nhất mà chúng ta có thể cống hiến cho thế gian chính là việc
truyền bá điều có ư nghĩa xiết bao đối với chúng ta. Chơn sư có dạy rằng bất
cứ người giàu nào cũng có thể nuôi được thể xác. Chúng ta
trông mong rằng một người có của
cải ắt trước hết chú ư tới việc phân phối đúng đắn của cải đó – đây là việc
của y. Những người trong chúng ta có thể có tài nguyên thuộc về thế giới tâm
linh th́ trước hết chúng ta phải có bổn phận phân phối những tài nguyên tâm
linh này càng minh triết càng tốt. Chúng ta thường trở nên nô lệ cho thái độ
của thế gian đối với sự vật và quên mất rằng mặc dù thế gian không nhận ra
được giá trị tài nguyên của chúng ta th́ ít ra đối với chính bản thân chúng
ta và đối với nhiều người bằng hữu của chúng ta th́ chúng ta phải chứng tỏ
được giá trị của các tài nguyên đó. Ít nhà Thông Thiên Học nào có được của
cải thế gian, nhưng mọi nhà Thông
Thiên Học đều có một chút sự hiểu biết tâm linh. Nếu họ không thể truyền bá
sâu rộng sự hiểu biết tâm linh đó th́ cho dù họ là những người giàu có, có
lẽ họ cũng chẳng chịu bố thí của cải một cách hào phóng.
TRUYỀN BÁ CHÂN LƯ
Thiên hạ đôi khi bảo tôi
rằng: “Tôi làm được ít quá. Bạn thấy đó tôi đâu có ảnh hưởng ǵ. Tiền bạc
dường như là trên hết”. Tôi xin trả lời họ rằng: “Bạn có
biết chăng điều ǵ sẽ trợ giúp
bạn trong những khó khăn của cuộc sống ?” Cái điều đă trợ giúp được bạn th́
chắc chắn nó cũng trợ giúp được những người khác. Nhiều người có thể không
sẵn sàng tiếp nhận sự hiểu biết đó. Đối với những trường hợp này th́ tiếng
nói của nhà Thông Thiên Học chẳng ai thèm nghe. Nhưng luôn luôn có một số
người, ở bất cứ nơi đâu, cũng đều cần những sự thật mà chúng ta đang có, và
chúng ta có bổn phận phải truyền bá sự thật này sao cho chúng lọt vào tai
những người cần nghe.
Tôi
hoàn toàn thừa nhận rằng chúng ta cũng khó làm ǵ được nhiều nếu không có
một số lượng của cải vật chất nào đó. Tiền bạc chắc chắn là trợ giúp được và
nếu không có nó th́ cuộc đời quả thật là khó sống hơn. Mặt khác, chúng ta
phải cho ra điều mà ḿnh có thể cho ra được. Nếu chúng ta làm chuyện đó th́
Chơn sư sẽ thêm vào công việc của ta cái khả năng mà tiền bạc mang lại được.
Tiền bạc luôn luôn có sẵn trong tay những kẻ sẽ dùng nó để phụng sự Chơn sư.
Và trong khi tất cả chúng ta thỉnh thoảng cũng biết rằng cần phải phấn đấu
mà không có tiền bạc trợ giúp, trong khi chúng ta thường thấy nhiều kế hoạch
tổng thể của ḿnh thất bại v́ thiếu tiền, th́ về lâu về dài khi kiên tŕ với
số lượng ít mà chúng ta có được, chúng ta sẽ có mọi thứ trợ giúp kể cả việc
tài trợ. Diễn tiến có thể là lâu dài, mức độ lâu dài của nó tùy thuộc phần
lớn vào việc rèn luyện mà cá nhân phải nhận được. Y có thể cần phải trải qua
một quá tŕnh dài nghèo khổ để thử xem những sự thật mà y biết được sẽ trợ
giúp y ra sao trong cơn nguy hiểm. Nhưng như tôi có nói trước kia, y chiến
thắng nhờ vào trải nghiệm và không một sự thật vĩ đại nào cần thiết cho một
bộ phận nào đó của thế giới đă sẵn sàng mà lại không thể đạt được mục đích
chỉ v́ thiếu tiền. Nó có thể không đạt được mục đích v́ thiếu năng lực,
thiếu nhiệt thành, thiếu kiên tŕ nơi người sứ giả. Nhưng một khi những đức
tính này đều có đủ th́ mọi chuyện khác sẽ được thêm vào.
Như vậy ta hăy để ư tới
điều mà ḿnh đă có rồi và đầu tư nó theo sự hiểu biết tốt nhất của ḿnh.
Không một vật sở hữu nào có giá trị lớn hơn tri thức tâm linh mang lại cho
ta sự ổn định, an b́nh, tin tưởng, sức mạnh. Mọi điều này đến với chúng ta
là do chúng ta đă vun bồi vào tính t́nh ḿnh những sự thật là biểu tượng của
Hội Thông Thiên Học và Hội Ngôi sao Đông phương. Do đó, chúng ta hăy vận
dụng những sự thật này trong sinh hoạt hằng ngày của ḿnh và sử dụng chúng
để phục vụ cho mọi người xung quanh ta. Đời sống luôn luôn ít nhiều cực nhọc
và khó khăn. Chỉ có những người nào trong chúng ta hiểu biết th́ mới thấy nó
ít cực nhọc và
ít khó khăn hơn. Và chúng ta có
thể ban rải điều giúp chúng ta có
được sự can đảm cho tất cả những người nào không có được một nguồn tin cậy
hơn để dựa dẫm vào đó.
Hiện nay, khi toàn thể
thế giới đang oằn oại trong chiến tranh th́ chúng ta phải cẩn thận sao cho
tri thức mà chúng ta có được sẽ truyền bá sâu rộng, chúng ta phải cẩn thận
sao cho chúng ta sống với tri thức đó thực hơn là mức chúng ta sống được từ
trước đến nay, và chúng ta phải cẩn thận sao cho sự nêu gương của chúng ta
rao giảng tri thức đó ắt trở nên được nhấn mạnh và khiến người khác phải chú
ư. Cá nhân tôi khi phát biểu với tư cách là Tổng Thư kư của Hội Thông Thiên
Học ở Anh và xứ Wales th́ tôi cảm thấy có một nhiệm vụ đặc biệt mà tôi phải
làm để truyền bá Thông Thiên Học rộng răi hơn sao cho những người chịu thiệt
hại do chiến tranh muốn được trợ giúp hoặc an b́nh đều có thể t́m thấy một
điều ǵ đó sẽ mang lại cho họ ḷng can đảm để chịu đựng. Có thể tôi sẽ gia
nhập quân đội nếu sức khỏe thể chất của tôi đủ chịu đựng được sự căng thẳng.
Nhưng những sự thật về Thông Thiên Học là tất cả đối với tôi và đă dẫn dắt
tôi qua nhiều giai đoạn khó khăn. Tôi có thể hiến thân cho tổ quốc, nhưng
tôi cảm thấy rằng tốt hơn ḿnh nên dâng hiến linh hồn (tôi không nghĩ rằng
ḿnh bị kết tội là hèn nhát) khi nói như vậy. Điều đă mang lại cho tôi sức
mạnh th́ tôi cần phải ban phát nó cho những kẻ xung quanh ḿnh đang cần sức
mạnh đó. Thế gian có thể gọi điều này là ngạo mạn, nhưng đó là nguyên tắc
sống của tôi, và tôi ắt cảm thấy ḿnh không trung thực với chơn ngă nếu
trong giờ phút khủng hoảng như hiện nay mà tôi lại không truyền bá một cách
hữu ích nhất có thể được những sự thật mà thế gian đang trông ngóng và nếu
không có nó th́ thế gian chẳng thể tiến bộ được bao nhiêu. Tôi hoàn toàn
đồng ư rằng đa số thanh niên trong nước phải hiến thân cho tổ quốc v́ chiến
tranh phần nào được thực hiện bằng thân xác, nhưng tôi hoàn toàn tin chắc
vào sự thật là nền tảng của bức thư mà Ngài Derby gửi cho Tổng Giám mục
Canterbury, trong đó ông đồng ư về nhu cầu các giáo sĩ phải phục vụ cho tổ
quốc. Nếu một người né tránh việc hiến thân th́ làm sao mà y hiến dâng linh
hồn được. Đó là v́ linh hồn là một tặng vật c̣n lớn lao hơn nhiều so với thể
xác. Thế nhưng nếu một người cảm thấy ḿnh là phương tiện cho thần lực của
Chơn sư và mọi giáo sĩ thuộc giáo hội đều cảm thấy thế th́ y thường có thể
làm hết sức ḿnh để sống một cuộc đời đặc biệt thanh khiết sao cho y trở
thành một phương tiện càng ngày càng thâm sâu để thông qua đó sức mạnh và ân
huệ của Chơn sư có thể lưu chuyển mà không bị ô nhiễm.
CHÚNG TA SẼ PHỤNG SỰ RA SAO ?
V́ vậy vấn đề chúng ta
phải làm ǵ c̣n tùy thuộc vào lập trường mà chúng ta chủ trương. Thật vậy,
bổn phận của hầu hết mọi người là nêu gương cho những người xung quanh, và
điều này hàm ư phải dẹp qua một bên những mối bận tâm chúng ta thích thú v́
lợi ích của những bổn phận chúng ta có nghĩa vụ làm. Tôi thường nghĩ đi nghĩ
lại về vấn đề này đối với hoàn cảnh đặc biệt của riêng ḿnh, và tôi đă đi
đến kết luận dứt khoát rằng chừng nào mà tôi c̣n tận hiến cho những đồng bào
của ḿnh, chừng đó tôi c̣n duy tŕ được tiêu chuẩn sống cao nhất trong khả
năng của ḿnh, chừng đó tôi có bổn phận phải là phương tiện hữu ích nhất để
cho phong trào Thông Thiên Học chúng ta có thể truyền bá thông điệp qua đó.
Thế gian có thể không đồng ư với tôi, nhưng khi tôi đă đưa ra một quyết định
lớn th́ tôi nhất thời phấn đấu sống trong thế giới của Chơn sư và đưa ra
quyết định theo quan điểm đó. Khi chịu áp lực của công luận xung quanh ḿnh
với những h́nh tư tưởng mạnh mẽ gây sức ép lên ḿnh từ mọi phía th́ đâu phải
lúc nào cũng dễ dàng nhớ kỹ được cái cuộc sống tạm thời trong thế giới của
Chơn sư đó. Nhưng tôi mạnh mẽ cảm thấy sự thật trong những lời lẽ của
Shakespeare: “Chơn ngă của bạn th́ bạn phải trung thực với nó và phải theo
đuổi điều đó suốt ngày đêm, bấy giờ bạn không thể giả dối với bất kỳ ai khác”.
Người ta có thể nghĩ rằng bạn giả
dối, nhưng điều đó khác hẳn việc bạn quả thật giả dối. Tôi hoàn toàn công
nhận rằng thiên hạ thường để cho những khuynh hướng, những nhược điểm của
ḿnh xen lấn vào phán đoán của ḿnh. Họ cố gắng ḥa giải ham muốn với bổn
phận, rồi ra sức tự thuyết phục ḿnh rằng động cơ thúc đẩy ḿnh là bổn phận
chứ không phải ham muốn. Vấn đề là ở chỗ quan hệ giữa con người với lương
tâm y, và một khi lương tâm người ta trong sáng th́ người ta phải có đủ sức
mạnh đương đầu với bất kỳ khó khăn nào mà một phán đoán như thế đưa ra.
CHƯƠNG X
PHỤNG SỰ VỚI VAI TR̉ GIÁO DỤC
Chơn sư có nhận xét rằng:
“Cho dù con có thể khôn ngoan đến đâu đi nữa th́ trên con đường Đạo này, con
c̣n phải học nhiều điều, nhiều đến nỗi mà ở đây cũng phải có sự phân biện và
con phải suy nghĩ kỹ lưỡng điều ǵ đáng học”. Ngài giải đáp tư tưởng này
bằng cách dạy cho chúng ta rằng chúng ta phải học v́ “Thượng Đế là Minh
triết cũng như là Bác ái” và nhất là chúng ta phải học điều giúp chúng ta
trợ giúp người khác được nhiều nhất.
Phát biểu này của Chơn
sư dường như là căn bản của mọi nền giáo dục chân chính đối với tôi, v́ tôi
mạnh dạn chủ trương rằng ta không thể coi nền giáo dục là thỏa đáng nếu nó
không bao gồm việc phục vụ những người khác. Đôi khi người ta bảo rằng mục
đích lớn lao của giáo dục trước hết là khiến cho con trẻ được hạnh phúc ở
lứa tuổi ấu thơ, để rồi cung cấp cho nó sự hiểu biết hữu ích. Thật vậy, hạnh
phúc, hiểu biết và phụng sự xét về mặt thế giới của Chơn sư quả thật là
những từ hoán chuyển được cho nhau. Không một đứa bé trai hoặc gái nào thật
sự hạnh phúc nếu ngay từ khi c̣n tấm bé nó không bắt đầu chuyển hóa được sự
hiểu biết thành ra việc phụng sự. Ở nhiều trường cao cấp hơn người ta hiểu
rất rơ sự thật này, nhưng xét chung th́ nhà cầm quyền giáo dục c̣n quá bận
tâm với những chủ đề và phương pháp theo qui ước cho nên rất ít chú ư tới
việc chọn lựa phương pháp và chủ đề theo quan điểm cách thức giúp cho con
trẻ có thể dễ dàng vận dụng sự hiểu biết đạt được hằng ngày nơi trường học
để giúp đỡ cho những kẻ chậm tiến hơn ḿnh.
Nơi trường Ấn Độ Trung
Ương ở Benares, chúng tôi luôn luôn có thói quen khuyến khích học viên chẳng
những học hỏi mà c̣n phải phục vụ, và thật vậy chúng tôi thấy đúng là bất kỳ
đứa trẻ nào thiếu năng lực theo một đường lối đặc biệt nào đó đều có thể bớt
đi rất nhiều sự dốt nát của ḿnh qua việc trợ giúp theo đường lối đó cho một
đứa trẻ khác thậm chí c̣n dốt hơn ḿnh nữa. Không có một cách nào tăng
trưởng tốt hơn là cố gắng khiến cho bản thân hữu dụng đối với môi trường
xung quanh; và khi trợ giúp cho những người khác th́ chúng ta gia tăng được
năng lực học hỏi của ḿnh.
Tiếc thay trong hoàn
cảnh thời nay, chúng ta thường phải giáp mặt với phát biểu cho rằng lớp trẻ
không được lơ đễnh việc học hành, chưa đến lúc để cho chúng phục vụ. Chúng
học đă hết thời gian rồi th́ lấy đâu mà đi ra thế giới bên ngoài phục vụ nữa.
Tôi hoàn toàn không đồng ư với những phát biểu như thế. Tôi không nghĩ rằng
trẻ con gần như được hạnh phúc mà lẽ ra chúng phải có, thế gian gần như là
một nơi chốn vui vẻ mà lẽ ra nó phải như thế. Có nhiều lư do khiến xảy ra
như thế, nhưng ít nhất một trong những lư do là: trẻ con không mang lại cho
thế giới bên ngoài cái bản chất vui tươi ấu trĩ mà thế giới cần tới, và tôi
mong sẽ có lúc khi một phần sinh hoạt học đường của trẻ con sẽ bao gồm việc
tỏa ra thế giới xung quanh để cống hiến cho nó bài hát mà chỉ có trẻ con mới
hát được. Trong lúc này th́ tôi không gợi ư rằng trẻ con phải dự phần tích
cực vào chính trị hoặc thảo luận về các vấn đề xă hội. Nhưng tôi xin mạnh mẽ
tuyên bố rằng có những hành vi phụng sự nhất định mà chỉ trẻ con mới làm
được thôi, và điều này rất cần thiết cho cả thế hệ người lớn lẫn thế hệ trẻ
trung.
HAI LOẠI NGHIÊN CỨU
Do đó trẻ con có hai
loại nghiên cứu cần thực hiện: (1) điều mang lại cho trí nó sự linh hoạt và
khiến cho trí được nhạy bén, (2) điều khiến cho nó có thể tức khắc sử dụng
được theo cách của riêng ḿnh. Có nhiều đề tài cần nghiên cứu; nó cần biết
nhiều chuyện; một phần v́ những điều ấy dứt khoát có ích cho nó trong cuộc
sống sau này; một phần v́ chúng mang lại cho tâm trí một sắc thái nào đó,
một phần v́ chúng giúp cho tâm trí có một kỷ luật nào đó và một phần v́
chúng thông qua tâm trí giúp cho trẻ con tiếp xúc với thế giới quá khứ, hiện
tại và vị lai. Và người ta phải rèn luyện cả thể xác lẫn thể vía theo những
đường lối giống như thế. Tạm thời th́ chúng ta không quan tâm tới những vấn
đề này. Người ta cũng phải dạy cho trẻ con t́m hiểu vị trí thực sự của ḿnh
trong thế giới mà chúng đang sống – thế giới mang lại cho nó điều ǵ và với
vai tṛ là một đứa trẻ nó tồn tại để cống hiến được điều ǵ cho thế giới. Nó
có một nốt nhạc nhất định để trổi lên trong bản ḥa âm của thế giới vào lúc
c̣n thơ ấu cũng như khi đă trưởng thành. Do đó đứa trẻ nào không được khích
lệ để biến sự nghiên cứu thành ra phụng sự th́ không thể thực sự hạnh phúc
được. Đó là v́ một trong những điều kiện để tăng trưởng là chúng ta dần dần
nhận thấy rằng ḷng ích kỷ của chúng ta cũng ít hẹp ḥi bao nhiêu th́ hạnh
phúc của chúng ta càng trường cửu bấy nhiêu. Trẻ con rất mau chán ngán với
hầu hết những đồ chơi của ḿnh và nhiều bậc phụ huynh phải xao lăng tâm trí
chẳng biết làm ǵ để chăm sóc đám con trẻ từ ngày này sang ngày khác khi
chúng hết giờ học rồi. Một phần bản chất của trẻ con là thỉnh thoảng nó lại
đâm ra có “ác ư”, đây chẳng qua chỉ là kết quả của việc ṃ mẫm dẫn dắt tất
cả chúng ta tới việc khao khát một loại kinh nghiệm nào đó. Tuy nhiên đứa
trẻ có thể ít gây ác ư hơn nếu ta có thể dạy cho nó hiểu ra được rằng nơi
bản thân nó có một quyền lực mà nó có thể sử dụng nếu nó muốn – khả năng kết
hợp vào những người khác, và như thế có được một loại hạnh phúc thỏa đáng
hơn so với khi chỉ sống một ḿnh. Do vậy, tôi xét thấy rằng mọi đứa trẻ trai
và gái đi đến trường trung học hoặc đại học đều nên phối hợp việc học hành
với một loại phụng sự nào đó. Tôi xét thấy rằng mọi nền giáo dục mất cân
bằng đều không cung ứng cho mọi học viên việc phụng sự thỏa đáng.
NGUYÊN TẮC SƠ KHỞI
Chơn sư đưa ra nguyên
tắc sơ khởi mà mọi sự nghiên cứu và phục vụ phải dựa vào đó. Ngài dạy rằng:
“Con phải học cách chân thực hết mức trong tư tưởng, lời nói và hành động”.
Thế là Ngài nhấn mạnh rằng thế giới được xây dựng trên nền tảng sự thật và
Ngài cho ta thấy rằng đây là bài học đầu tiên mà mọi người trong chúng ta
phải học cho dù ở nhà trường hay ngoài đời. Thực vậy, sự thật là nền tảng
của mọi sự tăng trưởng và tốc độ tăng trưởng của chúng ta c̣n tùy thuộc vào
mức độ chúng ta để cho sự thật thấm nhuần tư tưởng, lời lẽ và hành động của
ḿnh. Mọi điều trên thế giới mà xấu xa, không thanh khiết, sai trái, bất
hạnh, đều quả thực là không chân thật. Điều này có nghĩa là tất cả những thứ
đó đều xuyên tạc sự thật, đều áp dụng lệch lạc sức mạnh của sự thật. Thiếu
hiểu biết là nguyên nhân của mọi rắc rối trên thế giới và thế gian cần hơn
hết cái sự thật – vốn cũng là sự hiểu biết – cần được phổ biến sâu rộng dưới
những h́nh thức thích hợp với đủ thứ sự hiểu biết ở nhiều giai đoạn tiến hóa
khác nhau mà những người trên thế giới đang theo đuổi. Chơn sư dạy chúng ta
phải đạt tới sự thật ra sao và Ngài dạy rằng chúng ta không được tin một
điều ǵ đó là đúng v́ nhiều người khác cho rằng nó đúng, cũng không phải v́
người ta đă tin vào điều đó trong hằng thế kỷ, cũng không phải v́ nó được
viết ra trong một quyển sách nào đó mà thiên hạ cho là thánh thư. Ngài dạy
rằng chúng ta phải tự ḿnh suy nghĩ và tự ḿnh xét đoán. “Kẻ nào muốn bước
trên Thánh đạo phải học cách tự suy nghĩ, v́ mê tín dị đoan là một trong
những điều tệ hại nhất trên thế giới, một trong những xiềng xích mà con phải
tuyệt đối dứt bỏ”.
H̀NH TƯỚNG KHÔNG PHẢI LÀ THỰC TẠI
Chính v́ thế mà thật
quan trọng xiết bao khi có được những vị thầy sở đắc một lượng tri thức chân
thực nào đó và càng giải thoát khỏi thành kiến càng nhiều càng tốt. Trong
lúc này tôi không gợi ư rằng h́nh tướng là không có giá trị, v́ khi c̣n thơ
ấu trẻ con phải liên kết với nhiều h́nh tướng. Nhưng người thầy không bao
giờ được quên mất sự thật là h́nh tướng chẳng qua chỉ là h́nh tướng cho dù
h́nh tướng có thể đẹp đến đâu đi chăng nữa, và sự tồn tại của h́nh tướng c̣n
tùy thuộc vào thực tại nội tâm. Những người c̣n trẻ đă được dạy dỗ để tin
rằng h́nh tướng bao xung quanh ḿnh là những h́nh tướng có giá trị thật sự
đến nỗi mà hoặc là họ nổi loạn chống lại h́nh tướng hoặc là bị h́nh tướng ám
ảnh. Trong cả hai trường hợp th́ ác ư đều len lỏi vào và đau khổ tất nhiên
nối gót bất cứ niềm tin nào cho rằng h́nh tướng là thực tại. Do đó chúng ta
phải cố gắng xét xem mọi h́nh tướng là những cột mốc chỉ đường dẫn tới thực
tại bị h́nh tướng bao hàm. Trong những giai đoạn đầu của cuộc sống ấu thơ
h́nh tướng thu hút nhiều nhất và chúng ta không thể trông mong có được một
nỗ lực đáng kể nào nhằm nh́n xuyên suốt qua h́nh tướng thấy được thực tại
vượt ngoài tầm h́nh tướng. Nhưng khi việc giáo dục tiếp diễn th́ h́nh tướng
càng ngày càng vô nghĩa và chỉ được dùng để nêu bật lên vẻ đẹp của một sự
đơn nhất căn bản vốn có thể biểu hiện ra qua biết bao nhiêu sự đa dạng biểu
kiến. Do đó tất cả chúng ta phải thấy rằng ḿnh đă là nạn nhân xiết bao của
những thói quen tư tưởng theo qui ước. Dĩ nhiên lật ngược đáng kể lại bằng
cách không tin chỉ v́ một số lớn người khác tin đó chỉ là thái độ mà nhiều
nhà tư tưởng độc lập thường theo đuổi. Nhưng chúng ta phải liên tục cảnh
giác để thấy rằng ḿnh không bị trôi dật dờ một cách vô ư thức, hoặc là theo
môi trường xung quanh hoặc là theo ḍng tư tưởng chung chung mà xứ sở chúng
ta hoặc thế giới nói chung đang trôi dật dờ theo đó. Những người nào muốn
phụng sự Chơn sư phải học cách tự ḿnh suy nghĩ và điều này đ̣i hỏi phải
truy tầm, phân tích những động cơ thúc đẩy có trước tư tưởng, lời lẽ và hành
động của chúng ta.
NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ HIỂU LẦM
Thế rồi Chơn sư nhận xét
rằng chúng ta không được nghĩ về người khác điều mà chúng ta không biết chắc
chắn. Cố nhiên đây là một trong những bài học khó khăn nhất, và một trong
những hành vi phụng sự có giá trị nhất mà cả người già lẫn người trẻ đều có
thể hiến ra để trợ giúp cho những người khác. Tất cả chúng ta đều ưa sẵn
sàng tưởng tượng, thế rồi cứ coi
sự tưởng tượng đó như thể là sự hiểu biết. Nhiều ác cảm giữa thiên hạ chỉ v́
họ thường nghĩ tới cái điều mà họ
không biết chắc, và điều đó thường té ra là không đúng sự thật. Một
người nói chuyện trực tiếp với người khác khi người ta
tưởng tượng rằng người khác đang
chống đối ḿnh th́ thường sẽ giải tỏa được sự hiểu lầm. Thật vậy hầu hết mọi
người đều ít chống đối hơn với những đối tượng mà ḿnh phản đối khi họ được
diện kiến với nhau. Theo thông lệ th́ khi hai người đến với nhau th́ chính
cái nỗ lực nho nhỏ đó luôn luôn khiến cho sự Thống nhất căn bản được khẳng
định, và nếu có thiện chí th́ chỉ một chút cố gắng thường là khắc phục được
sự hiểu lầm vốn phần lớn nảy sinh ra do việc xa cách và do sự thiếu hiểu
biết.
Vậy là nơi hầu hết mọi
người đều có khuynh hướng nhất định ưa thêm mắm thêm muối, và điều này cũng
gây ra nhiều hiểu lầm và khó khăn. Chơn sư có nhận xét rằng chúng ta thường
tưởng tượng người khác nghĩ xấu về ḿnh. “Nếu có người làm điều ǵ đó mà con
nghĩ rằng sẽ làm hại đến con, hoặc nói một điều nào đó mà con nghĩ rằng áp
dụng cho con th́ đừng nghĩ ngay rằng người đó có ư định làm hại con”. Chẳng
điều ǵ đúng hơn sự thật là mỗi linh hồn đều có chuyện rắc rối của riêng
ḿnh và tư tưởng của nó chủ yếu quay ṿng ṿng xung quanh ḿnh. Thái độ của
chúng ta đối với người khác tùy thuộc phần lớn vào cách thức mà bản thân
chúng ta vướng mắc với thế giới vào lúc đó – tùy thuộc vào sức khỏe thể chất
của ta, niềm hi vọng mà ta có về tương lai và kư ức của ta về quá khứ. Nói
chung th́ việc một người khác làm ǵ không quan trọng bằng việc hành động đó
có quan hệ như thế nào với cái thế giới nhỏ xíu mà chúng ta đang sống trong
đó. Một chuyện lặt vặt mà ngày hôm qua tôi nghĩ rằng không đáng ǵ th́ ngày
hôm nay tôi có thể cho là rất quan trọng chẳng qua v́ cơn đau răng đă xen
vào thế giới bé nhỏ của tôi làm cho dây thần kinh của tôi cứ giật liên hồi.
Mọi loại t́nh huống xét theo biểu kiến là tầm phào lại có thể phối hợp để
khiến chúng ta có một quan điểm rất thiếu nhân từ đối với hành động của
người khác. Bà Besant thường dạy chúng ta rằng cảm thấy bị xúc phạm là t́nh
trạng ích kỷ v́ công việc của chúng ta là chúng ta cứ làm, c̣n thái độ của
người khác đối với chúng ta không dính dáng ǵ vô đó.
Đây là một bài học rất
khó học thuộc, v́ trong quá khứ chúng ta đă lệ thuộc xiết bao vào thế giới
bên ngoài. Nếu chúng ta muốn trở thành đệ tử của Chơn sư th́ chúng ta phải
có tính t́nh tích cực hơn, và khiến hoàn cảnh của chúng ta phải tùy thuộc
vào điều mà chúng ta ban ra hơn là điều mà chúng ta nhận được. Tôi thường
nghĩ rằng cuộc sống của những nhân viên văn pḥng ở thành phố tùy thuộc
nhiều vào chuyện đời sống gia đ́nh ở nhà xảy ra cho những ông xếp của họ hơn
là tùy thuộc vào sự lơ đễnh hoặc khéo léo khi họ chú tâm tới công việc của
xếp. Một thủ trưởng thấy món trứng chiên buổi sáng làm quá tồi, chỉ nói được
ít lời với vợ, bị đám con quậy v́ nô đùa quá trớn, không t́m ra được cái nơ
thắt cổ áo khi mặc quần áo, trễ chuyến xe lửa ḿnh ưa thích, thấy cái chỗ
ngồi ḿnh ưa thích bị người khác chiếm mất, hậu quả là bầu không khí ở văn
pḥng hôm đó chẳng ai chịu nỗi, và mọi chuyện mà đám thuộc cấp làm đều ngứa
mắt. Đám thuộc cấp có thể tưởng tượng rằng ông xếp không thích ḿnh hoặc có
chuyện hiềm khích với ḿnh trong khi sự thật là trọn cả sự ác ư đó chỉ bắt
đầu bằng việc mất cái nơ thắt cổ áo. Trong lúc này th́ tôi không muốn gợi ư
rằng trường hợp đó luôn luôn xảy ra, nhưng nó thường rất xảy ra như vậy.
Chơn sư có nhận xét như sau: “Có lẽ một người nào đó hoặc một chuyện ǵ đó
đă làm y tức giận và v́ y bất chợt gặp con cho nên y bèn giận cá chém thớt.
Y đang hành động một cách điên rồ v́ mọi sự giận dữ đều là điên rồ, nhưng
không v́ thế mà con được quyền nghĩ về y không đúng sự thật”.
CHƯƠNG XI
SỰ PHÂN BIỆN
Chơn sư tiếp tục giải
thích rằng khi bạn trở thành đệ tử của một trong các đại Chơn sư th́ “bạn có
thể luôn luôn thử lại sự thật trong tư tưởng ḿnh bằng cách đặt nó gần kề tư
tưởng của Chơn sư”. Ngài giải thích rằng đệ tử vốn hợp nhất với Chơn sư và
chỉ cần nhập tư tưởng của ḿnh vào tư tưởng của Chơn sư th́ thấy ngay được
liệu tư tưởng đó có phù hợp hay chăng. Nhận xét này rơ ràng là không áp dụng
cho các đệ tử c̣n dự bị mà chỉ áp dụng cho những người tâm thức đă phần nào
ḥa lẫn một cách tuyệt vời với tâm thức của Chơn sư. Nhiều người đă bảo tôi
rằng họ không thể hiểu được làm cách nào hoàn thành việc đặt tư tưởng ḿnh
bên cạnh tư tưởng Chơn sư. Lời giải thích duy nhất mà tôi có thể nghĩ là đệ
tử được Chơn sư thu nhận nếu muốn có thể luôn luôn lắng nghe hài âm vĩ đại
mà Chơn sư gửi ra cho thế giới. Bất cứ tư tưởng nào mà đệ tử hài ḥa với hài
âm của Chơn sư hoặc là không hài ḥa với nó; bằng cách này đệ tử cảm thấy
được theo một cách nào đó liệu tư tưởng của ḿnh có chân thật hay chăng. Nếu
nó chân thật th́ nó mang lại cho y một ư thức sống trọn vẹn và có thể nói là
khiến cho y tỏa sáng qua trọn cả bản thể. Nếu tư tưởng không chân thật th́
nó khiến cho y có ư thức khó chịu và không thoải mái. Theo một cách nào đó,
y cảm thấy không ḥa nhịp với vạn vật, và trực giác biết rằng ḿnh không
chân thật như lẽ ra ḿnh nên vậy. Có lẽ hầu hết mọi người đều có cảm xúc này
ở mức độ lớn hay nhỏ. Ở một giai đoạn nào đó, khi lương tâm đă hoạt động,
nói chung chúng ta ắt biết được trong bản thể ta tư tưởng nào có tính cách
xây dựng và tư tưởng nào có tính cách phá hoại. Chúng ta có một số lư tưởng
nào đó và ít ra th́ chúng ta cũng biết liệu nói chung chúng ta có sống với
những lư tưởng đó hay chăng. Thật vậy những người đó có thể luôn luôn tự hỏi:
“Liệu Chơn sư nghĩ ǵ về điều này ? Liệu Chơn sư nói hoặc làm ǵ trong hoàn
cảnh này ?” Nhưng đệ tử của Chơn sư có những xúc cảm với cường độ lớn hơn
nhiều và cách duy nhất giúp tôi mô tả sự khác nhau giữa tư tưởng hài ḥa và
tư tưởng không hài ḥa, đó là cho bạn biết rằng tư tưởng hài ḥa mang lại
một ư thức mới mẻ và trong sáng c̣n tư tưởng không hài ḥa gây ra một cảm
giác u ám và khó chịu. Dĩ nhiên chúng ta có thể đắm ch́m trong tư tưởng và
hành động của ḿnh đến nỗi ngăn cách hoàn toàn với tâm thức của Chơn sư và
rất thường khi chúng ta suy nghĩ vô ư thức hoặc hành động và cảm giác về
những sự vật không khiến chúng ta cảm thấy gần như khó chịu mà lẽ ra phải
như thế, v́ chúng ta không mất công trắc nghiệm chúng theo ánh sáng tâm thức
của Chơn sư. Chúng ta đồng nhất ḿnh hoàn toàn với các cơi thấp trong Thiên
nhiên đến nỗi chúng ta không nghe được tiếng nói của tinh thần và rất thường
xảy ra việc chúng ta trải qua một loạt những tư tưởng, xúc cảm hoặc hành
động sai lầm trước khi tỉnh ngộ ra sự thật là chúng ta đă lầm lạc. Nhất là
trong thời buổi như hiện nay khi cuộc khủng hoảng lớn trên thế giới tập
trung năng lượng của ta rất nhiều vào những hoạt động hoàn toàn trần tục th́
có nguy cơ là chúng ta quên mất các đấng Đại Đạo sư sắp xếp an bài vận mệnh
các quốc gia và dẫn dắt các dân tộc hành động đúng đắn.
SỐNG VỚI LƯ TƯỞNG CỦA M̀NH
V́ vậy chúng ta không
thể trông mong kẻ phàm phu có thể liên tục suy nghĩ điều mà Chơn sư suy nghĩ,
nói hoặc làm trong những trường hợp như thế. Nhưng bất cứ kẻ nào có liên hệ
nhất định với Chơn sư th́ phải
thường xuyên lắng nghe sự hài ḥa trong cuộc sống của Chơn sư và thế là hầu
như tự động chấp nhận điều này hoặc bác bỏ điều kia khi hành động hoặc tư
tưởng xảy đến với y trong quá tŕnh sinh hoạt hằng ngày. Nói chung th́ tôi
khuyên các môn sinh, nhất là trong t́nh trạng hiện nay, hăy sống tối đa theo
lư tưởng của ḿnh để cho những lư tưởng đó chiếm ưu thế đến mức tối đa. Lư
tưởng có thể là một Đạo sự lớn hoặc một nguyên tắc lớn, nhưng bây giờ đă đến
lúc phải nhớ kỹ nó và ngăn chận không để cho người ta công kích nó. Hiện nay
chúng ta ở giai đoạn xung đột giữa lư tưởng và những h́nh thức đă lỗi thời,
giữa Thời đại mới và Thời đại cũ; do đó những lư tưởng của chúng ta đặc biệt
dễ bị công kích v́ thời đại cũ vẫn muốn chiếm ưu thế và ra sức tiêu diệt
điều ǵ có thể thế chỗ ḿnh. Xét về một số phương diện th́ hiện nay ta dễ có
lư tưởng hơn v́ buổi b́nh minh của Thời đại mới kích thích chúng hầu như quá
sớm. Mặt khác, ta cũng dễ bỏ lư tưởng và chấp nhận những điều qui ước, sáo
ṃn và t́nh h́nh thế giới nói chung.
HƯỚNG TỚI TÀI LĂNH ĐẠO
Luôn luôn có sự cám dỗ
đi chầm chậm theo đa số mọi người hơn là lănh đạo với một thiểu số. Tài lănh
đạo là việc khó thực hiện đ̣i hỏi chẳng những nhiều hi sinh mà c̣n gây ra
nhiều phiền năo và thất vọng. Nó cũng chuốc lấy sự chế nhạo, khinh bỉ và
không tán thành của môi trường thông thường xung quanh. Đừng tưởng tượng có
lúc nào đó bất cứ nhà lănh đạo thế giới đă từng được tạo ra cũng phải trải
qua cuộc đời trong những tràng vỗ tay của đồng loại. Hiện nay ta không sẵn
sàng cho tài lănh đạo, nhưng bây giờ đă đến lúc bắt đầu và muốn bắt đầu phải
cố gắng hiểu được lư tưởng của chúng ta là ǵ và bám cứng lấy nó. Đây là
giai đoạn đầu tiên hướng tới tài lănh đạo hoặc ít ra th́ cũng không sẵn sàng
được rèn luyện để tiến tới khả năng lănh đạo. Giai đoạn sơ khởi là học cách
đứng vững trên đôi chân của ḿnh, giúp đỡ tối đa cho những người khác, và
càng ít yêu cầu người khác giúp đỡ th́ càng tốt. Được người khác giúp đỡ th́
cũng tốt thôi, nhưng bổn phận ta là phải làm việc mà càng ít được giúp đỡ
càng tốt. Tôi không gợi ư rằng nên bác bỏ việc được đề nghị giúp đỡ. Việc
nhận hay cho đều có phước cả. Và phước lành ban rải đều cho kẻ nhận cũng như
kẻ cho. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh tới việc chúng ta không được tùy thuộc vào
sự giúp đỡ của những người khác, v́ trên đời này nhiệm vụ của chúng ta là
phải giúp đỡ cho những người khác vẫn thấy cần phải dựa dẫm vào sức mạnh mà
họ có thể thu lượm từ bên ngoài. Cách thức thực hiện điều đó là đề tài của
tâm lư học hơn là chủ đề của những tài liệu sơ cấp về quyển
Dưới Chơn Thầy. Chẳng có ǵ phức
tạp hơn là sự tiến bộ trên Thánh đạo. Ở đây, tôi chỉ muốn nêu ra một vài
nguyên tắc tổng quát sao cho ta có thể biết tới và nghiên cứu chúng. Mỗi
nguyên tắc này sẽ thể hiện khác nhau nơi những người khác nhau tùy theo tính
khí riêng của họ, nhưng trong mọi trường hợp th́ nguyên tắc vẫn cứ như thế.
NHỮNG NGUY CƠ NÓI QUÁ LỐ
Tôi không già sử rằng
bất cứ người nào trong chúng ta có thể thực hành hoàn hảo phát biểu của Chơn
sư: “Con không bao giờ được nói, làm hoặc suy nghĩ điều mà con không tưởng
tượng được rằng Chơn sư lại làm, nói hoặc nghĩ như thế”.
Ngài đưa ra một lư tưởng và yêu cầu ta tha thiết phấn đấu hướng về nó
được bao nhiêu càng tốt. Phải mất một thời gian dài mới sắp xếp đủ thứ hạ
thể của ta được trật tự, và không ai nên thất vọng v́ ḿnh không thể biến
hỗn loạn thành trật tự ngay lập tức, hoặc v́ ḿnh thường thất bại. Tôi chưa
bao giờ nghe thấy Chơn sư kết án sự thất bại, nhưng tôi biết chắc rằng Ngài
trông mong chúng ta tiếp tục cố gắng cho dù chúng ta thường hay thất bại.
Thế rồi chúng ta được
dạy cho đủ thứ cách khiến chúng ta phải cố gắng hài ḥa cuộc sống của chính
ḿnh với cuộc sống của các bậc Đại Đạo sư. Chúng ta được dạy dỗ là phải chân
thật về lời nói chính xác và không ngoa ngoắc. Ngoa ngoắc là một lỗi lầm
thông thường nhất trong tất cả chúng ta, nhất là trong những người có tính
khí ưa tưởng tượng thật nhiều. Chúng ta không ngoa ngoắc v́ chúng ta cố t́nh
muốn xuyên tạc sự thật mà v́ thể vía của chúng ta thích những rung động dữ
dội, và v́ chúng ta thích tạo ra một tác dụng nhất định lên môi trường xung
quanh. Những sự kiện vốn không có tác dụng kích thích thể vía hoặc làm cho
môi trường xung quanh ta chú ư. Khi chúng ta không có được tác dụng này
chúng ta bèn tăng cường chúng lên để có kết quả mà chúng ta muốn. Kết quả là
chúng ta có một thói quen suy nghĩ, cảm xúc và nói năng bừa băi, sớm muộn ǵ
thiên hạ cũng không c̣n tin chúng ta nữa, do đó khả năng hữu dụng của chúng
ta trên thế gian bị giảm đi đáng kể, và chúng ta sẽ xa hơn chứ không gần hơn
với việc phụng sự Chơn sư. Trong nỗi đau sinh ra do quá tha thiết giúp đỡ
đồng thời lại bất lực không giúp đỡ được, chúng ta sẽ học được cách giúp đỡ
mà không ngoa ngoắc hoặc bằng một cách khác khiến cho sự vật có vẻ không
giống như thật sự chúng như vậy. Nhiều người phàn nàn rằng hoàn cảnh của họ
gây cản trở rất nhiều cho ḷng tha thiết phụng sự của họ. Một trong những
nguyên nhân của điều này có thể là trong quá khứ họ đă không dùng một cách
chân thật những quyền năng mà lúc bấy giờ họ có được. Do đó trong kiếp này
họ phải học bài học ḷng th́ tha thiết mà lại không thể ứng dụng được.
Ta được dạy bảo đừng gán
động cơ thúc đẩy cho người khác và đây là một trong những lầm lỗi thông
thường nhất của chúng ta. Chúng ta thấy hành vi, tư tưởng hoặc xúc cảm, và
chúng ta tức khắc thuyết giải nguyên nhân. Kinh nghiệm riêng của tôi là hầu
hết mọi người hành động theo những lư do mà ta không biết được khi ta chỉ
trích họ. Trong trường hợp của chính ḿnh, tôi biết thiên hạ thật ra chẳng
biết được bao nhiêu về những động cơ thúc đẩy ẩn dưới hành động của tôi, và
tôi giả sử rằng điều này cũng đúng với những người khác. Thiên hạ có những
chuyện rắc rối phiền năo và sầu khổ của riêng ḿnh; rất thường khi họ hành
động do ảnh hưởng của những rắc rối phiền năo và sầu khổ đó mặc dù xét theo
quan điểm của kẻ bàng quan th́ hành động này chẳng có liên quan ǵ tới
chúng. Nhà lănh đạo càng vĩ đại th́ y càng thuyết giải tử tế thái độ của
người khác đối với ḿnh. Tôi thường lấy làm lạ tại sao bà Besant lại hay bị
lừa gạt, tôi thấy dường như chỉ khi bà biết chắc rằng những kẻ lường gạt bà
cố t́nh làm như thế v́ động cơ thúc đẩy xấu xa; nhưng tôi tin rằng ở một
giai đoạn nào đó bạn chỉ có thể nghĩ tử tế cho mọi người và trong khi về một
số phương diện nào đó bạn có thể dễ bị lừa gạt hơn. Thế nhưng v́ những tư
tưởng của bạn mang đầy thiện chí cho nên hành vi lừa gạt sẽ báo ứng dội lại
kẻ lừa gạt và dạy cho y một bài học khủng khiếp. Hơn nữa, khi sản sinh ra
một ḍng thiện chí liên tục như thế bạn có được quyền năng bằng một cách nào
đó ngăn cản người ta hành động hướng về bạn nếu bạn có ít tấm ḷng thanh
khiết hơn và rơ ràng là khả năng phụng sự Chơn sư của bạn sẽ gia tăng rất
nhiều do bạn có tư tưởng trong sáng mà không một nghịch cảnh bên ngoài nào
có thể làm hoen ố được.
Một trong những lời
khuyên giá trị nhất trong quyển Dưới
Chơn Thầy là: “Nếu con nghe có một câu chuyện phương hại đến một người
nào đó th́ con đừng lập lại nó, nó có thể không đúng sự thật, và cho dẫu nó
có đúng sự thật th́ chẳng nói ǵ cả vẫn nhân từ hơn”. Loài người dường như
đặc biệt có khuyh hướng lập lại những chuyện ngồi lê đôi mách về người khác,
và tôi tưởng tượng rằng ít ra th́ một nửa những chuyện phiền năo và rối rắm
trên thế giới có nguyên nhân là do thói quen ngoa ngoắc độc hại này v́ người
ta thiếu khả năng kiểm soát đủ thứ hạ thể của ḿnh, chúng luôn luôn khao
khát một loại kích động nào đó.
Chúng ta cũng được dạy
rằng “con hăy nghĩ kỹ trước khi nói kẻo con sẽ nói không chính xác”. Chúng
ta quá hung hăn và bốc đồng cả về ngôn ngữ lẫn hành động, và nếu chúng ta
b́nh tĩnh hơn một chút, trầm tư, tự chủ hơn th́ chúng ta có thể nói dứt
khoát hơn và với ư thức trách nhiệm lớn hơn. Nhưng tôi rất tiếc mà phải nói
rằng nhiều người trong chúng ta giống như con bướm cứ bay lượn lăn xăn chẳng
màng tới hậu quả của lời nói, xúc cảm hoặc hành động miễn là ngay lúc đó
chúng ta vui hưởng th́ đủ rồi. Chúng ta cũng quá sa đà với việc tưởng tượng
rằng tương lai tự nó có thể thu xếp đâu vào đó được và khi tương lai xảy tới
th́ chúng ta lại thường ước ao rằng giá mà trước đó chúng ta để ư thêm một
chút nữa cho kiến tạo tương lai.
TƯỞNG TƯỢNG ĐỐI LẬP VỚI GIẢ VỜ
Lại nữa, chúng ta phải
tránh việc giả vờ là điều mà thật ra chúng ta không phải thế. Đây là vấn đề
khó nhất đối với nhiều người. Chúng ta thường có thói quen giả vờ để gây ấn
tượng, để dẫn dụ người khác chú ư tới chúng ta hơn, tôn trọng chúng ta hơn
mức mà hiện trạng chúng ta cho phép. Nếu người ta hiểu ra được rằng ḿnh
càng tự nhiên bao nhiêu th́ ḿnh tất nhiên gây ấn tượng và hữu dụng bấy
nhiêu. Sớm muộn ǵ th́ thiên hạ cũng lật tẩy được sự giả vờ đi, thế là ṭa
lâu đài mà bạn mất bao nhiêu công lao xây dựng sẽ tan thành mây khói. Bạn lộ
nguyên h́nh trần trụi và thế gian sẽ quay ngoắc đi với bạn. Nhiều người cố
gắng dẫn dụ người khác tin rằng ḿnh có những quyền năng mà thực ra ḿnh
không có; thế rồi dĩ nhiên họ bắt đầu một loạt những điều lừa bịp mà một
ngày kia sẽ đè bẹp họ. Mặt khác, tôi không nghĩ rằng thật là sai lầm khi
người ta đôi khi tưởng tượng ḿnh như mức họ đạt được trong tương lai, miễn
là họ không để cho óc tưởng tượng đó gây ra sự lừa gạt người khác. Nếu bạn
có thể tưởng tượng ḿnh tử tế hơn mức thực ra ḿnh có, và nếu bạn cố gắng
biến sự tưởng tượng đó thành ra sự thật nơi ngoại giới th́ sự tưởng tượng đó
có thể có giá trị. Nếu bạn tưởng tượng ḿnh là chân thật trong khi thực ra
bạn không chân thật th́ nếu sự tưởng tượng đó được thực hành đến mức tối đa
nó sẽ góp phần kích thích bạn tăng trưởng được mức độ chân thật. Nếu bạn
tưởng tượng ḿnh thanh khiết hơn mức b́nh thường đạt được, và nếu bạn khiến
cho óc tưởng tượng này là một loại hiện thân nhắc nhở ḿnh cần phải thanh
khiết th́ bạn rất có thể tăng trưởng về phương diện đó. Óc tưởng tượng thuộc
loại này khác hẳn sự giả vờ mà Chơn sư nói đến v́ nó khai thông bế tắc giữa
thế giới bên ngoài với ánh sáng của linh hồn bạn, c̣n sự giả vờ là ra sức
lừa bịp thế giới tin rằng bản chất của bạn tốt hơn mức bạn thật sự cố gắng
đạt được. Nếu bằng hữu của bạn nghĩ tốt về bạn th́ cũng tốt thôi, nếu họ
nghĩ về bạn tốt hơn mức thực ra bạn xứng đáng th́ cũng tốt thôi, nhưng bạn
không được tự ḿnh cố gắng lừa bịp họ. Nếu họ nghĩ rằng bạn thực sự tốt hơn
mức bạn đang có th́ bạn cũng không nhất thiết là khôn ngoan khi làm cho họ
tỉnh ngộ, mà ít ra th́ bạn phải cố gắng sống vươn theo tiêu chuẩn mà họ đă
tạo ra cho bạn. Một thủ lănh rất thường khi vĩ đại hơn dưới mắt thuộc hạ so
với mức thực ra y đạt được và do đó có thể cảm thấy rằng hầu như ḿnh đang
lừa bịp thuộc hạ, và y có thể muốn họ hiểu rằng y tầm thường hơn mức thuộc
hạ nghĩ nhiều. Tôi không nghĩ rằng y bắt buộc phải chọn theo đường lối đó,
một phần làm như vậy chẳng giúp ǵ cho thuộc cấp và v́ một phần nếu y thực
sự là thủ lănh chân chính th́ y phải hằng ngày phấn đấu để vươn lên đáp ứng
nhu cầu của thuộc hạ và đáp ứng lư tưởng mà y thể hiện đối với họ. Ngoài
trường hợp này ra th́ nên nhớ lời dạy của Chơn sư: “Mọi sự giả vờ đều gây
chướng ngại cho ánh sáng thuần khiết của chân lư, nó phải chiếu soi qua con
giống như tia sáng mặt trời chiếu soi qua thủy tinh trong suốt”.
ĐIỀU TỐT ĐẸP NƠI VẠN VẬT
Có hai điều nữa cần nhấn
mạnh. Một là chúng ta phải học cách phân biệt giữa điều ích kỷ và điều không
ích kỷ, và hai là chúng ta phải học cách nhận ra được rằng trong mọi người
và vạn vật đều có điều tốt đẹp, “cho dù xét theo bề ngoài y hoặc nó có thể
xấu xa đến đâu đi chăng nữa”. Chơn sư dạy: “Sự ích kỷ có nhiều dạng và khi
con nghĩ ḿnh rốt cuộc đă diệt được nó dưới dạng này th́ nó lại ngóc đầu dậy
dưới một dạng khác cũng mạnh mẽ như bao giờ”. Cách duy nhất để diệt trừ ḷng
ích kỷ là phải tập trung tư tưởng, hoặc xúc cảm, hoặc hành động để phụng sự
người khác th́ lúc bấy giờ chẳng c̣n chỗ đâu cho ḷng ích kỷ. Ḷng ích kỷ
chỉ ngóc đầu dậy khi chúng ta nghĩ quá nhiều tới bản ngă nhỏ bé của ḿnh và
nghĩ quá ít tới những tự ngă lớn hơn mà những người khác cũng thuộc về.
Cuối cùng tôi xin trích
dẫn đoạn văn rất hay kết thúc nhận xét của Chơn sư về tính phân biện. “Con
có thể giúp đỡ huynh đệ ḿnh qua điều mà con có chung với y, đó là Sự Sống
Thêng Liêng; con hăy học cách khơi dậy sự sống đó nơi y, học cách hiệu triệu
sự sống đó nơi y; sao cho con cứu huynh đệ ḿnh khỏi làm điều sai trái”. Cốt
yếu là chúng ta nên nhận ra được rằng chúng ta không biệt lập với kẻ tội lỗi
cũng như chúng ta không biệt lập với bậc thánh thiện. Bà Besant rất thường
nhấn mạnh tới sự thật là khi chúng ta rất tha thiết muốn hiệp nhất với vị
thánh th́ chúng ta lại không mấy tha thiết khi thừa nhận sự hiệp nhất của
chúng ta với kẻ tội lỗi. Kẻ tội lỗi và vị thánh chia xẻ một sự sống chung và
đang phấn đấu hướng về một mục đích chung. Việc ta thu lượm được sức mạnh và
sự trợ giúp của một vị thánh đâu có khác ǵ ta ban ra sức mạnh và sự trợ
giúp cho cái gọi là kẻ tội lỗi. Xét cho cùng th́ kẻ tội lỗi chỉ vô minh
thôi, và giờ đây chúng ta nên biết bản thân chúng ta vô minh ra sao. Tất cả
chúng ta đều là kẻ tội lỗi ở một mức độ nào đó, và tất cả chúng ta đều biết
ơn bất cứ sự trợ giúp nào mà chúng ta có thể đạt được. Chúng ta hăy thu nhận
sự trợ giúp của những bậc trên chúng ta qua việc vui vẻ và biết ơn ban ra sự
trợ giúp và sức mạnh cho những người khác kém tiến hóa hơn chính ta.
CHƯƠNG XII
VÔ DỤC
(ĐOẠN
TUYỆT HAM MUỐN)
Bây giờ chúng ta xét tới
điều kiện thứ nh́ trong những điều kiện lớn mà Chơn sư đưa ra, đó là sự Vô
Dục, và ngay từ đầu trong phần nhận xét Ngài có nêu rơ rằng thiên hạ cảm
thấy ḿnh chính là sự ham muốn. Tôi giả sử rằng việc cảm thấy sự đơn nhất đó
là một phần của sự tăng trưởng, v́ nếu chúng ta không được như vậy th́ chúng
ta đâu có hiểu hết được chúng ta đồng nhất hóa ḿnh xiết bao với ham muốn.
Tất cả chúng ta đều bao gồm những điều thích và không thích đến nỗi mà nếu
chúng không c̣n trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta nữa th́ chúng ta cảm
thấy rằng ḿnh “không c̣n bản ngă” nữa. Khi chúng ta bước qua bên kia cửa tử
nhập vào những giai đoạn trung gian trước lúc tái sinh chúng ta được dạy cho
biết rằng những ham muốn, thích và không thích này quả thực không phải là
một bộ phận của chúng ta v́ chúng ta học biết rằng chỉ bằng cách rút lui ra
khỏi đó th́ chúng ta mới có thể đạt tới các cảnh cao của thiên giới. Nhưng
chúng ta không phải chờ cho đến lúc chết th́ mới học bài học nhu cầu vô dục.
Alcyone có nhận xét – v́ chính ông nói câu này chứ không phải Chơn sư – rằng
những kẻ nào nghĩ ḿnh mất bản ngă khi bị mất hết ham muốn “chỉ là những kẻ
chưa thấy được Chơn sư; dưới ánh sáng của sự Hiện diện thánh thiện của Ngài
mọi ham muốn đều biến mất ngoại trừ ham muốn được giống như Ngài”. Alcyone
nhận xét như thế v́ nhớ tới cái sự thật thống nhất vĩ đại khi đứng trước sự
hiện diện của Chơn sư. Bản thân tôi cũng nhớ có một dịp được đứng trước sự
hiện diện của một trong những Đạo sư vĩ đại nhất trên trần thế và trải
nghiệm cái ư thức hiệp nhất hoàn hảo nhất mà tôi đă từng biết tới. Thoạt đầu
tôi cảm thấy sâu sắc sự vô giá trị của chính ḿnh nhưng chỉ trong chớp mắt
th́ điều đó đă trôi qua. Có thể nói là Ngài nâng tôi lên tới mức thể nhập
vào Ngài, và tôi hiệp nhất với Ngài – thấy cùng với Ngài, hiện hữu cùng với
Ngài. V́ vậy bằng kinh nghiệm bản thân, tôi có thể làm chứng cho sự thật
trong phát biểu “dưới ánh sáng sự hiện diện của Chơn sư mọi ham muốn đều
biến mất ngoại trừ sự ham muốn được giống như Ngài”. Và ham muốn được giống
như Ngài ngay tức khắc được hoàn tất do quyền năng của Chơn sư rút ta ra
khỏi cái bản ngă nhỏ mọn. Chơn sư cảm thấy Ngài hiệp nhất với chúng ta mạnh
mẽ đến nỗi điều này tạm thời cưỡng bách chúng ta, c̣n về phần ḿnh th́ cũng
cảm thấy hiệp nhất với Ngài. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng cảm xúc này chỉ là
tạm thời và khi Ngài không hiện diện nữa, khi không c̣n chịu ảnh hưởng cưỡng
chế của Ngài th́ chúng ta có khuynh hướng rớt trở lại cái điều hăo huyền cho
rằng nếu chúng ta không c̣n những điều thích và không thích th́ chúng ta
không c̣n bản ngă nữa. May mắn thay chúng ta có được dạy cho biết rằng ḷng
vô dục không tùy thuộc vào việc Chơn sư có hiện diện hay chăng. Giá trị lớn
của Ngài đối với chúng ta là ở chỗ Ngài liên tục nhấn mạnh tới ḷng vô dục
chân chính nơi bản thể Ngài và phóng ra những sự thôi thúc mạnh mẽ dần dần
cho khuynh hướng khơi dậy ḷng vô dục minh triết nơi chúng ta. Về phần ḿnh,
chúng ta phải linh hoạt với những thôi thúc vĩ đại này và phải dần dần rèn
luyện ḿnh để vận dụng chúng. Thế mà chúng luôn luôn tác động xung quanh
chúng ta, nhưng chúng không thể ảnh hưởng tới Thượng Đế nội tâm (ngoại trừ
chỉ chút ít thôi) nếu Thượng Đế nội tâm không tự nguyện mong muốn hướng
thượng. Đối với ḷng vô dục, Chơn sư có nêu rơ rằng: “Sự phân biện đă cho
con thấy rằng những điều mà hầu hết mọi người ham muốn, chẳng hạn như của
cải và quyền lực đều không đáng ham muốn; khi con thật sự cảm thấy như thế
chứ không chỉ nói suông, th́ mọi ham muốn về những điều đó sẽ dứt bặt”. V́
thế cho nên chúng ta phải bắt đầu bằng cách t́m ra xem điều ǵ là đáng ham
muốn, điều ǵ là không đáng ham muốn, dần dần chúng ta sẽ loại được những
điều mà chúng ta nhận ra rằng là những điều không đáng ham muốn nữa cho tới
khi chúng ta thấy rằng xét về cơ tiến hóa của riêng ḿnh th́ chỉ có một điều
duy nhất là đáng ham muốn thôi.
SỰ TƯƠNG ĐỐI CỦA NHỮNG HAM MUỐN CHÍNH ĐÁNG
Trải qua nhiều giai đoạn
tiến hóa khác nhau ta thấy có nhiều điều là ham muốn chính đáng. Chúng ta
được dạy cho biết rằng nhiều người ham muốn của cải và quyền lực, có thể
những ham muốn này là một giai đoạn cần thiết cho họ. Đó là v́ chúng ta chỉ
đạt tới ham muốn cao siêu bằng cách leo lên trên những h́nh thức ham muốn đă
bị đạp xuống dưới để vươn lên những ham muốn cao siêu hơn. Do vậy, nếu con
người không ham muốn những của cải và quyền lực, v́ qua ham muốn đó mới nhận
ra được rằng của cải và quyền lực chỉ mang lại lợi ích tạm bợ thôi, th́ họ
đâu có sẵn sàng cho giai đoạn kế tiếp “để đạt được cơi trời hoặc đạt được sự
giải thoát cho riêng ḿnh khỏi ṿng sinh tử luân hồi”. Do đó bạn không được
tưởng tượng rằng v́ một cá nhân muốn cái điều mà bạn đă vượt qua th́ y cũng
phải vượt qua nó. Về vấn đề ham muốn ta nên luôn luôn học cách “quan tâm tới
chuyện của riêng ḿnh” và đừng trông mong người khác sẽ tuân theo tiêu chuẩn
của ḿnh, cũng như bạn không thể tưởng tượng Chơn sư lại bị hạn chế trong
những lư tưởng cao nhất mà bạn có thể quan niệm được. Bạn hoặc tôi không thể
nói một cá nhân ở giai đoạn nào đó đă nhận ra được hay chưa bất cứ sự ham
muốn đặc biệt nào không c̣n đáng ham muốn nữa. Nếu y thiếu một kinh nghiệm,
nếu y muốn có một kinh nghiệm th́ có lẽ là bởi v́ y chưa trải qua giai đoạn
thích ứng với kinh nghiệm đó. Dĩ nhiên, nếu chúng ta phụ trách những người
c̣n trẻ, th́ chúng ta có bổn phận phải cố gắng khiến cho họ ham muốn những
điều càng cao thượng và vị tha bao nhiêu càng tốt, nhưng đồng thời chúng ta
cũng phải nhớ rằng, họ có thể mong ước cho cuộc sống lúc trẻ trung của họ
trôi qua nhanh chóng hơn với một loạt các ham muốn mà chúng ta trong kiếp
đặc biệt này tạm thời đủ xoay sở để vượt qua được. Tôi thường nghe những
người c̣n trẻ bảo rằng trong khi họ cảm thấy về lâu về dài Thông Thiên Học
là điều duy nhất đáng được phụng sự th́ cũng có một ít thời gian họ lại muốn
trải nghiệm cuộc sống thế tục thông thường. Có lẽ bạn và tôi đă trải nghiệm
cuộc sống thế tục thông thường nên biết nó chẳng c̣n ǵ đáng ham muốn và vô
giá trị. Có lẽ chúng ta đă thay thế nó bằng một điều đối với chúng ta là một
ham muốn cao siêu hơn. Các bạn trẻ chắc chắn cũng sẽ phải đến giai đoạn đó,
nhưng không có lư do ǵ để giả sử rằng họ không phải trải qua một loạt những
kinh nghiệm giống như những kinh nghiệm đă dẫn bạn và tôi đến địa vị ngày
nay. Cái thể xác c̣n trẻ trung ham muốn nhiều tiếp xúc với ngoại giới mà nó
không có lắm cơ hội hiểu biết hơn so với người già. Đôi khi v́ vậy chúng ta
đi đến kết luận rằng những người c̣n trẻ không tha thiết như chính chúng ta.
Điều này cũng có thể là kết luận mà những người già đạt tới khi chính chúng
ta c̣n trẻ và khi bản thân chúng ta lại xoay sang cái lư tưởng mà những
người già thuộc thế hệ chúng ta đă đạt tới. Ham muốn th́ vẫn là ham muốn và
không thể ngưng việc nó là ham muốn v́ nó không đáng ham muốn. Cách duy nhất
khiến cho ngừng ham muốn là phải trải nghiệm được mục đích của nó và trong
khi tôi không muốn gợi ư là chúng ta phải nhảy xổ vào thỏa măn mọi ham muốn
có thể được khi nó ngẫu nhiên xuất hiện trong tâm thức chúng ta; song le tôi
lại cảm thấy rằng tuyệt nhiên không có ích ǵ khi ngăn cản việc ham muốn cứ
dai dẳng măi. Trong trường hợp những người c̣n trẻ, tôi khuyên họ nên đi
theo con đường tăng cường khả năng phân biện sao cho bản thân họ có thể
quyết định giữa đủ thứ loại ham muốn để có thể họ chọn lựa được điều ham
muốn cao thượng hơn so với điều kém cao thượng hơn, chọn lựa điều ham muốn
ít ích kỷ hơn với điều ham muốn nhiều ích kỷ hơn.
SỰ PHÂN BIỆN VỀ HAM MUỐN
Chính v́ thế mà trong
quyển Dưới Chơn Thầy điều kiện
Phân biện đứng hàng đầu. Trước hết ta phải có một tiêu chuẩn dựa vào kinh
nghiệm trong quá khứ và dựa vào việc nhận ra rằng một số ham muốn mang lại
cho ta sự thỏa măn kém lâu bền hơn những ham muốn khác. Tiêu chuẩn này là
yếu tố chính giúp cho người ta xa lánh những ham muốn có khuynh hướng khiến
cho họ đồng nhất hóa ḿnh với các hạ thể. Tôi không bảo những người c̣n trẻ
là họ nên có ham muốn này và không nên có ham muốn kia; tôi chỉ bảo họ rằng
họ nên chú ư tới kinh nghiệm của ḿnh, và để cho kinh nghiệm đó dẫn dắt
ḿnh. Những người cảm thấy ḿnh bị phó mặc rất nhiều cho ham muốn, có thể
rất nên để ư đọc kỹ lưỡng mọi điều mà Chơn sư dạy về sự Phân biện. Hăy nhớ
cách Ngài yêu cầu ta phân biệt giữa các hạ thể với chính chúng ta; phân biệt
đúng với sai; phân biệt điều quan trọng với điều không quan trọng; phân biệt
điều hữu ích hơn với điều kém hữu ích. Ta cũng nhớ cách Ngài khuyên chúng ta
“làm một điều nhỏ trực tiếp có ích cho công việc của Chơn sư c̣n đáng làm
hơn một điều lớn mà thế gian thường gọi là điều tốt”. Lại nữa, chúng ta nên
nhớ cách Ngài dạy rằng “Thượng Đế là Minh triết cũng như là Bác ái” và chúng
ta càng có minh triết th́ chúng ta càng có thể biểu lộ được Thượng Đế. Thế
rồi Ngài nhấn mạnh tới nhu cầu về sự thật, ḷng vị tha và nhận ra được
Thượng Đế nơi mọi người và vạn vật. Bằng nhiều cách khác nhau này, óc phân
biện của chúng ta trở nên đáng tin cậy và hữu dụng; do đó chúng ta mới hiểu
ra được vô dục thật sự có nghĩa là ǵ.
Chúng ta không được quên
rằng khi chúng ta đang đọc điều mà Chơn sư dạy về sự vô dục th́ Ngài đang
ngơ lời với một đệ tử sắp bước qua cửa Điểm đạo, do đó những nhận xét của
Ngài không nhất thiết áp dụng cho những kẻ chưa đạt tới giai đoạn đó. Tuy
nhiên ấy là lư tưởng và khi những kẻ đọc các trang này cũng c̣n cách xa giai
đoạn làm đệ tử trong một mức độ phải chăng, cho nên họ hăy tiêu chuẩn hóa lư
tưởng của ḿnh sao cho phù hợp với những điều yêu cầu đối với những thiện
nam tín nữ đă được chấp nhận làm đệ tử dự bị của Chơn sư. Địa vị tinh thần
của đệ tử được nói tới trong những trang này trở nên rơ rệt khi chúng ta đọc
thấy rằng y không được phạm sai lầm mong muốn thiên đường hoặc cá nhân ḿnh
thoát ṿng sinh tử luân hồi. “Nếu con đă hoàn toàn quên mất bản ngă th́ con
không thể nào nghĩ tới lúc bản ngă đó tự do hoặc nó sẽ có được loại thiên
đường nào”. Tôi nghĩ rằng trong đoạn này Chơn sư có lẽ đang đề cập tới sự
thật là ứng viên Điểm đạo hiến ḿnh để phụng sự thế gian và do đó không c̣n
mong muốn thiên đường cho riêng ḿnh hoặc cá nhân ḿnh thoát ṿng sinh tử
luân hồi. Điều này không có nghĩa là đối với nhiều người th́ những ham muốn
đó không hoàn toàn thỏa đáng. Chúng chỉ không thỏa đáng cho những kẻ nào
trong chúng ta muốn dọn ḿnh để phụng sự Chơn sư, v́ phụng sự Chơn sư có
nghĩa là phụng sự thế gian và quên đi bản ngă riêng biệt.
Việc phụng sự đó khó đến
mức nào được minh giải khi Chơn sư dạy rằng “mọi ham muốn ích kỷ đều ràng
buộc cho dù đối tượng của nó có thể cao siêu đến đâu đi chăng nữa, và chừng
nào con chưa dứt bỏ được nó th́ con chưa hoàn toàn tự do để hiến ḿnh cho
công việc của Chơn sư”. Có rất ít đệ tử sẵn sàng hiến ḿnh cho công việc của
Chơn sư ! Khi ngơ lời với tư cách một trong những kẻ tầm thường nhất, tôi
nhận thấy những ham muốn ích kỷ của chính tôi ràng buộc đáng kể đến đâu, và
can thiệp vào những bổn phận mà tôi có nghĩa vụ phụng sự các Đạo sư. Nhưng
t́nh trạng của chính tôi có lẽ cũng an ủi được những người khác ở chỗ họ có
thể nhận ra rằng không thể trông mong chúng ta dứt bỏ được mọi ham muốn ích
kỷ trước khi chúng ta hi vọng trở thành đệ tử của một trong các bậc đại Đạo
sư. Nhưng ít ra th́ cũng hi vọng là chúng ta biến các công việc của các Ngài
thành ra hoạt động chủ yếu trong cuộc đời của chúng ta và lúc nào cũng sẵn
ḷng hi sinh quyền lợi cá nhân cho những nhu cầu của thế gian mà chúng ta
phấn đấu sống trong đó. Cho dù điều này ra sao đi nữa th́ ham muốn ích kỷ
vẫn ràng buộc, do đó chỉ có một ít người có thể tự coi ḿnh xứng danh là kẻ
phụng sự Chơn sư. Thật vậy, ham muốn là dạng hăo huyền tinh vi nhất, và Chơn
sư chỉ cho chúng ta thấy có biết bao nhiêu ham muốn tinh vi mà có lẽ chúng
ta có khuynh hướng gọi là hoàn toàn tự nhiên.
MUỐN CÓ ĐƯỢC KẾT QUẢ CỦA HÀNH ĐỘNG
“Chắc chắn là không có
hại khi muốn thấy kết quả của công việc hoặc để xem thử chúng ta giúp được
người khác bao nhiêu ?” Tôi hoàn toàn đồng ư rằng đối với hầu hết chúng ta
th́ những ham muốn đó là tự nhiên, tất yếu và có lẽ là hữu ích v́ chúng có
thể khiến chúng ta làm việc và giúp đỡ những người khác. Một đằng Chơn sư
bảo chúng ta rằng những ham muốn như thế hàm ư thiếu tin cậy. “Khi con tuôn
đổ sức mạnh để giúp đỡ ắt có một kết quả cho dù con có thấy hay không; nếu
con hiểu thiên luật th́ con ắt biết rằng phải như thế”. Về phần ḿnh, tốt
hơn tôi nên thú nhận ngay rằng tôi thường muốn thấy kết quả công việc của
ḿnh để xem tôi giúp đỡ người khác được đến đâu. Tôi nghĩ ḿnh có thể đi xa
đến mức từ bỏ bất cứ ham muốn được người nào khác biết ơn, mặc dù được biết
ơn chắc chắn là một kinh nghiệm thú vị nhất. Chúng tôi hoàn toàn hiểu ra
được rơ rệt cần phải có ḷng vô dục xiết bao đối với kết quả công việc và
đối với mức độ hữu ích mà một cá nhân nhận được liên quan tới số lượng được
ban ra. V́ vậy tôi dần dần cố gắng làm việc hướng về mục đích đó, làm điều
đúng v́ ích lợi của điều đúng chứ không phải là hi vọng được tưởng thưởng,
không phải v́ hi vọng muốn thấy kết quả. Chơn sư nêu rơ đây là vấn đề t́nh
thương. Cường độ và sự tinh khiết của t́nh thương xác định mức độ vô dục.
Nếu chúng ta yêu thương một người nào th́ chúng ta ban cho y điều tốt nhất
của ḿnh cho dù kết quả có thể ra sao đi chăng nữa; nếu chúng ta thích công
việc của ḿnh th́ chúng ta dồn hết tâm hồn vào đó và không có thời giờ để
nghĩ tới kết quả được hoàn thành, chúng ta cứ để mặc cho kết quả tự an bài
lấy v́ quả thật chúng ta có lư do chính đáng khi làm việc đó. T́nh thương là
yếu tố vĩ đại tẩy trược được ham muốn và trong khi quả thật nhiều người có
khuynh hướng nhầm lẫn sự đam mê với t́nh thương; t́nh thương chân chính lại
hoàn toàn xả thân và rút ra được niềm vui trọn vẹn nhất chỉ từ quá tŕnh cho
ra thôi. Chơn sư có dạy: “Con phải hiến ḿnh phụng sự thế gian v́ con yêu
thương thế gian và không thể không hiến ḿnh cho thế gian”.
PHỤNG SỰ LÀ MỘT TIÊU CHUẨN
Chơn sư tiếp tục giải
thích cho chúng ta biết rằng thật là rất không minh triết khi chúng ta muốn
thêm những quyền năng tới chừng nào chúng ta chưa kiểm soát thỏa đáng được
những quyền năng mà chúng ta đă có rồi. Ngài dạy rằng quyền năng sẽ có khi
Ngài biết lúc nào tốt nhất cho chúng ta có quyền năng. Hầu hết chúng ta vốn
thật sự tha thiết chẳng bao lâu ắt phát hiện được rằng chúng ta có đủ mức mà
chúng ta cần thiết, thật ra c̣n nhiều hơn mức chúng ta có thể sử dụng một
cách minh triết và điều độ những quyền năng mà chúng ta đă có rồi, nghĩa là
những quyền năng kẻ phàm phu nào cũng có. Chúng ta ắt cũng thấy rằng ḿnh
c̣n lâu mới học được cách sử dụng lực lượng thuộc quyền kiểm soát của ḿnh
rồi, và chúng ta quả thật phải mất một thời gian rất dài mới chắc chắn về
bản thân được. Tôi luôn luôn lấy làm lạ về ḷng kiêu căng của những kẻ muốn
có thần thông, nói cách khác là những quyền năng vượt ngoài tầm mà b́nh
thường chúng ta có được. Thần thông thuộc về một thế giới khác với cơi hồng
trần, và tôi thấy dường như không đáng mong muốn khi chúng ta muốn thêm
những kinh nghiệm thuộc một thế giới khác chừng nào mà chúng ta c̣n chưa
hoàn toàn chắc chắn về thái độ của chúng ta đối với những kinh nghiệm cơi
trần cung cấp cho chúng ta được. Một số người có được vài loại thần thông.
Có lẽ họ thấy được các tinh linh ngũ hành, thấy được hào quang hoặc có thể
đọc được tư tưởng và xúc cảm của người khác. Nhưng sự kiện họ có thể thấy
được những điều này không có nghĩa là
v́ vậy họ có thể rút ra được sự phán đoán chính xác từ việc nh́n thấy
đó. Chúng ta cũng biết khi ở trạng thái ư thức tỉnh táo trên cơi trần thật
khó xiết bao khi muốn rút ra những kết luận đúng đắn từ mọi điều mà chúng ta
nh́n thấy xung quanh ḿnh. Điều này thậm chí c̣n khó hơn nữa khi ư thức tỉnh
táo của ta được chuyển dời lên cơi trung giới, và tiếp xúc với những kinh
nghiệm thích hợp ở cơi ấy. Hiểu được thế giới mà chúng ta sống trong đó
nhiều giờ trong một ngày đă là khó lắm rồi, và về phần ḿnh tôi nghĩ rằng
nên hạn chế sự chú ư của chúng ta vào thế giới đó cho đến khi các bậc minh
triết hơn chúng ta thấy cần áp đặt một gánh nặng lớn hơn lên óc phán đoán
của chúng ta so với mức nó đă có được từ trước đến nay. Nếu tôi thấy được
màu sắc nào đó trong hào quang của một người th́ làm sao tôi có thể thật sự
biết chắc rằng màu đó có nghĩa là ǵ đối với cá thể đặc biệt đó ? Và cho dẫu
tôi biết chắc th́ điều đó có nghĩa là ǵ nếu cá thể đó (y có lẽ không phải
là nhà thần nhăn như chính tôi) phán đoán mức độ không thể sai lầm của tôi ?
Trong Hội Thông Thiên Học chúng ta có nhiều người tự xưng là thấy được điều
này, kinh nghiệm được điều kia, nghe được những thông điệp v. v. . . Cá nhân
tôi nếu có phán xét th́ tôi phán xét người ta theo những hành động mà tôi
thấy và theo mức độ xả thân dường như chiếm ưu thế trong cuộc đời họ. Tuy
nhiên, tiếc thay trong hàng ngũ chúng ta có những người muốn liên tục tiếp
xúc với thế giới huyền bí và sẵn ḷng tin hầu như mù quáng vào bất cứ điều
ǵ không b́nh thường. Chơn sư dạy chúng ta rằng chúng ta thuộc về thế giới
của Ngài tùy theo mức chúng ta khiến cho việc phụng sự đồng loại trở thành
một bộ phận càng ngày càng gia tăng trong cuộc đời chúng ta. Đó là tiêu
chuẩn và những kẻ nào sống cuộc đời liên tục xả thân đều có quyền được tôn
trọng về những phát biểu liên quan tới những t́nh huống mà kẻ phàm phu không
có phương tiện xét đoán. Sự thật về vấn đề này là một cá nhân càng thật sự
có thần thông th́ y càng ít nói về thần thông và càng ít áp đặt thần thông
lên người khác. Y dùng thần thông để giúp đỡ nhưng đồng thời nhận ra được
rằng thật không minh triết khi yêu cầu người khác tin vào điều mà cho đến
nay họ chưa có kinh nghiệm. Chơn sư có nhận xét rằng: “Trong bất kỳ trường
hợp nào th́ thời giờ và sức lực dùng để đạt được thần thông nên dùng để làm
việc cho người khác”. Trong quá tŕnh phát triển th́ thần thông chắc chắn sẽ
có và những kẻ nào thật sự tin vào Chơn sư đều không bận tâm về nó cho đến
khi Ngài ra lệnh và chỉ dẫn cách
phát triển thần thông hoặc khi thần thông tự nhiên mà có không cần cố
gắng. Nếu như người ta nhớ được điều đó th́ chúng ta sẽ dành hết mọi thời
giờ dùng những quyền năng mà chúng ta sẵn có để phụng sự cho môi trường xung
quanh.
CHƯƠNG XIII
VÔ DỤC
(hết)
Thế rồi Chơn sư nhấn
mạnh tới một vài ham muốn rất thông thường mà ứng viên Điểm đạo hoặc ứng
viên đệ tử phải cố gắng tránh. Nhiều người trong chúng ta rất khoái chí khi
tỏ ra là khôn khéo hoặc nổi bật trong khi nói chuyện. Nhưng trong thế giới
của Chơn sư th́ người ta chẳng nói ra điều ǵ nếu nó không đúng thật, tử tế
và hữu ích. Tôi cố t́nh nói “trong thế giới của Chơn sư” v́ tôi e rằng huấn
lệnh này chỉ có thể được thực thi thành công bởi những bậc hoặc là ở mức
Thánh sư hoặc là đang gần tới mức Thánh sư. Tuy nhiên chúng ta phải dần dần
phấn đấu hướng về lư tưởng này và có lẽ đến một lúc nào đó ta phải đạt được
một trong những điều kiện ấy. Chẳng hạn như trong một thời kỳ nào đó chúng
ta có thể quyết tâm hoàn toàn trung thực thế rồi từng bước thêm điều kiện tử
tế và hữu ích vào điều kiện chân thực đó. Đây là vấn đề thực nghiệm và phát
triển dần dần. Câu châm ngôn hữu ích “Hăy suy nghĩ hai lần trước khi nói”
th́ đối với bạn và tôi có thể mở rộng ra thành “Hăy suy nghĩ bảy lần trước
khi nói”. Những người mà tôi khuyên như thế thường bảo tôi rằng bất cứ ai
nghe theo huấn lệnh này ắt khó ḷng nói được điều ǵ, hoặc vào lúc y nghĩ
được bảy lần th́ cơ hội cần thiết để đưa ra nhận xét đă trôi qua rồi ! Rất
có thể là như thế và cũng bơ công khi ta nhớ rằng hầu hết những tṛ chuyện
của ta đều vừa vô bổ vừa không có ích lợi, và có nhiều nhận xét mà nếu suy
đi gẫm lại th́ chúng ta lại mong ước rằng ḿnh không nói như thế. Giáo huấn
là như sau: chúng ta nên đắn đo chứ không được bốc đồng; chúng ta nên nhận
ra rằng sự thật vốn giúp ích nhiều hơn mức chỉ là sự hào nhoáng bên ngoài và
như Chơn sư có nêu rơ, chúng ta phải làm quen với việc suy nghĩ cẩn thận
trước khi nói v́ khi chúng ta tăng trưởng th́ những sự thật được ban cho
chúng ta không nhất thiết là có ích lợi khi thốt ra cho thế giới bên ngoài.
Chúng ta muốn hữu dụng hơn bao giờ hết chứ không phải chỉ tỏ ra là có học
thức.
BỔN PHẬN KHÔNG CAN THIỆP
Chơn sư dạy “Có một ham
muốn thông thường nữa mà con phải nghiêm khắc kềm chế, đó là ham muốn xen
vào việc của người khác”. Ta hăy lưu ư cách dùng từ của Chơn sư, từ “nghiêm
khắc” biểu thị đây là một ham muốn mà tất cả chúng ta thường dễ mắc phải.
Tôi giả sử rằng việc chiều theo ham muốn này ắt gây nhiều tai hại hơn mức
người ta nhận thức được, chẳng những chúng ta xen vào trách nhiệm của người
khác mà c̣n v́ chúng ta tưởng tượng là mọi người khác phải xem xét sự việc
theo quan điểm giống như chính ta xem xét. Tất cả chúng ta đều tiến hóa ở
nhiều mức khác nhau: mọi người có những bổn phận khác nhau, nhân sinh quan
khác nhau, đường lối hoạt động khác nhau và cần góp phần thực thi các bộ
phận khác nhau của thiên cơ. Do đó chúng ta không bao giờ được quên rằng mỗi
cá thể đều thể hiện số phận của ḿnh theo cách của riêng ḿnh, và trong khi
không có lư do ǵ chúng ta không giúp y nếu không được yêu cầu giúp đỡ hoặc
nếu chúng ta cảm thấy ḿnh giúp cho y là có ích, th́ chúng ta không bao giờ
được quên rằng chúng ta không thể xem xét sự vật theo quan điểm của y và
chúng ta cũng chẳng thể tưởng tượng được trong một số hoàn cảnh th́ “thiên
chức” của y ắt phải là ǵ. Cố nhiên có những hoàn cảnh mà chúng ta phải tiến
một bước, phải chọn theo một đường lối hành động nào đó, những bước tiến và
đường lối hành động đó có thể đối nghịch với những quan niệm và nguyên tắc
của một số thành viên trong đoàn thể vốn phải quyết định. Chẳng hạn như
trong cuộc Chiến tranh hiện nay, có những người tin rằng không bao giờ nên
khởi phát chiến tranh thế nhưng hoàn toàn có thể tưởng tượng rằng không thể
tránh được chiến tranh và trong một chừng mực nào đó phải lờ đi những kẻ tin
rằng không bao giờ nên phát khởi chiến tranh. Đôi khi ư chí của đa số phải
chiếm ưu thế, đôi khi ư chí của thiểu số phải thắng thế. Dù sao đi nữa th́
không được suy ra rằng mọi người lúc nào cũng phải được thỏa măn.
Nhưng đây là điều khác
hẳn việc xét đoán những người khác hoặc cố gắng xen vào điều mà xét cho cùng
là việc riêng của họ. Chơn sư có dạy “mọi người đều có toàn quyền tự do tư
tưởng, tự do ngôn luận và tự do hành động”. Nhưng dĩ nhiên y không được xen
vào tự do của người khác trừ phi trong những hoàn cảnh rất bất thường. Hiện
nay chúng ta thường nghe nói việc tự do như thế bị can thiệp và có đủ thứ áp
bức đè bẹp những kẻ không suy nghĩ theo đa số. Đây là điều rất khó v́ trong
những lúc khó khăn như hiện nay th́ tôi có thể quan niệm được có khi cũng
phải hi sinh tự do cá nhân v́ lợi ích của tự do toàn thể. Tôi không muốn
nhấn mạnh tới khía cạnh này của t́nh huống v́ tôi phải vận dụng một chuỗi
lập luận dài ḍng vượt ngoài đề tài đặc biệt mà quyển
Dưới Chơn Thầy đề cập tới. Chỉ
cần nói rằng có nhiều lắc léo trong việc chúng ta định nghĩa từ ngữ “tự do”,
và trước khi bạn tự giả định rằng Chơn sư cấm mọi sự hạn chế th́ bạn hăy thử
nghĩ xem vấn đề là tự do thật sự có nghĩa ra sao và cố gắng làm khớp định
nghĩa của bạn với sự thật là tự do hoàn toàn có nghĩa là phụng sự hoàn hảo.
Điều mà tôi tưởng tượng Chơn sư nhấn mạnh ở đoạn đặc biệt này đó là: Chúng
ta không được tưởng tượng rằng điều đúng với ḿnh th́ tất yếu sẽ đúng với
mọi người khác hoặc nên đúng với mọi người khác ! Nói cách khác, chúng ta
phải càng ngày càng khoan dung hơn. Bạn đ̣i được tự do làm điều mà bạn nghĩ
là đúng. Những người khác cũng phải có tự do như thế và có quyền được tôn
trọng đánh giá cao giống như vậy v́ họ có mục đích chân thành giống như bạn
ắt không ngần ngại rêu rao là ḿnh như vậy. Những nhận xét này cố nhiên đặc
biệt áp dụng cho những sự khác nhau bề ngoài mà thiên hạ rất thường nghĩ là
cực kỳ quan trọng. Màu da của một người, tôn giáo, phong tục của y ! Mọi thứ
đó ảnh hưởng xiết bao tới phán đoán của nhiều người. Một số chúng ta tin
rằng chỉ tôn giáo của chúng ta là đúng thôi, chỉ phong tục của chúng ta là
thuần phong mỹ tục thôi, chỉ màu da của chúng ta là tiêu biểu cho giai đoạn
tiến hóa cao nhất đạt được hiện nay thôi. Theo bản năng, chúng ta đánh giá
thấp những người không noi theo những tiêu chuẩn mà ta tưởng tượng rằng
chính ḿnh noi theo: “y không thuộc giai cấp chúng ta, y thuộc về giai cấp
hạ lưu; y không ăn như chúng ta ăn, không mặc như chúng ta mặc” – chắc chắn
những điều này có thể là sự thật nhưng chúng đâu có hàm ư là giai cấp hạ
lưu. Chính v́ lư do này mà kèm theo lời tuyên bố về T́nh Huynh Đệ Đại Đồng,
Hội Thông Thiên Học c̣n khăng khăng nhấn mạnh tới sự qui nhất của mọi tôn
giáo lớn và tuyên bố rằng sự khác nhau về giới tính và màu da không ảnh
hưởng tới sự qui nhất bản thể của loài người.
CON NGƯỜI LÀM CHỦ SỐ PHẬN CỦA M̀NH
Những người cứ chăm chăm
soi bói những chuyện của người khác th́ thường lại không mấy chắc chắn về
chuyện của chính ḿnh, và họ tha thiết muốn người khác tuân theo tiêu chuẩn
của chính ḿnh để cho những tiêu chuẩn đó qui tập được sức mạnh của đa số.
Mặt khác, đằng sau tiêu chuẩn sống của ta phải là sức mạnh của niềm xác tín
thuần khiết. Sức mạnh không ở nơi số đông mà ở nơi niềm tin chân thành.
Thiên hạ đôi khi tin rằng luật pháp cuối cùng phải dựa vào sức mạnh, nhưng
thật ra luật pháp dựa vào sự tán thành, v́ ta không thể áp đặt một luật lệ
lên một cá nhân không tự nguyện tuân thủ luật lệ đó. Ta có thể giết chết thể
xác nhưng ta không thể giết chết tinh thần, và đây chính là điều mà nhiều
chính quyền phải trả giá rất cao trước khi phát hiện được. Người La mă giết
chết thể xác của các Thánh tử v́ đạo Ki Tô giáo, nhưng tinh thần các Thánh
tử v́ đạo Ki Tô giáo đă xây dựng nên Hội thánh vốn trường tồn rất lâu sau
khi Đế quốc La mă không c̣n tồn tại nữa.
Bạn ắt nhận thấy rằng
Chơn sư rất cẩn thận nhận định không có hại ǵ khi gợi ư cho một cá nhân là
y đang làm điều sai trái nếu bạn cảm thấy rằng nói với y như vậy là có ích.
Chẳng hạn như cha mẹ thường có bổn phận bảo cho con trẻ biết rằng ḿnh nghĩ
con trẻ là sai lầm, và đôi khi họ phải ngăn cản lũ con trẻ không làm điều mà
họ nghĩ rằng là sai trái hoặc không khôn ngoan. Chẳng bao giờ có hại ǵ khi
hiến dâng sự hiểu biết của ḿnh cho người khác sử dụng, nhưng bạn không được
tưởng tượng rằng bạn có thể cưỡng chế họ tin điều mà bạn đă lỡ biết và tin.
Kinh nghiệm phải luôn luôn xuất phát từ bên trong và trong khi thiên hạ đôi
khi có thể hành động theo lời khuyên của bạn cho dẫu họ không nhất thiết
hiểu được điều đó, th́ nghiệp tốt duy nhất mà họ có được là ở nơi hành động
chứ không ở nơi động cơ thúc đẩy (thân nghiệp chứ không phải ư nghiệp) v́
động cơ thúc đẩy là của bạn. Họ có được nghiệp tốt là biết vâng lời c̣n
nghiệp tốt của bạn là hiểu biết, và nghiệp hiểu biết c̣n tốt hơn nghiệp vâng
lời.
Thiên hạ thường rất nôn
nóng muốn sống cạnh một trong các bậc đại đạo sư, có lẽ để khỏi chịu trách
nhiệm và đỡ mất công vận dụng sự phán đoán của riêng ḿnh, như vậy làm sao
học hỏi được do sai lầm. Họ không hiểu được rằng trong t́nh huống đó họ chỉ
ké vào sự phán đoán của Chơn sư thay v́ phấn đấu để phát triển sự phán đoán
của chính ḿnh. Thỉnh thoảng th́ Chơn sư có thể kích thích nhưng con người
thật ra phải làm chủ số phận của ḿnh và phải tự ḿnh triển khai nó. Những
người hữu dụng nhất trên thế gian đều tự ḿnh trải qua nhiều kinh nghiệm, họ
phải xông pha chiến trận, chịu những số phận nhục nhă th́ do gan ĺ như thế
mới có được sức mạnh giúp họ có thể vận dụng chẳng những cho bản thân mà c̣n
phục vụ cho người khác được nữa. Khi nhờ vào kinh nghiệm, sự phán đoán và
phân biện của ta đă trở nên sắc sảo và mạnh mẽ th́ lúc đó sự hiện diện thực
tế của Chơn sư mới có ích lợi thật lớn lao. Trong khi chờ đợi, trong lúc
Ngài đang giám sát chúng ta như một người cha mẹ th́ Ngài để mặc cho chúng
ta chăm chú vào việc của riêng ḿnh để học được bản chất đích thực của tự do
chân chính.
NGỒI LÊ ĐÔI MÁCH
Tôi muốn nhấn mạnh tới
lời cảnh báo của Chơn sư là chúng ta không nên lê la nói xấu với một người
thứ ba về một người khác, dĩ nhiên trừ khi ta có lư do đặc biệt nào đó hữu
ích để làm như thế. Nhưng nhiều người mất thời giờ soi bói chuyện người
khác, lấy làm hả hê với chuyện ngồi lê đôi mách v́ nó có tác dụng kích thích
thể vía hoặc thể trí. Nhưng Chơn sư dạy rằng làm như thế “độc ác lắm”. Điều
này độc ác v́ nó tạo ra những h́nh tư tưởng có khuynh hướng đeo bám lấy
khuyết điểm của cá nhân khiến cho nạn nhân khó ḷng khắc phục được nhược
điểm của ḿnh. Chúng ta cứa vào vết thương và kết quả là phải mất nhiều thời
gian vết thương mới lành được. Ta rất khó ḷng nhớ được lời khuyên này v́
ngồi lê đôi mách là một khuyết điểm rất thông dụng và nhiều người chẳng biết
nói chuyện ǵ nếu họ ngưng ngồi lê đôi mách. Tuy nhiên chúng ta liên tục
được dạy bảo rằng lời nói chúng ta phải hữu ích và ngồi lê đôi mách rơ ràng
là rất có hại.
NH̀N NHẬN CHƠN NGĂ
Tôi có thể hoàn toàn
tưởng tượng được những người bảo rằng họ không thích bất cứ ai bảo liệu họ
có làm sai hay chăng, không phải v́ họ không ưa được dạy bảo như thế mà có
lẽ v́ họ sợ cái kiểu nói chuyện đó. Quả thật là một số người rất thích thú
khi vạch ra được những lầm lẫn và yếu kém của người khác và khi vạch ra như
vậy họ tương đối có vẻ độc ác. Họ vạch ra một cách sỗ sàng và thiếu thiện
cảm. Điều đó không khiến cho người ta cảm thấy muốn cố gắng sửa sai. Mọi
chuyện đều tùy thuộc vào cách mà bạn làm một điều ǵ đó. Có một số người có
khả năng không bao giờ gây xúc phạm cho dù họ nói điều ǵ đi chăng nữa. Có
những người khác khó ḷng mở miệng ra mà không gây rắc rối cho người ta. Tất
cả c̣n tùy thuộc vào đằng sau hành động đó, lời nói đó, tư tưởng đó, xúc cảm
đó là điều ǵ. Bất cứ người nào thật sự muốn giúp đỡ và tha thiết có thiện
cảm với người khác đều luôn luôn có thể an toàn vạch ra cho bạn ḿnh bất kỳ
khuyết điểm nào mà ḿnh nghĩ rằng bạn có, v́ cách thức vạch ra đó ắt cho
những cá thể đó thấy rằng ḿnh quả thật có thiện cảm huynh đệ với họ và ḿnh
không tỏ vẻ trịch thượng khi tỏ ra biết được những khiếm khuyết của y. Tuy
nhiên, nói chung chúng ta nên nhận ra được rằng chỉ có chúng ta mới củng cố
được những nhược điểm của chính chúng ta thôi và chúng ta càng chú trọng tới
những đức tính của người khác th́ chúng ta càng giúp cho họ tăng trưởng. Về
vấn đề này, tôi muốn nêu ra giá trị của một quyển sách Jerome K. Jerome viết
ra với tựa đề Đưa những người ở Lầu
Ba quay bước trở lại. Trong quyển sách này, một trong những nhân vật
chính là một người xa lạ liên tục nhấn mạnh tới những đức tính tiềm tàng nơi
người ta. Y đi tới một nhà trọ trong đó có nhiều người rất phàm phu tục tử
và nhờ đồng nhất hóa ḿnh với bản chất cao cả của họ, y khiến cho họ tự động
bỏ đi những điều điên rồ khiến cho cuộc đời của họ thiếu hữu hiệu như thế.
Cho đến lúc đó họ đều nh́n nhau một cách khinh bỉ và chỉ trích lẫn nhau, kết
quả là mỗi người đâm ra củng cố thêm những sự dung tục của ḿnh và thấy ḿnh
ghẻ lạnh với đồng loại. Sự xuất hiện của người xa lạ đă làm thay đổi mọi thứ
và khi y bước vào trong pḥng th́ bản chất thấp hèn của mọi người đều lui
vào hậu trường và bản chất cao thượng ló mặt ra đắc thắng. Nếu muốn, bạn có
thể bảo rằng y đă lư tưởng hóa được thiên hạ. Thật vậy, người ta thường tố
cáo là bà Besant dễ bị thiên hạ lừa gạt v́ bà tin cậy thiên hạ và v́ bà lư
tưởng hóa thiên hạ, người ta ắt bảo “v́ bà không biết bộ mặt thật thiên hạ”.
Thật ra th́ chính v́ bà biết bản lai diện mục của thiên hạ cho nên bà mới lư
tưởng hóa thiên hạ. Điều mà ta thấy nơi thiên hạ chỉ là một giai đoạn tạm
thời; c̣n điều mà bà thấy nơi thiên hạ mới là thực tại vĩnh hằng, và bà tin
là tin vào cái thực tại đó thôi. Thực tại ắt cám ơn sự tin cậy đó, tuy nhiên
nhiều thứ trong bản chất thấp hèn tạm thời có thể dường như không xứng đáng
với sự tin cậy đó, và kết quả là cá nhân mà bà Besant tin cậy hoặc lư tưởng
hóa vô cùng tốt hơn nhờ vào sự tin cậy và lư tưởng hóa đó. Đôi khi bản chất
thấp hèn của người ta có thể lợi dụng bà, nhưng chơn ngă đă được tôn trọng
và thừa nhận cho nên kết quả là nó có thêm sức mạnh để chế ngự được các hạ
thể. Tôi tin rằng thái độ này là thái độ mà tất cả chúng ta nên càng ngày
càng phấn đấu để chọn theo. Việc thử thách tính linh nơi một cá nhân là việc
y có năng lực xuyên suốt h́nh tướng bên ngoài để nhập vào thực tại bên
trong, bỏ qua v́ là phù du điều mà nhiều người trong chúng ta có thể coi là
bản thể và kết hợp với thực tại mà hầu hết chúng ta có thể không thấy được.
Mỗi người trong chúng ta đều có các khiếm khuyết và nhiều người bạn của
chúng ta chỉ dừng lại ngay những khiếm khuyết đó, nhưng nhà lănh đạo rút ra
chơn ngă của cá nhân đó và hiệu triệu nó chế ngự được những điều vô minh,
dần dần làm giảm bớt quyền năng gây chướng ngại của những điều vô minh đó.
Nhà lănh đạo là người đă gây cảm ứng được một ư thức năng lực, sự sống, năng
lượng, khả năng vượt qua chướng ngại và khắc phục các khó khăn. Nhà lănh đạo
có thể làm được điều này bằng cách khơi dậy Thượng Đế nội tâm và khả năng
khơi dậy Thượng Đế nội tâm đó được xác định qua mức độ mà bản chất nội tâm
của chính y đă trở nên mạnh mẽ khi trải qua kinh nghiệm.
BỔN PHẬN CAN THIỆP
Chơn sư có nêu rơ rằng
bổn phận của chúng ta là phải can thiệp trong những trường hợp độc ác. Trong
những trường hợp như thế, vấn đề không phải là “chỉ quan tâm tới việc của
riêng ḿnh” mà phải bảo vệ kẻ yếu, chống lại sự vô minh của kẻ mạnh. Do đó
dĩ nhiên là có một vài điều vô minh mà ta không thể dung thứ được. Nếu chúng
ta thấy một trường hợp độc ác với một con thú hoặc một đứa trẻ, th́ bổn phận
của chúng ta là phải can thiệp nhưng không phải do thú tính hoặc sự đam mê.
Đôi khi chúng ta trở nên giận dữ trước những điều sai trái dành cho những
người khác và sự giận dữ như thế là một giai đoạn cần thiết, nhưng quyền
năng và sức mạnh của sự giận dữ có thể được dùng một cách tốt hơn bằng những
phương thức khác. Về lâu về dài th́ sự giận dữ chẳng bao giờ có ích lợi thật
sự; thiên hạ dễ bị chế ngự bởi ḷng b́nh tĩnh hơn là bởi cơn băo ḷng.
Ta cũng được dạy bảo
rằng, nếu chúng ta thấy có một ai đó vi phạm pháp luật của xứ sở th́ chúng
ta phải báo cho nhà cầm quyền. Đây là một trong những câu mà
độc giả của quyển sách nhỏ này ít thông cảm nhất. Họ không hiểu rằng
bổn phận đầu tiên của chúng ta là phải tỉnh táo chống lại những luật lệ mà
chúng ta coi là sai trái và càng tích cực đấu tranh với những luật lệ tồi tệ
th́ càng tốt. Chừng nào mà chúng ta c̣n mặc nhận luật lệ th́ chúng ta c̣n
phải chấp nhận nó là một bộ phận của guồng máy để xác lập sự b́nh an ở khắp
đất nước. Do đó trong những hoàn cảnh ấy, những kẻ phạm pháp là những kẻ phá
rối an b́nh và với vai tṛ là công dân tốt th́ ta chỉ việc hiểu rằng sự an
b́nh đó càng ít bị xáo trộn th́ càng tốt. Người ta thường phản đối kịch liệt
một luật lệ mà không chịu mất công hoặc là vận động để băi bỏ nó hoặc là cố
t́nh tuân theo những điều khoản của nó ngơ hầu chứng tỏ sự bất công của nó.
Bổn phận đầu tiên của chúng ta là phải góp phần khiến cho luật lệ của xứ sở
càng công chính bao nhiêu th́ càng tốt bấy nhiêu. Nếu chúng ta làm như thế
th́ chúng ta phải hiểu ra rằng ḿnh không được phạm pháp. Khó khăn ở đây là
thiên hạ ít chú ư tới luật lệ của xứ sở mà chỉ quan tâm tới luật lệ đó khi
bản thân bị mâu thuẫn mạnh mẽ với luật lệ. Bạn ắt lưu ư trong quyển
Tự Truyện của bà Besant làm thế
nào mà bà luôn luôn để mắt tới khi bà bắt gặp một điều sai trái để cho ta có
thể áp dụng được luật lệ; v́ bà biết rằng sự tồn tại của luật lệ trong xứ sở
là điều duy nhất bảo đàm cho tự do cá nhân, và trong khi bà nghĩ rằng đôi
khi bà có bổn phận đấu tranh với luật lệ th́ bà sẽ đấu tranh một cách công
khai và sẵn ḷng chịu chấp nhận thẩm quyền của nó. Thật vậy, bà luôn luôn đi
lệch ra khỏi đường lối của ḿnh nhằm giúp cho nhà cầm quyền nhận biết được
hành động của ḿnh sao cho trong khi bà có thể phạm pháp th́ bà lại thật sự
không gây ra sự mất b́nh an.
Đôi khi thiên hạ bảo tôi
rằng họ không muốn phản bội những cá nhân đào tị luật lệ và tin cậy vào
ḿnh. Tôi không tin rằng một thái độ như thế tất nhiên là ḷng trung thành
chân chính hoặc là đối với cá nhân hoặc là đối với nhà nước. Nếu cá nhân vi
phạm pháp luật của xứ sở th́ sự vi phạm của y cần phải làm cho y sáng mắt ra
để cho y rút kinh nghiệm. Nếu luật lệ của xứ sở là không công bằng th́ ta ắt
phải bận rộn phấn đấu yêu cầu thay thế những luật lệ đó bằng những pháp luật
tốt hơn. Điều này có nghĩa là thiên hạ không vận dụng quyền công dân của
ḿnh một cách tha thiết đúng mức, không mất công đúng mức về những bổn phận
công dân của ḿnh, không thực hiện trách nhiệm cá nhân của ḿnh đối với luật
lệ xứ sở. Những kẻ nào không có trách nhiệm đối với luật lệ của xứ sở và
không thể ảnh hưởng tới nó theo bất cứ cách nào th́ thật ra đang ở một vị
thế khó khăn; nhưng hầu hết chúng ta đều có một trách nhiệm như thế và khi
có trách nhiệm th́ chúng ta phải tuân theo luật pháp trong khi đó vẫn c̣n là
luật pháp, và nếu chúng ta nghĩ là thỏa đáng th́ chúng ta nên t́m cách sửa
đổi những phần luật lệ nào mà đối với chúng ta dường như có thể là bất công.
Dĩ nhiên điều này có nghĩa là chẳng những chúng ta phải chú ư tới luật lệ mà
c̣n phải quan tâm tới nhà cầm quyền nữa. Thường xảy ra chuyện nhà cầm quyền
là những người nam hoặc nữ chẳng biết cầm quyền ǵ hết, chẳng biết cách vận
dụng quyền lực của ḿnh một cách khôn ngoan; trong trường hợp đó, khi báo
cho nhà cầm quyền, chúng ta có thể đặt cá nhân vào tay của những kẻ mà ư
thức quyền lực đè bẹp ư thức công bằng của ḿnh. V́ vậy ta phải cẩn thận để
xem chúng ta chỉ đưa qua nhà cầm quyền nếu thấy họ đáng tin cậy. Tôi hoàn
toàn đồng ư rằng điều này phải mất thời gian nhưng chúng ta phải nỗ lực
không ngừng để cải thiện t́nh h́nh của xă hội và v́ chúng ta không coi những
bổn phận này nghiêm chỉnh một cách thỏa đáng cho nên chúng ta mới thấy ḿnh
gặp khó khăn khi phải chọn lựa giữa bổn phận đối với xứ sở mà chúng ta ở
trong đó và ư thức công bằng đối với cá nhân yêu cầu sự che chở của chúng
ta. Xứ sở phải có thể che chở một cách công bằng như chính chúng ta, và nếu
xứ sở không làm được như vậy th́ chúng ta phải giúp cho tổ quốc làm được như
thế. Ta cũng nên nhớ rằng phúc lợi của nhiều người có tầm quan trọng lớn lao
hơn nhu cầu của một người, và chúng ta không được để cho thiện cảm cá nhân
của ḿnh đối với cá thể đó hoàn toàn lấn lướt được t́nh huống trực chỉ tới
sự an b́nh của xứ sở xét chung.
LUÂN LƯ VỀ NÓI DỐI
Về vấn đề này, thường
nảy ra thắc mắc là việc nói dối để bảo vệ người khác có đúng hay chăng.
Trong những buổi họp, đôi khi người ta có hỏi tôi liệu tôi muốn bảo vệ một
kẻ muốn tị nạn có được công bằng th́ tôi có sẵn ḷng vạch ra cho nguyên cáo
thấy rằng y đă đi theo một đường lối khác với đường lối thật sự nên theo.
Tôi xin trả lời rằng mọi chuyện c̣n tùy thuộc vào hoàn cảnh, vào bản chất
của điều sai trái mà người ta phạm phải, vào đủ thứ điều mà tôi vừa ám chỉ.
Mặt khác, nếu tôi tự nguyện nói dối và chấp nhận nghiệp báo v́ làm như thế
th́ đó là chuyện riêng của tôi chứ đâu phải là chuyện của ai khác. Cố nhiên
hoàn toàn rơ ràng là người ta không nên nói dối, nhưng cá nhân tôi có thể
quan niệm được những trường hợp phát sinh trong đó thay v́ nói sự thật th́
tôi sẽ nói dối và cam chịu nghiệp báo của ác nghiệp đó. Dĩ nhiên vấn đề này
là vấn đề gai góc và động cơ thúc đẩy ta nói dối phải có tính chất rất cực
đoan. Trong rất ít trường hợp th́ chúng ta mới có lư do chính đáng khi nói
dối, nhưng bản thân tôi không sẵn ḷng tuyên bố rằng ḿnh chẳng bao giờ nói
dối. Khi nêu ra thắc mắc đó, theo tôi thiên hạ dường như chú trọng quá nhiều
tới sự tiến bộ cá nhân của chính ḿnh. Họ không muốn nói dối chẳng phải v́
đó là sai trái mà v́ nó can thiệp vào sự tiến bộ cá nhân của họ, và v́ điều
đó làm tăng thêm gánh nặng nghiệp báo của họ. Tôi thấy đây là một lư do ích
kỷ.
KẾT LUẬN
Chơn sư kết luận bằng
cách dạy chúng ta rằng đôi khi chúng ta có bổn phận phải dịu dàng nói cho
người khác biết lỗi của họ, nhất là nếu chúng ta ở địa vị có trách nhiệm đối
với họ, và tôi dám đánh bạo nhấn mạnh tới từ ngữ “dịu dàng”. Sỗ sàng rất
thường là thái độ của kẻ muốn ḿnh chính xác. Tôi xin kết thúc phần này bằng
những lời vô giá: “Con hăy quan tâm tới việc của riêng ḿnh và học đức tính
im lặng”.
CHƯƠNG XIV
SÁU ĐIỀU VỀ HẠNH KIỂM
Bây giờ chúng ta xét tới
sáu điều về hạnh kiểm mà những kẻ nào t́m cách phụng sự Chơn sư đều phải chú
ư. Cố nhiên là người Ấn Độ thừa biết sáu điều này v́ trong kho tài liệu tôn
giáo Ấn Độ có đặc biệt đề cập tới chúng. Tôi không muốn làm phiền bạn bằng
những danh xưng Bắc phạn v́ đủ thứ đường lối phát triển do Chơn sư nêu ra.
Ngài đă dùng một vài từ tiếng Anh để dịch thuật cho nên chúng ta không cần
bận tâm v́ thuật ngữ trong nguyên bản.
Có lẽ bạn đă lưu ư thấy
rằng thoạt đầu Chơn sư đưa ra tính Phân biện v́ nhờ có phân biện chúng ta
mới học được cách phân biệt giữa điều đúng và điều sai. Cố nhiên năng lực
này là nền tảng của việc chúng ta tiến hóa trong giới nhân loại. Chúng ta có
một lương tâm nghĩa là bản thân chúng ta có được kết quả kinh nghiệm trong
quá khứ nhờ đó chúng ta có thể trắc nghiệm những sự trải nghiệm khi chúng
xảy ra và chấp nhận hoặc bác bỏ chúng tùy theo việc chúng ta biết chúng có
tác dụng nâng cao hay làm thoái hóa.
Thế rồi Ngài nhấn mạnh
tới điều kiện Vô dục (Đoạn tuyệt ham muốn) và dùng từ vô dục theo đúng nghĩa
của nó là không để cho bản thân bị dục vọng khống chế. Chơn sư có dạy rằng:
“Điều kiện Vô dục cho thấy rằng chúng ta phải kiểm soát được thể vía” và
chúng ta được dạy bảo rằng điều đầu tiên trong sáu điều về hạnh kiểm (nghĩa
là tự chủ đối với cái trí) cho thấy rằng chúng ta phải kiểm soát được thể
trí. Có lẽ bạn ắt thắc mắc tại sao cái điều kiện đặc biệt này không được
dành cho nó một chương riêng giống như điều kiện vô dục đối với thể vía.
Thật ra th́ đối với hầu hết chúng ta thể vía phát triển trọn vẹn hơn thể
trí. Thể trí của chúng ta chỉ mới xuất hiện khi chúng ta chuyển từ giới động
vật sang giới nhân loại và do đó nó tương đối mới tăng trưởng gần đây. Mặt
khác, thể vía đă sát cánh với chúng ta trong khi chúng ta c̣n sinh hoạt
trong giới động vật, và trong một mức độ rất lớn nó là phương tiện giúp
chúng ta tăng trưởng măi cho đến tận ngày nay – chẳng hạn như sự tăng trưởng
của con thú tùy thuộc phần lớn vào những rung động thuộc thể vía của nó. Kết
quả là khi chuyển sang giới nhân loại với một thể vía được rèn luyện biết
rung động theo nhiều chiều hướng khác nhau, th́ bài học mới mẻ chúng ta phải
học là chúng ta phải kiểm soát nó mà phần lớn là nhờ vào sự trợ giúp của thể
trí mới tinh cho măi đến một mức độ nào đó trong giới nhân loại th́ mới được
dùng làm phương tiện đặc biệt để tăng trưởng. V́ vậy Chơn sư nhấn mạnh tới
nhu cầu phải kiểm soát được thể vía tức thể xúc động và đặt điều kiện đặc
biệt này vào vị trí tự nhiên của nó ngay sau đức tính tối cao là phân biện.
KIỂM SOÁT CÁI TRÍ
Chơn sư tức khắc dẫn
chúng ta tới khía cạnh quan trọng nhất trong việc kiểm soát cái trí, là kiểm
soát được tính khí và dây thần kinh. Sự b́nh tĩnh của cái trí là một trong
những điều kiện quan trọng nhất, v́ nếu chúng ta không có được điều kiện đó
th́ chúng ta có rất ít cơ may có thể kiểm soát được xúc động. Một tư tưởng
náo động tất yếu sẽ phản tác động lên thể vía, và v́ thể trí là một hiện thể
có nhiều quyền năng hơn thể vía cho nên hậu quả của một thể trí náo động
phần lớn là làm cho thể vía càng náo động hơn. Thế rồi lại xét tới những dây
thần kinh vốn là phương tiện để truyền ấn tượng lên bộ óc và từ bộ óc xuống,
th́ ta rất cần kiểm soát được chúng sao cho điều ḥa được cả năng lực tiếp
nhận lẫn năng lực biểu lộ. Luôn luôn có khó khăn nhất là đối với kẻ nào thật
sự tha thiết và đang cố gắng đạt được sự đồng cảm và t́nh thương, v́ muốn
làm được như thế th́ họ tất ỵếu phải khiến cho các hạ thể của ḿnh nhạy bén
nhiều hơn với những ấn tượng bên ngoài sao cho họ có thể đáp ứng với những
ấn tượng đó dễ dàng hơn mức đạt được từ trước đến nay. Điều này có nghĩa là
mọi ấn tượng bên ngoài ảnh hưởng tới họ dễ dàng hơn so với ảnh hưởng lên kẻ
phàm phu, và kết quả là dây thần kinh đâm ra mệt mỏi v́ phải dẫn truyền quá
nhiều đáp ứng và ấn tượng do đó có khuynh hướng tuột khỏi tầm tay của ta. V́
thế mới có sự bực bội và sự trầm cảm, nói cách khác là thần kinh bị kiệt
quệ. Ở một mức độ cao hơn, cá nhân có thể kiểm soát được sự đáp ứng của dây
thần kinh đối với những kích thích ở bên ngoài, và có thể không chịu bỏ ra
nhiều năng lượng thần kinh hơn mức ḿnh có thể cung ứng được, do đó trong
khi vẫn nhạy cảm không kém các huynh đệ trẻ tuổi hơn th́ họ giỏi quản lư
được tài nguyên của ḿnh vén khéo hơn và đáp ứng một cách thuận lợi nhất
thay v́ đáp ứng một cách ẩu tả. Những người trong các bạn vốn đang cố gắng
thực hành những nguyên tắc được tŕnh bày trong quyển
Dưới Chơn Thầy rất có thể nhận
thấy có khuynh hướng gia tăng bực bội, thiếu b́nh tĩnh, thậm chí có những tư
tưởng và xúc cảm bất hảo băng ngang qua tâm trí hoặc các xúc động của ḿnh.
Nếu bạn thật sự tha thiết th́ bạn có thể tự an ủi qua sự thật là có lẽ nhiều
điều này là hệ quả tất yếu của việc bạn nỗ lực tiến bộ và nhiều điều đó đáng
hơn là thuộc về phần bên ngoài của bạn: xuất phát từ những nguồn bên ngoài
nhưng được bạn coi là chính ḿnh,
v́ khả năng tưởng tượng của bạn. Nên nhớ rằng sự đồng cảm và thiện chí phần
lớn tùy thuộc vào óc tưởng tượng và nếu bạn rèn luyện ḿnh để tưởng tượng
theo một đường lối nào đó th́ bạn không thể không có khuynh hướng cũng tưởng
tượng theo một đường lối khác, và bạn chỉ có thể kiểm soát được óc tưởng
tượng của ḿnh sau khi bạn đă vận dụng nó đến mức tối đa. Tôi muốn nhấn mạnh
tới vấn đề óc tưởng tượng này, v́ nhiều người đang làm hết sức ḿnh để hầu
như trở thành thánh tử v́ đạo cho óc tưởng tượng – tưởng tượng đủ thứ khó
khăn và rắc rối một cách không cần thiết, tưởng tượng đủ thứ điều tồi tệ một
cách không cần thiết. Mặt khác, cũng trong chừng mực mà họ có thể chính xác
tưởng tượng ra những phiền năo và rối rắm của những người xung quanh ḿnh
th́ trong chừng mực đó họ vẫn c̣n có thể hữu dụng để giúp cho những người
khác. Hiện nay thế giới là một nơi rất khó sống. Có quá nhiều sự xáo trộn cả
trên cơi trí tuệ lẫn trên cơi xúc động đến nỗi những người rất nhạy cảm thấy
thật khó sống ở một đô thị lớn nơi mà đại khối quần chúng đang phóng ra
những lực bạo động đi qua các cơi này, một công việc thật khó khăn. Nhất là
có nhiều xao xuyến, lo âu và sầu muộn, nhiều tuyệt vọng và thất vọng, nhiều
nghi ngờ và rối trí. Tất cả những điều này giống như biết bao nhiêu cú đấm
nện vào kẻ nhạy cảm và y thường đâm ra bối rối không biết liệu những cú đấm
đó xuất phát từ bên trong hay bên ngoài. Thế giới đang ở trong một ṿng xoáy
kích động và nếu người ta không có đủ khả năng để làm cho ḿnh ổn định chống
lại những lực xoáy lốc th́ người ta hầu như chẳng biết được liệu sự kích
động đó có nguồn gốc từ bên trong hay bên ngoài.
KHÓ KHĂN CỦA VIỆC RÈN LUYỆN
Chính v́ lư do này mà
việc rèn luyện tôn giáo thường xảy ra cách ly thế giới theo nghĩa xa rời
những hoạt động bên ngoài của thế giới. Thời xưa thầy và tṛ ẩn dật trong
rừng thẳm, sống trong ảnh hưởng khuây khỏa và thống nhất của thiên nhiên.
Tôi được dạy cho biết rằng hiện nay người ta đang thử nghiệm để cho một phần
sự rèn luyện này diễn ra nơi ngoại giới. Nếu cuộc thực nghiệm thành công th́
sự tiến bộ có thể rơ ràng là trở nên nhanh hơn v́ một số lớn thí nghiệm có
thể được thực hiện liên tiếp nội trong một thời gian tương đối ngắn. Mặt
khác, sự căng thẳng sẽ vô cùng lớn lao cho dù sự tiến bộ có thể nhanh hơn
nhiều và chúng ta phải trả giá bằng sự căng thẳng để có được sự nhanh chóng
giúp chúng ta có thể tăng trưởng. Khi nói theo kinh nghiệm bản thân, tôi
chẳng bao giờ khuyên bất cứ ai không cân nhắc kỹ lưỡng mà lại hiến ḿnh cho
sự rèn luyện đặc biệt mà quyển Dưới
Chơn Thầy dự tính sẽ đưa ra. Nếu chúng ta làm được th́ thật bơ công hết
sức, nhưng chẳng có ích ǵ khi giả vờ rằng điều này là dễ dàng và không có
những lúc cực kỳ phiền năo và bất hạnh. Sự phiền năo và bất hạnh đó chắc
chắn là do các hạ thể và tuyệt nhiên không được xen vào trong sự rèn luyện.
Dù thế nào th́ sự thật là vẫn có phiền năo và tôi chẳng biết có ai đang bước
trên Thánh đạo mà lại dám bảo rằng trong khi mục tiêu xứng đáng với mọi tinh
tấn th́ tuy nhiên nó thật đ̣i hỏi một nỗ lực có tầm mức đáng kể. May mắn
thay vẫn c̣n có mức độ tăng trưởng b́nh thường và thông thường, và bản thân
tôi đôi khi tự hỏi tại sao ḿnh lại không bằng ḷng với điều đó. Nên nhớ
rằng chúng ta không thể cưỡng chế ai ngược lại ư muốn của y nhằm tiến nhanh
hơn tốc độ b́nh thường. Không ai có thể bảo tôi: “Bạn phải đi nhanh hơn mức
bạn muốn”. Điều mà họ có thể nói ắt là: “Nếu bạn muốn đi nhanh hơn th́ cơ
hội đang mở ra cho bạn để cho bạn quyết định”. Tôi có thể tưởng tượng rằng
bạn đọc ắt bảo rằng thật khó ḷng mà biết được phải quyết định cái ǵ nếu
thật ra ta chẳng biết phía trước ḿnh có cái ǵ; bạn chỉ có thể quyết định
dựa trên cơ sở kinh nghiệm đă qua chứ không dựa vào kết quả những kinh
nghiệm của người khác. Điều này là đúng nhưng tôi nghĩ rằng chơn ngă có lẽ
biết điều ǵ rất có thể ở phía trước ḿnh, nó có thể chọn lựa một cách hiểu
biết như thế và trọn cả khó khăn cốt ở việc rèn luyện các hạ thể làm điều mà
chủ nhân ông muốn chúng làm. Ở dưới đây, trên các cơi hồng trần và trung
giới, chúng ta vô minh hơn chơn ngă v́ chơn ngă là phản ánh trực tiếp của
Chơn thần, tức một Điểm Linh Quang trong ngọn lửa Thượng Đế. Hơn nữa, thể
xác và thể vía của chúng ta đă gây ra nhiều chuyện trong lộ tŕnh của riêng
ḿnh thuộc quá khứ, chúng ta đă dùng chúng v́ mục đích tăng trưởng và chúng
muốn tiếp tục đi theo đường cũ cho dù chúng ta không c̣n cần chúng v́ mục
đích này nữa. Điều mà chúng ta cần chúng hiện nay là chúng trở thành hiện
thể để biểu lộ ư chí của chơn ngă. Chúng ta muốn chúng là các sứ giả hơn là
các cá thể độc lập. Trong trường hợp những người là ứng viên của Thánh đạo,
chúng đă tăng trưởng hết mức cần thiết rồi. Chức năng riêng của chúng đă
được xác lập. Sức mạnh đă được sản sinh ra và giờ đây chơn ngă chỉ việc điều
khiển sức mạnh đó đi vào những kênh dẫn thích hợp. Tôi không nói rằng đây là
trường hợp đối với mọi người. Chắc chắn có nhiều người cần biểu hiện nhiều
hơn về thể xác và thể vía so với mức họ có thể đạt được cho đến nay. Nhưng
điều đó không áp dụng cho chúng ta v́ nhiệm vụ đặc biệt của chúng ta là có
được điều kiện vô dục.
Nên nhớ rằng mục tiêu
lớn của chúng ta là rung động hài ḥa hết mức với các rung động của Chơn sư
sao cho thần lực của Ngài có thể tuôn chảy qua chúng ta một cách không gián
đoạn. Trong khi chúng ta rung động theo một nhịp độ c̣n Ngài rung động theo
một nhịp độ khác, th́ thần lực đi xuyên qua chúng ta rất khó khăn, và trong
nhiều trường hợp hầu như không làm được điều đó. V́ vậy trong quyển
Dưới Chơn Thầy Ngài dạy chúng ta
cách làm cho rung động của ḿnh hài ḥa với rung động của Ngài, sao cho tất
cả đều ít nhiều đạt được cùng một tốc độ hầu Ngài có thể tương đối đỡ mất
công khi gửi xuyên qua chúng ta những thông điệp tới cho thế giới bên ngoài.
Chúng ta cần có cái trí b́nh thản chẳng những để cho không suy nghĩ hấp tấp,
chẳng những để cho chúng ta có một bầu hào quang yên b́nh mà thần lực của
Chơn sư có thể tuôn chảy vào và xuyên qua đó, mà c̣n là v́ chúng ta có thể
không sợ sệt đương đầu với mọi
rắc rối và khó khăn xảy đến cho ḿnh khi chúng ta được trắc nghiệm sức mạnh.
Chơn sư dạy rằng Ngài muốn chúng ta coi thường những rắc rối xảy ra trong
đời ḿnh và tránh lo âu về những chuyện nhỏ mọn. Tôi nghĩ một trong những
đoạn tuyệt vời nhất thuộc quyển sách đó là chỗ Chơn sư dạy chúng ta rằng mọi
điều xảy đến với chúng ta từ bên ngoài – phiền muộn, rắc rối, đau ốm, mất
mát – đều thuộc về quá khứ và do đó không quan trọng. Tôi phải thẳng thắn
thú nhận rằng ḿnh c̣n lâu mới đạt được tiêu chuẩn mà Sư phụ đưa ra về vấn
đề này. Tôi chỉ biết điều đó trên lư thuyết và tôi hi vọng rằng ḿnh sẽ tiến
bộ theo chiều hướng đúng đắn, nhưng hiện nay tôi không thể thực hành nó
được. Thế rồi tôi không thể luôn luôn nhớ được rằng những chuyện rắc rối
cũng phù du như những chuyện vui vẻ, mặc dù Chơn sư dạy rằng đúng là như
thế. Sự thật th́ Chơn sư muốn lúc nào chúng ta cũng nhớ rằng chúng ta nên
làm chủ được số phận của ḿnh chứ đừng nô lệ cho nó. Điều xảy đến cho chúng
ta hiện nay là điều vốn do chúng ta gây ra trong quá khứ, và chúng ta càng
chịu đựng nó vui vẻ và hạnh phúc bao nhiêu th́ nó càng chóng qua đi bấy
nhiêu. Dĩ nhiên điều này là rành rành ra rồi, nhưng khi người ta đang ở giữa
mọi chuyện rắc rối th́ người ta cũng chẳng biết bao nhiêu lâu nữa th́ nó mới
trôi qua hết, v́ nó đâu phải là chuyện rắc rối nữa nếu người ta có thể tự
ḿnh tách ra khỏi nó.
LO ÂU VÀ NGĂ L̉NG
Chúng ta được dạy bảo
rằng ḿnh không thể thay đổi được những phiền muộn và rắc rối, v́ vậy đừng
mắc công lo âu về chúng. Thật vậy, tôi có nghe một số bạn trẻ biểu hiện t́nh
cảm này một cách tán đồng chân thành nhất. Nhưng tôi không thể không nghĩ
rằng các bạn trẻ này không lo v́ thật ra th́ họ có ǵ phải lo đâu. Việc
tránh không phải lo âu chẳng có ǵ kỳ diệu khi bạn đâu có ǵ phải lo, nhưng
thật là một tiến bộ tâm linh xác định khi vốn có chuyện phải lo mà bạn lại
không để cho nó khiến ḿnh bù đầu lo nghĩ. Nếu tôi được phép mạo muội phỏng
đoán th́ tôi tưởng tượng rằng chỉ những vị ở cấp Chơn sư mới có thể lúc nào
cũng vui vẻ và thanh thản. Tôi không nói như vậy để khiến cho người ta có cơ
hội nghĩ rằng ḿnh chẳng trông mong ǵ có thể vui vẻ và thanh thản được. Tất
cả chúng ta đều mong sẽ được vui vẻ và thanh thản, nhưng phải mất thời gian
để học bài học này và cũng chẳng quan trọng ǵ lắm nếu có một số sự tái phạm
dọc đường. Người ta quá chú tâm tới sự lỡ bước nhằm phấn đấu thành công theo
hướng các điều kiện nêu trên nên không nhận ra được rằng tất nhiên là phải
như thế. Ta nên càng ít chú ư tới chúng bao nhiêu th́ càng tốt bấy nhiêu.
Nếu chúng ta không thường hay sa ngă dọc đường th́ chúng ta không học được
cách đồng cảm với những kẻ có lẽ c̣n thường xuyên sa ngă nhiều hơn chúng ta
(nếu có thể). Thất bại là mẹ thành công và nếu bản thân chúng ta không có
kinh nghiệm thất bại th́ chúng ta không thể giúp được những người khác vào
những lúc mà họ cần trợ giúp nhất nghĩa là khi chính họ thất bại.
Lại nữa, chúng ta được
dạy bảo không bao giờ được phép cảm thấy buồn rầu hoặc ngă ḷng, v́ nó khiến
cho cuộc đời người khác khó chịu hơn. Ở đây chúng ta lại phải đi một đoạn
đường dài trước khi chúng ta có thể hi vọng hoàn thành được nhiệm vụ mà Chơn
sư đặt ra cho chúng ta. Vào lúc giống như bây giờ th́ việc hoàn thành nhiệm
vụ đó là khó gấp đôi, v́ có nhiều người tự nhiên là cảm thấy ngă ḷng do
không được hiểu biết như chúng ta về luật Nhân Quả và Luân Hồi nên không
được ai trợ giúp. Họ không biết sự thật là nhiều điều họ không thể làm được
trong kiếp này th́ họ có thể làm được trong kiếp khác; sự thật là những điều
mà họ khao khát nhưng chưa thể làm được trong kiếp này th́ một ngày kia họ
sẽ có thể làm được và họ cũng chẳng biết là không có chuyện ngăn cách với
những người mà ḿnh yêu thương. V́ không biết tất cả những điều này cho nên
chẳng lấy ǵ làm lạ khi họ ngă ḷng, nhất là v́ chúng ta đă biết hết mọi
chuyện như thế mà họ cũng không thể không ngă ḷng. Nhưng chúng ta phải thừa
nhận rằng ngă ḷng là một biểu lộ của sự vô minh, v́ không thể ứng dụng được
theo đúng cách tri thức mà ḿnh có được. Chúng ta phải cố gắng vứt bỏ sự ngă
ḷng càng sớm càng tốt, nhưng điều này cố nhiên là khó khăn hơn khi ở giữa
một cuộc chiến tranh lớn mang lại những phiền năo cho tâm hồn và gia cư của
mọi người. Nhất là chúng ta cần hiểu biết nếu chúng ta muốn xua tan sự ngă
ḷng và chính v́ thế mà chúng ta đă phải có gắng thực hiện những phong trào
như Hội Thông Thiên Học, Hội Ngôi Sao Đông Phương để truyền bá sự hiểu biết
đặc biệt qua những quyển sách như quyển
Dưới Chơn Thầy chẳng hạn, để cho
nhờ thế thiên hạ có được sức mạnh chịu đựng áp lực của cuộc sống đang tiến
hóa.
Trong đoạn sắp tới chúng
ta sẽ được dạy cho biết một trong những cách để tránh ngă ḷng là đừng để
cho tư tưởng của chúng ta đi lang thang. Nếu chúng ta có rắc rối th́ những
rắc rối này sẽ tạo ra những rănh ṃn để cho tư tưởng và xúc cảm dễ dàng tuôn
theo đó. Nếu chúng ta để cho tư tưởng và xúc cảm của ḿnh đi lang thang th́
chúng tự nhiên là sẽ theo kênh dẫn dễ đi nhất, và kênh dẫn đó có thể là kênh
dẫn mà sự rắc rối hoặc đau khổ đă h́nh thành. Nếu chúng ta để cho tư tưởng
đi lang thang th́ chúng có thể chạy theo kênh dẫn đau khổ và rắc rối, như
vậy làm hồi sinh những khó khăn có lẽ thực ra đă trôi qua rồi. Cũng thế, nếu
chúng ta để cho tư tưởng đi lang thang th́ mọi thứ tư tưởng độc ác từ bên
ngoài có thể tràn vào một tâm trí mà chúng ta chưa hoàn toàn kiểm soát được
và như vậy bộ óc chúng ta có thể tiếp thu những tư tưởng bất hảo mà chúng ta
rất có thể nghĩ là của ḿnh khiến cho chúng ta mất rất nhiều công lao để gạt
bỏ. Chơn sư nêu rơ rằng chúng ta phải luôn luôn cố gắng giữ cho những tư
tưởng tốt ở bối cảnh của tâm trí sao cho khi không có điều ǵ đặc biệt để
suy nghĩ th́ những tư tưởng này có thể xuất hiện vào tiền cảnh và giữ cho
chúng ta chẳng những kiên định mà c̣n có ư thức về mối quan hệ vốn trường
tồn giữa bản thân ta và các bậc Huynh trưởng. Bằng cách này kênh dẫn luôn
luôn được mở toang và bất cứ lúc nào Chơn sư cũng có thể phóng rải xuyên qua
chúng ta sự trợ giúp của Ngài cho thế gian.
CHƯƠNG XV
SÁU ĐIỀU VỀ HẠNH KIỂM
(tiếp theo)
Bây giờ chúng ta đi tới
một nhận xét rất quan trọng liên quan đến những cách thực tiễn giúp ta phấn
đấu kiểm soát được cái trí.
CÁC CÁCH THỰC TIỄN ĐỂ KIỂM SOÁT CÁI TRÍ
Chơn sư gợi ư rằng mỗi
ngày chúng ta nên nghĩ tới một người nào đó đang gặp rắc rối, bao quanh y
bằng tư tưởng yêu thương sao cho từ tư tưởng yêu thương đó, y có thể rút ra
được ḷng can đảm và khả năng nhẫn nhục. Trong hầu hết các trường Huyền bí
học đều có những hệ thống nhất định để rèn luyện cho các học viên cách thức
kiểm soát những loại tư tưởng nhập vào bộ óc ḿnh, làm thế nào để diệt trừ
những thứ mà ḿnh không muốn tiếp nhận và làm thế nào mà bất cứ lúc nào cũng
rút tâm trí ra khỏi bất cứ đường lối đặc biệt nào mà nó đă dấn thân và tập
trung nó vào nơi khác. Khi tôi là Hiệu trưởng của trường Trung học Trung
ương Ấn Độ ở Benares, tôi có thói quen giúp cho một số lớn học sinh theo
chiều hướng này, tôi gợi ư với chúng là chúng nên dành ra ba buổi đặc biệt
trong ngày, trong đó chúng chỉ cho phép có một loại tư tưởng đặc biệt được
đi qua tâm trí. Một trong ba buổi này là lúc sáng sớm khi thức dậy, buổi thứ
nh́ là lúc chính ngọ, buổi thứ ba là ngay trước khi đi ngủ. Vào buổi sáng
tôi khuyên họ trước hết hăy nghĩ tới điều mà ḿnh sắp làm trong ngày và cố
gắng quyết tâm dứt khoát làm mọi thứ đúng lúc nhưng không hấp tấp. Bằng cách
này họ có thể làm tṛn công việc hằng ngày một cách hữu ích tối đa, dĩ nhiên
vẫn có nhiều thời giờ để giải trí và nghỉ ngơi. Sau khi đă vạch ra kế hoạch
của ngày đó trong trí, tiếp theo họ chuyển tư tưởng qua hướng nhắm tới những
người cần được ḿnh giúp đỡ. Đó ắt là các bạn cùng học hoặc cùng chơi, hoặc
có thể là những người đang khốn khổ và phiền năo mà theo lệnh của Chơn sư họ
có thể gửi cho những người đó một tư tưởng yêu thương. Thế rồi họ chuyển chú
tâm sang gia đ́nh, phóng ra những tư tưởng đầy thiện chí tới cho anh chị em
và các thân quyến khác. Sau đó th́ họ ắt chuyển sang các bậc lăo thành: cha
mẹ, thầy dạy và giáo sư. Cuối cùng th́ tư tưởng của họ xoay chuyển sang quan
niệm cao siêu nhất cho dù nó có thể ra sao đi chăng nữa. Tôi thường khuyên
các học sinh Ấn Độ hăy nghĩ tới Gurudeva và cúi đầu kính cẩn trong trí đối
với Ngài. Một số người có thể xoay chuyển tư tưởng yêu thương tới cho vị
thầy kính mến, những người khác có thể nghĩ tới bà Besant, những người khác
có thể nghĩ tới một trong các đại Chơn sư Minh triết. Việc nó xoay chuyển về
phía ai th́ không quan trọng miễn là tư tưởng đó nâng họ lên tới mức cao
nhất mà họ biết vào lúc đó. Bằng cách này ngay từ khi mới bắt đầu một ngày
làm việc, họ đă thấm nhuần những tư tưởng vĩ đại nhất mà họ có thể đạt được,
và đă trổi lên một nốt nhạc mà theo thời gian do thường được lập đi lập lại,
nó sẽ gửi liên tục sóng âm thanh của nó ra rung động suốt ngày. Kết quả là y
đă tạo ra một lực nhất định có khuynh hướng làm giảm thiểu tối đa cơ may
nhầm lẫn, và cá nhân hữu quan ắt là những trung tâm mà thần lực Thiêng Liêng
có thể dễ dàng tuôn chảy qua hơn. Trọn cả quá tŕnh này không cần phải mất
nhiều hơn năm phút hoặc cùng lắm là mười phút, và nó phải mang lại một phẩm
giá cho chương tŕnh làm việc trong ngày vốn không có được phẩm giá đó khi
chúng ta hối hả không chuẩn bị chuyển từ t́nh trạng yên nghỉ ban đêm sang
những hoạt động thông thường của cái gọi là thế giới tỉnh thức.
Thế rồi lúc giữa trưa,
cho dù họ đang làm ǵ đi nữa, tôi cũng yêu cầu các bạn trẻ này hăy xoay
chuyển tư tưởng ḿnh hướng về lư tưởng cho dù nó có thể ra sao để chứng tỏ
rằng giữa những bộn bề của thế gian họ vẫn có thể rút tâm trí nhất thời ra
khỏi điều mà nó dường như có vẻ đắm ch́m vào đó. Suy nghĩ về lư tưởng không
bao giờ được vắng mặt nơi chúng ta cho dù chúng ta đang làm ǵ đi chăng nữa,
cho dù chúng ta đang làm việc vất vả đến đâu đi nữa, th́ để cho lư tưởng
không mất đi địa vị của ḿnh tôi khuyên người ta vào lúc chính ngọ hăy xoay
chuyển ḿnh, có thể nói là dứt bỏ những ǵ ḿnh đang dấn thân và quay sang
thực tại cao siêu nhất mà ḿnh
biết được. Điều này ắt chỉ có nghĩa là một giây xao lăng và c̣n lâu
mới làm hại tới công việc mà ta đang làm, nhưng lại cung cấp thêm cho ta
nghị lực và khả năng định trí.
Vào buổi tối, tôi yêu
cầu học sinh kiểm điểm trong trí chương tŕnh làm việc trong ngày để xem
điều ǵ làm được tốt, điều ǵ làm kém, không phải để họ lo âu về những lầm
lỗi mà để họ lưu ư tới những lỗi lầm nhằm phấn đấu ngăn không cho chúng tái
phạm. Sau khi đă làm như vậy, tôi yêu cầu họ hiến ḿnh trong tư tưởng để
phụng sự như thế sao cho họ có thể thực hành suốt đêm và cuối cùng th́ họ sẽ
phấn đấu quên ḿnh khi nghĩ tới lư tưởng khiến cho nó có thể mang họ an toàn
đi qua trung giới. Dĩ nhiên có nhiều cách khác để tạo ra kết quả giống như
thế nhưng đây không phải là một phương pháp khó làm và theo kinh nghiệm mà
tôi biết th́ nó có thể thành công phi thường.
Sau một thời gian th́
suy nghĩ tới lư tưởng trở thành một thói quen và suốt trong ngày th́ cá nhân
có khuynh hướng tự động qui chiếu về tư tưởng này đủ thứ hành động mà ḿnh
nhắm tới. Y đặt hành động bên cạnh lư tưởng rồi chấp nhận hoặc bác bỏ hành
động tùy theo đó. Đây là một t́nh trạng tâm trí đáng mong muốn nhất và mặc
dù chắc chắn là phải mất thời gian để xác lập th́ nó cũng xứng đáng với bất
cứ nỗ lực nào do thông qua đó chúng ta dần dần học được giá trị và khả năng
đặt tư tưởng ḿnh bên cạnh tư tưởng của Chơn sư, một phát biểu khiến cho
nhiều người thấy khó ḷng hiểu nỗi. Thật vậy, nếu chúng ta chưa thực hành
việc cố gắng so sánh tư tưởng b́nh thường của ḿnh với những tư tưởng cao
siêu nhất th́ thật khó ḷng tưởng tượng được làm thế nào mà chúng ta lại
dùng được tư tưởng của Chơn sư v́ mục đích so sánh giống như thế. Ở phương
Đông quá tŕnh này dễ hơn ở phương Tây v́ ở phương Tây có quá nhiều sự cạnh
tranh và hối hả bon chen cho nên thiên hạ dường như ít có thời gian để cân
nhắc suy nghĩ và nhất là để thu hút những tâm thức tinh thần cao siêu nhất.
Nhưng sớm muộn ǵ th́ mọi người tha thiết đều phải quyết tâm đi theo sơ đồ
tổng thể mà tôi đă phác họa nêu trên và họ phải sẵn ḷng thi hành nó cho dù
có thấy kết quả hay chăng. Người ta rất ưa có khuynh hướng cảm thấy rằng hệ
thống là sai lầm nếu kết quả xảy ra không như họ trông mong hoặc như họ
thành công do đó không cần cố gắng thêm nữa. Chúng ta phải học cách không
màng tới kết quả hơn mức chúng ta thực sự đạt được hiện nay –
động cơ thúc đẩy mới là quan
trọng và chẳng có điều ǵ mà chúng ta không thể hoàn thành nếu chúng ta có
được cả ư chí lẫn một khả năng vô hạn về sự kiên tŕ.
SỰ VÔ MINH CỦA NGẠO MẠN
Thế rồi chúng ta được
dạy bảo đừng để cho cái trí ngạo mạn v́ Chơn sư có dạy rằng “ngạo mạn chỉ
bắt nguồn từ vô minh”. Tôi chẳng biết độc giả có cơ hội nào quan sát những
người thật sự vĩ đại, nhưng về phần ḿnh tôi đặc biệt lưu ư thấy rằng địa vị
tâm linh càng lớn th́ ư thức khiêm tốn chân chính càng lớn. Chẳng hạn như
bạn ắt thấy rằng bà Besant dành hết mọi thành công của ḿnh cho Chơn sư và
thừa nhận rằng chính v́ vô minh cho nên bà mới sinh ra những nhầm lẫn như
thế. Nói cách khác, bà giống như “con người minh triết biết rằng chỉ có
Thượng Đế là cao cả và mọi điều tốt chỉ do Thượng Đế làm ra thôi”, và nếu
muốn chúng ta có thể dùng từ “Thượng Đế” ngụ ư là Chơn sư hoặc Chơn ngă hoặc
có thể là lư tưởng của chúng ta. Những kẻ thường ngạo mạn vốn là những kẻ
biết rất ít, muốn cho rằng những điều mà ḿnh
biết chút ít đó là trùm hơn hết, chứ c̣n người ta càng biết nhiều th́
người ta càng nhận ra được rằng ḿnh c̣n phải học thêm nhiều điều nữa, và
những người biết nhiều nhất đều có ư thức sâu sắc nhất về khuyết điểm của
ḿnh. Theo kinh nghiệm riêng, tôi có thể thực sự bảo rằng v́ tôi mới bắt đầu
học từ các thủ lănh cho nên tôi càng ngày càng nhận ra được rằng chẳng những
tôi biết ít xiết bao mà c̣n là tôi có biết bao nhiêu khiếm khuyết trước đó
tôi không nghĩ rằng ḿnh có thể có. Sự thật là nếu chúng ta hiến ḿnh phụng
sự Chơn sư th́ chúng ta phải được thử thách trước khi chúng ta có thể được
tin cậy và sự thử thách phần nào cốt ở việc khiến cho chúng ta biết được
những khiếm khuyết của ḿnh sao cho chúng ta có thể chẳng những diệt trừ
được chúng mà c̣n cố gắng ngăn ngừa không cho chúng cản trở công việc tốt
đẹp mà chúng ta có thể hoàn thành. V́ vậy bạn đừng lấy làm ngạc nhiên khi
lúc khởi sự đời sinh hoạt chân chính – hoặc là do gia nhập Hội Ngôi sao Đông
phương, nhóm Phụng sự viên Ngôi sao hoặc Hội Thông Thiên Học – nếu khó khăn
dường như nhân lên gấp bội và nếu bằng một cách nào đó cuộc sống chẳng những
trở nên rắc rối hơn mà thậm chí khía cạnh tồi tệ nhất trong bản chất của bạn
dường như lại ngóc đầu dậy. Chúng đă ở đó rồi trước khi bạn gia nhập một
trong những phong trào lớn về tâm linh, nhưng chúng c̣n thiu thiu ngủ. Giờ
đây khi bạn lao lên cấp sinh khí cho bản chất cao thượng của ḿnh th́ bạn
cũng nên chẳng lấy làm lạ nếu sinh khí đó cũng tuôn chảy qua bản chất thấp
hèn và khiến cho nó xuất lộ với sắc thái chân thực. Thiên hạ đôi khi ngă
ḷng lúc chuyện này xảy ra. Họ bảo rằng ḿnh không ngờ ḿnh lại độc ác như
thế và họ đâu có biết đó là tác dụng của việc gia nhập một phong trào tâm
linh. Đôi khi họ tự trách ḿnh và bảo rằng ḿnh không xứng đáng gia nhập
nhưng đôi khi nếu đặc biệt ích kỷ họ lại trách ngược phong trào, nghĩ rằng
phong trào không có tính cách tâm linh như họ tưởng bằng không th́ tại sao
họ lại dường như tồi tệ hơn sau khi gia nhập phong trào ? Họ không biết được
lực vẫn cứ là lực, và nó c̣n tùy thuộc vào việc chúng ta sử dụng lực ra sao.
Điều của chúng ta thu được từ việc gia nhập một phong trào tiên tiến vĩ đại
là có thêm thần lực, thần lực gia tăng này có thể tương đối dễ dàng được
xoay chuyển theo chiều hướng đúng đắn. Mặt khác nó cũng có thể được xoay
chuyển theo chiều hướng sai trái, và do đó chúng ta phải cẩn thận đừng để
cho bản chất thấp hèn kiểm soát được thần lực gia tăng vốn được ban cho
chúng ta do chúng ta là thành viên của một trong các phong trào đó.
Một bậc đại Đạo sư có
thể ban quyền năng cho con người.
Y sử dụng quyền năng đó như thế nào th́ tùy theo bản thân y. Thật vậy, tuyệt
nhiên không được suy đoán rằng đôi khi y không sử dụng quyền năng đó một
cách khôn ngoan, nhưng điều này không có nghĩa là Chơn sư đă sai lầm khi phó
thác quyền năng cho y. Nếu Chơn sư thấy là nói chung quyền năng sẽ được sử
dụng một cách khôn ngoan th́ Ngài có thể thấy ḿnh đánh liều để cho sự thiếu
khôn ngoan đó thỉnh thoảng cũng lộ ra. Một cá nhân gia nhập Hội Ngôi sao
Đông phương hoặc Hội Thông Thiên Học quả thật được cấp thêm một chút quyền
năng và thần lực tuôn đổ qua trọn cả bản chất của y, chỉ khi bản chất của y
chủ yếu dựa vào điều cao thượng chứ không dựa vào điều thấp hèn th́ y mới có
thể sử dụng tốt đẹp được tư cách hội viên của ḿnh. Tôi đă luôn luôn nghĩ
rằng ngoại trừ một lư do rất đặc biệt nào đó, người ta có lẽ không nên được
phép gia nhập một trong những phong trào này v́ phải gánh thêm trách nhiệm
nếu dường như không có một sự chắc chắn rơ ràng là nói chung sẽ sử dụng thần
lực v́ mục đích tốt và chỉ hiếm khi dùng nó một cách sai trái. Chắc chắn là
chúng ta sẽ phạm nhiều lầm lỗi và khi chúng ta gia nhập một trong những
phong trào này th́ có lẽ chúng ta sẽ phạm nhiều lầm lỗi hơn trước, nhưng mặt
khác chúng ta có thể hi vọng làm được nhiều điều tốt đẹp hơn trước và dần
dần do những lỗi lầm đó chúng ta sẽ học được cách điều khiển thần lực một
cách càng khôn ngoan hơn. Nhưng sự ngạo mạn là hàng rào gây chết người khiến
ta không vận dụng hữu ích khả năng tâm linh. Những người nào kiêu ngạo ngay
cả về sự hiểu biết tâm linh của ḿnh đều tương đối là chẳng hữu dụng bao
nhiêu. Tôi đă được dạy bảo rằng không thể hoàn toàn diệt trừ được sự ngạo
mạn cho tới khi ta đă tiến rất xa trên thang tiến hóa, nhưng bây giờ chúng
ta đă phải bắt đầu và làm tất cả mọi điều mà chúng ta có thể nhận ra được là
chẳng những bản thân cá nhân chúng ta biết ít xiết bao, thậm chí thực sự
chúng ta c̣n biết ít hơn ngay cả những người xung quanh ḿnh. Như vậy lời
khuyên của chúng tôi ắt phải luôn luôn có tính cách rất gợi ư. Trong quyển
Dưới Chơn Thầy có dạy rằng chỉ
Chơn sư mới biết được đệ tử của Ngài. Chỉ Chơn sư mới biết được động cơ thúc
đẩy một người và trong thế giới tâm linh th́ động cơ thúc đẩy đáng kể hơn
bất cứ thứ nào khác. Khi gợi ư như thế tôi không có ư cho rằng hành động
không quan trọng. Hành động trên cơi của riêng ḿnh, nhưng động cơ thúc đẩy
c̣n quan trọng hơn hành động. Cả hai đều tạo nghiệp báo nhưng ư nghiệp (của
động cơ thúc đẩy) mạnh mẽ hơn thân nghiệp (của hành động).
CHƯƠNG XVI
SÁU ĐIỀU VỀ HẠNH KIỂM
(tiếp theo)
Bây giờ chúng ta chuyển
sang xét tới sự Tự chủ trong Hành động. Chơn sư nhận xét rằng chỉ suy nghĩ
không thôi chưa đủ, cần phải không lười biếng khi hành động; nhưng Ngài có
nêu rơ rằng v́ vậy chúng ta không được cố gắng làm những công việc của người
khác chẳng khác nào làm việc của chính ḿnh nếu người ta không yêu cầu chúng
ta trợ giúp. Chơn sư có dạy rằng: “Đối với nhiều người th́ chuyện khó nhất
trên đời này là học cách để ư tới công việc của chính ḿnh”. Thiên hạ dường
như thấy rất khó hiểu được nếu ḿnh cố gắng làm việc của người khác th́ ḿnh
lại đang cản trở những người khác đó tiến hóa nhanh như lẽ ra họ đạt được.
Thiên hạ tăng trưởng nhờ công việc mà họ làm và nếu
bạn cố gắng ôm đồm nhiều như thế
th́ bạn cản trở người khác nỗ lực đến mức tối đa, chẳng những bạn làm việc
của chính ḿnh không tốt mà bạn c̣n vô hiệu hóa sự tăng trưởng của những
người xung quanh. Ta nên hiểu rơ rằng nhà lănh đạo chân chính là người trợ
giúp những người khác làm việc theo đường lối của họ một cách thành công
hơn. Đây không phải là vấn đề nhà lănh đạo làm ǵ mà là vấn đề nhà lănh đạo
gợi hứng đến đâu cho những người khác làm việc. Nếu nhà lănh đạo giúp họ
đóng một vai tṛ tích cực hơn trong cuộc sống, cảm thấy sống động hơn, quan
tâm hơn tới công việc của ḿnh th́ đó quả thật mới là nhà lănh đạo và dẫn
dắt. Nhưng nếu y nhận một phần việc rồi tập trung hết ḿnh vào đó, khiến cho
người khác cảm thấy rằng họ hoàn toàn lệ thuộc vào y để có nỗ lực sáng kiến
th́ y không phải là kẻ biết cách quan tâm tới công việc của ḿnh. Chúng ta
thường được dạy dỗ rằng không ai trong chúng ta là cần thiết và lư do chúng
ta không cần thiết là v́ luôn luôn có những người làm được việc nếu công
việc cần phải được thực hiện. Chúng ta cần có dưới trướng ḿnh những người
sẵn sàng hiểu được những người xung quanh ḿnh phải làm ǵ, và trong khi
chắc chắn là nói chung phải đảm nhận một phần việc đặc biệt nào đó th́ họ
cẩn thận ẩn đằng sau hậu trường đến mức tối đa, và để cho mọi người xung
quanh ḿnh có cơ hội tăng trưởng qua hành động độc lập, thế nhưng vẫn hài
ḥa. Đây là điều tôi nghĩ là căn bản của phát biểu Chơn sư nói rằng chúng ta
nên để cho mọi người làm công việc của ḿnh theo cách của riêng ḿnh. Dĩ
nhiên chúng ta nên sẵn sàng trợ giúp khi được yêu cầu hoặc khi cần thiết,
nhưng theo thông lệ th́ tốt hơn là nên để cho người ta học hỏi bởi vấp phải
những lỗi lầm và cảm thấy ḿnh là những tác nhân tự do trong phạm vi những
giới hạn hợp lư. Quả thật là vào lúc khẩn cấp nhà lănh đạo có thể phải kiểm
soát hoàn toàn và yêu cầu thuộc hạ phải tuân lời hơn là có sáng kiến. Nhưng
những lúc đó là hiếm có và trong hầu hết mọi trường hợp th́ điều mà chúng ta
phải khuyến khích là sáng kiến và óc độc lập, thế nhưng vẫn có năng lực hợp
tác.
NHIỆM VỤ CHUNG LÀ SINH HOẠT HẰNG NGÀY
Thế rồi Chơn sư nhận xét
rằng cho dù chúng ta có thể quan tâm nhiều tới đâu đi nữa về cái gọi là
“công việc cao siêu”, th́ chúng ta không được lơ là những nhiệm vụ thông
thường trong đời sống. Thật vậy, sự tiến bộ và hữu ích của chúng ta tùy
thuộc vào việc chúng ta làm tṛn những bổn phận thông thường này. Nếu chúng
ta không thể làm tốt những chuyện thông thường th́ chúng ta không có nhiều
hi vọng làm tốt cái gọi là “những chuyện cao siêu”. Ngay cả hiện nay do ảnh
hưởng của sự mê hoặc của chúng, ta có thể dồn hết nghị lực vào đó và như vậy
dường như làm những chuyện đó tốt hơn những chuyện thông thường. Nhưng sự mê
hoặc không kéo dài lâu và nếu chúng ta có thói quen làm không tốt những
chuyện b́nh thường th́ sớm muộn ǵ chúng ta cũng thấy ḿnh làm không tốt
những chuyện cao siêu. Và thật nghiêm trọng hơn nhiều khi làm những chuyện
cao siêu mà thậm chí lại c̣n tồi tệ hơn khi làm chuyện b́nh thường một cách
cẩu thả. Dĩ nhiên sự thật là có rất ít sự khác nhau mà ta rút ra được giữa
điều cao siêu và điều thấp thỏi. Chúng ta học cách tăng trưởng nhanh chóng
qua việc hoàn thành nhiệm vụ khiêm tốn nhất cũng như qua việc hoàn thành
những nhiệm vụ cao siêu hơn. Chơn sư bảo chúng ta rằng chừng nào chúng ta
chưa làm hết những bổn phận thông thường trong cuộc sống th́ chúng ta chưa
tự do để có những việc phụng sự khác. Nên lưu ư rằng Ngài dùng từ “khác” chứ
không dùng từ “cao siêu”. Thật vậy, chúng ta được dạy dỗ rằng nếu một cá
nhân chưa diệt trừ được hết phần nghiệp chướng nặng nề nhất th́ y chưa được
tự do để đảm nhiệm gánh nặng làm đệ tử. Và cách duy nhất để diệt trừ nghiệp
chướng – thật ra là bất kỳ nghiệp báo nào – là phải cố gắng làm những chuyện
nho nhỏ càng tốt bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Dĩ nhiên những chuyện nho nhỏ
dường như khá buồn tẻ và không thú vị, nhưng trong khi chúng dường như thế
đối với ta, th́ chúng ta phải nhớ rằng chẳng bao lâu sau chúng ta sẽ không
c̣n quan tâm tới “những điều cao siêu” nữa nếu chúng ta có dịp. Chỉ khi
chúng dường như mới mẻ và không b́nh thường th́ chúng ta mới lại trực tiếp
quan tâm tới chúng, và như vậy thật ra chúng ta đă chứng tỏ rằng chúng ta
quan tâm nhiều tới điều kích động chúng ta hơn là tới điều cần phải làm.
Chừng nào sự quan tâm c̣n chưa được rèn luyện để cho nó tự động hướng về
điều cần phải làm th́ chúng ta c̣n chưa đi thật xa. V́ thế cho nên chúng ta
cần phải cố gắng nhớ kỹ rằng những chuyện nhỏ là những ḥn đá tảng dẫn tới
những chuyện lớn hơn. Tôi không nghi ngờ là điều tôi đang viết ra ở đây nghe
không đặc biệt thú vị hoặc hữu ích hoặc mang lại cảm hứng. Tôi có thể nghe
bạn đọc kêu ầm lên rằng chẳng có ǵ vất vả khi có sự tiến bộ hơn mức mà họ
nghĩ ra được. Hoàn toàn đúng như thế ! Thoạt đầu có rất nhiều vất vả cho đến
khi bắt đầu nhận ra được rằng thật ra chẳng có ǵ là vất vả. Không ai trong
chúng ta đă từng đạt tới giai đoạn đó, nhưng nguyên tắc lớn trong cuộc sống
là chẳng có điều ǵ cần phải làm mà xét về bản chất lại có vẻ vất vả. Sự vất
vả như thế dường như là do chúng ta vô minh, và sự thật là đối với nhiều
người trong chúng ta th́ chẳng có chi là đáng giá ngoại trừ những điều gây
ra một sự kích động bất thường của thể vía hoặc thể trí.
SỰ TẬP TRUNG NĂNG LƯỢNG
Thế rồi chúng ta được
dạy bảo rằng chúng ta không nên đảm nhiệm những bổn phận mới trên thế gian.
Nói như vậy tôi không ngụ ư rằng chúng ta không bao giờ nên thử làm bất cứ
điều ǵ mới mẻ, mà đúng hơn là thật rất không khôn ngoan khi ta tiếp tục cố
gắng đảm nhiệm công việc mới, mở rộng chú tâm sang những điều quan tâm mới,
khi chúng ta không thật sự làm tṛn nhiệm vụ của ḿnh đối với công việc và
những quyền lợi mà chúng ta đang có sẵn trong tay. Chẳng hạn như nhiều người
luôn luôn mong ước thuộc về mọi thứ ǵ mới mẻ, gia nhập mọi phong trào mới,
tham gia vào mọi hoạt động mới khi có thể. Kết quả thường là họ phí phạm
năng lượng và không cung cấp được cho những hoạt động này, cũng chẳng nhận
được ǵ từ những hoạt động đó – cái điều lẽ ra là kết quả, tức là gia tăng
sinh lực cho cả phong trào lẫn cho cá nhân. Mặt khác, nếu người ta cảm thấy
rằng ḿnh có thể trợ giúp cho một hoạt động mới mẻ nào đó bằng cách tham gia
vào, th́ chẳng có lư do ǵ tại sao người ta không nên gia nhập vào nó sau
khi đă cẩn thận cứu xét tới số lượng thời gian mà người ta phải dành cho nó,
và cân nhắc xem liệu số lượng thời gian đó có thể tạo ra việc làm tṛn thỏa
đáng bất kỳ nghĩa vụ hữu quan nào hay chăng. Nói cách khác, người ta phải
tiến hành một cách cố ư và không đảm nhiệm những bổn phận mới trên thế gian
chỉ để “hùa” theo mọi người khác, và gỡ gạc được càng nhiều càng tốt từ
chuyện đó. Chúng ta không được quên rằng có cả nghiệp báo khi
không làm tṛn nghĩa vụ, cho dù
nghĩa vụ đó được đảm nhiệm một cách cân nhắc hoặc hời hợt. Chúng ta đă tạo
ra mối liên kết và chúng ta không được tưởng tượng rằng ḿnh có thể tránh
được trách nhiệm nghiệp báo nếu chúng ta bỏ dở hoạt động khi chúng ta không
c̣n cảm thấy thú vị nữa. Nói tóm lại, chúng ta phải làm đến mức tối đa khả
năng của ḿnh nhưng không hơn mức lẽ ra chúng ta nên làm. Sự thật là những
người trong chúng ta vốn tha thiết và đang phấn đấu để tiếp xúc với một
trong các bậc đại Đạo sư, th́ chúng ta phải nhớ rằng Chơn sư dạy chúng ta
phải làm việc b́nh thường tốt hơn
những người khác làm việc b́nh thường. Nếu chúng ta làm những việc b́nh
thường của ḿnh mà không tốt hơn những người khác làm bổn phận của họ, th́
chúng ta không xứng đáng với mối quan hệ đặc biệt mà chúng ta hi vọng tạo ra
giữa bản thân ta và các Huynh trưởng. Thật vậy, mọi người đều đă có quan hệ
với một vị Huynh trưởng, nhưng nếu chúng ta muốn cho mối quan hệ riêng của
ḿnh được mạnh mẽ và trong sáng hơn th́ chúng ta phải tỏ ra là ḿnh có giá
trị, và để chứng tỏ rằng ḿnh có giá trị th́ chúng ta phải sống một cách
mạnh mẽ hơn và sung sức hơn, quan tâm nhiều hơn tới chi tiết. Bất cứ người
nào có đặc quyền theo dơi Chơn sư làm việc đều biết rằng các Ngài cực kỳ kỹ
lưỡng đối với những chi tiết nhỏ nhặt nhất và xét theo biểu kiến là tầm
thường nhất. Ngài không phí phạm một giây phút nào, mọi giây phút đều được
tận dụng đến mức tối đa, thế mà lại không có vẻ hối hả hoặc hấp tấp. Ngược
lại, mọi thứ đều toát ra sự b́nh thản, sức mạnh và quyền năng v́ không có sự
phí phạm. Sự phí phạm tất nhiên có nghĩa là yếu kém và chủ đích lơ mơ, năng
lực cùn nhụt. Như vậy vấn đề không phải là chúng ta làm loại công việc nào
mà là cách thức chúng ta làm công
việc đó, và người nào quản trị công việc của nhà nước mà lười biếng và cẩu
thả th́ phải học hỏi rất nhiều nơi người phu quét đường đang cẩn thận giữ
cho sạch bóng quăng đường mà y đang chú ư làm sạch. Chơn sư có dạy rằng:
“Nếu con là đệ tử của Ngài th́ con phải làm những việc b́nh thường tốt hơn
những người khác chứ không phải là tồi tệ hơn, v́ con cũng phải làm điều đó
nhân danh Ngài.
SỰ ĐỘC LẬP CHÂN CHÍNH
Tôi muốn đặc biệt nhấn
mạnh tới phát biểu của Chơn sư theo đó công việc mà chúng ta phải làm chính
là việc mà chúng ta nhận ra một phần trong bổn phận của ḿnh chứ không phải
là những bổn phận tưởng tượng mà những người khác nghĩ rằng chúng ta phải
làm. Ngày nay trên thế giới có nhiều người đang cố gắng buộc những người
khác phải làm điều mà họ quan niệm là bổn phận của những người khác. Họ
dường như biết điều ǵ tốt cho người khác c̣n rành rẽ hơn biết điều ǵ tốt
cho bản thân. Lập trường này hiển nhiên là vô lư, nhưng chúng ta đă trở nên
lệ thuộc vào dư luận bên ngoài đến nỗi mà chúng ta có nhiều khả năng chú ư
tới quan điểm của người khác về bổn phận của ḿnh hơn là mức chúng ta nên
lắng nghe bất cứ trực giác cá nhân độc lập nào. Hiển nhiên là khi người ta
c̣n trẻ, th́ cha mẹ và thầy cô có bổn phận phải giúp người ta phát hiện được
những bổn phận cá nhân của ḿnh và đôi khi thậm chí c̣n cần phải áp đặt bổn
phận lên họ. Nhưng thầy cô và cha mẹ nên hết sức cẩn thận đừng để cho những
người mà ḿnh phụ trách nghĩ rằng thầy cô và cha mẹ tất nhiên phải biết điều
ǵ tốt cho con trẻ nhiều hơn mức bản thân con trẻ có thể biết được. Về lâu
về dài th́ mỗi cá nhân phải có một luật lệ của riêng ḿnh và bổn phận của
thầy cô hoặc cha mẹ là giúp cho đứa trẻ trai hoặc gái t́m ra luật lệ đặc
biệt của chúng là ǵ. Nói cách khác, họ có nhiệm vụ khuyến khích năng lực
phân biện của những người mà ḿnh phụ trách chứ không áp đặt khả năng phân
biện của chính ḿnh lên những người mà ḿnh phụ trách. Trẻ con không được
rèn luyện để tự ḿnh suy nghĩ và hành động th́ có rất ít công dụng trên thế
gian, và phải phó mặc cho những dư luận cùng ảnh hưởng của môi trường xung
quanh, và hành động theo lời khuyên cũng như ư kiến của bạn bè. Chúng ta
phải học cách đừng tin vào điều
ǵ chỉ v́ những người khác tin như thế hoặc hành động theo một cách đặc biệt
chỉ v́ người khác hành động như thế. Chúng ta
phải trở nên độc lập và học được
sự thật là sự độc lập chân chính tuyệt nhiên không đ̣i hỏi sự đối kháng.
Biết bao nhiêu người có khuynh hướng tin rằng bạn không thể thực sự độc lập
nếu bạn không thô bạo và khó chịu, nếu bạn không cố t́nh rán làm những điều
theo cách thức khác hẳn cách thức mà người khác làm. Đôi khi người ta nghĩ
rằng bạn phải tự ḿnh trổi lên một nốt nhạc mới. Tôi không phản đối cụm từ
này miễn nốt nhạc đó là nốt nhạc hài ḥa, nhưng nếu nó không hài ḥa th́ trừ
phi sự tồn tại của nó có một động cơ thúc đẩy đặc biệt mạnh mẽ nào đó, c̣n
th́ tốt hơn là nó không nên xuất hiện. Chẳng hạn như khi đối với vấn đề tuân
thủ tôn giáo, tôi nghĩ rằng mọi đứa trẻ trai hoặc gái rất nên được huấn
luyện theo những niềm tin và nghi lễ của tín ngưỡng mà chúng đă sinh ra đời
trong bối cảnh đó; nhưng tôi cũng nghĩ rằng cha mẹ và thầy giáo nên giải
thích cho con trẻ là chúng tiếp nhận những nghi lễ và niềm tin này vốn rất
có ích cho đa số mọi người, chỉ khi nào chúng t́m ra được một điều ǵ đó có
lẽ thích hợp hơn với tính khí đặc thù của ḿnh. Tôi chẳng bao giờ nghĩ rằng
ḿnh có bổn phận phải cố gắng khiến cho một đứa trẻ tin rằng bất cứ một h́nh
thức đặc biệt hoặc một sự thật đặc biệt nào cũng là h́nh thức hoặc sự thật
duy nhất mà nó phải chấp nhận. V́ nghiệp báo đă đưa nó lọt vào trong môi
trường giáo huấn một vài dạng sự thật nhất định, cho nên nó cũng có thể tăng
trưởng trong môi trường đó, nhưng nên luôn luôn dành cho nó một lối thoát để
có thể phán đoán cá nhân sao cho nó có thể cảm thấy rằng ḿnh có thể tự do
hành động mà không trở thành một kẻ phản bội hoặc là đối với các bậc trưởng
thượng hoặc là đối với truyền thống. Không có lư do ǵ tại sao một đứa trẻ
khi mới sinh ra là tín đồ Ấn giáo mà sau này lại không trở thành một tín đồ
Ki Tô giáo nếu nó bị thôi thúc không thể chống cự nỗi; nhưng nếu nó sinh ra
là một tín đồ Ấn giáo th́ tốt hơn nó vẫn nên là tín đồ Ấn giáo cho tới khi
nó đă đạt được mức phán đoán chính chắn đủ để khiến cho nó có thể quyết định
xem liệu nó có muốn thay đổi hay chăng. Không bao giờ có hại ǵ khi huấn
luyện cho một đứa trẻ hiểu được những h́nh thức và sự thật vốn đă có ích cho
đại đa số mọi người, v́ sự huấn luyện đó sẽ mang lại một sự đồng cảm khiến
cho nó sau này có thể trợ giúp, cho dẫu sau này bản thân nó, t́m ra được
những h́nh thức khác và sự thật khác thích hợp hơn với đường lối tiến hóa
đặc biệt của ḿnh.
SỰ KHOAN DUNG
Mọi việc này đưa chúng
ta tới sự cân nhắc điều Hạnh kiểm thứ ba nghĩa là Khoan dung. Chơn sư nhấn
mạnh hơn hết tới nhu cầu cho chúng ta cảm thấy chân thành quan tâm tới đức
tin của một người thuộc tôn giáo khác. Những sự khác nhau về tôn giáo đă gây
ra vô số điều tai hại trên thế giới, và giờ đây chúng ta phải bắt đầu làm
việc sao cho những sự khác nhau về tôn giáo không c̣n đe dọa sự đơn nhất
chân thực ở bên dưới. Chơn sư có nhận xét rằng: “Tôn giáo của họ là một con
đường dẫn tới đấng tối cao cũng giống như tôn giáo của con”, thế rồi Ngài
dạy điều có lẽ là cốt tủy trong trí óc của Ngài xuyên suốt mọi giáo huấn:
“Muốn giúp đỡ được mọi người th́ con phải hiểu được mọi người”. Đây quả thật
là nốt chủ âm của giáo huấn. Mọi điều được viết ra trong quyển
Dưới Chơn Thầy đều có dụng ư mang
lại cho bạn đọc khả năng phụng sự hữu hiệu hơn cho những người xung quanh.
Nếu bạn muốn thuộc về Chơn sư th́ bạn phải có thể đi đến bất cứ nơi đâu và
làm bất cứ điều ǵ. Bạn phải có thể giúp cho mọi hạng người, bạn phải có thể
thích ứng với đủ thứ hoàn cảnh và thực tế là phải đồng cảm với những rối rắm
mà có lẽ bản thân bạn chưa bao giờ trải nghiệm. Để tự do phụng sự theo kiểu
này, bạn phải lưu ư đừng để cho bản thân ḿnh bị ràng buộc bởi chính xiềng
xích mà bạn đang t́m cách giải thoát người khác theo chúng. Nếu bản thân bạn
nghĩ rằng tôn giáo của ḿnh là tôn giáo duy nhất đúng, nếu bản thân bạn nghĩ
rằng tập quán của ḿnh là những tập quán duy nhất có ích, nếu bạn nghĩ rằng
quốc gia của ḿnh là quốc gia duy nhất đúng là vĩ đại, nếu bạn nghĩ rằng lối
sống của ḿnh là lối sống duy nhất thực sự hữu ích th́ bạn đang mù quáng;
cho dù có thể bạn đang cố gắng giúp đỡ người khác cũng mù quáng như bản thân
bạn. Chơn sư có dạy chúng ta rằng chúng ta phải “thoát khỏi sự ngu tín và mê
tín”. Điều này không có nghĩa là mọi người giải thoát khỏi sự ngu tín và mê
tín, mà đúng hơn là những người muốn phụng sự Chơn sư th́ bản thân họ phải
thoát khỏi t́nh huống làm cản trở hoạt động của họ, cho dù t́nh huống đó có
giúp đỡ được những người khác đến đâu đi chăng nữa. Ở một giai đoạn nào đó
th́ chắc chắn là tất
yếu phải có sự ngu tín và mê tín. Chúng là cái giàn giáo giúp ta dựng nên
ṭa nhà. Nhưng khi ta dựng xong ṭa nhà
th́ ta không c̣n cần tới giàn giáo nữa và ṭa nhà tâm linh của chính
ta phải ở mức độ tiên tiến đến nỗi nó có thể bỏ qua được hai cái giàn giáo
này (ngu tín và mê tín) một cách hữu dụng. Đối với bạn và tôi th́ hầu hết
những nghi lễ thông thường không c̣n cần thiết nữa, nghĩa là những nghi lễ
đó không c̣n cần thiết cho những kẻ nào trông mong chỉ một thời gian ngắn là
đủ để tập sự trong đạo tràng của Chơn sư. Nếu muốn th́ chúng ta có thể tham
gia vào đó; chúng ta có thể vui hưởng nó nhưng đó không c̣n là những bộ phận
cần thiết cho kiếp sống của ta, bằng không th́ như Chơn sư có nêu rơ
chúng ta sẽ nghĩ ḿnh, về một phương diện nào đó, là tốt hơn những
người không thực hiện cái loại nghi lễ đặc biệt vốn làm cho ta chú ư.
Ở
đây phát biểu
của
Chơn
sư
cũng
không có ngụ
ư nói
với
chúng ta là không ai nên thực
hành nghi lễ
nào. Phải
nhớ
rằng
Ngài đang nói với
một
người
đă là đệ
tử
thuộc
đạo
tràng
của
Ngài
do đó y đang được
huấn
luyện
rất
đặc
biệt.
Nghi lễ
có thể cần
thiết
cho một
số
người
trong chúng ta, và
quả
thật
là cho hầu
hết
mọi
người,
nhưng
ở
đây có nêu rơ rằng
nghi lễ
không c̣n cần
thiết
cho những
kẻ
đang được
huấn
luyện
đặc
biệt.
Bạn
sẽ
rơ rệt
là sai lầm
khi cảm
thấy
khinh bỉ
những
người
vẫn
c̣n cần
nghi lễ.
Chơn
sư
đâu có cảm
thấy
khinh thường
sự
vô minh khổng
lồ
của
chúng
ta về
nhiều
vấn
đề
có tính chất
bản
thể.
Ngài muốn
giúp đỡ
chúng ta
ở
mức
tiến
hóa của
chúng ta, và đây cũng
là
phải
thái độ
của
chúng ta
đối
với
những
người
kém tiến
hóa hơn
bản thân chúng ta. Chúng ta phải cố gắng giúp cho những người đang ở mức
tiến hóa nào đó để cho họ đi xuyên suốt đường lối tăng trưởng đặc biệt của
riêng ḿnh. Chính v́ thế mà chúng ta rất cần phải “hiểu mọi người”. Nói cách
khác, trước khi bất kỳ người nào có thể trở thành một đệ tử của Chơn sư th́
trong kiếp trước y phải trải qua hàng loạt rộng lớn những kinh nghiệm sao
cho y có thể dùng trực giác để lĩnh hội được đủ thứ t́nh huống và tŕnh độ
đức tin cho dẫu bản thân y có thể không thực sự trải qua những t́nh huống
đó. Y phải lĩnh hội được cái thần
của kinh nghiệm, mặc dù y không nhất thiết phải trải qua cái dạng kinh
nghiệm cá biệt đó. Nhưng chúng ta phải cẩn thận là
thiên hạ không cố gắng áp đặt lên chúng ta những điều mà họ biết là cốt yếu
cho bản thân họ và v́ vậy họ nghĩ rằng cũng cốt yếu cho chúng ta. Thiên hạ
thường phấn đấu làm như thế. Họ cảm thấy rất cần có một kinh nghiệm nào đó
cho nên bản thân họ không giây phút nào có thể tưởng tượng ra được làm thế
nào mà những người khác lại cũng không cần cái kinh nghiệm ấy, và do đó mới
có chuyện Ṭa án Tôn giáo và các dạng độc ác hẹp ḥi khác. Thiên hạ không
được phép xen vào việc thực hành điều mà chúng ta quan niệm là bổn phận của
ḿnh, cho dù bổn phận đó có khác bao nhiêu đi chăng nữa đối với bổn phận của
những người xung quanh chúng ta. Nhưng trong khi chúng ta phải khăng khăng
đ̣i hỏi quyền của ḿnh th́ song le chúng ta phải “dung thứ cho mọi chuyện,
phải tử tế với mọi chuyện”.
CHƯƠNG XVII
SÁU ĐIỀU VỀ HẠNH KIỂM
(tiếp theo)
Một trong những ẩn dụ
chứa nhiều thông tin nhất trong quyển
Dưới Chơn Thầy là chỗ Chơn sư dạy chúng ta rằng nhiều phong tục, nghi lễ
và niềm tin mà chúng ta có lẽ đă vượt qua rồi vẫn c̣n có thể cần thiết cho
đại đa số mọi người, cũng giống như trẻ con vẫn cần những ḍng kẻ đôi để
giúp chúng viết ngay hàng thẳng lối chừng nào chúng c̣n chưa học được cách
viết chữ tốt hơn mà không cần có hàng kẻ đôi. Chơn sư có giải thích lập
trường đó là chúng ta vẫn phải c̣n tiếp xúc đồng cảm với những người có thể
chưa đạt tới mức tiến hóa của chúng ta. “Kẻ nào đă quên mất tuổi thơ ấu và
không đồng cảm với trẻ con th́ kẻ đó không thể dạy dỗ hoặc giúp đỡ trẻ con
được”. Về phần những người đă trở nên trưởng thành th́ có một khuynh hướng
rất chung chung là người ta trở nên sốt ruột đối với trẻ con và thấy cái
cách trẻ con sống chẳng thú vị ǵ. Những điều mà trẻ con quan tâm không làm
cho họ thú vị nữa và dần dần họ trôi giạt vào cái mà tôi có thể gọi là một
tuổi già cáu kỉnh, không c̣n tiếp xúc được với những hoài băo và xung động
của thế hệ trẻ hơn, và tin chắc rằng mọi chuyện đều đang dần dần trở nên sai
trái. Nhiều người trung niên tin chắc rằng vào thời họ c̣n trẻ th́ mọi thứ
đều tốt đẹp hơn nhiều so với hiện nay. Họ cảm thấy hoàn toàn chắc chắn rằng
trẻ con được dạy dỗ một cách tốt đẹp hơn, nhà cầm quyền của xứ sở ít dao
động và bất lực hơn, có ít sự phóng túng hơn và có nhiều sự tự do chân chính
hơn. Họ cảm thấy rằng thiên hạ không c̣n biết được ḿnh đang đứng ở đâu. Sự
thật là chính những người trung niên và những người già đó mới không biết
được ḿnh đang đứng ở đâu. Nói cách khác, họ đă mất chỗ đứng và không thể
t́m ra được nữa, kết quả là họ cảm thấy không hài ḥa với cái thế giới thật
ra bỏ họ lại tụt hậu măi đằng sau.
NHU CẦU THÍCH ỨNG
Thế mà thái độ này không
đạt yêu cầu. Chúng ta càng lớn lên, già đi th́ chúng ta càng phải cố hết sức
tiếp xúc với giới trẻ, trẻ theo với chúng và nhất là nhận ra được rằng những
lư tưởng vốn đủ cho thế hệ chúng ta tất yếu không cần phải là những lư tưởng
thích hợp với điều mới lạ. Vấn đề sự thật là một người phụng sự chân chính
phải làm hết sức ḿnh để thích ứng với t́nh huống đang ngày càng thay đổi mà
sự tăng trưởng của thế giới cần tới. Tôi nhận thấy rằng một trong những đặc
trưng nổi bật nhất của bà Besant là bà
hiểu những người c̣n trẻ và có
thể nói lên những hoài băo của họ. Bà kết hợp minh triết của thời đại với
ḷng nhiệt thành của tuổi trẻ, và như vậy bà ắt thấy ḿnh luôn luôn ở mức
tiên phong của mọi phong trào mới – hạn chế được sự nhiệt thành, hung hăn và
thiếu kinh nghiệm, nhưng không cản trở công việc tốt. Ta cũng có thể nói như
vậy về ông Leadbeater. Thật vậy mọi người chân chính giúp đỡ thế gian đều có
đặc trưng chuyên biệt này là có thể sống theo tinh thần của thời đại và đáp
ứng với những nhu cầu đang biến đổi của thế giới. Điều này cố nhiên có nghĩa
là có tính khí dễ thích ứng và nhiều trực giác; chúng ta phải luôn luôn cảnh
giác để phát hiện ra được những dấu hiệu của thời đại và hiểu ra được trong
những hoài băo của tuổi trẻ có sự ló dạng của Thời Đại Mới. Một người càng
già đi th́ kinh nghiệm của y càng trở nên vô giá, do đó y càng phải được tôn
trọng và vinh danh, miễn là y dùng kinh nghiệm của ḿnh để phục vụ cho những
người chưa có thời giờ đạt được kinh nghiệm đó. Bạn luôn luôn nên nhớ rằng
thế giới ở t́nh trạng tương lai thuộc về thế hệ
sắp tới và mọi điều mà chúng ta phải làm là giúp cho việc chuyển tiếp
từ thế hệ cũ sang thế hệ mới được càng đơn giản và dễ dàng bao nhiêu càng
tốt bấy nhiêu. Cuộc Cách mạng Pháp phần lớn là do sự thật thế hệ già không
hiểu được thế hệ mới. Họ xung đột khủng khiếp với nhau và kết quả là một
thời kỳ chuyển tiếp đau khổ ghê gớm. Cũng như hiện nay chúng ta đang ở vào
một giai đoạn chuyển tiếp tương tự và nhiều điều c̣n tùy thuộc vào sự khôn
ngoan và hợp tác của thế hệ lăo
thành. Chúng ta phải không ngừng nghiên cứu đường lối tư tưởng của những
người c̣n trẻ. Chúng ta bao giờ cũng phải cảnh giác để quan sát thấy những
dấu hiệu thuộc t́nh huống mới vốn có thể biểu hiện trong cuộc đời của thế hệ
trẻ. Chúng ta phải giữ cho ḿnh được cập nhật, không được chế nhạo mà phải
hoan nghênh trật tự mới vốn đang thế chỗ cho trật tự cũ. Đó chẳng qua chỉ là
vấn đề đồng cảm và hiểu ra rằng đường lối của những người khác cũng có thể
hữu ích thậm chí c̣n hữu ích hơn đường lối của chính ta. Nhất là chính ta ở
địa vị đă vượt qua một vài tập quán và niềm tin thích hợp với thế giới nói
chung th́ do đó chúng ta không được tưởng tượng rằng mọi người khác nữa cũng
đă vượt qua được những tập tục và niềm tin như thế. Việc của chúng ta là
phải giúp cho thiên hạ ở ngay mức họ đang tiến hóa tới chứ không phải cưỡng
chế họ theo một đường lối mà họ chưa sẵn sàng. Dĩ nhiên phải thừa nhận rằng
để nêu gương th́ đôi khi người ta cảm thấy có nghĩa vụ phải liên kết với một
tập quán hoặc niềm tin đặc biệt nào đó. Chẳng hạn như nếu tôi đang sống ở
một xứ sở, th́ tôi có thể thấy ḿnh nên đi nhà thờ đều đặn không phải v́ lợi
ích của chính ḿnh mà v́ lợi ích của những người đối với họ nhà thờ vẫn có
nghĩa là sự hướng dẫn tâm linh. Nhưng tôi không được
bị ràng buộc bởi những tập quán
hoặc niềm tin mà tôi đă vượt qua, mặc dù nếu cần th́ đôi khi tôi có thể
khoác lấy những tập tục hoặc niềm tin đó.
SỰ VUI VẺ
Thế rồi Chơn sư nhấn
mạnh tới sự Vui vẻ và Ngài dạy chúng ta nhiều sự thật quan trọng. Trước hết
chúng ta phải rán hiểu được rằng thật là
vinh dự khi đau khổ đến với chúng
ta. Tôi giả sử ở đây Ngài ngụ ư muốn nói thật là một vinh dự nếu đau khổ đến
với chúng ta ở mức lớn hơn b́nh thường nó phải như thế, v́ mọi đau khổ dĩ
nhiên là kết quả của những hành động trong quá khứ, do đó theo quan điểm này
th́ đâu có chi là “vinh dự” hoặc không vinh dự mà chỉ là vấn đề qui luật.
Mặt khác, nếu chúng ta hiến ḿnh cho Chơn sư th́ sự đau khổ như thế mà chúng
ta cần v́ mục đích tẩy trược ắt được tập trung lại chỉ nội trong một thời
gian tương đối ngắn sao cho chúng ta có thể diệt trừ được mọi ác nghiệp càng
nhanh càng tốt. Chơn sư có dạy rằng bằng cách này chúng ta chỉ làm việc qua
một hoặc hai kiếp sống, bằng không chúng ta phải trải qua cả trăm kiếp.
Chừng nào chúng ta chưa trừ bỏ phần nghiệp chướng gây cản trở nhiều nhất th́
chúng ta c̣n chưa tự do để chia xẻ với Sư phụ gánh nặng thế gian. Vai chúng
ta tương đối không c̣n gồng gánh nghiệp quá khứ nếu chúng ta muốn nhập thế
nơi ngoại giới và kề vai sát cánh với những người cần được giúp đỡ. Cố nhiên
điều này không có nghĩa là trước khi chúng ta có thể trở thành đệ tử th́
chúng ta phải đặc biệt dẹp hết mọi chướng nghiệp. Chẳng những trường hợp này
không hề có mà ngược lại món nợ của chúng ta sẽ trút xuống đầu chúng ta khi
chúng ta hiến ḿnh phụng sự. Nhưng đó không phải là những món nợ vốn tuyệt
vọng cản đường việc phụng sự tiếp nối. Trước hết chúng ta phải dẹp bỏ những
món nợ hầu như cản đường chúng ta phụng sự một cách gian khổ v́ nếu chúng ta
muốn hiến ḿnh cho Chơn sư th́ phải có một điều ǵ đó đáng được cung hiến.
Vậy là theo như tôi có nói, chúng ta phải tương đối thoát khỏi những gánh
nặng. Nhưng thật là rất điên rồ khi trông mong có những cuộc đời thoải mái:
ngược lại chúng ta sẽ có những cuộc đời cực kỳ khó khăn nhưng mà phàn nàn
th́ chẳng khôn ngoan. Chúng ta phải hiến ḿnh để trả nợ càng nhanh càng tốt
và nếu sự hiến ḿnh thể hiện thành ra đau khổ th́ chúng ta đừng lấy ǵ làm
lạ. Sớm muộn ǵ chúng ta cũng được tự do, mặc dù trong lúc này th́ quá tŕnh
có thể là gây đau đớn oằn oại.
Tuy nhiên cho dù nghiệp
của chúng ta có khắc khe đến đâu đi chăng nữa, Chơn sư cũng dạy rằng chúng
ta nên cám ơn là nó không tồi tệ hơn thế. Tôi phải thú nhận rằng rất thường
khi người ta không hiểu nỗi làm thế nào mà nó lại tồi tệ hơn thế được !
Nhưng tôi tin chắc rằng trong một chừng mực nào đó th́ suy nghĩ như vậy ắt
mang lại cho ta một niềm an ủi. Tôi cố gắng tưởng tượng rằng nó
có thể c̣n tồi tệ hơn sao cho tôi
có thể nhận ra được rằng cho dù ở dưới đây tôi có ra sao đi chăng nữa, th́
thực ra tôi cũng đâu đến nỗi ở tận cùng dưới đáy ! Tuy nhiên tôi xin nói rơ
rằng theo một số đường lối nào đó, dường như có vẻ thỏa đáng hơn nếu người
ta cảm thấy rằng ḿnh đang ở tận dưới đáy để biết chắc rằng sự việc
không thể tồi tệ hơn được nó. Nếu
bạn biết cám ơn là sự việc không tồi tệ hơn nữa th́ bạn cũng có thể tự hỏi
liệu trong một thời gian ngắn nó có thể không xảy ra như thế chăng. Dĩ nhiên
điều mà Chơn sư muốn chúng ta hiểu đó là chúng ta phải luôn vui vẻ và nh́n
vào khía cạnh tươi sáng của sự vật. Một phần trong việc trả món nợ nghiệp
báo của chúng ta cốt ở việc vui vẻ trả nợ: chẳng bao lâu nữa th́ kẻ thù
nghiệp báo của chúng ta sẽ không c̣n quậy chúng ta nếu chúng ta chấp nhận sự
thù địch của họ - do chính ta tự gây thù chuốc oán – một cách vui vẻ và cam
chịu. Có lẽ chúng ta có thể làm được như vậy một cách thỏa đáng hơn nếu
chúng ta tiếp tục cố gắng nhận ra được rằng mọi điều đến với chúng ta là một
phần của sự rèn luyện tất yếu mà chúng ta phải trải qua khi chúng ta tiến từ
mức vô ư thức lên mức hữu ngă thức.
Thế rồi Chơn sư tiếp tục
nhận xét rằng chúng ta phải từ bỏ mọi cảm xúc chiếm hữu v́ “chiếm hữu” là
một khía cạnh của bản chất thấp hèn. Chơn ngă biểu hiện qua ư thức Đơn nhất,
phàm ngă biểu hiện qua óc chiếm hữu. V́ thế cho nên Chơn sư thúc đẩy chúng
ta hăy từ bỏ cảm xúc này v́ làm như thế chúng ta mới loại trừ được điều gây
cản trở. Ngài nêu rơ rằng nghiệp báo có thể tước đoạt của chúng ta ngay cả
những người mà chúng ta yêu thương nhất. Điều này có nghĩa là nghiệp báo
dường như tước đoạt của chúng ta những người đó nhưng chúng ta không bao giờ
mất cái mà chúng ta đă thu hút được vào trong Nhất nguyên đại đồng thế giới.
Sự mất mát hoàn toàn thuộc về các
cơi thấp, đó là một điều hăo huyền mặc dù tôi biết rất rơ rằng điều hăo
huyền này gây ra vô vàn đau khổ. Chắc chắn là cơi trần sẽ vận dụng ảnh hưởng
tất yếu thuộc cơi ḿnh và một sự mất mát trên cơi trần chỉ có thể được cảm
nhận khi chúng ta đang nhất thời ch́m đắm trong vật chất của cơi trần. Nhưng
cho dù sự chia ly có thể khó khăn đến đâu đi nữa th́ không v́ vậy mà chúng
ta được suy ra rằng đó là một sự chia ly có thực. Cá nhân tôi th́ khi tôi
càng học hỏi được nhiều, tôi càng thấy rằng sự chia ly trên cơi trần ít gây
nản ḷng hơn khi tôi đă xác lập bản thân vững chắc hơn trong cuộc sống vĩ
đại hơn. Một sự chia ly trên cơi trần chắc chắn là có những thuộc tính gây
rối, nhưng chúng ta càng sống trong thế giới của Chơn sư th́ chúng ta càng
dứt khoát thấy rằng những người mà chúng ta yêu thương thật ra luôn luôn ở
với chúng ta và mọi sự chia ly đều có dụng ư làm cho chúng ta sáng mắt ra
với bài học này.
Chơn sư kết luận những
nhận xét về sự vui vẻ bằng cách khẳng định lại sự thật là ngă ḷng rất độc
ác. Ngài nhận xét rằng Ngài thường dùng những người phụng sự để thông qua họ
tuôn đổ thần lực trợ giúp cho những người khác, và Ngài nhận thấy rằng Ngài
không thể làm điều này nếu chúng ta bị ngă ḷng, v́ ngă ḷng dựng nên một
bức vách u ám xung quanh chúng ta khiến cho sự thoải mái chút xíu từ bên
ngoài cũng không xuyên qua được, và một chút xíu ánh sáng của Chơn sư cũng
không xuyên qua được để ra với ngoại giới. Ta nên nhớ rằng sự ngă ḷng
thường có nguyên nhân là một cơ thể không khỏe mạnh, hoặc do hoàn cảnh bên
ngoài mà nguyên nhân là sự xáo trộn của các trung tâm sinh lực của chính ta.
Do đó chúng ta không được kết luận rằng
v́ chúng ta ngă ḷng
cho nên sự ngă ḷng phải xuất
phát từ bên trong. Để giúp ta pḥng ngừa đối với sự ngă ḷng, ta cần có một
cơ thể khỏe mạnh đến mức tối đa và phải cẩn thận giữ cho nó được khỏe mạnh.
Khi thần kinh hệ của chúng ta bị mất sinh lực do quá căng thẳng hoặc do một
dạng kém sức khỏe nào đó, th́ sự vui vẻ ắt khó duy tŕ được hơn v́ các kênh
dẫn để giao tiếp với thế giới của Chơn sư nhất thời đă bị hư hỏng. Cũng
giống như vậy, chúng ta phải cảnh giác đối với những sự xáo trộn từ bên
ngoài. Nhiều tư tưởng và xáo trộn có vẻ như của chúng ta th́ thực ra lại chỉ
là những thứ tạm trú đột nhập, và chúng ta phải cố gắng tưởng tượng đến mức
tối đa rằng mọi tư tưởng và xúc cảm bất hảo đều là tạm trú đột nhập; và nếu
muốn chúng ta có thể xua đuổi chúng đi. Đừng bao giờ để cho chúng ta giả sử
rằng bất kỳ tư tưởng hoặc xúc cảm nào đều là một phần không thể tách rời
khỏi bản chất của chúng ta.
NHẤT TÂM
Bây giờ
chúng ta tiếp
tục
xét tới
tính Nhất
tâm, có nghĩa
là làm công việc của
Chơn
sư.
Thật
vậy
mọi
điều
hữu
ích
và vị
tha
đều
là công
việc
của Chơn
sư.
Chúng ta không được
tưởng
tượng
rằng
chỉ
công
việc
liên quan tới
Hội
Ngôi sao
Đông
phương
hoặc
Hội
Thông Thiên Học
mới
là công việc
của
Chơn
sư.
Sống
hữu
ích
ở
nhà
th́ chẳng
khác ǵ
làm công việc
cho
Chơn
sư.
Chơi
tṛ chơi
giỏi,
học
hành giỏi
giang
th́ cũng
chẳng
khác
ǵ làm việc
cho
Chơn
sư.
Người
ta đôi khi muốn
ḿnh có thể làm việc
phụng
sự
cho
Chơn
sư
nhiều
hơn
mức
thời
điểm
đó
dường
như
có
thể được.
Họ
nói rằng
nghiệp
báo đang
chống
lại
họ
! Thật
ra nghiệp
báo chẳng
bao giờ
chống
lại
bất
cứ
ai
v́ đó chẳng
qua
chỉ
là một
ngưỡng
cửa dẫn tới cuộc sống cao siêu hơn – chúng ta nhảy vọt lên một vị trí cao
hơn từ cái bàn nhún mà nghiệp báo đă tạo ra cho chúng ta. Cho dù bạn có thể
cô độc, cho dù môi trường Thông Thiên Học xung quanh có thể bị cô lập đến
đâu đi nữa th́ song le bạn vẫn có thể làm việc cho Chơn sư, và công việc của
Chơn sư cốt ở cách thức mà bạn làm điều xảy đến với bạn hết ngày này sang
ngày khác. Mọi điều xảy đến với chúng ta, cho dù có bản chất nhỏ nhặt đến
đâu đi chăng nữa đều là một chút phần việc rèn luyện được dành cho chúng ta
để đưa chúng ta đến gần hơn với thế giới của Chơn sư. Bạn và tôi có thể
không nhận ra được điều này. Chúng ta có thể thắc mắc làm thế nào mà một
phần việc xét theo biểu kiến là nhỏ nhặt mà lại có thể liên quan tới Chơn
sư. Chẳng hạn như một nhân viên văn pḥng có thể thắc mắc làm thế nào việc
viết một bức thư không quan trọng v́ lợi ích của xí nghiệp mà lại có thể
phụng sự cho Chơn sư được. Thật ra nếu y viết tốt được bức thư không quan
trọng đó th́ y mới có thể viết tốt được một bức thư quan trọng hơn một chút,
cho đến khi y có thể viết tốt được những bức thư quan trọng và một ngày kia
có lẽ y có dịp viết tốt được những bức thư của Chơn sư. Mọi hành vi trong
cuộc sống đều là một bước tiến trên thang tiến hóa và đưa tới bước tiến kế
tiếp bên trên. Cho dù hành vi đó có thể ra sao đi chăng nữa th́ đó là một
bước tiến gần hơn so với hành vi trước kia và dứt khoát đưa tới bước tiến
vượt ra ngoài. Sự thật là mọi hành động đều là một phần trong công việc của
Chơn sư nếu chúng ta nhớ tới Ngài trong khi chúng ta đang làm điều ǵ đó. V́
vậy chúng ta rán hiểu được rằng bản chất của hành động không quan trọng,
điều quan trọng chính là việc bạn thừa nhận sự việc là Chơn sư để mắt tới
mọi chuyện mà bạn làm và bằng cách đó bạn khiến cho mọi điều bạn làm có thể
liên hệ được giữa bản thân ḿnh với chính Ngài.
Phần c̣n lại trong nhận
xét về sự nhất tâm chỉ nhấn mạnh tới nhu cầu nhận ra được rằng mọi ngày
trong cuộc đời đều có thể tận dụng để cho chúng ta được thu hút gần hơn rất
nhiều tới Chơn sư. Chơn sư có dạy rằng chúng ta “phải hợp nhất với Thánh
đạo” và Thánh đạo vốn ở khắp mọi nơi. Người ta đôi khi nghĩ rằng Thánh đạo
chẳng ở đâu cả ngoại trừ ở Tổng Hành Dinh của Chi bộ mà họ thuộc về, và họ
chỉ bước trên Thánh đạo khi họ đang tham dự những buổi họp. Trọn cả thế giới
và mọi bộ phận trong đó, mọi t́nh huống trong đó đều là Thánh đạo đưa nhân
loại tới mục tiêu của ḿnh và trong khi một vài t́nh huống chắc chắn là góp
phần làm gia tăng ư thức về thế giới của Chơn sư th́ đó là v́ có những người
sống trong t́nh huống đó đă cấp sinh khí cho chúng. Bạn cũng có thể ư thức
về thế giới của Chơn sư trong sinh hoạt gia đ́nh của ḿnh, trong sinh hoạt
học đường của ḿnh, ở sân chơi cũng như khi bạn ở bất cứ nơi đâu. Nhưng đừng
để cho những cám dỗ hoặc ngay cả những luyến ái trần tục lôi kéo bạn đi xa.
Luôn luôn có khuynh hướng là những điều này sẽ gây ra khó khăn cản đường bạn
v́ mọi cấp vật chất đều có khuynh hướng tự nhiên là chú trọng tới quán tính.
Vật chất luôn luôn muốn ở ́ ra một chỗ để tránh sự tan ră và thay đổi. V́ lư
do này, nhiều người sợ chết nhưng bạn phải cố gắng tối đa để tránh được điều
có khuynh hướng cản trở sự tăng trưởng của ḿnh. Thiên hạ đôi khi bảo rằng
cũng tự nhiên thôi khi phó mặc bản thân cho những luyến ái trần tục hoặc
những cám dỗ đời thường. Nhưng ở đây từ ngữ “tự nhiên” được dùng theo nghĩa
sai trái. Phó mặc bản thân cho những điều này không phải là tuân theo tự
nhiên mà chắc chắn là tuân theo tập tục và thói quen. Nói cách khác, thiên
hạ chắc chắn có khuynh hướng phó mặc bản thân cho mọi thứ t́nh huống cản trở
sự tiến bộ, nhưng bạn và tôi nên nhớ rằng chúng ta không c̣n bị ràng buộc
bởi thói quen và tập tục nữa, và chúng ta chẳng bao giờ chân thực với tự
nhiên hơn khi chúng ta phấn đấu tăng trưởng bằng cách vượt qua những tập tục
và rào chắn mà nhờ có chúng trong quá khứ chúng ta đă có thể tiến hóa được.
Xét về vấn đề luyến ái
trần tục tôi không muốn bạn đọc tưởng tượng rằng chúng ta nên cố gắng bóp
nghẹt t́nh thương của chúng ta đối với thân bằng quyến thuộc. Ngược lại,
chúng ta càng có thể biểu lộ t́nh thương qua bản chất ḿnh bao nhiêu th́
chúng ta càng tăng trưởng nhanh bấy nhiêu. Nhưng chúng ta không được để cho
sự luyến ái của ḿnh trở nên ích kỷ khiến cho chúng ta bạc nhược, v́ điều
này chẳng ích lợi ǵ cho bản thân chúng ta cũng như cho những người mà chúng
ta yêu thương. Việc phụng sự yêu thương nhất mà chúng ta có thể dành cho bạn
bè ḿnh là trở thành một ḥn đá tảng vững chắc hỗ trợ cho người bạn cần giúp
đỡ, nhưng chúng ta không thể làm được như vậy nếu chúng ta để cho sự luyến
ái khiến chúng ta mù quáng với con đường mà chúng ta có thể thật sự hữu ích
được. Một đứa trẻ thường nghĩ rằng mẹ ḿnh không yêu thương ḿnh v́ mẹ ḿnh
không cho ḿnh các thứ mà ḿnh muốn. T́nh thương chân chính nhất là giúp cho
linh hồn tăng trưởng, c̣n t́nh thương ích kỷ rất thường khi làm bại hoại thể
xác.
QUYẾT ĐỊNH CỦA CHƠN THẦN
Chơn sư cuối cùng nhận
xét rằng Chơn thần vốn là Thượng Đế nội tâm của chúng ta quyết tâm tăng
trưởng và các hạ thể càng sớm hài ḥa chính ḿnh với ư chí sắt đá của Chơn
thần bao nhiêu th́ ư chí của Thượng Đế càng sớm được hoàn thành bấy nhiêu.
Chơn thần tạo ra những bức màn hăo huyền để nó có thể thu lượm kinh nghiệm
trong mọi giới của thiên nhiên thuộc Thượng Đế, và những bức màn được tạo ra
như thế cố gắng duy tŕ sự tồn tại của ḿnh ngay cả khi giá trị của chúng đă
biến mất. Nhờ vào một quá tŕnh tưởng tượng, họ phấn đấu tin ḿnh là thực
tại thay v́ chỉ là những h́nh tướng hữu hoại. Thỉnh thoảng chúng ta cần rút
lui vào trong bản thân để cắt đứt được sự liên kết với các hạ thể vốn rất
thường là nguyên nhận khiến chúng ta tin rằng các hạ thể là thực tại duy
nhất. Chính v́ lư do này mà tham thiền có giá trị xiết bao, và tôi khuyên
bạn đọc nên chọn theo một sơ đồ tổng thể nào đó mà tôi đă phác họa ở một
chương trước kia. Nhưng nên nhớ rằng lư do để tham thiền như thế là chúng ta
phải không ngừng học cách phân biệt giữa Thượng Đế nội tâm với những hiện
thể mà Thượng Đế nội tâm hoạt động thông qua đó; như vậy chúng ta mới học
được cách đem lại sự cân xứng chân chính và giá trị chân chính cho mỗi bộ
phận của chính ta.
CHƯƠNG XVIII
SÁU ĐIỀU VỀ HẠNH KIỂM
(hết)
Điểm cuối cùng trong sáu
điều về hạnh kiểm là sự Tin tưởng. Chúng ta được dạy cho biết rằng chúng ta
phải tin cậy Chơn sư. “Nếu con đă gặp Chơn sư th́ con ắt tin cậy Ngài hết
mức qua nhiều kiếp sinh tử luân hồi”. Tôi tin rằng đây là một phát biểu của
chính Alcyone – khi cảm thấy sự linh hứng hào hùng qua sự hiện diện của Chơn
sư, ông buộc miệng thốt ra những lời lẽ tri ân như thế. V́ một khi ta đă
biết được Chơn sư th́ chính Ngài là ḥn đá tảng xua tan mọi vô minh và mọi
nỗi nghi ngờ. Nhưng mặc dù nhiều người trong chúng ta có thể có đặc quyền
diện kiến một trong các bậc Chơn sư th́ có lẽ bạn không nhớ được các Ngài
xét về kư ức trên cơi trần, và do đó bạn khó ḷng đưa xuống thế giới này cái
tri thức là chân tướng của các Ngài ra sao. Nhưng chúng ta đươc dạy dỗ là
ḿnh phải cố gắng nhận ra được các Ngài. Nếu chúng ta không thể cảm thấy
được sự hiện diện bằng xương bằng thịt của các Ngài hoặc nếu các Ngài dường
như không giám sát chúng ta th́ đó là việc chúng ta đang học cách trông cậy
vào Thượng Đế nội tâm và tự thắp đuốc lên mà đi. Chúng ta liên tục ở trong
sự hiện diện của các Chơn sư, chúng ta nên luôn luôn tin cậy vào các Ngài.
Điểm Linh Quang ở nơi mỗi một trong chúng ta và chúng ta có nhiệm vụ trông
cậy nhiều vào Thượng Đế nội tâm cũng như vào Thượng Đế ngoại giới. V́ vậy
đôi khi Chơn sư dường như có vẻ ngh́n trùng xa cách với chúng ta mặc dù thật
ra Ngài gần gũi chúng ta hơn cả người bạn thân thiết nhất của chúng ta hoặc
người quyến thuộc mà chúng ta yêu thương nhất. Nếu trong óc phàm, chúng ta
không biết được sự tồn tại cá nhân của các Ngài th́ song le chúng ta phải
nghĩ tới các Ngài và cố gắng nhớ rằng sự hoàn thiện của các Ngài là niềm hứa
hẹn của chính chúng ta. Khi kính cẩn nghĩ đến các Ngài, chúng ta thật ra chỉ
kính cẩn với chính ḿnh, tức là Thượng Đế nội tâm. Chúng ta phải liên tục
nghĩ đến các Ngài, cố gắng làm điều mà chúng ta nghĩ rằng các Ngài mong
chúng ta làm như thế. Bằng cách này, chúng ta tạo ra được một mối liên kết
giữa các Ngài và bản thân chúng ta, và thông qua kênh dẫn được tạo ra như
thế các Ngài có thể trợ giúp chúng ta. Đây là điều ngụ ư khi Ngài dạy rằng “nếu
con không tin cậy Chơn sư th́ ngay cả chính Ngài cũng không trợ giúp được
con”. Nên nhớ rằng Chơn sư không can thiệp giúp đỡ kẻ nào không muốn điều
đó. Tất cả chúng ta đều có quyền tự do ư chí và nếu chúng ta không muốn trợ
giúp th́ sự trợ giúp đó ắt không áp đặt lên chúng ta. Nói cách khác, nếu
chúng ta không muốn tạo ra phần đóng góp của ḿnh vào kênh dẫn th́ các Ngài
sẽ không tạo ra kênh dẫn cho chúng ta. Như vậy, nếu chúng ta muốn cho các
Ngài dẫn dắt và chỉ đạo th́ chúng ta phải chứng tỏ rằng ḿnh muốn nó bằng
cách tạo ra một kênh dẫn hướng về các Ngài thông qua nỗ lực trở nên giống
như Ngài.
TIN CẬY VÀO CHƠN SƯ
Chúng ta cũng được dạy
bảo rằng chúng ta phải tin cậy Chơn sư. Bạn có lẽ thắc mắc rằng làm thế nào
chúng ta có thể tin cậy các đấng mà ḿnh không nhớ đă gặp rồi. Thật ra Chơn
sư đích thực là gương mẫu hiện thân điều mà chính bản thân chúng ta một ngày
nào đó sẽ thành ra như thế. Hiện nay chúng ta ra sao th́ xưa kia các Ngài
cũng có lần giống như thế. Nhờ sức mạnh và quyết tâm không nao núng trợ giúp
thế gian, các Ngài đă phát triển Thượng Đế nội tâm cho tới khi Ngài chói
sáng không bị che lấp bởi ḷng ích kỷ và sự biệt lập. Sau khi đă khơi hoạt
trọn vẹn được Chơn ngă của ḿnh, giờ đây các Ngài sẵn ḷng giúp chúng ta
khơi hoạt Chơn ngă của chúng ta sao cho tin cậy vào các Ngài, thật ra là
chúng ta đang tin cậy chính ḿnh. Các Ngài chính là mọi điều tốt đẹp nhất
nơi chúng ta và c̣n nhiều hơn thế nữa; thật ra giữa Thượng Đế nội tâm và
Thượng Đế bên ngoài ta không hề có sự ngăn cách. Mọi hành động tử tế mà
chúng ta thực hiện, mọi nỗ lực mà chúng ta thực hiện theo chiều hướng vị tha,
mọi phương tiện mà chúng ta sử dụng để phát triển thể trí, thể vía và thể
xác nhằm phụng sự đều là biết bao nhiêu dấu hiệu của việc chúng ta tin cậy
vào Chơn sư. Nếu chúng ta tin cậy vào Chơn ngă th́ chúng ta phải tin cậy vào
Chơn sư. “Nếu không có sự tin cậy hoàn toàn th́ không thể có sự tuôn chảy
hoàn toàn của t́nh thương và quyền lực”. Điều này có nghĩa là nếu chúng ta
không quyết tâm từ bỏ mọi điều ích kỷ v́ ích lợi trợ giúp thế gian, th́
chúng ta ắt không được như những huynh đệ trẻ tuổi đối với các bậc Huynh
trưởng của nhân loại. Chúng ta phải phấn đấu để hiệp nhất về bản chất với
các Ngài nếu chúng ta muốn có ḍng chảy liên tục t́nh thương và quyền lực từ
các Ngài đến ban bố cho chúng ta. Mọi tư tưởng ích kỷ, mọi sự sa đà của bản
chất thấp hèn đều là một chướng ngại nho nhỏ ngăn trở ḍng chảy đó. Tin cậy
vào Chơn sư có nghĩa là biết rằng Ngài chính là điều mà thâm tâm chúng ta hi
vọng một ngày kia ḿnh sẽ trở nên như thế. Do đó chúng ta nghĩ rằng Ngài là
lư tưởng sống động mà chúng ta chỉ có thể hoài băo hướng về đó, và chúng ta
phải cố gắng dùng trí tưởng tượng của ḿnh để phát hiện xem Ngài có thể nói,
làm, hoặc suy nghĩ ra sao trong đủ thứ hoàn cảnh mà chúng ta phải đắm ch́m
trong đó nơi hạ giới. Do đó tin cậy các Ngài có nghĩa là biết rằng các Ngài
là những gương mẫu sống động của Chơn ngă nơi con người và chúng ta phải
phấn đấu uốn nắn ḿnh theo h́nh thức và bản chất đó.
THƯỢNG ĐẾ NỘI TÂM
Chúng ta cũng được dạy
dỗ là phải tin cậy chính ḿnh. Đối với nhiều người th́ điều này dường như là
một lời khuyên kỳ lạ. “Con bảo rằng con thừa biết chính ḿnh ư ? Nếu con cảm
thấy như thế th́ con chẳng biết ǵ về chính con đâu; con chỉ biết cái lớp vỏ
bên ngoài bạc nhược vốn đă nhiều lần rớt xuống śnh lầy. Nhưng
con – thật là con đấy – là một
điểm linh quang của lửa của chính Thượng Đế, và Thượng Đế chính là Đấng Toàn
Năng nơi con, v́ vậy nếu con quyết tâm th́ chẳng có điều chi mà con không
thể làm được”. Tôi biết việc tin vào điều này thật khó khăn biết dường nào
v́ chúng ta đồng nhất hóa chính ḿnh quá nhiều với các hạ thể đến nỗi mà
chúng ta liên tục nghĩ rằng ḿnh chính là các hạ thể. Khi chúng ta bảo rằng
“Tôi suy nghĩ”, “Tôi cảm thấy” hoặc “Tôi làm điều này điều nọ”, th́ chúng ta
đang tự đồng hóa với xúc cảm, với tư tưởng, với hành vi, mặc dù chúng ta
không ngừng được dạy dỗ rằng các hạ thể phải là tôi tớ chứ không phải là chủ
nhân ông. Chúng ta phải không ngừng hiểu ra được rằng Thượng Đế nội tâm đang
cố gắng hoạt động qua các hạ thể và chính v́ khó kiểm soát được chúng cho
nên mới có sự lẫn lộn. Chơn sư dạy rằng
chính thật bạn là “một điểm linh
quang của lửa của chính Thượng Đế” và “Thượng Đế là Đấng Toàn Năng ở bên
trong bạn”. Khi bạn bảo rằng “Tôi không thể” th́ điều này có nghĩa là phàm
ngă nhất thời lại lấn lướt. Xúc cảm, tư tưởng, hành động rồi cũng qua đi,
chỉ có bạn chân thật là c̣n thôi. Thật vậy, đây là một sự thử thách. Mọi
điều mà càng ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn, càng trở nên thường trụ hơn th́
rất có thể là dấu hiệu của việc Thượng Đế nội tâm đă bắt đầu chế ngự được
các hạ thể mà ḿnh phải khoác lấy để tiếp xúc với đủ thứ kinh nghiệm mà hạ
giới cung cấp. Mọi điều mang lại cho bạn càng ngày càng có thêm khả năng yêu
thương, thêm khả năng vị tha, thêm khả năng phụng sự đều là Thượng Đế nội
tâm; đôi khi phần c̣n lại dường như khống chế bạn hoàn toàn đến nỗi chẳng
những nó không trường tồn mà c̣n không thỏa măn bạn lâu dài được nữa. Bạn
càng giúp đỡ được người khác th́ bạn lại càng muốn giúp đỡ hơn nữa. Bạn càng
yêu thương được rộng lớn th́ bạn lại càng muốn yêu thương hơn nữa. Nhưng có
nhiều ham muốn sẽ không tồn tại vào lúc mà chúng đă chán chê rồi. Thật vậy,
hầu hết ham muốn mà bạn có chỉ là những tṛ chơi mà Thượng Đế rèn luyện bạn
để phân biệt điều có thực và điều không có thực. Bằng cách cho bạn có được
những điều mà ḿnh muốn, Ngài cho bạn biết cái Ta thực của bạn là ǵ, nó
không thực sự muốn những điều đó v́ chỉ được một lúc thôi là chúng không c̣n
làm cho bạn măn nguyện được nữa. Như vậy, bằng cách xa rời hết điều này đến
điều khác theo quá tŕnh loại trừ bạn mới t́m ra điều mà chỉ có một ḿnh nó
thôi mới mang lại được sự an b́nh và hạnh phúc trường cửu. Bạn sống trên thế
gian cũng v́ điều này và vui buồn luân phiên nhau dần dần khiến cho bạn tập
trung nỗ lực vào điều trường cửu. Nếu bạn không có được những thứ đó th́ bạn
ắt không cố gắng làm chi. Đó là những dấu hiệu của việc Thượng Đế nội tâm
phấn đấu tự biết ḿnh, biết được quyền năng của ḿnh, biết được thiên tính
của ḿnh. Nó không ngừng bảo rằng: “Không, tôi chẳng muốn điều này v́ trong
đó không có hạnh phúc trường tồn”. Thượng Đế nội tâm bạn
phải tăng trưởng nhưng thỉnh
thoảng nó có thể nghĩ rằng điều này điều kia hoặc điều nọ là hạnh phúc
trường tồn, và do đó là một phần bản chất của chính nó. Nó nếm trải điều
dường như là trường tồn đâm ra ngán ngẫm, v́ thấy rằng điều xét theo biểu
kiến là trường tồn không c̣n có khả năng thỏa măn ḿnh được nữa và như vậy
học biết được rằng chính điều đó cũng không phải là mục tiêu. Dần dần nó bị
thu hút lại gần các thực tại của cuộc sống và cuối cùng đạt tới sự tương đối
hoàn hảo của Chơn sư, Ngài đă học được bản chất của ít ra là nhiều điều chắc
chắn vốn tạo nên Thiên tính.
Ta đă được dạy bảo hăy
tự nhủ: “Điều ǵ có người đă làm được th́ tức là con người có thể làm được.
Tôi là một con người thế nhưng tôi cũng là Thượng Đế nơi con người; tôi có
thể làm được điều này và tôi quyết tâm làm”. Nói cách khác, điều mà Chơn sư
đă làm th́ tôi cũng có thể làm được v́ tôi là Thượng Đế nơi con người. Nếu
đă có các Chơn sư Minh triết th́ tôi cũng có thể trở thành một Chơn sư Minh
triết, v́ nơi tất cả chúng ta chỉ có Sự Sống Nhất Như thôi, mặc dù nó có thể
ở nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Điều vốn là Sự Sống Nhất Như nơi
Chơn sư th́ cũng là Sự Sống Nhất Như nơi tôi. Sự sống nơi Ngài có thể được
phát triển toàn bích hơn, nhưng đó chỉ là v́ Ngài đă đi xa hơn dọc theo con
đường mà chính tôi đang bước trên đó. Điều rất quan trọng là tất cả chúng ta
đều thấy ḿnh đồng nhất hóa với các đấng tiên phong của ḿnh cũng như ta
thấy ḿnh đồng nhất hóa với những người đang nối gót chúng ta. Nhưng khó
khăn thật là vô số và cũng chẳng lấy ǵ làm lạ khi chúng ta nghĩ tới sự vinh
diệu vô lượng của mục tiêu. Những nỗ lực chút ít có thể mang lại những thành
công nho nhỏ: những nỗ lực lớn lao hơn có thể mang lại những thành công lớn
hơn. Nhưng khó khăn trên Thánh đạo đưa con người ta tới mức hoàn hảo, và chỉ
bằng cách đo lường sự khó khăn th́ ta mới có thể đo lường được sự huy hoàng
của mục tiêu mà ta đang phấn đấu hướng về đó. V́ vậy theo một nghĩa nào đó,
ta lấy làm vinh hạnh khi có rất nhiều khó khăn, v́ nếu có nhiều chướng ngại
khó vượt qua th́ kết cuộc phải là một kết quả rất xứng đáng với mọi nỗ lực
mà chúng ta có thể phải thực hiện. V́ vậy, ta đừng nghĩ quá nhiều tới những
khó khăn giữa đường mà phải nghĩ tới kết quả cuối cùng; ta nên nhớ rằng ḿnh
có khả năng vượt qua được mọi chướng ngại cho dù chúng lớn lao đến đâu đi
chăng nữa. Khó khăn là không vượt qua được khi ta không muốn vượt qua chúng.
Có thể là trong một kiếp đặc thù nào đó, ta có thể có những khó khăn mà ta
không thể vượt qua được, và ta có thể phải ḥa giải hoặc thỏa hiệp với nó.
Chẳng hạn như một người có thể có một vài khuyết tật cơ thể vốn ngăn cản
không cho y chơi thể thao hoặc có thể có một vài khuyết tật trí tuệ vốn ngăn
không cho y khéo léo trong một số chiều hướng. Nhưng đó là tất cả những ǵ
thuộc quá khứ. Trong tương lai y có thể trở nên bất cứ thứ ǵ mà y muốn nếu
y vận dụng Ư chí Thiêng liêng ở nơi ḿnh.
BẢN CHẤT CỦA KHÓ KHĂN
Trong lúc này tôi không
muốn gợi ư rằng nhiệm vụ là dễ dàng. Nó không dễ dàng đâu. Lư do là v́ có
hai lực mâu thuẫn; một là lực sáng tạo c̣n một là lực bảo tồn. Có lực tăng
trưởng th́ cũng có lực trơ ĺ. Ba hồi ta muốn hoạt động, ba hồi ta lại muốn
nghỉ ngơi. Ba hồi ta tràn đầy năng lượng, ba hồi ta lại thấy mệt mỏi. Nếu
chúng ta chẳng biết mệt mỏi nghĩa là ǵ th́ chúng ta cũng chẳng hiểu được
tràn đầy năng lượng vui tươi là ra sao, và nếu chúng ta chẳng biết cuộc đời
đầy hoạt động là ǵ th́ chúng ta cũng chẳng đánh giá được sự tương phản của
nó là nghỉ ngơi. Nhưng luôn luôn có khuynh hướng làm thái quá các sự việc;
đôi khi ta quá tràn đầy năng lượng, đôi khi ta lại quá lười biếng. Và ta
liên tục dao động giữa hai cực này, đôi khi quá nhấn mạnh tới cực này rồi
đôi khi lại quá nhấn mạnh tới cực kia. Chúng ta cần nghỉ ngơi nhưng chúng ta
cũng cần năng lượng; song le chúng ta phải nghỉ ngơi khi chúng ta cần nghỉ
ngơi và chúng ta phải hoạt động khi chúng ta cần phải làm việc. Ta không
được phó mặc cho một trong hai thứ. Nếu đôi khi xảy ra trường hợp khó khăn
dường như quá nhiều đối với chúng ta th́ chúng ta đâm ra có khuynh hướng phó
mặc cho mọi chuyện xảy ra và cứ yên nghỉ. Dĩ nhiên điều này là rất tự nhiên,
nhưng chúng ta quên rằng thực ra không khó khăn nào là quá nhiều đối với
chúng ta, v́ thực ra không có khó khăn nào mà không do chính chúng ta gây ra.
Mọi khó khăn mà bạn và tôi đang có đều là một bài học giúp chúng ta học được
một điều ǵ đó mà hiện nay chúng ta c̣n chưa biết. Lúc mà chúng ta khắc phục
được nó, vượt qua được nó th́ nó không c̣n ở dạng khó khăn nữa mà trở thành
một lực cho chúng ta tác động. Điều dường như khó leo trèo trên đó th́ sau
khi chúng ta leo được lên đó rồi, nó sẽ trở thành một nơi từ đó chúng ta có
thể thấy rơ rệt hơn nhiều so với mức chúng ta có thể thấy trước đó. Những
người ở trên đỉnh núi thấy rơ hơn những người ở dưới vực sâu. Chắc chắn là
việc leo núi ắt gây mệt mỏi, nhưng tầm nh́n từ trên đỉnh thường cũng rất bơ
công cho ta leo núi. Chơn sư vốn ở trên đỉnh núi và chúng ta phải tin vào
lời đoan chắc của Ngài rằng tầm nh́n từ trên đỉnh ắt đáng cho ta nh́n. Chúng
ta thấy niềm vui trên khuôn mặt các Ngài và chúng ta phải cố gắng nhận ra
được rằng những khó khăn trước mặt chúng ta chẳng là ǵ so với niềm vui vào
lúc tận cùng.
CHƯƠNG XIX
T̀NH THƯƠNG
Bây giờ chúng ta xét tới
điều kiện quan trọng nhất mặc dù nó được xếp vào cuối quyển sách, đó là T́nh
Thương. Tôi có nghe các bậc lănh đạo dạy rằng mỗi thế giới hoặc là hệ thống
đều có nốt nhạc đặc biệt của riêng ḿnh, cũng như một cá nhân có đặc trưng
nổi bật của riêng ḿnh. Tôi đă hiểu họ khi bảo rằng xét về thế giới này th́
nốt chủ âm của nó là t́nh thương. Cho dù điều này ra sao đi nữa th́ nó vẫn
c̣n đúng miễn là có tính t́nh mang nặng nét yêu thương, th́ cũng không có ǵ
quan trọng lắm nếu y có nhiều
khuyết điểm liên tục cản trở ḿnh. Theo lời Chơn sư dạy th́ nếu tính chất
bác ái đủ mạnh nơi con người, th́ “nó bắt buộc y phải thu hoạch được mọi đức
tính c̣n lại và mọi đức tính c̣n lại mà không có t́nh thương th́ chẳng bao
giờ đầy đủ cả”. Điều này có nghĩa là bản chất yêu thương đă phát triển toàn
vẹn nơi bạn th́ nó ắt dần dần trở nên càng ngày càng thanh khiết cho tới khi
nó tẩy trược bạn hoàn toàn khỏi tính ích kỷ. Từ việc yêu thương một người
chúng ta dần dần tiến tới việc yêu thương nhiều người. Từ mức thích công
việc của ḿnh, nghề nghiệp của ḿnh, chúng ta tiến lên mức thích công việc
của thế giới và thích phụng sự nó. Người ta đôi khi nghĩ rằng những người
nào muốn phụng sự thế giới th́ phải từ bỏ mọi cảm t́nh cá nhân. Tôi thường
nghe thiên hạ bảo rằng họ đang cố gắng cắt đứt mọi sự luyến ái đối với gia
đ́nh, bè bạn để cho họ có thể học cách phụng sự thế giới và theo gót Chơn
sư. Họ quên mất rằng chỉ có nhờ vào t́nh yêu bạn bè và t́nh thương gia đ́nh
mà người ta mới học được cách yêu thương thế giới giống như Chơn sư yêu
thương nó. Và chúng ta không nhận ra đúng mức được rằng cảm t́nh cá nhân
không cần phải biến mất – thật ra cũng không nên biến mất – cho dù t́nh
thương của ta mạnh mẽ đến nỗi nó bao trùm được cả thế giới. Chính các Chơn
sư cũng có những cảm t́nh cá nhân. Chúng tôi được dạy rằng các Ngài cũng có
những học tṛ cưng và một nhóm nhỏ những người bạn chuyên biệt. Tại sao các
Ngài lại không như vậy được ? Thật ra th́ các Ngài không để cho cảm t́nh cá
nhân xen vào bổn phận đối với thế giới và các Ngài cũng không cho phép những
ràng buộc cá nhân tiếp tay dù là chút ít cho những đường lối hành động sai
trái. T́nh thương của các Ngài cho dù dành cho cá nhân hoặc cho thế giới đều
là một t́nh thương củng cố - một t́nh thương ban ra chứ không phải t́nh yêu
đ̣i hỏi. Đây là căn bản chân chính của mọi t́nh thương và là yếu tố tẩy
trược của nó.
T̀NH THƯƠNG VÔ NGĂ
Biết bao nhiêu người
trong chúng ta khi yêu thương bạn bè đều đ̣i hỏi rằng bạn bè cũng yêu thương
lại ta, và có lẽ chúng ta trông mong họ có đủ thứ thái độ và cách phục vụ
đáp trả lại t́nh yêu mà chúng ta dành cho họ. Điều này có thể là tự nhiên
trong những giai đoạn đầu nhưng bản chất bám víu đó của t́nh yêu chỉ là t́nh
yêu ở dưới khía cạnh ích kỷ. T́nh yêu phải lớn rộng như một con sông đầy sức
mạnh, bao giờ cũng chảy ra ngoài có tác dụng bất kể nó có thu lại được điều
ǵ hay chăng. T́nh yêu ở khía cạnh thấp thỏi là ḷng ham muốn, c̣n ở khía
cạnh cao thượng lại là ư chí theo như Chơn sư có nêu rơ. Nhiều người trên
thế gian đ̣i hỏi t́nh yêu của ḿnh phải được đền đáp lại và bị tổn thương
nếu nó không được đền đáp. Điều này cũng chẳng khác ǵ người ta trả công
ngay tức khắc và chứng tỏ rằng người đó chưa bắt đầu tẩy trược được t́nh
thương của ḿnh. Những người thật sự biết cách yêu thương đều bảo rằng chỉ
nội việc tuôn chảy của ḍng t́nh thương cũng là một sự thỏa măn lớn lao đến
nỗi họ không có khuynh hướng cân đong đo đếm bản chất của sự đền đáp. Bài
học về t́nh yêu chắc chắn là phải bắt đầu với cá nhân. Nếu có ai mà bạn yêu
thương đắm đuối th́ bạn hăy thử thực hành việc cố t́nh dẹp sang một bên bất
cứ khuynh hướng nào nghĩ đến kết quả xét về bản thân. Bạn hăy rán tránh dù
chỉ một chút hi vọng mong manh được đáp lại. Đừng tốn chút ít năng lượng nào
cho việc nghĩ xem anh ấy hoặc cô ấy cảm nhận về bạn ra sao mà hăy tận hiến
cho quá tŕnh tuôn đổ năng lượng ra. Có lẽ bạn chẳng có ư niệm ǵ nếu bạn
không thử xem liệu sự thỏa măn có hoàn toàn chăng trong việc chỉ có cho ra
thôi. Thỉnh thoảng người ta lại sa trở lại cái ư muốn có được một loại đền
đáp nào đó nhưng xét về mặt tương phản th́ ham muốn này dường như đê tiện và
tồi tệ quá nên người ta lấy làm biết ơn khi ḿnh dẹp được nó đi. Mặt khác,
liên tục có việc quan tâm khám phá ra những cách thức yêu thương mới và sự
thật là bạn càng ngày càng trở nên vô ngă với sự đền đáp đó, là khởi điểm
cho bạn ban rải t́nh thương cho nhiều người thay v́ hạn chế nó vào một người
hoặc vài người. Nếu bạn quan tâm sâu sắc tới bất kỳ loại công việc nào đó
th́ bạn ắt thấy ḿnh bắt đầu yêu thương thiên hạ v́ sự đóng góp của họ vào
công tŕnh mà bạn và họ đang dấn thân vào. Bạn cảm thấy rằng họ là các đồng
chí với một chính nghĩa chung và cái cảm xúc của t́nh đồng chí đó chẳng bao
lâu phát triển thành ra cảm xúc về t́nh cảm thuần túy. Bạn cảm thấy rằng họ
đang làm việc cho cái chính nghĩa mà bản thân bạn đang dấn thân vào, bạn cảm
thấy rằng họ kề vai sát cánh với bạn trong những khó khăn và nguy hiểm, sự
đơn nhất biểu hiện ra như thế chẳng bao lâu bộc lộ khía cạnh t́nh thương của
nó. Dĩ nhiên luôn luôn có những người đặc biệt gần gũi bạn, và có thể có sự
thật trong lời khẳng định rằng mỗi linh hồn đều có một ái lực chuyên biệt.
Tôi chẳng biết nhiều về điều này nhưng tôi có biết là dựa trên cơ sở cảm
t́nh đối với một số ít người th́ dần dần ta mới xây dựng được khả năng yêu
thương nhiều người. Và bí mật của mọi điều đó là nhằm không trông mong ǵ
được đền đáp lại.
Nếu lúc nào bạn cũng
trông ngóng được đền đáp lại, th́ sự đền đáp đó phải xuất phát từ một người
hoặc một số ít người thôi. Bạn không thể trông mong có sự đền đáp của nhiều
người và do đó có một hàng rào ngăn cách giữa bạn và cảm t́nh mà họ có thể
có. Họ không thể mang lại cho bạn sự đền đáp mà một số ít người mang lại cho
bạn được do t́nh yêu thương bạn tuôn đổ cho họ, v́ vậy chẳng hơi đâu mà yêu
thương người ta ! Đây là kết luận tất yếu của những kẻ lúc nào cũng trông
ngóng được trả công cho cảm t́nh của ḿnh dưới dạng này hay dạng khác. Tôi
biết rằng diễn tả như vậy nghe sao phũ phàng quá. Thiên hạ ắt căi lại rằng
họ đâu có muốn trả công, họ chỉ muốn được công nhận thôi. Nhưng t́nh thương
chân chính đâu có đ̣i được công nhận; tự nó lấy làm thỏa măn với niềm vui
được tuôn tràn ra cho mọi người. Con sông ắt hạnh phúc khi chảy ra biển. V́
vậy bạn mới hiểu được khi khiến cho t́nh yêu của ḿnh đối với người nào đó
độc lập được với thái độ của người ta đối với bạn th́ bạn ắt đặt cơ sở cho
Chơn sư mong ước bạn đạt được cho toàn thể thế giới. Khi bạn đạt tới mức mà
Ngài đă đạt được th́ có lẽ bạn ắt phát hiện rằng t́nh yêu mà bạn dành cho
thế gian không khiến cho bạn quên đi cảm t́nh của bạn đối với cá nhân; ngược
lại cảm t́nh cá nhân là nền tảng của tất cả và sẽ được bạn nâng niu với hạnh
phúc sâu sắc nhất.
L̉NG HAM MUỐN ĐƯỢC GIẢI THOÁT
Bạn ắt nhận thấy rằng
điều kiện thứ tư này mà Chơn sư nêu ra thường được dịch là “ham muốn mănh
liệt được giải thoát khỏi ṿng sinh tử luân hồi và hiệp nhất với Thượng Đế”.
Điều này có nghĩa là ư niệm yêu thương đă được tŕnh bày dưới khía cạnh cá
nhân dường như thể nhờ vào t́nh yêu với khía cạnh hạn hẹp hơn mà cá nhân đạt
được sự giải thoát khỏi ṿng sinh tử luân hồi. Nhưng Chơn sư có nêu rơ rằng
xem xét về t́nh yêu như vậy th́ ích kỷ quá. “T́nh thương không phải là dục
vọng mà đúng ra là ư chí, sự quả
quyết, quyết tâm. Để tạo ra được kết quả đó, sự quả quyết này phải tràn ngập
trọn cả bản chất bạn sao cho không c̣n chỗ đứng cho bất kỳ xúc cảm nào khác.
Quả thật ư muốn hiệp nhất với Thượng Đế không phải để bạn có thể thoát khỏi
sự mệt mỏi và đau khổ, mà là để cho v́ bạn yêu thương sâu sắc Thượng Đế, bạn
có thể hành động cùng với Ngài và giống như Ngài hành động. V́ Ngài là T́nh
thương cho nên muốn hiệp nhất với Thượng Đế, bạn cũng phải tràn đầy ḷng vị
tha trọn vẹn cũng như tràn ngập t́nh thương. Thật vậy, chúng ta thường rất
tha thiết muốn thoát khỏi nỗi chán chường và đau khổ nhưng trong giai đoạn
đầu tiên chúng ta muốn thoát khỏi những thứ này để cho ta có thể vui hưởng
sự an b́nh và nghỉ ngơi, sau này chúng ta muốn dứt bỏ khỏi những cảm xúc mệt
mỏi và đau khổ cá nhân sao cho ta có thể tự do giúp người khác cũng dứt bỏ
được những xúc cảm đó. Đây là sự an b́nh của Chơn sư. Ngài có thể góp phần
gánh chịu gánh nặng của thế gian một cách tuyệt vời, v́ Ngài không c̣n gánh
chịu gánh nặng của chính ḿnh nữa. Nếu muốn th́ Ngài có thể cắt đứt hoàn
toàn liên hệ với thế gian v́ Ngài đă đạt được sự giải thoát. Nhưng chúng ta
được dạy dỗ rằng nếu một Chơn sư mà làm như thế th́ Ngài cũng chỉ giải thoát
được trong một thời gian nào đó thôi và sớm muộn ǵ Ngài cũng phải trở lại
để chia xẻ gánh nặng của thế gian. Đó là v́ có một sự Đơn nhất lớn lao duy
nhất ràng buộc tất cả chúng ta lại với nhau và chúng ta phải cùng nhau tăng
trưởng qua sự đau khổ rồi mới biết thế nào là hoan lạc. Thật ra, cố nhiên là
trong khi những bậc đă đạt tới mức Chơn sư nếu muốn th́ có toàn quyền được
nghỉ ngơi một thời gian dài, nhưng các Ngài đều dứt khoát từ bỏ sự nghỉ ngơi
đó v́ t́nh thương của các Ngài đối với thế gian. Và bạn không được quên –
tôi cũng không do dự khi lập đi lập lại điều này – rằng t́nh yêu tuyệt đẹp
của Ngài với thế gian vốn nảy sinh từ t́nh yêu vị tha của Ngài trong quá khứ
đối với một cá nhân hoặc một số ít người.
ĐIỀU ÁC CỦA VIỆC NGỒI LÊ ĐÔI MÁCH
Chơn sư gợi ư cho chúng
ta rằng dần dần chúng ta có thể từng bước chuyển dịch t́nh yêu của ḿnh đối
với một người thành ra t́nh yêu đối với nhiều người. Hiển nhiên là đối với
bất cứ người nào mà chúng ta yêu thương, chúng ta luôn luôn cố gắng giúp đỡ
họ bằng mọi cách, cũng như cẩn thận không bao giờ gây thiệt hại ǵ cho họ.
Và hai khía cạnh này của t́nh thương phải không được hạn chế vào một cá nhân
mà phải khống chế thái độ của chúng ta đối với ngoại giới. Xét về bổn phận
không gây hại th́ Chơn sư nêu ra ba ví dụ gây hại rất thông thường. Một là
tật ngồi lê đôi mách. “Hăy xem tật ngồi lê đôi mách tác động ra sao. Nó bắt
đầu bằng tư tưởng ác độc cho nên bản thân nó đă là một tội ác. Đó là v́ nơi
mọi người và mọi vật đều có khía cạnh tốt; nơi mọi người và mọi vật đều có
khía cạnh xấu. Chúng ta có thể củng cố cho mỗi một khía cạnh này bằng cách
suy nghĩ tới nó và nhờ vậy ta có thể giúp đỡ hoặc cản trở sự tiến hóa; chúng
ta có thể thi hành ư chí của Thượng Đế hoặc chúng ta có thể chống lại Ngài.
Rơ rệt là chúng ta không thể có tư tưởng độc ác đối với bất cứ người nào mà
chúng ta yêu thương, nhưng chúng ta thường có tư tưởng độc ác đối với những
người khác, và chúng ta phải cố gắng suy nghĩ về cách thức khiến chúng ta
thực sự yêu thương người khác sao cho chúng ta có thể mô phỏng lại những đặc
điểm của t́nh yêu đó trong thái độ của chúng ta đối với nhiều người. Chơn sư
có dạy rằng “Nơi mọi người và mọi vật đều có khía cạnh tốt” và nếu chúng ta
nghĩ tới khía cạnh tốt nơi một cá nhân th́ chúng ta củng cố được khía cạnh
tốt nơi y, trong khi nếu chúng ta nghĩ tới khuyết điểm của y th́ chúng ta
củng cố khuyết điểm đó. Ta hăy rán tưởng tượng rằng khía cạnh tốt và khuyết
điểm liên tục đấu tranh với nhau trong bản chất của con người. Mỗi khía cạnh
đều ra sức bon chen đẩy khía cạnh kia văng ra ngoài. Điều mà chúng ta cần
phải làm là cố gắng khiến cho khía cạnh tốt mạnh đến nỗi nó dần dần đẩy được
nhiều điểm khiếm khuyết của cá nhân văng ra ngoài bản chất con người hoàn
toàn. Như vậy điều tốt nơi một con người trở nên lớn mạnh đến nỗi không c̣n
chỗ nào dành cho điều khiếm khuyết và chúng ta khiến cho khía cạnh tốt nơi
bản chất con người càng ngày càng lớn mạnh khiến cho chúng ta chỉ nghĩ đến
nó. Tôi đă lưu ư tới điều này, nhất là trong trường hợp bà Besant. Đôi khi
người ta bảo rằng bà rất dễ bị gạt v́ bà luôn luôn lư tưởng hóa người khác.
Tôi tin rằng quả thật đôi khi bà cũng bị gạt mặc dù tôi sáng ư mà hoài nghi
rằng bà hoàn toàn biết được mức độ mà ḿnh đang bị gạt. Nhưng tôi hoàn toàn
thấy rơ rằng sự thật là việc bà lư tưởng hóa người khác đă trợ giúp rất
nhiều cho những người này v́ trong quá tŕnh lư tưởng hóa, bà đang củng cố
mọi điều tốt đẹp nhất nơi người khác. Dường như thể bà đang tuôn đổ sức mạnh
của ḿnh vào bản chất tốt đẹp của người mà bà đến tiếp xúc sao cho nó đẩy
lùi dần dần nhiều khuyết điểm văng ra ngoài. Chắc chắn là những điều khiếm
khuyết đó sẽ trở lại v́ bản chất của chính con người c̣n chưa đủ mạnh để
khiến cho nó văng đi luôn. Nhưng quyền năng của chúng đă bị phá vỡ và miễn
là cá nhân có thể lợi dụng được sự kiện này th́ y chẳng khó khăn ǵ cũng
hoàn tất được sự thăng tiến của bản chất cao thượng. Sự kiện bà Besant lư
tưởng hóa thiên hạ bắt buộc họ phải hiển lộ cái khía cạnh tốt đẹp trong bản
chất của ḿnh. trong khi ít ra có sự kề cận của bà. Khuynh hướng này sinh ra
một thói quen và nếu cá nhân thật sự tha thiết th́ sự bắt đầu nho nhỏ này
của một thói quen có tầm quan trọng lớn lao đối với y. Điều mà bà Besant làm
trên một qui mô rất lớn th́ chúng ta có thể làm trên một qui mô nhỏ hơn.
Muốn cho một cá nhân đáng tin cậy th́ chúng ta phải bắt đầu bằng cách tin
cậy y. Sự tin cậy cần có hai người, một người tin cậy và một người được tin
cậy. Chúng ta phải chia xẻ đối với những người khác và tin cậy họ tới mức
tối đa v́ khi làm như thế chúng ta củng cố nơi họ khả năng đáng tin cậy.
Chơn sư nêu rơ rằng nếu chúng ta nghĩ tới điều ác nơi người khác, th́ chẳng
những chúng ta làm tăng cường điều ác ở xung quanh ḿnh mà chúng ta c̣n củng
cố điều ác nơi cá nhân được chúng ta nghĩ đến và c̣n tạo ra bên trong chúng
ta một khả năng lớn hơn nghĩ tới điều ác. Cố nhiên rất thường xảy ra là điều
ác mà chúng ta nghĩ tới thực ra không tồn tại thế rồi óc tưởng tượng của
chúng ta là một cám dỗ cản đường cá nhân mà chúng ta nghĩ một cách sai trái.
Chơn sư có dạy rằng “Tư tưởng ác độc của con cám dỗ huynh đệ của con làm bậy,
v́ nếu y chưa được toàn bích th́ con có thể khiến cho y làm điều mà con đă
nghĩ về y”. Như thế, nếu chúng ta ngồi lê đôi mách về người khác th́ hiển
nhiên là chúng ta đang chất đầy xung quanh ḿnh tư tưởng ác độc, do đó theo
như Chơn sư nêu rơ: “Con đang làm cho khối phiền năo của thế gian tăng lên”.
Chơn sư nghĩ rằng ngoài
việc nghĩ tới những điều ác cho dù chúng có thực sự tồn tại hay chăng “kẻ
ngồi lê đôi mách c̣n làm hết sức ḿnh để khiến cho những người khác cũng a
dua vào tội ác đó”. Kỳ lạ thay thiên hạ rất khoái túm tụm lại với nhau để
bới móc khuyết điểm của người khác, hoàn toàn rơ rệt là dường như sự thật có
những người khác ở đâu đó cũng túm tụm lại với nhau để nói xấu về những
khuyết điểm của họ ! Bạn không được tưởng tượng rằng người khác sẽ xá miễn
cho bạn nếu bạn không biết xá miễn cho người khác. Như vậy nếu bạn đang ngồi
lê đôi mách một cách không tử tế về người khác th́ lần tới khi bạn đang đi
rảo ngoài đường mà lại gặp bạn bè th́ nên nhớ rằng họ có thể đă từng nói đủ
thứ điều độc ác về bạn và cũng giống như bạn đă nói đủ thứ điều độc ác về họ.
Bản thân tôi không có nhiều dịp ngồi lê đôi mách nhưng trong quá khứ tôi
cũng đă từng nhiều lần ngồi lê đôi mách và khi tôi bắt đầu nhận ra được tính
độc ác của nó th́ dứt khoát là sau khi đă sa ngă vào một thời kỳ ngồi lê đôi
mách ngắn ngủi tôi thường tưởng tượng ra có nhiều bạn mà tôi đă từng gặp ắt
cũng sa đà vào cái thói xấu đó. Chắc chắn là tôi chẳng nên tưởng tượng ra
điều đó về họ, nhưng việc này cũng có một điều thuận lợi nghĩa là nó khiến
tôi cảm thấy rất khó chịu v́ tôi bắt đầu thắc mắc và chẳng biết thiên hạ
đang nói xấu chuyện ǵ của ḿnh, thế rồi liệu xét cho cùng th́ những điều ấy
có đúng hay chăng ! Sau đó tôi quyết tâm trong bản chất của ḿnh là tôi sẽ
cố gắng tránh mang lại một nền móng nào đó cho việc ngồi lê đôi mách như thế,
và như vậy từng bước tôi thấy bên trong ḿnh bớt đi khuynh hướng ngồi lê đôi
mách về người khác. Cách tốt nhất để tránh ngồi lê đôi mách là không có thời
giờ ngồi lê đôi mách, và nếu bạn đang bận bịu với một công việc lành mạnh và
những thứ giải trí lành mạnh th́ bạn đâu có màng tới việc ngồi lê đôi mách.
“Đừng bao giờ nói xấu về bất cứ ai; hăy từ chối lắng nghe khi có ai đó nói
xấu một người khác, mà hăy từ tốn bảo rằng: Có lẽ điều này không đúng sự
thật và cho dù là đúng đi chăng nữa th́ không nói tới nó mới là tử tế ”.
CHƯƠNG XX
CÁC TỘI LỖI CHỐNG LẠI T̀NH THƯƠNG
Tội thứ nh́ mà Chơn sư
đề cập tới là tội độc ác và Ngài phân chia sự độc ác ra thành độc ác cố ư và
độc ác vô t́nh. Xét về độc ác cố ư th́ Chơn sư có dạy rằng người ta khó ḷng
tưởng tượng nỗi một người nào đó lại cố t́nh độc ác đối với bất kỳ sinh linh
nào khác, tuy nhiên bạn nên nhớ rằng thời xưa có Ṭa án Tôn giáo ở Tây Ban
Nha, trong đó người ta bị hành h́nh v́ lương tâm của họ không phù hợp với
lương tâm của người hành h́nh họ. Bạn cũng phải biết rằng có những người
trên thế gian cố t́nh gây đau khổ cho cả con người lẫn con thú để cho họ có
thể cố gắng t́m ra được nguồn gốc và các chữa trị đủ thứ bệnh tật. Và Chơn
sư có dạy rằng nhiều thầy giáo cố t́nh gây đau đớn cho học sinh. Tôi thắc
mắc chẳng biết có thể nói rằng đằng sau sự độc ác cố ư đó liệu có một ư định
tốt đẹp nào chăng. Theo một cách thức u uẩn nào đó, có thể có một động cơ
thúc đẩy tốt đẹp ẩn sau sự độc ác, nhưng nó có động cơ thúc đẩy vô minh và
bị xuyên tạc đến nỗi chỉ có thể có một lượng điều tốt vô cùng nhỏ liên quan
tới nó. Tôi không muốn bảo rằng những người thuộc Ṭa án Tôn giáo, những
người giải phẫu sinh vật và những thầy giáo là hoàn toàn xấu xa khi họ phạm
phải những hành vi cố t́nh độc ác. Đúng ra th́ họ ở một tŕnh độ tiến hóa
đạo đức thấp đến nỗi họ chỉ chịu trách nhiệm trong một mức độ giới hạn về
các hành động của ḿnh. Nhưng hành động đó quá đê tiện, theo chỗ chúng tôi
biết phản tác động của chúng thật là ghê gớm và nếu họ biết trong thâm tâm
ḿnh họ không thể làm được những điều như thế th́ nghiệp báo của họ quả thật
là nặng nề. Chơn sư có nêu rơ rằng, thật là vô ích khi bảo rằng một phép
thực hành như thế là tập tục: “Một tội ác không ngừng là một tội ác v́ nhiều
người phạm phải nó”. Tôi biết rằng v́ có ṿng hào quang tập tục bao xung
quanh những điều tàn bạo này cho nên chúng ta ưa cố gắng tha lỗi cho chúng.
Xét cho cùng th́ đối với kẻ giải phẫu sinh vật, ta bảo rằng th́ ít ra y cũng
cố gắng làm lợi cho loài người. Nhưng chỉ một loài người ích kỷ th́ mới sẵn
ḷng làm lợi dựa trên sự đau khổ của những sinh linh khác. Loài người không
có quyền gây đau đớn cho những sinh linh khác với hi vọng hăo huyền là nhờ
đó mà có được sức khỏe và hạnh phúc.
GIẢI PHẪU SINH VẬT
Người ta có thể bảo bạn
rằng một vài phát hiện trong việc giải phẫu sinh vật có kết quả là đem lại
sự miễn nhiễm nhất định đối với một bệnh đặc thù. Tôi luôn luôn giải đáp
điều này là cho dù bạn có thể chận đứng một lối thoát này th́ luôn luôn vẫn
có một lối thoát khác để cho nghiệp báo thể hiện ra nếu vẫn c̣n nghiệp báo.
Sự dơ dáy mà bạn ngăn cản không cho thoát ra khỏi một lỗ chân lông ắt phải
t́m đường x́ ra qua một lỗ chân lông khác. Điều mà nhà giải phẫu sinh vật
không thể chứng tỏ đó là mặc dù một dạng bệnh này có thể ít xuất hiện hơn,
song bệnh tật xét chung vẫn cứ tiếp tục xảy ra. Chúng ta có những bệnh dịch
dưới dạng này hay dạng khác cũng nhiều như người ta mắc bệnh dịch trong
những thế kỷ đă qua. Và cho dẫu một số bệnh đă biến mất th́ vẫn có những
bệnh mới xảy ra; có lẽ đó quả thật là bệnh cũ với tên gọi mới. Cho dù nó có
thể ra sao đi nữa th́ đây là vấn đề đạo đức và bổn phận. Cho dù việc hành hạ
một con thú có thể giúp loài người thoát khỏi sự đau đớn, th́ loài người vẫn
không có quyền viện cớ đó để hành hạ nó. Nếu con thú tự nguyện chịu hành hạ
th́ đây có thể là vấn đề khác, nhưng theo chỗ tôi biết th́ ta không hỏi ư
kiến con thú trước khi chúng bị giải phẫu lúc c̣n sống. Tôi không muốn đặt
vấn đề dưới dạng một thắc mắc để xem liệu chúng ta có thể thực sự thu được
lợi ích mà chúng ta giả sử rằng ḿnh thu được. Tôi không muốn thu được cái
gọi là lợi ích bằng cách đó. Đúng hơn th́ tôi chẳng thà chịu mắc bệnh c̣n
hơn là tàn nhẫn bắt buộc con thú phải chịu đau khổ thay cho ta. Việc gây đau
đớn là một trong những nguồn cội lớn của nghiệp báo: Chúng ta càng gây đau
đớn cho con thú th́ nghiệp báo của ta càng trói buộc chúng ta vào thế giới
phiền năo này và cho dù điều kiện sức khỏe có ra sao đi chăng nữa th́ chúng
ta vẫn có thể nghĩ rằng ḿnh rút ra được ǵ từ việc hành hạ đó. Chúng đă bị
thắng thế áp đảo bởi các bệnh tật và phiền năo vốn vây bủa xung quanh chúng
ta do chính cái hành động hành hạ đó.
SỰ TRỪNG PHẠT BẰNG CÁCH DÙNG ROI VỌT
Xét về các thầy giáo,
th́ lại có lập luận rằng đó là tập tục. Sáo ngữ là: “Thương cho roi cho vọt,
ghét cho ngọt cho bùi”. Nếu bạn và tôi muốn cố gắng theo lời Chơn sư th́
chúng ta phải giải thoát ḿnh khỏi những mắt kính mê tín dị đoan u ám mà cá
nhân b́nh thường đă che khuất thực tại khỏi mắt ḿnh. Nhiều người ắt bảo bạn
họ cảm thấy tốt hơn xiết bao do sự thật khi họ c̣n là con trẻ thi họ bị
trừng phạt bằng roi vọt. Tôi luôn luôn trả lời cho những người như thế là
tôi chẳng biết họ tốt hơn được bao nhiêu nếu thầy cô và cha mẹ họ không
trừng phạt họ bằng roi vọt. Lập luận cố nhiên là ngớ ngẩn. Việc gây ra đau
đớn chỉ có kết quả là khơi dậy sự sợ hăi. Chúng ta được dạy bảo rằng kỷ luật
gây cảm giác mạnh (một phần trong đó là việc trừng phạt bằng roi vọt) làm
cho bản chất ta cứng rắn hơn. Hiện nay thế giới đang chịu đau khổ chính v́
bản chất rất cứng rắn đó. Chúng ta không muốn cho bản thân ḿnh cứng rắn lên,
chúng ta muốn cho nó mềm dẽo đi và nhạy cảm. Chúng ta muốn cho nó có thiện
cảm sâu xa hơn so với mức nó có thể biểu hiện ra như ngày nay. Những cú đánh
có thể làm tâm hồn con người chai đá đến mức gây ra những kết quả và hậu quả
ưa cạnh tranh với đồng loại, nhưng ngày nay chúng ta phải vượt qua cái giai
đoạn nhẫn tâm đó. Ít ra th́ chúng ta phải bắt đầu nhập vào giai đoạn hợp tác.
Chúng ta không dùng roi vọt để đập vào đóa hoa khiến cho nó tăng trưởng đẹp
đẽ hơn, ngược lại chùng ta càng bao quanh nó bằng sự dịu dàng âu yếm th́ nó
càng trở nên đẹp đẽ hơn. Một đứa trẻ cũng là một đóa hoa, một đóa hoa đẹp đẽ
hơn cả những dạng sinh linh mà chúng ta gọi là hoa. Sự trừng phạt bằng roi
vọt rất hiếm khi xảy ra mà không kèm theo sự giận dữ. Người ta có thể áp
dụng nó trong những trường hợp cực kỳ hiếm, nhưng nói chung chúng ta không
thể để cho thầy giáo trừng phạt bằng roi vọt chỉ v́ một vài người có thể
dùng roi vọt mà không có cảm xúc quá đáng. Tôi xin cố t́nh nói rằng thầy
giáo b́nh thường không thể tránh dấu vết của sự giận dữ trong khi y đang
dùng roi đánh học tṛ, và vết tích như thế có khuynh hướng thấm nhuần vào sự
trừng phạt tính dung tục của một sự căi vă cá nhân. Ở nhiều xứ sở th́ sự
trừng phạt bằng roi vọt được coi là không khôn ngoan và do đó nó đă bị hủy
bỏ. Tiếc thay ở Anh và Ấn Độ vẫn c̣n phương thức cũ, nhưng chúng ta đang làm
hết sức ḿnh để dứt bỏ nó và cung cấp cho đứa trẻ ấu trĩ một cơ hội để tăng
trưởng giống như chính đóa hoa tăng trưởng.
MỘT SỐ DẠNG HÀNH HẠ
Về phần Ṭa án Tôn giáo
hiện nay theo thông lệ chúng ta không gây sự hành hạ cá nhân cho những người
mà lương tâm của họ khác với lương tâm của chính ta. Tôi nói ‘theo thông lệ’,
v́ trong cuộc chiến tranh hiện nay một số người nào đó đă thật sự dùng lương
tâm để phản đối việc đi quân dịch và phải chịu những điều bất công nhắc nhở
chúng ta tới những kẻ bôi nhọ ṭa án tôn giáo thời Trung cổ. Có lẽ ta phải
trông mong điều này khi trọn cả thế gian c̣n đang giận dữ và thú tính chiến
đấu đă gây ảnh hưởng không chối căi được lên tâm trí con người; những kẻ
phản đối bằng lương tâm này đều là thánh tử v́ đạo giống như các Ki Tô hữu
trước kia ở thành La mă hoặc những kẻ chịu đau khổ trong tay các Ṭa án Tôn
giáo chỉ v́ đức tin của ḿnh.
Tôi đă thêm vào danh
sách những điều hành hạ nhiều dạng khác mà ta không biết được vào thời sơ
khai. Chẳng hạn như có sự hành hạ mà phái chính thống gây ra cho phái không
chính thống – sự hành hạ này thường có dạng tẩy chay một cách độc ác. Có sự
hành hạ tự tôn khinh bỉ mà nhiều người giàu đối xử với người nghèo. Có sự
hành hạ mà đàn ông gây cho đàn bà khi họ hảnh diện nghĩ rằng chỉ những người
thuộc phái nam mới biết được cách cai trị đất nước. Có sự hành hạ mà những
người thuộc đức tin này gây ra cho những người thuộc đức tin khác, chẳng hạn
như thái độ của phái bộ truyền giáo Ki tô đối với những đức tin khác hơn đức
tin của chính ḿnh. Thế rồi Chơn sư dạy chúng ta rằng có những người cố t́nh
đi ra giết hại súc vật và gọi đó là “thể thao”. Trong một số trường hợp ư
định chắc chắn là có thể tốt, nhưng ư định không luôn luôn làm thay đổi được
sự kiện, và ta không có cớ ǵ để độc ác khi bảo rằng ta phạm điều độc ác với
một động cơ thúc đẩy tốt đẹp. Bạn và tôi phải liên tục tự ḿnh phán đoán chứ
không được bằng ḷng với sự phán đoán theo tập tục mà kẻ phàm phu thường
chấp nhận. Nhiều người có ư kiến được làm sẵn. Hầu hết mọi người khó ḷng tự
thân ḿnh chịu suy nghĩ. Họ bị vây quanh bởi một vài h́nh tư tưởng nhất
định; họ sống trong những h́nh tư tưởng đó và rất hay tưởng tượng rằng bản
thân họ đang suy nghĩ. Tất cả cũng thường hay xảy ra khi một người nào đó
bảo rằng “Tôi nghĩ rằng” th́ y nên nói “Tôi đă sa vào nanh vuốt của một h́nh
tư tưởng và ư kiến mà tôi đang diễn tả là kết quả của điều đó”.
NGHIỆP BÁO BẤT CHẤP TẬP TỤC
Bạn ắt nhớ lại rằng
trong phần trước kia của quyển Dưới
Chơn Thầy, chúng ta được dạy bảo để nhận ra rất rơ rệt rằng bản thân ta
và các hiện thể của ta là riêng biệt. Chúng ta cũng phải hiểu rằng bởi v́
một tư tưởng lọt vào trong trí chúng ta, cho nên không được suy ra rằng
chúng ta phải nghĩ tới nó. Không được suy ra rằng bởi v́ chúng ta sống trong
nhà cho nên chúng ta phải xây nhà
bằng bàn tay của chính ḿnh. Chúng ta có thể nói “nhà của chúng tôi”, nó có
thể là “nhà của chúng tôi” v́ chúng ta đă biến nó thành nhà của ḿnh, nhưng
đó không phải là nhà của chúng ta theo nghĩa là chúng ta đă tạo ra nó trừ
phi chúng ta có thể chính ḿnh đă thiết kế nó. Chơn sư cảnh báo chúng ta
rằng “nghiệp báo không đếm xỉa ǵ tới tập tục” và nghiệp báo không đếm xỉa
tới sự thật là thực ra chúng ta chủ yếu quan tâm tới việc ch́m đắm trong
h́nh tư tưởng của người khác và xuất tŕnh nó ra là h́nh tư tưởng của chính
ḿnh. Chúng ta phải học cách tự
ḿnh suy nghĩ và nhất là không chấp nhận một ư tưởng, một niềm tin hoặc một
ư kiến v́ cuộc đời chúng ta sẽ dễ chịu hơn nếu chúng ta chấp nhận điều đó.
Cố nhiên là di chuyển cùng một tốc độ với ḍng chảy th́ luôn luôn là dễ dàng
hơn. Nhưng bạn và tôi là những người có ư định đi nhanh hơn một chút, và do
đó chúng ta phải sẵn ḷng can đảm chịu đựng cái hiện tượng kỳ lạ của một
ḍng chảy mặc dù thực ra chuyển động cùng hướng với chúng ta song dường như
nó chống lại sự tiến bộ của chúng ta. Cho dù ḍng chảy có thể nhanh đến đâu
đi nữa, nếu bạn đang chuyển động nhanh hơn tốc độ chuyển động của nó, th́
dường như thể nước đang chảy theo một hướng đối nghịch lại với hướng mà bạn
đang đi. Trong nhiều trường hợp người ta chống đối lại bạn chẳng phải v́ họ
không tiến hóa mà v́ bạn đang tiến hóa nhanh hơn họ, tốc độ của họ chậm hơn
tốc độ của bạn và v́ vậy dường như họ đang chống lại sự chuyển động của
chính bạn. Chúng ta phải tự ḿnh
suy nghĩ và không chấp nhận điều ǵ làm phán đoán của chính ḿnh, trở nên
độc lập càng nhiều càng tốt, chấp nhận một cách trọn vẹn và không do dự. Cố
nhiên sự hành hạ là kết quả tất yếu nhưng ta cũng biết rằng máu của thánh tử
v́ đạo – cho dù đó là máu của thể xác, thể vía hoặc thể trí – đều là nền
móng xây dựng nên giáo hội
Chơn sư nhắc nhở chúng
ta rằng, khi có cơ hội chúng ta can đảm phát biểu chống lại những điều độc
ác đó, cho dù biết bao nhiêu người khác có thể tin vào chúng. Giờ đây đă đến
lúc một số những điều độc ác này không c̣n tồn tại nữa và cách duy nhất ta
có thể tiêu diệt chúng là những người trong chúng ta phải nhận ra được sự vô
giá trị của chúng khi tuyên xưng sự thật mà chúng chỉ là những điều xuyên
tạc, sự thật này thế chỗ cho sự độc ác. Những người trong nhóm chúng ta muốn
cố gắng theo Chơn sư ắt nhớ rằng chúng ta phải có bổn phận tuyên cáo những
sự thật mà ḿnh biết bất chấp cá nhân bị nguy hiểm hoặc ít ra th́ tuyên cáo
những sự thật theo phán đoán của ḿnh th́ thế gian đă chín muồi rồi. Sự độc
ác cố ư nhiều xiết bao.
SỰ ĐỘC ÁC VÔ T̀NH
Tuy nhiên chúng ta cũng
được dạy dỗ để cảnh giác đối với việc vô t́nh độc ác. Chơn sư có dạy rằng
thiên hạ luôn luôn suy nghĩ về chính ḿnh đến nỗi đôi khi họ chẳng nghĩ tới
nỗi đau mà chắc chắn là họ đă gây cho người khác một cách thiếu suy nghĩ.
Chơn sư đưa ra đủ thứ ví dụ về điều này mà bạn nên nghiên cứu và suy nghĩ về
chúng. Nên nhớ rằng rất lâu sau khi bạn đă quên mất hành vi vô t́nh độc ác
của ḿnh th́ kết quả của nó vẫn c̣n có thể dằng dai nơi cá nhân mà bạn gây
ra đau khổ. Một lời lẽ vô ư vô tứ, một cái nh́n thờ ơ, một sự lơ đễnh xét
theo bề ngoài là cố ư mặc dù đằng sau đó không hề có sự cố t́nh, có thể
thường là nguyên nhân của nhiều giờ và có thể nhiều ngày đau khổ cho những
kẻ mà bạn đă đối xử như thế. Chắc chắn quả thật là Chơn sư có dạy chúng ta
trong phần trước kia của quyển sách là những người này nên nhớ rằng chúng ta
tuyệt nhiên không nghĩ tới họ. Nhưng đó là chuyện của những người này c̣n
bổn phận của chúng ta là phải cẩn thận chứ không vô ư vô tứ. Điều này có
nghĩa là chúng ta phải luôn luôn cố ư về điều mà ḿnh làm, điều mà ḿnh nói,
điều mà ḿnh suy nghĩ. Tất cả chúng ta đều ít nhiều vô ư vô tứ và v́ vô minh
chúng ta thường gây ra sự độc ác vô t́nh.
Khi chúng ta nhận ra
được tầm quan trọng của việc càng ít gây đau khổ càng tốt th́ chúng ta sẽ cố
gắng kiểm soát đủ thứ hạ thể của ḿnh: thể xác, thể vía, thể trí. Chúng ta
có thể quên nhưng Chơn sư có dạy rằng “Nghiệp báo không bao giờ quên và nó
không đếm xỉa tới việc con người quên”. Đối với những người trong chúng ta
không muốn ưu ái một điều nào th́ nghiệp báo có thể dường như rất độc ác;
nhưng một bức tường dơ không thể trở nên sạch chỉ v́ ta quét một lớp vôi lên
đó; sớm muộn ǵ lớp dơ đó cũng bắt đầu lộ ra và sau đó nếu chúng ta quét
thêm một lớp vôi khác th́ chỉ là vấn đề thời gian khi thứ dơ dáy lại lộ ra.
Nếu nghiệp báo mà quên th́ chúng ta cũng tiếp tục quên được, chúng ta ắt
tiếp tục quên đi những điều độc ác vô t́nh của ḿnh và v́ quên như vậy cho
nên mới có ư tưởng cho rằng chúng ta chưa bao giờ phạm phải điều độc ác. Nếu
nghiệp báo mà quên th́ chúng ta chẳng bao giờ học được điều ǵ. Thật vậy trí
nhớ của nghiệp báo là điều vĩ đại nhất trong những ân huệ của nó, v́ nó bắt
buộc chúng ta cũng phải nhớ theo, và như vậy rốt cuộc học được bài học lợi
dụng nó từ khả năng mang lại sức mạnh.
Chơn sư có dạy: “Nếu con
muốn nhập vào Thánh đạo th́ con phải nghĩ tới hậu quả của những điều con làm
kẻo con phải phạm tội độc ác vô ư”; trong khi tôi biết thật khó khăn xiết
bao khi nghĩ tới hậu quả của điều mà ḿnh làm th́ song le đó lại là bài học
mà chúng ta phải liên tục học hỏi. Đó là một bài học khó học nhưng rất cần
thiết. Sau một thời gian, khi chúng ta đă thật sự học được cách suy nghĩ tới
hậu quả của điều ḿnh làm th́ chúng ta ắt thấy rằng chỉ những hành động tử
tế và hữu ích th́ mới đáng làm. Nói cách khác, chúng ta ắt thấy rằng việc
phục vụ những người khác có nghĩa là hạnh phúc lớn nhất cho bản thân chúng
ta và đó là bài học mà Thánh đạo liên tục gây ấn tượng lên chúng ta.
CHƯƠNG XXI
SỰ THỬ THÁCH CỦA T̀NH THƯƠNG
Những nhận xét của Chơn
sư đối với điều mê tín dị đoan là cực kỳ quan trọng vào lúc này. Chúng ta
phải luôn luôn nhớ rằng khi trông ngóng sự giáng lâm của Đức Chưởng Giáo vĩ
đại th́ chúng ta đang trông ngóng sự phục lâm của Đấng sẽ dẫn nhập một Thời
đại mới để thế chỗ cho Thời đại cũ đă lỗi thời. Thật vậy, ngay cả giữa cuộc
Đại chiến này th́ v́ chúng ta đang ở giữa cuộc Đại chiến đó cho nên chúng ta
đang thẩm định cái loại cuộc sống mà chúng ta thường sống theo. Chúng ta
đang học cái bài học mà Chơn sư nêu rơ trong phần trước kia của quyển sách
khi Ngài bảo rằng “nghiệp báo không đếm xỉa tới tập tục”. Chúng ta thấy rằng
có sự thật sâu sắc hơn nhiều trong câu châm ngôn pháp lư theo đó việc không
biết luật không phải là cớ để phạm luật, điều này nhiều hơn mức mà ta sẵn
ḷng thừa nhận cho đến nay. Ta thấy vô minh và sự thờ ơ là những khuyết điểm
gây chết người. Chiến tranh đă dạy chúng ta bài học này. Chiến tranh đă dạy
chúng ta rằng cuộc đời của mọi công dân cho dù tầm thường đến đâu đi nữa
cũng đều có giá trị đối với nhà nước và chúng ta không thể không biết tới
hoặc thờ ơ với cái loại cuộc sống mà y sống theo bằng không th́ ta sẽ gây
nguy hại cho phúc lợi của cộng đồng. Chúng ta đă phát hiện ra rằng cho tới
nay vô số tập tục dường như ít gây hại th́ thật ra lại được coi là có hại
khi ta làm nổi bật nó lên trong bối cảnh của một sự khẩn cấp vĩ đại. Chúng
ta bắt đầu nhận ra rằng không được để cho người giàu và người nghèo sống lẫn
lộn với nhau khi người nghèo căm ghét sự xa hoa của người giàu c̣n người
giàu th́ khinh bỉ sự vật lộn đấu tranh của người nghèo. Chúng ta phải mất
nhiều thời gian mới nêu rơ được bản chất của mối quan hệ chân chính giữa đôi
bên, nhưng rốt cuộc chúng ta lại chống đối với vấn đề đó v́ trong nỗi đau
của quốc gia th́ người nghèo cũng tỏ ra chẳng có ǵ được an ủi hơn người
giàu. Chúng ta bắt đầu hiểu ra được rằng phải chấm dứt sự thống trị của bạo
lực cùng với nó là niềm mê tín cho rằng phụ nữ vốn thấp kém hơn đàn ông.
Trong nỗi đau của quốc gia chúng ta mới thấy được phụ nữ cũng là cần thiết
và chúng ta bắt buộc kết luận rằng phải có quyền b́nh đẳng của mọi công dân
v́ quốc gia đ̣i hỏi một việc phụng sự thỏa đáng của mỗi người. Vận mệnh của
nhà nước nằm trong tay của nam phụ lăo ấu và những bậc trưởng thượng phải
cùng nhau xác định điều kiện để cho tuổi trẻ của quốc gia tăng trưởng lên
tới mức trưởng thành. Hơn nữa, chúng ta đang bắt đầu nhận ra được rằng sự
khác nhau về đức tin tôn giáo không chối bỏ sự đồng nhất về mục tiêu, sự
khác nhau về màu da không có nghĩa là khác nhau về phẩm chất. Nói tóm lại,
chúng ta từng bước làm lung lay một số điều mê tín dị đoan giờ đây đang chắn
đường giữa chúng ta với việc nhận ra t́nh huynh đệ chung của loài người. Chỉ
nội cái từ “mê tín dị đoan” cũng gợi ư rằng chúng ta vẫn c̣n bị chế ngự và
chúng ta phải vượt lên trên những nấc thang thấp thỏi của cái thang tiến hóa
mà chúng ta đang từ từ leo lên.
MÊ TÍN DỊ ĐOAN GÂY RA SỰ ĐỘC ÁC
Tuy nhiên bạn và tôi vốn
là những kẻ dự bị trong đạo tràng của Chơn sư để phụng sự thế gian th́ phải
có một sự phân biện thậm chí phải sâu sắc hơn giữa điều cốt yếu và điều
không cốt yếu. Nếu là muốn học cách lănh đạo th́ chúng ta không được để cho
ḿnh bị lọt thỏm vào trong đám đông: chúng ta phải vạch đường đi qua đó sao
cho đám đông có thể thấy được chúng ta. Chơn sư đặc biệt thu hút sự chú ư
tới những điều mê tín dị đoan mà bạn ắt nhận thấy rằng gây ra sự độc ác. Mọi
điều mê tín dị đoan đều ít nhiều gây ra sự độc ác, nhưng có vài điều mê tín
dị đoan mà chúng ta phải có thể dẹp bỏ được ngay. Điều mê tín dị đoan cho
rằng phụ nữ không bằng đàn ông gây ra sự độc ác nhất định đối với nhà nước
và chúng ta phải chống lại nó cho dù chúng ta không thể hủy bỏ được nó ngay
tức khắc. Hơn nữa, sự độc ác hiến tế thú vật trong các nghi lễ tôn giáo và “sự
mê tín dị đoan c̣n độc ác hơn nữa là con người cần ăn thịt”, đó là sự mê tín
dị đoan mà cá nhân chúng ta cần bàn tới. Chắc chắn là một vài nơi thuộc Ấn
Độ có phong tục hiến tế súc vật trong những nghi lễ tôn giáo. Tập tục ở
nhiều nơi trên thế giới là người ta thường ăn thịt. Nhưng những kẻ đang cố
gắng tránh bị mù quáng bởi tập tục đều cố gắng nh́n trực diện vào mỗi thói
quen để tự ḿnh phán đoán xem liệu thói quen có đúng cho ḿnh chăng. Bạn nên
nhớ Chơn sư có dạy rằng: “Cho dù một ngàn người đồng ư với nhau về một đề
tài, nếu họ chẳng biết ǵ về đề tài đó, th́ ư kiến của họ là không có giá
trị”. Hàng triệu người đều đồng ư rằng ăn thịt là hợp lư và có thể là cần
thiết. Nhưng bạn và tôi phải tự hỏi: “Có thật thế chăng ?” Đừng bao giờ thắc
mắc xem đối với những người khác nó có cần thiết hoặc hợp lư chăng; bổn phận
của chúng ta trong lúc này là quyết định xem liệu nó có cần thiết hoặc hợp
lư cho chúng ta chăng. Theo huấn lệnh của Chơn sư về đề tài này th́ chúng ta
biết rằng nó không phải như thế.
CHÚ Ư TỚI CÁC NGUYÊN TẮC
Khi tôi viết ra những
lời lẽ này, tôi đang nghĩ tới một trăm lẻ một lập luận mà
người ta vận dụng để viện cớ cho việc ḿnh không quan tâm tới huấn
lệnh của Chơn sư. Hầu hết mọi người muốn trở thành đệ tử dự bị trong đạo
tràng Chơn sư nhưng đồng thời lại né tránh mọi sự rèn luyện. Họ muốn trở
thành lực sĩ mà thậm chí không phải chịu một kỷ luật thể xác nào và họ thật
là ngây ngô khi tưởng tượng rằng ḿnh v́ có thể viện cớ không phải trải qua
một kỷ luật nào đó, th́ kết quả vẫn y như thế dường như thể họ đă tự rèn
luyện và tuân theo kỷ luật rồi. Họ bảo bạn rằng ăn chay rất tốt cho những
người có hoàn cảnh thuận lợi, nhưng có những cơ hội mà việc tuân theo tập
tục thông thường ắt là khôn ngoan hơn và có lẽ là tốt hơn để làm được việc.
Thế mà tôi đâu có lúc nào cũng chối bỏ việc có những thời kỳ khủng hoảng
trong đó ta cần tuân theo tập tục. Tôi có nghe bà Besant dạy rằng cho dù một
cá nhân không ưa việc chủng ngừa đến đâu đi nữa th́ y cũng không được khôn
ngoan lắm khi để cho sự không ưa đó ngăn cản y làm bổn phận của ḿnh đối với
xứ sở trong lúc cần thiết khẩn cấp. Nếu nhà cầm quyền cứ khăng khăng đ̣i
chích ngừa th́ tốt hơn là y nên để cho họ chích ngừa. Nói cách khác, có
những lúc cực điểm mà người ta phải hi sinh những sự ưa thích cá nhân thậm
chí một vài nguyên tắc thứ yếu (những nguyên tắc mà v́ thế gian c̣n quá trẻ
nên không hiểu nỗi) v́ ích lợi chung và để bảo tồn những nguyên tắc lớn hơn.
Người ta phải vui ḷng đối diện với những điều bất lợi khả dĩ do bởi việc lơ
là một vài nguyên tắc sống để cho người ta có thể tự do thích ứng với kế
hoạch mà tổ quốc đă hoạch định bảo vệ cho ḿnh. Bản thân các giới hạ đẳng có
thể tạm thời phải chịu rắc rối và bất hạnh v́ ích lợi duy tŕ những nguyên
tắc cốt yếu mà vào lúc đó chỉ có thể được bảo tồn theo những cách thức thế
giới có thể hiểu được và tin cậy được.
Nhưng nói chung th́ có
những lúc tương đối b́nh thường. Theo thông lệ th́ tốt hơn là cá nhân nên
sống một cuộc sống cá thể càng thanh khiết càng tốt. Chỉ trong những diễn
biến cực điểm th́ y mới phải ḥa lẫn cá tính của ḿnh và những nguyên tắc cá
biệt của ḿnh vào trong cộng đồng chung. Chắc chắn là khi Chiến tranh đă
trôi qua th́ mỗi người trong chúng ta tha thiết muốn là đệ tử dự bị đều
phải cố gắng tŕnh bày với thế
gian cách thức sống một cuộc đời cá biệt. Những người nào vẫn c̣n tham gia
vào những nghi lễ tôn giáo (hoặc là v́ họ c̣n cần tới chúng hoặc v́ họ cần
phải nêu gương cho những huynh đệ yếu kém hơn) nên quyết tâm khởi sự bằng
bất cứ giá nào chống lại việc tham dự vào hoặc khuyến khích những nghi thức
hiến tế. Cũng vậy, họ nên ăn chay. Chắc chắn việc ăn chay rất bất tiện.
Người ta thường bảo rằng việc ăn chay khiến cho họ không có những thú vị
trong cuộc sống và lại làm phiền chủ nhà. Điều này có thể đúng. Nhưng chắc
chắn chúng ta không có quyền gây đau khổ cho một số bạn của ḿnh để tránh sự
bất tiện cho những người khác. Chắc chắn là rất phiền hà cho những chủ nhà
c̣n ăn thịt, nếu chúng ta lấy làm tiếc mà tŕnh bày việc ḿnh không thể ăn
thịt, đặc biệt là nếu không có món ăn nào khác thích hợp được dọn ra. Nhưng
người ta phải có một vài nguyên tắc ứng xử và nếu chúng ta muốn là đệ tử dự
bị của Chơn sư th́ chúng ta phải có những nguyên tắc ứng xử ở giai đoạn tiên
tiến hơn những nguyên tắc dẫn dắt thế gian. Chúng ta biết rằng trong một
tương lai tương đối ngắn nữa, th́ trọn cả thế giới sẽ ăn chay (Xem quyển
Con Người từ đâu đến, đang sống ra
sao và sẽ đi về đâu) và tốt hơn là chúng ta nên có đặc quyền dẫn đường
khi nhận ra rằng việc lănh đạo tất nhiên phải đ̣i hỏi sự hi sinh. Có một số
người điên rồ bảo bạn rằng người ăn chay không nên ăn rau cỏ v́ đó là các
sinh linh. Thật là kỳ lạ khi những người không có nguyên tắc đặc biệt nào về
vấn đề này mà lại muốn ép người khác đi đến mức cực đoan về vấn đề nguyên
tắc đó. Bản thân họ vốn chẳng có nguyên tắc mà họ lại khăng khăng buộc chúng
ta phải thực hành nguyên tắc của ḿnh đến mức không thể làm được. Về vấn đề
này, thái độ phải chăng là duy tŕ mạng sống của ḿnh nhờ vào mang sống có
mức độ hữu t́nh kém nhất. Nếu chúng ta có thể ăn được đất đá th́ có lẽ tốt
hơn v́ đất đá có mức độ hữu t́nh kém hơn cây cỏ. Nhưng cho đến nay đất đá tỏ
ra không đủ sức cấp dưỡng, do đó bắt buộc chúng ta phải tiến thêm một bước
nữa. Tôi biết rằng cỏ cây là loài hữu t́nh nhưng mức độ hữu t́nh của chúng
thuộc loại khác hẳn mức độ hữu t́nh của thú vật.
CÁC GIAI CẤP BỊ ÁP BỨC
Thế rồi Chơn sư đề cập
tới Ấn Độ và khiển trách việc “đối xử sao cho sự mê tín dị đoan giáng xuống
các giai cấp bị áp bức ở Ấn Độ thân thương”. Ngài nhận xét rằng: “Hăy xem ở
đó cái tính cách độc ác ấy có thể gây ra sự độc ác tàn nhẫn ngay cả trong số
những người có biết về bổn phận t́nh huynh đệ”. Những người trong các bạn ít
biết về Ấn Độ ắt không thể biết được theo quan điểm huyền bí học th́ nhiều
điều đau khổ ở Ấn Độ được trực tiếp qui cho việc nó đối xử với những người
thuộc dân tộc ḿnh mà lại ở ngoài ṿng giai cấp Ấn Độ, coi họ là “những kẻ
tiện dân” thế nhưng lại không cắn rứt lương tâm khi bắt những người đó phục
vụ một cách hèn hạ nhất. Nói cách khác, trong khi khinh bỉ họ th́ Ấn Độ lại
tận dụng họ. Một thái độ như thế là một trong những tội ác lớn nhất chống
lại tính cách Cha lành của Thượng Đế và t́nh huynh đệ của con người. Nhưng
nên nhớ rằng mọi xứ sở đều có những giai cấp áp bức – những người bị quyền
lực đàn áp dưới mọi dạng. Ở đâu đâu th́ người nghèo cũng bị áp bức. Tất cả
đều do sự kiện là trong nền văn minh ngày nay của chúng ta có sống c̣n óc
bạo lực. Con người cai trị v́ y mạnh hơn về thể chất chứ không v́ lư do nào
khác. Kết quả là có những giai cấp bị áp bức. Nếu phụ nữ được liên kết với
nam giới th́ vấn đề các giai cấp bị áp bức chẳng bao lâu sau sẽ biến mất. Có
điều là trong khi chính phụ nữ c̣n tạo thành một giai cấp bị áp bức th́
chúng ta chẳng thể làm được ǵ. Cá nhân tôi cảm thấy rằng nếu chúng ta đề
cập tới vấn đề các giai cấp bị áp bức th́ trước hết chúng ta phải thừa nhận
rằng chúng ta không thể làm ǵ nếu không đối xử b́nh đẳng với phụ nữ. Có hai
lộ tŕnh mở ra. Hoặc là con người có ư thức công nhận rằng ḿnh đang dùng
bạo lực và sự cai trị chân chính không thể có được nếu không có sự hợp tác
của phụ nữ; hoặc là người ta cố gắng giữ cho phụ nữ không tham gia vào bổn
phận đối với xă hội. Nếu lộ tŕnh sau này mà cứ bị đeo đuổi măi th́ thế giới
sẽ chuyển sang một thời kỳ khác đau khổ khủng khiếp v́ quyền đầu phiếu của
phụ nữ không dựa vào nền tảng đối xử công b́nh với phụ nữ mà dựa vào nền
tảng công b́nh đối với nhà nước. Phụ nữ chẳng những có quyền bỏ phiếu mà c̣n
phải có bổn phận bỏ phiếu. Chúng ta phải đương đầu với những vấn đề này một
cách minh bạch, giải thoát ḿnh khỏi sự mê tín dị đoan.
Chơn sư có dạy rằng:
“Người ta đă phạm nhiều tội ác nhân danh Thượng Đế T́nh thương mà động cơ
thúc đẩy chỉ là cơn ác mộng mê tín dị đoan này; v́ vậy con nên rất cẩn thận
đừng để cho một chút dấu vết nào của nó tồn đọng nơi con”. Khi bạn đọc thấy
câu đó hăy nghĩ tới Ṭa án Tôn giáo, nghĩ tới những điều độc ác ở địa phương
bạn sinh sôi nảy nở do giả sử được phê chuẩn bởi thói quen, tập tục, nhu cầu.
Hăy nghĩ tới đủ thứ điều ác độc mà người ta làm ra lấy cớ là không thể tránh
được. Bạn ắt nhớ điều mà Chơn sư đă dạy về những người giải phẫu sinh vật và
những thầy giáo dùng roi vọt đánh học tṛ. Thế rồi bạn hăy tự nhủ là ḿnh
nên tránh mọi điều độc ác có thể được và bạn ắt thấy rằng có rất nhiều điều
cần phải từ bỏ. Chơn sư tổng kết lập trường rất hay ho khi Ngài dạy chúng ta
tránh phạm tội chống lại t́nh thương. Đây thực sự là trọn cả mọi chuyện.
Chúng ta thường bị cám dỗ để nghĩ rằng tất yếu phải độc ác với bộ phận bản
ngă lớn hơn để bảo tồn bộ phận bản ngă nhỏ hơn. Chúng ta nghĩ rằng ḿnh phải
sống dù phải gây thiệt hại cho những người khác – tôi có ư muốn nói với cái
giá phải trả là người khác chịu đau khổ. Một thái độ như thế là kết quả của
việc đề cao cá nhân như là đối tượng tối thượng để sùng bái. Tuy nhiên chúng
ta phải nhớ rằng gia đ́nh là đơn vị của sự sống chứ không phải cá nhân là
đơn vị đó; và nhiệm vụ của ta là trong mức độ chúng ta có thể sống một cuộc
đời bác ái trong môi trường nhỏ bé th́ dần dần chúng ta mới học được cách mở
rộng nó ra cho trọn cả quốc gia.
Ư MUỐN PHỤNG SỰ MĂNH LIỆT
Chơn sư dạy “con phải tích cực làm điều thiện. Con phải tràn đầy ư muốn phụng sự mănh liệt đến nỗi lúc nào con cũng cảnh giác phụng sự những người xung quanh ḿnh chẳng những là con người mà c̣n cho loài vật và cây cỏ nữa. Mỗi ngày con phải phụng sự những chuyện nhỏ nhặt để tạo thành thói quen sao cho con không bỏ lỡ cơ hội hiếm hoi khi có chuyện lớn lao cần phải được thực hiện. Đó là v́ con muốn hiệp nhất với Thượng Đế th́ điều đó không phải v́ lợi ích của riêng ḿnh mà v́ nhờ thế con có thể trở thành một phương tiện thông qua đó t́nh thương của Thượng Đế có thể tuôn chảy tới đồng loại của con”. Tôi nghĩ rằng bạn nên chép lại đoạn này treo nó ngay trước giường ngủ của ḿnh sao cho bạn có thể thấy nó khi thức dậy vào buổi sáng. Trong cụm từ “ư muốn phụng sự mănh liệt” ta thấy có điều kiện mạnh mẽ nhất để được nhận vào đạo tràng của Chơn sư. Cường độ càng sắc sảo th́ càng chắc chắn được nhận vào, và có thể nói là kẻ nào hăm hở muốn phụng sự mănh liệt và do đó sẵn ḷng đi tới bất cứ nơi đâu, làm bất cứ điều ǵ th́ kẻ đó đang ở ngưỡng cửa để được thu nhận. Chính cái sự tha thiết đó là thần lực mà Chơn sư có thể sử dụng để giúp đỡ cho thế gian và nó cũng là phương tiện giúp cho đệ tử xa ĺa mọi điều khiếm khuyết khiến cho y không thể tiến bộ và hữu ích trên thế gian. Bạn biết người ta thường bảo rằng muốn bỏ đi một điều khiếm khuyết th́ cần phải có một mục tiêu đủ mạnh để thu hút sự chú ư ra khỏi điều khiếm khuyết. Sự chú ư là thực phẩm tạo ra mội trường sinh sôi nảy nở cho cả các đức tính lẫn các nhược điểm. Nếu bạn muốn bỏ đi một nhược điểm th́ hăy phấn đấu bỏ đói nhược điểm đó bằng cách không chú ư tới nó nữa. Nếu bạn muốn củng cố một đức tính th́ cần phải nuôi dưỡng nó bằng sự chú ư. Tôi tin rằng theo quan điểm của Chơn sư th́ vấn đề không phải là liệu một cá nhân có thoát khỏi mọi khuyết điểm hay chăng mà là liệu y có nốt chủ âm đủ mạnh hay chăng để ít ra về lâu về dài sẽ tập trung được chú ư vào đó gây khó khăn cho việc phát triển khiếm khuyết. Nếu được phép minh họa cá nhân th́ tôi xin bảo rằng sự tự chủ mà tôi có được phần lớn là do sự chú tâm áp đảo tới khoa học giáo dục. Tôi có một ham muốn mănh liệt cho một kiếp sống tương lai nào đó sẽ trở thành một bậc thầy vĩ đại và một đấng có thẩm quyền lớn lao về phương pháp và những nguyên tắc giáo dục. Tôi biết rằng một vài khuyết điểm mà tôi hiện có cản đường ḿnh thành tựu những hi vọng đó. Tôi đùa giỡn với những khuyết điểm của ḿnh ít hơn mức có thể được v́ việc tôi muốn trở thành một bậc thầy chân chính đ̣i hỏi nhiều thực phẩm chú ư đến nỗi không dành nhiều sự chú ư cho các khuyết điểm và do đó chúng ít nhiều không được chú ư, thế là chúng bị bỏ đói và cuối cùng phải bị chết đi. Nếu bạn có một ham muốn vĩ đại và cao thượng th́ nó sẽ đ̣i hỏi thực phẩm là sự chú tâm. Nó càng mạnh th́ càng đ̣i hỏi thêm thực phẩm và v́ bạn chỉ có một số lượng thực phẩm nào đó để sử dụng dưới dạng sự chú tâm, cho nên bạn tất yếu phải bỏ đói một thứ ǵ đó, và bạn ắt bỏ đói những khuyết điểm của ḿnh v́ sự bảo tồn chính ḿnh – dùng từ “chính ḿnh” theo nghĩa là “Chơn ngă” – đ̣i hỏi rằng các khuyết điểm phải bị dồn vào ngơ bí.
CHƯƠNG XXII
SỰ TĂNG TRƯỞNG CỦA T̀NH THƯƠNG
Chơn sư muốn chúng ta
tích cực chứ không tiêu cực. Ngài mong rằng chúng ta lúc nào cũng tràn đầy
cái lực yêu thương túa ra bên ngoài với biểu hiện thành “ham muốn phụng sự
mănh liệt”. Tôi tự hỏi liệu bạn đă có thấy cái tiêu ngữ hay ho mà bà Besant
dành cho Nhóm Phụng sự của Hội Thông Thiên Học. Bà bảo rằng Nhóm này phải là
“một hội đoàn những người thích phụng sự cho tất cả những kẻ đau khổ” và nếu
bạn đi vào pḥng của bà ở Tổng Hành Dinh tại Adyar th́ bạn ắt thấy tiêu ngữ
này nơi trước bàn làm việc của bà. Mới ngày hôm bữa, bà c̣n bảo tôi rằng bà
nghĩ đó là một trong những tiêu ngữ hữu ích nhất mà ta có được v́ nó tổng
kết tinh thần mà chúng ta nên sống theo đó. Tuy nhiên bạn phải nhớ rằng cụm
từ “tất cả những kẻ đau khổ” bao gồm mọi sinh linh chứ không phải chỉ là
loài người. Chơn sư có dạy rằng “Con phải luôn luôn tỉnh táo phụng sự mọi
thứ xung quanh ḿnh không phải chỉ là con người thôi mà c̣n là con thú và
cây cỏ nữa”. Trong thế giới hiện đại có một sự ngăn cách sâu sắc giữa giới
nhân loại và những giới dưới nó. Chúng ta quá tha thiết hiệp nhất với giới
cao và ưa tưởng tượng rằng có thể đạt tới giới cao bằng cách trèo lên trên
các giới thấp. Chúng ta nghĩ tới sự tiến bộ của riêng ḿnh hoặc sự tiến hóa
của cá nhân ḿnh dường như thể ta có thể hoàn thành được điều đó độc lập với
phần c̣n lại của thế giới. Chúng ta nghĩ rằng theo quan điểm thế tục, nếu
chúng ta tránh vi phạm một vài qui tắc đạo đức th́ chúng ta sẽ bỏ qua cho
mọi việc sai trái tất yếu và thế là chúng ta đă tôn kính Thượng Đế. Ngài rất
hào phóng với chúng ta nhưng trong lúc này tôi không dám nói rằng thái độ
này không phải là một giai đoạn tiến hóa cần thiết. Ư tưởng cứu chuộc cá
nhân có vai tṛ trong sự tăng trưởng tiến lên v́ nó giúp cho chúng ta thực
chứng được chính ḿnh và chúng ta không thể thực chứng được sự đơn nhất lớn
lao bên ngoài ḿnh nếu chúng ta chưa nhận ra được bản thân là những cá thể
trong một mức độ rất lớn lao. Đây là giá trị của sự cạnh tranh và của nhiều
dạng hoạt động và tăng trưởng cá thể khác mà xét theo một vài quan điểm th́
dường như gây phẩn nộ xiết bao. Nhưng thế giới đang tăng trưởng nhờ vào sự
cạnh tranh. Cuộc Thế chiến năm 1914 đă nổi lên hồi chuông báo tử cho sự cạnh
tranh và báo điềm sự phục lâm của t́nh huynh đệ. Chúng ta vốn thuộc vào thời
đại mới th́ phải sống với giáo huấn thời đại mới. Chúng ta phải cố gắng hiểu
được rằng quá tŕnh tiến hóa là sự mở rộng dần dần năng lực yêu thương của
ḿnh. Có một số người chỉ yêu thương bản thân và mặc dù thế giới đă đạt tới
giai đoạn có thể gọi t́nh yêu đó là ích kỷ, nhưng ta phải nhớ rằng t́nh yêu
nhân loại phải bắt đầu nơi căn nhà nhỏ bé của bản ngă cá biệt. Một số người
yêu thương gia đ́nh ḿnh. Đây là một dạng t́nh thương mở rộng hơn. Những
người khác có thể yêu thương cộng đồng mà họ thuộc về. Những người khác có
thể yêu thương quốc gia. Tất cả đều chỉ là giai đoạn và giai đoạn lớn hơn
bao trùm giai đoạn nhỏ hơn. Cuối cùng có những người vĩ đại yêu thương trọn
cả nhân loại, yêu thương trọn cả thế giới v́ tất cả đều là biểu hiện của
Thượng Đế. Nhưng những người yêu thương nhân loại là những người ái quốc tốt
hơn v́ họ có t́nh thương rộng lớn hơn. Kẻ ái quốc là một người yêu thương
cộng đồng tốt hơn so với cá nhân mà cảm t́nh không vượt quá giai cấp đặc thù
ḿnh thuộc vào đó. Và cứ như thế tính xuống tiếp. Chơn sư, vốn yêu thương
trọn cả thế giới, c̣n yêu thương cá nhân nhiều hơn nữa, Ngài không hề bỏ qua
cá nhân vốn bị đắm ch́m trong t́nh thương rộng lớn hơn. Tôi nhấn mạnh tới
điều này (kẻo thiên hạ sẽ nghĩ rằng tất yếu họ sẽ nghĩ thế), một t́nh yêu
cho toàn thể thế giới là một điều ǵ đó lạnh lùng và không hấp dẫn. Họ tưởng
tượng rằng một cá thể như thế phải bỏ qua gia đ́nh, không c̣n chú ư tới nó
nữa, không c̣n là một thành viên yêu thương của nó nữa, để cho trải qua
những giai đoạn sơ khai nhằm phát triển t́nh thương của ḿnh trong cộng đồng
đó. Quả thật là những người mới lần đầu tiên bắt đầu yêu thương nhân loại
thường có khuynh hướng quên đi tập thể nhỏ hơn khi háo hức với t́nh thương
đối với tập thể lớn hơn. Điều này cũng tự nhiên thôi. Một đứa trẻ có thể vứt
đi một đồ chơi cũ v́ đă có một đồ chơi mới đẹp hơn. Khi nó lớn lên, nhất là
khi nó già rồi th́ ngay cả những đồ chơi thời thơ ấu lại một lần nữa trở nên
thân thương đối với nó. Và như vậy trong khi chúng ta thấy trên thế giới cái
điều dị thường kỳ lạ là những người yêu thương trọn cả thế giới thường lơ là
với gia đ́nh ngay cận kề ḿnh, th́ điều này không có nghĩa là t́nh thương
dành cho thế giới tất yếu đ̣i hỏi phải bỏ đi mọi cảm t́nh nhỏ hơn. Việc từ
bỏ nhất thời chỉ là do nhất thời thiếu khả năng thích ứng. Chẳng hạn như xét
trường hợp Jean Jacques Rousseau. Lịch sử cho chúng ta biết rằng ông hoàn
toàn bỏ bê con cái, thế mà ông lại viết quyển
Amiel xét về nhiều mặt tŕnh bày
tuyệt vời cách thức nuôi dạy con trẻ. Kẻ có đầu óc hời hợt ắt bảo rằng
Amiel chẳng có giá trị ǵ v́
chính cuộc đời ông đă làm ngược lại cái thuyết mà ông xiển dương trong tác
phẩm của ḿnh. Sự thật là Rousseau đang ở giai đoạn sơ khai của một t́nh
thương rộng lớn hơn. Trong khi cố gắng lĩnh hội những nguyên lư lớn hơn th́
ông nhất thời bỏ bê những nguyên lư nhỏ hơn. Chỉ nội trong một vài kiếp,
Rousseau ắt sẽ nhận ra được rằng t́nh thương tổng thể vốn dựa trên t́nh
thương của các phần tử cấu thành và mọi thuyết của ông sẽ không thật sự đúng
đắn nếu ông không vận dụng được chúng vào sinh hoạt hằng ngày.
NHU CẦU HIỂU BIẾT
Như vậy chúng ta thấy sự
tiến hóa phức tạp xiết bao và nhất là chúng ta nhận ra được ḿnh có quá ít
lư do để xét đoán người khác. Cách cư xử của người khác thường bị chúng ta
coi là không khôn ngoan hoặc sai trái và chúng ta nhao nhao lên chỉ trích.
Chỉ trích cũng chẳng ăn nhằm bao nhiêu nếu chúng ta không dùng nó để cảnh
tỉnh chính ḿnh đừng đi vào vết xe đổ ấy, nhưng chúng ta thường dùng sự chỉ
trích làm cây gậy để quật vào những người mà ḿnh chỉ trích. Thế nhưng chúng
ta đâu phải là nhà tâm lư học chân chính. Chơn sư có dạy rằng: “Đừng bao giờ
gán động cơ thúc đẩy cho người khác, chỉ sư phụ của y mới biết được khuyết
điểm của y và y có thể hành động v́ những lư do mà con chẳng bao giờ nghĩ ra
nỗi”. Mọi cá thể đều là một mớ guồng máy cực kỳ phức tạp. Chúng ta thấy hiểu
được bản thân ḿnh đă đủ khó rồi. Cho nên ta không thể hiểu người khác; ta
chỉ có thể cố gắng đồng cảm với họ và giúp đỡ họ. Chơn sư nêu rơ điều này
khi Ngài dạy rằng: “Mỗi linh hồn đều có những rắc rối của riêng ḿnh và tư
tưởng của nó chủ yếu là cứ quay ṿng ṿng xung quanh nó”. Tôi nghĩ rằng quả
thật khi chúng ta cảm thấy muốn kết án người khác th́ chắc chắn là có những
trường hợp giảm khinh hoặc đáng giải thích mà chúng ta tuyệt nhiên không
biết ǵ hết. Một thái độ nhỏ nhặt vô nghĩa vào một lúc đặc biệt nào đó tự
thân nó có thể khiến cho tâm trí chúng ta phải chỉ trích, nhưng có lẽ là cái
thái độ nhỏ nhặt đó có những nguyên nhân (có thể ở trong quá khứ xa xăm) mà
chúng ta chẳng hề quan niệm nỗi. Tôi không đủ chỗ để minh họa điều này,
nhưng bạn có thể triển khai nó ra cho chính ḿnh. Dù sao đi nữa bạn nên nhớ
rơ rằng mỗi khi bạn chỉ trích hoặc suy nghĩ một cách không tử tế th́ bạn hầu
như chắc chắn là không công bằng.
Và nếu bạn không công
bằng với những kẻ thuộc về cùng một giới như ḿnh th́ bạn sẽ không công bằng
hơn nữa đối với những thành viên trong gia đ́nh Thượng Đế vốn c̣n khó hiểu
hơn nữa. Sự bơ vơ biểu kiến của loài thú vật và cây cỏ đă khiến cho chúng ta
lợi dụng chúng, và tưởng tượng rằng v́ chúng bơ vơ cho nên chúng ta có quyền
muốn đối xử với chúng ra sao cũng được. Thái độ này là phản ánh của óc cá
nhân chủ nghĩa vốn đă hoành hành biết bao nhiêu năm ở nhiều nơi trên thế
giới. “Kẻ yếu nhất bị dồn vào ngơ bí” là nguyên tắc cư xử của đại đa số mọi
người, thế là loài thú vật và cây cỏ cũng chịu đau khổ tương ứng như thế.
Chúng ta vốn có nguyện vọng phụng sự Chơn sư ắt phải nhớ rằng Thượng Đế cũng
yêu thương mọi giới trong thiên quốc của ḿnh ngang nhau. Đă đến lúc mà loài
thú vật và cây cỏ phải một lần nữa thân thiện với loài người. Có thể nói,
loài thú nói chung biết được trong đám thuộc giới nhân loại ai là người đánh
giá cao và yêu thương chúng. Nhưng việc nói là ngược đăi giới động vật đă
tạo ra vực sâu ngăn cách giữa loài người và loài thú, cho nên thói quen của
loài thú tất yếu phải là không tin cậy đối với bậc đàn anh lỗi đạo. Nhưng
khi tinh thần huynh đệ bắt đầu thấm nhuần giới nhân loại th́ chúng ta có thể
hi vọng rằng nó sẽ bắc cầu qua vực thẳm này và thu hút các giới đang giao
chiến với nhau nhập vào một liên minh tương tự như một liên minh giữa giới
nhân loại và giới siêu nhân loại.
Đối với loài cây cỏ cũng
thế. Nhiều người trong các bạn ắt đă nhận thấy rằng hoa và cây cối bị thu
hút về phía một vài cá nhân. Cây cối mọc tươi tốt hơn do được chăm sóc bởi
những người yêu thương chúng và tôi thường lưu ư thấy cây cối sống lâu hơn
và chúng dường như hạnh phúc hơn khi ở cận kề ngay cạnh bà Besant. Thiên hạ
đôi khi tặng hoa cho bà Besant và khi bà cài hoa lên y phục của ḿnh th́ hoa
thường sống lâu hơn. Nói cách khác chúng đă t́m ra chỗ trú của ḿnh và hạnh
phúc với chỗ trú ấy. Một ngày nào đó thế giới quả thật sẽ tươi đẹp v́ một
ngày nào đó sẽ có sự hợp tác yêu thương giữa đủ mọi giới trong Thên nhiên,
trong đó giới lăo thành sẽ làm bổn phận với giới trẻ trung hơn, và giới trẻ
trung hơn sẽ hành động hợp tác yêu thương với giới lăo thành.
CHƯƠNG XXIII
T̀NH THƯƠNG VÀ PHỤNG SỰ
Chơn sư có nêu rơ rằng
t́nh thương và phụng sự thật ra là những từ đồng nhất và có thể hoán chuyển
được. Nếu chúng ta yêu thương Thượng Đế th́ chúng ta mong ước hiệp nhất với
Ngài, nhưng Chơn sư có dạy rằng: “Nếu con mong ước hiệp nhất với Thượng Đế
th́ đó không phải v́ lợi ích của riêng con, mà ấy là v́ để cho con có thể
trở thành một phương tiện thông qua đó t́nh thương của Ngài có thể tuôn chảy
đạt tới đồng loại của con”. Chính v́ thế mà Chơn sư dạy chúng ta rằng chúng
ta phải yêu thương và do đó phụng sự tất cả những ǵ trên thế giới – loài
người, loài thú và loài cây cỏ. Thật vậy chúng ta cũng phải phụng sự loài
khoáng vật, mặc dù ư tưởng này dường như khá viễn vông. Nhưng mọi người nào
thật sự yêu thương Thiên nhiên cũng đều biết tới bài học kỳ diệu mà giới
khoáng vật dạy cho chúng ta. Do công tŕnh khảo cứu của nhà khoa học vĩ đại
người Ấn Độ, ngài J. C. Bose, giờ đây chúng ta thừa biết khoáng vật cũng là
các sinh linh, ngoài ra mọi người để ư đến Thiên nhiên đều biết tác dụng mà
một phong cảnh đẹp gây cho con người. Sự hùng vĩ của phong cảnh núi non gây
ấn tượng lên linh hồn cá nhân khiến cho kẻ yêu thiên nhiên cảm thấy sự đơn
nhất ở mức độ rất rơ rệt. Quyền năng của Thượng Đế biểu lộ sâu sắc qua những
kết quả gập ghềnh của những sự đảo lộn lớn lao, và biển cả tàn nhẫn nói lên
Định luật khắc khe của Ngài. Nói theo giáo sự James th́ tiếng nói của đời
sống vĩnh cửu có nghĩa là “nói qua mọi giới trong Thiên nhiên” và nhiệm vụ
của chúng ta là phải nhờ t́nh thương và việc phụng sự để phát triển khả năng
nghe được thông điệp của Thượng Đế qua đủ thứ giai đoạn phát triển T́nh
thương thấm nhuần vạn vật của Ngài.
SỰ ĐƠN NHẤT SỐNG ĐỘNG
Những người nào có đặc
quyền trải qua cuộc Điểm đạo lần thứ nhất đều biết được sự đơn nhất sống
động trong một chừng mực nào đó. Ít ra th́ trong nhất thời họ cũng có thể
ḥa lẫn bản thân với ngoại giới, và khi vong thân như thế họ có được một sự
thoáng nh́n mong manh về h́nh ảnh Thượng Đế. Một người đă trải qua kinh
nghiệm này bảo rằng:
“Tôi không thể hoàn toàn giải thích cho bạn bản chất của kinh nghiệm mà tôi đă trải qua trên cơi Bồ Đề, nhưng tôi có thể kể cho bạn nghe những tác dụng sau đó của nó khi tôi trở lại với cái mà chúng ta gọi là tâm thức tỉnh táo. Khi tôi thức tỉnh dậy th́ tôi bị tràn ngập một xúc cảm thấy bản ngă ḿnh ḥa lẫn với ngoại giới dường như thể tôi bị phân phối ra thiên nhiên xung quanh ḿnh, do đó tâm thức tôi linh hoạt nơi mọi thứ xung quanh. Khi bước xuống giường đi ra cửa sổ, tôi nh́n xuống một khu vườn chanh đẹp đẽ mà các cây trong đó chín mọng những quả chanh. Khi tôi nh́n ra th́ trung tâm tâm thức của tôi dường như lan tỏa mở rộng ra sao cho tôi không chỉ là “tôi” nữa mà c̣n là vườn chanh cũng như người làm vườn lúc đó đang hái những quả chanh. Tôi dường như lan tỏa ra và luân phiên giữa ngoại giới với bản thân. Ba hồi tôi cảm thấy ḿnh là vườn chanh, ba hồi tôi co lại thành ra cái bản ngă thông thường của ḿnh, và tôi nhận ra rằng nhiệm vụ của ḿnh là phải sống, phải yêu thương và phụng sự măi cho tới ngày nào đó tâm thức ḿnh sẽ lan tỏa ra vạn vật xung quanh mà bản thân chỉ c̣n là một trung tâm điểm. Kỳ diệu thay, sự đồng nhất tức thời của bản thân tôi với vườn chanh hoàn chỉnh đến nỗi với tư cách là cây chanh, tôi dường như trải nghiệm cái sự nhức nhối nhỏ nhoi nhất khi những trái chanh bị bứt ra khỏi cành cây. Bằng một cách nào đó dường như có sự tội nghiệp, dường như thể tôi bị lấy điều mà tôi có quyền vui hưởng. Tôi đă sản sinh ra những trái chanh và chúng làm cho tôi đẹp đẽ. Chúng đă làm cho tôi hoàn chỉnh và có một chút đau khổ khi bị tước mất thành quả lao động của ḿnh. Khi trở lại với bản thân, tôi biết rằng cái cây chẳng nên tiếc nuối v́ những trái chanh là t́nh yêu và việc phụng sự của nó. Nhưng tôi cũng biết rằng không thể trông mong cái cây hoàn toàn nhận ra được điều này. Thế rồi tâm trí tôi lại thắc mắc liệu có ṣng phẳng chăng khi gây ra đau đớn cho cái cây. Tuy nhiên, tôi lại nhận ra rằng chỉ có như thế th́ cái cây mới học được thiên chức của ḿnh v́ cây cối cũng có thiên chức giống như con người, và một chút đau đớn mà cái cây phải chịu sẽ được đền đáp xứng đáng bằng ḷng biết ơn của những người đă học được cách suy tư sâu sắc. Điều này khiến tôi nhận ra được rằng chúng ta ắt trợ giúp cho các giới thấp trong Thiên nhiên nhiều hơn mức hiện tại nếu chúng ta chủ đích suy nghĩ tới chúng nhiều hơn mức hiện nay. Vào thời buổi hiện đại th́ hành vi tôn vinh cây chanh khi ăn một trái chanh nghe có vẻ phi lư, nhưng theo quan điểm của cái cây th́ chẳng có ǵ là phi lư hết. Ai mà biết liệu cái cây có sản sinh ra những quả trái tốt đẹp hơn mức hiện nay, và sẽ vui ḷng hiến dâng quả trái đó nếu chúng cảm thấy rằng nỗi đau chia ly chẳng qua chỉ là việc trả công trước cho một sự sống sung sức hơn được cấp dưỡng bằng sự biết ơn của con người ?
Tác giả tiếp tục đề tài
này qua nhiều lối rẽ trong đó ông chứng tỏ cách thức trong khi sự đồng cảm
bắt đầu bằng cách mô phỏng lại xúc cảm tức là cùng chia xẻ xúc cảm th́ sự
đồng cảm chân chính lại có nghĩa là truyền thêm sức mạnh để chịu đựng. Đây
quả thật là ư nghĩa của cả tính thương và phụng sự. Nhiệm vụ của chúng ta
không phải là thường xuyên gánh đỡ gánh nặng của người khác mà nhân danh một
sự đơn nhất chung chúng ta có bổn phận phải chia xẻ với những người khác sức
mạnh giúp cho họ can đảm gánh chịu những rắc rối của chính ḿnh.
BẢN CHẤT CỦA SỰ TRẢI NGHIỆM
Chơn sư dạy rằng: “Kẻ
nào bước trên Thánh đạo không sống v́ riêng ḿnh mà v́ những người khác, y
đă quên mất bản thân để có thể phụng sự những người khác”. Ta hăy lưu ư cụm
từ “y đă quên mất bản thân”, tôi cho rằng điều này có nghĩa là y đă học cách
ḥa lẫn bản thân với những người khác. Chỉ bằng cách ḥa nhập bản thân với
những người khác th́ y mới biết cách thông cảm với họ. Và điều này cho ta
thấy giá trị của sự trải nghiệm cả cay đắng lẫn ngọt ngào. Ta không cần phải
trải qua mọi kinh nghiệm có thể tưởng tượng được, cũng chẳng cần cá nhân
ḿnh đồng cảm với cả thế giới,
nhưng ta cần làm quen với bản chất của cuộc trải nghiệm. Chúng ta phải trải
nghiệm bản chất của kinh nghiệm đó mặc dù chúng ta tuyệt nhiên không cần
phải sống qua mọi dạng kinh nghiệm khác nhau. Kinh nghiệm dạy cho ta những
bài học theo nhiều cách khác nhau tùy theo các tính khí khác nhau và t́nh
huống khác nhau của loài người cũng như các dạng biểu hiện khác của Thượng
Đế. Khi chúng ta học được bài học này th́ chúng ta mới hiểu được quá tŕnh
và chúng ta cũng chẳng khó khăn ǵ cũng nhận ra được quá tŕnh dưới các dạng
kinh nghiệm khác mà bản thân chúng ta có thể không thực sự trải nghiệm.
Những kinh nghiệm thực sự mà chúng ta đă nếm trải mang lại cho chúng ta cá
tính, c̣n bản chất tinh hoa của những kinh nghiệm khác mang lại cho chúng ta
tính đại đồng thế giới. Một sự phiền năo lớn lao có thể dạy cho chúng ta
biết phiền năo thật sự là ǵ bất kể nó biểu hiện qua nhiều dạng khác nhau.
Nếu chúng ta biết rút kinh nghiệm qua “những phiền năo của chính ḿnh” th́
chúng ta đă học được bài học “phiền năo” v́ nhờ vào phiền năo của ḿnh mà
chúng ta học được về phiền năo rồi th́ chúng ta sẽ hiểu được phiền năo dưới
đủ mọi dạng v́ chính sự sống đă tạo ra những dạng thức đó. Như vậy chúng ta
phải luôn luôn cố gắng lập luận từ cá thể sang tổng thể. Khi sự rắc rối xảy
ra cho chúng ta th́ chúng ta nên cộng đồng hóa xúc cảm của ḿnh và tự nhủ
rằng các loại rắc rối khác cũng mang lại những xúc cảm đó cho những người
khác. Chúng ta cũng nên nhận ra được rằng mọi sự khó khăn nho nhỏ mà chúng
ta gặp phải và mọi cớ viện dẫn mà chúng ta dành cho bản thân đều có đối thể
trong cuộc đời của những người khác. Nếu ta xúc phạm tới một người nào đó
th́ ta thường có thể t́m ra được cớ và lư do để bào chữa. Mỗi người trong
chúng ta đều có thể giải thích và khi giải thích chúng ta thấy hoặc là có lư
do chính đáng hoặc ít ra là có trường hợp giảm khinh. Thật vậy, chúng ta
luôn luôn đ̣i hỏi trong trường hợp ḿnh phải cân nhắc tới trường hợp giảm
khinh th́ trong trường hợp những người khác cũng phải cân nhắc tới điều đó.
Và chúng ta nên nhớ rằng nếu chúng ta yêu cầu người khác thông cảm th́ đến
lượt ḿnh là cũng phải thông cảm với người khác. Nhưng tất nhiên phải có
việc hiểu lầm người khác cũng như hiểu lầm chính ḿnh cho nên nói cách khác,
nếu chúng ta không đóng góp được ǵ cho cái hạnh phúc toàn thể thế giới vốn
đang trông mong phần đóng góp của chúng ta, th́ đến lượt ḿnh chúng ta cũng
sẽ rất khó khăn mới nhận được cái phần chia xẻ mà bản thân chúng ta đang cần
tới. Bạn có hiểu ngụ ư của tôi chăng ? Nếu bạn muốn được hạnh phúc th́ trước
hết phải đóng góp vào cái kho hạnh phúc chung rồi nhiên hậu bạn mới rút hạnh
phúc ra được từ đó. Bạn không thể hạnh phúc một cách độc lập. Chính v́ thế
mà quyển Dưới Chơn Thầy có thể
được coi là một “phúc âm hạnh phúc”, v́ đó là phúc âm về t́nh thương và
phụng sự, và chỉ khi chúng ta yêu thương và phụng sự th́ chúng ta mới có
được hạnh phúc lâu bền. Bạn ắt nhận thấy rằng Chơn sư có dạy kẻ nào bước
trên Thánh đạo không sống v́ riêng ḿnh mà v́ những người khác. Chỉ dẫn của
sự thật này vốn hiển nhiên qua những lời lẽ mà tôi đă trích dẫn từ kẻ chính
ḿnh đang bước trên Thánh đạo. Y sống v́ những người khác do bởi y đă trải
nghiệm được sự đơn nhất, và một khi người ta đă trải nghiệm sự đơn nhất th́
người ta không bao giờ quên nó được nữa mà theo thời gian sự đơn nhất đó
phải càng ngày càng chế ngự được sinh hoạt hằng ngày. Chúng ta được dạy cho
biết rằng vào một giai đoạn sau này quá tŕnh sẽ đảo ngược lại sao cho cá
thể sẽ thu hút mọi thứ vào bản thân thay v́ cảm thấy bản thân ḥa lẫn vào
ngoại giới. Tuy nhiên tôi không cần bàn tới điều này v́ có lẽ là đa số bạn
đọc c̣n chưa trải nghiệm các giai đoạn đầu tiên mà tôi đă mô tả bản chất của
nó.
“Y là một cây bút trong tay Thượng Đế mà tư tưởng Ngài có thể tuôn chảy qua đó t́m thấy cho ḿnh một biểu hiện dưới đây. Nếu không có cây bút th́ không thể biểu hiện ra được. Đồng thời y cũng là một ng̣i bút lửa sống động tỏa ra trên thế gian T́nh thương Thiêng liêng vốn tràn đầy tâm hồn ḿnh”. Qua những cụm từ huy hoàng này Chơn sư cho thấy bằng cách nào mà trong khi mỗi người trong chúng ta là một phương tiện biểu hiện thần lực Chơn sư th́ đồng thời chúng ta cũng là một suối nguồn cá thể cho nước hằng sống. Xuất phát từ biểu hiện tính đơn nhất của chúng ta th́ các nguyên khí thường hằng của Sự Sống Thiêng Liêng mới giáng trần, trong khi xuất phát từ tính cá biệt của chúng ta, các nguyên khí thiêng liêng này mới có được một vài dạng xác định nhờ đó chúng có thể dễ dàng được nhận ra bởi các cá thể vốn tự nhiên là đáp ứng với những dạng thức chuyên biệt mà chúng ta biểu hiện Sự Sống Nhất Như thông qua đó. Như vậy, chúng ta có thể hữu dụng theo hai cách. Chúng ta có thể hiến dâng cho thế gian cả phần vô sắc tướng lẫn phần sắc tướng. Mỗi một người trong chúng ta đều có phần đóng góp cá thể để tạo thành hạnh phúc của thế gian cũng như ít ra là trong một chừng mực nào đó có thể cống hiến một biểu hiện của những nguyên khí chung. Mỗi người trong chúng ta ít ra cũng có thể là một điều ǵ đó đối với trọn cả thế gian, nhưng với vai tṛ là các cá thể có một đường lối hoạt động đặc thù, chúng ta có thể là rất nhiều đối với một vài người.
CHƯƠNG XXIV
KẾT LUẬN
Khi dạy học tṛ, bà
Besant nhấn mạnh tới các loại rèn luyện khác nhau mà chúng ta cần để phát
triển toàn diện. Nếu chúng ta muốn bước trên đường Đạo thành công, th́ chẳng
những chúng ta phải sử dụng và phát triển năng lực của ḿnh mà c̣n phải thay
thế những nhược điểm của ḿnh bằng những ưu điểm. Trong hoàn cảnh b́nh
thường bổn phận của một cá thể là đặc biệt chú ư tới những khía cạnh c̣n kém
phát triển trong tính t́nh ḿnh sao cho y có thể dần dần đạt tới cái sự hoàn
thiện toàn diện vốn đặc trưng xiết bao cho các Đấng đă đạt tới quả vị Chơn
sư. Kẻ nào mạnh về ư chí nhưng yếu về minh triết chẳng hạn th́ phải phấn đấu
để đạt minh triết. Kẻ nào có tri thức nhưng vẫn c̣n yếu kém về tính t́nh th́
phải củng cố ư chí sao cho ḿnh vận dụng được tri thức mà ḿnh đang có. Cũng
vậy, đối với mọi đặc trưng và tính chất khác th́ sự tăng trưởng phải phấn
đấu đến mức tối đa để đạt được một bản chất thăng bằng trong đó mọi đức tính
đều biểu hiện ra được đến một mức nhất định nào đó trong khi những nhược
điểm nhất định đă hoàn toàn thay thế bởi ưu điểm. Đây là điều mà ta ít nhiều
ngụ ư qua cụm từ phát triển chung. Nó có tầm quan trọng cốt yếu đối với
những người c̣n trẻ và có thể được diễn tả theo kiểu b́nh thường bằng cách
phát biểu rằng phải có nền tảng vững chắc về tri thức tổng quát trước khi
bắt đầu chuyên biệt hóa.
Mặt khác, mỗi cá thể đều
có sự đóng góp chuyên biệt của riêng ḿnh cho sự tiến bộ của thế gian. Chúng
ta được dạy bảo rằng Quần Tiên Hội vốn cai trị chúng ta được phân chia thành
ba ngành hoạt động riêng biệt. Đại khái có ba bộ môn chính: cai trị, giáo
huấn và tổ chức. Tuy mỗi bộ môn này có các chuyên gia ở cấp Chơn sư được rèn
luyện đặc biệt để làm việc trong bộ môn mà ḿnh trực thuộc. Ta có thể nói
một cách kính cẩn rằng mỗi Chơn sư chẳng những có một sự hoàn hảo toàn diện
mà c̣n phát triển được bản chất ḿnh theo những huấn lệnh đặc thù của bản
thể cá biệt của ḿnh. Âm nhạc của thế giới là một hài âm chứ không phải chỉ
là một nốt nhạc. Chính vẻ đẹp của hài âm đó c̣n tùy thuộc vào nhiều sự khác
nhau cấu tạo nên nó, miễn là mỗi nốt nhạc riêng biệt đều cùng cung bậc với
cái thần của hài âm phối kết. Do đó trong khi mỗi một người trong chúng ta
cần có được một sự phát triển toàn diện nhất là củng cố phần yếu kém của bản
chất ḿnh th́ đồng thời chúng ta phải nhớ rằng với vai tṛ là cá nhân mỗi
một người trong chúng ta phải có một thông điệp đặc biệt để cống hiến cho
môi trường xung quanh. Trong ba bộ môn lớn – cai trị, giáo huấn và tổ chức –
có nhiều loại công việc và không ai cảm thấy rằng ḿnh chẳng có thông điệp
nào để cống hiến. Có thể là y chưa cống hiến được thông điệp của ḿnh, y
chưa sẵn sàng chuyên biệt hóa cũng giống như đứa trẻ chưa sẵn sàng để chuyên
biệt hóa. Nhưng một ngày nào đó y sẽ biết được công việc của ḿnh và nếu y
nhận ra rằng ḿnh có những bổn phận chuyên biệt để hoàn thành th́ y sẽ chăm
chú tới chúng và như vậy tăng trưởng nhanh hơn. Nhiều người đọc những trang
này có thể cảm thấy rằng ḿnh thật sự cũng chẳng biết ḿnh thuộc về đường
lối nào hoặc thuộc phân bộ chuyên biệt nào. Họ nên nhớ sự thật là họ quả
thực có địa vị đặc biệt và chức năng chuyên biệt trong việc phụng sự thế
gian và sớm muộn ǵ họ cũng sẽ tự ḿnh khám phá ra. Mỗi người trong chúng ta
sẽ trở thành một chuyên gia trong tương lai gần hoặc tương lai xa, và chúng
ta càng nhanh chóng học được cách thay đổi những thái cực của ḿnh, thay thế
khuyết điểm bằng ưu điểm và đưa đủ thứ cấu tạo trong bản chất ḿnh trở nên
quan hệ hài ḥa th́ chúng ta càng sớm phát hiện được địa vị chuyên biệt mà
Thượng Đế đă biệt phái chúng ta đến đóng vai trong cuộc đời. Tôi không có
chỗ để theo đuổi đề tài này thêm nữa và tôi cũng không gợi ư tỉ mỉ làm thế
nào mà tôi thấy dường như các phân bộ lớn đang biểu hiện qua nhiều cách khác
nhau. Nhưng tôi tin rằng nếu chúng ta nh́n xung quanh ḿnh một cách thông
minh, th́ chúng ta có thể bắt đầu thấy những người mà chúng ta biết rơ đang
dần dần được lọc lựa ra nhập vào phân bộ nào. Thoạt tiên chúng ta thường sai
lầm hơn là đúng, nhưng khi chúng ta có thêm kinh nghiệm th́ mức độ chính xác
khi xét đoán sẽ gia tăng. Tôi xin nói thêm lời cuối cùng về đề tài này là
nếu tôi học tập đúng đắn th́ sự chuyên biệt hóa mà tôi nói đến ắt sẽ mở rộng
sang những cơi cao nhất. Tôi có nghe nói rằng nốt chủ âm của thế giới chúng
ta chẳng hạn là t́nh thương biểu hiện theo một cách riêng biệt nào đó. Tôi
có thể tưởng tượng rằng nốt chủ âm của một thế giới nào khác có thể là minh
triết trong khi đối với một thế giới khác nữa th́ đó có thể là ư chí v.v. .
. Cho dù tôi đúng hay sai th́ địa hạt nghiên cứu này cũng cực kỳ hấp dẫn và
có giá trị vô song đối với những người phải giao dịch với loài người trên
cương vị là chính khách hay thầy giáo.
T̀NH THƯƠNG LÀ ĐIỀU LINH HỨNG
Trong đoạn cuối cùng của
quyển Dưới Chơn Thầy, Chơn sư
tŕnh bày bản chất của những điều kiện căn bản mà mỗi người trong chúng ta
phải phát triển. Ngài dạy chúng ta rằng chúng ta phải đạt được minh triết
không phải là chỉ để dùng cho ḿnh thôi mà đúng hơn là để cho chúng ta
có thể giúp đỡ người khác. Thế rồi chúng ta phải có ư chí để điều khiển sự
trợ giúp minh triết của ḿnh đi qua những phương tiện phụng sự thích hợp.
Nhưng chúng ta cũng phải có t́nh thương v́ nếu không có t́nh thương th́
không thể có ư chí chân chính; trong khi nếu không có ư chí giúp đỡ th́
không thể có thần lực nào kích thích chúng ta theo đuổi minh triết chân
chính. Bạn lưu ư thấy Chơn sư đă coi t́nh thương là yếu tố linh hứng ra sao.
Có lẽ v́ nốt chủ âm của thế giới này là t́nh thương. Khi đă có t́nh thương
rồi th́ tất yếu phải có ư chí phụng sự. Và khi có ư chí phụng sự rồi th́
phải có ḷng khao khát phụng sự một cách hữu ích, minh triết. Tôi có thể
thắc mắc làm thế nào mà đạt được đức tính bác ái đối với những người khác.
Tôi có khuynh hướng trả lời rằng người ta học cách yêu thương người khác
bằng cách trở nên mỏi mệt yêu thương chính ḿnh. Người ta đâm ra chán ngán
với cái bản ngă nhỏ bé và chú trọng tới tự do lớn lao hơn của bản ngă lớn
lao hơn. T́nh thương đối với người khác xuất phát từ bên trong chứ không
phải từ bên ngoài. Nó không thể được áp đặt lên chúng ta. Không thể ép buộc
một đứa trẻ phải yêu thương người khác. Nhưng bậc huấn sư minh triết sẽ
khích lệ học tṛ ḿnh có được cái sự mỏi mệt mà sớm muộn ǵ cũng xuất lộ do
việc chỉ yêu thương bản thân thôi. Trong một thời gian nào đó tất nhiên là
chúng ta chỉ quan tâm hầu hết tới bản ngă nhỏ bé cá biệt của ḿnh thôi. Điều
này chẳng những tất yếu mà c̣n đúng đắn nữa; v́ chúng ta chỉ có thể tiến tới
cái rộng lớn hơn khi xuất phát từ cái nhỏ hẹp hơn và chúng ta phải bắt đầu
từ chính ḿnh. Sau này chúng ta bắt đầu nhận ra được rằng hạnh phúc chân
thực tùy thuộc nhiều vào quan hệ của chúng ta với môi trường xung quanh hơn
là tùy thuộc vào nỗ lực của chúng ta nhằm có được điều mà chúng ta muốn cho
bản thân, bất kể việc thỏa măn các ham muốn đó có thể phải trả giá bằng sự
đau khổ tổn hại cho người khác. Nhưng nhận ra được điều này có nghĩa là tăng
trưởng dần dần. Chúng ta không thể đạt được tất cả mọi điều đó trong một lúc
và do đó tôi lập lại rằng đường lối duy nhất để khích lệ t́nh thương đến với
người khác là khích lệ bằng mọi phương tiện hợp thức sự nhàm chán với việc
chỉ yêu thương bản thân thôi.
KẾT QUẢ CỦA GIÁO HUẤN
Bây giờ tôi xét tới phần
cuối cùng của sự nghiên cứu này và tôi nghĩ rằng nếu người ta yêu cầu tôi
tổng kết đâu là kết quả của giáo huấn này dành cho bất kỳ cá thể nào th́ tôi
xin trích dẫn hai khổ thơ cuối cùng được tŕnh bày ở phần kết. Tôi xin chép
lại chúng ở đây:
Đợi chờ lời lẽ của Chơn sư
Chăm chú dơi theo Ánh sáng Ẩn tàng
Lắng nghe để nắm bắt được mệnh lệnh của Ngài
Ngay giữa trận chiến khốc liệt;
Nh́n thấy những tín hiệu nhỏ bé nhất của Ngài
Ngay trên đầu đám đông ô hợp
Nghe thấy lời th́ thầm nhỏ nhất của Ngài
Vượt trên bài ca huyên náo nhất của thế gian.
Kết quả của mọi giáo
huấn chân chính là để tạo ra mọi thái độ chân chính hơn là để nhồi nhét vào
trong bộ óc những chi tiết tri thức. Giáo huấn tốt nhất sẽ xác lập được một
nền tảng vững chắc dựa vào đó rèn luyện cho tâm trí biết cách t́m kiến thức
cần thiết ở đâu, làm sao có được thái độ khiến cho cá nhân chẳng những vận
dụng tri thức của ḿnh một cách khôn ngoan mà c̣n đồng cảm để thông cảm với
cả ngàn lẻ một động cơ thúc đẩy, và hoàn cảnh là cội rễ của mọi kiếp sống cá
nhân. Giáo huấn của Chơn sư ắt giúp cho chúng ta có được một thái độ tử tế
và tha thiết giúp đỡ người khác, trong khi cả hai điều này phải đủ chân thực
th́ mới khiến cho chúng ta sẵn ḷng đảm đương việc rèn luyện cần thiết và hi
sinh cần thiết. Đây là một thái độ được diễn đạt qua hai khổ thơ mà tôi vừa
trích dẫn, thái độ lắng nghe những chỉ dẫn nhỏ nhất về cách cư xử do chỉ đạo
của các bậc có thể gọi là những Người Phụng Sự Toàn Bích.
Khổ thơ đầu tiên cho
chúng ta thấy cần khiêm tốn để hiểu được thật ra chúng ta biết ít đến dường
nào, cho dù thế gian có thể gọi chúng ta là khôn ngoan đến đâu đi nữa. Do đó
nếu chúng ta muốn thật sự trợ giúp th́ chúng ta phải luôn luôn chăm chú ghi
nhận những ẩn ư của các đấng có được tri thức chân chính. Hai ḍng cuối cùng
của khổ thơ thứ nhất dạy chúng ta bài học quan trọng nhất là chúng ta không
bao giờ được quên đi Thiên cơ của Thượng Đế dành cho con người, cho dù chúng
ta có thể miệt mài đến đâu cho kiếp sống cá thể của riêng ḿnh. Cuộc sống
của chính ta là một phần Sự Sống của Thượng Đế, và chúng ta chỉ có thể sống
cuộc đời của riêng ḿnh thật sự khi nào chúng ta phấn đấu uốn nắn chúng, mô
phỏng chúng, đúc khuôn chúng theo sự sống của Ngài. Bà Beasant thường dạy
chúng ta trong mỗi bối cảnh tâm trí của bà luôn luôn có tư tưởng về Chơn sư
với kết quả là mọi điều mà bà làm đều chịu ảnh hưởng và nhuốm màu của tư
tưởng chủ đạo đó. Chúng ta cũng phải học cách luôn luôn nhớ tới Chơn sư
trong tư tưởng của ḿnh giống như thế v́ Chơn sư tiêu biểu cho hiện thân của
Chơn ngă chúng ta, Ngài là Thiên sứ đối với tâm hồn chúng ta. Nếu chúng ta
chưa thể nghĩ tới một Chơn sư đặc biệt nào, th́ ít ra chúng ta cũng phải có
trước mặt ḿnh h́nh ảnh của một trong các bậc Pḥ trợ Vĩ đại của thế gian.
Ngay cả hiện nay cũng có một vài người đang sống giữa chúng ta mà chúng ta
nên lồng khuôn vào những vị trí linh thiêng nhất trong bản thể ḿnh. Mọi
người trong chúng ta đều nên là một kẻ sùng bái anh hùng, cho dù đó là một
anh hùng thời quá khứ hoặc một anh hùng đang sống trên thế giới ngày nay.
Khổ thơ thứ nh́ mở rộng
khổ thơ đầu tiên và chúng ta nên học thuộc ḷng những khổ thơ này để cho
chúng có thể thường xuyên thâm nhập vào tư tưởng chúng ta, nhắc nhở chúng ta
về động cơ thúc đẩy chân chính ẩn đằng sau tư tưởng, xúc cảm và hoạt động
của ḿnh. Các ḍng thơ:
Nghe thấy lời th́ thầm nhỏ nhất của Ngài
Vượt trên bài ca huyên náo nhất của thế gian
dạy ta rằng lời gợi ư
nhỏ nhặt nhất của Chơn sư cũng có tầm quan trọng lớn hơn nhiều so với ư kiến
được coi trọng trong thế giới mà chúng ta đang sống. Những kẻ muốn là đệ tử
Chơn sư th́ phải học cách tự ḿnh xét đoán, nghĩ ra những tư tưởng mà Chơn
sư mong ḿnh nghĩ được, cảm nhận được giống như Chơn sư mong ước ḿnh cảm
nhận, nói năng như thể Chơn sư ra lệnh cho ḿnh nói, hành động như thể được
lệnh hành động của Chơn sư. Công luận cũng có giá trị, nhưng ư kiến của Chơn
sư là sự thật thuần khiết nhất đối với những kẻ mưu cầu hiểu biết, nhất là
đối với huyền bí gia. Mặt khác, chúng ta phải cẩn thận đừng quá lười biếng
không chịu tự ḿnh suy nghĩ. Sự lười biếng khiến cho đa số mọi người không
đến được dưới chơn Đức Thầy, v́ hoặc là họ muốn được các Huynh trưởng đút
cho từng muỗng một, tiếp nhận các huấn lệnh riêng biệt để hành động theo đó
cho từng chi tiết nhỏ nhặt trong cuộc đời, hoặc là họ lại quỵ lụy trước công
luận hơn là mất công tự ḿnh đứng vững, và nếu cần đương đầu với công luận
và sẵn sàng chịu hậu quả. Chẳng ai có thể trở thành đệ tử Chơn sư nếu không
hoàn toàn sẵn ḷng (thật vậy, c̣n phải tha thiết nữa) chịu đau khổ v́ chính
nghĩa của điều mà ḿnh tin là sự thật cho dù v́ thế mà y có thể chuốc lấy sự
ghét cay ghét đắng của bạn bè và môi trường xung quanh.
Tôi xin đặc biệt cảnh
báo bạn về cái khuyết điểm rất thường gặp nơi nhiều người tốt bụng nhưng
không có tâm đạo. Họ đi rêu rao với người khác, họ đă được dạy dỗ làm điều
này hoặc điều kia, đă mơ thấy giấc mơ nọ, đă nghe thấy tiếng nói đấng nào
đó, đă được bà Besant hoặc ông Leadbeater đặc biệt khuyên dạy điều này, tán
thành điều kia, khuyến khích điều nọ và ủng hộ việc giải thích một kinh
nghiệm trên cơi trung giới hoặc kinh nghiệm nào khác nữa. Trong môi trường
của chúng ta có rất nhiều người đầy hảo ư như thế lặng lẽ xoay ṿng trong
đó. Họ muốn nói ǵ th́ nói, nhưng bản thân bạn nên nhớ rằng lời khuyên của
ông Leadbeater không được trở thành tâm điểm cho ṿng tṛn của bạn. Những
người hành động như tôi vừa mô tả thật ra đang phấn đấu thuyết phục người
khác ḿnh là nhân vật rất quan trọng. Họ mưu t́m sự khen ngợi bằng cách cố
gắng vênh váo trong bộ y phục được gán cho là do các nhân vật cao cả hơn họ
ban tặng. Ngoài sự thật là hết 90% những nhận xét của họ nói chung là những
lời ngoa ngoắc chẳng có được bao nhiêu sự thật th́ công việc của chúng ta
khi là đệ tử dự bị trong đạo tràng của Chơn sư phải là việc chứng tỏ bản
thân qua hành động chứ không phải qua lời nói.
Tôi hi vọng rằng giáo
huấn của Chơn sư cũng quí báu với bạn đọc giống như đối với chính tôi. Chúng
ta có thể đọc quyển Dưới Chơn Thầy
nhiều lần, nhưng chúng ta chỉ bắt đầu hiểu được nó nếu chúng ta thấy là
mỗi lần chúng ta đọc lại nó th́ chúng ta lại học được một điều nào đó mới
mẻ. Người nào đă đọc quyển Dưới Chơn
Thầy rồi mà không muốn đọc đi đọc lại nó ắt chưa hiểu được thông điệp
của nó.
H Ế T
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES