Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME  NHẬP MÔN  sách   TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  QUEST  MAGAZINES

 

SUY NGHĨ VỀ QUYỂN

“DƯỚI CHƠN THẦY”

(THOUGHTS ON “AT THE FEET OF THE MASTER”)

Tác giả: GEORGE S. ARUNDALE

Bản Dịch: Chơn Như
2011

  

 

SUY NGHĨ VỀ QUYỂN

“DƯỚI CHƠN THẦY”

Của Sở Giáo Dục Quốc gia (Ấn Độ)

Nhà Xuất bản Thông Thiên Học Adyar, Chennai Ấn Độ, 1918

 

NHẬN XÉT MỞ ĐẦU

Các chương sau đây được in lại từ một loạt Tài liệu học Hàm thụ về quyển Dưới Chơn Thầy mà tôi đă viết trong hai năm vừa qua để phục vụ hội viên của Hội Những Người phục vụ Ngôi sao.

Tôi đă để cho khóa học này hầu như nguyên vẹn theo nguyên bản mà chỉ sửa lại đôi chút câu văn ở đây đó. Có thể có một số việc lập đi lập lại v́ tôi bắt đầu viết loạt bài này ở Bude, Cornwall vào năm 1914 và chỉ kết thúc ở Adyar, Madras vào năm 1918. Và tôi cũng chẳng có thời giờ viết lại hoặc ngay cả duyệt lại tỉ mỉ.

Nhưng một số bạn tôi nghĩ rằng chúng có ích và ít ra th́ chúng khiến cho bạn đọc quan tâm tới quyển sách kỳ diệu đă gợi linh hứng cho họ. Về phần ḿnh, tôi có thể nói thật rằng Dưới Chơn Thầy thường xuyên là người bạn đồng hành, người dẫn dắt và cố vấn cho tôi. Lúc nào tôi cũng kè kè theo ḿnh cái bản sao nhỏ xíu mà vị thầy trẻ tuổi của tôi đă tặng tôi. Tôi cố gắng t́m hiểu điều mà thầy đă nghe được; và tôi thấy trong những lời lẽ vô giá gói ghém giáo huấn đó quả thật có tất cả những ǵ vượt xa mức mà tôi cần để giữ giới luật và rèn luyện bản thân. Dưới Chơn Thầy mang lại một thông điệp thỏa đáng cho bất cứ người nào phấn đấu sống một cuộc đời vị tha. Tôi tha thiết giới thiệu nó cho những người đang giảng dạy và học hỏi thuộc đủ mọi tín ngưỡng và đủ mọi giống dân. Cùng với quyển sách đồng hành là Giáo dục để Phụng sự, người dạy cũng như người học đă có được một quyển chỉ nam hoàn chỉnh cho sinh hoạt hàng ngày. Và những sự thật được quí chuộng trong hai quyển sách lớn này là những sự thật mà mọi công dân chân chính đều công nhận và tuân theo. Dưới Chơn Thầy Giáo dục để Phụng sự là những Điềm báo của Thời đại Mới, những Dấu hiệu của Thời Vị lai, kẻ nào mưu t́m sự hợp tác với tương lai chứ không nô lệ cho thành kiến và tập quán th́ phải nghiên cứu kỹ lưỡng những quyển này.

Adyar, Madras, 1918

GEORGE S. ARUNDALE

MỤC LỤC

CHƯƠNG

I.        Việc ban ra các giáo huấn

II.       Lời nói đầu của Alcyone

III.      Những đức tính cần có để làm đệ tử

IV.          Có thời gian để đạt được sự Hoàn hảo

V.       Cuộc đời thật là linh hoạt

VI.      Rèn luyện Thể Xác

VII.         Thể Vía và Thể Trí

VIII.      Những Định luật Ẩn tàng trong Thiên nhiên

IX.      “Một chuyện nhỏ”

X.        Phụng sự để Giáo dục

XI.          Phân biện

XII.        Vô dục

XIII.      Vô dục (hết)

XIV.       Sáu điều về hạnh kiểm

XV.     Sáu điều về hạnh kiểm (tiếp theo)

XVI.    Sáu điều về hạnh kiểm (tiếp theo)

XVII.   Sáu điều về hạnh kiểm (tiếp theo)

 XVIII.  Sáu điều về hạnh kiểm (hết)

 XIX.    T́nh thương

XX.      Những Tội ác chống lại T́nh thương

XXI.     Những sự Trắc nghiệm về T́nh thương

XXII.    Sự Tăng trưởng T́nh thương

XXIII.   T́nh thương và Phụng sự

XXIV.    KẾT LUẬN

 ∆∆∆

CHƯƠNG I

VIỆC BAN RA CÁC GIÁO HUẤN 

Xét về nhiều mặt th́ quyển sách nhỏ mà chúng ta sắp cùng nhau nghiên cứu là tác phẩm quan trọng nhất mà thế gian đă nhận được trong hàng trăm năm nay v́ những lời lẽ được thốt ra từ một bậc Đạo sư đầy uy quyền mà thế giới đă từng biết là Pythagore và một số trong chúng ta biết đó là Thánh sư Koot Hoomi mà kho tài liệu Thông Thiên Học gọi Ngài là Chơn sư K. H. Tôi cho rằng bạn hiển nhiên đă biết các Chơn sư là ai – nếu không th́ bạn ắt t́m được nhiều thông tin qua những quyển sách như Các Bậc Đại Đạo Sư của Herbert Whyte, và Chơn sư và con Đường dẫn tới các Ngài của bà Besant. Ta hăy thử xem những giáo huấn này được áp dụng ra sao để cho ta có thể tuân theo chúng một cách thông minh.

Trong Lời nói đầu bà Besant có viết: “Giáo huấn được Chơn sư ban cho em để chuẩn bị cho em được Điểm đạo”. Ở đây có nhiều thắc mắc: Giáo huấn được ban cho em ra sao ? Giáo huấn được ban cho em ở đâu ? Điểm đạo là ǵ ?

 

GIÁO HUẤN ĐƯỢC BAN RA SAO

Thắc mắc 1. Có lẽ bạn biết rằng một số người hoàn toàn có thể hữu dụng trên cơi trung giới – tôi xin dành việc giải thích thuật ngữ này cho một người bạn nào đó nếu bạn đọc không hiểu thuật ngữ này – và cố gắng trợ giúp vào mọi việc tốt lành đến mức tối đa. Nhiều người trong các bạn đang đọc các ḍng này có lẽ sẽ giúp đỡ được rất nhiều khi thể xác đang yên ngủ, và thể vía là hiện thể mà nhất thời bạn đang sống và hoạt động trong đó. Nhưng cũng có nhiều điều cần phải học cũng như viêc giúp đỡ và nhiều người c̣n trẻ - tức là những người chưa tiến bộ nhiều – tụ tập xung quanh một người tiên tiến hơn và học hỏi nhiều điều chẳng những hữu dụng cho họ trên cơi trung giới mà c̣n hữu dụng trên cơi trần nữa. Đến lượt những bậc lăo thành này ngồi dưới chân [một cách diễn tả bóng bẩy để chỉ “sự học tập” và ở Đông phương th́ nó đúng theo sát nghĩa] một người nào đó c̣n biết nhiều hơn nữa, trong khi một số ít người lại nhận được giáo huấn của chính các Chơn sư.

Thế mà Alcyone – tên này được dùng để ghi dấu linh hồn tách biệt với đủ thứ hạ thể mà linh hồn đă khoác lấy từ kiếp này sang kiếp khác – là một trong những bậc lăo thành, “quả thật là cái xác c̣n trẻ nhưng phần Hồn th́ không trẻ” theo như bà Besant nói với chúng ta trong Lời nói đầu. V́ đă nổi bật lên do có một số phận đặc biệt cho nên ông được đặc quyền tiếp nhận giáo huấn trực tiếp của Chơn sư. Chơn sư bảo ông mỗi sáng viết lại những câu tóm tắt và diễn tả những giáo huấn mà ông đă nhận được trong đêm. Alcyone ở vào một vị thế đặc biệt v́ ông đă là đệ tử của Chơn sư rồi khi bắt đầu có những giáo huấn đặc thù này; do đó chúng dự tính giúp cho ông nhanh chóng đạt tới giai đoạn kế tiếp trong cuộc hành hương tâm linh của ḿnh, tức là được Điểm đạo. Ta nên lưu ư rằng ngôn từ ở đây rất đơn giản, v́ trong trường hợp này Chơn sư ngỏ lời với một bộ óc phàm vẫn c̣n rất non nớt và như vậy Ngài phải cẩn thận nói ra những lời lẽ sao cho bộ óc non nớt đó có thể nhớ được và hiểu được vào ngày hôm sau. Thật vậy, mỗi câu nói đều cực kỳ trong sáng v́ lúc bấy giờ Alcyone không biết nhiều tiếng Anh – giáo huấn được ban ra vào mùa thu và mùa đông năm 1909 – và chỉ được dạy rất ít trong một buổi học, một phần để cho ông có thể nhớ lại tất cả những điều được nói ra và một phần để cho ông có thể thực hành mọi lời gợi ư khi nó đă được đưa ra. Dĩ nhiên ông biết nhiều hơn khi ở ngoài thể xác; nhưng mỗi hiện thể đều là một sự hạn chế cho hiện thể ngay bên trên ḿnh (có lẽ tôi nên nói là làm bằng vật chất ít thô trược hơn, v́ không có “trên” hoặc “dưới”) và giáo huấn phải được thích ứng với nhu cầu của các hạ thể sao cho người ta có thể kiểm soát hoàn toàn được chúng.

Tôi cũng chẳng biết liệu thể xác của Chơn sư có đang yên ngủ hay chăng khi Ngài ban ra các giáo huấn. Có lẽ Chơn sư đi nghỉ sớm v́ Ngài có thể sử dụng mọi hạ thể của ḿnh một cách hoàn hảo, và do đó hoạt động bên ngoài thể xác cũng dễ dàng như vậy, có lẽ c̣n dễ dàng hơn v́ vật chất của các thể khác ít thô trược hơn. Bởi Alcyone không ở ngay tại nhà Chơn sư có lẽ măi cho tới 9 tuổi hoặc ngay cả lúc sau này, cho nên nếu vậy th́ giáo huấn ắt do Chơn sư ban ra khi Ngài ở trong một thể tinh vi và cố nhiên là Alcyone nhận được trong thể vía, nghĩa là ở trên cơi trung giới. Mặt khác, có thể có những dịp mà Chơn sư vẫn c̣n dùng thể xác; trong trường hợp này bạn có thể tưởng tượng là Ngài ngồi trong một cái ghế bành lớn ở gian pḥng rộng răi nơi Ngài thường tiếp khách hoặc có lẽ ở trong pḥng nghiên cứu của Ngài ngay kế bên; Alcyone đă nhận được giáo huấn “dưới chơn Ngài”. Đối với Chơn sư, Ngài có thể tiếp cận với mọi cơi như nhau và mặc dù Ngài đang tỉnh thức trong thể xác th́ Ngài vẫn có thể nh́n thấy và nói chuyện với Alcyone trong thể vía cũng giống như Ngài có thể nh́n thấy và nói chuyện với bất cứ người nào trên cơi trần. Có lẽ Ngài đă rút sự chú ư của ḿnh ra khỏi cơi trần để chuyển sang cơi trung giới cùng lúc với việc Ngài vận dụng các giác quan của thể tinh vi. Lúc bấy giờ các vật thể trên cơi trần không c̣n là tụ điểm chú ư nữa cũng như các vật ở gần dường như mờ đi khi ta chăm chú nh́n các vật ở xa. Có lẽ Chơn sư không cảm thấy sự mờ đi đối với những sự vật mà Ngài không trực tiếp nh́n vào, tôi cũng chẳng biết nữa. Dù sao th́ Alcyone trong thể vía cũng có thực đối với Ngài – có lẽ c̣n có thực hơn – giống như bất kỳ vật thể trên cơi trần nào ở gần Ngài, chẳng hạn như chiếc ghế trường kỷ hoặc cái bàn; và Ngài nói chuyện với đệ tử bằng cách dùng cơi trung giới làm phương tiện truyền tải lời nói của ḿnh.

 

GIÁO HUẤN ĐƯỢC BAN RA Ở ĐÂU

Thắc mắc 2. Tôi đă nói với bạn rằng giáo huấn có lẽ đươc ban ra tại nhà Chơn sư ở Tây Tạng. Nếu bạn giở bản đồ Á châu ra rồi t́m xem xứ Tây Tạng ở phía Bắc rặng núi Hi Mă Lạp Sơn vĩ đại th́ bạn có thể thấy tên của một thị trấn được gọi là Shigatse. Chơn sư sống trong thể xác ở lân cận thị trấn này, c̣n Alcyone sống ngay tại miền Nam Ấn Độ ở Adyar, rất gần Madras, cho nên khó ḷng mà nhận được giáo huấn khi ở trong thể xác. Adyar là một làng với đặc điểm chính yếu là có Tổng Hành Dinh của Hội Thông Thiên Học – tọa lạc trên một miếng đất rộng quay mặt ra biển và nằm ven sông Adyar. Tổng Hành Dinh này có một dinh thự đẹp đẽ bao gồm những căn pḥng dành cho những người làm việc khác nhau, ở tầng một có chỗ ở của Hội Trưởng Quốc tế Hội Thông Thiên Học cùng với một vài pḥng khác được dành cho đủ thứ thành viên của các vị chức sắc thuộc Tổng Hành Dinh. Alcyone và em của ḿnh sống gần pḥng của bà Besant, cách xa căn pḥng lớn của ông Leadbeater; xuất phát từ đó hết đêm này sang đêm kia khi xác phàm đang yên ngủ th́ chủ nhân ông của chúng lại giương buồm bay tới những đỉnh cao đầy tuyết phủ thuộc rặng Hi Mă Lạp Sơn đến tận nhà Chơn sư – đây là một cụôc hành tŕnh dài mà nếu xác phàm đi du hành th́ phải mất nhiều ngày, nhưng đối với các cư dân trên cơi trung giới th́ hầu như chỉ nghĩ là đến nơi rồi. Chắc chắn là các nhà du hành của chúng ta cũng dừng chân dọc đường để ngắm nghía phong cảnh hoặc có lẽ giúp đỡ một người nào đó đang gặp hoạn nạn, nhưng họ không được phép đến nhà Chơn sư trễ v́ Ngài rất bận rộn và chúng ta không được phép làm phiền Ngài v́ lỗi bất cẩn như thế. Có lẽ giáo huấn cũng không mất thời gian nhiều lắm – chỉ khoảng chừng mười lăm phút thôi; như vậy khi cuộc hội họp đă xong rồi th́ phần c̣n lại trong đêm ắt đầy ắp đủ thứ kinh nghiệm hữu ích để rèn luyện thể vía và các hạ thể khác của Alcyone cho công việc tương lai. Vào khoảng năm giờ rưởi sáng chủ nhân ông đă phải đánh thức thể xác dậy rồi; sau khi tắm rửa, ăn uống rồi tập thể dục và học hành, Alcyone bèn đi tới pḥng bà Besant ngồi vào một cái bàn đặt ở hành lang. Ở đó ông đích thân viết ra rất kỹ lưỡng những ǵ mà Chơn sư đă dạy cho ông, Chơn sư đă tổng kết chỉ trong một câu cốt lơi của bài giáo huấn một khắc đồng hồ. Vậy là quyển Dưới Chơn Thầy đă dần dần được viết ra; phần lớn là sao chép lại lời của chính Chơn Sư; đúng ra th́ không sao chép nguyên văn mà là tư tưởng của Chơn sư được thể hiện qua lời lẽ của đệ tử.

 

ĐIỂM ĐẠO LÀ G̀

Thắc mắc thứ 3. “Chuẩn bị cho em được Điểm đạo”. Điều này có nghĩa là ǵ ? Được thôi, chúng ta phải bắt đầu lùi lại một chút nếu chúng ta muốn hiểu Điểm đạo nghĩa là ǵ. Tôi hi vọng rằng tất cả các bạn đều biết “chơn ngă” của chúng ta (ẩn sau các hiện thể mà chúng ta ngẫu nhiên sử dụng trong kiếp đặc biệt này) là các điểm linh quang bất tử của ngọn lửa Thượng Đế và mỗi điểm linh quang nho nhỏ đó (vốn là một người trong chúng ta) đă trải qua các giới khoáng vật, thực vật và động vật trước khi nhập vào giới nhân loại mà chúng ta hiện nay thuộc vào nó. Trong những thời kỳ sơ khai cách đây hàng triệu năm và ở trên trái đất này, các điểm linh quang nhờ đó không tách rời khỏi nhau như t́nh trạng hiện nay trong giới nhân loại. Chúng không “hữu ngă thức” (tạm dùng một từ khó hiểu) hoặc linh hoạt đối với thế giới xung quanh. Trong giới khoáng vật, các điểm linh quang nho nhỏ này hầu như không thức tỉnh ǵ hết. Tuy nhiên, trong giới thực vật chúng đă bớt yên ngủ hơn; c̣n trong giới động vật th́ chúng thực sự bắt đầu ngọ ngoạy. Các điểm linh quang có thể bắt đầu sống kiếp tồn tại riêng biệt thay v́ bằng ḷng như trước kia chịu chia xẻ kinh nghiệm với các điểm linh quang anh em và sống một cuộc sống chung. Có lẽ bạn đă nhận thấy rằng trong khi hầu hết những con thú thuộc một loài đặc biệt có nhiều đặc điểm chung th́ một số lại có những cá tính của riêng ḿnh. Đây là sự khởi đầu của con đường đưa chúng trực tiếp tới giới nhân loại và sẽ tới một lúc có trường hợp một con thú bắt đầu sống dứt khoát cuộc đời của riêng ḿnh đến nỗi mà điểm linh quang ngự trong đó cuối cùng bứt ra khỏi các điểm linh quang đồng loại, và nói theo kiểu Thông Thiên Học th́ đă “biệt lập ngă tính” nghĩa là nhập vào giới nhân loại.

 

BƯỚC MỘT

Thế mà sự bit lp ngă tính này li là bước ln lao đu tiên ca đim linh quang trên con đường thực chứng được thiên tính thực s nghĩa là ǵ. Linh hồn đă tiến bước dứt khoát đầu tiên trên con đường dẫn tới sự hoàn hảo khi có thể nói là nó băng qua cây cầu dẫn từ giới động vật sang giới nhân loại, cây cầu này dứt khoát ngăn cách sự tồn tại cá thể với một sự tồn tại ít nhiều hữu thức chia xẻ chung với các linh hồn khác. Trong các giới hạ đẳng của thiên nhiên, linh hồn được góp lại thành từng nhóm theo chủng loại, và như tôi đă nói bước vĩ đại đầu tiên trên con đường tiến hóa chính là trên giai đoạn tồn tại riêng biệt khi linh hồn trong giới động vật nhập vào giới nhân loaị.

 

BƯỚC HAI

Bước vĩ đại thứ nh́ xảy ra khi con người cuối cùng bắt đầu phát triển được dứt khoát ư thức đúng và sai, và nhận ra được (cho dù rất lờ mờ) rằng không được làm điều sai và phải tuân theo điều đúng. Ta có thể gọi điều này là sự chớm nở của lương tâm trải qua biết bao nhiêu giai đoạn kinh nghiệm khi hạnh phúc nối tiếp hành động ít ích kỷ hơn c̣n đau khổ nối tiếp hành động nhiều ích kỷ hơn. Cuối cùng th́ cá nhân bắt đầu nhận ra được rằng ḿnh không chỉ sống cho riêng ḿnh, và Thượng Đế nội tâm y hoan hỉ chứng kiến một hiện thể dần dần thích ứng với sự hài ḥa thiêng liêng. Cuộc chiến tuyệt nhiên không dứt khoát hẳn. Thật vậy nó chỉ mới bắt đầu, nhưng gương mặt con người đă xoay về phía mục tiêu và cuối cùng th́ bản chất cao thượng bắt đầu nhận được sự đáp ứng hữu thức để rèn luyện và uốn nắn những lớp vỏ bên dưới sao cho cả hai đều trở thành những công cụ tốt hơn trong thiên cơ của Đấng là Chúa tể thế gian.

Mỗi một trong các bước này đều là một sự bành trướng tâm thức - từ mức chẳng qua chỉ là một tế bào vô ư thức trong cơ thể Thượng Đế - linh hồn bắt đầu thức tỉnh và tiến những bước dứt khoát đầu tiên hướng về việc trở thành một vị Thượng Đế; và đây chính là mục đích của Thượng Đế khi ban rải ngă thức cho mỗi bộ phận thuộc cơ thể của Ngài chính là Ngài.

 

BƯỚC BA - ĐIỂM ĐẠO

Thế mà Điểm đạo là bước lớn thứ ba - một sự bành trướng lớn khác của tâm thức, một sự tăng trưởng thêm nữa của linh hồn. Như ta đă thấy bước lớn thứ nh́ là sự thức tỉnh của lương tâm. Nhưng lương tâm phải dứt khoát được xác lập là yếu tố chiếm ưu thế trong bản chất con người và y c̣n phải học cách nhận ra được rằng trong khi bản năng sinh tồn có thể là một định luật cần thiết ở một giai đoạn nào đó th́ sự xả thân mới là kẻ dẫn dắt duy nhất đúng đắn đối với linh hồn nào tha thiết muốn tự biết ḿnh là thiêng liêng. Thật vậy, trong khi lương tâm đă dứt khoát thức tỉnh th́ cá nhân vẫn c̣n phải thực hiện được những quyền năng của chính ḿnh, c̣n phải tự khẳng định và nhất thời phải tập trung vào bản thân và sự tăng trưởng cá nhân. Nói cách khác, y phải thực hành lương tâm theo đủ mọi kiểu. Nếu mượn lời của ông Leadbeater th́ y phải trở nên “tâm điểm của ṿng tṛn ḿnh”, phải học được những quyền năng của các hạ thể cũng như các hạn chế của chúng, và ứng dụng lương tâm để sử dụng chúng. Cuối cùng th́ dần dần đủ thứ năng lực của y cũng phát triển được và dần dần y đạt đến kết luận rằng sự xả thân mang lại hạnh phúc lâu bền hơn việc tự tư tự lợi, y bắt đầu sống v́ mọi người thay v́ trông mong mọi người sống v́ ḿnh. Thỉnh thoảng th́ y chắc chắn là cũng sa vào một cách sinh hoạt ích kỷ hơn, nhưng sự vị tha bắt đầu chiếm ưu thế so với ḷng ích kỷ; và khi các Chơn sư thấy rằng về lâu về dài không có điều ǵ ảnh hưởng tới quyết tâm phụng sự thế gian của y th́ một trong các Chơn sư (Ngài đă theo dơi người này qua nhiều kiếp sống) quyết định ban cho y sự giáo huấn đặc biệt để cho y có thể nhanh chóng được thêm quyền năng giúp đời.

 

GIAI ĐOẠN LÀM ĐỆ TỬ

Bấy giờ cá nhân nhập vào tập sự trong đạo tràng của một Chơn sư đặc biệt và bắt đầu một loạt kiếp sống rất cực nhọc nhưng rất hữu ích. Có lẽ bạn biết rằng sự cai trị thế giới nằm trong một huyền giai các Đấng nhiều Quyền năng mà chúng tôi gọi là Quần Tiên Hội (huyền giai được dùng theo nghĩa của Hội Tam Điểm tức là một hội đoàn huynh đệ có tổ chức) đứng đầu huyền giai này là Đấng Chủ Tể thế gian và xung quanh Ngài có tập hợp các Chức sắc, một số đóng vai tṛ nhà tổ chức, nhà cai trị cầm đầu các giống dân trên thế giới, một số đóng vai các bậc đạo sư của các tôn giáo, những người khác dẫn dắt đủ thứ lục địa và quốc gia, những người khác ảnh hưởng tới các chủng loại phi nhân loại chẳng hạn như Chư thiên và các Thiên thần, c̣n những người khác đóng vai trợ tá cho các Đấng Cao Cả và chuẩn bị thế chỗ cho các Ngài khi các Ngài chuyển sang công tác c̣n cao hơn nữa. Thế mà hầu hết các người trẻ như bạn đều thuộc về một trong các bộ môn này của chính quyền thế giới, và một Chơn sư nào đó đă để mắt tới bạn, tạm thời giám sát khi trong thâm tâm bạn dự tính hiến ḿnh để phụng sự thế gian và cho thấy những dấu hiệu tha thiết không thể nhầm lẫn được. Chẳng hạn như Alcyone thuộc về bộ môn giáo huấn và một ngày kia sẽ trở thành một bậc đại đạo sư trong tôn giáo. V́ vậy, Chơn sư dạy dỗ y, chính Ngài cũng là một bậc Đạo sư đầy quyền lực với sứ mệnh là bậc tiền bối của Alcyone trong chức vụ lớn lao thuộc bộ môn giáo huấn. Cũng như những người muốn làm kỹ sư phải thực tập về kỹ thuật để được rèn luyện bởi kỹ sư có năng lực hoàn toàn; cũng vậy trong những nghề nghiệp thực sự của cuộc sống có thể sẵn có việc rèn luyện có tính cách hợp khoa học hơn nữa; và Chơn sư Koot Hoomi sẽ rèn luyện Alcyone để làm tṛn hoàn toàn sứ mệnh mà ông được hiệu triệu. Việc rèn luyện này có những giai đoạn nhất định – giai đoạn đầu khi Chơn sư quyết tâm nhận để cho học tṛ có thể được thử thách; giai đoạn này được gọi là giai đoạn đệ tử dự bị. Khi thành công vượt qua giai đoạn dự bị hoặc thử thách (dài hay ngắn tùy theo hoàn cảnh) th́ đệ tử được dứt khoát đăng kư là thành viên thuộc đạo tràng của Chơn Sư và trở thành một đệ tử thực thụ. Rất thường khi phải trải qua nhiều năm (bảy hoặc thậm chí nhiều hơn nữa) trước khi một ứng viên đạt tới giai đoạn thứ nh́, nhưng trong những kiếp trước Alcyone đă thỏa măn được Chơn sư về điều kiện thích hợp làm đệ tử Ngài cho nên trong trường hợp này hai giai đoạn đó cùng với giai đoạn thứ ba (Con của Chơn sư; một mối quan hệ đặc biệt mật thiết) được trải qua trong ṿng có một vài tháng, và tiếp theo đó là cuộc Điểm đạo của ông ngày 11 tháng giêng năm 1910. Vậy th́ đạo tràng của Chơn sư có mục đích chuẩn bị đệ tử cho việc phụng sự thế gian và nó tồn tại một phần để rèn luyện đệ tử về mặt tự chủ và thanh khiết sao cho họ có thể được tiến cử làm ứng viên nhận vào hàng ngũ thấp nhất của Quần Tiên Hội. Việc thâu nhận này là giai đoạn lớn thứ ba trên con đường tiến hóa – tôi hi vọng rằng bạn c̣n nhớ hai giai đoạn kia -  và nó được gọi là Điểm đạo, v́ chẳng những nó có nghĩa là việc ứng viên được phê chuẩn gia nhập vào một hội đoàn huynh đệ có tổ chức với đủ mọi hàm ư (tức là nghi lễ điểm đạo của Hội Tam Điểm) mà c̣n là v́ trong buổi lễ đó ứng viên lần đầu tiên được tiếp xúc với một vài sự thật lớn trong cuộc đời mà cho tới lúc đó y chỉ lờ mờ cảm nhận được. Y đă biết sự thật này bằng cái trí từ lâu rồi và từ lâu rồi y đă phấn đấu để thực hành chúng; nhưng măi đến lúc có lễ Điểm đạo th́ y mới cảm thấy chúng là những qui luật trong bản chất ḿnh và y mới trải nghiệm chúng là những thực tại sống động. Tâm thức của y, sự tiếp xúc của y với Thượng Đế mở rộng ra và sự thật vốn ở ngoài y (cho dù y nhận thức được chúng bằng cái trí nhiều đến đâu đi nữa) giờ đây trở thành một phần của chính bản thể y và y chẳng bao giờ c̣n có thể suy nghĩ, cảm nhận hoặc hành động như thể chúng ở bên ngoài y nữa.

 

SỰ MỞ RỘNG TÂM THỨC

Hãy tưởng tượng có một vòng tròn bao trùm mọi điều mà bạn đang là và đang biết. Hăy tưởng tượng có nhiều kiến thức ở bên ngoài bản thân bạn và thường xuyên có một áp lực từ bên trong vòng tròn muốn bao gồm kiến thức ở bên ngoài. Ở nhiều chỗ, vòng tròn mở rộng ra nhằm cố gắng tiếp xúc với những sự thật vượt ngoài nó. Sau một thời gian, một sự thật nào đó ở bên ngoài (vốn đã được tiếp xúc một cách kiên trì) bị rút vào bên trong vòng tròn và vòng tròn tăng trưởng kích thước của mình qua số lượng kiến thức mà nó thu thập được. Có thể nói rằng Điểm đạo là lúc mà một số sự thật đặc biệt (nhất là định luật nhất nguyên) chuyển vào bên trong vòng tròn. Cho tới lúc đó thì người ta chỉ chấp nhận sự thật, chỉ thừa nhận sự tồn tại của chúng. Từ nay trở đi người ta nhận ra được rằng sự thật là một phần của chính tâm thức.

 

GIÁ TRỊ CỦA ĐIỂM ĐẠO

Nói cho chính xác thì tôi xin nhận xét rằng mục đích của Điểm đạo là ban cho người được Điểm đạo khả năng phụng sự, một phần là do có thêm những sự thật, một phần là do sự kiện cá nhân gi đây đã là một thành viên của Quần Tiên Hội, và chia xẻ quyền năng mà sự thống nhất của Quần Tiên Hội sản sinh ra cho mọi người cùng dùng. Từ “Điểm đạo” mà quyển Dưới Chơn Thầy dùng có nghĩa là được nhận làm thành viên thuộc hàng thấp nhất trong Huyền giai cai trị thế giới, hàng ngũ này trải dài lên trên cho tới địa vị duy nhất cao chót vót của Đấng Chúa Tể thế gian. Mỗi cấp lại ngăn cách với cấp bên dưới mình do có kiến thức sâu sắc và khả năng phụng sự vị tha hơn, việc được đề bạt từ cấp thấp lên cấp cao kế tiếp tùy thuộc vào việc có chứng tỏ được chăng sự xả thân trong thế giới loài người vì nhu cầu của những người khác. Điểm đạo là sự mở rộng tâm thức vĩ đại thứ ba; ở đây mở rộng có nghĩa là tâm thức cá thể càng ngày càng nhận ra được tính đơn nhất của mọi sự sống, và Thượng Đế bên trong chúng ta đồng nhất với Thượng Đế bên ngoài. Chính trong buổi lễ đó, Chơn sư tiến dẫn đệ tử mình để được thâu nhận vì trước đó Ngài đã hài lòng với công quả của đệ tử, và ứng viên được phê chuẩn nhập vào Hội đoàn Huynh đệ từ nay chính thức hiến mình cho những đời sống để trợ giúp thế gian. Bạn ắt để ý thấy rằng trong Lời nói đầu của bà Besant gọi Alcyone là “em” và bạn phải nhớ rằng bà cố tình dùng từ này để đánh dấu mối quan hệ đặc biệt của họ, cả hai đều là Huynh đệ (không phân biệt giới tính) trong một Hội đoàn Huynh đệ duy nhất.

 

MỤC ĐÍCH CỦA ĐIỂM ĐẠO

 

Người ta thường thắc mắc tại sao cần phải trải qua lễ Điểm đạo. Lễ Điểm đạo có làm tăng khả năng phụng sự của ta về mặt nào chăng ? Thật vậy, tôi tưởng tượng rằng nhờ vào một quá tŕnh tăng trưởng rất chậm chạp, loài người nói chung cũng đạt tới những kết quả giống vậy mà không phải trải qua bất kỳ lễ Điểm đạo nào, họ hầu như trôi nổi một cách vô ư thức cái bước thứ ba này. Nhưng một số người tha thiết muốn đẩy nhanh cái điều mà bằng không th́ y phải mất nhiều thời gian, và họ tuân chịu điều có thể được gọi là một loại tăng trưởng cưỡng bức sao cho họ có thể hoàn tất trong ṿng một vài kiếp điều vẫn thường phải trải ra trong nhiều kiếp. Muốn vậy phải làm việc rất khó nhọc trong đạo tràng của Chơn sư và học viên cần phải được giúp đỡ nhiều. V́ sự tha thiết tiến bộ hoàn toàn có tính cách vị tha cho nên sau khi được rèn luyện một thời gian, Chơn sư chỉ cho học viên cách vận dụng những quyền năng mà thông thường chỉ đến với y măi về sau này. Sự thanh khiết trong cuộc sống và giới luật tự giác cộng thêm với giáo huấn nhất định của Chơn sư chứng nhận ban cho y tŕnh độ tâm linh đủ để tiếp nhận các quyền năng nhất định, và những quyền năng này được một bậc đại diện của Đấng Duy Nhất (vận mệnh của chúng ta nằm trong tay Ngài) giải thích cho y trong lễ Điểm đạo. Lễ Điểm đạo là một cuộc khảo thí chính thức chứng tỏ ứng viên đă đủ thích ứng để vận dụng những quyền năng mới được ban cho y để y có thể pḥ trợ tốt hơn cho thế giới loài người. Những quyền năng này không thông dụng trong thời kỳ thế giới đang sống hiện nay, và nếu cá nhân nào muốn nhận được chúng th́ y phải tỏ ra là ḿnh thích hợp trước mặt các Đấng mà chỉ có Ngài mới có thể ban cấp quyền năng trước thời hạn b́nh thường.

 

“DÀNH CHO NGƯỜI GƠ CỬA”

 

Xin bạn cũng vui ḷng để ư bà Besant viết “Cánh Cửa lớn” đă mở ra như thế nào để tiếp đón huynh đệ mới, và về vấn đề này, bạn xem cụm từ có trước Lời nói đầu: “Dành cho những kẻ gơ cửa”. Người ta tin rằng Huyền giai Chánh đạo – “chánh đạo” v́ chánh đạo là biểu tượng của thanh khiết và thánh linh – là một Đền thờ của Minh triết, người ta nhập vào đó qua “Cánh Cửa lớn”, cánh cửa này “mở ra cho những kẻ gơ cửa” vớí tinh thần là tha thiết yêu thương thế gian mà ḿnh sống trong đó, sẵn ḷng tha thiết dùng quyền lực của ḿnh v́ ích lợi của người khác, và khiêm tốn biết ơn các bậc đă chiếu cố dẫn dắt ḿnh đạt được sự lợi ích lớn lao hơn và t́nh thương tuyệt mỹ hơn.

 

SỐNG THEO GIÁO HUẤN

 

Thế th́ Điểm đạo là bước thứ ba, bước mà tôi hi vọng rằng giờ đây nhiều người trong số bạn đang tới gần. Ta đạt tới một bước tiến khác khi một Huynh đệ chuyển từ giới nhân loại sang giới siêu nhân loại, cơi giới của các Con Người toàn bích, đạt được sự mở rộng liên quan tới cuộc Điểm đạo thứ năm - cuộc Điểm đạo được đề cập trong quyển Dưới Chơn Thầy là Điểm đạo thứ nhất – và trở thành một Chơn sư, Người đă học hết mọi điều mà thế gian này có thể dạy được. Tuy nhiên chúng ta không cần xét tới bước này. Có đủ giáo huấn thích hợp để cho Alcyone được nhận vào Quần Tiên Hội và theo lệnh của Đức Chưởng Giáo ban ra cho bạn. Chúng ta đă có quá đủ đặc quyền để biết ta phải sống ra sao nếu ta muốn trở thành một người trong nhóm người phụng sự và pḥ trợ này. Nhưng bà Besant có nói rằng: Giáo huấn chỉ có ích lợi nếu ta sống theo nó cũng như em đă sống theo nó từ khi Chơn sư thốt ra lời giáo huấn đó”. Như vậy, giờ đây ta phải thử xem giáo huấn này là ǵ, làm thế nào mà chúng ta áp dụng được nó vào đời sống hằng ngày. Để khích lệ, nên nhớ rằng người ta không trông mong chúng ta sống hoàn toàn theo giáo huấn – muốn làm được như vậy th́ cần phải có linh hồn của chính Chơn sư. Nhưng có cố gắng th́ mới đo lường được thành công, và trên đời này chẳng có điều ǵ mà ta không thể thử cố gắng làm được. Những người c̣n trẻ ở nhiều nơi trên thế giới đang cố gắng khó nhọc và một số đă được nhận vào đạo tràng của Chơn sư. Đức Chưởng Giáo cần nhiều người giúp việc cho Ngài trên thế gian. Liệu bạn có cố gắng hữu ích cho Ngài bằng cách tự rèn luyện trước để cho khi Ngài giáng lâm Ngài có thể t́m được một nhóm hành giả có giới luật sẵn sàng đi tới bất cứ nơi đâu và làm bất cứ điều ǵ; một nhóm người chẳng những sẵn ḷng trợ giúp Ngài mà c̣n (điều này quan trọng hơn nhiều) có khả năng lăo luyện để trợ giúp nữa.

 

ĐIỀU CÓ THẬT VÀ ĐIỀU KHÔNG THẬT

 

Câu thơ tiếng Bắc phạn ở trước Lời nói đầu hoặc Lời dẫn nhập của chính Alcyone có thể nói là đă tổng kết được trọn cả giáo huấn mà bất kỳ Chơn sư nào cũng có thể ban ra cho đệ tử. “Xin dẫn con từ điều không thật tới điều có thật”, đó là tiếng kêu than của mọi kẻ tha thiết. Hơn bất kỳ điều nào khác, chúng ta muốn phân biệt giữa điều chân thực và điều giả dối, giữa điều mang lại đau khổ và điều mang lại vui sướng; và trong mỗi kiếp sống th́ những bài học mà chúng ta học được qua sự đau khổ ắt dạy ta nhận ra một cách không sai lầm (và do đó vứt bỏ) những tư tưởng, xúc cảm và hành động vốn thuộc về điều không có thật, thuộc về điều ngăn cách ta với tri thức về Thượng Đế. Điều không có thật là điều không lâu bền, đó là cái h́nh tướng che khuất linh hồn và nếu ta có thể phân biệt rơ hơn chơn ngă với những lớp vỏ của nó th́ thế gian này ắt bớt đi rất nhiều sự bất hạnh. Chẳng những phải biết nó bằng cái trí mà ta c̣n phải biết nó bằng tâm hồn. Hầu hết chúng ta biết bằng cái trí rằng thể xác chỉ là một hinh hài tạm bợ mà linh hồn chọn dùng trong một kiếp đặc biệt, nhưng ta đă gắn kết cái h́nh tướng đó với sự sống ở bên trong nhiều đến nỗi ta cảm thấy ḿnh bị mất linh hồn khi cái h́nh tướng đó bị phân ly vào lúc chết. Như vậy ta thấy ḿnh vẫn c̣n bị ràng buộc rất nhiều với điều không có thực cho dù trên lư thuyết chúng ta có thể phân biệt nó với điều có thực đến mức nào đi chăng nữa. Nhưng không phải v́ thế mà bạn lại nghĩ rằng điều không có thực là vô dụng. Chính nhờ điều không có thực mà ta đạt được điều có thực, chúng bộc lộ ra một cách rành rành hơn qua sự tương phản. Những ngôi sao chiếu sáng bên trên ta cả ban ngày lẫn ban đêm, nhưng nhờ có sự tương phản trong đêm đen cho nên ta mới có thể ngẩn ngơ nh́n đăm đăm vào sự rực rỡ của bầu trời đầy sao.

Thế giới vật chất tương ứng với đêm đen, c̣n linh hồn con người có thể ví với những ngôi sao. Khi sống trong thế giới vật chất, do các h́nh tướng trong đó là vô thường, cho nên ta mới học cách nhận ra được rằng có một điều ǵ đó vẫn thường trụ đằng sau những h́nh tướng vô thường này. Khi sống giữa điều vô thường, điều không có thực, ta bắt buộc phải t́m kiếm điều thường trụ, điều có thực, và mỗi người trong chúng ta dần dần học cách hiểu ra được rằng mọi tâm trạng và xúc cảm vô thường không phải là biểu lộ rốt ráo của chính ta. Cũng giống như cơ thể của một đứa con nít không biểu hiện trọn vẹn được linh hồn bên trong. Cơ thể đứa con nít tăng trưởng thành ra cơ thể của một thanh niên và cơ thể thanh niên trở thành cơ thể một người trưởng thành. Đằng sau mỗi cơ thể, linh hồn đều khẩn thiết muốn biểu hiện rốt ráo hơn nữa và đằng sau một tâm trạng cũng như mỗi xúc cảm đều như thế cả. Tâm trạng này đi qua rồi lại tới một tâm trạng khác và một tâm trạng khác nữa. Thế là linh hồn có thể nh́n lại những tâm trạng đă qua đi và tự nhủ: “Tôi đâu phải là cái tâm trạng đó v́ nó đă chết mất rồi mà tôi th́ vẫn c̣n sờ sờ ra đây”. Như vậy mục đích của mọi giáo huấn là khám phá ra cái “chơn ngă” vẫn cứ c̣n măi đấy, và làm cách nào để biểu hiện nó tốt nhất sao cho h́nh tướng là tấm gương phản chiếu trọn vẹn linh hồn. Ngay cả lúc bấy giờ th́ h́nh tướng vẫn c̣n là không thực về mọi điều che khuất linh hồn đều giống như một h́nh bóng phù du nhưng h́nh tướng càng tinh vi th́ nó càng trường tồn, và ngay cả xác phàm thô trược cũng tồn tại lâu hơn nếu các hạt cấu thành nó là thanh khiết. Thật vậy, nghe nói các Chơn Sư đang c̣n dùng thể xác có thể khiến cho thể xác trường tồn trong nhiều trăm năm nếu Ngài muốn, và điều này cho ta thấy rằng sự thanh khiết có thực hơn sự ô trược v́ thể xác của chính chúng ta chẳng bao giờ tồn tại được lâu như thế.

 

BÓNG TỐI VÀ ÁNH SÁNG

 

Ḍng thứ nh́ “Xin dắt con từ bóng tối tới ánh sáng” cũng như ḍng thứ ba “Xin dẫn con từ sự chết tới sự bất tử” đều là một dạng khác cũng của ư tưởng đó. Ta có thể coi từ “bóng tối” là biểu tượng của vô minh, c̣n “ánh sáng” là dấu hiệu của minh triết, cũng như mặt trời là cội nguồn của mọi sự sống. Tôi dùng từ “minh triết” chứ không phải là “kiến thức” v́ kiến thức chẳng qua chỉ thuộc về cái trí, c̣n minh triết là khoa học của tinh thần. “Xin dẫn con từ sự chết tới sự bất tử” nghĩa là mong sao bản chất thấp hèn hăy qua đi để cho bản chất cao thượng được chói sáng măi măi.

Cố nhiên ta có thể viết nhiều hơn nữa để giải thích về câu thơ mỹ lệ này, nhưng tôi xin dành cho một người bạn lăo thành minh giải bất kỳ điều nào khó hiểu.

 

CHƯƠNG II

LỜI NÓI ĐẦU CỦA ALCYONE

Bây giờ ta xét tới chính Lời nói đầu và ngay trước tiên đă minh định rằng ḿnh chỉ chuyển giao giáo huấn đă giúp cho ḿnh thành công khi gơ vào cánh cửa dẫn tới Đền thờ Điểm đạo. [Ở đây tôi xin chú thích rằng nghi thức Điểm đạo thực sự diễn ra trong một loại đền thờ, cho nên cách so sánh bóng gió này đúng theo nghĩa đen cũng như nghĩa biểu tượng]. “Đây không phải là lời của tôi, đây là lời Chơn sư dạy tôi”. Thế rồi tới điều mà tôi coi là một trong những câu quan trọng nhất của trọn cả cuốn sách: “Nếu không có Ngài th́ tôi chẳng làm được ǵ, nhưng nhờ có Ngài giúp đỡ tôi đă đặt chân trên Thánh đạo”. Nhiều người cứ triền miên thắc mắc tại sao lại có nhiều hành giả vị tha và tha thiết dường như vất vả ngày đêm, hết năm này qua năm khác, mà xét theo biểu kiến chẳng tiến bộ ǵ hết. Chắc chắn là X hoặc Y hoặc Z, những người nào dường như thực hành hoàn toàn giáo huấn trong quyển Dưới Chơn Thầy đều có đặc biệt tiếp xúc với một Huynh trưởng nào đó, đều là đệ tử của một Chơn sư nào đó, và đă là thành viên của Quần Tiên Hội. Thế mà ta phải đương đầu với điều khó hiểu này một cách thẳng thắn. Chỉ nội ḷng tốt thôi không đủ để nhận vào đạo tràng của Chơn sư bằng không th́ đạo tràng đă có hàng trăm ngàn thành viên. Chỉ nội kiến thức không thôi (cho dù sâu sắc đến đâu đi nữa) cũng không đủ, bằng không th́ mọi nhà khoa học hàng đầu và các học giả lỗi lạc đều là đệ tử. Ngay cả sự tổ hợp ḷng tốt với kiến thức cũng không đủ. Thế th́ đâu mới là tiêu chuẩn ? Chắc chắn là phải có một cung bậc tâm linh dứt khoát và thành tích trong kiếp này hoặc trong những kiếp đă qua, phải có cố gắng tận hiến cho nhu cầu của thế giới. Cũng phải có một mức độ trí thức nào đó, không nhất thiết của một thiên tài, nhưng là của một thiện nam tín nữ b́nh thường có giáo dục. Nhưng ngoài điều đó ra th́ c̣n phải có những yếu tố minh triết thực sự, thực sự hiểu biết mục đích của cuộc sống. Tôi không tự cho là ḿnh đề ra một tiêu chuẩn tổng quát mà dưới tiêu chuẩn đó th́ Chơn sư không chịu tuyển sinh vào đạo tràng của Ngài, nhưng theo như tôi được dạy dỗ th́ chẳng những phải nhận ra được thiên cơ tổng quát của chính quyền thế giới mà c̣n phải chấp nhận cho các Huynh trưởng Dẫn dắt và Dạy dỗ. Làm sao người ta gia nhập đạo tràng được nếu y không công nhận là nó tồn tại ? Làm thế nào mà ta trông mong Chơn sư lại mất thời giờ dạy những bài học sơ đẳng trong cuộc đời của những kẻ có thể học bài học đó từ bậc lăo thành nhưng kém tiến hóa hơn chính các đại Đạo sư, những vị lăo thành này ít ra cũng có đủ thông tin để truyền thụ giáo huấn cần thiết ? Trong suốt nhiều cuộc đời của ḿnh nếu chúng ta học chưa hết những bài học mà đời sống ở ngoại giới dạy ta được th́ ta chưa đủ tư cách để nhập vào thế giới của Chơn sư tức thế giới của các thực tại mà trường đời của ta chỉ là dự bị.

Alcyone tức khắc tuyên bố rằng ḿnh thích đáng được nhận làm thành viên trong đạo tràng của Chơn sư khi khẳng định nếu “không có Ngài th́ tôi chẳng làm được ǵ”. Chắc chắn là nhiều người tin vào Đức Ki Tô, Shri Krishna, Đức Phật hoặc Muhammad, nhưng hoặc là v́ họ tin tưởng để được một điều ǵ đáp lại chẳng hạn như được cứu rỗi bản thân, hoặc là v́ họ coi ḷng sùng tín của ḿnh là một cột trụ vững mạnh với chức năng chính yếu là che chở cho họ khỏi phô bày ra những lỗi lầm v́ yếu kém. Nói cách khác, niềm tin của hầu hết mọi người đối với một trong các Huynh trưởng đầy Quyền lực này dựa vào ḷng khao khát được cứu chuộc cá nhân hơn là việc công nhận nếu các Đấng Cao Cả đạt được đến đâu th́ một ngày kia chúng ta cũng đạt đến như thế khi chúng ta dần dần học được cách sống cuộc đời của ḿnh giống như các Ngài sống cuộc đời của các Ngài trước khi đạt tới đỉnh cao thành tựu hiện nay. Một số người đạo tâm bằng ḷng sống cuộc đời bắt chước yếu ớt (song vẫn thành thật) gương mà Chúa của ḿnh nêu ra, chẳng đ̣i hỏi điều ǵ cho bản thân và ban cho tất cả mọi người nào đang cần bất chấp tín ngưỡng hoặc chủng tộc; những người đó đang tiến dần tới giai đoạn đệ tử chính thức vốn xảy ra cho những kẻ phấn đấu mà không được ǵ đền đáp lại, ngoại trừ t́nh yêu rộng lớn để sống cuộc đời đệ tử nơi ngoại giới. [Tôi nghĩ rằng ḿnh nên nêu rơ việc dùng từ người có đạo tâm để chỉ những kẻ gần tới giai đoạn làm đệ tử, nhưng không ngụ ư rằng đó là những mẫu mực về đức hạnh. Ta chỉ đạt tới hàng ngũ đệ tử điểm đạo cao cấp bằng cách thường xuyên thực hành mọi đức tính, nhưng ta có thể chuyển vào giai đoạn làm đệ tử và bước qua cánh cửa Điểm đạo trong khi ứng viên vẫn c̣n lâu lắm mới phô diễn thỏa đáng được cuộc sống toàn bích. Nếu bạn biết bất kỳ người nào trong hàng ngũ những đệ tử cấp thấp th́ bạn ắt nhận thấy rằng tất cả đều có nhiều nhược điểm, trong đó có một số người tuyệt nhiên không tuân theo những tiêu chuẩn ứng xử theo qui ước của thế gian. Đệ tử phải có tâm trí trong sáng, tâm hồn kính cẩn, bản chất yêu thương, thái độ khoan dung và tha thiết với việc phụng sự của Chơn sư. Ngoài việc có được những tính cách này đă phát triển ở một mức phải chăng c̣n phải có một quyền năng tương đối nổi bật nào đó khiến cho y vượt lên trên mức b́nh thường nhằm hữu dụng cho Chơn sư. Có lẽ y là một người phát ngôn tài ba, một văn sĩ lỗi lạc, một người linh hứng, một nghệ sĩ tuyệt luân, một người chữa trị mát tay – có một sức mạnh nào đó mà người ta có thể dùng để thu hút thiên hạ tiến gần hơn tới thực tại. Thế rồi Nhân quả phải thuận lợi v́ kẻ nào c̣n phải trả Nghiệp th́ kẻ đó c̣n có thể cản trở Chơn sư rất nhiều qua việc sử dụng y. Chúng ta ắt không được hữu dụng lắm nếu chúng ta phải mất quá nhiều thời giờ để trả nợ của riêng ḿnh. Nhưng sở trường ắt cũng có thể là sở đoản, và trong khi đệ tử rất có thể đă tự làm chủ ḿnh được th́ bạn ắt rất sai lầm khi nghĩ về người đệ tử nếu bạn tưởng tượng rằng đó là một nhân cách tiêu cực hơn là một nhân cách tích cực, do đó có một bẩm tính hơi xao động. Bạn không nên trông mong những đệ tử non nớt đă hoàn hảo, nhưng chắc chắn bạn sẽ thấy y có một loại quyền năng nào đó]. Nhưng tất nhiên người ta phải có những niềm tin khá vô minh đối với các Đại Đạo sư (cho dù niềm tin đó thành thật đến đâu đi chăng nữa) trước khi ta có thể biết được địa vị chân thực của các Ngài trong cuộc đời ta; và khi nhiều người khép ḿnh không nhận nhiều sự linh hứng như thế mà bằng không họ có thể nhận được th́ họ ắt tưởng tượng rằng bậc Đạo sư đặc biệt này là nguồn chân lư duy nhất dành cho mọi người. Giữa phát biểu Đấng Ki Tô là Đấng Cứu Thế duy nhất và sự hiểu biết là có nhiều Đấng Cứu Thế th́ phải có trọn cả một thời gian phát triển cho đến khi nhờ kinh nghiệm mà ta học biết rằng có nhiều con đường dẫn tới Thượng Đế, mỗi người đang đi theo con đường cũng thẳng bước như con đường của ta mặc dù trên con đường của y th́ y có thể ở đằng sau ta, đến lúc đó ta mới có quyền trợ giúp mỗi người đi theo con đường của riêng ḿnh, đâu là điều kiện cần thiết để được nhận vào đạo tràng của Chơn sư. Chỉ bằng ḷng tốt không thôi, chúng ta có thể lôi kéo những người khác đi theo con đường của riêng chúng ta, nhưng đó là một ḷng tốt hẹp ḥi và vô minh; đạo tràng của Chơn sư rèn luyện đệ tử để phụng sự và tôn vinh mọi tín ngưỡng, giúp đỡ mỗi cá nhân đi theo con đường của riêng ḿnh phù hợp với kế hoạch mà Thượng Đế ngự bên trong y đă vạch ra cho y.

 

VIỆC LEO LÊN CAO

Nếu bạn hiểu điều mà tôi đă viết ra, th́ bạn ắt nhận thức được rằng một khi chúng ta bắt đầu thoáng thấy được những nguyên lư chân thực của sự tiến hóa và biết rằng có nhiều người ở phía trước chúng ta trên con đường sinh tồn cũng như nhiều người ở phía sau chúng ta, th́ tự nhiên là chúng ta ắt trông mong được những bậc hiểu biết hơn dẫn dắt ḿnh, chẳng phải để cho một ḿnh ta biết điều đó thôi, mà để cho ta có thể giúp người khác nhiều hơn nữa. Ta phải phấn đấu khó nhọc mới biết được sự thật, phải từ bỏ mọi điều mà thế gian quí chuộng miễn là sự thật có thể soi sáng cho ta, ta phải bỏ đi những ràng buộc theo qui ước, vứt bỏ những điều trong đó có ẩn tàng cốt tủy của tôn giáo mà chúng ta ngẫu nhiên thuộc về. Khi đọc Tự Truyện của bà Besant, ta thấy con đường dẫn bà đến các Chơn sư trắc trở và dốc đứng biết là dường nào. Cuối cùng th́ chỉ bám lấy một quyết tâm son sắt nhằm phụng sự thế gian đến mức tối đa, biết đến đâu th́ hiến dâng đến đó, bà đă t́m ra con đường đến dưới chân của Chơn sư. Bà chỉ mong ước có quyền năng và minh triết để bà có thể dùng chúng giúp cho người khác; khi không một sự phiền năo hoặc thất vọng cá nhân nào ngăn cản bà khích lệ mọi người bằng quyền năng bảo vệ những kẻ đang than khóc th́ cuối cùng bà tỏ ra ḿnh xứng đáng với cái tri thức chân chính vốn chỉ được ban cho những kẻ nào không bao giờ sử dụng nó cho bản thân ḿnh mà thôi. Bạn và tôi cũng như các bạn trẻ phải trải qua trận chiến đấu như thế. Có lẽ sự phấn đấu sẽ không khó nhọc đối với chúng ta giống như đối với bà, v́ bà đă đi cùng trời cuối đất để học hết mọi điều mà trường đời dạy được, cho nên trong kiếp này, lần cuối cùng, bà sống lại những nỗi gian khổ của việc con người leo lên trên chỉ nội trong một thời gian ngắn vài năm trời. Có thể nói là bà đă ôn lại những bài học mà ḿnh đă học được qua nhiều kiếp sống nơi trường đời sao cho khi đứng trước mặt các Chơn sư bà đă tỏ ra là ḿnh đă thuộc ḷng những bài học đó. Chúng ta c̣n đang học bài học trường đời và những bài học mà chúng ta đang học được thích ứng với khả năng hiểu biết của ta. Nhưng v́ có biết những bậc trưởng thượng cho nên chúng ta tin chắc rằng các Ngài chỉ sống để chỉ đường cho ta đi tới sự sống đời đời và cho dù chúng ta chỉ có thể cảm thấy chút ít sự dẫn dắt của các Ngài th́ ít ra chúng ta cũng lờ mờ biết được rằng các Ngài kề cận với chúng ta và không có các Ngài th́ chúng ta chẳng làm được ǵ. Trong lúc này, ta có thể quên rằng các Ngài hiện diện để rồi cứ phấn đấu theo kiểu bà Besant, nhưng sớm muộn ǵ chúng ta cũng đến với các Ngài và cũng như một tia nắng soi sáng cho một căn pḥng tối tăm, cũng vậy lúc bấy giờ ta ắt biết rằng nếu không có các Ngài th́ chúng ta chẳng làm được ǵ và mọi điều mà ta làm được cũng chỉ là v́ các Ngài thôi. Các bạn trẻ ơi, đừng nghĩ rằng đây là việc lệ thuộc vào người khác v́ chẳng những ta hoàn toàn được tự do phụng sự các Ngài mà c̣n có một Sự Sống Duy Nhất làm linh hoạt tất cả chúng ta, và xin nói kính cẩn rằng nếu không có chúng ta th́ các Ngài chẳng làm được ǵ cũng như chúng ta chẳng làm được ǵ nếu không có các Ngài. Tất cả chúng ta đều là một xét về tinh thần; điều mà các Ngài đang là th́ chúng ta sẽ là; điều mà chúng ta đang là th́ các Ngài đă là, và đối với vị Chủ chiên vĩ đại th́ tất cả chúng ta đều là những con chiên trong hội thánh chuồng chiên toàn cầu của Ngài.

Tôi đă viết dài ḍng về đề tài này v́ tôi nghĩ rằng bạn rất cần hiểu được những sự kiện quan trọng đó bởi v́ nếu bạn hiểu được đúng th́ chúng sẽ che chở cho bạn khỏi nhiều sự nghi ngờ và khó khăn khi bạn bước vào nội giới.

 

THÀNH CÔNG CỐT Ở VIỆC CỐ GẮNG ĐI CỐ GẮNG LẠI

 

Tôi muốn bạn đặc biệt chú ư tới phần c̣n lại của Lời nói đầu: “Bảo rằng lời nói của Chơn sư là đúng và hay ho th́ cũng chưa đủ, kẻ nào muốn thành công phải làm đúng như điều được nói ra”. Lại nữa: “Bạn phải làm điều mà Ngài nói, chăm chỉ từng tiếng một, lĩnh hội từng lời bóng gió một . . . Ngài không nói hai lần”. Biết bao nhiêu người trong chúng ta đă sẵn sàng ngồi dưới chơn thầy với điều kiện như thế ? Biết bao nhiêu lần chúng ta nghe bà Besant hoặc ông Leadbeater hoặc các bậc trưởng thượng nào khác cũng nói với ta điều giống như thế và cứ lập đi lập lại. Phải chăng ta không thường nghĩ rằng các diễn giả cứ thường xuyên lập lại, họ liên tục nhắc lại cùng một chân lư măi cho tới khi chúng ta hầu như chán ngán khi nghe tới chúng ? Tuy nhiên đó là nhiệm vụ của người đệ tử nơi ngoại giới – ôn đi ôn lại cùng một sự thật cho tới khi rốt cuộc ta bắt đầu sống bên trong sự thật đó thay v́ bên ngoài nó. Chơn sư không thể dành thời giờ làm điều này, nhưng v́ thế gian phải học hỏi nên Ngài cho phép đệ tử đưa giáo huấn của Ngài ra ngoại giới để người ta chấp nhận nó, vượt qua sự thờ ơ, thù hằn, chế nhạo; để cho chúng được thám sát và cuối cùng được thấu hiểu. Có những dịp rất quan trọng người ta biết là Chơn sư đă lập lại những huấn lệnh vốn không được thi hành nghiêm chỉnh, nhưng trường hợp này rất ngoại lệ và có tầm quan trọng sống c̣n. V́ vậy nếu bạn muốn trở thành đệ tử của một Chơn sư th́ bạn hăy tự hỏi xem chẳng hạn như bạn có kiên tŕ cố gắng biến sinh hoạt hằng ngày của ḿnh cho phù hợp với minh triết trong quyển Dưới Chơn Thầy hay chăng ? Bạn luôn luôn phải có quyển sách nhỏ này để cho bạn có thể thường xuyên tham khảo nó và trắc nghiệm theo sự minh giải qua các giáo huấn của nó, điều mà trong lúc này đang làm bạn bận tâm. Có lẽ tôi xin phép làm chứng cá nhân cho sự thật là bất cứ tiến bộ nào mà tôi thực hiện được hoặc bất cứ sự gia tăng khả năng hữu dụng nào mà tôi đạt được đều phần lớn là do tôi liên tục tham khảo quyển Dưới Chơn Thầy khi gặp khó khăn hoặc nghi ngờ. Quyển sách này là một loại b́nh luận hiện đại về các Kinh điển Cổ truyền và chúng ta biết ơn Alcyone v́ đă giúp chúng ta tham khảo nhiều lần lời khuyên răn mà chúng ta chưa đủ tha thiết để nghe Chơn sư thốt ra. Như tôi có nói, một trong những đặc quyền của đệ tử là có thể lập lại nhiều lần điều mà Chơn sư chỉ thốt ra một lần. Nhưng đừng quên rằng bạn vốn có giáo huấn vô giá này luôn luôn ở trong tay mà lại tồi tệ hơn chứ không được may mắn hơn những người chưa bao giờ có nó, nếu ít ra bạn không cố gắng tuân theo lời khuyên của nó. Thật đáng buồn khi chẳng nhận tặng phẩm nào cả, nhưng chắc chắn là có hại khi nhận được một tặng phẩm từ một nguồn như thế mà ta thờ ơ đối với nó v́ kết quả là trong một kiếp tương lai bạn sẽ hoài công mưu t́m điều mà bạn giờ đây đang bỏ qua. Người ta không yêu cầu bạn phải hoàn chỉnh. Người ta yêu cầu bạn đừng nản chí khi thất bại. Nỗ lực chăm chú lắng nghe điều mà Chơn sư nói có thể đưa bạn vào trong ṿng các đệ tử của Ngài, v́ Chơn sư đ̣i hỏi trước hết là sự tha thiết và kiên tŕ. Ngài không coi là thất bại đối với những lầm lỗi vốn sẽ nảy sinh ra một quyết tâm mạnh mẽ hơn nữa để thành công.

Nên nhớ rằng giáo huấn của Chơn sư áp dụng được cho bất cứ nơi đâu và cho mọi người. Nó áp dụng được ở Quốc hội cũng như ở trong nhà, đối với những người được thế gian coi là vĩ nhân cũng như đối với kẻ cần lao hạ tiện nhất sống giữa chúng ta như một kẻ vô danh tiểu tốt chẳng ai đoái hoài tới. Quả thật giáo huấn là một lời khuyên ta trở nên hoàn hảo, nhưng giá trị và giáo huấn của nó đều có trong mọi giai đoạn leo lên; và một trong những lỗi lầm lớn nhất mà ta mắc phải chính là việc tưởng tượng rằng không thể đạt tới sự hoàn hảo. Sự không tưởng đâu phải là không đạt tới được v́ có một số người đă đạt được, và nếu bạn cố gắng hết sức uốn nắn mọi tư tưởng, lời lẽ và hành vi của ḿnh theo lời khuyên của Chơn sư, th́ bạn ắt thấy rằng ḿnh gần gũi với mục tiêu của ḿnh hơn nhiều so với mức tưởng tượng của bạn trong những mơ mộng lạc quan nhất. Bất cứ điều ǵ có chủ đích cao cả nơi bạn – tham vọng, t́nh thương, hi vọng, tinh tấn – đều đến với bạn chắc chắn khi bạn càng chú ư tới lời của Chơn sư và một ngày kia bạn sẽ tin chắc với kinh nghiệm ẩn sau những lời lẽ này khi bạn cũng bảo rằng: “Nếu không có Ngài th́ tôi chẳng thể làm được ǵ, nhưng nhờ có Ngài giúp đỡ, tôi đă đặt chân lên Thánh đạo”.

 

CHÚ THÍCH

Nếu bạn nghiêm chỉnh nghiên cứu quyển Dưới Chơn Thầy th́ bạn ắt thấy rơ rằng nhiều lời khuyên của Chơn sư xung đột với những ư kiến và thái độ theo qui ước, và tôi biết có những người nghi ngờ Chơn sư không hiểu được t́nh h́nh của thế gian “v́ Ngài quá xa rời những rắc rối và náo động mà chúng ta đang sống trong đó”. Chẳng hạn như một vài sinh viên muốn dịch quyển Dưới Chơn Thầy ra tiếng bản xứ của ḿnh đôi khi muốn bỏ bớt hoặc sửa đổi cái gọi là những lời gợi ư “không áp dụng được” v́ họ tưởng tượng rằng kiến thức hạn hẹp của ḿnh có giá trị thực tế lớn hơn minh triết của Chơn sư. Chẳng hạn như đoạn văn: “Nếu con thấy có người vi phạm luật pháp của xứ sở, th́ con nên báo cho nhà cầm quyền”; một số người nghĩ rằng nó ngược hẳn lại với những ư tưởng theo qui ước về ḷng trung thành và danh dự. Người ta nằng nặc cho rằng Chơn sư xúi ta phản bội một đồng sự nếu ta nhận thấy y đang vi phạm pháp luật của xứ sở ta sống trong đó !

Thế mà ở giai đoạn nghiên cứu này của ta, tôi không muốn xét tới nhiệm vụ quan trọng ẩn sau lời khuyên gói gọn trong câu mà tôi vừa trích dẫn. Chúng ta sẽ xét tới nó khi đến lượt nó xuất hiện theo thứ tự có lớp lang. Nhưng tôi nghĩ rằng cần vạch ra nguyên tắc lớn là nền tảng của toàn bộ giáo huấn được ban ra cho chúng ta. Chơn sư nhấn mạnh tới điều có thực và nhiệm vụ của chúng ta là phải trắc nghiệm những điều chúng ta đang trải nghiệm xung quanh ḿnh theo sự minh giải của thực tại mà một Chơn sư Minh triết tŕnh bày với ta – trải qua biết bao nhiêu thời đại phấn đấu khó nhọc, Ngài đă đạt khả năng tức khắc phân biệt được giữa điều có thực và điều không có thực.

Khi nghiên cứu quyển sách này, chúng ta đang ngồi dưới chơn một Đấng có hiểu biết chứ không phải một người chỉ suy nghĩ và phán đoán. Ta hăy xem bất kỳ quyển sách đạo đức thông thường nào mà tác giả của nó là tư tưởng gia xuất sắc nhất thế gian đă chứng kiến th́ ta ắt chỉ đọc được tư tưởng của một người nào đó trên thế giới cũng giống như ḿnh, mặc dù có lẽ với năng lực lớn hơn và trực giác sâu sắc hơn. Đường lối tư tưởng của y không nhất thiết là của bạn và bạn có bổn phận phải phê phán một cách kính cẩn mặc dù cố nhiên là sẽ thám sát một cách khiêm tốn. Nhưng trong quyển Dưới Chơn Thầy bạn có minh triết của một Đấng đă học hết mọi điều mà thế gian có thể dạy được, trong quá khứ Ngài đă giáp mặt với cốt lơi của mọi rối rắm và phiền năo mà bạn đă, đang và c̣n chưa trải qua. Ngài đă chinh phục được thế gian và không một khó khăn nào do thế gian gây ra lại có thể làm Ngài phân vân trong một lúc. Ngài đă quán triệt được những nguyên tắc sống và cho dù Ngài đang sống trên thế giới vào thế kỷ thứ 20 hoặc thế kỷ thứ 50 hoặc thế kỷ thứ 5 th́ tất cả những ǵ xung quanh Ngài chẳng qua chỉ là một khía cạnh của những nguyên tắc vĩ đại này, là sự áp dụng những định luật mà các nguyên tắc đó bắt buộc.

Ngài phát biểu bằng ngôn từ rất đơn giản một số những nguyên tắc tổng quát này và tuyệt nhiên không hạn chế giáo huấn của Ngài cho bất kỳ xứ sở đặc thù nào hoặc bất kỳ tôn giáo đặc biệt nào. Thật vậy, Ngài đang ngơ lời với những người muốn được nhận vào đạo tràng của Chơn sư, nhưng những ứng viên như thế là những người biết nhiều hơn hầu hết những người khác và người ta trông mong họ sống với danh dự khắc khe hơn đại đa số mọi người. V́ vậy mọi lời khuyên mà Ngài đưa ra phải thuộc một cung bậc vô cùng tinh vi hơn mức mà đạo đức theo qui ước làm ta rung động.

V́ vậy bạn phải cố gắng hiểu được vấn đề ở đâu khi quan điểm của bạn xung đột với quan điểm của Chơn sư, chứ đừng nghĩ rằng hoặc là Chơn sư không rành chuyện thế gian hoặc là giáo huấn của Ngài không áp dụng được cho bạn và cho xứ sở bạn. Chơn sư không yêu cầu bạn chấp nhận giáo huấn của Ngài và mù quáng đi theo nó, Ngài cũng chẳng khuyên bạn bác bỏ nó v́ nó không thích hợp với nhân sinh quan của bạn. Hăy cố gắng t́m hiểu điều mà bạn chưa hiểu. C̣n điều mà bạn không hiểu được th́ hăy để cho khả năng soi sáng của thời gian và kinh nghiệm giúp bạn. Nếu bạn vứt bỏ sự thật th́ nó chỉ trở lại với bạn sau khi bạn đă đeo đuổi nó dài lâu, c̣n nếu bạn chỉ để dành nó sẽ xét tới trong tương lai khi có cơ hội, th́ bạn ắt thấy rằng trong thời gian đó vô h́nh trung bạn đă tăng trưởng hướng về sự thấu hiểu nó.

Bạn hăy dùng những qui ước của thế gian khi chưa có những thái độ chân thực hơn v́ sự khôn ngoan của thế gian là tiêu chuẩn dành cho những người nam nữ b́nh thường. Khi một Chơn sư hạ cố thuyết pháp th́ bạn hăy lắng nghe. Đừng vội vă kết luận khi bạn tha thiết muốn theo lời dạy của Ngài, v́ trong khi Ngài t́m cách xóa bỏ những mê tín dị đoan đă lỗi thời th́ Ngài không làm phương hại đến những tín ngưỡng vẫn c̣n cần thiết cho sự tăng trưởng của thế gian. Bạn hăy cẩn thận suy đi nghĩ lại lời Ngài dạy và cố t́m hiểu việc ứng dụng nó vào cuộc sống b́nh thường hằng ngày và nên nhớ rằng ở thị trấn Shigatse xa xăm Ngài vẫn biết nhiều hơn về thế gian so với chính khách lỗi lạc nhất của ta, triết gia khôn ngoan nhất của ta, nhà nhân ái tốt bụng nhất của ta và doanh nhân tài khéo nhất của ta.

 Khi bạn nghi ngờ th́ hăy suy gẫm; khi bạn phản đối th́ hăy tạm ngưng sự phán  đoán; nhưng khi bạn đă thực chứng th́ hăy theo đuổi nó một cách không nao núng cho dù điều qui ước có chống lại bạn đến đâu đi chăng nữa miễn là bạn sẵn ḷng can đảm đương đầu không cần ai trợ giúp, hành động mốt cách dịu dàng và khoan dung đối với tất cả mọi người.

 

CHƯƠNG III

NHỮNG ĐIỀU KIỆN CỦA GIAI ĐOẠN LÀM ĐỆ TỬ

Giờ đây ta xét tới những đức tính cần được thực hành nếu chúng ta muốn có cái quyền năng phụng sự đặc biệt chỉ được ban cho tất cả những người nào được gia nhập vào Quần Tiên Hội khi trải qua cuộc Điểm đạo thứ nhất. Ở đây tôi có thể nhận xét đúng đắn rằng các Bí pháp của Hi lạp và La mă mà bạn thấy đă được viết rất nhiều trong những quyển sách cổ cũng như trong Hội Tam Điểm hiện đại đều chỉ là những sự bắt chước sơ sài của chính nghi lễ thực sự và những sự khảo thí mà ứng viên phải trải qua. Các Bí pháp Cổ truyền nhất là dưới dạng thuần khiết quả thật đ̣i hỏi tín đồ phải có những đức tính rất xác định không giống như những đức tính mà chúng ta sắp bàn tới. Hội Tam Điểm thời nay có ít sinh hoạt tâm linh đến nỗi người ta chỉ tôn trọng nó do nó có nguồn gốc từ xa xưa và do hoạt động từ thiện; nhưng ngay cả Hội Tam Điểm cũng chỉ thu nhận làm hội viên những người nào xét ra là có danh tiếng không bị hoen ố. Và khi đến đâu cũng nằng nặc đ̣i phải có đức tính, phải có nghi lễ, phải có sự trao truyền một số năng lực th́ người ta ắt phải cố gắng nhớ ra rằng có những nghi thức thực sự gắn liền với các quyền năng có thực giúp cho ta nhập vào Hội đoàn Huynh đệ vốn là hạt nhân trên cơi tâm linh của một t́nh huynh đệ mà một ngày nào đó sẽ tồn tại nơi ngoại giới.

 

BỐN NGUYÊN TẮC SỐNG

Các điều kiện mà Chơn sư nêu ra là (1) Phân biện, (2) Vô dục, (3) Hạnh kiểm tốt, và (4) T́nh thương; ở đây Ngài chọn dùng cách phân loại của Đông phương, có lẽ v́ nó đặc biệt hấp dẫn đối với sự hiểu biết của học tṛ Ấn Độ. Nên nhớ rằng trong mỗi tôn giáo người ta đều đề cập tới đại Đạo mà các cuộc Điểm đạo lần lượt chỉ là các giai đoạn và trong mỗi tôn giáo người ta đều thấy có liệt kê những đức tính mà chỉ có nó mới giúp người ta bước trên Thánh đạo được. Trong quyển Ki Tô giáo Bí truyền bà Besant đă truy nguyên cho chúng ta thấy thuật ngữ Ki Tô giáo ám chỉ đủ thứ cuộc Điểm đạo và những điều kiện dẫn tới đó, tôi xin giới thiệu với bạn đọc những ǵ mà bà nói về đề tài này. Cũng vậy, các tôn giáo khác đều đưa ra thông tin giống nhau nhưng chúng ta chọn dùng cách phân loại Ấn Độ mà Chơn sư đă nêu ra, một phần v́ rơ ràng là chúng ta có thể dễ dàng hiểu được nó, bất kể chúng ta thuộc về tôn giáo nào, và một phần v́ giá trị thực tế của nó đă được chứng tỏ qua sự thật là những người khác đă theo gót Alcyone bước qua Cửa Đạo v́ đặt những nỗ lực của ḿnh trên cơ sở lời khuyên mà họ nhận được từ quyển Dưới Chơn Thầy. V́ vậy đừng nghĩ rằng bạn đang nghiên cứu một điều ǵ đó không áp dụng được vào thực tế. Những huấn điều trong quyển sách nhỏ này đă được đem ra thực hành trong đời sống hằng ngày hiện nay bởi những người tương đối b́nh thường, và họ đă t́m đường về được Thánh đạo. Lại nữa, nên nhớ rằng việc thực hành hoàn hảo những huấn điều này chỉ có thể đạt được bởi bậc đă trải qua cuộc Điểm đạo lớn ban cho Ngài quả vị Chơn sư.

Bạn chỉ đang cố gắng nhập vào Sân Thánh điện tức là đạo tràng của Chơn sư; v́ vậy thật là điên rồ khi trông mong rằng giờ đây bạn hoàn thành được điều mà bạn chỉ có thể thực hiện được sau nhiều kiếp. Hăy cứ tiếp tục cố gắng và nên nhớ rằng một sự thành tựu c̣n lâu mới đạt tới mức hoàn hảo cũng đủ đưa bạn tới chơn của Chơn sư  rồi. Khi bà Besant nói trong Lời nói đầu theo đó ta phải sống theo giáo huấn th́ tôi nghĩ rằng bà ngụ ư ta phải nghiêm chỉnh đối với nó và tập trung về nó. Mọi sinh hoạt của ta đều bất toàn nhưng ta càng tha thiết bao nhiều th́ nó càng ít bất toàn bấy nhiêu. Nhiều người viết cho Alcyone bảo rằng ông ban cho thế gian giáo huấn thật hay ho nhưng hầu hết mọi người chỉ sử dụng được nó qua việc mong ước rằng những người khác quan tâm tới nó nhiều hơn chính họ. Sống theo một tiêu chuẩn nào đó th́ chúng ta đâu dễ ǵ bị dao động đối với nó, và khi lời khuyên có giá trị được nêu ra cho ta th́ ta tưởng tượng rằng ḿnh đang hết sức để tuân theo nó. Các bạn trẻ thân mến của tôi ơi, mong rằng các bạn sẽ nỗ lực mạnh mẽ hơn nữa, và bạn sẽ cố gắng nhận ra được rằng người ta đang nêu ra cho bạn một tiêu chuẩn cao hơn để phấn đấu hướng về nó, và do đó bạn phải duyệt lại những ư tưởng, thái độ và hành động của ḿnh theo sự minh giải mà bạn có được. Hăy tích cực nghiên cứu quyển sách này, noi theo phương pháp của chính Alcyone là “sống” với giáo huấn của Chơn sư bằng cách xét tới nhiều điều, từng điều một, và thực hành chúng trong những thời gian nhất định.

 

SỰ PHÂN BIỆN

Hai hoặc ba trang trong quyển sách này bận tâm tới việc nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phân biệt giữa những người thật hiểu biết và những người không được như vậy. Một số bạn có thể thắc mắc tại sao Chơn sư lại khăng khăng nói tới một sự kiện hiển nhiên như thế. Cố nhiên là “chỉ có hai loại người, hiểu biết và người không hiểu biết”. Đây là một vấn đề đơn giản về mặt lư luận. Tuy nhiên thực ra th́ sự thật hiển nhiên này nói chung không hề được ứng dụng, ngay cả bởi những kẻ lẽ ra nên biết nó và nếu bạn không bắt đầu ứng dụng nó trong quan hệ với ngoại giới th́ bạn ắt không tiến bộ nhiều hướng về Thánh đạo mà bạn muốn đặt chân trên đó. Người nào biết đều có khả năng phân biện. Phân biện ở đây nghĩa là ǵ ? Sự hiểu biết khiến người ta có thể phân biệt những điều vốn phù du, vô thường và điều vốn trường tồn, vĩnh hằng. Chơn sư có dạy: “Những kẻ không hiểu biết làm việc để có được của cải hoặc quyền lực, nhưng những thứ đó cùng lắm cũng chỉ dùng được trong một kiếp thôi và v́ vậy không có thực”. Và sau này Ngài c̣n mở rộng định nghĩa đó bằng cách nêu rơ rằng: “Ta phải phân biện giữa điều đúng và điều sai, điều quan trọng và điều không quan trọng, điều hữu ích và điều vô ích, điều chân thực và điều giả dối, điều ích kỷ và điều không ích kỷ”. Như vậy bạn thấy rằng đức tính phân biện này tham gia vào sinh hoạt hằng ngày của mỗi người trong chúng ta.

Đừng nghĩ rằng Chơn sư đang chê trách những kẻ không hiểu biết. Vô minh không phải là một tội ác, nó chỉ là một giai đoạn của sự tăng trưởng và chính bạn cũng trở thành một người không hiểu biết khi bạn sốt ruột với sự vô minh. Nhưng trong khi bạn không chê trách, thậm chí không thương xót th́ ít ra bạn cũng có thể phân biệt được giữa điều vô minh và điều vốn là sự hiểu biết; để cho bản thân bạn không phạm phải sai lầm và có thể giúp đỡ những người kém hiểu biết hơn ḿnh. Mọi sự biểu biết đều tương đối, và bạn ắt phải nhớ tới những lời của Chơn sư: “Cho dù con đă khôn ngoan đến đâu đi nữa, th́ trên Con Đường này con cũng c̣n nhiều điều cần phải học hỏi”. Những người hiểu biết hơn bạn vốn hoàn toàn kiên nhẫn với sự hiểu biết mà bạn có được, nhưng lại là sự vô minh so với minh triết của bạn. Bạn biết rằng sự ḥa lẫn hiểu biết với vô minh mà bạn có được chính là sự trộn lẫn thích hợp cho giai đoạn tiến hóa của ḿnh, khiến cho bạn có thể giúp đỡ hữu hiệu nhiều người c̣n ở tŕnh độ thấp hơn nữa. Nhưng cho dù bạn có tin chắc vào việc ḿnh không thể sai lầm th́ những người minh triết hơn bạn sẽ chẳng bao giờ để cho bạn ảnh hưởng tới họ về tư tưởng và hành động, ngoại trừ trong những vấn đề đặc biệt mà bạn đă thu thập được thông tin chính xác hơn họ. Cũng giống như vậy, bạn phải cẩn thận đừng sa vào cái ảo tưởng cho rằng bởi v́ bất kỳ người nào nói một cách quả quyết cho nên y phải đúng. Bạn phải vận dụng sự phân biện của ḿnh. Nhiều người rất lười biếng và sống bám vào những tư tưởng đến với ḿnh từ bên ngoài mà không chịu vận dụng khả năng của ḿnh để xác định xem điều nào phải chấp nhận và điều nào phải vứt bỏ. “Chính thống giáo” là tên gọi cho sự lười biếng này, “tập tục, qui ước” là những tên gọi khác. Tôi tập hợp những thứ này dưới tựa đề “lười biếng” v́ bạn ắt lười biếng nếu bạn để cho ḿnh đi theo cái lối ṃn nhẵn thín mà đa số loài người đi trên đó. Nếu Chơn sư nói tới “Thánh đạo” th́ đó v́ nó là “Thánh đạo” chứ không phải một con đường; v́ có ít người bước trên đó. Mặt khác, trong khi dùng sự phân biện bạn nên nhớ rằng kiến thức hạn hẹp của những người không hiểu biết lại có thể thích hợp cho việc dạy dỗ những người c̣n kém tiến hóa hơn họ nữa. Chẳng hạn như Chơn sư bảo ta rằng không có nghi lễ nào là cần thiết v́ vậy chúng ta có thể làm việc mà không cần nghi lễ. Nhưng đối với một số người th́ nghi lễ có thể là cần thiết và ắt là không phân biện khi ta suy nghĩ một cách khinh bỉ về những người đánh giá cao nghi lễ, hoặc những tu sĩ cứ nhồi sọ nghi lễ. Bạn hăy để cho người khác tăng trưởng theo kiểu thích hợp với họ. Có điều là bạn đừng tưởng tượng rằng v́ “mọi người” suy nghĩ theo một kiểu đặc thù nào đó th́ bạn cũng phải suy nghĩ theo kiểu đó; bạn cũng đừng suy nghĩ lười biếng đến nỗi mà bởi v́ một số người quả quyết rằng họ đúng và nhấn mạnh như vậy cho nên bạn để cho ḿnh chịu ảnh hưởng của một bản chất cương quyết hơn bạn. Suy tư sắc sảo và độc lập là một đặc điểm cốt yếu trong tính t́nh của kẻ muốn bước trên Thánh đạo, v́ cho dù Chơn sư trợ giúp cho y nhiều đến đâu đi nữa th́ về lâu về dài, tảng đá chắc chắn của y phải dựa vào Thượng Đế nội tâm và sẽ có lúc người học đạo phải bước trên Thánh đạo khi mọi sự trợ giúp bên ngoài dường như đều không thể được và y bắt buộc phải rút ra sức mạnh từ bên trong. Cuối cùng tôi xin nhận xét rằng bạn không nên hấp tấp kết luận ḿnh phải thề bỏ hoàn toàn tất cả những ǵ mà ḿnh không c̣n cần thiết nữa. Có thể bạn có bổn phận phải tham dự những nghi lễ v́ ích lợi của những người khác vẫn c̣n cần tới chúng. Có thể bổn phận của bạn là phải khoác lấy nhiều tập quán, qui ước và chính thống giáo, nhưng đó chỉ là v́ ích lợi của những người khác. Bổn phận trước hết của bạn là phụng sự, và bạn ắt không phải là một người thầy thành công nếu bạn không thay đổi cách giáo huấn của ḿnh để thích ứng với trí thông minh của lớp học. Tuy nhiên bạn ắt không phải là người thầy thành công nếu kiến thức của bạn không vượt xa kiến thức của lớp học, và trong khi bạn có thể tự ḿnh sử dụng những cây nạn để chỉ cho một người què cách tự đứng vững th́ không v́ vậy mà bạn lại cũng sử dụng chúng vào những dịp khác. Nếu bạn hạn chế ḿnh bên trong những h́nh thức đă lỗi thời (trừ trường hợp để trợ giúp) th́ bạn quả thật là lười biếng; nhưng những người nào không c̣n cần tới những h́nh thức đó th́ lại không phải là lười biếng. Như vậy, trong khi bản thân bạn cần tránh lười biếng th́ bạn nên nhớ rằng những người khác có thể tạm thời được cứu chuộc qua điều mà đối với bạn là sự ngưng trệ, và bạn sẽ chu cấp cho nhu cầu của họ bằng cách ban cho họ điều sẽ giúp họ nhiều nhất.

 

SỰ HIỂU BIẾT CHÂN THỰC

Thế mà đâu là cái sự hiểu biết làm cho bạn nổi bật lên so với những người không hiểu biết ? Tôi đă bảo bạn rằng nó phần nào cốt ở việc có thể phân biệt được giữa điều vốn phù du và điều vốn trường tồn. Thật vậy, trong suốt quyển sách nhỏ này, Chơn sư liên tục giải thích cho chúng ta qua việc đối chiếu tương phản điều có thực khác với điều không thực ra sao. Chẳng hạn như: “Con phải phân biệt giữa điều ích kỷ và điều không ích kỷ”, “đừng tỏ ra giận dữ hoặc sốt ruột”, đừng bao giờ để cho con cảm thấy buồn hoặc nản ḷng”. Tại sao vậy ? Bởi v́ nếu bạn cảm thấy giận dữ, sốt ruột hoặc nản ḷng th́ bạn nhất thời đang sống với một điều ǵ đó thế nào cũng qua đi, c̣n về lâu về dài th́ sự thanh thản và hoan hỉ mới mang bạn tới mục đích. V́ vậy ta thấy một phần lời giải đáp cho câu hỏi của tôi chính là việc nghiên cứu những điều tương phản này. Nhưng Chơn sư cũng nêu rơ rằng “điều thật sự quan trọng là việc hiểu biết Thiên cơ dành cho loài người”. Dĩ nhiên là mọi đức tính mà bạn cần đạt được đều là một phần Thiên cơ dành cho loài người. Nhưng đạt được đức tính là v́ một chủ đích nào đó. “Đó là v́ Thượng Đế có một Thiên cơ tức là Cơ tiến hóa”, và những đức tính mà bạn dần dần xây đấp vào trong bản tính của ḿnh được dự trù để tẩy trược nó sao cho nó có thể “ḥa nhịp với Vô hạn”, hài ḥa với công tŕnh thiên nhiên của Thượng Đế. Các định luật trong thiên nhiên đều là các qui tắc tiến hóa, là dấu hiệu cho thấy Thượng Đế trở nên hữu ngă thức nơi mỗi điểm linh quang và bạn phải hiểu được những định luật này để có thể “đứng về phía Thượng Đế, về phe với điều thiện chống lại điều ác, làm việc để tiến hóa chứ không phải để phục vụ ḷng ích kỷ”. Thế gian đă biết được một số những định luật này. Chúng ta nói tới các định luật của khoa học, luật của nghệ thuật, luật của văn chương: chúng ta có biết luật của hấp dẫn và những định luật khác liên quan tới vật chất. Sớm muộn ǵ th́ bạn cũng phải học những định luật này, nếu không ở kiếp này th́ cũng ở kiếp khác; đó là v́ bạn không thể trợ giúp hoàn hảo nếu bạn không biết những định luật để cho Thượng Đế phát triển. Nhưng hiện nay chúng ta không liên can ǵ tới những định luật đặc thù này v́ Chơn sư hướng dẫn chúng ta bên trong thay v́ từ bên ngoài. Trước hết ta hăy học một điều ǵ đó về những định luật của tinh thần rồi ta sẽ thấy những định luật về vật chất chẳng qua chỉ là phản ánh những định luật tinh thần dưới một dạng thô hơn. Khi hiểu được nền tảng của cuộc sống tâm linh th́ bạn ắt dễ dàng làm quen hơn nhiều với những nguyên lư của nghệ thuật và khoa học theo như ta biết hiện nay. Hơn nữa thế gian sẽ ban cho bạn những nguyên lư nghệ thuật và khoa học. C̣n ngoại trừ có lẽ chỉ trong triết học Ấn Độ th́ cho đến nay chẳng có bao nhiêu khoa học về linh hồn xứng đáng với tên gọi đó.

 

NHỮNG ĐỊNH LUẬT CỦA CUỘC SỐNG CAO THƯỢNG

Những linh hồn non nớt như chúng ta chỉ có thể biết chút ít về những định luật cao cả này (bà Besant gọi chúng là “những định luật của cuộc sống cao thượng) do đó tôi không hi vọng có thể liệt kê thậm chí một vài định luật. Nhưng Chơn sư đưa ra nhiều lời bóng gió về việc phải t́m chúng ở đâu, và những gợi ư của Ngài giúp ta có được một ư niệm tổng quát về cái định luật mà ta có thể trông mong t́m thấy. Ngài dạy rằng: “Tất cả đều là một, và chỉ điều nào mà Đấng Nhất Như muốn th́ mới có thể làm hài ḷng mọi người”. Đây là định luật về sự đơn nhất. “Tất cả đều là một”. V́ vậy “chỉ điều nào mà Đấng Nhất Như muốn th́ mới thật sự làm mọi người hài ḷng” – đây là định luật về một chủ đích chung. Chúng ta đang chia xẻ một t́nh huynh đệ chung và đang hướng về một mục tiêu chung. Nếu sự phân biện của bạn đă dẫn dắt bạn tới chỗ này th́ bạn đang đi đúng đường v́ Chơn sư có nói rằng: “Sự phân biện này là bước đầu tiên”. Hai định luật này trong bản thể của chúng ta cung cấp bí quyết của phát biểu: “Những kẻ nào ở về phía Thượng Đế đều biết tại sao ḿnh ở đây và ḿnh phải làm ǵ”. Họ ở đây v́ Thượng Đế nội tâm muốn họ ở đây, và họ biết điều ḿnh cần phải làm là phối hợp với những người khác nhằm cố gắng đạt tới mục tiêu chung. Tôi không gợi ư rằng sự hiểu biết của chúng ta về hai định luật này là minh bạch và dứt khoát. Chúng ta chỉ lờ mờ cảm thấy được chúng, và mục đích của việc phát triển các đức tính là khiến cho ta có thể hiểu rơ hơn. Tuy nhiên, khi ta càng gần với bản chất cao thượng của ḿnh bao nhiêu, càng gần tới cái bộ phận của Đấng Nhất Như ngự trong chúng ta bao nhiêu, th́ chúng ta càng chắc chắn bấy nhiêu về những định luật này cho dù đôi khi chúng ta có thể “hành động điên rồ và cố gắng phát minh ra những đường lối” cho chính ḿnh, những đường lối mà ta nghĩ rằng làm cho chính ḿnh hài ḷng.

Thế mà liệu chúng ta có bằng chứng ǵ về việc vận hành của hai định luật này ? Một là việc càng ngày càng đánh giá cao t́nh huynh đệ nhằm đưa tới sự an b́nh và hạnh phúc. Tôi không cần đưa ra những ví dụ từ ngoại giới v́ chính bạn cũng có thể nghĩ được nhiều ví dụ. Thế giới đang chầm chậm bước một cách không sai lầm trên con đường hướng về mục đích t́nh huynh đệ và v́ cuộc sống sẽ tốt hơn đối với những bước mà ta biết rằng Đấng Nhất Như đang muốn ta thực hiện. Vậy là một lần nữa căn cứ theo những phát biểu của các nhà nhân ái, thần bí gia, nhà thấu thị, những người sáng lập các phong trào nhằm mục đích truyền bá tinh thần huynh đệ, ta biết rằng những lúc có thực và do đó có được niềm vui lâu bền chỉ xảy ra khi người ta chia xẻ điều người ta đang là và đang có với những người khác. C̣n có ư thức về một sự sống rộng lớn hơn, về một tinh thần tự do hơn khi chúng ta chia xẻ với những người khác và khi chúng ta sống v́ những người khác. Con người ích kỷ không có được thú vui lâu bền do những hành vi ích kỷ, mặc dù chắc chắn là y có thể trải nghiệm những sự đê mê tạm thời mỗi khi thành công trong việc tự tư tự lợi. Nhưng những sự đam mê này lại được nối tiếp bằng phản ứng, và con người ích kỷ càng thu đoạt được nhiều th́ y càng ít thỏa măn, cho đến khi thất vọng v́ không thể thỏa măn những khao khát càng ngày càng tăng, y mưu t́m một con đường nào khác. Niềm vui chia xẻ khác hẳn với sự hân hoan thoáng qua khi chiếm đoạt mà gây thiệt hại cho người khác. Niềm vui chia xẻ không gây phản ứng và do đó không gây sự bất hạnh; nó mang lại một sự yên b́nh càng ngày càng tăng và một khả năng càng ngày càng cho ra thêm nữa. Sự không ích kỷ - nghĩa là làm việc v́ tự ngă lớn hơn thay v́ làm việc cho bản ngă nhỏ nhoi – tự nó là phần thưởng rồi, c̣n ḷng ích kỷ bao giờ cũng phải mưu t́m một phần thưởng ở bên ngoài ḿnh, và khi thời gian trôi qua th́ phần thưởng này càng ngày càng tuột khỏi tay ḿnh. Phải chăng những sự kiện này không phải là bằng chứng về sự thật của phát biểu “chỉ những ǵ mà Đấng Nhất Như muốn th́ mới có thể làm cho mọi người vui ḷng”, v́ ta càng sống cho một số nhiều hơn người khác th́ chẳng những ta càng hạnh phúc hơn mà c̣n nhờ đó ta biểu hiện được nhiều hơn Đấng Nhất Như vốn ngự nơi tất cả chúng ta ? Chúng ta càng tự đồng nhất hóa với Đấng Nhất Như th́ chúng ta càng trở nên hạnh phúc hơn.

 

PHỤNG SỰ LÀ CỐT LƠI CỦA HI SINH

Giờ đây ta hăy rán nh́n rơ hơn một chút bản chất của cái ư chí vốn cai trị thế giới này. Ta thấy ngay rằng ư chí của Đấng Nhất Như là một sự hi sinh triền miên, v́ sự hi sinh của chính chúng ta đưa ta tới gần Ngài hơn.

Không phải là việc vừa tự hi sinh vừa nuối tiếc, mà là việc vui vẻ hi sinh mặc dù chắc chắn là có đau khổ, v́ nếu không có sự tương phản đau khổ đó th́ niềm vui ắt là không được đẹp như thế. Đó là mọi sự hi sinh dù có muốn hay là không muốn. Người đầy tớ phục vụ nhu cầu của gia chủ, người buôn bán cung cấp thực phẩm cho ta, viên chức chính quyền quản trị quốc gia, thầy giáo dạy dỗ và học giả nghiên cứu – mọi người đều hằng ngày thực hiện sự hi sinh, và mức độ hạnh phúc nơi sự hi sinh đó xác định việc kẻ hi sinh gần gũi đến đâu đối với Đấng Nhất Như; Ngài đang hi sinh vĩ đại khi đang rèn luyện mỗi người trong chúng ta (vốn là một bộ phận của Ngài) trở nên hữu ngă thức về thiên tính của Ngài cũng như là thiên tính của chúng ta. Ở Đông phương người ta nhấn mạnh tới sự hiến tế và một phần của bổn phận chính qui hằng ngày bao gồm việc hiến tế cho các Tổ phụ, cho chư thiên, cho súc vật v.v. . . Dĩ nhiên ta không sống trên đời mà cứ nghĩ rằng mỗi hành vi là một sự hiến tế, v́ chúng ta đă  có thói quen xấu tưởng tượng rằng sự hiến tế đ̣i hỏi chúng ta phải chối bỏ một thú vui nào đó và như vậy chúng ta cố gắng né tránh sự hiến tế v́ e rằng niềm vui sống sẽ mất đi trong khi thật ra th́ tinh thần hiến tế chân chính mới mang lại sự an b́nh lâu dài cho chúng ta. “Chúng ta phải hi sinh v́ sự giáo dục của con ḿnh”, “Bạn phải hi sinh một điều nào đó nếu bạn muốn có được điều này hay điều kia”. Hi sinh chỉ có nghĩa là từ bỏ một điều ǵ đó thấp thỏi hơn chứ không bao giờ từ bỏ một điều ǵ đó cao thượng hơn, và nếu người đầy tớ của ta, viên chức của ta, thầy giáo của ta, học sinh của ta, thương nhân của ta và nhất là chính chúng ta sống trên đời mà mục đích chủ yếu là sự hi sinh – hiến tế phần thấp hèn trên bàn thờ của phần cao thượng – th́ công việc của ta ắt được thực hiện tốt hơn nhiều và thế gian ắt là một nơi mà ta có thể sống trong đó hạnh phúc hơn nhiều. Không có một việc buôn bán nào, không một nghề nghiệp nào, không một loại nghiệp vụ nào, không một hành vi nào cho dù nhỏ mọn đến đâu đi nữa mà lại không có được vẻ đẹp nếu nó được thực hiện theo tinh thần hi sinh chân chính, tức là hiến tế cho Đấng Chúa Tể. Đây quả thật là một nhiệm vụ khó khăn đối với tất cả chúng ta v́ chúng ta phải bắt đầu, và cách tốt nhất để mỗi ngày hoàn thành được một hành vi hi sinh hữu thức là một hành vi dứt khoát được thực hiện nhân danh và vinh danh Đấng Cao Cả Hi Sinh mà nhờ có sự hi sinh của Ngài chúng ta mới sống, vận động và hiện tồn được. Các Hướng đạo sinh có nói tới một “nghĩa cử”, những con Trai và con Gái của Thiên quốc đều ra lệnh phải có “một hành vi phụng sự mỗi ngày” – đây là những sự hi sinh chân chính, v́ phụng sự là cốt lơi của hi sinh.

 

CHƠN NGĂ VÀ PHÀM NGĂ

Mọi sự hi sinh nếu có giá trị th́ phải là sự hi sinh có trật tự và chúng ta càng học về những định luật hi sinh th́ sự hi sinh của ta lại càng hữu hiệu. Thật vậy, một người có thẩm quyền về những nguyên tắc hi sinh có thể viết nhiều quyển sách về vấn đề này, và chúng ắt là những quyển sách hấp dẫn nhất. Nhưng trong phạm vi của những bài nói chuyện này, tôi phải hạn chế ḿnh vào một hay hai định luật đặc biệt của cuộc sống cao cả mà bạn đă cần tới.

Trước hết bổn phận chính của bạn là phải hiểu ra được rằng cá thể mà bạn gọi là “tôi” chỉ là một phần của cái “chơn ngă” vốn là một điểm linh quang trong ngọn lửa của Thượng Đế. Nói cách khác, có cái “tự ngă” vĩnh hằng tḥ một xúc tu vào ngoại giới để thu lượm được tất cả những ǵ mà ngoại giới có thể ban ra. Xúc tu đó không phải là “chơn ngă”, cũng như cái rễ không phải là trọn cả cái cây. Bạn c̣n có nhiều hơn mức làm cho tâm thức tỉnh táo của bạn linh hoạt trong xác phàm, và chính “bạn” vĩ đại hơn này mới dẫn dắt bạn có được những kinh nghiệm mà cuộc đời bạn trải qua. Bạn có thể gọi cái “bạn “ vĩ đại này là chơn ngă nếu muốn, nhưng bạn đừng đồng nhất hóa nó với các hạ thể mà nó phải sống trong đó. Chơn ngă chỉ muốn h́nh thức sinh hoạt tinh anh nhất không dựa dẫm theo những sự yếu kém của bạn, không chán nản khi bạn thất bại và nhất là trên cơi tồn tại của riêng ḿnh nó biết hết những ǵ mà “bạn” ở bên dưới này phải học hỏi. Nhiều người c̣n trẻ cứ nghĩ rằng chơn ngă ắt phải hài ḷng với sự hiểu biết của ḿnh. Nhưng sự hi sinh sẽ không hoàn chỉnh nếu tri thức không ở khắp mọi nơi, nếu thiên tính không hữu ngă thức nơi mọi bộ phận của ḿnh. Thượng Đế vốn toàn tri trên cơi của riêng ḿnh, nhưng Ngài muốn ngă thức của chính ḿnh phải làm thức tỉnh trên mọi cơi bản thể của Ngài sao cho chúng ta (những tế bào trong cơ thể  Ngài) trở nên tỉnh thức với thiên tính mà chúng ta chia xẻ và do chính hành vi tỉnh thức đó có thể trở thành chính Thượng Đế. Tuy nhiên trước hết chúng ta phải làm chủ được đủ thứ cấp độ vật chất từ mức cao nhất (vốn hầu như không phải là vật chất mà đúng ra là tinh thần) măi xuống tới vật chất cấu thành thể xác của ta, và có lẽ c̣n thấp hơn nữa.

 

SỰ NỞ RỘ THIÊN TÍNH CỦA CHÚNG TA

Sau khi đă làm chủ được chúng, ta có thể vứt bỏ chúng từng chút một cho tới khi ta sống trên cơi tồn tại tâm linh cao nhất, trên cơi Thiên tính, chỉ xuất lộ khi gần đến lúc có hành động hi sinh cũng giống như hành động mà chính Thượng Đế hiện nay đang thực hiện. Điều này xảy ra trong tương lai vô lượng, nhưng nó thật chắc chắn – chắc chắn đến nỗi ngay cả ở giai đoạn tăng trưởng hiện nay ta cũng có thể nhận thấy rằng Thượng Đế bên trong ta, bản chất cao thượng của ta, đang dần dần làm chủ được những hạ thể mà nhờ đó Ngài bước vào tiếp xúc nhất định với các cơi thấp. Ngài làm việc hằng ngày, và trong khi sự tự chủ phải mất nhiều thời gian để thực hành, và các công cụ đâu phải lúc nào cũng vận hành như mong muốn, tuy nhiên ngày trôi qua th́ mỗi người trong chúng ta đều có một tiến bộ nào đó, và không có ai chậm chạp hoặc thoái hóa đến nỗi y không vượt lên theo mức độ khả năng của ḿnh. Nếu muốn, tôi muốn bạn nhớ cho rằng sự kiện củng cố một cách áp đảo này đến mức tối đa bên trong bạn th́ sự hoàn hảo chưa được phát triển, và nó là một cái mầm nụ hoa sẽ trở thành một đóa hoa. Nhưng nụ hoa ấy đă có ở đó rồi, và trong những giờ phút gây cấn nhất khi bạn cảm thấy rằng ḿnh đă hoàn toàn thất bại và có lẽ vô phương cứu văn th́ điều sẽ hoàn hảo vẫn c̣n ở lại với bạn và là nguồn gốc thường xuyên tạo ra sự nỗ lực mới mẻ khiến bạn tiếp tục sống cuộc đời cao thượng cho dù bạn làm ǵ đi chăng nữa. Có lẽ nói là khi bị đắm ch́m trong vật chất, bị bao quanh bởi những sự vật của giác quan th́ chúng ta đâm ra bối rối, tưởng tượng rằng ḿnh đắm ch́m trong ṿng xoáy của chúng. Nhưng vật chất bao xung quanh ta cấu tạo thành các hạ thể của ta và những đối tượng của giác quan – cho dù thuộc cơi trí tuệ, cơi trung giới hoặc cơi hồng trần – th́ bản thân chúng đều đang chờ được chế ngự. Bạn hăy làm chủ được chúng, hăy tỏa ra thiên tính của bạn lên trên chúng th́ chúng sẽ trở thành những quyền năng để cho bạn sử dụng thay v́ là những thần lực mà bạn phải chiến đấu và có lẽ bạn phải sợ hăi.

 

CHƯƠNG IV

CÓ THỜI GIAN ĐỂ ĐẠT ĐƯỢC SỰ HOÀN HẢO

Tôi nghĩ rằng sự thật mà tôi cố gắng diễn tả trong bài nói chuyện trước kia có tầm quan trọng sống c̣n v́ chúng ta càng tham thiền về nó th́ nó càng trở nên có thực và chúng ta bắt đầu nhận ra được rằng cho dù ta c̣n lâu mới có thể thực hành thành công được những đức tính qui định trong Dưới Chơn Thầy th́ một ngày nào đó ta cũng phải trở nên hoàn toàn, và do đó có được hạnh phúc của việc phụng sự hoàn hảo.

Thật vậy, cần phải có thời gian để hoàn tất, nhưng nếu một định luật về bản thể là thiên tính ngự trị bên trong ta dần dần phát triển thành ra đóa hoa hoàn hảo th́ một định lụật khác lại nói cho ta biết rằng sự phát triển diễn ra chậm chạp nhưng chắc chắn (1) theo nguyên lư tác động và phản tác động, tức nhân quả, (2) do liên tục ch́m sâu xuống rồi lại rút ra khỏi vật chất của các cơi thấp, nói cách khác là luân hồi. Ta hăy thoáng nh́n cái định luật về thời gian này, nó cũng bao hàm cơ hội nữa th́ thời gian ắt là vô giá trị nếu ta không có khả năng vận dụng nó. Diễn tả định luật này bằng cách khác, ta có thể bảo rằng sự phát triển của thiên tính bên trong ta diễn ra theo sự cưỡng bách của kinh nghiệm – kinh nghiệm bao giờ cũng sàng lọc điều có thực với điều không thực, điều thường trụ với điều vô thường. Theo ngôn ngữ của Ki Tô giáo th́ ta được biết rằng ta gieo ǵ th́ sẽ gặt nấy. Ấn Độ có nói tới Nghiệp báo (Karma), một nhà Thông Thiên Học có thể nói về luật Nhân quả. Diễn tả một cách rành mạch th́ định luật phát biểu rằng chúng ta suy nghĩ và hành động ra sao th́ ta sẽ trở thành như thế, và v́ cần phải có thời gian th́ ta mới suy nghĩ và hành động hoàn hảo được, cho nên ta liên tục đắm ch́m vào trong vật chất thô trược nhất của các bầu hành tinh để từng bước hiểu được bản chất của nó và do đó làm chủ được nó. Cuộc đời mà ta đang sống hiện nay, cái cơ thể mà sự đắm ch́m mới nhất diễn ra trong đó, chỉ là những sự việc trong một chuỗi dài các kiếp sống; bạn đă sống nhiều kiếp trước kia và trước kia bạn đă sử dụng nhiều cơ thể. Có thể nói là qua mỗi kiếp bạn đă tổng kết nhiều tài khoản có và nợ của ḿnh khi c̣n đang ở trên trần thế; và rồi khi có một cán cân thăng bằng tâm linh càng ngày càng tăng (ta dùng từ này theo nghĩa tài chính) do đó bạn lại nhập vào doanh nghiệp trên cơi trần vừa để trả dứt những món nợ cũ vừa để vay thêm những món nợ mới, vậy là tích lũy được một tài sản tâm linh càng ngày càng gia tăng do các món nợ mới càng ngày càng dần dần ít đi khi minh triết của bạn càng ngày tăng lên. Bạn tiếp tục làm như vậy trong hàng trăm ngàn năm hoặc hàng triệu năm nếu bạn xét tới cả thời gian ngủ, thời gian nằm mơ và thời gian mới chớm nở sự tỉnh thức lần lượt trong các giới khoáng vật, thực vật, động vật. Thượng Đế cấp vốn ban đầu cho bạn là những khả năng tâm linh của bạn, và mặc dù đôi khi vốn của bạn dường như bị ứ đọng rất nhiều, nhưng bạn lại chẳng bao giờ mó tới được v́ Ngài đă tạm thời rút bạn ra khỏi sự tham gia hoạt động trong doanh nghiệp mà Ngài dấn thân vào khi bạn hành động liều lĩnh đến nỗi không thể tin cậy bạn để quản lư các thương vụ một cách thỏa đáng của bạn cũng như của Ngài. Thật vậy có thể h́nh dung là bạn cần phải khởi sự trở lại, có lẽ không phải ngay từ đầu mà là hơi chậm lại một chút so với lúc mà bạn bắt đầu tỏ ra không biết lo xa. Nhưng đây có lẽ là một diễn biến tương đối hiếm hoi, v́ hầu hết chúng ta đều tăng trưởng vốn một cách chậm chạp nhưng chắc chắn.

 

HAI ĐỊNH LUẬT CỦA CUỘC SỐNG CAO THƯỢNG

Việc biết con đường giúp cho mỗi người trong chúng ta cuối cùng đạt được sự hoàn hảo ắt có giá trị và tầm quan trọng ghê gớm v́ chẳng những chúng ta không bao giờ hoàn toàn bị đè bẹp do thất vọng hoặc làm cho khả năng rút vốn của ta hầu như mất đi v́ ta đă được số tích lũy nợ quá nhiều, mà c̣n v́ ta có thể giúp đỡ, củng cố nhiều nhất cho những người chẳng thấy ǵ trước mắt ngoại trừ những món nợ phải trả và chỉ có ḷng hào phóng của Đấng vĩ đại Cấp tín dụng (cho dù chắc chắn đến đâu đi nữa) mới khiến cho họ bám víu vào được (cho dù có đúng như thế). Và v́ ta cũng cần phải lĩnh hội rơ ràng những đặc điểm cốt yếu của các định luật thuộc đời sống cao thượng quan trọng biết dường nào, cho nên tôi xin ôn lại ngắn gọn những sự thật đă được phát biểu cho đến nay. Trước hết th́ “tất cả đều là một”. Tôi xin phép được dùng ẩn dụ về một cơ sở ngân hàng để nói rằng Đấng Chúa Tể thế gian là vị giám đốc tối cao của một doanh nghiệp gia đ́nh lớn trong ngành ngân hàng tâm linh. [Tôi phân biệt “Đấng Chúa Tể thế gian” với “Thượng Đế”. Tôi dùng từ Thượng Đế để chỉ nguyên lư thiêng liêng làm linh hoạt mọi sinh linh ở khắp nơi, tức là Đức Chúa Cha. Mặt khác, Đấng Chúa Tể thế gian là chức sắc đứng đầu Quần Tiên Hội, là thành viên tối cao có địa vị độc tôn. Ngài có nhiều quyền lực hơn tất cả những vị khác, v́ không phải là thành viên của chính nhân loại thế gian, Ngài là Phó vương của Thượng Đế trên trái đất. Kinh điển của Ấn Độ giáo nhắc tới hồng danh của Ngài là Sanat Kumara]. Chính Ngài lập nghiệp bằng số vốn mà Ngài đă phát triển do kinh nghiệm vô số thời đại trước, cũng như mọi vốn khác, số vốn này nguyên thủy là của Thượng Đế. Ngài có chức năng là giúp cho mọi thành viên trong gia đ́nh ḿnh có thể phát triển được vốn của họ giống như Ngài đă phát triển được vốn của Ngài. Có thể nói là Ngài thệ nguyện sắp xếp doanh nghiệp của Ngài sớm muộn ǵ th́ mọi thành viên trong gia đ́nh Ngài rốt cuộc cũng phải phát triển được vốn của ḿnh đến trị số tối đa mặc dù đôi khi cũng gặp thất bại. Ở đây có sự thống nhất với phát triển trong định luật thứ hai là có tồn tại một mục tiêu chung. Thật vậy định luật thứ nhất có hàm chứa định luật thứ hai v́ sự đơn nhất không thể hoàn chỉnh nếu ta không có chung một số phận, nếu tương lai không có sự đơn nhất giống như quá khứ mà truy nguyên ra đều là cội nguồn chung của ta. Tôi đă gọi số phận chung này là sự hoàn hảo và nếu dùng ngôn từ để diễn tả ẩn dụ về doanh nghiệp ngân hàng th́ tôi có thể nói rằng mục đích của doanh nghiệp là giúp cho mỗi thành viên của ḿnh phát triển được một số vốn tâm linh (công đức) đáng kể sao cho theo thời gian mỗi thành viên đều có thể lập ra một doanh nghiệp dựa vào tài khoản của riêng ḿnh. Thế là có thắc mắc: mỗi thành viên sẽ đạt tới mức đó ra sao ? Câu trả lời cũng minh bạch trong thế giới tâm linh giống như trong thế giới kinh doanh thực sự trên cơi trần. Nhờ vào kinh nghiệm, theo thời gian, bằng cách lập doanh nghiệp ở qui mô nhỏ lúc khởi đầu, sau khi đă được rèn luyện sơ bộ qua một mức nào đó, tích lũy một số lớn món nợ chẳng những khó trả hết mà c̣n phải mất thời gian mới trả hết được. Đây là giai đoạn đầu tiên mà tôi có nhắc tới trong phần đầu của loạt bài nói chuyện này ? Lúc biệt lập ngă tính chuyển từ giới động vật sang giới nhân loại. Trước đó thành viên chỉ yên ngủ. Y học được những điều vỡ ḷng của các môn học mà sau này y mới nghiên cứu sâu hơn. Y hầu như chưa kinh doanh ǵ hết, thật ra y chỉ là một cổ đông nhưng không có cổ phần hữu thức trong doanh nghiệp nhiều hơn mức đứa trẻ sơ sinh của vị giám đốc ngân hàng có cổ phần hoạt động trong thương vụ của cha ḿnh. Nhưng đứa trẻ sơ sinh sẽ lớn lên để trở thành một đứa con nít có ư thức mơ hồ cha ḿnh làm ǵ. Cái con người mới biệt lập ngă tính đó cũng mơ hồ ư thức được sự tồn tại của một chủ đích trong cuộc đời vây quanh ḿnh nhưng cho đến nay y chẳng màng ǵ tới nó ngoại trừ khi nó ảnh hưởng tới phúc lợi cá nhân ngay trước mắt của y. Nhưng rồi cũng đến giai đoạn thứ hai: lương tâm thức tỉnh. Người thiếu niên trở thành nhân viên trong doanh nghiệp của cha ḿnh bắt đầu từ cấp thấp nhất có rất ít trách nhiệm. Người ta từng bước giao cho y một phần nhỏ vốn để thực nghiệm, y được biệt phái nhập thế để xem y có thể dùng số vốn đó (lương tâm) mà cho đến nay y chưa hề biết là nó tồn tại. “Tôi có lương tâm, tôi có khả năng phân biệt đúng với sai. Cho đến nay tôi vẫn chia xẻ mà không suy nghĩ ǵ cái lương tâm của vũ trụ trong đó lương tâm của chính tôi chỉ là một bộ phận, nhưng giờ đây tôi biết rằng tôi có lương tâm của riêng ḿnh, tôi phải sử dụng nó đến mức tối đa sao cho nó càng ngày càng lớn mạnh”. Như vậy người cổ đông giờ đây càng ngày càng ư thức được ḿnh chẳng những là cổ đông để nhận cổ tức mà c̣n là thành viên để tạo ra cổ tức, y nhập thế (các cơi thấp) với tư cách là một tác nhân hoạt động để xây đấp tài sản của riêng ḿnh.

Cũng giống như một doanh nhân sau khi hết giờ làm việc bèn về nhà để nghỉ ngơi sau những giờ lao động, y nghĩ đi nghĩ lại xem trong ngày đó việc kinh doanh của ḿnh là tốt hay xấu và y hưởng hạnh phúc bên cạnh những người thân thương của ḿnh; cũng vậy mỗi người trong chúng ta sau khi đă qua một kiếp sống đều yên nghỉ nơi những thế giới khác để thu thập những năng lượng mới – nảy sinh do những sự phấn đấu trong những kiếp đă qua – cho kiếp sống sắp tới, cho “ngày” làm việc mới trên cơi trần. Chúng ta không thể phát triển được mọi số vốn cần thiết chỉ nội trong một ngày. Chúng ta phải học cách sử dụng vốn, cần tránh thương vụ nào và thương vụ nào th́ có lời; thời gian ta cần có là biểu hiện của luật luân hồi. Nhưng chẳng những ta cần thời gian mà ta c̣n cần kinh nghiệm nữa. Ta ắt phải đau khổ trong những thương vụ lỗ lă và gặt hái được hạnh phúc trong những thương vụ có lời. Nhưng chúng ta không thấy được kết quả th́ chúng ta cũng chẳng biết cách so sánh giá trị tương đối của đủ thứ thương vụ mà trong nhất thời chúng ta chẳng biết ǵ về bản chất của chúng. Nguyên nhân không thể nói cho biết được bản chất của chính nguyên nhân mà chỉ có kết quả mới nói rơ hơn nhiều. Luật nhân quả dạy rằng nhân nào th́ quả nấy, nhưng theo kinh nghiệm thực tế th́ trước hết ta học biết rằng quả nào th́ nhân nấy. Chỉ sau khi trải nghiệm nhiều kết quả th́ chúng ta mới biết cách tránh nguyên nhân, tức là biết cách phát động nguyên nhân khiến cho tùy theo đó mà kết quả mang lại là hạnh phúc hay đau khổ. Ngay cả đến lúc đó, chúng ta cũng chỉ tạm thời thỏa măn với những nguyên nhân tạo ra các kết quả mà khả năng mang lại thú vui chỉ rất hạn chế. Nói cách khác, chúng ta hài ḷng với kết quả ngay trước mắt cho dẫu phù du nếu là nó thỏa măn được ta nhất thời. Đây là trường hợp của hầu hết mọi người khiến cho họ bị xếp vào hàng ngũ không hiểu biết. Tuy nhiên bạn nên nhớ rằng có một giai đoạn thứ ba, giai đoạn mà cá nhân dứt khoát thệ nguyện đi theo một đường lối cư xử nào đó để cho ḿnh xứng danh là người ít ra th́ cũng đang học cách hiểu biết bằng việc trải qua cuộc Điểm đạo nhập vào cuộc sống rộng lớn thênh thang hơn. Y là thành viên sau khi đă tỏ ra ḿnh có thể quản lư khôn ngoan số vốn của ḿnh trong một phạm vi tương đối hẹp th́ chẳng những được tạo cho cơ hội phát triển vốn nhanh hơn và rộng lớn hơn mức b́nh thường có thể được mà c̣n được phép chia xẻ trách nhiệm được giao phó cho ban giám đốc của doanh nghiệp điều hành việc kinh doanh theo sự dẫn dắt của Đấng Chúa Tể nhằm giúp cho các thành viên trẻ tuổi đạt được kinh nghiệm cần thiết. Thật vậy, y là một giám đốc trẻ nhưng chính hiệu là giám đốc mặc dù có những người trên y đảm đương những trách nhiệm c̣n lớn hơn nữa; những người này thuộc hàng ngũ các Điểm đạo đồ cao cấp.

 

CON ĐƯỜNG TIẾN HÓA

Người ta đă trải qua nhiều giai đoạn tiến hóa khác nhau bằng cách đó và cá nhân dần dần học cách phát triển số vốn tâm linh của ḿnh sao cho một ngày kia trong một tương lai xa tít vời, y sẽ trở thành chủ nhân của một doanh nghiệp, Chúa Tể của một thế giới. Chúng ta biết rằng có một lớp thương vụ có lời (ta dùng từ này theo nghĩa cao thượng nhất) đó là lớp bao hàm việc phụng sự vốn là cốt lơi của hi sinh. Thượng Đế là Đấng Hi Sinh vĩ đại bởi lẽ thay v́ chỉ sống dựa vào số vốn của ḿnh, Ngài chẳng những chia xẻ vốn cho tất cả chúng ta mà thông qua Đấng Chúa Tể thế gian c̣n rèn luyện cho ta phát triển vốn của ḿnh đến mức tối đa. Tôi xin kính cẩn nói rằng ngay cả Đấng Chúa Tể thế gian cũng là vĩ đại v́ Ngài đă hi sinh để dẫn dắt cơ tiến hóa của ta khiến cho từ mức độ cao cả của Ngài, Ngài c̣n thăng tiến lên một sự rực rỡ tâm linh nhiều hơn nữa. Khi ta đạt tới mức của Ngài thực hiện sự Hi sinh vĩ đại và cao cả th́ vẫn cứ quần quật lao động trong khi lẽ ra đă thừa sức được hưởng thụ để cho số vốn tâm linh của ta phát triển đến mức ta có được một kinh phí khổng lồ, sao cho ta cũng sẽ hi sinh để rồi được tưởng thưởng. Muốn làm như thế ta phải từng bước trải qua những sự hi sinh trung gian, bước nhỏ đưa tới bước lớn; và chỉ khi ta phụng sự và hi sinh tỉ lệ với số vốn mà ta có th́ ta mới có thể hi vọng phát triển được số vốn ấy và phát triển thêm nữa. Tuy nhiên nghệ thuật phụng sự - lẽ ra tôi nên gọi nó là “khoa học” – đâu phải chỉ học được trong một ngày hoặc chỉ nội trong thời gian ngắn ngủi trong một kiếp. Trước hết là phải phụng sự bản ngă nhỏ mọn. Xét về thế giới phương Tây và càng ngày cũng giống như vậy ở phương Đông, trọn cả khuynh hướng ngày nay đều nhằm cưỡng chế cá nhân nhấn mạnh tới bản thân. Y học tập qua đủ thứ cạnh tranh, tranh chấp, theo những mệnh lệnh của tham vọng cá nhân, chỉ quan tâm tới phúc lợi của riêng ḿnh và có lẽ của những người trực tiếp tùy thuộc vào ḿnh. Phúc lợi cá nhân, quyền lực cá nhân, ảnh hưởng cá nhân, năng lực cá nhân – người ta đeo đuổi theo hết và phải học bài học là thấy tất cả đều phù phiếm ngoại trừ khi nó được dùng cho việc phụng sự lớn lao hơn. Thường thường là cuối mỗi kiếp sống được dành cho những sự đeo đuổi như thế, con người thấy rốt cuộc chẳng mang lại được hạnh phúc chân thực bao nhiêu cho ḿnh, và y hối hả chạy theo con đường khác bằng cách hoang phí những ǵ ḿnh thu lượm được trong một thế giới mà xưa kia ḿnh đă chiếm đoạt từ đó. Nếu không c̣n kiếp sống nào khác th́ hành động như vậy ắt là quá muộn v́ chỉ nội trong một năm bạn không thể chuộc tội cho thời gian ích kỷ trọn đời. Nhưng tương lai c̣n mở ra trước mắt y và có lẽ y sẽ học được bài học này trong thời kỳ yên nghỉ giữa kiếp này và kiếp tới, y sẽ có đủ thời giờ nhàn rỗi (cũng như tầm nh́n trong sáng hơn mà nội giới ban cho y) để quyết định về một cuộc đời sẽ ít hạn hẹp hơn so với cuộc đời mà y đă dành trọn cho những quyền lực nhỏ mọn của ḿnh. Quả thật là y sẽ phải trả giá cho mọi sự gây hại mà y đă tạo ra, phải trả giá trọn vẹn cho những món nợ trong những thương vụ lỗ lă, nhưng chẳng những y có thời gian để trả nơ mà c̣n có thời gian và cơ hội để hoạch định những kế hoạch mới hài ḥa với tầm nh́n rộng lớn hơn mà y đă có được. [Ta hăy so sánh sự tăng trưởng của linh hồn với một căn nhà có một số lớn cửa sổ và cửa ra vào hầu hết đều bị đóng kín. Mặt trời đang chiếu sáng ở bên ngoài nhưng tia nắng chỉ vào được một hoặc hai pḥng thôi. Dần dần th́ người ở trong nhà – linh hồn – đánh giá cao hơi ấm mang lại sự sống của mặt trời, mặc dù y vẫn c̣n phần nào sống trong bóng tối và tưởng tượng rằng thế là cũng đủ rồi. Nhưng khi y bước vào những căn pḥng có cửa sổ và cửa ra vào mở toang đón ánh nắng, th́ sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng bắt đầu làm y choáng váng. Khi trở lại bóng tối y nhớ tha thiết ánh sáng và mưu t́m cửa sổ cũng như cửa ra vào để cho y cũng có thể mở cửa được. Hết pḥng này đến pḥng khác được chiếu sáng cho tới khi căn nhà hầu như không c̣n là nhà nữa – chỉ c̣n là một số bức tường ở giữa các cửa ra vào và cửa sổ - và chỉ dùng vào mục đích tập trung ánh nắng bên trong giới hạn của ḿnh. Căn nhà là phàm nhơn của con người, là các thể trí, vía và xác của y. Mỗi pḥng là một quyền năng hoặc năng lực và chủ nhà là Chơn ngă – Chơn nhơn tức Linh hồn. Căn nhà càng tối th́ nó càng thiếu lành mạnh, càng có nhiều bụi bậm th́ nó càng lôi thôi lếch thếch. Nhưng “nhà” của Chơn sư chỉ là lối đi dành cho ánh nắng, và các hạ thể của Ngài chỉ là những lăng kính (tạm dùng một ẩn dụ khác) để cho các tia sinh khí tuôn ra với cường độ tập trung. Nếu tính khí của bạn thích hợp th́ hăy suy gẫm điều nêu trên theo cách tŕnh bày biểu tượng của nó].

Ta có thể viết nhiều hơn nữa về sự thật vĩ đại và cốt yếu này. Ta có thể đề cập tới nhiều định luật khác và có vô số cách ứng dụng chúng. Nhưng tôi chỉ có thể hi vọng rằng bạn sẽ suy gẫm kỹ về những điều này và tự ḿnh lấp đầy khoảng trống mà tôi bắt buộc phải bỏ dở. Quyển Dưới Chơn Thầy dạy cho ta phân biện những thương vụ có lời và những thương vụ không có lời. Có thể là nó chỉ cho ta cách đầu tư vốn sao cho vốn có thể tăng lên gấp nhiều lần. Bạn hăy đầu tư vào một tư tưởng tốt, một xúc cảm tử tế, một lời nói hoặc hành động tốt bụng, và sẽ có nhiều điều được đền đáp lại cho bạn – trước hết là có thêm khả năng suy nghĩ, xúc cảm, nói năng và hành động tử tế. Nếu bạn đầu tư vào sự ích kỷ th́ vốn của bạn (quyền năng của bạn) sẽ giảm đi. Khi vốn của bạn giảm đi – có lẽ ta nên nói chính xác hơn là càng ngày nó càng bị bỏ lơ – th́ hạnh phúc của chính bạn cũng như của những người khác cũng giảm theo tỉ lệ đó cho tới lúc hạnh phúc của bạn khô kiệt đến nỗi bạn thất vọng phải t́m một con đường khác hơn là sự ích kỷ.

 

CHÚ THÍCH

Trọn cả vấn đề về chủ đích của thế giới cũng như sự tồn tại của Thượng Đế và nguồn gốc của tự tại là phức tạp nhất và thường gây ra sự rối trí. Một người bạn trẻ mà tôi quen biết khi nghe nói Thượng Đế tạo ra thế giới lại muốn biết ai tạo ra Thượng Đế, và thắc mắc này là hợp lư nhất. Mặt khác, các bậc phụ huynh và trưởng thượng ắt có chính sách tốt hơn nếu hiểu ra được rằng chẳng mong ǵ ḿnh có thể giải đáp được mọi thắc mắc mà lũ con trẻ nêu ra; đó cũng là thẳng thắn hơn nữa. Cá nhân tôi có lập trường rằng với vai tṛ là một đơn vị vô nghĩa trong thế giới phức tạp này th́ tôi chẳng thể nào hiểu được nhiều ngoại trừ một phần rất hạn chế của Thiên cơ dành cho loài người. Mọi điều mà tôi có thể hi vọng đạt được là một giả thuyết để kiểm chứng tương đối bất toàn phù hợp với tính khí và số phận của tôi; mặc dù giả thuyết này có thể soi sáng cho những người khác, song le họ phải nghĩ ra giả thuyết của chính ḿnh kết hợp những đặc điểm trong giả thuyết của những người khác sao cho nó có thể hài ḥa với kế hoạch chung trong cấu trúc của họ. Chủ điểm trong giả thuyết của tôi tập trung vào sự thật là trên thế giới có sự phiền năo và bất hạnh; trong khi tôi có thể mang lại một mức độ nào đó sức mạnh và sự an ủi về mặt thể chất và xúc động cho những người chịu ảnh hưởng của tôi th́ tôi cũng có thể mang lại sức mạnh và sự an ủi trí tuệ - trước hết bằng cách cố gắng t́m hiểu mục đích của cuộc sống để rồi áp dụng sự hiểu biết đó mà ḿnh đă được nhằm trợ giúp đồng loại, cả hai thực tế là đang phấn đấu trợ giúp họ để thấy rơ hơn sự rực rỡ trong tương lai của họ, cho dù nó có thể bị che khuất đi bởi những đám mây vô minh và chán nản xen vào giữa.

Tôi xin lập lại bằng một cách nói khác những ư tưởng giúp tôi lập nên giả thuyết của ḿnh.

Một linh hồn Thượng Đế - ư thức bản thân ḿnh là Thiêng liêng – chỉ sống trên cơi thiên tính thuần túy không bị hạn chế bởi vật chất thô trược hơn vật chất của cơi hoặc mức độ mà Ngài sống trên đó. Trong quá khứ vô lượng Ngài cũng giống như chính chúng ta hiện nay, một đốm lửa cháy bùng lên thành ngọn lửa do sự ma sát của vật chất dưới mọi h́nh tướng và mật độ. Giờ đây đă là một Ngọn Lửa rồi, Ngài tuôn ra những đốm lửa – những ngọn lửa tiềm tàng – và khoác lên chúng hết lớp này đến lớp khác vật chất càng ngày càng thô trược, bản thân nó là chất liệu tạo ra ngọn lửa. Theo thời gian đốm lửa cháy hết lớp này đến lớp khác và trong quá tŕnh mà ta gọi là kinh nghiệm th́ nó càng ngày càng chói sáng, và cuối cùng bùng vỡ ra thành một Ngọn Lửa chói lọi. Một điểm linh quang từ lửa nếu được đặt đúng chỗ có thể chính ḿnh trở thành lửa giống như lửa là cội nguồn của nó. Việc quạt cháy đốm lửa được hoàn thành do những định luật của thiên nhiên, do nhân quả luân hồi, và vô số tác động và phản tác động liên quan tới thế giới bên ngoài chúng ta mà chúng ta không ngừng sống trong đó. Chính vật chất mà chúng ta ngự trong đó cũng tăng trưởng đến nỗi từ đó sẽ tuôn ra các đốm lửa giống như những đốm lửa là chúng ta. Sự khác nhau giữa vật chất xung quanh tôi, những cái cây, biển cả, thú vật, khoáng vật, đó là vật chất bên trong tôi có tập trung đủ nhiệt Thiêng liêng của Thượng Đế khiến cho một đốm lửa có thể bành trướng ra thành một ngọn lửa riêng biệt, c̣n thiên tính làm linh hoạt cây cối thú vật và khoáng vật được trải ra trên một vùng rộng hơn, không được thu hẹp lại và tụ tập lại nơi một điểm. Một số con thú, một số cây cối c̣n lớn hơn nữa, một đống kim loại c̣n lớn hơn nữa chia nhau nhiệt của thiên tính và phải trải qua biết bao nhiêu thời đại th́ nhờ vào kinh nghiệm thuộc lớp của ḿnh, bất kỳ h́nh tướng cá biệt nào mới tập trung được bên trong ḿnh nhiệt sao cho nó có thể bùng vỡ ra thành một đốm lửa; và kim loại phải nhập vào giới thực vật để được chia nhỏ ra nữa, rồi từ đó chuyển sang giới động vật để c̣n được chia nhỏ ra thêm nữa cho tới khi nó đạt tới giới nhân loại mà mỗi đơn vị trong đó chính là một điểm linh quang.

V́ vậy để đạt tới Thượng Đế, chúng ta phải trở thành chính Thượng Đế, và không có một sự kính cẩn nào đối với Ngài, không có một bằng chứng thuyết phục nào về sự toàn tri và toàn hiện của Ngài lại nhiều hơn mức gán cho Ngài ư muốn khiến cho mỗi một người trong chúng ta hoàn hảo theo h́nh ảnh của riêng Ngài. Đó là v́ Ngài chẳng thể làm được điều ǵ khác hơn là khiến cho chúng ta giống như Ngài. Tôi có thể viết nhiều hơn nữa về đề tài này cho dù điều mà chính tôi đă nêu ra tua tủa những khó khăn, nghi ngờ và điều khả hữu, nhưng nếu bạn đọc suy gẫm kỹ th́ họ ắt thấy bắt đầu có một đường lối tư tưởng mang lại trật tự cho một thế giới xét theo biểu kiến là hữu hạn và không có mục đích.

 

CHƯƠNG V

SINH HOẠT TRÊN ĐỜI

Chơn sư tiếp tục vạch ra: “Giữa điều thực và điều không thực có rất nhiều loại”, và trước đó Ngài đă đề cập tới một biến thể khi Ngài nhận xét rằng “chẳng có chi là quan trọng cho dù một người tự xưng là người Ấn giáo hay Phật giáo, Ki Tô giáo hay Hồi giáo, cho dù y là người Ấn Độ hay người Anh, người Trung Hoa hay người Nga”. Đó là v́ “nếu y ở về phía Thượng Đế th́ y là một với chúng ta”. Thế mà từ phát biểu nêu trên bạn không được kết luận rằng tôn giáo không quan trọng và có rất ít giá trị; mặc dù người ta cho chúng ta biết thêm rằng nghi lễ không quan trọng đối những người đă ở một tŕnh độ phát triển nào đó. Tôn giáo rất quan trọng nhưng sự thật c̣n vô cùng quan trọng hơn và những người nào hiểu biết – trong khi dùng một vài dạng đặc biệt nào đó của sự thật được phô bày trong một tôn giáo đặc thù – đều mưu t́m sự thật bên trong h́nh tướng và biết rằng Thượng Đế (Ngài là hiện thân của Sự Thật) biểu lộ theo nhiều cách. Thật vậy, một dạng tôn giáo đặc biệt có rất nhiều giá trị đối với những kẻ nào chưa biết rằng mọi tôn giáo đều xuất phát từ cùng một nguồn gốc; Đấng lănh đạo bộ môn giáo huấn của thế gian ngay cả giờ đây vẫn trông chờ thế giới sẵn sàng đón tiếp Ngài một lần nữa. Tôn giáo khiến cho sự thật rành rành ra đối với những kẻ nào c̣n phải chứng ngộ rằng có nhiều con đường dẫn tới Đấng Nhất Như và Ngài hoan nghênh tín đồ của ḿnh trên mỗi con đường đó (Xin trích dẫn một kinh điển của Ấn Độ). Hầu hết mọi người đều cần có những qui tắc sống được áp đặt từ bên ngoài trước khi họ học cách rút tỉa được chúng từ bên trong, và thỉnh thoảng có các vị đại Đạo sư giáng lâm để h́nh thành những qui tắc đặc biệt cho những hoàn cảnh đặc biệt mà một giống dân đang được rèn luyện theo đó, hoặc sửa đổi những qui tắc cũ phù hợp theo tiến bộ đă đạt được. Ki Tô giáo được ban ra cho thế giới phương Tây là sự phát biểu tập hợp lư tưởng đặc biệt mà nó phải dọn đường hướng về những lư tưởng ấy. Ấn Độ giáo trổi lên một nốt nhạc khác hẳn, tuy nhiên nó cũng cần thiết cho sự hoàn thành bản hài âm của vũ trụ. Tiếc thay thiên hạ thường có khuynh hướng chẳng những tưởng tượng rằng các qui tắc của chính ḿnh diễn tả trọn cả sự thật cho toàn thế giới, mà c̣n là họ được Thượng Đế bổ nhiệm để tuyên bố sự vô giá của mọi qui tắc khác, và khiến cho tín đồ của những qui tắc khác phải qui y theo giáo hội chân chính duy nhất. Rơ ràng đây là trường hợp ngă mạn, tự cho ḿnh là đúng. Vào thời Ṭa án Tôn giáo, người ta dùng những phương tiện bạo lực để ép buộc những người theo một h́nh thức chân lư khác hoặc là phải thề bỏ h́nh thức này hoặc là sẽ bị tiêu diệt. Thời nay chúng ta có những phong trào truyền giáo cho cái gọi là “người ngoại đạo” thật là đáng khâm phục xét về phương diện thuần túy y học và giáo dục khi dành cho các bộ lạc thổ dân, nhưng nó lại bị hư hỏng do ḷng ích kỷ không biết khoan dung và ḷng tự măn vốn tưởng tượng rằng Thượng Đế đă tuyển chọn ḿnh. Nếu những nhà truyền giáo tiếp tục làm những ǵ mà giờ đây họ đang làm theo đường lối thế tục và phải phối hợp điều này với một sự kính cẩn thám sát tôn giáo mà họ phải làm việc bên trong đó, th́ họ ắt cũng thuộc vào hàng ngũ những người hiểu biết thay v́ thuộc hàng ngũ kẻ vô minh khi bảo rằng: “Điều mà tôi tin là đúng, c̣n điều mà tôi không tin là sai”.

 

MỌI TÔN GIÁO ĐỀU CÓ MỘT NGUỒN GỐC CHUNG

Theo phát biểu của Chơn sư th́ chúng ta biết rằng h́nh thức tôn giáo mà một người sinh ra trong đó là không quan trọng. Nói cách khác, chúng ta sinh vào một tôn giáo đặc biệt hoặc là v́ ta cần tới những ảnh hưởng đặc thù của nó để phát triển bản chất của ḿnh, hoặc là ta phải t́m cách vượt qua h́nh thức ràng buộc của nó mà không mất đi ḷng tôn trọng sự thật là cho ta cao cả. Chẳng hạn như ta nên khuyên hầu hết Ki Tô hữu hăy tuân theo những nguyên tắc chung trong tôn giáo của chính ḿnh, tuy nhiên lại không chú ư nhiều hơn nữa tới h́nh tướng mà phải chú ư tới việc tỏ ra hữu dụng. Các nghi thức và nghi lễ Ki Tô giáo có lẽ có giá trị đối với họ, nhưng qua việc thực hành h́nh thức nên dần dần t́m đường đi vào tinh thần bên trong sao cho cuối cùng th́ h́nh thức sẽ bị bỏ đi v́ công việc nó đă xong rồi. Bạn hăy nh́n xung quanh ḿnh nào là con người, nào là thú vật, nào là cây cối, nào là hoa quả, nào là biển cả với đủ dạng thức, nào là những tảng đá cao ṿi vọi. Tinh thần Thượng Đế quả thật thấm nhuần tất cả, nhưng chính h́nh tướng mới khiến cho bạn mưu t́m chủ nhân ông bên trong nên chẳng lấy ǵ làm lạ khi hiện nay th́ h́nh tướng cũng đủ rồi. Bạn biết rằng Thượng Đế ở bên trong h́nh tướng, nhưng Thượng Đế và h́nh tướng lại hiệp nhất với nhau đến nỗi bạn bám lấy h́nh tướng th́ bạn có thể sờ thấy, cảm thấy, và bạn coi Thượng Đế là hiển nhiên. Đối với các nghi thức tôn giáo th́ cũng vậy, chúng hấp dẫn các giác quan và ta coi ư nghĩa nội tại của chúng là hiển nhiên đến nỗi theo thời gian th́ ta hoàn toàn bỏ qua chúng, thậm chí có lẽ nh́n bề ngoài cũng chẳng thấy. Tuy nhiên sớm muộn ǵ th́ ta cũng không c̣n có thể coi Thượng Đế là hiển nhiên nữa, và đă đến lúc bắt đầu học bài học theo đó h́nh tướng chỉ là những đốm lửa tạm thời mà Thượng Đế phóng ra để khiến người ta chú ư tới bản chất của Ngài. Bạn hăy đùa giỡn với những đốm lửa và học cách yêu thương chúng – tất nhiên là như vậy v́ ngay cả các đốm lửa cũng chập chờn và biến mất; các đốm lửa mới sẽ túa ra, các h́nh tướng mới sẽ thế chỗ cho h́nh tướng cũ; và trong khi tuyệt vọng bám lấy những h́nh tướng tất yếu phải chết đi th́ bạn lại nảy sinh ra ư muốn một điều ǵ đó trường tồn đằng sau mọi sự biểu lộ vô thường. Lúc bấy giờ bạn bắt đầu hiểu ra được tín đồ Ấn giáo, Phật giáo, Ki Tô giáo, Hồi giáo đều sống bên trong phần chân lư của riêng ḿnh. Họ giống như những người sống trong các căn pḥng khác nhau bên trong cùng một căn nhà. Một số người hảnh diện về pḥng của riêng ḿnh và không biết rằng có những pḥng khác cũng đẹp như pḥng của ḿnh. Khi thấy người ta ở những pḥng khác, họ bèn bảo người ta rằng: “Hăy vào pḥng tôi. Pḥng tôi đẹp hơn pḥng các bạn nhiều. Pḥng của bạn trống không và thiếu đồ đạc. Hăy xem pḥng tôi dễ sống hơn nhiều !”. Và người ta trả lời y: “Pḥng tôi thích hợp với tôi. Tôi đă quen với nó rồi. Đồ đạc trong đó hữu ích nhất cho công việc mà tôi phải làm. Nó có những tiện ích mà pḥng bạn lại thiếu, cũng như pḥng bạn có những tiện ích dành cho bạn mà pḥng của tôi lại thiếu”. Chúng ta đều sống trong cùng một căn nhà. Chừng nào chúng ta chưa di chuyển đi từ pḥng này sang pḥng khác mà không phải phê phán và kính cẩn đánh giá cao những sự sắp xếp trong pḥng người khác th́ mỗi người tốt hơn là nên ở trong pḥng của riêng ḿnh. Nhưng sẽ đến lúc khi chỉ sống trong một pḥng thôi không c̣n dễ chịu nữa và kẻ thật sự ở trong nhà phải là kẻ thấy ḿnh thoải mái và được đánh giá cao khi ở trong mọi pḥng mà làm vui ḷng những người đă ở sẵn trong pḥng đó, mặc dù chắc chắn là y thích căn pḥng đặc biệt của riêng y.

 

CÁC GIỐNG DÂN LÀ CÁC LỚP HỌC TRONG TRƯỜNG HỌC CỦA ThưỢng ĐẾ

Cũng giống như vậy, một người nam nữ thuộc về giống dân nào th́ không quan trọng “cho dù là y là người Ấn Độ hay người Anh, người Trung Hoa hay người Nga”. Mỗi giống dân đều có việc phải làm cũng như mỗi tôn giáo của ḿnh và những người hiểu biết chẳng những không có thành kiến về chủng tộc mà c̣n đánh giá cao đức tính của mọi giống dân, c̣n biết ơn khi giúp đỡ ở bất cứ xứ sở nào mà việc phụng sự Chơn sư kêu gọi họ tới. V́ tôn trọng tập quán và đức tin của những người mà họ nhất thời làm việc trong đó, cho nên họ t́m ra được mục đích tồn tại của giống dân này và phấn đấu xúc tiến mục đích cho đạt mức tối đa. Mỗi giống dân đều có nốt nhạc của riêng ḿnh để trổi lên trong bản hài âm vũ trụ, cũng như đều có mỗi tôn giáo của riêng ḿnh và nếu chúng ta không ưa một tôn giáo hoặc một giống dân th́ có lẽ là một ngày kia chúng ta sẽ phải sinh ra trong hàng ngũ của họ để khắc phục được sự vô minh của ta về vai tṛ mà họ thủ diễn trong sự tăng trưởng của tất cả chúng ta.

Lúc bấy giờ chúng ta sẽ đạt được đủ thứ nguyên tắc tổng quát vốn là nền tảng của một vài loại phân biện: phân biện “giữa điều đúng và điều sai, điều quan trọng và điều không quan trọng, điều hữu ích và điều vô ích, điều đúng thật và điều giả dối, điều ích kỷ và điều không ích kỷ”.

 

CHƠN SƯ VÀ CHÚNG TA

Chơn sư dạy rằng: “không khó khăn ǵ để chọn lựa giữa điều đúng và điều sai, v́ kẻ nào muốn theo Chơn sư th́ đă phải quyết định chọn điều đúng bằng bất cứ giá nào”. Đây là một sự thật lớn được nêu ra theo một cách thức khá kỳ lạ. Có lẽ bạn thắc mắc liệu Ngài có nói về chính ḿnh không. Cá nhân tôi tưởng tượng rằng Ngài nói về những Đấng c̣n cao cả hơn Ngài nữa, Alcyone chuyển dịch tư tưởng của Chơn sư về thượng cấp của Ngài thành ra để diễn tả mối quan hệ của chính ông với Chơn sư. Điều này không quan trọng, nhưng ta học được sự thật rất có ư nghĩa, theo đó cá nhân nào muốn được Chơn sư Minh triết dẫn dắt th́ phải quyết định quan trọng tách rời ḿnh ra khỏi những kẻ không hiểu biết. Sự thật quả thực là mục tiêu tối hậu của chúng ta, nhưng sớm muộn ǵ chúng ta cũng tất yếu phải hợp nhất với những Đấng gần mục tiêu hơn chính chúng ta. Bạn ắt thấy có những người ở đủ mọi giai đoạn trung gian, và bạn nên nhớ một số những giai đoạn này là ǵ. Chẵng hạn như một số người tận tụy với những lư tưởng trừu tượng và nhất thời không cảm thấy cần được Chơn sư dẫn dắt. Những người khác dấn thân vào việc hi sinh hết ḿnh nhưng trong các hạ thể th́ họ lại không biết Chơn sư tồn tại, thậm chí có lẽ c̣n chối bỏ sự tồn tại của Chơn sư nữa. Một số người lại muốn theo một Chơn sư nhưng chẳng biết phải theo ai. Nên nhớ rằng cho dù thái độ của bất cứ ai có ra sao đi nữa đối với chính Chơn sư th́ Ngài cũng biết mỗi một và mọi người trong chúng ta, Ngài dẫn dắt chúng ta tiến về số phận của ḿnh theo con đường mà chúng ta đă quyết định bước trên đó. Làm sao có thể khác hơn được ? Trong gia đ́nh nào xứng đáng với tên gọi này mà bậc cha mẹ, anh chị lớn lại không yêu thương che chở và d́u dắt đàn con em thơ dại ? T́nh thương càng thuần khiết th́ sự d́u dắt càng hoàn hảo và trong gia đ́nh thế gian th́ những Người Hoàn Hảo (các bậc Huynh trưởng) ắt là dẫn dắt hoàn hảo. Người ta có thể muốn bác bỏ sự giúp đỡ hoặc nổi loạn chống lại sự can thiệp xét theo biểu kiến; nhưng họ không thể tránh được sự quan tâm của Chơn sư cũng như họ không thể thoát được sự đơn nhất ràng buộc chúng ta lại làm một; trong khi đó Chơn sư thừa biết rằng không ai có thể trở nên hoàn hảo nếu y không được hoàn toàn tự do. Nhưng chính t́nh huynh đệ của trọn cả loài người đă khiến cho các Ngài hiệp nhất với chúng ta, và sự dẫn dắt của các Ngài là biểu tượng bên ngoài của sự đơn nhất mà chúng ta được chia xẻ. Nếu sự đơn nhất là việc hạn chế tự do th́ quả thật chúng ta không được tự do; nhưng sự đơn nhất mang lại cho chúng ta khả năng tự do và là bằng chứng sống động về thiên tính của chúng ta.

Mỗi cá nhân đều nhất thời thỏa măn với những lư tưởng của ḿnh và người ta ắt thường bảo bạn rằng ư niệm làm học tṛ của một Chơn sư không giúp đỡ ǵ cho họ, và tính khí của họ loại trừ ư tưởng lệ thuộc hoặc trông cậy vào bất kỳ ai nếu đó không phải là Thượng Đế nội tâm của ḿnh. Nếu họ đang hài ḷng th́ bạn chẳng việc ǵ mà thử làm họ phiền nhiễu. Họ đang học bài học mà giai đoạn này phải dạy dỗ và khi họ đă thực sự t́m ra Thượng Đế nội tâm th́ họ sẽ thức tỉnh với sự thật là họ không thể tách ḿnh ra khỏi những bộ phận khác của một tổng thể lớn hơn. Lúc bấy giờ họ sẽ biết rằng các Chơn sư là các bậc Huynh trưởng và ắt hiểu ra được rằng cũng như bản thân họ phải có nghĩa vụ dẫn dắt những người vô minh hơn ḿnh; cũng vậy các Chơn sư giúp đỡ họ do minh triết lớn hơn bao giờ cũng có nghĩa vụ giúp minh triết nhỏ hơn.  Thượng Đế nội tâm có ư thức về sự dẫn dắt này và nhất thời th́ việc phàm ngă vẫn không có ư thức hoặc chối bỏ không có ǵ là quan trọng. Đứa trẻ sơ sinh ngủ an toàn trong ṿng tay người mẹ; người thanh niên khi lớn lên có ngă thức t́m các đo lường quyền năng của ḿnh bằng cách tỏ ra độc lập; người trưởng thành khi đă biết hết quyền năng và những hạn chế của ḿnh bắt đầu đánh giá cao sự âu yếm ấp ủ của người mẹ, và có lẽ giờ đây tôn kính bà hơn bao giờ hết. Khi nh́n ngoái lại cuộc đời ḿnh y thấy được vai tṛ của bà thủ diễn nhằm dẫn dắt y qua những rắc rối của cuộc đời, và y nhận thấy rằng sớm muộn ǵ th́ xét theo biểu kiến y cũng có tự do lớn nhất do bà chăm chú theo dơi và săn sóc ḿnh, tuy rằng tích cực nhưng không ai nhận ra và chú ư tới. C̣n về phần người mẹ chưa được hoàn hảo th́ Chơn sư lại hoàn hảo rồi, và tất cả chúng ta đều phải trải qua giai đoạn từ sơ sinh tới trưởng thành. Giống như những đứa trẻ con, chúng ta phải học cách nghĩ rằng chúng ta độc lập, nhưng bước đi hạnh phúc nhất thực ra là khi chúng ta có thể nh́n đăm đăm vào các bậc Huynh trưởng thân thương trước mắt ta cùng với những người bạn ở bên cạnh ta, và những người trẻ hơn ít hiểu biết hơn chúng ta đang bước vào những chỗ mà chúng ta đă bước chân qua rồi.

 

THỂ XÁC VÀ CON NGƯỜI LÀ HAI THỨ KHÁC NHAU

Bây giờ chúng ta xét tới câu tổng kết minh bạch của Chơn sư về cuộc xung đột mà tất cả chúng ta phải trải qua đó. “Thể xác và con người là hai thứ và con người không luôn luôn muốn điều mà thể xác mơ ước”. Nên nhớ rằng “những kẻ muốn theo Chơn sư th́ phải quyết tâm chọn điều đúng bằng bất cứ giá nào”. Bằng bất cứ giá nào. Nhưng quyết định này phải được thực hiện bởi phần cao siêu nhất nơi chúng ta, và trong khi các hạ thể phải chịu ảnh hưởng của quyết định đó th́ đâu phải lúc nào chúng cũng muốn thi hành nó trong phạm vi của riêng ḿnh. V́ vậy “bằng bất cứ giá nào” có nghĩa là bất cứ giá nào đối với các hạ thể mà phần cao siêu nhất nơi chúng ta đă đạt được việc kiểm soát vật chất thuộc đủ mọi mật độ. Điều cao nhất nơi chúng ta không thể không quyết định. Quyết định này thuộc về bản thể của nó, nhưng người ta phải trải qua biết bao nhiêu thời đại trước khi ta có thể dạy dỗ các hạ thể để đáp ứng với ước vọng của Chơn sư, cũng như phải mất một thời gian dài mới rèn luyện được con thú được hoàn hảo. Vậy là quyết định chỉ mới bắt đầu hữu hiệu sau khi trải qua biết bao nhiêu thời đại tiến hóa chậm chạp th́ Thượng Đế đang h́nh thành bên trong chúng ta cuối cùng bắt đầu nhận được một sự đáp ứng hữu thức từ bản chất thấp hèn. Tuy nhiên trong một thời gian dài sự đáp ứng này phải có bản chất gián đoạn v́ hai cực c̣n chưa được điều chỉnh với nhau để tạo ra một tia lửa thường xuyên. Vậy là Chơn sư giải thích cho chúng ta đủ kiểu mà các hạ thể không chịu đáp ứng như lẽ ra chúng phải vậy. Ngài cảnh báo chúng ta rằng: “Khi thể xác con muốn một điều ǵ đó, hăy dừng lại và suy nghĩ xem liệu con có thực sự muốn điều đó chăng. V́ con là Thượng Đế cho nên con chỉ muốn điều mà Thượng Đế muốn; nhưng con phải đào sâu vào bên trong chính ḿnh th́ mới t́m được Thượng Đế nội tâm, và hăy lắng nghe tiếng nói của Ngài, đó chính là tiếng nói của con vậy”. Khi giải thích điều này, Ngài nhắc chúng ta nhớ rằng chúng ta không được nhầm lẫn các hạ thể với chơn ngă – “cả thể xác, thể vía và thể trí đều không phải là chơn ngă”. “Mỗi một thể đều giả vờ là Chơn ngă để có được điều mà ḿnh muốn. Nhưng con phải biết chúng hết và biết ḿnh là chủ của chúng”.

Khó khăn là ở chỗ phải biết ngay lúc đó. Sau một thời gian nào đó, chúng ta có thể nh́n lại đủ kiểu mà các hạ thể giả vờ làm Chơn ngă, và chúng ta tự nhủ: “Sao tôi lại ngu thế không biết” hoặc “Chuyện không có ǵ mà tôi cũng ầm ĩ” hoặc “Vào lúc đó tôi chẳng c̣n nghĩ được điều ǵ khác hơn”. Nhưng tại sao những hạ thể này lại giả vờ làm Chơn ngă ? Bởi v́ quyền lợi của chúng là phải làm cho ta tiến hóa càng chậm càng tốt. Nơi chúng sự sống và h́nh tướng dường như ràng buộc với nhau đến nỗi mà nếu h́nh tướng diệt vong th́ sự sống có vẻ chẳng c̣n giá trị ǵ, thậm chí chẳng c̣n tồn tại được nữa. H́nh tướng là thế giới của chúng – thế giới của thể xác, thể vía và thể trí – và bất kỳ quá tŕnh nào có khuynh hướng tiêu diệt h́nh tướng đều là sự công kích vào thế giới tồn tại của chúng. Bạn hăy nghĩ xem biết bao nhiêu người vẫn c̣n tin rằng chết là hết. Liệu Thượng Đế nội tâm có nghĩ như thế chăng ? Thượng Đế nội tâm biết rằng ḿnh vốn vĩnh hằng, thế nhưng các hạ thể dưới đây lại “giả vờ” rằng sự diệt vong của hiện thể có nghĩa là sự sống bị diệt vong. Điều này không đúng, nhưng khi c̣n ở trong các hạ thể th́ con người chẳng thể biết được điều ǵ khá hơn. V́ vậy các hạ thể mới nôn nóng muốn tự bảo tồn ḿnh càng lâu càng tốt và tưởng tượng rằng sự bảo tồn ḿnh tùy thuộc vào sự tự tư tự lợi hơn là sự xả thân.

Hầu hết mọi sự cạnh tranh trong đời sống hiện nay, nhiều chuyện mạnh hiếp yếu, giàu hiếp nghèo, con người hiếp thú vật, đều bắt nguồn nơi việc các hạ thể của chúng ta rất thành công trong việc giả vờ làm Chơn ngă. Quả thật, tất cả chúng ta đều ít nhiều sống dưới bóng dáng của sự giả vờ này, v́ nhiều điều xa xỉ trong nền văn minh của thế kỷ 20 là do ḷng ích kỷ tất yếu của phàm ngă chúng ta. Chẳng hạn như người giải phẩu thú vật c̣n sống quả quyết rằng chúng ta có lư do chính đáng khi thí nghiệm với những con vật để cho chúng ta có thêm khả năng chống lại bệnh tật và như vậy kéo dài được mạng sống của các hạ thể. Tôi không kết án người giải phẩu thú vật c̣n sống, y chỉ phát biểu theo sự giả vờ của phàm ngă; và tất cả chúng ta đều là nạn nhân của sự quỉ quyệt của nó theo một cách nào đó. Lại nữa, chúng ta tự coi ḿnh là có quyền giết súc vật để có thực phẩm; và hầu hết chúng ta chẳng ngần ngại ǵ ăn thịt, ngay cả khi giả sử rằng cho đến lúc đó chúng ta vẫn ăn chay nếu bác sĩ quả quyết với chúng ta rằng chúng ta phải chọn giữa việc ăn thịt hoặc là chết. Nhưng bây giờ tôi xin tiết lộ cho bạn biết thái độ của một người không c̣n tuân phục cái cạm bẫy đó nữa. Bà Besant thường bảo tôi rằng bà chẳng thà chịu chết c̣n hơn ăn thịt, một phần v́ đây là vấn đề nguyên tắc và một phần là v́ việc tiếp nhận những phần tử thịt thô trược ắt cản trở một công việc đặc biệt nào đó của bà. Lời tuyên bố đó không phải là sự bộc phát anh hùng mà chỉ là phát biểu theo đó trong khi ta phải chăm sóc thể xác đúng mức th́ nó chẳng hi vọng ǵ sẽ được chiều ư theo đủ kiểu. Nếu nó bảo rằng: “Bạn mà không cho tôi thịt th́ tôi sẽ chết”; th́ bạn ắt phải trả lời rằng: “Bạn ơi, bạn đâu phải là niềm hi vọng duy nhất của tôi. Tôi có thể có được một thể xác khác, và mặc dù tôi có bổn phận phải giữ cho bạn sống càng lâu càng tốt, nhưng tôi không thể bảo tồn bạn mà gây thiệt hại cho công việc của tôi đă quyết tâm làm. V́ vậy bạn phải ra đi”. Liệu có bất kỳ cá nhân đặc biệt nào có bổn phận giữ giới luật cho các hạ thể như bà Besant hay chăng, liệu chúng ta có phải nhượng bộ chúng trong bất kỳ hoàn cảnh nào hay chăng th́ tôi cũng chẳng dám nói. Mỗi người phải xét nhiệm vụ của riêng ḿnh. Chúng ta hăy để cho thể xác có được những sự sung sướng và sự giải trí cũng như phải để cho nó có kỷ luật và được luyện tập, nhưng phải biết rằng nó không được t́m cách lôi kéo chủ ra khỏi điều vốn nối liền y với Thượng Đế, tức là những nguyên tắc sống của y. Bạn phải biết các hạ thể của ḿnh “và biết ḿnh là chủ của chúng”.

 

CÁC ĐỐI TƯỢNG CỦA GIÁC QUAN

Tôi nghĩ rằng ḿnh phải nhấn mạnh tới sự thật người ta không bảo chúng ta né tránh những sự thật của giác quan – mọi thứ tạo nên các cơi hồng trần, trung giới và thượng giới của ta. Sở dĩ những sự vật đẹp đẽ và ham muốn chúng chịu ảnh hưởng của một xúc động phấn khởi và mưu t́m xúc động đó, thích thú với những sự vật của trí năng và phấn đấu đạt được sự hiểu biết – mọi thứ này chẳng những hữu dụng mà c̣n cốt yếu cho sự tăng trưởng của chúng ta. Trong ba hạ giới, chúng ta phải trở nên quen thuộc với các đối tượng của giác quan, nhưng chúng ta không được đồng nhất hóa ḿnh với chúng nếu chúng ta muốn có đủ tư cách được nhận vào đạo tràng của Chơn sư. Những người ở mức độ tiến hóa nào đó đồng nhất hóa ḿnh với thế giới mà ḿnh sống trong đó, là nô lệ của nó; bằng không th́ họ ắt chẳng thể sẵn sàng cho giai đoạn tiếp theo là làm chủ được nó. Nếu họ không trải nghiệm sự câu thúc của nó th́ họ không thể đồng cảm một cách hữu ích với những người vẫn c̣n là nạn nhân cho sự giả vờ của các hạ thể. Nhưng bạn và tôi phải hi vọng rằng ḿnh đă trải qua giai đoạn trước, mặc dù những người c̣n trẻ chắc chắn là sẽ ôn lại giai đoạn này một khi ở trong các cơ thể mới họ lại một lần nữa làm quen với một thế giới đầy những đối tượng của giác quan từ khi họ đến ở thế giới đó vào lần trước kia. Chúng ta phải biết rằng những đối tượng của giác quan là ǵ, các tư tưởng và xúc cảm lần lượt lấp đầy các cơi thượng giới, trung giới và hạ giới với những đối tượng như thế. Đây là căn bản thực sự có liên quan tới “sự giả vờ” của đủ thứ hạ thể. Chơn ngă quả thực ở trong mỗi một các hạ thể này và cho đến nay mỗi hạ thể đều có quyền rêu rao rằng nó được một phần của Chơn ngă làm cho linh hoạt. Về phương diện này th́ chúng ta phải mưu t́m các đối tượng của giác quan nơi mỗi hạ thể v́ sự tăng trưởng của chúng ta chính là ở nơi sự mưu t́m đó. Tiếc thay, các hạ thể tự đánh giá ḿnh quá cao, tưởng tượng rằng ḿnh rất cần thiết, không biết rằng luật luân hồi sẽ tức khắc xua tan sự giả vờ đó cho nên mới rêu rao rằng ḿnh là Chơn ngă. “Tôi giận dữ”, “Tôi ghen tuông”, “Tôi tin điều này”, “Tôi không tin điều kia”, “Tôi thích những sự giải trí như thế”, “Tôi thưởng thức thực phẩm hoặc các loại thức ăn đặc biệt” – đây là một trong nhiều phát biểu mà các hạ thể của chúng ta cứ lải nhải suốt ngày này sang ngày khác. Chơn ngă không bao giờ giận dữ; Chơn ngă không bao giờ ghen tuông; Chơn ngă hiểu biết; Chơn ngă dung thứ cho mọi sự giải trí nhưng ta khó ḷng bảo rằng Chơn ngă thích giải trí; Chơn ngă coi thực phẩm là phương tiện để bảo tồn thể xác chừng nào cơ thể c̣n cần thực phẩm; Chơn ngă chỉ quan tâm tới sự tinh khiết của thực phẩm chứ không màng tới việc nó có thể kích thích thể vía. Bạn cứ dùng những cụm từ qui ước này nếu bạn muốn, nhưng xin hăy hiểu cho rằng lúc nào bạn cũng có thể phân biệt Chơn ngă với các hạ thể của ḿnh. Ít nhất th́ bạn cũng phải biết trên lư thuyết rằng Chơn ngă không bị các đối tượng giác quan khống chế, th́ bạn mới bắt đầu làm chủ thực sự được chúng. Ít ra th́ bạn cũng phải biết trên lư thuyết rằng Chơn ngă không bao giờ giận dữ th́ bạn mới bắt đầu đặt nền móng cho một sự b́nh thản mà không điều ǵ làm xáo trộn được.

Bắt đầu như thế nào ? “Khi cơ thể con muốn một điều ǵ đó, con hăy dừng lại và suy nghĩ liệu con có thực sự muốn như vậy chăng”. Đây là một nhiệm vụ rất khó v́ chúng ta phải dừng lại liên tục và suy nghĩ suốt ngày. Nhưng vào ngày bà Besant lần đầu tiên khởi sự loạt bài nói chuyện về quyển Dưới Chơn Thầy đúng ngày 27 tháng 11 năm 1910, bà có bảo thính giả rằng cho dù nhiệm vụ này khó chịu đến đâu đi nữa th́ chúng ta cũng phải đương đầu với nó. Bà bảo rằng đó là một phần của sự chuẩn bị, và chỉ kẻ nào thành tựu khi không thấy mỏi mệt lúc cố gắng. Nó nghĩa là không được nói vội vă, không hành động vội vă, thậm chí không suy nghĩ vội vă: tất cả đều phải được kiểm soát. Các bạn trẻ ơi, đừng cảm thấy hăi hùng với viễn ảnh này. Để có được đặc quyền bao la thu nhận vào đạo tràng của Chơn sư, chúng ta phải mong rằng ḿnh sẽ làm việc khó nhọc và chỉ cần cố gắng th́ ta sẽ thành công. Bằng cách chỉ dừng lại một lời nói vội vă, tư tưởng hoặc hành động vội vă trong tuần này th́ bạn đă gần gũi với Chơn sư hơn những kẻ bằng ḷng tự nhủ rằng: “Ước ǵ tôi có thể làm được điều đó, nhưng tôi không thể làm được, v́ vậy thật là vô ích khi thử cố gắng”. Chơn sư thừa nhận nỗ lực, Ngài biết chúng ta quá nhiều nên mới trông mong có sự thành công.

 

TỪ NGỮ “GIẢ VỜ”

Từ ngữ “giả vờ” mà Chơn sư dùng trong cụm từ “mỗi thể [thể xác, thể vía hoặc thể trí] đều giả vờ là Chơn ngă”, dường như gợi ư là các hạ thể lừa gạt, có một điều ǵ đó có bản chất lén lút mà chúng ta phải cảnh giác. Tôi nghĩ rằng từ này được cố t́nh dùng để nhấn mạnh tới sự thật là người ta trông mong đệ tử nhận được giáo huấn hăy sống với Chơn ngă hơn là để cho ḿnh chịu sự khống chế của các hạ thể. Các ham muốn của thể xác, thể vía và thể trí phải được gán cho là không có thực đối với kẻ nào đang học cách sống từ bên trên, và đối với y các hạ thể chẳng qua chỉ là một công cụ để phục vụ cho một tâm thức cao siêu hơn đă thức tỉnh. Alcyone trong nội giới ắt thừa biết cách phân biệt giữa các thực tại này và t́nh huống phù du của ngoại giới. Nhưng mỗi khi đi ra nhập vào vật chất thô trược hơn – từ cơi trí tuệ đến cơi hồng trần – th́ chơn ngă phải chịu một sự hạn chế sao cho quyền năng của nó sẽ yếu đi một cách tương ứng như thế. Hơn nữa, trong khi linh hồn của Alcyone đă già rồi th́ các hiện thể mới mẻ của nó vẫn c̣n trẻ trung và chưa được rèn luyện. Hai t́nh huống này, theo tôi nghĩ khiến phải dùng từ “giả vờ” sao cho nơi các hạ giới Alcyone có thể nhớ ra rằng cho dù đối tượng của chúng có thể tạm thời dường như có thực đến đâu đi nữa, cho dù các hạ thể vẫn c̣n non trẻ có thể khao khát những đối tượng đó đến đâu đi nữa th́ thực tại của chúng vẫn chỉ là một sự giả vờ so với thực tại trong thế giới của Chơn sư. Theo một quan điểm nào đó th́ không có sự giả vờ nơi điều mà Thượng Đế đă tạo ra. Chẳng có điều ǵ là vô giá trị trong cơ tiến hóa, và ngay cả thứ phù du nhất trong số những đối tượng của giác quan cũng có vai tṛ phải thủ diễn để giúp cho chúng ta tăng trưởng. Vào mỗi giai đoạn tăng trưởng của chúng ta, các đối tượng của giác quan bao xung quanh chúng ta, và tùy theo tŕnh độ, chúng ta không biết tới một số này, bác bỏ một số khác, khao khát những thứ này và ghê tởm những thứ kia. Chúng ta tăng trưởng bằng cách trải nghiệm các đối tượng của giác quan, vậy là chúng ta học cách đạt tới những thực tại mà chúng chỉ là những h́nh bóng ở thế giới này của chúng ta. Như tôi có nói, nếu chúng ta chưa biết tới các thực tại th́ các h́nh bóng của thực tại cũng đủ rồi. Và việc h́nh bóng giả vờ làm thực tại đâu có ǵ là vô lư, v́ xét cho cùng th́ nó là h́nh bóng của một thực tại và sự tồn tại của nó tùy thuộc vào thực tại mà nó đại diện. Nhưng ít ra là đối với hầu hết các đối tượng của giác quan nơi hạ giới, th́ bạn và tôi phải đạt tới các thực tại mà chúng chỉ là biểu diễn và chúng ta phải chấp nhận h́nh bóng chỉ là sự giả vờ của thực tại, là một sự tưởng tượng, v́ chúng ta đă biết chính thực tại rồi. Khi ở trong cơ thể, chúng ta phải giả vờ và để cho chúng ta có lập trường minh bạch th́ Chơn sư đă tách chúng ta ra khỏi các hạ thể và giải thích rằng chỉ khi chúng ta ở trong một hạ thể th́ chúng ta mới có thể tưởng tượng rằng bộ phận là trọn cả tổng thể.

 

CHƯƠNG VI

RÈN LUYỆN CƠ THỂ

Vài trang kế tiếp trong quyển Dưới Chơn Thầy có những lời b́nh luận về sự thật chính yếu: “Cơ thể là con thú của con, con ngựa mà con cưỡi trên đó”. Đây có thể là xác phàm hoặc thể vía, hoặc thể trí mà cái trí ở trong đó; tất cả đều là những con thú của bạn và chúng là một bầy đàn rất khó cưỡi. Chơn sư nêu rơ điều này trong những ví dụ thuộc đời sống thường nhật khi những con thú không chịu để cho người ta cưỡi và hất người cưỡi xuống. “Khi có công việc cần phải làm th́ thể xác lại muốn nghỉ ngơi, đi dạo mát, ăn và uống. Kẻ không hiểu biết ắt tự nhủ rằng: “Tôi muốn làm những thứ này và tôi phải làm”. Nhưng kẻ hiểu biết lại bảo rằng: “Nó muốn chứ tôi có muốn đâu, và nó phải chờ một chút”. Người cưỡi ngựa nói với con ngựa đặc biệt mà y đang sử dụng vào lúc đó hoặc với con ngựa đặc biệt lúc đó có khuynh hướng bất kham: “Mi không được ngăn cản ta làm điều tốt”. Thế mà bạn ắt thấy rằng nhiều người tuyệt hảo nghĩ rằng ḿnh có bổn phận phải lèo lái cơ thể của ḿnh đến mức tối đa. Những tu sĩ nam và nữ tự hành hạ ḿnh, được gọi là các nhà tu khổ hạnh ở Ấn Độ hi vọng sẽ đạt được giải thoát bằng cách bắt cơ thể làm điều mà người ta không dự tính nó phải làm – đây là những ví dụ của loại người như thế. Nhiều người trong xứ sở chúng ta nghĩ thật sai lầm khi làm đủ thứ hành động quả thực là vô hại sao cho thỏa măn được một cách bệnh hoạn, thiếu tự nhiên ư muốn hành hạ hoặc bỏ đói các hạ thể mà lẽ ra Chơn ngă có thể chói sáng qua đó rơ rệt hơn bởi v́ chúng bị gầy ốm đi và yếu đuối. Chơn ngă cần có vẻ đẹp chứ đâu thích sự xấu xa, cần có sự vui vẻ chứ đâu phải sự u buồn, cần có một công cụ hài ḷng và được nuôi nấng tử tế chứ đâu cần một cơ thể đói khát phải chịu phục tùng thay v́ phát triển trong sự hợp tác.

Chơn sư có dạy rằng: “Con phải đối xử tử tế với nó và chăm sóc nó kỹ lưỡng; con không được bắt nó làm việc quá sức, con phải nuôi dưỡng nó thích đáng chỉ bằng đồ ăn thức uống tinh khiết thôi, và phải giữ cho nó luôn luôn thật sạch sẽ thậm chí không dính một chút bụi nhỏ nào. Đó là v́ nếu không có một cơ thể hoàn toàn sạch sẽ và khỏe mạnh th́ con không thể làm công việc chuẩn bị nhọc nhằn. Con không thể chịu được sự căng thẳng liên miên”. Chúng ta vốn đang học cách thích ứng với việc được nhận vào đạo tràng của Chơn sư th́ lúc nào cũng phải nhớ những điều này. Ta nên nhận thấy rằng Chơn sư không hề lên án những thú vui lành mạnh và vô hại, dĩ nhiên miễn là chúng không làm hại đến bạn và cũng không làm hại cho những kẻ liên quan tới việc mua vui. Nhưng ta không được để cho các hạ thể sa đà vào những thú vui như thế mà gây thiệt hại cho việc làm điều tốt. Tôi nghĩ rằng những thú vui định kỳ - ngay cả những thứ không đặc biệt có tác dụng ích lợi – đều là những thú vui đơn thuần giúp cho các hạ thể của chúng ta thích ứng; nhưng chúng ta phải cẩn thận không được quên mục tiêu đặt ra trước mắt ḿnh, kẻo khi để cho các hạ thể của ḿnh sa đà quá trớn th́ một ngày kia chúng ta mới tỉnh ra rằng ḿnh đă trở thành nô lệ của chúng thay v́ là chủ của chúng. “Nhưng con phải luôn luôn kiểm soát cơ thể chứ không để cho nó kiểm soát con”.

 

NHỮNG THÚ VUI

Chơn sư dạy: “Con không được bắt nó làm việc quá sức”. Đối với những tính khí hoạt động th́ đây dường như là một huấn lệnh tương đối khó nghe. Chúng ta nghĩ rằng có những lúc đặc biệt căng thẳng mà thể xác không được xá miễn về bất kỳ phương diện nào. Có lẽ trong những trường hợp hiếm có th́ điều này có thể đúng, nhất là nếu bạn phải chọn lựa giữa việc xá miễn cho cơ thể và kiên định theo những nguyên tắc của ḿnh. Nhưng hầu hết chúng ta đều không đương đầu với một t́nh huống như thế và chúng ta có thể an toàn coi như hiển nhiên bất cứ khi nào chúng ta làm việc quá sức – do bất kỳ nguyên nhân nào – th́ chúng ta cũng gây thiệt hại cho chính ḿnh và cho những người khác nữa. Tập luyện quá sức, học hành quá sức, ăn quá đà, ngủ quá giấc đều khiến cho cơ thể không đạt được mức cần thiết để có sức khỏe hoàn toàn; mọi điều này đều bị cấm v́ chúng cản trở việc bạn phụng sự hữu ích cho Chơn sư. Nhất là khi bạn c̣n trẻ th́ cơ thể đang tràn đầy nhựa sống có khuynh hướng che giấu không cho bạn biết điều ác ư mà bạn có thể đang làm. Bạn thấy ḿnh vẫn thật khỏe khoắn ngay cả khi các bậc huynh trưởng bảo rằng cơ thể bạn đang căng thẳng quá sức, và chỉ măi về sau này khi cơ thể bắt buộc phải thú nhận rằng lúc đó nó không đủ sức đáp ứng với nhu cầu của bạn hướng về tương lai, th́ giờ đây nó chẳng c̣n bao nhiêu sức lực để tiếp tục sống c̣n. Không có ǵ quan trọng hơn là biết được những giới hạn của ḿnh v́ khi biết được chúng chẳng những chúng ta nhận ra được những điều căng thẳng ở đâu mà c̣n biết cách dùng sức mạnh để thay thế cho những chỗ yếu kém mà măi những năm về sau này có thể gây ra nhiều rắc rối cho chúng ta. Ngoài cái sự phi lư hiển nhiên là phải thi cử cạnh tranh để biểu thị giá trị thật sự, chúng ta hăy xem chúng gây ra sự ṃn mỏi cho cơ thể như thế nào nhất là cho bộ óc và nên nhớ rằng mặc dù có ít người chịu đựng nỗi sự kiệt quệ nguồn lực thể chất của ḿnh, nhưng hầu hết đều tham gia vào những sự cạnh tranh dứt khoát làm giảm thấp sinh lực của ḿnh nếu không phải là làm cho nó bị thiệt hại hoàn toàn. Nhiều đặc điểm của cuộc sống hiện nay là như thế, và bạn phải quyết định xem liệu bạn sẽ thích hợp với việc được thế gian đánh giá cao hay là được Chơn sư trân trọng.

Nên chú ư tôi viết là được “đánh giá cao” chứ không phải là “phục vụ”. Thế gian luôn luôn được phục vụ tốt nhất do những kẻ đă biến ḿnh thành những công cụ thích ứng với công việc của Chơn sư mặc dù thế gian có thể không biết tới họ, tốt hơn là nên để cho những nỗ lực của họ không được công nhận so với công tŕnh của hầu hết những kẻ được thế gian ưu đăi ăn trên ngồi trước. Nhưng tôi xin thoải mái công nhận rằng nên khuyến khích những người c̣n trẻ được những sự ủng hộ của những vị có ư kiến mang đầy trọng trách và dĩ nhiên là họ thấy trong thế giới có vô số những điều thỏa măn phù du. Thế nhưng sự hăo huyền của ngoại giới không bao giờ được phép làm cho chúng ta mù quáng đi trước sự thật là chỉ có sự trân trọng của Chơn sư th́ mới đáng giá trị. C̣n sự tán thành của thế gian thường khích lệ chúng ta đi theo những đường lối sai trái. Dù sao đi nữa chúng ta hăy vui hưởng cuộc sống miễn là không ai chịu đau khổ do sự vui hưởng của ta và bạn đừng để cho những sự vui hưởng của các hạ thể can thiệp vào những sự vui hưởng chân chính của chơn ngă (tạm dùng từ vui hưởng này). Các hạ thể cũng cần được vui hưởng như chơn ngă, nhưng hầu hết chúng ta sống quá nhiều nơi các hạ giới nên có nguy cơ là phàm ngă của ta trở nên độc ác với chơn ngă. Bạn thường sốt ruột với những người nói bạn không nên có cái loại vui sướng mà bạn đánh giá cao, nhưng đừng quên rằng chính bạn thường từ chối không cho chơn ngă những vui sướng mà nó vui hưởng – những vui sướng thuộc loại vô cùng lâu bền hơn những vui sướng mà phàm ngă đeo đuổi một cách tha thiết xiết bao. Hạnh phúc lớn nhất mà bạn có thể dành cho chơn ngă chính là khiến cho các hạ thể của ḿnh thích ứng với các nhu cầu của Chơn sư, nhưng chơn ngă đâu phải là không biết điều, nó cũng sẵn ḷng để cho các hạ thể được vui hưởng mà chỉ gợi ư rằng các vui sướng của phàm ngă và chơn ngă càng được hài ḥa và lâu bền bao nhiêu th́ cả hai bên hữu quan càng hạnh phúc bấy nhiêu. Về lâu về dài th́ mọi chuyện sẽ diễn tiến suôn sẻ nếu cả hai đều chạy theo cùng một hướng.

 

THỰC PHẨM DÀNH CHO CƠ THỂ

Chơn sư tiếp tục: “Con phải nuôi dưỡng nó thích đáng chỉ bằng đồ ăn thức uống tinh khiết thôi, và giữ cho nó luôn luôn sạch tinh thậm chí không dính một chút bụi nào”. Từ “thích đáng” có nghĩa là những thời khoảng cách đều nhau vào những lúc có thể mang lại sức khỏe tốt nhất với số lượng đúng mức và loại h́nh đúng đắn “chỉ đồ ăn thức uống tinh khiết thôi”.

Thế mà tôi không cung cấp cho bạn một bảng hoàn chỉnh gồm đủ thứ thực phẩm mà bạn nên ăn, bạn phải ăn ra sao và lúc nào. Bạn phải tự ḿnh t́m ra điều đó v́ mỗi cơ thể đều phản ứng khác nhau với những loại thực phẩm khác nhau. Nhưng tôi phải nhấn mạnh rất nhiều tới việc cần thiết ăn chay, không phải v́ ngẫu nhiên tôi là người ăn chay mà v́ gần cuối quyển sách Chơn sư có nói tới “sự mê tín độc ác là con người cần ăn thịt”. Chắc chắn là tất cả chúng ta đều chịu ảnh hưởng của một số loại mê tín, nhưng ít ra th́ chúng ta phải cố tránh những điều mê tín độc ác, và v́ ăn thịt là một điều mê tín độc ác – Chơn sư dạy như thế - cho nên chúng ta phải từ bỏ điều đó. Tôi muốn bạn xem xét vấn đề này theo quan điểm lư trí. Chúng ta gây đau đớn cho súc vật để tự cấp dưỡng ḿnh loại thực phẩm không cần thiết. Đây là phát biểu trắng trợn về sự thật này theo như Chơn sư thấy. Dĩ nhiên sẽ có vô số khó khăn cản đường ta thực hiện lời gợi ư của Chơn sư. Cơ thể bạn không chịu nỗi điều ăn chay. Cha mẹ bạn không đồng ư cho bạn ăn chay. “Liệu chúng ta có phải bỏ không dùng loại đồ vật làm bằng da kể cả giày ủng, ḥm rương đi xe lửa v.v. . . ? Liệu chúng ta có gây phiền hà cho bạn bè khi ăn hầu như chẳng được thứ ǵ lúc chúng ta dùng bữa ăn chay với bạn bè ?”

Bạn đừng nghĩ rằng những con thú của ḿnh trở nên khá bất kham khi bạn để cho chúng căi lư như thế ? V́ những điều khó khăn đó phải được suy nghĩ sau (nếu có) chứ không phải suy nghĩ trước. Nhiều người tha thiết muốn gặp Chơn sư, muốn được các Ngài giáo huấn, và ganh tị với những kẻ có đặc quyền ấy. Nhưng nên nhớ rằng một trong những điều kiện để được Chơn sư trực tiếp dẫn dắt là phải nhanh chóng chú ư tới điều mà Chơn sư dạy. Trong Lời nói đầu, Alcyone có nhận xét: “Bạn phải làm điều mà Ngài dạy. Phải chăm chú tới mọi lời, phải tiếp nhận mọi lời bóng gió”. Chơn sư bảo chúng ta hăy ăn chay. Liệu bạn có cố gắng ăn chay hay bạn làm cho các hạ thể đau khổ v́ phải nghe theo lệnh của chơn ngă ? Liệu bạn có bị lừa gạt bởi những “sự giả vờ” của các hạ thể lẽ ra phải tuân phục chúng ta ? Tôi không có ư gợi ra rằng thật dễ thay đổi ngay từ việc ăn thịt sang việc ăn chay, một phần v́ thể xác và thể vía th́nh ĺnh mất đi một đồ ăn đă kích thích chúng, làm tăng cường những khía cạnh thấp thỏi của chúng và một phần v́ thân bằng quyến thuộc không được may mắn như chúng ta ắt không hiểu được bất kỳ phương pháp nào mà xét theo biểu kiến đối với họ là điên rồ. Nhưng khi phụng sự Chơn sư, chúng ta cần khởi sự ngay tức khắc khi Ngài đưa ra một lời bóng gió và cố hết sức khắc phục những khó khăn xuất hiện. Nói cách khác, nếu chúng ta chưa thực sự đi đến những con sông cần phải vượt qua th́ chúng ta đừng nghĩ tới việc bắc cầu. Ở đây những người cẩn thận sẽ kêu ầm lên phản đối tôi: “Nhưng chắc chắn là chúng ta phải thấy chúng ta đang đi tới đâu trước khi chúng ta khởi hành. Có lẽ những khó khăn là không vượt qua được. Có lẽ chẳng hạn như thân bằng quyến thuộc sẽ không thể tha thứ cho việc chúng ta khởi sự đổi mới”. Tôi xin trả lời điều này như sau: “Một lời gợi ư của Chơn sư hàm ư một lộ tŕnh hành động khả thi. Ngài không gợi ư điều không thể làm được, Ngài cũng chẳng cần biết tới những hoàn cảnh cá biệt của tất cả chúng ta mặc dù bạn có thể thấy điều này thật khó tin. Nếu quyển Dưới Chơn Thầy lọt vào tay chúng ta th́ chúng ta có thể cho rằng Ngài biết điều đó. Như vậy, lời lẽ của Ngài trở thành một thông điệp cho chúng ta qua đứa em c̣n nhỏ tuổi là Alcyone. Chắc chắn là bạn sẽ thất bại. Nhiều lần tái diễn việc ăn thịt trừ phi bản chất của bạn đặc biệt kiên cường. Nhưng liệu bạn có nghiêm chỉnh cố gắng trước những thất bại và sẽ nghiêm chỉnh cố gắng trở lại sau khi thất bại chăng ? Đây mới là điều mà Chơn sư cần. Ở đây tôi xin lập lại và nhấn mạnh rằng Ngài trông chờ sự cố gắng và trông mong có được thành công chừng nào người ta chưa gặp nhiều thất bại và chưa nhiều lần cố gắng. “Thành La Mă đâu phải chỉ được xây dựng nội trong một ngày”.

Lúc mà bạn biết rằng Chơn sư kết án việc ăn thịt là điều mê tín độc ác và Ngài mong rằng cơ thể sẽ được nuôi nấng bằng đồ ăn thức uống tinh khiết, th́ bạn sẽ ngay tức khắc bắt đầu ngưng việc ăn thịt và bất kỳ dạng thực phẩm nào khác mà bạn nghĩ rằng được bao hàm trong lời kết án đó. Đừng nói huyên thuyên về việc liệu ta có coi việc ăn cá, ăn trứng hoặc ăn phó mát, sữa là ăn chay hay chăng ? Bạn hăy dùng sự phán đoán của ḿnh v́ Chơn sư là bậc đạo sư hoàn hảo nên chỉ nêu ra nguyên tắc và dành cho bạn việc áp dụng nó trong sinh hoạt hằng ngày. Cá nhân tôi rất ít kiên nhẫn với những người tự thôi miên ḿnh bằng chữ nghĩa đến nỗi không tuân thủ tinh thần của nó. Họ bảo tôi rằng nếu chúng ta muốn trước sau như một th́ chúng ta phải tránh dùng một loại thực phẩm nào đó. Tôi không tự cho ḿnh là hoàn toàn trước sau như một, nhưng tôi cố gắng đến mức tối đa. Và nếu khi cố gắng trước sau như một, tôi có phạm lỗi lầm bao hàm trong những món ăn kiêng của ḿnh, một món nào đó có lẽ nên phải loại ra, th́ tôi cảm thấy rằng ḿnh đă xúc phạm nhiều tới tinh thần của các nguyên tắc mà tôi hành động theo đó mặc dù chắc chắn tôi đă vi phạm theo nghĩa đen. Một ngày nào đó tôi sẽ làm mọi chuyện được hoàn hảo c̣n trong khi chờ đợi tôi chẳng rỗi hơi mà ngồi đó than thở bất hạnh v́ giờ đây tôi không được như mức mà sau này tôi có thể làm được. Nếu bạn chưa ăn chay trường được th́ hăy ăn chay kỳ đến mức tối đa chứ đừng đếm xỉa tới những kẻ chẳng làm ǵ cả v́ họ không thể làm mọi điều hoàn hảo.

 

CÁC NGUYÊN TẮC SỐNG

Tuy nhiên người ta mong đợi rằng bạn sẽ vận dụng việc khéo xử và kín miệng – đừng phô trương lộ liểu và cũng đừng giấu giếm những nguyên tắc của ḿnh. Hăy hành động một cách tự chế và âm thầm, và nhất là đừng tỏ ra khiêu khích và có mặc cảm tự tôn v́ nghĩ rằng ḿnh có một sự thật mà người khác chưa chia xẻ được. Thật vậy, bạn không có được sự thật đâu chừng nào tác dụng của nó đối với bản chất bạn c̣n chưa tạo ra một thông cảm và đồng cảm lớn lao hơn so với mức khi bạn chưa có sự thật đó. Mọi sự thật mà bạn biết thêm phải khiến cho bạn khoan dung và cảm kích nhiều hơn nữa v́ nhờ sự thật đó mà bạn tiến gần hơn tới việc hiểu biết tính đơn nhất khiến cho chúng ta đồng nhất với tất cả. Nếu kiến thức mang lại sự kiêu hảnh khiến cho bạn xa rời đồng loại của ḿnh th́ bạn chỉ có được khía cạnh trí thức của nó thôi. Bạn chưa có được cốt lơi tâm linh của nó. V́ vậy, khi bạn chấp nhận lời nói bóng gió của Chơn sư về việc ăn chay th́ tôi muốn bạn chứng tỏ bạn có được một sự thật mới; một là bằng cách biểu lộ thêm một chút nữa tinh thần thiện chí so với mức mà bạn có thể biểu lộ trước kia, hai là kiên định với sự thật mới của ḿnh một cách dịu dàng và không gây phiền hà. Tôi nghĩ rằng bạn không được nhượng bộ. Không một thân bằng quyến thuộc thông cảm nào mà lại yêu cầu bạn từ bỏ vấn đề có tính nguyên tắc nếu cách cư xử của bạn cho thấy rằng nguyên tắc đó có tác dụng làm cho bạn cao thượng hơn. Nhưng bạn đừng trông mong họ coi là nguyên tắc khi có một điều ǵ đó khiến cho bạn đỏng đảnh hơn và gây rắc rối hơn trước kia. Mặt khác nếu bạn không tôn trọng nguyên tắc th́ lộ tŕnh hành động của bạn ắt tùy thuộc vào bạn có được bao nhiêu sức mạnh. Ở Ấn Độ các bạn trẻ thường viết thư cho bà Besant xin bà khuyên răn về đủ thứ lộ tŕnh hành động gây ra sự mâu thuẫn với tập quán đă được xác lập và do đó gây rất nhiều khó khăn cho cá nhân hữu quan. Theo chỗ tôi nhớ th́ lập trường chung của bà là nếu người ta xin bà khuyên răn th́ điều này thường có nghĩa là người hỏi không đủ mạnh để tự ḿnh quyết định và tự ḿnh chịu trách nhiệm, y muốn đằng sau ḿnh có một người nào đó sẽ chia xẻ bất cứ khó khăn nào xảy ra. Cũng vậy, lời khuyên được đưa ra c̣n tùy thuộc vào khả năng cá nhân thực hiện nó, và thật là hoài công khi khuyên có những biện pháp anh hùng đối với một phàm ngă có nhă ư nhưng lại thụ động tiêu cực. Những người đưa ra lời khuyên trong một chừng mực nào đó phải dính mắc vào kết quả của những lời khuyên đó, và cho đến nay khi đă biết lư tưởng rồi th́ kế hoạch tốt nhất là ta càng tiến gần tới nó càng tốt mà chỉ tự ḿnh chịu trách nhiệm thôi. Bằng mọi cách ta phải học nơi các bậc trưởng thượng những nguyên tắc hành động đúng đắn – trong quyển Dưới Chơn Thầy bạn có hết những điều đó – nhưng hăy thực hiện chúng theo kiểu của riêng ḿnh tùy theo hoàn cảnh và khả năng, bao giờ cũng phấn đấu hành động một cách chân chính nhất, phối hợp sự tỉ mỉ rốt ráo với việc thể theo mong ước của những người khác về mọi vấn đề không có tầm quan trọng nguyên tắc.

Khi đọc điều này, các bạn trẻ thường phản đối rằng ḿnh khó ḷng có được bất kỳ nguyên tắc xác định nào và trong nhất thời họ ngần ngại không hành động theo những nguyên tắc ảnh hưởng đến ḿnh kẻo chúng khiến cho ḿnh trở nên một của nợ, chứ đừng nói là lố bịch v́ làm xáo trộn môi trường gia đ́nh với một bầu nhiệt huyết chỉ có thể kéo dài một thời gian rất ngắn. Tôi công nhận rằng đây là một điều khó khăn, nhưng tôi thấy dường như: một là mọi người phụ huynh biết điều đều sẵn ḷng để cho gia đ́nh bị xáo trộn do những nỗ lực của những bạn trẻ đang đi t́m căn bản đạo đức của ḿnh; hai là chẳng thà có một nguyên tắc tạm thời rồi lại đánh mất nguyên tắc đó c̣n hơn là chẳng có một nguyên tắc nào hết. Các bạn trẻ tất nhiên phải ṃ mẫm con đường của ḿnh. Chơn ngă phải mất một thời gian ổn định được trong môi trường mới; và dĩ nhiên là ta phải trông mong một chơn ngă có quyền năng sẽ húc đầu vào vô số thái độ tâm trí và xúc cảm, chạy lăn xăn hết nơi này đến nơi khác cho tới khi thu thập đủ kinh nghiệm để có thể chọn lựa một nhân sinh quan kéo dài được một thời gian. Chúng ta đang không ngừng tăng trưởng, và ngay cả những nguyên tắc được quí chuộng nhất của những người khôn ngoan nhất trong chúng ta cũng phải chịu sự thay đổi theo thời gian, thậm chí sớm muộn ǵ cũng phải bị băi bỏ hoàn toàn. V́ vậy nói cho cùng th́ đây là vấn đề tăng trưởng và ta không được quở trách tuổi trẻ nếu nó tăng trưởng một cách cà giựt và nhát gừng. Nhưng nếu bạn chân thực hết mức với nguyên tắc khống chế bạn th́ mặc dù người ta có thể cười nhạo bạn trong lúc bồng bột nhiệt thành, nhưng đến lúc về già bạn sẽ chẳng bao giờ lấy làm nuối tiếc v́ chúng bao giờ cũng có tác dụng tốt. Mặt khác, bạn hăy từng bước rèn luyện ḿnh để tiếp cận với nguyên tắc mới một cách thận trọng và gạt bỏ nó một cách miễn cưỡng v́ bạn phải đối xử với nó một cách kính cẩn, đó là vấn đề danh dự - bạn đừng chấp nhận nó nếu bạn không chắc mẫm rằng khi tuân theo nó th́ sẽ có lợi, bạn cũng đừng vứt bỏ nó mà không cảm thấy biết ơn về điều tốt mà nó mang lại cho ḿnh. Ít ra th́ bạn cũng nên thành thực bảo rằng cho dù một nguyên tắc có tác dụng khác khi tạm thời có một chỗ đứng trong tâm hồn bạn th́ nó cũng mang lại cho bạn khả năng thông cảm và đồng cảm với những người chịu ảnh hưởng mà bản thân bạn vượt qua từ lâu rồi.

 

HĂY CHÂN THẬT VỚI CHÍNH M̀NH

Tôi xin kết luận phần này trong đề tài của chúng ta bằng cách cảnh báo bạn đề pḥng những kẻ lập luận rằng v́ một thủ lănh không hoặc có ăn chay mà chúng ta phải theo gương thủ lănh đó. Có một lối lập luận thông thường là ăn thịt hoặc hút thuốc lá chẳng có ǵ nguy hại đặc biệt v́ chính nhà sáng lập vĩ đại Thông Thiên Học – bà H. P. Blavatsky – vừa ăn thịt lại vừa hút thuốc lá. Thế mà theo quan điểm ngược lại th́ nếu bà Besant và ông C. W. Leadbeater đều là những người trường chay và không hút thuốc lá th́ tốt hơn là chúng ta nên theo gương những vị đó chứ. Vậy th́ biết làm sao đây, theo H. P. Blavatsky hay theo Annie Besant ? Rơ ràng là chúng ta không thể theo cả hai !

Sự thật là chúng ta chẳng dính dáng ǵ tới những hoàn cảnh đặc biệt mà mọi vĩ nhân tất nhiên phải sống trong đó. Để là một vĩ nhân, một cá nhân phải có một tính khí đặc thù, và để là một huyền bí gia th́ ta cần phải có những điều kiện hoàn toàn nằm ngoài tầm hiểu biết của kẻ phàm phu. Sự vĩ đại luôn luôn nằm ngoài tầm phàm phu, và các qui tắc thích hợp với sự tầm thường th́ lại thường là những xiềng xích đối với bậc thiên tài. Lại nữa, có bao nhiêu chức năng th́ có bấy nhiêu loại vĩ đại, và thật là phi lư khi lập luận rằng bởi v́ một người nào đó mà chúng ta công nhận là vĩ nhân hành động theo một cách đặc biệt nào đó cho nên kẻ nào không cư xử giống như vậy th́ không phải là vĩ nhân. Hơn nữa, ta hoàn toàn có thể quan niệm được rằng công tŕnh của đệ tử trên thế gian cần thiết cho kế hoạch của Chơn sư đến nỗi Ngài phải chiều theo một chút biệt nghiệp của đệ tử để cho thể xác của đệ tử đỡ phải chịu sự căng thẳng mà việc phụng sự cần tới nếu nó không được làm thô trược đi bằng cách dùng thực phẩm động vật. Thật vậy, chúng ta có thể dùng lư trí tưởng tượng ra vô vàn hoàn cảnh trong đó những qui tắc hoàn toàn thích hợp với chúng ta ở tŕnh độ của ḿnh và có lẽ nói chung là thích hợp với mọi tŕnh độ mà những qui tắc đó lại phải bị từ bỏ v́ những lư do đặc biệt. Dứt khoát đây không phải là chuyện của chúng ta. Đây là vấn đề giữa Chơn sư và đệ tử, trong trường hợp bà Blavatsky hoặc bà Besant hoặc ông Leadbeater dường như chúng ta nên biết ơn họ v́ sự hay ho trong giáo huấn của họ hơn là ta xen vào những t́nh huống theo đó giáo huấn được ban ra. Đối với những kẻ muốn soi bói vào đời tư của những vị dạy dỗ chúng ta th́ tôi xin trả lời rằng nếu giáo huấn của những vị đó khiến tôi có được nhiều cảm hứng th́ tôi sẽ làm hết sức ḿnh để biến cảm hứng đó thành hành động chứ không phí phạm thời giờ quí báu để t́m biết xem liệu vị giảng dạy điều đó có sống hoàn toàn – nghĩa là theo ư niệm hoàn toàn của riêng tôi – theo những điều mà ḿnh giảng dạy không. Tôi có thể nói thêm rằng những người tầm thường như chúng ta sẽ phạm sai lầm lớn nếu chúng ta dám phán đoán những vị cao cả hơn ḿnh theo những tiêu chuẩn mà các ngài có lẽ đă vượt qua từ lâu rồi. Một trong những trở ngại lớn nhất cản đường kẻ phàm phu nam nữ nhận ra được Đức Chưởng Giáo khi Ngài giáng lâm, đó là việc họ trông mong rằng Ngài sẽ tự hạn chế ḿnh theo quan niệm của riêng họ về sự cao cả tâm linh. Mỗi giáo phái hẹp ḥi của Ki Tô giáo hoặc Ấn Độ giáo hoặc Phật giáo hoặc Hồi giáo hoặc Bái Hỏa giáo đều trông mong rằng Ngài sẽ đặc biệt bênh vực họ chống lại mọi giáo phái hẹp ḥi khác. Mọi kẻ có thiên kiên đều trông mong Ngài nhiệt thành đi theo thiên kiến đặc biệt mà sinh hoạt tâm linh của y vốn bắt nguồn từ đó. Ngài bắt buộc phải mặc quần áo như thế này, ăn thực phẩm như thế kia, rao giảng chân lư như thế đó và sinh hoạt theo một kiểu nào đấy. Ngài sẽ sinh hoạt tùy theo nhu cầu của thế gian chứ không phải theo yêu cầu của những cá nhân. Ngài giáng lâm để giúp cho toàn thể nhân loại sống một cuộc đời tốt đẹp hơn chứ không phải để xu nịnh ḷng ngă mạn tâm linh của một thiểu số người. Bạn và tôi đều biết rằng Ngài là Đức Chưởng Giáo của thế gian và thay v́ yêu cầu Ngài sinh hoạt theo một cách nào đó khi Ngài giáng lâm để cho chúng ta dễ dàng nhận ra được Ngài th́ tốt hơn là chúng ta nên tự yêu cầu ḿnh sống hiện nay sao cho chúng ta xứng đáng nhận ra được Ngài khi Ngài giáng lâm giữa nhân quần. Việc Đấng Cao Cả Nhất sinh hoạt và dạy dỗ như thế nào là chuyện Đấng Cao Cả phải quyết định, bằng không th́ chẳng hóa ra là chính chúng ta vĩ đại hơn Ngài cho nên tiêu chuẩn của chính chúng ta mới có thể chỉ đạo được Ngài. Điều liên quan tới chúng ta là việc chúng ta sẽ sinh hoạt và giảng dạy ra sao đây để cho Ngài có thể nhận ra chúng ta là những kẻ đang phụng sự Ngài. Thế gian chưa hề thành công rơ rệt với sự vụ của ḿnh th́ làm sao mà nó đủ tư cách để vạch đường chỉ lối cho chính Đức Chưởng Giáo cần phải cải cách và giảng dạy ra sao. Ngài giáng lâm v́ chúng ta cần Ngài trợ giúp và giờ đây điều mà thế gian cần nhất là phải phát triển đúng mức ḷng khiêm tốn để tiếp nhận được sự chỉ đạo có thể ngược hẳn lại mọi lư thuyết qui ước đang tồn tại hiện nay về cuộc sống. Ḷng Sùng tín, sự Kiên định, sự Dịu dàng – tất cả những thứ này thế gian đều cần hết, nhưng trong quá khứ sự ngă mạn đă là hàng rào nổi bật nhất ngăn cách bậc Đạo sư với thế hệ đương đại. Mong sao điều này sẽ không xảy ra trong thế kỷ thứ 20.

 

SỰ SẠCH SẼ

Chơn sư tiếp tục nhấn mạnh tới sự thật là “Nếu không có một cơ thể hoàn toàn sạch sẽ và khỏe mạnh th́ con không thể làm được công việc chuẩn bị khó nhọc, con không thể chịu đựng được sự căng thẳng không ngừng”. Không ai chưa trải qua giới luật chuẩn bị phụng sự Chơn sư một cách rốt ráo hơn lại có thể quan niệm được chút xíu nào về sự căng thẳng mà nó đ̣i hỏi. Mọi cá nhân dứt khoát hiến ḿnh cho Chơn sư sử dụng th́ chính qua hành vi đó y đă bắt đầu tinh chỉnh các hạ thể của ḿnh để đáp ứng với những rung động tinh vi thuộc thế giới của Chơn sư, đồng thời lại vô cùng nhạy cảm hơn với sinh hoạt của thế giới mà y đang sống trong đó. Chẳng những đệ tử phải nghe được “tiếng th́ thầm nhỏ nhất của Chơn sư át hẳn bài ca ầm ĩ nhất của trần thế” mà y c̣n phải tự động cảm nhận được sự khốn khổ, rắc rối và nhu cầu của những kẻ đang nhun nhúc trong cái thế giới mà y sống trong đó, y phải gửi đến cho họ sức mạnh của Chơn sư dưới dạng ḷng can đảm và ḷng từ bi. Điều này có nghĩa là cơ thể phải trong sạch, càng ít thô trược càng tốt, phải dần dần thay thế những vi hạt mà đại đa số loài người đang sử dụng bằng những vi hạt có thành phần cấu tạo tinh vi hơn. Đệ tử tiên tiến hơn thế hệ của ḿnh cho nên mức mà y đạt được hiện nay th́ sau nhiều năm nữa thế gian nói chung mới đạt đến được. Trong sinh hoạt hằng ngày y phải là hiện thân của một lư tưởng hoặc nguyên tắc sống mới: nói cách khác, y phải là một gương sống động đối với những kẻ xung quanh về cái tŕnh độ ngay trước mắt họ, cái tŕnh độ mà họ giờ đây đang trải qua.

 

SỰ CĂNG THẲNG KHÔNG NGỪNG

Quyển Dưới Chơn Thầy có tŕnh bày với chúng ta một mô h́nh để dựa vào đó xây dựng đủ thứ hạ thể của ḿnh, và chúng tôi ắt phải trông mong rằng những kẻ nào không nhận thức được sự thiết yếu của những nỗ lực mà chúng tôi đang thực hiện th́ những kẻ đó ắt cười nhạo chúng tôi, ắt coi chúng tôi là thuộc loại quậy phá chính sách ru ngủ trôi dật dờ theo ḍng sóng. Người ta thường bảo tôi rằng, những người cải cách thường kém xă giao đến nỗi sống chung với họ hầu như chỉ thiệt vào thân; chắc chắn là hầu như ta không thể coi những nhà cải cách là những kẻ phàm phu theo qui ước. Tôi hoàn toàn đồng ư và tôi chân thành đồng cảm với những kẻ vốn bằng ḷng với sự sống như nhiên thấy ḿnh bắt buộc phải giao thiệp với những người xung đột với những bộ luật theo qui ước mà việc tuân thủ những bộ luật đó khiến cho cuộc sống tiêu cực hơn và do đó dễ chịu hơn. Nhưng nếu bạn có ư nói như vậy th́ bạn bắt buộc phải chống lại đa số những lối sống đă được chấp nhận, và đây chính là vai tṛ của “sự căng thẳng triền miên” mà Chơn sư đề cập tới. Sức mạnh của thói quen, áp lực của công luận, khuynh hướng tự nhiên tương đối là ù ĺ, tất cả đều phối hợp với nhau để gh́ kéo bạn lại trong giới hạn hẹp ḥi của sinh hoạt theo qui ước. Nhưng thế th́ bạn đâu có làm tṛn được vai tṛ của bạn là một thủ lănh, một nhà tiên phong, một lực lượng tích cực theo chiều hướng mang lại một lối sống tốt đẹp hơn so với lối sống mà hiện nay chúng ta đang bằng ḷng tuân theo. Trong một chừng mực rất lớn, bạn phải sống ngoài ṿng “xă hội”. Bạn bắt buộc phải được chỉ đạo sinh hoạt theo những nguyên tắc chưa hấp dẫn được đa số mọi người, bạn không thể trông mong thiên hạ nói chung sẽ chấp nhận bạn theo mức mà bạn đang cố gắng phấn đấu.

Bạn luôn luôn phải đấu tranh với phàm ngă nơi bản thân cũng như đấu tranh với phàm ngă nơi ngoại giới. Bạn liên tục phải dựng nên một tiêu chuẩn sống cao đẹp hơn tiêu chuẩn mà thế gian tạm thời đang tuân theo, và bạn phải căng hết mọi dây thần kinh của ḿnh ra để tự ḿnh sống theo tiêu chuẩn đó; v́ chỉ khi bản thân bạn đă gần đạt được tiêu chuẩn đó th́ bạn mới đủ tư cách để biện hộ cho nó đối với những người xung quanh ḿnh. Thế gian bao giờ cũng gây sức ép lên bạn và những nỗ lực của bạn, c̣n về phần ḿnh bạn bao giờ cũng phải phấn đấu kéo thế gian theo sau ḿnh khi bạn tinh chỉnh các hạ thể của ḿnh để hợp tác một cách hài ḥa hơn với những thực tại mà chúng phải tinh chỉnh theo. Bạn vốn là một với thế gian và chính sự đơn nhất đó có khuynh hướng tŕ kéo bạn vào bên trong phạm vi sự tiến bộ tà tà của thế gian. Mặt khác, bạn lại đang phấn đấu biến sự đơn nhất này thành ra sống động hơn bằng cách tự ḿnh trở nên một gương mẫu mà thế gian có thể đạt được trong tương lai không xa, vậy là bạn kích thích cho toàn thể gia tăng sự bóng bẫy của ḿnh bằng cách hài ḥa hơn với sự sáng chói của một bộ phận.

Sự căng thẳng quả thật là “triền miên”. Ta không thể có một lúc nào lơ là mất cảnh giác. Có mọi sự cám dỗ từ hạ giới muốn ta từ bỏ việc phấn đấu để trở lại con đường thoải mái hơn nhiều là cam chịu được dẫn dắt. Có vô số hành động mà thế gian tán thành th́ bạn lại chối bỏ. Bạn phải thề bỏ nhiều thú vui mà thế gian sa đà vào đó, nếu bạn muốn ban ra cho thế gian điều mà nó cần hơn điều mà nó yêu sách. Khi tôi viết ra những ḍng chữ này, tôi có thể nghe thấy một số bạn đọc kêu ầm lên: “Vậy th́ tất cả những điều này có lợi ích ǵ ? H́nh như đây là một sự phấn đấu lẻ loi, một cuộc sống ảm đạm biết dường nào. Chẳng lẽ không được đền bồi ǵ sao ?” Khi mọi chuyện đều suôn sẻ và không có ǵ rắc rối th́ tôi công nhận rằng sự đền bồi dường như thể là không có. Khi cuộc sống trên thế gian đang thoải mái hoặc khi cuộc sống của cá nhân đang phè phỡn th́ dường như là phi lư nhất khi đi lệch ra khỏi đường lối của ḿnh để cứ duy tŕ một sự căng thẳng mà xét theo biểu kiến th́ đâu có ǵ cần phải như vậy. Nhưng cuộc đời có bao giờ thoải mái lâu dài và cuộc sống của hầu hết mọi người có bao giờ phè phỡn đâu; cho nên giá trị của người đệ tử khi rèn luyện mọi hạ thể của ḿnh cũng giống như giá trị của người lực sĩ chỉ rèn luyện thể xác không thôi, đó là chỗ y chẳng những có thể chịu đựng được sự rắc rối vốn đè bẹp một kẻ phàm phu mà y c̣n tích lũy được một kho dự trữ ḷng can đảm để hỗ trợ cho những kẻ đang gặp rắc rối có thêm sức mạnh đương đầu với những tai họa mà nếu không có nguồn dự trữ đó th́ họ có thể trở nên tuyệt vọng và bị nghiền nát.

Tuy nhiên nên nhớ rằng cho dù bạn với các bằng hữu có thể đang sống một cuộc đời phè phỡn và sung sướng đến đâu đi nữa th́ cũng có biết bao nhiêu người khác cận kề bạn đang phấn đấu với mọi đa đoan, thiếu thốn, ốm đau, buồn khổ. Nên nhớ rằng không một hạnh phúc cá nhân nào có thể kéo dài lâu được trừ phi y loại bỏ thế giới ra. Bạn là ai nếu bạn vui hưởng tiện nghi, sự xa hoa, sự chán chê những ham muốn trong khi những người khác ngay vào lúc bạn đang sung sướng tột cùng th́ lại oằn lưng gánh chịu điều dường như là tuyệt vọng về mọi mặt. Niềm vui được mang ra chia xẻ ắt kéo dài lâu tùy theo số người được chia xẻ, và đệ tử phấn đấu nhận biết hoàn cảnh có được niềm vui chân chính sao cho khi dẫn dắt người khác đạt sự hiểu biết, an b́nh và hạnh phúc th́ y mới có thể bắt đầu thấy niềm vui thường trụ thay v́ chỉ là niềm vui phù du bởi bị hạn chế vào một số ít người. Do đó, thực ra trong khi đệ tử phải chịu sự căng thẳng rất lớn th́ y cũng càng ngày càng có khuynh hướng đạt được sự an b́nh và hỉ lạc v́ kẻ muốn làm đệ tử bao giờ cũng dấn thân vào việc cố gắng chú trọng tới những khía cạnh này nơi những người xung quanh ḿnh. Y đang học cách để trở thành một kẻ mang lại niềm an b́nh và niềm vui cho người khác, do đó y không được phàn nàn nếu quá tŕnh giáo dục đôi khi khiến cho y không được hưởng nhiều niềm vui phù du mà đồng loại của y quí chuộng xiết bao. Một đứa trẻ đang thực tập sử dụng nhạc cụ có thể phải bỏ học và gia nhập vào cái tṛ cười vui vẻ của đám bạn đồng môn ấu trĩ đang nô đùa ngoài vườn, nhưng nếu nó kiên tŕ rèn luyện cơ thể ḿnh để mô phỏng lại (cho dù yếu kém đến đâu đi nữa) thông điệp của Thượng Đế chuyển tải qua âm nhạc, th́ một ngày kia nó sẽ mang lại an b́nh cho hàng ngàn người và mang lại cho chính ḿnh một niềm vui rất xứng đáng với cái sự hi sinh nhỏ nhoi một thứ hạnh phúc tạm bợ mà vào lúc đó dường như quyến rủ xiết bao.

Đôi khi việc ăn thịt hoặc tuân theo những thói quen tư tưởng qui ước ắt đơn giản hơn nhiều cũng như việc chấp nhận lời tuyên bố chính thức theo qui ước của một giai cấp, nhưng người ta không được từ bỏ cái thường trụ để đổi lấy cái vô thường. Một con chim nắm được trên tay đâu có đáng giá bằng hai con chim đang ẩn trong bụi rậm, miễn là bạn biết rằng nếu bạn cố gắng đúng mức th́ sớm muộn ǵ bạn cũng bắt buộc phải chộp được những con chim ẩn trong bụi rậm. Đôi khi người ta nghĩ rằng ḿnh có thể vừa có con chim nắm trên tay vừa có những con chim ẩn trong bụi rậm (vừa có mồi vừa được bóng), nhưng chúng ta rơ ràng đă được dạy bảo rằng chúng ta không thể vừa thờ Chúa vừa thờ Thần tài; và theo chỗ tôi biết, th́ kinh nghiệm của những môn sinh tha thiết nhất là việc loại trừ mọi thú vui cứ chăm chăm vào ḷng ích kỷ và sự buông thả bản thân gây thiệt hại cho những người khác. Tôi thừa nhận rằng trong một chừng mực nào đó ta phối hợp hai mục đích lại được, và như tôi có nói trước kia chẳng có lư do ǵ khiến ta không được vui hưởng những tṛ giải trí vô hại và vô tội. Nhưng ḷng ích kỷ bao giờ cũng tŕ kéo sự tinh tấn của con người trong việc sống cuộc đời đệ tử, và người ta càng tỏ ra ít ích kỷ th́ y càng tiến nhanh hơn. Hầu hết chúng ta đều ít nhiều ích kỷ, kết quả là chúng ta chỉ thành công ít nhiều khi mưu t́m sự thật. V́ vậy về phần ḿnh, chúng ta phải sắp xếp cuộc đời lại sao cho chúng ta liên tục hoạch định phúc lợi cao cả hơn cho những người xung quanh, một phần bằng cách tích cực giúp đỡ họ và một phần bằng cách tự rèn luyện ḿnh. Mọi sự chuẩn bị như thế đều gây ra sự căng thẳng, v́ thật vậy suốt ngày đêm chúng ta đều phải phấn đấu để chuyển hóa mọi rung động thô trược ngoại lai thành ra các thần lực tinh vi hơn. Sự thù ghét, không ưa, ác cảm, nghi ngờ, ngờ vực – tất cả đều trút xuống đầu ta. Và để đáp lại chúng ta phải rèn luyện chính ḿnh để chứng tỏ thiện chí. Thoạt đầu chúng ta không phải lúc nào cũng làm được như thế, thậm chí chúng ta thường không làm như vậy, nhưng kẻ nào đă từng một lần dĩ đức báo oán đều biết được sự an b́nh mà nó mang lại cho mọi hạ thể của ḿnh và cảm giác nhiệt thành, sung sức mà nó mang lại cho toàn bộ bản thể của ḿnh. Tôi cảm thấy vô cùng mănh liệt rằng ngay hiện nay bất kỳ cố gắng nào mà tôi đă thực hiện trong quá khứ đều được đền đáp lại nhiều hơn qua sức mạnh mà tôi có ư thức được trong những giờ phút khó khăn, qua ḷng tha thiết mà tôi trải nghiệm được khi phục vụ cho nhiều người chịu sự khốn khổ và phiền năo của Chiến tranh. Chiến tranh đă mang tất cả chúng ta lại gần kề với nhau hơn. Nhất là nó đưa Chơn sư lại gần chúng ta hơn mức chúng ta để cho các Ngài đến với chúng ta trước kia, và nó đă khiến cho một số người trong chúng ta có được hạnh phúc khi biết rằng Thông Thiên Học là suối nguồn vĩ đại duy nhất mà ta có thể rút ra được từ đó ḷng can đảm và sự hoan hỉ để dùng phục vụ kẻ đau khổ. Những giai đoạn như thế này có đầy dẫy bằng chứng cho thấy rằng “sự căng thẳng triền miên” rất đáng giá để chịu đựng v́ nó có khả năng giúp ta phụng sự được nhân loại. Khi ḍng đời suôn sẻ th́ sự căng thẳng đôi khi có vẻ là một sự hành xác không cần thiết, nhưng chỉ trong những lúc khó khăn th́ chúng ta mới biết rằng sự căng thẳng triền miên đó là nền tảng của một đức tin mà nếu không có nó không thể có được đức tin chân chính được.

 

CHƠN NGĂ Ở BÊN NGOÀI THỂ XÁC

Thế rồi Chơn sư chỉ cho chúng ta cách tiến hành việc rèn luyện. “Luôn luôn là con phải kiểm soát cơ thể đó chứ không để cho nó kiểm soát con”. Về vấn đề này bà Besant đưa ra giáo huấn sau đây mà lời lẽ không phải của bà: “Điều bạn phải làm là coi cơ thể bạn giống như một con thú được giao phó cho bạn; bạn không được bắt nó làm quá sức v́ nếu bạn làm như thế, nó ắt không đủ năng lượng thể chất để dành lại cho những cố gắng khác về các phần việc nữa của bạn. Bạn phải cho nó ngủ và ăn đúng mức theo nó cần để giữ cho nó có được t́nh trạng hữu hiệu cao nhất, chứ không nhất thiết là phải cung cấp cho nó mọi thứ mà nó muốn. Nhiều người trong các bạn vẫn c̣n cung cấp cho cơ thể quá nhiều thức ăn và điều này không tương thích với mức hữu hiệu cao nhất mà chúng ta luôn luôn nhắm tới. Dĩ nhiên, thể xác của người trẻ tuổi cần nhiều thức ăn hơn thể xác của người già; cơ thể phải có đủ thức ăn nhưng bạn không được để cho nó có nhiều hơn mức cần thiết. Nhiều người tốt bụng phạm phải chính cái lỗi lầm đó đối với những con thú của ḿnh, kết quả là những con thú có sức khỏe không được hoàn hảo và đau ốm khi phải bước đi. Bạn phải xét đoán cơ thể ḿnh. Bạn phải kiểm soát hoàn toàn cơ thể ḿnh sao cho bạn có thể bắt nó chờ đợi mà không khó chịu khi bạn bảo rằng: “Nó muốn điều này chứ tôi không muốn đâu. Bây giờ tôi c̣n một chuyện khác quan trọng hơn cần phải làm và nó phải chờ cho đến khi tôi có thể quan tâm tới nó”.

“Đây là điều mà tôi khuyên bạn nên suy đi gẫm lại và tiến hành dừng lại liên tục để hỏi: Liệu chính tôi hay thể xác của tôi muốn chuyện này ? Điều này sẽ dần dần khiến cho bạn đạt được t́nh trạng tự phản tỉnh (self recollectedness) vốn rất thiết yếu, và làm một điều mà những kẻ chưa lăo luyện không bao giờ có được . . . bất cứ khi nào bạn mơ ước một điều ǵ đó hăy xét xem liệu có thực bạn muốn như vậy không. Có một bài học lớn mà bạn phải học đó là đồng nhất ḿnh với Thượng Đế vốn là Đấng Nhất Như, thay v́ đồng nhất ḿnh với con thú vốn là công cụ của ḿnh”.

Tôi xin nhấn mạnh tới từ “tự phản tỉnh”. Chúng ta phải nhớ đến bản thân, chúng ta phải nhớ phân biệt giữa cổ máy và nguyên động lực, giữa dụng cụ và người sử dụng. Trong hai trang kế tiếp Chơn sư giải thích cho chúng ta cách giúp chúng ta có thể tự phản tỉnh bằng cách cho chúng ta thấy rằng thể vía và thể trí lần lượt muốn những điều của riêng ḿnh. Ngài đă cho chúng ta biết cái cách thức mà thể xác cố gắng chinh phục chơn ngă bên trong – “thể xác muốn nghỉ ngơi, đi dạo, ăn uống; kẻ nào không biết ắt tự nhủ rằng Tôi muốn làm những điều này”. “Nhưng chúng ta phải nói với cả ba hạ thể - xác, vía, trí: Các ngươi không được cản trở ta làm điều tốt”. Nói cách khác, chúng ta phải nhớ tới chơn ngă của ḿnh, cho dù các hạ thể của ta (các công cụ của chơn ngă) có thể đấu tranh, yêu sách để cho ta phải nghe chúng nói om ṣm đến đâu đi nữa. Người nào không biết ắt bận tâm rất nhiều tới các hạ thể đến nỗi họ hầu như đồng nhất hóa hoàn toàn bản thân ḿnh với các hạ thể, và chỉ khi chịu một áp lực đạo đức lớn lao nào đó th́ họ mới nhận ra quá trễ sự lộng hành của các phàm ngă, có nghĩa là chơn ngă đă bị rút lui ra khỏi địa vị mà lẽ ra nó phải giữ, đă bị tước mất quyền lực mà nó cấp cho các công cụ của ḿnh. Giá trị của các hạ thể cốt ở việc chúng có thể thu lượm kinh nghiệm cần thiết trên cơi mà vật chất cấu tạo nên chúng thuộc về cơi đó. Nếu chúng chỉ đắm ch́m vào những hoạt động trên cơi của riêng ḿnh thay v́ để cho các thể trên cơi cao tuyển lựa càng nhiều càng tốt những kinh nghiệm có thể giúp vào sự tăng trưởng của cá nhân; th́ nói chung kết quả là các hạ thể sẽ càng ngày càng bị vướng mắc vào những lớp càng ngày càng thấp trên cơi của riêng ḿnh, và cuối cùng là phải chịu đau khổ rất nhiều do bị chơn ngă vứt bỏ v́ coi thường mệnh lệnh của chơn ngă. Luật Nhân Quả rất nghiêm khắc và một hạ thể bị sa đọa dùng vào những mục đích thấp hèn trong một kiếp khi lẽ ra nó phải lắng nghe Thượng Đế nội tâm th́ hạ thể đó không thể phục vụ chủ nhân ông của ḿnh trong tương lai, và trong sự khốn khổ của việc mưu t́m trợ giúp kết hợp với những công cụ không thể dùng làm việc được th́ dần dần con người học được bài học là y chỉ có thể được hạnh phúc và tiến bộ chân chính khi phàm ngă hành động mà hoàn toàn kính nễ ư chí của chơn ngă. Biết bao nhiêu lần tinh thần không muốn khi xác thịt quá yếu đuối – kết quả là không học được những giá trị tương đối của đủ thứ hạ thể nhờ vào chúng ta tiếp xúc được với nhiều chiều sâu thẳm trong vũ trụ của Thượng Đế ? Xác thịt ắt yếu đuối khi nó chỉ cố gắng dựa vào sức ḿnh thôi, nhưng nó trở nên vô cùng mạnh mẽ khi chỉ đóng vai tṛ phản ánh đối thể tâm linh của ḿnh.

 

CHƯƠNG VII

THỂ VÍA VÀ THỂ TRÍ

Chơn sư dạy rằng: “Thể vía có những ham muốn của nó – cả tá ham muốn; nó muốn con giận dữ, nói xẳng giọng, cảm thấy ghen tuông, tham tiền, ganh tị với những thứ người khác có, bị nản ḷng . . . chẳng phải v́ nó muốn hại con mà v́ nó thích những rung động thô bạo và muốn thay đổi chúng liền liền. Nhưng con đâu có muốn những thứ này và v́ vậy con phải phân biệt giữa điều mà con muốn và điều mà thể vía muốn”.

Tôi lại xin trích dẫn những chú giải thuộc phần giáo huấn của bà Besant bàn về đoạn văn này: “Bạn phải liên tục cảnh giác, thường xuyên đề pḥng v́ muốn nhận ra được rằng ḿnh không phải là thể vía ắt khó hơn việc nhận ra được rằng ḿnh không phải là thể xác. Nhưng nếu bạn xét tới những ví dụ mà Chơn sư đưa ra th́ bạn ắt thấy ḿnh liên tục đồng nhất hóa bản thân với thể vía. Bạn ắt bảo: “Tôi giận dữ hoặc bực ḿnh”. Có lẽ bạn cũng chẳng nói ‘Tôi ghen tuông’ nếu bạn có ư thức về xúc cảm ghen tuông, bởi v́ chúng ta có thể tự đồng nhất hóa ḿnh với các xúc cảm nhưng chúng ta lại cố gắng che đậy những xúc cảm thấp hèn sao cho ta có thể gọi cái xúc cảm đó là t́nh yêu chứ không phải là sự ghen tuông. ‘Tôi bị tổn thương v́ thế này thế nọ, người mà tôi yêu lại yêu một người khác hơn tôi. T́nh thương là một đức tính viên dung và có tầm mức rất bao quát đến nỗi mà chúng ta thích núp bóng nó và gán cho nó đủ thứ chuyện chẳng dính dáng ǵ tới nó. Tốt hơn là ta nên thẳng thắn xem xét xúc cảm của ḿnh chứ đừng vờ vịt với bản thân và tự đánh lừa ḿnh bằng những ngôn từ hoa mỹ. Trong trường hợp mà ta đang xét, bạn đâu có bị tổn thương v́ bạn yêu thương bằng hữu của ḿnh mà chỉ v́ bạn muốn chiếm hữu người bằng hữu ấy cho riêng ḿnh. Ở đâu có cái xúc cảm bị tổn thương đó th́ ở đó có bóng dáng của ḷng ích kỷ vốn là đối cực với t́nh thương. Bạn, tức Chơn ngă, th́ không cảm thấy ghen tuông, nhưng thể vía của bạn th́ có thể; bạn cũng đâu có giận dữ hay bực ḿnh: chúng đâu chỉ là các tâm trạng của thể vía.

Tôi muốn nhấn mạnh tới sự thật là khi chúng ta cảm thấy bị tổn thương hoặc xúc phạm th́ thực ra chúng ta đang chịu ảnh hưởng của ḷng ích kỷ. Thiên hạ ắt bảo bạn rằng cũng tự nhiên thôi khi đôi lúc ta cảm thấy rằng ḿnh bị tổn thương hay bị xúc phạm, và tôi hoàn toàn đồng ư nếu họ dùng từ “tự nhiên” để ngụ ư là “tất yếu ở một tŕnh độ phát triển nào đó”. Chúng ta không thể thấy đồng cảm với những người bị tổn thương hoặc bị xúc phạm nếu bản thân ta chưa trải nghiệm cái xúc phạm đó. Mặt khác, chúng ta không thể vẽ đường chỉ lối cho họ khắc phục được xúc cảm này nếu bản thân chúng ta không ít nhiều khắc phục được nó, và Chơn sư nhấn mạnh tới sự thật là Chơn ngă nơi mỗi người chúng ta (cái bản ngă mà chúng ta diễn tả một cách mơ hồ qua lời lẽ của sinh hoạt hằng ngày) liên tục đồng nhất hóa ḿnh với những hạ thể mà điều này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn; chơn ngă đó chẳng bao giờ cảm thấy những tâm trạng phù du ấy. Theo kinh nghiệm của bản thân, mặc dù tôi cũng chỉ vừa mới bắt đầu làm việc thực sự, tôi có thể dứt khoát làm chứng cho sự thật là tôi càng chú ư tới chơn ngă nội tâm th́ rơ ràng là tôi càng nhận ra được chơn ngă ghê tởm những tâm trạng và xúc cảm thuộc loại thấp hèn. Tôi thường nhượng bộ những cám dỗ thuộc đủ mọi thứ, trải qua những tâm trạng và xúc cảm nhưng càng ngày tôi càng ư thức được một sự không thoải mái ghê gớm bất cứ khi nào phàm ngă lộng hành. Mặc dù chưa làm chủ trọn vẹn được các hạ thể của ḿnh (chúng cũng nhiều lần lộng hành lắm rồi) nhưng tôi đâu có hạnh phúc ǵ khi chúng chiến thắng, và ngay cả khi chúng tạm thời chiến thắng th́ tôi cũng thừa biết rằng ḿnh không được thoải mái lắm, có thể nói là chơn ngă của tôi đang đau ốm. Chúng ta chắc biết nhiều về sự đau ốm của thể xác, nhưng ngay khi chúng ta bắt đầu đặt chân trên Thánh đạo th́ chúng ta ắt học được ư nghĩa của sự đau ốm tâm linh mà các phương thuốc chữa ắt được t́m thấy nội dung trong quyển Dưới Chơn Thầy. Sự đau ốm tâm linh cũng gây ra đau khổ chẳng khác nào sự đau đớn do thể xác đau ốm – tôi nghĩ c̣n nhiều hơn nữa; bởi v́ khi ta tha thiết phụng sự mà lại không có quyền năng, ta không có quyền năng v́ đă buông xuôi theo những tâm trạng phù du của các hạ thể lẽ ra phải làm đầy tớ chứ không được làm chủ. Và chẳng có ǵ nhức nhối hơn là không thể bắt các hạ thể tuân lệnh của tinh thần.

Tôi muốn nhấn mạnh tới phát biểu của Chơn sư theo đó thể vía muốn những chuyện ấy “không phải v́ nó muốn hại bạn mà v́ nó thích những rung động thô bạo và thích thay đổi chúng liền liền”.

Bạn phải nhớ rằng đủ thứ hạ thể của ta được cấu tạo bằng vật chất vẫn c̣n ở trên ṿng cung tiến hóa đi xuống. Kết quả là vật chất đó tiến hóa qua những rung động thô bạo và thường xuyên thay đổi. Bà Besant có nhận xét rằng: “Sinh viên đôi khi có nêu ra một thắc mắc kỳ cục đối với tôi: Liệu ta có nên tạo cho nó cơ hội tiến hóa chăng ?” Không đâu ! Bạn có thể từ chối tạo cơ hội cho những rung động này mà không phải e ngại là ḿnh ích kỷ. Nó có thể t́m thấy những rung động đó nơi những người dă man và nơi những con thú, những người này cần tới những rung động đó để trải nghiệm phô bày các tâm trạng trong tâm thức, c̣n bạn không được quyền hi sinh cơ tiến hóa cao cả của ḿnh cho chuyện đó. Việc thể vía thường xuyên muốn những sự thay đổi thô bạo chính là điều ắt giúp cho bạn nhận ra được rằng nó không phải là bạn. Các tâm trạng đổ ụp xuống đầu bạn mà không có một nguyên nhân biểu kiến nào và lư trí của bạn cũng chẳng tán thành, chúng chẳng dính dáng ǵ tới bạn mà chỉ là các hoạt động độc lập của thể vía. Bạn phải nhận ra được điều này chứ đừng để cho ḿnh trở thành sân chơi của mọi thứ tâm trạng tùy duyên.

Chơn sư nhấn mạnh sự thật là bạn đâu có muốn những thứ đó; v́ vậy bạn phải phân biệt giữa điều mà ḿnh muốn và điều mà thể vía muốn. Tôi nghĩ ta nên nhớ rằng chúng ta càng tiến bộ th́ càng có nhiều thần lực tuôn đổ qua đủ thứ hạ thể của ḿnh. Kết quả là trong khi các xúc động cao thượng của ta vô cùng mạnh mẽ hơn bao giờ hết th́ các xúc động thấp hèn của ta cũng lại có thêm được sức mạnh. Mỗi người trong chúng ta vốn đă dứt khoát tự nguyện bước trên con đường Phụng sự đều trải nghiệm điều khó khăn là trong khi ḿnh có thể làm được nhiều điều tốt hơn trước th́ dường như ḿnh cũng gặp nhiều chướng ngại hơn mức mà trước kia ḿnh chưa hề biết tới; thật vậy mọi hạ thể đều trở nên linh hoạt hơn và thần lực tuôn đổ qua đó ảnh hưởng tới cả điều cao thượng lẫn điều thấp hèn. Như vậy khi nỗ lực đặc biệt muốn được an toàn th́ ta phải đoan chắc rằng cho dù phần thấp hèn có được tiếp thu bao nhiêu sinh lực đi chăng nữa th́ phần cao thượng bao giờ cũng có thể chế ngự được.

Mỗi người trong chúng ta khi dứt khoát đặt ḿnh về phe cơ tiến hóa, về phía xả thân hơn là phía tự tư tự lợi, th́ ta đều phải chuẩn bị trả giá cho những sự đồng cảm sâu sắc hơn mà ḿnh tất yếu phải trải nghiệm bằng cách tha hồ bị những cám dỗ lớn lao hơn mức từ trước đến nay đă cản đường ḿnh. Nếu y thật sự tha thiết th́ sớm muộn ǵ y ắt cũng thành công và khi y cảm thấy rắc rối đang đè bẹp ḿnh th́ y nên tự nhủ rằng: “Những cái khó khăn thêm nữa này chính là cái giá mà tôi phải trả để có được khả năng phụng sự lớn lao hơn”. Cho dù chuyện ǵ xảy ra đi chăng nữa th́ ít ra ta cũng chẳng khôn ngoan khi ngẫm nghĩ về những thất bại, hoặc tưởng tượng rằng một lỗi lầm trong quá khứ không bao giờ được sửa sai. Một trong những câu châm ngôn xưa nhất có bảo rằng chúng ta không nên ngoái nh́n lại đằng sau. Nếu chúng ta ngoái nh́n lại đằng sau chúng ta ắt cảm thấy thất vọng, ăn năn, hối hận. Bà Besant có dạy rằng tất cả những tâm trạng này chỉ tổ phí sức. Năng lượng mà bạn cung cấp cho sự hối hận tốt hơn là nên cung cấp cho việc trau dồi xúc cảm đối ngược với điều gây ra sự hối hận đó. “Đừng ngoái nh́n lại đằng sau . . . hăy lựa ra mọi tâm trạng đối lập với nó và thực hành chúng suốt ngày. Nếu thể vía muốn bạn sốt ruột th́ hăy quan tâm tới sự kiên nhẫn, hăy nghĩ tới sự kiên nhẫn trong buổi tham thiền sáng sớm và thực hành nó trọn cả ngày. Nếu thể vía muốn bạn cảm thấy ghen tuông th́ đừng nghĩ tới ghen tuông nữa mà nghĩ tới ḷng vị tha và ráo riết thực hành nó. Thế là chẳng c̣n chỗ đâu cho sự ghen tuông nữa. Trong cùng một lúc, tâm trí của bạn không thể chất chứa hai điều đối nghịch”. Nói cách khác, chúng ta phải phấn đấu càng tích cực càng tốt, càng tích cực được lâu bao nhiêu càng tốt. Chúng ta phải phấn đấu nhấn mạnh tới bản chất tốt đẹp của ḿnh thay v́ cảm thấy phiền năo do những lỗi lầm mà chúng ta mắc phải.

Cá nhân tôi tin mănh liệt rằng quá khứ có thể sửa đổi được cả bằng hiện tại lẫn bằng tương lai. Tôi nghĩ rẳng thái độ của chúng ta trong hiện tại có thể sửa đổi được quá khứ nhiều đến mức chúng ta có thể chuyển hóa một lỗi lầm thành ra một sức mạnh để làm điều thiện. Cũng vậy khi kỹ lưỡng trong hiện tại th́ chúng ta sẽ khiến cho tương lai được an toàn và đến lượt nó sẽ phản tác động lại lên quá khứ. Theo một quan điểm nào đó của tâm thức th́ vạn vật đều ở trong trạng thái “HIỆN TẠI VĨNH HẰNG”. V́ tất cả những ǵ chúng ta đă làm, tất cả những ǵ chúng ta đang làm, tất cả những ǵ chúng ta sẽ làm, đều được tổng kết nơi “Hiện Tại Vĩnh Hằng” này. Cái điều ác hại mà tôi đă lỡ gây ra cho bạn ḿnh năm ngoái th́ ngày hôm nay tôi có thể sửa đổi lại nó một cách đáng kể bằng việc phục vụ y. Cái tư tưởng ghen tuông mà xưa kia tôi đă có lần mắc phải th́ tôi có thể khiến cho nó tương đối bất lực bằng cách đổ ào lên người bạn của ḿnh những tư tưởng mạnh mẽ với thiện chí vị tha bất cứ khi nào tôi có dịp. Tôi không có ư gợi ra rằng mọi hành động đều không kèm theo nghiệp báo tương ứng. Nhưng ai mà biết được hành động bắt đầu ở đâu và chấm dứt ở đâu ? Ở dưới đây, chúng ta thấy sự vật được ngăn cách ra thành những ngăn kín bít: Chơn sư có thể thấy được tính đơn nhất nhiều hơn mức mà chúng ta có thể thấy được trong cái thế giới tồn tại biệt lập này.

 

THỂ TRÍ

Chơn sư tiếp tục nêu ra bằng cách nào mà thể trí lại dùng các h́nh tư tưởng thấp hèn để đấu tranh phục vụ cho nhu cầu của vật chất cấu tạo nên nó. Ngă mạn dường như là một trong những đặc tính thông thường nhất của thể trí. “Thể trí của con muốn ngă mạn, chỉ nghĩ riêng tới ḿnh nhiều hơn nghĩ tới người khác. Ngay cả khi con bắt nó xa ĺa những chuyện thế tục th́ nó vẫn c̣n cố tính toán cho bản thân, xúi giục con nghĩ tới sự tiến bộ của riêng ḿnh thay v́ nghĩ tới công việc của Chơn sư và việc giúp đỡ người khác”. Bà Besant nhận xét rằng có lẽ thể trí là thể khó kiểm soát nhất. Theo kinh nghiệm của chính ḿnh th́ tôi thấy thể trí dường như có khả năng lừa gạt chúng ta thành công hơn các thể khác, v́ cái trí liên kết với sự tiến bộ cá nhân của mỗi người và xúi giục y nghĩ tới xem ḿnh được ǵ mất ǵ. “Chẳng biết tôi đă tiến gần tới giai đoạn nhất định kế tiếp trên đường đời hay chưa ?” Đây là một tư tưởng thường lởn vởn trong đầu những kẻ phấn đấu sống cuộc đời linh thánh, và đó chắc chắn là một tư tưởng tự nhiên thôi. Mặt khác, sự tiến bộ tâm linh tùy thuộc vào việc phục vụ người khác chứ không tùy thuộc vào sự tăng trưởng cá nhân, ngoại trừ trong chừng mực chắc chắn là đúng theo đó bạn càng tăng trưởng th́ bạn càng có nhiều năng lực hữu dụng.

Chúng ta không được quên tính đơn nhất bản thể của vạn vật (vạn vật đồng nhất thể) và điều này có nghĩa là không có một sự tăng trưởng cá nhân nào có thể đạt được nếu những người khác không tăng trưởng theo, trong khi sự tăng trưởng của những người xung quanh chúng ta tất yếu sẽ kích thích sự tăng trưởng của chính ta. Nói cách khác, chẳng ích lợi ǵ khi chỉ nghĩ tới bản thân ḿnh hoặc tới một số ít người, chúng ta phải nghĩ tới nhiều người sao cho dần dần chúng ta đạt tới tŕnh độ của Chơn sư khi chỉ c̣n nghĩ tới mọi người.

Chắc chắn là muốn cho phần thấp thỏi của ḿnh được hoàn chỉnh th́ thể trí cần phải phát triển những năng lực và quyền năng đặc biệt; sự phát triển đó bắt đầu bằng cách để cho các năng lực và quyền năng này tăng trưởng theo sự thôi thúc cưỡng chế của việc cạnh tranh và chủ nghĩa cá nhân. Nhưng tất cả những người nào đọc đến những trang này đều đă trải qua giai đoạn tăng trưởng đó rồi và ắt đă đạt tới mức hiểu ra được rằng bất cứ quyền năng nào cũng chẳng có giá trị ǵ nếu nó không được dùng để giúp cho tổng thể. Và như vậy khi thể trí muốn ngă mạn nghĩ rằng ḿnh biệt lập th́ chúng ta phải coi t́nh trạng này chỉ là tàn dư của quá khứ, là một điều ǵ đó mà thực ra chúng ta đă vượt qua rồi và chúng ta lẽ ra chẳng cần chú ư tới nữa. Theo kinh nghiệm riêng của ḿnh, tôi thấy cách nhanh nhất để phát triển các năng khiếu của thể trí ở tŕnh độ phát triển của chúng ta chính là việc dùng các năng khiếu đó để phục vụ người khác. Một đứa trẻ yếu kém về một môn học đặc biệt nào đó có thể kích thích tối đa điều mà ḿnh đang thiếu sót bằng cách rán t́m cho ra một đứa khác thậm chí học c̣n kém hơn ḿnh nữa sao cho y có thể thấy ḿnh sử dụng được hữu ích ngay cả một chút xíu quyền năng mà ḿnh mới có được.

Mỗi người trong chúng ta đều có mầm mống sự hoàn hảo nơi bản thân, và chúng ta chỉ yếu kém ở một phương diện đặc biệt nào đó so với những người khác vốn mạnh về phương diện đó. C̣n khi so sánh với những kẻ yếu kém hơn chúng ta, th́ chúng ta lại tương đối là mạnh. Ta nên luôn luôn nhớ rằng đằng sau những sự bất toàn biểu kiến đều có mầm mống của sự hoàn hảo vốn được chôn chặt bên trong Thượng Đế nội tâm. Chúng ta là Thượng Đế đang h́nh thành và cho dù năng lực của chúng ta dường như chẳng thấm vào đâu so với năng lực của các Huynh trưởng, th́ những năng lực đó vẫn có giá trị rất đáng kể đối với những kẻ c̣n kém hiểu biết hơn chúng ta nữa. Và khi giúp đỡ những kẻ mà so sánh với họ sự yếu kém của chúng ta tương đối lại là “mạnh đối với họ” th́ chúng ta sẽ dần dần chú trọng tới sức mạnh đó và thế là phát triển được những năng khiếu cho đến nay xét theo biểu kiến là chưa mạnh. Như vậy bạn ắt thấy rằng về lâu về dài th́ cái sự thật vĩ đại về tính đơn nhất ắt bảo đảm cho mỗi người trong chúng ta là sớm muộn ǵ chúng ta cũng có được quyền năng trở nên đấng giống như các Chơn sư ngày nay vậy. Tất cả chúng ta đều tùy thuộc vào nhau, tất cả chúng ta đều tăng trưởng qua nhiều lần thất bại và mọi sự yếu kém chẳng qua chỉ là một sức mạnh chưa được phát triển ra.

 

NHỮNG CÁM DỖ VÀ NHỮNG CƠ HỘI

Bà Besant thường dạy chúng ta rằng người phụng sự và huyền bí gia chân chính thấy mọi chuyện xung quanh trên đời này đều là những cơ hội thay v́ là những cám dỗ. Đối với kẻ phàm phu th́ y phải tránh sự cám dỗ hoặc ít ra cũng phải đề pḥng nó. Sự cám dỗ là một điều ǵ đó khiến chúng ta có thể sa ngă, do đó chúng ta có thể bị sụp hầm hố. Nhưng đối với một hành giả tha thiết đang bắt đầu hiểu được chân giá trị của cuộc sống, th́ sự cám dỗ lại là cơ hội để cho ta củng cố một chỗ yếu kém, để vun bồi một đức tính, trau dồi một sức mạnh thay v́ là một nhược điểm. Y không cố gắng tránh bị cám dỗ, thay vào đó y b́nh chân như vại giữa cám dỗ và phô bày chính cái sức mạnh mà chỉ v́ thiếu nó cho nên người ta mới bị cám dỗ. Tôi hoàn toàn công nhận rằng có những người tốt hơn là nên tránh xa chuyện cám dỗ, nhưng bất cứ kẻ nào tha thiết nên cố gắng tập trung sức mạnh để khắc phục chuyện cám dỗ bằng chính cái sức lực dự trữ của ḷng tha thiết vốn sẽ chấp cánh cho y bay qua hầu hết mọi rối rắm miễn là y quyết tâm. Một lần nữa, về vấn đề này tôi xin nhấn mạnh là cần phải tự phản tỉnh. Nên nhớ bạn là ai và bạn đang phấn đấu cho điều ǵ và nhất là phải nhớ như thế khi một khó khăn hoặc một cám dỗ đang đe dọa một cái trí chỉ nhấp nha nhấp nhỏm xao lăng khỏi Chơn ngă. Chỉ nội cố gắng ghi nhớ thôi (chứ đừng nói tới hành vi khắc sâu vào kư ức) cũng mang lại sức mạnh của riêng ḿnh giúp cho bạn làm chủ được t́nh h́nh khó khăn hoặc cám dỗ thay v́ chịu nô lệ cho nó. Chơn sư dạy “Con phải không ngừng cảnh giác kẻo con sẽ thất bại”. Trong những vấn đề này chủ yếu là thói quen, và nếu bạn cứ có thói quen để cho cám dỗ khuất phục th́ bạn cũng có thể tạo ra thói quen chuyển hóa cám dỗ đó thành ra cho ta có thêm năng lực. Bạn hăy lập ra một thói quen tốt th́ nó sẽ chấp cánh mang bạn vượt qua những rắc rối mà bạn chẳng bao giờ nghĩ được rằng ḿnh có thể chịu đựng nỗi. Nếu bạn tập nhiễm một thói xấu th́ nó sẽ dẫn bạn trong một thời gian lâu dài đi theo con đường gỡ rối những nút buộc mà tự bạn đă trói lấy thân ḿnh chứ có ai đâu gỡ rối cho bạn. Tự phản tỉnh có nghĩa là “nghĩ tới công việc của Chơn sư và việc giúp đỡ người khác”, khi bạn suy nghĩ theo kiểu này th́ bạn đang học cách phù phép để khắc phục được những cám dỗ của ḿnh.

 

ĐÚNG VÀ SAI

Giờ đây chúng ta xét tới một phát biểu quan trọng nhất của Chơn sư “giữa Đúng và Sai, Huyền bí học không chấp nhận sự thỏa hiệp. Bằng bất cứ giá biểu kiến nào, con phải làm điều đúng và không được làm điều sai cho dù kẻ vô minh có nghĩ hoặc nói sao đi chăng nữa”. Huyền bí gia là ai ? Về vấn đề này chúng ta có một lời giải đáp ở phần đầu của quyển Dưới Chơn Thầy: “Việc một người thuộc tôn giáo nào, thuộc giống dân nào th́ chẳng có chi là quan trọng, điều thật sự quan trọng là biết được Thiên cơ dành cho loài người”. Tôi đă viết nghiêng câu cuối cùng v́ tôi tin rằng huyền bí gia là người ít ra cũng bắt đầu phần nào biết được Thiên cơ; chẳng ai có thể biết trọn cả Thiên cơ. Huyền bí gia đă bắt đầu dùng óc phân biện của ḿnh để phân biệt giữa điều có thực và điều không thực, giữa bóng tối và ánh sáng, và biết rằng sự chết chẳng qua chỉ là phương tiện để thực hiện sự bất tử. Các bạn là những người phụng sự Hội đoàn Ngôi sao, có lẽ là hội viên của Hội Thông Thiên Học nữa, các bạn học tập trở thành huyền bí gia v́ các bạn biết một số sự thật mà đa số loài người hiện nay c̣n chưa biết. V́ vậy, Chơn sư ngơ lời với các bạn khi Ngài tuyên bố rằng bằng bất cứ giá biểu kiến nào bạn cũng phải chọn điều đúng. Ta hăy lưu ư từ “biểu kiến”. Khi bạn chọn điều đúng và không chọn điều sai th́ chính bạn hoặc những người khác thực ra không phải trả giá ǵ cả. Chân lư quả thật là vĩ đại và nó sẽ chiếm ưu thế cho dù điều lầm lỗi trong nhất thời dường như có vẻ chiến thắng đến đâu đi nữa. Đau khổ xảy ra v́ ta làm sai và mặc dù quả thật là một hành động đúng thường gây cho ta nhiều đau khổ, nhưng đó là v́ chúng ta đang phá vỡ cái thói quen ưa làm sai và phàm ngă vẫn c̣n đấu tranh để gh́ kéo chúng ta trong ṿng kềm kẹp của nó. Nỗi đau của phàm ngă chẳng qua chỉ là bản dạo đầu tất yếu của niềm vui thuộc chơn ngă khi bắt đầu cảm thấy được tự do và không bị kềm kẹp nữa. Chẳng bao lâu th́ phàm ngă sẽ không c̣n ràng buộc, đến lúc đó th́ đâu có đau khổ - “Chơn sư bao giờ cũng thanh thản và hoan hỉ”, chẳng phải v́ Ngài thờ ơ với sự đau khổ mà v́ Ngài biết rằng mọi sự đau khổ đều có thể dạy dỗ do Ngài đang sống với Chơn ngă vốn đă được giải thoát khỏi một sự tù túng mà ư nghĩa của sự giải thoát đó th́ chỉ có tăng trưởng mới hiểu được. Chỉ có một cái giá phải trả “biểu kiến” khi ta xem xét t́nh trạng đó theo quan điểm của những người c̣n vô minh hơn chính ta nữa, của những người không hiểu được động cơ nào thúc đẩy ta hành động. Nói cách khác, cái “giá phải trả” là nỗ lực tẩy trược phàm ngă và ta chỉ có thể coi nỗ lực này là cái “giá phải trả” khi ta đồng nhất hóa ḿnh với một phàm ngă đang mất dần thế lực. Người ta ưa xét đoán người khác và xét đoán thiên hạ khắc khe hơn xét đoán bản thân. Chúng ta tùy thuộc quá nhiều vào ư kiến của người khác đánh giá chúng ta. Kết quả là chúng ta thường hành động ngược lại với mệnh lệnh của lương tâm với hi vọng rằng việc đó sẽ che chắn ḿnh khỏi sự xét đoán của đồng loại. Tôi nghĩ rằng đây là ngụ ư của từ “thỏa hiệp”. Ta hăy nghe lời dạy của bà Besant: “Nếu bạn thẳng thắn xem xét điều đó th́ bạn ắt thấy rằng đời thường là một chuỗi những thỏa hiệp nơi ngoại giới; thiên hạ luôn luôn làm ít hơn một chút cái mức mà họ biết rằng như vậy là đúng, để cho sự việc suôn sẻ hơn đối với bản thân, ngơ hầu đương đầu với cái câu hỏi chết người: ‘Thiên hạ sẽ nói ra sao đây ?’ Nỗi sợ hăi dư luận của người khác một phần là do nhược điểm bắt nguồn từ chuyện dễ thương là muốn vuốt đuôi, lấy ḷng . . . Nhiều người thấy những điều c̣n khiếm khuyết về mặt tôn giáo và xă hội, nhưng có mấy ai tiến hành cải cách đâu . . . Tôi biết bạn không thể thực hiện những lư tưởng cao siêu nhất của ḿnh ngay tức khắc, cũng như bạn không thể nhảy vọt từ chân núi lên đỉnh núi. Nhưng nếu bạn có ư muốn leo núi th́ bạn phải leo mỗi bước nhằm mục đích lên tới đỉnh và mỗi bước phải mang bạn lên tới gần đỉnh hơn. Đừng bao giờ hạ thấp lư tưởng của ḿnh. Điều này thật tai hại chết người. Một kinh điển Ấn Độ có nói: ‘Đúng là một chuyện, c̣n dễ chịu lại là chuyện khác; kẻ minh triết thích điều đúng hơn điều dễ chịu’ ”.

Tôi công nhận với bạn rằng con đường vạch ra cho chúng ta như thế là khó đi v́ cho đến nay chúng ta cứ sống trong một thế giới thỏa hiệp. Nhưng chúng ta càng ít thỏa hiệp th́ cuộc sống càng mang lại cho chúng ta nhiều niềm vui đích thực hơn và chúng ta càng ư thức rơ rệt được hơn thế giới của Chơn sư mà tất cả chúng ta đều thuộc về. Về sau tôi sẽ xem xét phần sau này của trọn cả vấn đề đúng và sai theo minh giải trong huấn lệnh của Chơn sư để chỉ cho chúng ta cách đạt tới điều đúng và có thể phân biệt được những cơn ngẫu hứng, những thành kiến và hoang tưởng của ta với điều thật sự là đúng.

 

CHƯƠNG VIII

CÁC ĐỊNH LUẬT ẨN TÀNG CỦA THIÊN NHIÊN

Tôi không muốn làm rộn bạn nhiều về các định luật ẩn tàng của thiên nhiên, v́ khi bạn tăng trưởng bạn sẽ bắt đầu t́m ra cho chính ḿnh những định luật ẩn tàng này là ǵ. Nói ngắn gọn th́ bạn phải rán hiểu được rằng các qui luật của thế gian (những điều mà ta gọi là qui ước và tập quán) tuyệt nhiên không nhất thiết phải trói buộc bạn. Thiên hạ rất thường chấp nhận thế gian như vậy đó và buông trôi ḿnh theo nó hơn là mất công cố gắng tự chỉ đạo ḿnh. Mỗi người trong chúng ta phải cố gắng t́m ra lập trường của chính ḿnh và lập trường đó phải dựa vào những nguyên tắc mà ḿnh đă thử nghiệm trước kia chấp nhận. Muốn làm như vậy, bạn không được tự măn với sự vật như nó vốn có, cũng không bằng ḷng với cách giải thích thông thường về cuộc đời mà kẻ phàm phu chấp nhận. Lương tâm và lư trí là Thượng Đế nội tâm bạn, và bao giờ bạn cũng phải ra sức để cho hai thần lực này có cơ hội dẫn dắt bạn đạt được tư duy đúng, ngôn ngữ đúng và hành động đúng. Nếu bạn làm được như thế th́ bạn ắt thấy rằng chúng sẽ nói cho bạn biết nhiều về thiên nhiên mà kẻ phàm phu không biết chỉ v́ y điều chỉnh cách hành xử của ḿnh trong cuộc sống tuân theo điều ở bên ngoài hơn là tuân theo Thượng Đế nội tâm. Như vậy, bạn ắt tiếp xúc được với những định luật của thiên nhiên ẩn tàng với cặp mắt soi bói của đa số mọi người, chúng sẽ mạnh mẽ trợ giúp bạn nhằm xác lập ḿnh theo đường lối tăng trưởng đúng đắn. Chẳng hạn như hầu hết mọi người đều nghĩ rằng điều tốt nhất dành cho số người lớn nhất ắt phải là mục tiêu và mục đích của mọi quá tŕnh lập pháp và hành pháp, nhưng theo định luật của thiên nhiên th́ chỉ những điều nào dễ chịu cho mọi người th́ mới có thể thật sự dễ chịu cho bất kỳ cá nhân nào (xin trích dẫn phát biểu của Chơn sư). Trong hoàn cảnh hiện nay chúng ta có khuynh hướng lờ đi thiểu số v́ chúng ta chưa biết cách đối xử với thiểu số; nhưng đối với Đấng Nhất Như th́ thiểu số cũng quan trọng như đa số. Bạn và tôi phải học cách đưa định luật cho đến nay vẫn c̣n ẩn tàng này ra chốn được thực hiện sao cho ta chỉ làm những ǵ mà Thượng Đế muốn, v́ đây là những điều duy nhất thực sự hữu ích cho mọi người. Vậy th́ định luật ẩn tàng của chúng ta là: chúng ta chẳng quan tâm tới đa số mà cũng chẳng quan tâm tới thiểu số, chúng ta chỉ quan tâm tới ư chí của Thượng Đế và miễn là chúng ta có thể hiểu được ư chí của Ngài th́ chúng ta ắt thấy được làm thế nào mà đủ mọi lối sống – cho dù đối nghịch với nhau đến đâu đi nữa xét theo biểu kiến – đều chẳng qua chỉ là các phương tiện của Ngài khi được xem xét từ một góc cạnh nào đó. Điều này khiến cho chúng ta có được khoan dung khi cùng lúc đó chúng ta có thể cảm thấy bổn phận của ḿnh là mạnh mẽ xúc tiến bất kỳ khía cạnh đặc biệt nào thuộc ư chí của Ngài xét theo một quan điểm đặc biệt mà lương tâm và lư trí của chúng ta bảo rằng có giá trị áp đảo trong lúc này. Về sau, khi chúng ta xét tới sự khoan dung th́ tôi sẽ nói nhiều hơn về nhu cầu khoan dung mà lại dũng mănh. Ở đây tôi chỉ xin bạn hăy nhớ cho rằng dù bạn có thể khoan dung đối với quan điểm và thái độ của người khác đến đâu đi chăng nữa th́ bạn cũng đừng bao giờ quên rằng chính bạn cũng có thông điệp để tŕnh bày với thế gian – bạn cũng có góc nh́n của ḿnh cần phải nhấn mạnh và bạn không nhất thiết phải thiếu khoan dung với những góc nh́n khác v́ bạn đang toàn tâm toàn ư với góc nh́n của ḿnh.

Lại nữa, khi xét những định luật khác cho đến nay vẫn c̣n ẩn tàng của thiên nhiên, ta biết rằng mỗi người chúng ta đều có nhiều hạ thể, ta biết một phần trong Thiên cơ dành cho loài người mà thế gian chưa khám phá ra, ta biết các bậc Huynh trưởng có tồn tại, và ta cũng biết các định luật về sức khỏe và từ điển. Nhiều sự hiểu biết như thế hiện nay bị che khuất khỏi tầm nh́n soi bói của hầu hết chúng ta. Nhưng rồi dần dần bạn cũng học được giống như một số chúng tôi, bấy giờ bạn sẽ cẩn thận hơn, cân nhắc nhiều hơn, đắn đo nhiều hơn v́ bạn biết rằng mặc dù không có điều chi là quan trọng và hầu hết mọi chuyện đều không quan trọng, thế nhưng động cơ thúc đẩy ẩn đằng sau “mọi chuyện”, thái độ của tâm trí và xúc cảm đối với những chuyện đó – những chuyện này rất quan trọng. Và bạn chỉ có thể phụng sự Chơn sư đúng mức khi bạn suy nghĩ kỹ trước khi nói hoặc hành động, hay có thể nói là khi bạn “nh́n kỹ trước khi nhảy”. Ta không được coi dĩ nhiên là phải có sự hấp tấp và sự bốc đồng cho dù thông thường đến đâu đi chăng nữa và dễ tha thứ. Hấp tấp là vô ư vô tứ, vô ư vô tứ là lôi thôi luộm thuộm và theo quan điểm này th́ lôi thôi luộm thuộm là ô uế về mặt tâm linh. Chúng ta cần sạch sẽ về mặt tâm linh và muốn được vậy th́ chúng ta phải cẩn thận suy nghĩ trước về kết quả của xúc cảm, hành động và tư tưởng mới chớm nở. Như vậy bạn ắt thấy việc biết được một số định luật ẩn tàng này sẽ làm thay đổi triệt để chính bản chất của bạn và đưa bạn đi theo những đường lối rất xa cách với con đường mà thế gian hiện đang bước trên đó.

 

ĐIỀU QUAN TRỌNG VÀ KHÔNG QUAN TRỌNG

Chơn sư giờ đây dạy chúng ta về tầm quan trọng tương đối của đủ thứ lộ tŕnh hành động theo quan điểm của Ngài chứ không theo quan điểm thế gian. “Hăy vững vàng như đá tảng khi xét tới việc đúng và sai, hăy luôn luôn nhượng bộ người khác về những điều không quan trọng”. Hoặc theo cách tŕnh bày khác của Ngài: “Giữa đúng và sai, Huyền bí học không chấp nhận sự thỏa hiệp”.

Câu mà tôi trích dẫn trước câu vừa nêu đóng vai tṛ b́nh luận cho câu này, và cho thấy sự vững vàng bao giờ cũng phải có trước nhờ sự phân biện – đây là một đức tính mà bà Besant đă nêu rơ là ngoại giới sẽ chuyển dịch thành đức tính “khéo xử”. Điều khó khăn với hầu hết mọi người là phải quyết định xem điều ǵ thật sự đúng và điều ǵ thật sự sai. Họ bảo rằng: “Miễn là chúng ta biết được điều đó th́ ắt không khó khăn ǵ hết và chúng ta có thể dễ dàng thu xếp mọi chuyện”. Thế mà ở phần trước kia của quyển sách này Chơn sư đă dạy chúng ta rằng chúng ta phải cố nhận ra được rằng các hạ thể không phải là chúng ta. “Con phải đào sâu vào bên trong ḿnh để t́m thấy Thượng Đế nội tâm và lắng nghe tiếng nói của Ngài, vốn là tiếng nói của chính con. Đừng nhầm lẫn các hạ thể là chính con, cả thể xác, thể vía lẫn thể trí đều không phải là con. Mỗi thể này đều giả vớ là Chơn ngă để có được điều mà nó muốn”. Vậy là việc bạn phải làm chính là cố gắng biết chắc được đến mức tối đa bất cứ ư tưởng nào trong lúc này đâu là đúng đâu là sai, đừng để cho một trong các hạ thể của ḿnh giả vờ làm Thượng Đế nội tâm sao cho nó có được một điều ǵ đó mà nó muốn cho chính ḿnh. Nếu bạn muốn tránh việc hành động vội vă, nếu bạn chịu bỏ ra một chút ít thời giờ để đào sâu vào điều mà Chơn sư dạy, th́ bạn hầu như sẽ chắc chắn biết liệu điều được mong muốn có thật sự đúng hay chăng. Tất cả đều là vấn đề thực hành v́ bạn càng thực hành th́ kênh dẫn đưa tới chơn ngă càng lớn hơn và bất cứ lúc nào bạn cũng có thể nhanh chóng đi vào trong nội tâm để biết được ư chí của Thượng Đế nội tâm. Vậy là bạn càng đạt tới được Thượng Đế nội tâm th́ bạn càng làm chủ được đủ thứ hạ thể của ḿnh thay v́ để cho đến lượt chúng khống chế bạn. Do đó đủ thứ ham muốn sẽ càng ngày càng yếu hơn cho đến khi có một lần bạn có thể phân biệt ngay được giữa điều mà chúng muốn và điều mà chơn ngă muốn. Đừng trông mong có thể ngay tức khắc phân biệt không sai lầm giữa đúng và sai, giữa cái “đúng” hư ảo của các hạ thể và cái “đúng” chân thật của chơn ngă. Thoạt tiên bạn chỉ cố gắng dừng lại khi bạn sắp làm một điều ǵ đó xét theo biểu kiến là “đúng” và đào sâu thêm một chút nữa nghĩa  là cầu viện thêm một chút điều tốt nhất nơi bạn. Nếu bạn để cho ḿnh bị lôi cuốn đi ngay tức khắc th́ có nhiều khả năng là bạn đang để cho một trong các hạ thể thuyết giải theo kiểu của riêng ḿnh về “đúng” và “sai”, bạn bắt đầu lừa gạt lương tâm bằng cách bảo rằng: “Tốt thôi, dù sao đi nữa làm như vậy đâu có hại ǵ”. Nên nhớ rằng không có điều cho quan trọng lắm, hầu hết mọi chuyện đều chẳng quan trọng ǵ cả, v́ vậy 99% những cơ hội mà bạn nghĩ rằng ḿnh đang theo một nguyên tắc th́ thực ra bạn chỉ bị dẫn dắt bởi những hạ thể lẽ ra phải làm đầy tớ cho bạn chứ không phải làm chủ bạn. Không ai có thể thờ hai chủ chứ đừng nói tới ba chủ là thể vía, thể xác và thể trí. Chúng ta chỉ có thể thờ một chủ duy nhất tức Thượng Đế nội tâm.

Bà Besant cũng tŕnh bày ư tưởng đó theo một cách khác khi bà dạy rằng: “Hăy nhượng bộ về mọi chuyện ngoại trừ những vấn đề có tính nguyên tắc”. Và sự thật là trong khi bạn phải vững như kiềng ba chân đối với đường lối hoặc nguyên tắc ứng xử chung mà cuộc đời ḿnh dựa vào đó, th́ trong hầu hết mọi hành vi sinh hoạt hằng ngày, trong hầu hết mọi quan hệ với những người khác, bạn đều có thể nhượng bộ. “Con phải luôn luôn dịu dàng, tử tế, biết điều và biết thích ứng, để cho người khác cũng được hoàn toàn tự do giống như chính con cũng cần được hoàn toàn tự do”. Làm được như vậy là chúng ta đă vận dụng óc phân biện chân chính hoặc nói theo kiểu người đời là “khéo léo”. Nhưng nên nhớ rằng khéo xử theo nghĩa này không hề ngụ ư như người ta thường giả sử là khiến cho mọi chuyện dễ chịu mà lại gây thiệt hại cho sự thật. Nó có nghĩa là sự đồng cảm và sự biết điều dịu dàng, “để cho người khác cũng có được tự do hoàn toàn giống như chính con cũng cần được điều đó”. Bạn không thể có định nghĩa nào về việc khéo xử đúng hơn định nghĩa này.

Ta hăy lắng nghe bà Besant nói về vấn đề quan trọng này:

“Bạn ắt thấy có một điều ǵ đó quan trọng cần phải làm và bạn cứ chăm chăm làm như thế; đối với những thứ c̣n lại bạn cứ để cho thiên hạ làm đúng như điều họ muốn, và bạn khẳng định ư chí của ḿnh về điều duy nhất đó trong số những điều quan trọng. Họ ắt nghĩ rằng sao bạn thoải mái và dễ nhượng bộ thế cho nên sẽ vui vẻ nghe theo bạn đối với điều bạn cho là quan trọng mà lại không hề ư thức rằng ḿnh đang nghe theo người khác. Bạn đă dùng óc phân biện; bạn đă nhường nhịn người ta đủ mọi chuyện khác, những chuyện mà họ cho là quan trọng và bạn chỉ khăng khăng đi theo điều duy nhất mà bạn muốn. Đây là điều mà kẻ cuồng tín thường ưa quên cho nên y chẳng thành công trong khi huyền bí gia luôn luôn thành công. Bạn nên nhớ rằng yoga là “hành động khéo léo”. Kẻ cuồng tín không chịu nhượng bộ về những điều chẳng có ǵ quan trọng, y không chịu phân biện giữa điều quan trọng và điều không quan trọng, v́ vậy y mới làm phật ư người khác để rồi họ đâu có chịu theo y cho dù y đúng và mục đích chính yếu của y có quan trọng đến đâu đi chăng nữa. Nếu thay v́ làm như thế bạn lại làm cho thiên hạ nguôi giận th́ họ sẽ thích chí mà làm theo bạn ngay. Sự kiện này vốn dựa vào một sự kiện quan trọng trong thiên nhiên. Cả con người lẫn con thú đều có bản năng tŕ kéo ngược chiều với bất cứ người nào đang ra sức lôi ḿnh đi. Đừng kéo mà cũng đừng đẩy thiên hạ th́ họ sẽ sẵn ḷng đến với ḿnh. Có một ngày kia tôi chứng kiến một ví dụ nhỏ về sự thật ở đây. Có một người đang ra sức kéo một con bê đi và dĩ nhiên con bê bám bốn chân xuống dưới đất, chổng đuôi lên và gh́ kéo lại con người đó bằng hết sức ḿnh. Nếu người này mà nhạy cảm th́ y sẽ ngưng không kéo nữa, thế rồi con vật cũng ngưng không tŕ kéo chống lại y và chỉ cần một chút sự vỗ về thôi th́ y cũng có thể khiến nó ngoan ngoăn đi theo ḿnh. Ta hăy nên nhớ bài học này. Nếu thiên hạ không làm theo ư ḿnh th́ ta hăy tự trách ḿnh. Nói chung là bạn ắt thấy rằng trong cách hành động của ḿnh có một điều ǵ đó khiến cho thiên hạ khó chịu. Bản thân tôi có noi theo kế hoạch này. Khi có sự va chạm và rắc rối ở một nơi nào đó th́ tôi ngồi xuống và nghĩ xem tôi đă làm cái ǵ mà đến nông nỗi này và t́m một cách làm khác. Cố gắng cưỡng chế thiên hạ th́ chẳng ích lợi ǵ. Chắc chắn là bạn có thể cưỡng chế thiên hạ theo một chừng mực nào đó, nhưng làm như vậy th́ bạn chỉ gây ra sự chống đối và rắc rối. Nhưng bạn cứ nhữ nhữ trước mắt họ một thứ ǵ rất hấp dẫn th́ họ sẽ tự nguyện bằng ḷng làm ngay. Điều này hàm ư là có khả năng lănh đạo và đây là khả năng mà Chơn sư muốn bạn cố gắng phát triển trong tương lai. Chơn sư muốn bạn biết cách lănh đạo để cho bạn có thể giúp đỡ thiên hạ dài dài thay v́ quất roi vào họ dài dài”.

 

CHƯƠNG IX

MỘT ĐIỀU NHỎ NHẶT

Chơn sư tiếp tục đưa ra một sự phân biện rất quan trọng giữa điều đáng làm và điều không đáng làm. Ngài dạy: “Con hăy rán xem điều ǵ đáng làm và nên nhớ rằng con không được xét đoán theo tầm cỡ của sự việc. Một việc nhỏ trực tiếp hữu dụng cho công tŕnh của Chơn sư ắt đáng làm hơn một việc lớn mà thế gian gọi là điều thiện”.

Khi trải qua nhiều kinh nghiệm, tôi có gặp nhiều người muốn tham gia vào một loại hoạt động nào đó, có nhiều người đến xin được phụng sự. Tôi luôn luôn gặp khó khăn với những người này v́ tôi chẳng bao giờ biết được liệu họ có tha thiết hay chăng. Một mặt người ta không muốn làm cho họ nhụt chí, mặt khác người ta cũng không muốn qui tụ một số người rồi lại phải kiếm một loại việc đặc biệt nào đó cho họ làm. Nếu người ta thực sự muốn phụng sự Chơn sư th́ y ắt chẳng màng tới việc ḿnh phải làm ǵ. Nhưng hầu hết mọi người đâu có bằng ḷng làm bất cứ điều ǵ sẵn trong tầm tay ḿnh. Hoặc là có một việc đặc biệt nào đó mà họ muốn làm và không màng ǵ tới việc làm bất kỳ chuyện ǵ khác, hoặc là họ trông mong người ta sẽ tạo ra một hoạt động nào đó cho họ làm. Lại nữa, có nhiều người không sẵn ḷng khởi sự từ đầu. Họ muốn làm một việc mà đồng loại sẽ có nhiều thiện cảm đối với họ, và do đó họ muốn bắt đầu từ khúc giữa thay v́ chịu cần cù trải qua những giai đoạn sơ khởi mà mọi công tŕnh tốt đẹp tất yếu đều phải trải qua.

 

TINH THẦN PHỤNG SỰ

Giờ đây tôi muốn các bạn đang đọc những ḍng chữ này hăy xem bạn tự nguyện phụng sự với tinh thần ǵ. Chơn sư tŕnh bày vấn đề này một cách thật minh bạch. “Một chuyện nhỏ trực tiếp hữu dụng cho công tŕnh của Chơn sư đáng làm hơn một việc lớn mà thế gian ắt gọi là điều thiện”. Do đó ta hăy rán xem liệu có phần việc nào cần phải làm mà ta có thể gọi là công việc của Chơn sư chăng: Chính cá nhân bạn phải xét đoán xem công việc của Chơn sư là ǵ. Hội Thông Thiên Học, Hội Ngôi sao Đông phương và mọi hoạt động phụ trợ cho những tổ chức này rơ rệt là công việc của Chơn sư và nếu bạn t́m được một vị trí khiêm tốn khiến bạn có thể dứt khoát nằm trong biên chế phục vụ cho các tổ chức đó th́ bạn đang làm một điều ǵ đó đáng làm hơn nhiều so với một việc khác có lẽ phô trương hơn nhưng ít liên quan trực tiếp tới việc phụng sự Chơn sư. Tôi được phép thoải mái nhớ lại chuyện cá nhân một chút, th́ tôi bắt đầu việc phụng sự Chơn sư qua chuyện dán tem lên phong b́ và viết địa chỉ của Hội Thông Thiên Học khi Tổng Hành Dinh của nó c̣n ở số 26 phố Albemarle. Tôi nhớ rằng ḿnh dứt khoát muốn có một địa vị ở văn pḥng và dĩ nhiên trong khi công việc của tôi không lấy ǵ làm hứng thú lắm th́ tôi cảm thấy rằng ḿnh đă nhét được cái lưỡi mỏng của chiếc nêm vào khe nứt và tôi chỉ c̣n phải lấy búa gơ vào cái nêm đó th́ chắc chắn là sẽ trúng đích. Tôi biết rằng ḿnh thừa sức làm việc này và có lẽ tôi sẽ không giở quẻ miễn là tôi không tỏ ra bất măn hoặc muốn làm một việc khác mà vào lúc đó không sẵn có cho tôi làm. Mặt khác, tôi vẫn trực chiến và nếu có bất cứ việc nào khác đột xuất th́ tôi đă có mặt sẵn tại chỗ để đảm đương nếu người ta không t́m được người nào khác tốt hơn.

Dĩ nhiên người ta phải sẵn ḷng tiếp tục làm một công việc đặc biệt trong một thời gian vô hạn. Chúng ta phải tin rằng Chơn sư trực tiếp chỉ đạo công việc của Hội Thông Thiên Học và Hội Ngôi sao Đông phương cũng như Ngài chỉ đạo nhiều phong trào khác trên thế giới và chúng ta có thể nhận thức được rằng Ngài biết ai đang làm việc cho ḿnh dù y có năng lực khiêm tốn đến đâu đi chăng nữa, và khi có cơ hội th́ Ngài sẽ cho họ làm được việc phù hợp hơn. V́ Ngài là bậc Thầy về mặt Tổ chức, cho nên bạn có thể tin cậy Ngài tận dụng được mọi năng lực mà bạn có. Tôi xin nhấn mạnh tới việc trực chiến có giá trị như thế nào. Nó tỏ ra là vô giá đối với tôi trong thời kỳ đầu, khi ông Keightley phải rời nơi này đi Ấn Độ th́ các vị cầm quyền ở Hội Thông Thiên Học phải nh́n quanh quất xem có ai tạm thế chỗ được cho ông chăng, và tôi đă có mặt sẵn ở đó. Tôi không đ̣i được thế chỗ cho ông, nhưng các vị cầm quyền của Hội Thông Thiên Học biết – ít ra th́ tôi cũng hi vọng rằng họ biết – là tôi tha thiết và tôi sẽ không giở quẻ khi phụng sự Chơn sư do sự thật là tôi đâu có làm ǵ nhiều. Kết quả là trong khi có thể có nhiều ứng viên khác tốt hơn dành cho chức vụ lâm thời này, nhưng tôi lại được tuyển lựa v́ họ chẳng mất công đi xa cũng kiếm được tôi.

Bạn hăy rán nghĩ xem bạn sẽ mang lại niềm vui ra sao khi bạn ngay cả chỉ phụng sự chút ít cho những người mà bạn yêu thương. Tất nhiên bạn cũng không cần phải làm được những chuyện lớn ǵ cho họ. Đâu phải lúc nào cũng có thể thực hiện được những việc phụng sự lớn lao, nhưng những người mà bạn yêu thương cũng vui ḷng với những nghĩa cử nho nhỏ chẳng khác nào đối với những nghĩa cử lớn lao. Thật vậy, tôi không thể không nghĩ rằng chính những chuyện nho nhỏ mới làm cho cuộc đời ta suôn sẻ và mặc dù ta phải làm những việc lớn lao th́ những việc này thường ảnh hưởng tới quần chúng nói chung hơn là ảnh hưởng tới cá nhân. Như vậy nếu bạn có thể nhận ra được rằng Chơn sư là một trong những đấng mà bạn kính yêu th́ bạn ắt thấy ư nghĩa của câu sau đây minh bạch hơn: “Một chuyện nhỏ trực tiếp hữu dụng cho công tŕnh của Chơn sư ắt đáng làm hơn một việc lớn mà thế gian gọi là điều thiện”.

 

KHỞI SỰ NGAY TỪ ĐẦU

Trọn cả vấn đề chỉ là âm thầm quyết tâm. Nếu bạn muốn trở thành một kỹ sư th́ bạn phải khởi sự ngay từ đầu. Nhiều người biết lái xe hơi nhưng hầu hết những người biết lái xe lại chới với khi xe bị hỏng. Lúc bấy giờ họ phải nhờ tới dịch vụ của một người nào đó đă bỏ ra nhiều năm trời để học hết về động cơ xe hơi, cách kiến tạo và sửa chữa động cơ xe hơi. Điều này cũng áp dụng cho việc phụng sự Chơn sư. Khi mọi việc đều hoàn toàn suôn sẻ th́ tất cả chúng ta đều làm được hết, nhưng thỉnh thoảng lại có chuyện trục trặc. Chuyện này có thể xảy ra ở Văn pḥng; có thể là do thái độ của thiên hạ đối với công việc hoặc đối với chính bạn, có thể là giữa hai người cùng làm việc với nhau có va chạm ǵ đó. Muốn điều chỉnh công việc th́ bạn phải có kinh nghiệm về cách thức làm việc cho dù đó là công việc ở văn pḥng hay là do tính khí của con người. Có lần trong một bài thơ, Ella Wheeler Wilcox diễn tả như sau: “Bạn cứ cười lên đi thế là thiên hạ sẽ cười theo bạn; bạn cứ thử khóc đi rồi bạn sẽ khóc một ḿnh”. Tất cả chúng ta đều có thể cùng nhau cười đùa (khi vui vẻ th́ vỗ tay vào), nhưng các nhà Thông Thiên Học và hội viên Hội Ngôi sao Đông phương phải rèn luyện ḿnh để đến trợ giúp những người đang khóc. Muốn làm như thế bạn phải rán học được minh triết qua những điều nho nhỏ trước khi bạn có thể hi vọng đạt được minh triết trong những vấn đề lớn lao hơn nơi ngoại giới.

Một lần nữa, tôi xin nhắc lại chuyện quan trọng là sẵn ḷng làm bất cứ điều ǵ ngay trong tầm tay ḿnh. Trong trận chiến tranh hiện nay có nhiều người chẳng bao giờ nhúng tay làm bất cứ chuyện ǵ lại thấy ḿnh lau nhà, chùi rửa song nồi, làm mọi thứ được coi là hạ tiện v́ giờ đây họ phải giúp đỡ và v́ họ biết rằng ḿnh cần giúp đỡ. Thật đáng buồn là chúng ta cần phải có một cuộc chiến tranh để dạy cho ḿnh bài học rất hiển nhiên này. Thật ra th́ bao giờ mà chẳng có chuyện cần phải giúp đỡ và chúng tôi muốn thiên hạ làm đủ thứ mọi chuyện đơn giản (cho dù chúng có vẻ tầm thường đến đâu đi nữa dưới mắt của thế gian) mà những chuyện đó là những điểm linh quang nho nhỏ soi sáng cho sự cao thượng của linh hồn người đang làm việc ấy. Những hành động như thế tức khắc thu hút sự chú ư của Chơn sư và từ nay trở đi ân huệ của Ngài sẽ tuôn đổ cho cá nhân đó sao cho xuất phát từ việc làm những chuyện đơn giản, y sẽ có khả năng phụng sự lớn lao hơn.

Nên nhớ rằng khi chúng ta đang đọc quyển Dưới Chơn Thầy th́ chúng ta đang bước ra khỏi thế giới của ḿnh để nhập vào thế giới của Chơn sư, và trong thế giới của Ngài mọi việc đều dường như khác hẳn so với khi chúng xuất hiện dưới đây trong thế giới phàm tục mà chúng ta thường bị bao vây trong đó. Đừng bao giờ nghĩ tới sự phán xét của thế gian về điều mà bạn đang làm hoặc muốn làm. Hăy cố nhớ rằng Chơn sư nh́n vào tâm hồn bạn để xem tinh thần làm việc của bạn chứ không giống như ngoại giới, Ngài ít chú ư tới công việc thực mà bạn đang dấn thân vào đó. Thoạt tiên ṿng ảnh hưởng của bạn rất hạn chế, nhưng nếu bạn làm nhiệm vụ của ḿnh trong phạm vi hạn hẹp đó, th́ Chơn sư sẽ tự đảm đương việc mở rộng ṿng ảnh hưởng này để cho bạn có cơ hội làm việc cho Ngài trong một địa hạt rộng lớn hơn. Tóm lại: Hăy khởi sự ngay từ đầu và cứ tiếp tục ngay từ đầu chừng nào mà người ta c̣n cần bạn làm.

 

VIỆC PHÂN BIỆN KHI PHỤNG SỰ

Thế rồi Chơn sư bảo chúng ta hăy cố gắng phân biệt giữa điều hữu dụng hơn và điều kém hữu dụng hơn. Ngài dạy rằng: “Nuôi người nghèo là một việc tốt, cao thượng và hữu dụng; thế nhưng nuôi linh hồn người nghèo c̣n cao thượng và hữu dụng hơn nuôi thể xác họ. Bất cứ người giàu nào cũng có thể nuôi được thể xác; nhưng chỉ những người hiểu biết mới có thể nuôi được linh hồn. Nếu con hiểu biết th́ con có bổn phận phải trợ giúp người khác hiểu biết”.

Những lời lẽ này bao hàm một sự thật rất quan trọng. Chúng ta (vốn là hội viên Hội Ngôi sao Đông phương và Hội Thông Thiên Học) theo giả định, có những chân lư ắt giúp cho thế gian trở nên mạnh mẽ hơn, hữu dụng hơn, và có thể đương đầu với nhiều khó khăn hơn. Không có nhiều người trong chúng ta ư thức được sự thật này và ân huệ lớn nhất mà chúng ta có thể cống hiến cho thế gian chính là việc truyền bá điều có ư nghĩa xiết bao đối với chúng ta. Chơn sư có dạy rằng bất cứ người giàu nào cũng có thể nuôi được thể xác. Chúng ta trông mong rằng một người có của cải ắt trước hết chú ư tới việc phân phối đúng đắn của cải đó – đây là việc của y. Những người trong chúng ta có thể có tài nguyên thuộc về thế giới tâm linh th́ trước hết chúng ta phải có bổn phận phân phối những tài nguyên tâm linh này càng minh triết càng tốt. Chúng ta thường trở nên nô lệ cho thái độ của thế gian đối với sự vật và quên mất rằng mặc dù thế gian không nhận ra được giá trị tài nguyên của chúng ta th́ ít ra đối với chính bản thân chúng ta và đối với nhiều người bằng hữu của chúng ta th́ chúng ta phải chứng tỏ được giá trị của các tài nguyên đó. Ít nhà Thông Thiên Học nào có được của cải thế gian, nhưng mọi nhà Thông Thiên Học đều có một chút sự hiểu biết tâm linh. Nếu họ không thể truyền bá sâu rộng sự hiểu biết tâm linh đó th́ cho dù họ là những người giàu có, có lẽ họ cũng chẳng chịu bố thí của cải một cách hào phóng.

 

TRUYỀN BÁ CHÂN LƯ

Thiên hạ đôi khi bảo tôi rằng: “Tôi làm được ít quá. Bạn thấy đó tôi đâu có ảnh hưởng ǵ. Tiền bạc dường như là trên hết”. Tôi xin trả lời họ rằng: “Bạn có biết chăng điều ǵ sẽ trợ giúp bạn trong những khó khăn của cuộc sống ?” Cái điều đă trợ giúp được bạn th́ chắc chắn nó cũng trợ giúp được những người khác. Nhiều người có thể không sẵn sàng tiếp nhận sự hiểu biết đó. Đối với những trường hợp này th́ tiếng nói của nhà Thông Thiên Học chẳng ai thèm nghe. Nhưng luôn luôn có một số người, ở bất cứ nơi đâu, cũng đều cần những sự thật mà chúng ta đang có, và chúng ta có bổn phận phải truyền bá sự thật này sao cho chúng lọt vào tai những người cần nghe.

 Tôi hoàn toàn thừa nhận rằng chúng ta cũng khó làm ǵ được nhiều nếu không có một số lượng của cải vật chất nào đó. Tiền bạc chắc chắn là trợ giúp được và nếu không có nó th́ cuộc đời quả thật là khó sống hơn. Mặt khác, chúng ta phải cho ra điều mà ḿnh có thể cho ra được. Nếu chúng ta làm chuyện đó th́ Chơn sư sẽ thêm vào công việc của ta cái khả năng mà tiền bạc mang lại được. Tiền bạc luôn luôn có sẵn trong tay những kẻ sẽ dùng nó để phụng sự Chơn sư. Và trong khi tất cả chúng ta thỉnh thoảng cũng biết rằng cần phải phấn đấu mà không có tiền bạc trợ giúp, trong khi chúng ta thường thấy nhiều kế hoạch tổng thể của ḿnh thất bại v́ thiếu tiền, th́ về lâu về dài khi kiên tŕ với số lượng ít mà chúng ta có được, chúng ta sẽ có mọi thứ trợ giúp kể cả việc tài trợ. Diễn tiến có thể là lâu dài, mức độ lâu dài của nó tùy thuộc phần lớn vào việc rèn luyện mà cá nhân phải nhận được. Y có thể cần phải trải qua một quá tŕnh dài nghèo khổ để thử xem những sự thật mà y biết được sẽ trợ giúp y ra sao trong cơn nguy hiểm. Nhưng như tôi có nói trước kia, y chiến thắng nhờ vào trải nghiệm và không một sự thật vĩ đại nào cần thiết cho một bộ phận nào đó của thế giới đă sẵn sàng mà lại không thể đạt được mục đích chỉ v́ thiếu tiền. Nó có thể không đạt được mục đích v́ thiếu năng lực, thiếu nhiệt thành, thiếu kiên tŕ nơi người sứ giả. Nhưng một khi những đức tính này đều có đủ th́ mọi chuyện khác sẽ được thêm vào.

Như vậy ta hăy để ư tới điều mà ḿnh đă có rồi và đầu tư nó theo sự hiểu biết tốt nhất của ḿnh. Không một vật sở hữu nào có giá trị lớn hơn tri thức tâm linh mang lại cho ta sự ổn định, an b́nh, tin tưởng, sức mạnh. Mọi điều này đến với chúng ta là do chúng ta đă vun bồi vào tính t́nh ḿnh những sự thật là biểu tượng của Hội Thông Thiên Học và Hội Ngôi sao Đông phương. Do đó, chúng ta hăy vận dụng những sự thật này trong sinh hoạt hằng ngày của ḿnh và sử dụng chúng để phục vụ cho mọi người xung quanh ta. Đời sống luôn luôn ít nhiều cực nhọc và khó khăn. Chỉ có những người nào trong chúng ta hiểu biết th́ mới thấy nó ít cực nhọc và ít khó khăn hơn. Và chúng ta có thể ban rải điều giúp chúng ta có được sự can đảm cho tất cả những người nào không có được một nguồn tin cậy hơn để dựa dẫm vào đó.

Hiện nay, khi toàn thể thế giới đang oằn oại trong chiến tranh th́ chúng ta phải cẩn thận sao cho tri thức mà chúng ta có được sẽ truyền bá sâu rộng, chúng ta phải cẩn thận sao cho chúng ta sống với tri thức đó thực hơn là mức chúng ta sống được từ trước đến nay, và chúng ta phải cẩn thận sao cho sự nêu gương của chúng ta rao giảng tri thức đó ắt trở nên được nhấn mạnh và khiến người khác phải chú ư. Cá nhân tôi khi phát biểu với tư cách là Tổng Thư kư của Hội Thông Thiên Học ở Anh và xứ Wales th́ tôi cảm thấy có một nhiệm vụ đặc biệt mà tôi phải làm để truyền bá Thông Thiên Học rộng răi hơn sao cho những người chịu thiệt hại do chiến tranh muốn được trợ giúp hoặc an b́nh đều có thể t́m thấy một điều ǵ đó sẽ mang lại cho họ ḷng can đảm để chịu đựng. Có thể tôi sẽ gia nhập quân đội nếu sức khỏe thể chất của tôi đủ chịu đựng được sự căng thẳng. Nhưng những sự thật về Thông Thiên Học là tất cả đối với tôi và đă dẫn dắt tôi qua nhiều giai đoạn khó khăn. Tôi có thể hiến thân cho tổ quốc, nhưng tôi cảm thấy rằng tốt hơn ḿnh nên dâng hiến linh hồn (tôi không nghĩ rằng ḿnh bị kết tội là hèn nhát) khi nói như vậy. Điều đă mang lại cho tôi sức mạnh th́ tôi cần phải ban phát nó cho những kẻ xung quanh ḿnh đang cần sức mạnh đó. Thế gian có thể gọi điều này là ngạo mạn, nhưng đó là nguyên tắc sống của tôi, và tôi ắt cảm thấy ḿnh không trung thực với chơn ngă nếu trong giờ phút khủng hoảng như hiện nay mà tôi lại không truyền bá một cách hữu ích nhất có thể được những sự thật mà thế gian đang trông ngóng và nếu không có nó th́ thế gian chẳng thể tiến bộ được bao nhiêu. Tôi hoàn toàn đồng ư rằng đa số thanh niên trong nước phải hiến thân cho tổ quốc v́ chiến tranh phần nào được thực hiện bằng thân xác, nhưng tôi hoàn toàn tin chắc vào sự thật là nền tảng của bức thư mà Ngài Derby gửi cho Tổng Giám mục Canterbury, trong đó ông đồng ư về nhu cầu các giáo sĩ phải phục vụ cho tổ quốc. Nếu một người né tránh việc hiến thân th́ làm sao mà y hiến dâng linh hồn được. Đó là v́ linh hồn là một tặng vật c̣n lớn lao hơn nhiều so với thể xác. Thế nhưng nếu một người cảm thấy ḿnh là phương tiện cho thần lực của Chơn sư và mọi giáo sĩ thuộc giáo hội đều cảm thấy thế th́ y thường có thể làm hết sức ḿnh để sống một cuộc đời đặc biệt thanh khiết sao cho y trở thành một phương tiện càng ngày càng thâm sâu để thông qua đó sức mạnh và ân huệ của Chơn sư có thể lưu chuyển mà không bị ô nhiễm.

 

CHÚNG TA SẼ PHỤNG SỰ RA SAO ?

V́ vậy vấn đề chúng ta phải làm ǵ c̣n tùy thuộc vào lập trường mà chúng ta chủ trương. Thật vậy, bổn phận của hầu hết mọi người là nêu gương cho những người xung quanh, và điều này hàm ư phải dẹp qua một bên những mối bận tâm chúng ta thích thú v́ lợi ích của những bổn phận chúng ta có nghĩa vụ làm. Tôi thường nghĩ đi nghĩ lại về vấn đề này đối với hoàn cảnh đặc biệt của riêng ḿnh, và tôi đă đi đến kết luận dứt khoát rằng chừng nào mà tôi c̣n tận hiến cho những đồng bào của ḿnh, chừng đó tôi c̣n duy tŕ được tiêu chuẩn sống cao nhất trong khả năng của ḿnh, chừng đó tôi có bổn phận phải là phương tiện hữu ích nhất để cho phong trào Thông Thiên Học chúng ta có thể truyền bá thông điệp qua đó. Thế gian có thể không đồng ư với tôi, nhưng khi tôi đă đưa ra một quyết định lớn th́ tôi nhất thời phấn đấu sống trong thế giới của Chơn sư và đưa ra quyết định theo quan điểm đó. Khi chịu áp lực của công luận xung quanh ḿnh với những h́nh tư tưởng mạnh mẽ gây sức ép lên ḿnh từ mọi phía th́ đâu phải lúc nào cũng dễ dàng nhớ kỹ được cái cuộc sống tạm thời trong thế giới của Chơn sư đó. Nhưng tôi mạnh mẽ cảm thấy sự thật trong những lời lẽ của Shakespeare: “Chơn ngă của bạn th́ bạn phải trung thực với nó và phải theo đuổi điều đó suốt ngày đêm, bấy giờ bạn không thể giả dối với bất kỳ ai khác”. Người ta có thể nghĩ rằng bạn giả dối, nhưng điều đó khác hẳn việc bạn quả thật giả dối. Tôi hoàn toàn công nhận rằng thiên hạ thường để cho những khuynh hướng, những nhược điểm của ḿnh xen lấn vào phán đoán của ḿnh. Họ cố gắng ḥa giải ham muốn với bổn phận, rồi ra sức tự thuyết phục ḿnh rằng động cơ thúc đẩy ḿnh là bổn phận chứ không phải ham muốn. Vấn đề là ở chỗ quan hệ giữa con người với lương tâm y, và một khi lương tâm người ta trong sáng th́ người ta phải có đủ sức mạnh đương đầu với bất kỳ khó khăn nào mà một phán đoán như thế đưa ra.

 

CHƯƠNG X

PHỤNG SỰ VỚI VAI TR̉ GIÁO DỤC

Chơn sư có nhận xét rằng: “Cho dù con có thể khôn ngoan đến đâu đi nữa th́ trên con đường Đạo này, con c̣n phải học nhiều điều, nhiều đến nỗi mà ở đây cũng phải có sự phân biện và con phải suy nghĩ kỹ lưỡng điều ǵ đáng học”. Ngài giải đáp tư tưởng này bằng cách dạy cho chúng ta rằng chúng ta phải học v́ “Thượng Đế là Minh triết cũng như là Bác ái” và nhất là chúng ta phải học điều giúp chúng ta trợ giúp người khác được nhiều nhất.

Phát biểu này của Chơn sư dường như là căn bản của mọi nền giáo dục chân chính đối với tôi, v́ tôi mạnh dạn chủ trương rằng ta không thể coi nền giáo dục là thỏa đáng nếu nó không bao gồm việc phục vụ những người khác. Đôi khi người ta bảo rằng mục đích lớn lao của giáo dục trước hết là khiến cho con trẻ được hạnh phúc ở lứa tuổi ấu thơ, để rồi cung cấp cho nó sự hiểu biết hữu ích. Thật vậy, hạnh phúc, hiểu biết và phụng sự xét về mặt thế giới của Chơn sư quả thật là những từ hoán chuyển được cho nhau. Không một đứa bé trai hoặc gái nào thật sự hạnh phúc nếu ngay từ khi c̣n tấm bé nó không bắt đầu chuyển hóa được sự hiểu biết thành ra việc phụng sự. Ở nhiều trường cao cấp hơn người ta hiểu rất rơ sự thật này, nhưng xét chung th́ nhà cầm quyền giáo dục c̣n quá bận tâm với những chủ đề và phương pháp theo qui ước cho nên rất ít chú ư tới việc chọn lựa phương pháp và chủ đề theo quan điểm cách thức giúp cho con trẻ có thể dễ dàng vận dụng sự hiểu biết đạt được hằng ngày nơi trường học để giúp đỡ cho những kẻ chậm tiến hơn ḿnh.

Nơi trường Ấn Độ Trung Ương ở Benares, chúng tôi luôn luôn có thói quen khuyến khích học viên chẳng những học hỏi mà c̣n phải phục vụ, và thật vậy chúng tôi thấy đúng là bất kỳ đứa trẻ nào thiếu năng lực theo một đường lối đặc biệt nào đó đều có thể bớt đi rất nhiều sự dốt nát của ḿnh qua việc trợ giúp theo đường lối đó cho một đứa trẻ khác thậm chí c̣n dốt hơn ḿnh nữa. Không có một cách nào tăng trưởng tốt hơn là cố gắng khiến cho bản thân hữu dụng đối với môi trường xung quanh; và khi trợ giúp cho những người khác th́ chúng ta gia tăng được năng lực học hỏi của ḿnh.

Tiếc thay trong hoàn cảnh thời nay, chúng ta thường phải giáp mặt với phát biểu cho rằng lớp trẻ không được lơ đễnh việc học hành, chưa đến lúc để cho chúng phục vụ. Chúng học đă hết thời gian rồi th́ lấy đâu mà đi ra thế giới bên ngoài phục vụ nữa. Tôi hoàn toàn không đồng ư với những phát biểu như thế. Tôi không nghĩ rằng trẻ con gần như được hạnh phúc mà lẽ ra chúng phải có, thế gian gần như là một nơi chốn vui vẻ mà lẽ ra nó phải như thế. Có nhiều lư do khiến xảy ra như thế, nhưng ít nhất một trong những lư do là: trẻ con không mang lại cho thế giới bên ngoài cái bản chất vui tươi ấu trĩ mà thế giới cần tới, và tôi mong sẽ có lúc khi một phần sinh hoạt học đường của trẻ con sẽ bao gồm việc tỏa ra thế giới xung quanh để cống hiến cho nó bài hát mà chỉ có trẻ con mới hát được. Trong lúc này th́ tôi không gợi ư rằng trẻ con phải dự phần tích cực vào chính trị hoặc thảo luận về các vấn đề xă hội. Nhưng tôi xin mạnh mẽ tuyên bố rằng có những hành vi phụng sự nhất định mà chỉ trẻ con mới làm được thôi, và điều này rất cần thiết cho cả thế hệ người lớn lẫn thế hệ trẻ trung.

 

HAI LOẠI NGHIÊN CỨU

Do đó trẻ con có hai loại nghiên cứu cần thực hiện: (1) điều mang lại cho trí nó sự linh hoạt và khiến cho trí được nhạy bén, (2) điều khiến cho nó có thể tức khắc sử dụng được theo cách của riêng ḿnh. Có nhiều đề tài cần nghiên cứu; nó cần biết nhiều chuyện; một phần v́ những điều ấy dứt khoát có ích cho nó trong cuộc sống sau này; một phần v́ chúng mang lại cho tâm trí một sắc thái nào đó, một phần v́ chúng giúp cho tâm trí có một kỷ luật nào đó và một phần v́ chúng thông qua tâm trí giúp cho trẻ con tiếp xúc với thế giới quá khứ, hiện tại và vị lai. Và người ta phải rèn luyện cả thể xác lẫn thể vía theo những đường lối giống như thế. Tạm thời th́ chúng ta không quan tâm tới những vấn đề này. Người ta cũng phải dạy cho trẻ con t́m hiểu vị trí thực sự của ḿnh trong thế giới mà chúng đang sống – thế giới mang lại cho nó điều ǵ và với vai tṛ là một đứa trẻ nó tồn tại để cống hiến được điều ǵ cho thế giới. Nó có một nốt nhạc nhất định để trổi lên trong bản ḥa âm của thế giới vào lúc c̣n thơ ấu cũng như khi đă trưởng thành. Do đó đứa trẻ nào không được khích lệ để biến sự nghiên cứu thành ra phụng sự th́ không thể thực sự hạnh phúc được. Đó là v́ một trong những điều kiện để tăng trưởng là chúng ta dần dần nhận thấy rằng ḷng ích kỷ của chúng ta cũng ít hẹp ḥi bao nhiêu th́ hạnh phúc của chúng ta càng trường cửu bấy nhiêu. Trẻ con rất mau chán ngán với hầu hết những đồ chơi của ḿnh và nhiều bậc phụ huynh phải xao lăng tâm trí chẳng biết làm ǵ để chăm sóc đám con trẻ từ ngày này sang ngày khác khi chúng hết giờ học rồi. Một phần bản chất của trẻ con là thỉnh thoảng nó lại đâm ra có “ác ư”, đây chẳng qua chỉ là kết quả của việc ṃ mẫm dẫn dắt tất cả chúng ta tới việc khao khát một loại kinh nghiệm nào đó. Tuy nhiên đứa trẻ có thể ít gây ác ư hơn nếu ta có thể dạy cho nó hiểu ra được rằng nơi bản thân nó có một quyền lực mà nó có thể sử dụng nếu nó muốn – khả năng kết hợp vào những người khác, và như thế có được một loại hạnh phúc thỏa đáng hơn so với khi chỉ sống một ḿnh. Do vậy, tôi xét thấy rằng mọi đứa trẻ trai và gái đi đến trường trung học hoặc đại học đều nên phối hợp việc học hành với một loại phụng sự nào đó. Tôi xét thấy rằng mọi nền giáo dục mất cân bằng đều không cung ứng cho mọi học viên việc phụng sự thỏa đáng.

 

NGUYÊN TẮC SƠ KHỞI

Chơn sư đưa ra nguyên tắc sơ khởi mà mọi sự nghiên cứu và phục vụ phải dựa vào đó. Ngài dạy rằng: “Con phải học cách chân thực hết mức trong tư tưởng, lời nói và hành động”. Thế là Ngài nhấn mạnh rằng thế giới được xây dựng trên nền tảng sự thật và Ngài cho ta thấy rằng đây là bài học đầu tiên mà mọi người trong chúng ta phải học cho dù ở nhà trường hay ngoài đời. Thực vậy, sự thật là nền tảng của mọi sự tăng trưởng và tốc độ tăng trưởng của chúng ta c̣n tùy thuộc vào mức độ chúng ta để cho sự thật thấm nhuần tư tưởng, lời lẽ và hành động của ḿnh. Mọi điều trên thế giới mà xấu xa, không thanh khiết, sai trái, bất hạnh, đều quả thực là không chân thật. Điều này có nghĩa là tất cả những thứ đó đều xuyên tạc sự thật, đều áp dụng lệch lạc sức mạnh của sự thật. Thiếu hiểu biết là nguyên nhân của mọi rắc rối trên thế giới và thế gian cần hơn hết cái sự thật – vốn cũng là sự hiểu biết – cần được phổ biến sâu rộng dưới những h́nh thức thích hợp với đủ thứ sự hiểu biết ở nhiều giai đoạn tiến hóa khác nhau mà những người trên thế giới đang theo đuổi. Chơn sư dạy chúng ta phải đạt tới sự thật ra sao và Ngài dạy rằng chúng ta không được tin một điều ǵ đó là đúng v́ nhiều người khác cho rằng nó đúng, cũng không phải v́ người ta đă tin vào điều đó trong hằng thế kỷ, cũng không phải v́ nó được viết ra trong một quyển sách nào đó mà thiên hạ cho là thánh thư. Ngài dạy rằng chúng ta phải tự ḿnh suy nghĩ và tự ḿnh xét đoán. “Kẻ nào muốn bước trên Thánh đạo phải học cách tự suy nghĩ, v́ mê tín dị đoan là một trong những điều tệ hại nhất trên thế giới, một trong những xiềng xích mà con phải tuyệt đối dứt bỏ”.

 

H̀NH TƯỚNG KHÔNG PHẢI LÀ THỰC TẠI

Chính v́ thế mà thật quan trọng xiết bao khi có được những vị thầy sở đắc một lượng tri thức chân thực nào đó và càng giải thoát khỏi thành kiến càng nhiều càng tốt. Trong lúc này tôi không gợi ư rằng h́nh tướng là không có giá trị, v́ khi c̣n thơ ấu trẻ con phải liên kết với nhiều h́nh tướng. Nhưng người thầy không bao giờ được quên mất sự thật là h́nh tướng chẳng qua chỉ là h́nh tướng cho dù h́nh tướng có thể đẹp đến đâu đi chăng nữa, và sự tồn tại của h́nh tướng c̣n tùy thuộc vào thực tại nội tâm. Những người c̣n trẻ đă được dạy dỗ để tin rằng h́nh tướng bao xung quanh ḿnh là những h́nh tướng có giá trị thật sự đến nỗi mà hoặc là họ nổi loạn chống lại h́nh tướng hoặc là bị h́nh tướng ám ảnh. Trong cả hai trường hợp th́ ác ư đều len lỏi vào và đau khổ tất nhiên nối gót bất cứ niềm tin nào cho rằng h́nh tướng là thực tại. Do đó chúng ta phải cố gắng xét xem mọi h́nh tướng là những cột mốc chỉ đường dẫn tới thực tại bị h́nh tướng bao hàm. Trong những giai đoạn đầu của cuộc sống ấu thơ h́nh tướng thu hút nhiều nhất và chúng ta không thể trông mong có được một nỗ lực đáng kể nào nhằm nh́n xuyên suốt qua h́nh tướng thấy được thực tại vượt ngoài tầm h́nh tướng. Nhưng khi việc giáo dục tiếp diễn th́ h́nh tướng càng ngày càng vô nghĩa và chỉ được dùng để nêu bật lên vẻ đẹp của một sự đơn nhất căn bản vốn có thể biểu hiện ra qua biết bao nhiêu sự đa dạng biểu kiến. Do đó tất cả chúng ta phải thấy rằng ḿnh đă là nạn nhân xiết bao của những thói quen tư tưởng theo qui ước. Dĩ nhiên lật ngược đáng kể lại bằng cách không tin chỉ v́ một số lớn người khác tin đó chỉ là thái độ mà nhiều nhà tư tưởng độc lập thường theo đuổi. Nhưng chúng ta phải liên tục cảnh giác để thấy rằng ḿnh không bị trôi dật dờ một cách vô ư thức, hoặc là theo môi trường xung quanh hoặc là theo ḍng tư tưởng chung chung mà xứ sở chúng ta hoặc thế giới nói chung đang trôi dật dờ theo đó. Những người nào muốn phụng sự Chơn sư phải học cách tự ḿnh suy nghĩ và điều này đ̣i hỏi phải truy tầm, phân tích những động cơ thúc đẩy có trước tư tưởng, lời lẽ và hành động của chúng ta.

 

NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ HIỂU LẦM

Thế rồi Chơn sư nhận xét rằng chúng ta không được nghĩ về người khác điều mà chúng ta không biết chắc chắn. Cố nhiên đây là một trong những bài học khó khăn nhất, và một trong những hành vi phụng sự có giá trị nhất mà cả người già lẫn người trẻ đều có thể hiến ra để trợ giúp cho những người khác. Tất cả chúng ta đều ưa sẵn sàng tưởng tượng, thế rồi cứ coi sự tưởng tượng đó như thể là sự hiểu biết. Nhiều ác cảm giữa thiên hạ chỉ v́ họ thường nghĩ tới cái điều mà họ không biết chắc, và điều đó thường té ra là không đúng sự thật. Một người nói chuyện trực tiếp với người khác khi người ta tưởng tượng rằng người khác đang chống đối ḿnh th́ thường sẽ giải tỏa được sự hiểu lầm. Thật vậy hầu hết mọi người đều ít chống đối hơn với những đối tượng mà ḿnh phản đối khi họ được diện kiến với nhau. Theo thông lệ th́ khi hai người đến với nhau th́ chính cái nỗ lực nho nhỏ đó luôn luôn khiến cho sự Thống nhất căn bản được khẳng định, và nếu có thiện chí th́ chỉ một chút cố gắng thường là khắc phục được sự hiểu lầm vốn phần lớn nảy sinh ra do việc xa cách và do sự thiếu hiểu biết.

Vậy là nơi hầu hết mọi người đều có khuynh hướng nhất định ưa thêm mắm thêm muối, và điều này cũng gây ra nhiều hiểu lầm và khó khăn. Chơn sư có nhận xét rằng chúng ta thường tưởng tượng người khác nghĩ xấu về ḿnh. “Nếu có người làm điều ǵ đó mà con nghĩ rằng sẽ làm hại đến con, hoặc nói một điều nào đó mà con nghĩ rằng áp dụng cho con th́ đừng nghĩ ngay rằng người đó có ư định làm hại con”. Chẳng điều ǵ đúng hơn sự thật là mỗi linh hồn đều có chuyện rắc rối của riêng ḿnh và tư tưởng của nó chủ yếu quay ṿng ṿng xung quanh ḿnh. Thái độ của chúng ta đối với người khác tùy thuộc phần lớn vào cách thức mà bản thân chúng ta vướng mắc với thế giới vào lúc đó – tùy thuộc vào sức khỏe thể chất của ta, niềm hi vọng mà ta có về tương lai và kư ức của ta về quá khứ. Nói chung th́ việc một người khác làm ǵ không quan trọng bằng việc hành động đó có quan hệ như thế nào với cái thế giới nhỏ xíu mà chúng ta đang sống trong đó. Một chuyện lặt vặt mà ngày hôm qua tôi nghĩ rằng không đáng ǵ th́ ngày hôm nay tôi có thể cho là rất quan trọng chẳng qua v́ cơn đau răng đă xen vào thế giới bé nhỏ của tôi làm cho dây thần kinh của tôi cứ giật liên hồi. Mọi loại t́nh huống xét theo biểu kiến là tầm phào lại có thể phối hợp để khiến chúng ta có một quan điểm rất thiếu nhân từ đối với hành động của người khác. Bà Besant thường dạy chúng ta rằng cảm thấy bị xúc phạm là t́nh trạng ích kỷ v́ công việc của chúng ta là chúng ta cứ làm, c̣n thái độ của người khác đối với chúng ta không dính dáng ǵ vô đó.

Đây là một bài học rất khó học thuộc, v́ trong quá khứ chúng ta đă lệ thuộc xiết bao vào thế giới bên ngoài. Nếu chúng ta muốn trở thành đệ tử của Chơn sư th́ chúng ta phải có tính t́nh tích cực hơn, và khiến hoàn cảnh của chúng ta phải tùy thuộc vào điều mà chúng ta ban ra hơn là điều mà chúng ta nhận được. Tôi thường nghĩ rằng cuộc sống của những nhân viên văn pḥng ở thành phố tùy thuộc nhiều vào chuyện đời sống gia đ́nh ở nhà xảy ra cho những ông xếp của họ hơn là tùy thuộc vào sự lơ đễnh hoặc khéo léo khi họ chú tâm tới công việc của xếp. Một thủ trưởng thấy món trứng chiên buổi sáng làm quá tồi, chỉ nói được ít lời với vợ, bị đám con quậy v́ nô đùa quá trớn, không t́m ra được cái nơ thắt cổ áo khi mặc quần áo, trễ chuyến xe lửa ḿnh ưa thích, thấy cái chỗ ngồi ḿnh ưa thích bị người khác chiếm mất, hậu quả là bầu không khí ở văn pḥng hôm đó chẳng ai chịu nỗi, và mọi chuyện mà đám thuộc cấp làm đều ngứa mắt. Đám thuộc cấp có thể tưởng tượng rằng ông xếp không thích ḿnh hoặc có chuyện hiềm khích với ḿnh trong khi sự thật là trọn cả sự ác ư đó chỉ bắt đầu bằng việc mất cái nơ thắt cổ áo. Trong lúc này th́ tôi không muốn gợi ư rằng trường hợp đó luôn luôn xảy ra, nhưng nó thường rất xảy ra như vậy. Chơn sư có nhận xét như sau: “Có lẽ một người nào đó hoặc một chuyện ǵ đó đă làm y tức giận và v́ y bất chợt gặp con cho nên y bèn giận cá chém thớt. Y đang hành động một cách điên rồ v́ mọi sự giận dữ đều là điên rồ, nhưng không v́ thế mà con được quyền nghĩ về y không đúng sự thật”.

 

CHƯƠNG XI

SỰ PHÂN BIỆN

Chơn sư tiếp tục giải thích rằng khi bạn trở thành đệ tử của một trong các đại Chơn sư th́ “bạn có thể luôn luôn thử lại sự thật trong tư tưởng ḿnh bằng cách đặt nó gần kề tư tưởng của Chơn sư”. Ngài giải thích rằng đệ tử vốn hợp nhất với Chơn sư và chỉ cần nhập tư tưởng của ḿnh vào tư tưởng của Chơn sư th́ thấy ngay được liệu tư tưởng đó có phù hợp hay chăng. Nhận xét này rơ ràng là không áp dụng cho các đệ tử c̣n dự bị mà chỉ áp dụng cho những người tâm thức đă phần nào ḥa lẫn một cách tuyệt vời với tâm thức của Chơn sư. Nhiều người đă bảo tôi rằng họ không thể hiểu được làm cách nào hoàn thành việc đặt tư tưởng ḿnh bên cạnh tư tưởng Chơn sư. Lời giải thích duy nhất mà tôi có thể nghĩ là đệ tử được Chơn sư thu nhận nếu muốn có thể luôn luôn lắng nghe hài âm vĩ đại mà Chơn sư gửi ra cho thế giới. Bất cứ tư tưởng nào mà đệ tử hài ḥa với hài âm của Chơn sư hoặc là không hài ḥa với nó; bằng cách này đệ tử cảm thấy được theo một cách nào đó liệu tư tưởng của ḿnh có chân thật hay chăng. Nếu nó chân thật th́ nó mang lại cho y một ư thức sống trọn vẹn và có thể nói là khiến cho y tỏa sáng qua trọn cả bản thể. Nếu tư tưởng không chân thật th́ nó khiến cho y có ư thức khó chịu và không thoải mái. Theo một cách nào đó, y cảm thấy không ḥa nhịp với vạn vật, và trực giác biết rằng ḿnh không chân thật như lẽ ra ḿnh nên vậy. Có lẽ hầu hết mọi người đều có cảm xúc này ở mức độ lớn hay nhỏ. Ở một giai đoạn nào đó, khi lương tâm đă hoạt động, nói chung chúng ta ắt biết được trong bản thể ta tư tưởng nào có tính cách xây dựng và tư tưởng nào có tính cách phá hoại. Chúng ta có một số lư tưởng nào đó và ít ra th́ chúng ta cũng biết liệu nói chung chúng ta có sống với những lư tưởng đó hay chăng. Thật vậy những người đó có thể luôn luôn tự hỏi: “Liệu Chơn sư nghĩ ǵ về điều này ? Liệu Chơn sư nói hoặc làm ǵ trong hoàn cảnh này ?” Nhưng đệ tử của Chơn sư có những xúc cảm với cường độ lớn hơn nhiều và cách duy nhất giúp tôi mô tả sự khác nhau giữa tư tưởng hài ḥa và tư tưởng không hài ḥa, đó là cho bạn biết rằng tư tưởng hài ḥa mang lại một ư thức mới mẻ và trong sáng c̣n tư tưởng không hài ḥa gây ra một cảm giác u ám và khó chịu. Dĩ nhiên chúng ta có thể đắm ch́m trong tư tưởng và hành động của ḿnh đến nỗi ngăn cách hoàn toàn với tâm thức của Chơn sư và rất thường khi chúng ta suy nghĩ vô ư thức hoặc hành động và cảm giác về những sự vật không khiến chúng ta cảm thấy gần như khó chịu mà lẽ ra phải như thế, v́ chúng ta không mất công trắc nghiệm chúng theo ánh sáng tâm thức của Chơn sư. Chúng ta đồng nhất ḿnh hoàn toàn với các cơi thấp trong Thiên nhiên đến nỗi chúng ta không nghe được tiếng nói của tinh thần và rất thường xảy ra việc chúng ta trải qua một loạt những tư tưởng, xúc cảm hoặc hành động sai lầm trước khi tỉnh ngộ ra sự thật là chúng ta đă lầm lạc. Nhất là trong thời buổi như hiện nay khi cuộc khủng hoảng lớn trên thế giới tập trung năng lượng của ta rất nhiều vào những hoạt động hoàn toàn trần tục th́ có nguy cơ là chúng ta quên mất các đấng Đại Đạo sư sắp xếp an bài vận mệnh các quốc gia và dẫn dắt các dân tộc hành động đúng đắn.

 

SỐNG VỚI LƯ TƯỞNG CỦA M̀NH

V́ vậy chúng ta không thể trông mong kẻ phàm phu có thể liên tục suy nghĩ điều mà Chơn sư suy nghĩ, nói hoặc làm trong những trường hợp như thế. Nhưng bất cứ kẻ nào có liên hệ nhất định với Chơn sư th́ phải thường xuyên lắng nghe sự hài ḥa trong cuộc sống của Chơn sư và thế là hầu như tự động chấp nhận điều này hoặc bác bỏ điều kia khi hành động hoặc tư tưởng xảy đến với y trong quá tŕnh sinh hoạt hằng ngày. Nói chung th́ tôi khuyên các môn sinh, nhất là trong t́nh trạng hiện nay, hăy sống tối đa theo lư tưởng của ḿnh để cho những lư tưởng đó chiếm ưu thế đến mức tối đa. Lư tưởng có thể là một Đạo sự lớn hoặc một nguyên tắc lớn, nhưng bây giờ đă đến lúc phải nhớ kỹ nó và ngăn chận không để cho người ta công kích nó. Hiện nay chúng ta ở giai đoạn xung đột giữa lư tưởng và những h́nh thức đă lỗi thời, giữa Thời đại mới và Thời đại cũ; do đó những lư tưởng của chúng ta đặc biệt dễ bị công kích v́ thời đại cũ vẫn muốn chiếm ưu thế và ra sức tiêu diệt điều ǵ có thể thế chỗ ḿnh. Xét về một số phương diện th́ hiện nay ta dễ có lư tưởng hơn v́ buổi b́nh minh của Thời đại mới kích thích chúng hầu như quá sớm. Mặt khác, ta cũng dễ bỏ lư tưởng và chấp nhận những điều qui ước, sáo ṃn và t́nh h́nh thế giới nói chung.

 

HƯỚNG TỚI TÀI LĂNH ĐẠO

Luôn luôn có sự cám dỗ đi chầm chậm theo đa số mọi người hơn là lănh đạo với một thiểu số. Tài lănh đạo là việc khó thực hiện đ̣i hỏi chẳng những nhiều hi sinh mà c̣n gây ra nhiều phiền năo và thất vọng. Nó cũng chuốc lấy sự chế nhạo, khinh bỉ và không tán thành của môi trường thông thường xung quanh. Đừng tưởng tượng có lúc nào đó bất cứ nhà lănh đạo thế giới đă từng được tạo ra cũng phải trải qua cuộc đời trong những tràng vỗ tay của đồng loại. Hiện nay ta không sẵn sàng cho tài lănh đạo, nhưng bây giờ đă đến lúc bắt đầu và muốn bắt đầu phải cố gắng hiểu được lư tưởng của chúng ta là ǵ và bám cứng lấy nó. Đây là giai đoạn đầu tiên hướng tới tài lănh đạo hoặc ít ra th́ cũng không sẵn sàng được rèn luyện để tiến tới khả năng lănh đạo. Giai đoạn sơ khởi là học cách đứng vững trên đôi chân của ḿnh, giúp đỡ tối đa cho những người khác, và càng ít yêu cầu người khác giúp đỡ th́ càng tốt. Được người khác giúp đỡ th́ cũng tốt thôi, nhưng bổn phận ta là phải làm việc mà càng ít được giúp đỡ càng tốt. Tôi không gợi ư rằng nên bác bỏ việc được đề nghị giúp đỡ. Việc nhận hay cho đều có phước cả. Và phước lành ban rải đều cho kẻ nhận cũng như kẻ cho. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh tới việc chúng ta không được tùy thuộc vào sự giúp đỡ của những người khác, v́ trên đời này nhiệm vụ của chúng ta là phải giúp đỡ cho những người khác vẫn thấy cần phải dựa dẫm vào sức mạnh mà họ có thể thu lượm từ bên ngoài. Cách thức thực hiện điều đó là đề tài của tâm lư học hơn là chủ đề của những tài liệu sơ cấp về quyển Dưới Chơn Thầy. Chẳng có ǵ phức tạp hơn là sự tiến bộ trên Thánh đạo. Ở đây, tôi chỉ muốn nêu ra một vài nguyên tắc tổng quát sao cho ta có thể biết tới và nghiên cứu chúng. Mỗi nguyên tắc này sẽ thể hiện khác nhau nơi những người khác nhau tùy theo tính khí riêng của họ, nhưng trong mọi trường hợp th́ nguyên tắc vẫn cứ như thế.

 

NHỮNG NGUY CƠ NÓI QUÁ LỐ

 

Tôi không già sử rằng bất cứ người nào trong chúng ta có thể thực hành hoàn hảo phát biểu của Chơn sư: “Con không bao giờ được nói, làm hoặc suy nghĩ điều mà con không tưởng tượng được rằng Chơn sư lại làm, nói hoặc nghĩ như thế”. Ngài đưa ra một lư tưởng và yêu cầu ta tha thiết phấn đấu hướng về nó được bao nhiêu càng tốt. Phải mất một thời gian dài mới sắp xếp đủ thứ hạ thể của ta được trật tự, và không ai nên thất vọng v́ ḿnh không thể biến hỗn loạn thành trật tự ngay lập tức, hoặc v́ ḿnh thường thất bại. Tôi chưa bao giờ nghe thấy Chơn sư kết án sự thất bại, nhưng tôi biết chắc rằng Ngài trông mong chúng ta tiếp tục cố gắng cho dù chúng ta thường hay thất bại.

Thế rồi chúng ta được dạy cho đủ thứ cách khiến chúng ta phải cố gắng hài ḥa cuộc sống của chính ḿnh với cuộc sống của các bậc Đại Đạo sư. Chúng ta được dạy dỗ là phải chân thật về lời nói chính xác và không ngoa ngoắc. Ngoa ngoắc là một lỗi lầm thông thường nhất trong tất cả chúng ta, nhất là trong những người có tính khí ưa tưởng tượng thật nhiều. Chúng ta không ngoa ngoắc v́ chúng ta cố t́nh muốn xuyên tạc sự thật mà v́ thể vía của chúng ta thích những rung động dữ dội, và v́ chúng ta thích tạo ra một tác dụng nhất định lên môi trường xung quanh. Những sự kiện vốn không có tác dụng kích thích thể vía hoặc làm cho môi trường xung quanh ta chú ư. Khi chúng ta không có được tác dụng này chúng ta bèn tăng cường chúng lên để có kết quả mà chúng ta muốn. Kết quả là chúng ta có một thói quen suy nghĩ, cảm xúc và nói năng bừa băi, sớm muộn ǵ thiên hạ cũng không c̣n tin chúng ta nữa, do đó khả năng hữu dụng của chúng ta trên thế gian bị giảm đi đáng kể, và chúng ta sẽ xa hơn chứ không gần hơn với việc phụng sự Chơn sư. Trong nỗi đau sinh ra do quá tha thiết giúp đỡ đồng thời lại bất lực không giúp đỡ được, chúng ta sẽ học được cách giúp đỡ mà không ngoa ngoắc hoặc bằng một cách khác khiến cho sự vật có vẻ không giống như thật sự chúng như vậy. Nhiều người phàn nàn rằng hoàn cảnh của họ gây cản trở rất nhiều cho ḷng tha thiết phụng sự của họ. Một trong những nguyên nhân của điều này có thể là trong quá khứ họ đă không dùng một cách chân thật những quyền năng mà lúc bấy giờ họ có được. Do đó trong kiếp này họ phải học bài học ḷng th́ tha thiết mà lại không thể ứng dụng được.

Ta được dạy bảo đừng gán động cơ thúc đẩy cho người khác và đây là một trong những lầm lỗi thông thường nhất của chúng ta. Chúng ta thấy hành vi, tư tưởng hoặc xúc cảm, và chúng ta tức khắc thuyết giải nguyên nhân. Kinh nghiệm riêng của tôi là hầu hết mọi người hành động theo những lư do mà ta không biết được khi ta chỉ trích họ. Trong trường hợp của chính ḿnh, tôi biết thiên hạ thật ra chẳng biết được bao nhiêu về những động cơ thúc đẩy ẩn dưới hành động của tôi, và tôi giả sử rằng điều này cũng đúng với những người khác. Thiên hạ có những chuyện rắc rối phiền năo và sầu khổ của riêng ḿnh; rất thường khi họ hành động do ảnh hưởng của những rắc rối phiền năo và sầu khổ đó mặc dù xét theo quan điểm của kẻ bàng quan th́ hành động này chẳng có liên quan ǵ tới chúng. Nhà lănh đạo càng vĩ đại th́ y càng thuyết giải tử tế thái độ của người khác đối với ḿnh. Tôi thường lấy làm lạ tại sao bà Besant lại hay bị lừa gạt, tôi thấy dường như chỉ khi bà biết chắc rằng những kẻ lường gạt bà cố t́nh làm như thế v́ động cơ thúc đẩy xấu xa; nhưng tôi tin rằng ở một giai đoạn nào đó bạn chỉ có thể nghĩ tử tế cho mọi người và trong khi về một số phương diện nào đó bạn có thể dễ bị lừa gạt hơn. Thế nhưng v́ những tư tưởng của bạn mang đầy thiện chí cho nên hành vi lừa gạt sẽ báo ứng dội lại kẻ lừa gạt và dạy cho y một bài học khủng khiếp. Hơn nữa, khi sản sinh ra một ḍng thiện chí liên tục như thế bạn có được quyền năng bằng một cách nào đó ngăn cản người ta hành động hướng về bạn nếu bạn có ít tấm ḷng thanh khiết hơn và rơ ràng là khả năng phụng sự Chơn sư của bạn sẽ gia tăng rất nhiều do bạn có tư tưởng trong sáng mà không một nghịch cảnh bên ngoài nào có thể làm hoen ố được.

Một trong những lời khuyên giá trị nhất trong quyển Dưới Chơn Thầy là: “Nếu con nghe có một câu chuyện phương hại đến một người nào đó th́ con đừng lập lại nó, nó có thể không đúng sự thật, và cho dẫu nó có đúng sự thật th́ chẳng nói ǵ cả vẫn nhân từ hơn”. Loài người dường như đặc biệt có khuyh hướng lập lại những chuyện ngồi lê đôi mách về người khác, và tôi tưởng tượng rằng ít ra th́ một nửa những chuyện phiền năo và rối rắm trên thế giới có nguyên nhân là do thói quen ngoa ngoắc độc hại này v́ người ta thiếu khả năng kiểm soát đủ thứ hạ thể của ḿnh, chúng luôn luôn khao khát một loại kích động nào đó.

Chúng ta cũng được dạy rằng “con hăy nghĩ kỹ trước khi nói kẻo con sẽ nói không chính xác”. Chúng ta quá hung hăn và bốc đồng cả về ngôn ngữ lẫn hành động, và nếu chúng ta b́nh tĩnh hơn một chút, trầm tư, tự chủ hơn th́ chúng ta có thể nói dứt khoát hơn và với ư thức trách nhiệm lớn hơn. Nhưng tôi rất tiếc mà phải nói rằng nhiều người trong chúng ta giống như con bướm cứ bay lượn lăn xăn chẳng màng tới hậu quả của lời nói, xúc cảm hoặc hành động miễn là ngay lúc đó chúng ta vui hưởng th́ đủ rồi. Chúng ta cũng quá sa đà với việc tưởng tượng rằng tương lai tự nó có thể thu xếp đâu vào đó được và khi tương lai xảy tới th́ chúng ta lại thường ước ao rằng giá mà trước đó chúng ta để ư thêm một chút nữa cho kiến tạo tương lai.

 

TƯỞNG TƯỢNG ĐỐI LẬP VỚI GIẢ VỜ

 

Lại nữa, chúng ta phải tránh việc giả vờ là điều mà thật ra chúng ta không phải thế. Đây là vấn đề khó nhất đối với nhiều người. Chúng ta thường có thói quen giả vờ để gây ấn tượng, để dẫn dụ người khác chú ư tới chúng ta hơn, tôn trọng chúng ta hơn mức mà hiện trạng chúng ta cho phép. Nếu người ta hiểu ra được rằng ḿnh càng tự nhiên bao nhiêu th́ ḿnh tất nhiên gây ấn tượng và hữu dụng bấy nhiêu. Sớm muộn ǵ th́ thiên hạ cũng lật tẩy được sự giả vờ đi, thế là ṭa lâu đài mà bạn mất bao nhiêu công lao xây dựng sẽ tan thành mây khói. Bạn lộ nguyên h́nh trần trụi và thế gian sẽ quay ngoắc đi với bạn. Nhiều người cố gắng dẫn dụ người khác tin rằng ḿnh có những quyền năng mà thực ra ḿnh không có; thế rồi dĩ nhiên họ bắt đầu một loạt những điều lừa bịp mà một ngày kia sẽ đè bẹp họ. Mặt khác, tôi không nghĩ rằng thật là sai lầm khi người ta đôi khi tưởng tượng ḿnh như mức họ đạt được trong tương lai, miễn là họ không để cho óc tưởng tượng đó gây ra sự lừa gạt người khác. Nếu bạn có thể tưởng tượng ḿnh tử tế hơn mức thực ra ḿnh có, và nếu bạn cố gắng biến sự tưởng tượng đó thành ra sự thật nơi ngoại giới th́ sự tưởng tượng đó có thể có giá trị. Nếu bạn tưởng tượng ḿnh là chân thật trong khi thực ra bạn không chân thật th́ nếu sự tưởng tượng đó được thực hành đến mức tối đa nó sẽ góp phần kích thích bạn tăng trưởng được mức độ chân thật. Nếu bạn tưởng tượng ḿnh thanh khiết hơn mức b́nh thường đạt được, và nếu bạn khiến cho óc tưởng tượng này là một loại hiện thân nhắc nhở ḿnh cần phải thanh khiết th́ bạn rất có thể tăng trưởng về phương diện đó. Óc tưởng tượng thuộc loại này khác hẳn sự giả vờ mà Chơn sư nói đến v́ nó khai thông bế tắc giữa thế giới bên ngoài với ánh sáng của linh hồn bạn, c̣n sự giả vờ là ra sức lừa bịp thế giới tin rằng bản chất của bạn tốt hơn mức bạn thật sự cố gắng đạt được. Nếu bằng hữu của bạn nghĩ tốt về bạn th́ cũng tốt thôi, nếu họ nghĩ về bạn tốt hơn mức thực ra bạn xứng đáng th́ cũng tốt thôi, nhưng bạn không được tự ḿnh cố gắng lừa bịp họ. Nếu họ nghĩ rằng bạn thực sự tốt hơn mức bạn đang có th́ bạn cũng không nhất thiết là khôn ngoan khi làm cho họ tỉnh ngộ, mà ít ra th́ bạn phải cố gắng sống vươn theo tiêu chuẩn mà họ đă tạo ra cho bạn. Một thủ lănh rất thường khi vĩ đại hơn dưới mắt thuộc hạ so với mức thực ra y đạt được và do đó có thể cảm thấy rằng hầu như ḿnh đang lừa bịp thuộc hạ, và y có thể muốn họ hiểu rằng y tầm thường hơn mức thuộc hạ nghĩ nhiều. Tôi không nghĩ rằng y bắt buộc phải chọn theo đường lối đó, một phần làm như vậy chẳng giúp ǵ cho thuộc cấp và v́ một phần nếu y thực sự là thủ lănh chân chính th́ y phải hằng ngày phấn đấu để vươn lên đáp ứng nhu cầu của thuộc hạ và đáp ứng lư tưởng mà y thể hiện đối với họ. Ngoài trường hợp này ra th́ nên nhớ lời dạy của Chơn sư: “Mọi sự giả vờ đều gây chướng ngại cho ánh sáng thuần khiết của chân lư, nó phải chiếu soi qua con giống như tia sáng mặt trời chiếu soi qua thủy tinh trong suốt”.

 

ĐIỀU TỐT ĐẸP NƠI VẠN VẬT

 

Có hai điều nữa cần nhấn mạnh. Một là chúng ta phải học cách phân biệt giữa điều ích kỷ và điều không ích kỷ, và hai là chúng ta phải học cách nhận ra được rằng trong mọi người và vạn vật đều có điều tốt đẹp, “cho dù xét theo bề ngoài y hoặc nó có thể xấu xa đến đâu đi chăng nữa”. Chơn sư dạy: “Sự ích kỷ có nhiều dạng và khi con nghĩ ḿnh rốt cuộc đă diệt được nó dưới dạng này th́ nó lại ngóc đầu dậy dưới một dạng khác cũng mạnh mẽ như bao giờ”. Cách duy nhất để diệt trừ ḷng ích kỷ là phải tập trung tư tưởng, hoặc xúc cảm, hoặc hành động để phụng sự người khác th́ lúc bấy giờ chẳng c̣n chỗ đâu cho ḷng ích kỷ. Ḷng ích kỷ chỉ ngóc đầu dậy khi chúng ta nghĩ quá nhiều tới bản ngă nhỏ bé của ḿnh và nghĩ quá ít tới những tự ngă lớn hơn mà những người khác cũng thuộc về.

Cuối cùng tôi xin trích dẫn đoạn văn rất hay kết thúc nhận xét của Chơn sư về tính phân biện. “Con có thể giúp đỡ huynh đệ ḿnh qua điều mà con có chung với y, đó là Sự Sống Thêng Liêng; con hăy học cách khơi dậy sự sống đó nơi y, học cách hiệu triệu sự sống đó nơi y; sao cho con cứu huynh đệ ḿnh khỏi làm điều sai trái”. Cốt yếu là chúng ta nên nhận ra được rằng chúng ta không biệt lập với kẻ tội lỗi cũng như chúng ta không biệt lập với bậc thánh thiện. Bà Besant rất thường nhấn mạnh tới sự thật là khi chúng ta rất tha thiết muốn hiệp nhất với vị thánh th́ chúng ta lại không mấy tha thiết khi thừa nhận sự hiệp nhất của chúng ta với kẻ tội lỗi. Kẻ tội lỗi và vị thánh chia xẻ một sự sống chung và đang phấn đấu hướng về một mục đích chung. Việc ta thu lượm được sức mạnh và sự trợ giúp của một vị thánh đâu có khác ǵ ta ban ra sức mạnh và sự trợ giúp cho cái gọi là kẻ tội lỗi. Xét cho cùng th́ kẻ tội lỗi chỉ vô minh thôi, và giờ đây chúng ta nên biết bản thân chúng ta vô minh ra sao. Tất cả chúng ta đều là kẻ tội lỗi ở một mức độ nào đó, và tất cả chúng ta đều biết ơn bất cứ sự trợ giúp nào mà chúng ta có thể đạt được. Chúng ta hăy thu nhận sự trợ giúp của những bậc trên chúng ta qua việc vui vẻ và biết ơn ban ra sự trợ giúp và sức mạnh cho những người khác kém tiến hóa hơn chính ta.

 

 

CHƯƠNG XII

 

VÔ DỤC

 (ĐOẠN TUYỆT HAM MUỐN)

 

Bây giờ chúng ta xét tới điều kiện thứ nh́ trong những điều kiện lớn mà Chơn sư đưa ra, đó là sự Vô Dục, và ngay từ đầu trong phần nhận xét Ngài có nêu rơ rằng thiên hạ cảm thấy ḿnh chính là sự ham muốn. Tôi giả sử rằng việc cảm thấy sự đơn nhất đó là một phần của sự tăng trưởng, v́ nếu chúng ta không được như vậy th́ chúng ta đâu có hiểu hết được chúng ta đồng nhất hóa ḿnh xiết bao với ham muốn. Tất cả chúng ta đều bao gồm những điều thích và không thích đến nỗi mà nếu chúng không c̣n trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta nữa th́ chúng ta cảm thấy rằng ḿnh “không c̣n bản ngă” nữa. Khi chúng ta bước qua bên kia cửa tử nhập vào những giai đoạn trung gian trước lúc tái sinh chúng ta được dạy cho biết rằng những ham muốn, thích và không thích này quả thực không phải là một bộ phận của chúng ta v́ chúng ta học biết rằng chỉ bằng cách rút lui ra khỏi đó th́ chúng ta mới có thể đạt tới các cảnh cao của thiên giới. Nhưng chúng ta không phải chờ cho đến lúc chết th́ mới học bài học nhu cầu vô dục. Alcyone có nhận xét – v́ chính ông nói câu này chứ không phải Chơn sư – rằng những kẻ nào nghĩ ḿnh mất bản ngă khi bị mất hết ham muốn “chỉ là những kẻ chưa thấy được Chơn sư; dưới ánh sáng của sự Hiện diện thánh thiện của Ngài mọi ham muốn đều biến mất ngoại trừ ham muốn được giống như Ngài”. Alcyone nhận xét như thế v́ nhớ tới cái sự thật thống nhất vĩ đại khi đứng trước sự hiện diện của Chơn sư. Bản thân tôi cũng nhớ có một dịp được đứng trước sự hiện diện của một trong những Đạo sư vĩ đại nhất trên trần thế và trải nghiệm cái ư thức hiệp nhất hoàn hảo nhất mà tôi đă từng biết tới. Thoạt đầu tôi cảm thấy sâu sắc sự vô giá trị của chính ḿnh nhưng chỉ trong chớp mắt th́ điều đó đă trôi qua. Có thể nói là Ngài nâng tôi lên tới mức thể nhập vào Ngài, và tôi hiệp nhất với Ngài – thấy cùng với Ngài, hiện hữu cùng với Ngài. V́ vậy bằng kinh nghiệm bản thân, tôi có thể làm chứng cho sự thật trong phát biểu “dưới ánh sáng sự hiện diện của Chơn sư mọi ham muốn đều biến mất ngoại trừ sự ham muốn được giống như Ngài”. Và ham muốn được giống như Ngài ngay tức khắc được hoàn tất do quyền năng của Chơn sư rút ta ra khỏi cái bản ngă nhỏ mọn. Chơn sư cảm thấy Ngài hiệp nhất với chúng ta mạnh mẽ đến nỗi điều này tạm thời cưỡng bách chúng ta, c̣n về phần ḿnh th́ cũng cảm thấy hiệp nhất với Ngài. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng cảm xúc này chỉ là tạm thời và khi Ngài không hiện diện nữa, khi không c̣n chịu ảnh hưởng cưỡng chế của Ngài th́ chúng ta có khuynh hướng rớt trở lại cái điều hăo huyền cho rằng nếu chúng ta không c̣n những điều thích và không thích th́ chúng ta không c̣n bản ngă nữa. May mắn thay chúng ta có được dạy cho biết rằng ḷng vô dục không tùy thuộc vào việc Chơn sư có hiện diện hay chăng. Giá trị lớn của Ngài đối với chúng ta là ở chỗ Ngài liên tục nhấn mạnh tới ḷng vô dục chân chính nơi bản thể Ngài và phóng ra những sự thôi thúc mạnh mẽ dần dần cho khuynh hướng khơi dậy ḷng vô dục minh triết nơi chúng ta. Về phần ḿnh, chúng ta phải linh hoạt với những thôi thúc vĩ đại này và phải dần dần rèn luyện ḿnh để vận dụng chúng. Thế mà chúng luôn luôn tác động xung quanh chúng ta, nhưng chúng không thể ảnh hưởng tới Thượng Đế nội tâm (ngoại trừ chỉ chút ít thôi) nếu Thượng Đế nội tâm không tự nguyện mong muốn hướng thượng. Đối với ḷng vô dục, Chơn sư có nêu rơ rằng: “Sự phân biện đă cho con thấy rằng những điều mà hầu hết mọi người ham muốn, chẳng hạn như của cải và quyền lực đều không đáng ham muốn; khi con thật sự cảm thấy như thế chứ không chỉ nói suông, th́ mọi ham muốn về những điều đó sẽ dứt bặt”. V́ thế cho nên chúng ta phải bắt đầu bằng cách t́m ra xem điều ǵ là đáng ham muốn, điều ǵ là không đáng ham muốn, dần dần chúng ta sẽ loại được những điều mà chúng ta nhận ra rằng là những điều không đáng ham muốn nữa cho tới khi chúng ta thấy rằng xét về cơ tiến hóa của riêng ḿnh th́ chỉ có một điều duy nhất là đáng ham muốn thôi.

 

SỰ TƯƠNG ĐỐI CỦA NHỮNG HAM MUỐN CHÍNH ĐÁNG

Trải qua nhiều giai đoạn tiến hóa khác nhau ta thấy có nhiều điều là ham muốn chính đáng. Chúng ta được dạy cho biết rằng nhiều người ham muốn của cải và quyền lực, có thể những ham muốn này là một giai đoạn cần thiết cho họ. Đó là v́ chúng ta chỉ đạt tới ham muốn cao siêu bằng cách leo lên trên những h́nh thức ham muốn đă bị đạp xuống dưới để vươn lên những ham muốn cao siêu hơn. Do vậy, nếu con người không ham muốn những của cải và quyền lực, v́ qua ham muốn đó mới nhận ra được rằng của cải và quyền lực chỉ mang lại lợi ích tạm bợ thôi, th́ họ đâu có sẵn sàng cho giai đoạn kế tiếp “để đạt được cơi trời hoặc đạt được sự giải thoát cho riêng ḿnh khỏi ṿng sinh tử luân hồi”. Do đó bạn không được tưởng tượng rằng v́ một cá nhân muốn cái điều mà bạn đă vượt qua th́ y cũng phải vượt qua nó. Về vấn đề ham muốn ta nên luôn luôn học cách “quan tâm tới chuyện của riêng ḿnh” và đừng trông mong người khác sẽ tuân theo tiêu chuẩn của ḿnh, cũng như bạn không thể tưởng tượng Chơn sư lại bị hạn chế trong những lư tưởng cao nhất mà bạn có thể quan niệm được. Bạn hoặc tôi không thể nói một cá nhân ở giai đoạn nào đó đă nhận ra được hay chưa bất cứ sự ham muốn đặc biệt nào không c̣n đáng ham muốn nữa. Nếu y thiếu một kinh nghiệm, nếu y muốn có một kinh nghiệm th́ có lẽ là bởi v́ y chưa trải qua giai đoạn thích ứng với kinh nghiệm đó. Dĩ nhiên, nếu chúng ta phụ trách những người c̣n trẻ, th́ chúng ta có bổn phận phải cố gắng khiến cho họ ham muốn những điều càng cao thượng và vị tha bao nhiêu càng tốt, nhưng đồng thời chúng ta cũng phải nhớ rằng, họ có thể mong ước cho cuộc sống lúc trẻ trung của họ trôi qua nhanh chóng hơn với một loạt các ham muốn mà chúng ta trong kiếp đặc biệt này tạm thời đủ xoay sở để vượt qua được. Tôi thường nghe những người c̣n trẻ bảo rằng trong khi họ cảm thấy về lâu về dài Thông Thiên Học là điều duy nhất đáng được phụng sự th́ cũng có một ít thời gian họ lại muốn trải nghiệm cuộc sống thế tục thông thường. Có lẽ bạn và tôi đă trải nghiệm cuộc sống thế tục thông thường nên biết nó chẳng c̣n ǵ đáng ham muốn và vô giá trị. Có lẽ chúng ta đă thay thế nó bằng một điều đối với chúng ta là một ham muốn cao siêu hơn. Các bạn trẻ chắc chắn cũng sẽ phải đến giai đoạn đó, nhưng không có lư do ǵ để giả sử rằng họ không phải trải qua một loạt những kinh nghiệm giống như những kinh nghiệm đă dẫn bạn và tôi đến địa vị ngày nay. Cái thể xác c̣n trẻ trung ham muốn nhiều tiếp xúc với ngoại giới mà nó không có lắm cơ hội hiểu biết hơn so với người già. Đôi khi v́ vậy chúng ta đi đến kết luận rằng những người c̣n trẻ không tha thiết như chính chúng ta. Điều này cũng có thể là kết luận mà những người già đạt tới khi chính chúng ta c̣n trẻ và khi bản thân chúng ta lại xoay sang cái lư tưởng mà những người già thuộc thế hệ chúng ta đă đạt tới. Ham muốn th́ vẫn là ham muốn và không thể ngưng việc nó là ham muốn v́ nó không đáng ham muốn. Cách duy nhất khiến cho ngừng ham muốn là phải trải nghiệm được mục đích của nó và trong khi tôi không muốn gợi ư là chúng ta phải nhảy xổ vào thỏa măn mọi ham muốn có thể được khi nó ngẫu nhiên xuất hiện trong tâm thức chúng ta; song le tôi lại cảm thấy rằng tuyệt nhiên không có ích ǵ khi ngăn cản việc ham muốn cứ dai dẳng măi. Trong trường hợp những người c̣n trẻ, tôi khuyên họ nên đi theo con đường tăng cường khả năng phân biện sao cho bản thân họ có thể quyết định giữa đủ thứ loại ham muốn để có thể họ chọn lựa được điều ham muốn cao thượng hơn so với điều kém cao thượng hơn, chọn lựa điều ham muốn ít ích kỷ hơn với điều ham muốn nhiều ích kỷ hơn.

 

SỰ PHÂN BIỆN VỀ HAM MUỐN

 

Chính v́ thế mà trong quyển Dưới Chơn Thầy điều kiện Phân biện đứng hàng đầu. Trước hết ta phải có một tiêu chuẩn dựa vào kinh nghiệm trong quá khứ và dựa vào việc nhận ra rằng một số ham muốn mang lại cho ta sự thỏa măn kém lâu bền hơn những ham muốn khác. Tiêu chuẩn này là yếu tố chính giúp cho người ta xa lánh những ham muốn có khuynh hướng khiến cho họ đồng nhất hóa ḿnh với các hạ thể. Tôi không bảo những người c̣n trẻ là họ nên có ham muốn này và không nên có ham muốn kia; tôi chỉ bảo họ rằng họ nên chú ư tới kinh nghiệm của ḿnh, và để cho kinh nghiệm đó dẫn dắt ḿnh. Những người cảm thấy ḿnh bị phó mặc rất nhiều cho ham muốn, có thể rất nên để ư đọc kỹ lưỡng mọi điều mà Chơn sư dạy về sự Phân biện. Hăy nhớ cách Ngài yêu cầu ta phân biệt giữa các hạ thể với chính chúng ta; phân biệt đúng với sai; phân biệt điều quan trọng với điều không quan trọng; phân biệt điều hữu ích hơn với điều kém hữu ích. Ta cũng nhớ cách Ngài khuyên chúng ta “làm một điều nhỏ trực tiếp có ích cho công việc của Chơn sư c̣n đáng làm hơn một điều lớn mà thế gian thường gọi là điều tốt”. Lại nữa, chúng ta nên nhớ cách Ngài dạy rằng “Thượng Đế là Minh triết cũng như là Bác ái” và chúng ta càng có minh triết th́ chúng ta càng có thể biểu lộ được Thượng Đế. Thế rồi Ngài nhấn mạnh tới nhu cầu về sự thật, ḷng vị tha và nhận ra được Thượng Đế nơi mọi người và vạn vật. Bằng nhiều cách khác nhau này, óc phân biện của chúng ta trở nên đáng tin cậy và hữu dụng; do đó chúng ta mới hiểu ra được vô dục thật sự có nghĩa là ǵ. 

Chúng ta không được quên rằng khi chúng ta đang đọc điều mà Chơn sư dạy về sự vô dục th́ Ngài đang ngơ lời với một đệ tử sắp bước qua cửa Điểm đạo, do đó những nhận xét của Ngài không nhất thiết áp dụng cho những kẻ chưa đạt tới giai đoạn đó. Tuy nhiên ấy là lư tưởng và khi những kẻ đọc các trang này cũng c̣n cách xa giai đoạn làm đệ tử trong một mức độ phải chăng, cho nên họ hăy tiêu chuẩn hóa lư tưởng của ḿnh sao cho phù hợp với những điều yêu cầu đối với những thiện nam tín nữ đă được chấp nhận làm đệ tử dự bị của Chơn sư. Địa vị tinh thần của đệ tử được nói tới trong những trang này trở nên rơ rệt khi chúng ta đọc thấy rằng y không được phạm sai lầm mong muốn thiên đường hoặc cá nhân ḿnh thoát ṿng sinh tử luân hồi. “Nếu con đă hoàn toàn quên mất bản ngă th́ con không thể nào nghĩ tới lúc bản ngă đó tự do hoặc nó sẽ có được loại thiên đường nào”. Tôi nghĩ rằng trong đoạn này Chơn sư có lẽ đang đề cập tới sự thật là ứng viên Điểm đạo hiến ḿnh để phụng sự thế gian và do đó không c̣n mong muốn thiên đường cho riêng ḿnh hoặc cá nhân ḿnh thoát ṿng sinh tử luân hồi. Điều này không có nghĩa là đối với nhiều người th́ những ham muốn đó không hoàn toàn thỏa đáng. Chúng chỉ không thỏa đáng cho những kẻ nào trong chúng ta muốn dọn ḿnh để phụng sự Chơn sư, v́ phụng sự Chơn sư có nghĩa là phụng sự thế gian và quên đi bản ngă riêng biệt.

Việc phụng sự đó khó đến mức nào được minh giải khi Chơn sư dạy rằng “mọi ham muốn ích kỷ đều ràng buộc cho dù đối tượng của nó có thể cao siêu đến đâu đi chăng nữa, và chừng nào con chưa dứt bỏ được nó th́ con chưa hoàn toàn tự do để hiến ḿnh cho công việc của Chơn sư”. Có rất ít đệ tử sẵn sàng hiến ḿnh cho công việc của Chơn sư ! Khi ngơ lời với tư cách một trong những kẻ tầm thường nhất, tôi nhận thấy những ham muốn ích kỷ của chính tôi ràng buộc đáng kể đến đâu, và can thiệp vào những bổn phận mà tôi có nghĩa vụ phụng sự các Đạo sư. Nhưng t́nh trạng của chính tôi có lẽ cũng an ủi được những người khác ở chỗ họ có thể nhận ra rằng không thể trông mong chúng ta dứt bỏ được mọi ham muốn ích kỷ trước khi chúng ta hi vọng trở thành đệ tử của một trong các bậc đại Đạo sư. Nhưng ít ra th́ cũng hi vọng là chúng ta biến các công việc của các Ngài thành ra hoạt động chủ yếu trong cuộc đời của chúng ta và lúc nào cũng sẵn ḷng hi sinh quyền lợi cá nhân cho những nhu cầu của thế gian mà chúng ta phấn đấu sống trong đó. Cho dù điều này ra sao đi nữa th́ ham muốn ích kỷ vẫn ràng buộc, do đó chỉ có một ít người có thể tự coi ḿnh xứng danh là kẻ phụng sự Chơn sư. Thật vậy, ham muốn là dạng hăo huyền tinh vi nhất, và Chơn sư chỉ cho chúng ta thấy có biết bao nhiêu ham muốn tinh vi mà có lẽ chúng ta có khuynh hướng gọi là hoàn toàn tự nhiên.

 

MUỐN CÓ ĐƯỢC KẾT QUẢ CỦA HÀNH ĐỘNG

 

“Chắc chắn là không có hại khi muốn thấy kết quả của công việc hoặc để xem thử chúng ta giúp được người khác bao nhiêu ?” Tôi hoàn toàn đồng ư rằng đối với hầu hết chúng ta th́ những ham muốn đó là tự nhiên, tất yếu và có lẽ là hữu ích v́ chúng có thể khiến chúng ta làm việc và giúp đỡ những người khác. Một đằng Chơn sư bảo chúng ta rằng những ham muốn như thế hàm ư thiếu tin cậy. “Khi con tuôn đổ sức mạnh để giúp đỡ ắt có một kết quả cho dù con có thấy hay không; nếu con hiểu thiên luật th́ con ắt biết rằng phải như thế”. Về phần ḿnh, tốt hơn tôi nên thú nhận ngay rằng tôi thường muốn thấy kết quả công việc của ḿnh để xem tôi giúp đỡ người khác được đến đâu. Tôi nghĩ ḿnh có thể đi xa đến mức từ bỏ bất cứ ham muốn được người nào khác biết ơn, mặc dù được biết ơn chắc chắn là một kinh nghiệm thú vị nhất. Chúng tôi hoàn toàn hiểu ra được rơ rệt cần phải có ḷng vô dục xiết bao đối với kết quả công việc và đối với mức độ hữu ích mà một cá nhân nhận được liên quan tới số lượng được ban ra. V́ vậy tôi dần dần cố gắng làm việc hướng về mục đích đó, làm điều đúng v́ ích lợi của điều đúng chứ không phải là hi vọng được tưởng thưởng, không phải v́ hi vọng muốn thấy kết quả. Chơn sư nêu rơ đây là vấn đề t́nh thương. Cường độ và sự tinh khiết của t́nh thương xác định mức độ vô dục. Nếu chúng ta yêu thương một người nào th́ chúng ta ban cho y điều tốt nhất của ḿnh cho dù kết quả có thể ra sao đi chăng nữa; nếu chúng ta thích công việc của ḿnh th́ chúng ta dồn hết tâm hồn vào đó và không có thời giờ để nghĩ tới kết quả được hoàn thành, chúng ta cứ để mặc cho kết quả tự an bài lấy v́ quả thật chúng ta có lư do chính đáng khi làm việc đó. T́nh thương là yếu tố vĩ đại tẩy trược được ham muốn và trong khi quả thật nhiều người có khuynh hướng nhầm lẫn sự đam mê với t́nh thương; t́nh thương chân chính lại hoàn toàn xả thân và rút ra được niềm vui trọn vẹn nhất chỉ từ quá tŕnh cho ra thôi. Chơn sư có dạy: “Con phải hiến ḿnh phụng sự thế gian v́ con yêu thương thế gian và không thể không hiến ḿnh cho thế gian”.

 

PHỤNG SỰ LÀ MỘT TIÊU CHUẨN

 

Chơn sư tiếp tục giải thích cho chúng ta biết rằng thật là rất không minh triết khi chúng ta muốn thêm những quyền năng tới chừng nào chúng ta chưa kiểm soát thỏa đáng được những quyền năng mà chúng ta đă có rồi. Ngài dạy rằng quyền năng sẽ có khi Ngài biết lúc nào tốt nhất cho chúng ta có quyền năng. Hầu hết chúng ta vốn thật sự tha thiết chẳng bao lâu ắt phát hiện được rằng chúng ta có đủ mức mà chúng ta cần thiết, thật ra c̣n nhiều hơn mức chúng ta có thể sử dụng một cách minh triết và điều độ những quyền năng mà chúng ta đă có rồi, nghĩa là những quyền năng kẻ phàm phu nào cũng có. Chúng ta ắt cũng thấy rằng ḿnh c̣n lâu mới học được cách sử dụng lực lượng thuộc quyền kiểm soát của ḿnh rồi, và chúng ta quả thật phải mất một thời gian rất dài mới chắc chắn về bản thân được. Tôi luôn luôn lấy làm lạ về ḷng kiêu căng của những kẻ muốn có thần thông, nói cách khác là những quyền năng vượt ngoài tầm mà b́nh thường chúng ta có được. Thần thông thuộc về một thế giới khác với cơi hồng trần, và tôi thấy dường như không đáng mong muốn khi chúng ta muốn thêm những kinh nghiệm thuộc một thế giới khác chừng nào mà chúng ta c̣n chưa hoàn toàn chắc chắn về thái độ của chúng ta đối với những kinh nghiệm cơi trần cung cấp cho chúng ta được. Một số người có được vài loại thần thông. Có lẽ họ thấy được các tinh linh ngũ hành, thấy được hào quang hoặc có thể đọc được tư tưởng và xúc cảm của người khác. Nhưng sự kiện họ có thể thấy được những điều này không có nghĩa là v́ vậy họ có thể rút ra được sự phán đoán chính xác từ việc nh́n thấy đó. Chúng ta cũng biết khi ở trạng thái ư thức tỉnh táo trên cơi trần thật khó xiết bao khi muốn rút ra những kết luận đúng đắn từ mọi điều mà chúng ta nh́n thấy xung quanh ḿnh. Điều này thậm chí c̣n khó hơn nữa khi ư thức tỉnh táo của ta được chuyển dời lên cơi trung giới, và tiếp xúc với những kinh nghiệm thích hợp ở cơi ấy. Hiểu được thế giới mà chúng ta sống trong đó nhiều giờ trong một ngày đă là khó lắm rồi, và về phần ḿnh tôi nghĩ rằng nên hạn chế sự chú ư của chúng ta vào thế giới đó cho đến khi các bậc minh triết hơn chúng ta thấy cần áp đặt một gánh nặng lớn hơn lên óc phán đoán của chúng ta so với mức nó đă có được từ trước đến nay. Nếu tôi thấy được màu sắc nào đó trong hào quang của một người th́ làm sao tôi có thể thật sự biết chắc rằng màu đó có nghĩa là ǵ đối với cá thể đặc biệt đó ? Và cho dẫu tôi biết chắc th́ điều đó có nghĩa là ǵ nếu cá thể đó (y có lẽ không phải là nhà thần nhăn như chính tôi) phán đoán mức độ không thể sai lầm của tôi ? Trong Hội Thông Thiên Học chúng ta có nhiều người tự xưng là thấy được điều này, kinh nghiệm được điều kia, nghe được những thông điệp v. v. . . Cá nhân tôi nếu có phán xét th́ tôi phán xét người ta theo những hành động mà tôi thấy và theo mức độ xả thân dường như chiếm ưu thế trong cuộc đời họ. Tuy nhiên, tiếc thay trong hàng ngũ chúng ta có những người muốn liên tục tiếp xúc với thế giới huyền bí và sẵn ḷng tin hầu như mù quáng vào bất cứ điều ǵ không b́nh thường. Chơn sư dạy chúng ta rằng chúng ta thuộc về thế giới của Ngài tùy theo mức chúng ta khiến cho việc phụng sự đồng loại trở thành một bộ phận càng ngày càng gia tăng trong cuộc đời chúng ta. Đó là tiêu chuẩn và những kẻ nào sống cuộc đời liên tục xả thân đều có quyền được tôn trọng về những phát biểu liên quan tới những t́nh huống mà kẻ phàm phu không có phương tiện xét đoán. Sự thật về vấn đề này là một cá nhân càng thật sự có thần thông th́ y càng ít nói về thần thông và càng ít áp đặt thần thông lên người khác. Y dùng thần thông để giúp đỡ nhưng đồng thời nhận ra được rằng thật không minh triết khi yêu cầu người khác tin vào điều mà cho đến nay họ chưa có kinh nghiệm. Chơn sư có nhận xét rằng: “Trong bất kỳ trường hợp nào th́ thời giờ và sức lực dùng để đạt được thần thông nên dùng để làm việc cho người khác”. Trong quá tŕnh phát triển th́ thần thông chắc chắn sẽ có và những kẻ nào thật sự tin vào Chơn sư đều không bận tâm về nó cho đến khi Ngài ra lệnh và chỉ dẫn cách  phát triển thần thông hoặc khi thần thông tự nhiên mà có không cần cố gắng. Nếu như người ta nhớ được điều đó th́ chúng ta sẽ dành hết mọi thời giờ dùng những quyền năng mà chúng ta sẵn có để phụng sự cho môi trường xung quanh.

 

 

CHƯƠNG XIII

 

VÔ DỤC (hết)

 

Thế rồi Chơn sư nhấn mạnh tới một vài ham muốn rất thông thường mà ứng viên Điểm đạo hoặc ứng viên đệ tử phải cố gắng tránh. Nhiều người trong chúng ta rất khoái chí khi tỏ ra là khôn khéo hoặc nổi bật trong khi nói chuyện. Nhưng trong thế giới của Chơn sư th́ người ta chẳng nói ra điều ǵ nếu nó không đúng thật, tử tế và hữu ích. Tôi cố t́nh nói “trong thế giới của Chơn sư” v́ tôi e rằng huấn lệnh này chỉ có thể được thực thi thành công bởi những bậc hoặc là ở mức Thánh sư hoặc là đang gần tới mức Thánh sư. Tuy nhiên chúng ta phải dần dần phấn đấu hướng về lư tưởng này và có lẽ đến một lúc nào đó ta phải đạt được một trong những điều kiện ấy. Chẳng hạn như trong một thời kỳ nào đó chúng ta có thể quyết tâm hoàn toàn trung thực thế rồi từng bước thêm điều kiện tử tế và hữu ích vào điều kiện chân thực đó. Đây là vấn đề thực nghiệm và phát triển dần dần. Câu châm ngôn hữu ích “Hăy suy nghĩ hai lần trước khi nói” th́ đối với bạn và tôi có thể mở rộng ra thành “Hăy suy nghĩ bảy lần trước khi nói”. Những người mà tôi khuyên như thế thường bảo tôi rằng bất cứ ai nghe theo huấn lệnh này ắt khó ḷng nói được điều ǵ, hoặc vào lúc y nghĩ được bảy lần th́ cơ hội cần thiết để đưa ra nhận xét đă trôi qua rồi ! Rất có thể là như thế và cũng bơ công khi ta nhớ rằng hầu hết những tṛ chuyện của ta đều vừa vô bổ vừa không có ích lợi, và có nhiều nhận xét mà nếu suy đi gẫm lại th́ chúng ta lại mong ước rằng ḿnh không nói như thế. Giáo huấn là như sau: chúng ta nên đắn đo chứ không được bốc đồng; chúng ta nên nhận ra rằng sự thật vốn giúp ích nhiều hơn mức chỉ là sự hào nhoáng bên ngoài và như Chơn sư có nêu rơ, chúng ta phải làm quen với việc suy nghĩ cẩn thận trước khi nói v́ khi chúng ta tăng trưởng th́ những sự thật được ban cho chúng ta không nhất thiết là có ích lợi khi thốt ra cho thế giới bên ngoài. Chúng ta muốn hữu dụng hơn bao giờ hết chứ không phải chỉ tỏ ra là có học thức.

 

BỔN PHẬN KHÔNG CAN THIỆP

 

Chơn sư dạy “Có một ham muốn thông thường nữa mà con phải nghiêm khắc kềm chế, đó là ham muốn xen vào việc của người khác”. Ta hăy lưu ư cách dùng từ của Chơn sư, từ “nghiêm khắc” biểu thị đây là một ham muốn mà tất cả chúng ta thường dễ mắc phải. Tôi giả sử rằng việc chiều theo ham muốn này ắt gây nhiều tai hại hơn mức người ta nhận thức được, chẳng những chúng ta xen vào trách nhiệm của người khác mà c̣n v́ chúng ta tưởng tượng là mọi người khác phải xem xét sự việc theo quan điểm giống như chính ta xem xét. Tất cả chúng ta đều tiến hóa ở nhiều mức khác nhau: mọi người có những bổn phận khác nhau, nhân sinh quan khác nhau, đường lối hoạt động khác nhau và cần góp phần thực thi các bộ phận khác nhau của thiên cơ. Do đó chúng ta không bao giờ được quên rằng mỗi cá thể đều thể hiện số phận của ḿnh theo cách của riêng ḿnh, và trong khi không có lư do ǵ chúng ta không giúp y nếu không được yêu cầu giúp đỡ hoặc nếu chúng ta cảm thấy ḿnh giúp cho y là có ích, th́ chúng ta không bao giờ được quên rằng chúng ta không thể xem xét sự vật theo quan điểm của y và chúng ta cũng chẳng thể tưởng tượng được trong một số hoàn cảnh th́ “thiên chức” của y ắt phải là ǵ. Cố nhiên có những hoàn cảnh mà chúng ta phải tiến một bước, phải chọn theo một đường lối hành động nào đó, những bước tiến và đường lối hành động đó có thể đối nghịch với những quan niệm và nguyên tắc của một số thành viên trong đoàn thể vốn phải quyết định. Chẳng hạn như trong cuộc Chiến tranh hiện nay, có những người tin rằng không bao giờ nên khởi phát chiến tranh thế nhưng hoàn toàn có thể tưởng tượng rằng không thể tránh được chiến tranh và trong một chừng mực nào đó phải lờ đi những kẻ tin rằng không bao giờ nên phát khởi chiến tranh. Đôi khi ư chí của đa số phải chiếm ưu thế, đôi khi ư chí của thiểu số phải thắng thế. Dù sao đi nữa th́ không được suy ra rằng mọi người lúc nào cũng phải được thỏa măn.

Nhưng đây là điều khác hẳn việc xét đoán những người khác hoặc cố gắng xen vào điều mà xét cho cùng là việc riêng của họ. Chơn sư có dạy “mọi người đều có toàn quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và tự do hành động”. Nhưng dĩ nhiên y không được xen vào tự do của người khác trừ phi trong những hoàn cảnh rất bất thường. Hiện nay chúng ta thường nghe nói việc tự do như thế bị can thiệp và có đủ thứ áp bức đè bẹp những kẻ không suy nghĩ theo đa số. Đây là điều rất khó v́ trong những lúc khó khăn như hiện nay th́ tôi có thể quan niệm được có khi cũng phải hi sinh tự do cá nhân v́ lợi ích của tự do toàn thể. Tôi không muốn nhấn mạnh tới khía cạnh này của t́nh huống v́ tôi phải vận dụng một chuỗi lập luận dài ḍng vượt ngoài đề tài đặc biệt mà quyển Dưới Chơn Thầy đề cập tới. Chỉ cần nói rằng có nhiều lắc léo trong việc chúng ta định nghĩa từ ngữ “tự do”, và trước khi bạn tự giả định rằng Chơn sư cấm mọi sự hạn chế th́ bạn hăy thử nghĩ xem vấn đề là tự do thật sự có nghĩa ra sao và cố gắng làm khớp định nghĩa của bạn với sự thật là tự do hoàn toàn có nghĩa là phụng sự hoàn hảo. Điều mà tôi tưởng tượng Chơn sư nhấn mạnh ở đoạn đặc biệt này đó là: Chúng ta không được tưởng tượng rằng điều đúng với ḿnh th́ tất yếu sẽ đúng với mọi người khác hoặc nên đúng với mọi người khác ! Nói cách khác, chúng ta phải càng ngày càng khoan dung hơn. Bạn đ̣i được tự do làm điều mà bạn nghĩ là đúng. Những người khác cũng phải có tự do như thế và có quyền được tôn trọng đánh giá cao giống như vậy v́ họ có mục đích chân thành giống như bạn ắt không ngần ngại rêu rao là ḿnh như vậy. Những nhận xét này cố nhiên đặc biệt áp dụng cho những sự khác nhau bề ngoài mà thiên hạ rất thường nghĩ là cực kỳ quan trọng. Màu da của một người, tôn giáo, phong tục của y ! Mọi thứ đó ảnh hưởng xiết bao tới phán đoán của nhiều người. Một số chúng ta tin rằng chỉ tôn giáo của chúng ta là đúng thôi, chỉ phong tục của chúng ta là thuần phong mỹ tục thôi, chỉ màu da của chúng ta là tiêu biểu cho giai đoạn tiến hóa cao nhất đạt được hiện nay thôi. Theo bản năng, chúng ta đánh giá thấp những người không noi theo những tiêu chuẩn mà ta tưởng tượng rằng chính ḿnh noi theo: “y không thuộc giai cấp chúng ta, y thuộc về giai cấp hạ lưu; y không ăn như chúng ta ăn, không mặc như chúng ta mặc” – chắc chắn những điều này có thể là sự thật nhưng chúng đâu có hàm ư là giai cấp hạ lưu. Chính v́ lư do này mà kèm theo lời tuyên bố về T́nh Huynh Đệ Đại Đồng, Hội Thông Thiên Học c̣n khăng khăng nhấn mạnh tới sự qui nhất của mọi tôn giáo lớn và tuyên bố rằng sự khác nhau về giới tính và màu da không ảnh hưởng tới sự qui nhất bản thể của loài người.

 

CON NGƯỜI LÀM CHỦ SỐ PHẬN CỦA M̀NH

 

Những người cứ chăm chăm soi bói những chuyện của người khác th́ thường lại không mấy chắc chắn về chuyện của chính ḿnh, và họ tha thiết muốn người khác tuân theo tiêu chuẩn của chính ḿnh để cho những tiêu chuẩn đó qui tập được sức mạnh của đa số. Mặt khác, đằng sau tiêu chuẩn sống của ta phải là sức mạnh của niềm xác tín thuần khiết. Sức mạnh không ở nơi số đông mà ở nơi niềm tin chân thành. Thiên hạ đôi khi tin rằng luật pháp cuối cùng phải dựa vào sức mạnh, nhưng thật ra luật pháp dựa vào sự tán thành, v́ ta không thể áp đặt một luật lệ lên một cá nhân không tự nguyện tuân thủ luật lệ đó. Ta có thể giết chết thể xác nhưng ta không thể giết chết tinh thần, và đây chính là điều mà nhiều chính quyền phải trả giá rất cao trước khi phát hiện được. Người La mă giết chết thể xác của các Thánh tử v́ đạo Ki Tô giáo, nhưng tinh thần các Thánh tử v́ đạo Ki Tô giáo đă xây dựng nên Hội thánh vốn trường tồn rất lâu sau khi Đế quốc La mă không c̣n tồn tại nữa.

Bạn ắt nhận thấy rằng Chơn sư rất cẩn thận nhận định không có hại ǵ khi gợi ư cho một cá nhân là y đang làm điều sai trái nếu bạn cảm thấy rằng nói với y như vậy là có ích. Chẳng hạn như cha mẹ thường có bổn phận bảo cho con trẻ biết rằng ḿnh nghĩ con trẻ là sai lầm, và đôi khi họ phải ngăn cản lũ con trẻ không làm điều mà họ nghĩ rằng là sai trái hoặc không khôn ngoan. Chẳng bao giờ có hại ǵ khi hiến dâng sự hiểu biết của ḿnh cho người khác sử dụng, nhưng bạn không được tưởng tượng rằng bạn có thể cưỡng chế họ tin điều mà bạn đă lỡ biết và tin. Kinh nghiệm phải luôn luôn xuất phát từ bên trong và trong khi thiên hạ đôi khi có thể hành động theo lời khuyên của bạn cho dẫu họ không nhất thiết hiểu được điều đó, th́ nghiệp tốt duy nhất mà họ có được là ở nơi hành động chứ không ở nơi động cơ thúc đẩy (thân nghiệp chứ không phải ư nghiệp) v́ động cơ thúc đẩy là của bạn. Họ có được nghiệp tốt là biết vâng lời c̣n nghiệp tốt của bạn là hiểu biết, và nghiệp hiểu biết c̣n tốt hơn nghiệp vâng lời.

Thiên hạ thường rất nôn nóng muốn sống cạnh một trong các bậc đại đạo sư, có lẽ để khỏi chịu trách nhiệm và đỡ mất công vận dụng sự phán đoán của riêng ḿnh, như vậy làm sao học hỏi được do sai lầm. Họ không hiểu được rằng trong t́nh huống đó họ chỉ ké vào sự phán đoán của Chơn sư thay v́ phấn đấu để phát triển sự phán đoán của chính ḿnh. Thỉnh thoảng th́ Chơn sư có thể kích thích nhưng con người thật ra phải làm chủ số phận của ḿnh và phải tự ḿnh triển khai nó. Những người hữu dụng nhất trên thế gian đều tự ḿnh trải qua nhiều kinh nghiệm, họ phải xông pha chiến trận, chịu những số phận nhục nhă th́ do gan ĺ như thế mới có được sức mạnh giúp họ có thể vận dụng chẳng những cho bản thân mà c̣n phục vụ cho người khác được nữa. Khi nhờ vào kinh nghiệm, sự phán đoán và phân biện của ta đă trở nên sắc sảo và mạnh mẽ th́ lúc đó sự hiện diện thực tế của Chơn sư mới có ích lợi thật lớn lao. Trong khi chờ đợi, trong lúc Ngài đang giám sát chúng ta như một người cha mẹ th́ Ngài để mặc cho chúng ta chăm chú vào việc của riêng ḿnh để học được bản chất đích thực của tự do chân chính.

 

NGỒI LÊ ĐÔI MÁCH

 

Tôi muốn nhấn mạnh tới lời cảnh báo của Chơn sư là chúng ta không nên lê la nói xấu với một người thứ ba về một người khác, dĩ nhiên trừ khi ta có lư do đặc biệt nào đó hữu ích để làm như thế. Nhưng nhiều người mất thời giờ soi bói chuyện người khác, lấy làm hả hê với chuyện ngồi lê đôi mách v́ nó có tác dụng kích thích thể vía hoặc thể trí. Nhưng Chơn sư dạy rằng làm như thế “độc ác lắm”. Điều này độc ác v́ nó tạo ra những h́nh tư tưởng có khuynh hướng đeo bám lấy khuyết điểm của cá nhân khiến cho nạn nhân khó ḷng khắc phục được nhược điểm của ḿnh. Chúng ta cứa vào vết thương và kết quả là phải mất nhiều thời gian vết thương mới lành được. Ta rất khó ḷng nhớ được lời khuyên này v́ ngồi lê đôi mách là một khuyết điểm rất thông dụng và nhiều người chẳng biết nói chuyện ǵ nếu họ ngưng ngồi lê đôi mách. Tuy nhiên chúng ta liên tục được dạy bảo rằng lời nói chúng ta phải hữu ích và ngồi lê đôi mách rơ ràng là rất có hại.

 

NH̀N NHẬN CHƠN NGĂ

 

Tôi có thể hoàn toàn tưởng tượng được những người bảo rằng họ không thích bất cứ ai bảo liệu họ có làm sai hay chăng, không phải v́ họ không ưa được dạy bảo như thế mà có lẽ v́ họ sợ cái kiểu nói chuyện đó. Quả thật là một số người rất thích thú khi vạch ra được những lầm lẫn và yếu kém của người khác và khi vạch ra như vậy họ tương đối có vẻ độc ác. Họ vạch ra một cách sỗ sàng và thiếu thiện cảm. Điều đó không khiến cho người ta cảm thấy muốn cố gắng sửa sai. Mọi chuyện đều tùy thuộc vào cách mà bạn làm một điều ǵ đó. Có một số người có khả năng không bao giờ gây xúc phạm cho dù họ nói điều ǵ đi chăng nữa. Có những người khác khó ḷng mở miệng ra mà không gây rắc rối cho người ta. Tất cả c̣n tùy thuộc vào đằng sau hành động đó, lời nói đó, tư tưởng đó, xúc cảm đó là điều ǵ. Bất cứ người nào thật sự muốn giúp đỡ và tha thiết có thiện cảm với người khác đều luôn luôn có thể an toàn vạch ra cho bạn ḿnh bất kỳ khuyết điểm nào mà ḿnh nghĩ rằng bạn có, v́ cách thức vạch ra đó ắt cho những cá thể đó thấy rằng ḿnh quả thật có thiện cảm huynh đệ với họ và ḿnh không tỏ vẻ trịch thượng khi tỏ ra biết được những khiếm khuyết của y. Tuy nhiên, nói chung chúng ta nên nhận ra được rằng chỉ có chúng ta mới củng cố được những nhược điểm của chính chúng ta thôi và chúng ta càng chú trọng tới những đức tính của người khác th́ chúng ta càng giúp cho họ tăng trưởng. Về vấn đề này, tôi muốn nêu ra giá trị của một quyển sách Jerome K. Jerome viết ra với tựa đề Đưa những người ở Lầu Ba quay bước trở lại. Trong quyển sách này, một trong những nhân vật chính là một người xa lạ liên tục nhấn mạnh tới những đức tính tiềm tàng nơi người ta. Y đi tới một nhà trọ trong đó có nhiều người rất phàm phu tục tử và nhờ đồng nhất hóa ḿnh với bản chất cao cả của họ, y khiến cho họ tự động bỏ đi những điều điên rồ khiến cho cuộc đời của họ thiếu hữu hiệu như thế. Cho đến lúc đó họ đều nh́n nhau một cách khinh bỉ và chỉ trích lẫn nhau, kết quả là mỗi người đâm ra củng cố thêm những sự dung tục của ḿnh và thấy ḿnh ghẻ lạnh với đồng loại. Sự xuất hiện của người xa lạ đă làm thay đổi mọi thứ và khi y bước vào trong pḥng th́ bản chất thấp hèn của mọi người đều lui vào hậu trường và bản chất cao thượng ló mặt ra đắc thắng. Nếu muốn, bạn có thể bảo rằng y đă lư tưởng hóa được thiên hạ. Thật vậy, người ta thường tố cáo là bà Besant dễ bị thiên hạ lừa gạt v́ bà tin cậy thiên hạ và v́ bà lư tưởng hóa thiên hạ, người ta ắt bảo “v́ bà không biết bộ mặt thật thiên hạ”. Thật ra th́ chính v́ bà biết bản lai diện mục của thiên hạ cho nên bà mới lư tưởng hóa thiên hạ. Điều mà ta thấy nơi thiên hạ chỉ là một giai đoạn tạm thời; c̣n điều mà bà thấy nơi thiên hạ mới là thực tại vĩnh hằng, và bà tin là tin vào cái thực tại đó thôi. Thực tại ắt cám ơn sự tin cậy đó, tuy nhiên nhiều thứ trong bản chất thấp hèn tạm thời có thể dường như không xứng đáng với sự tin cậy đó, và kết quả là cá nhân mà bà Besant tin cậy hoặc lư tưởng hóa vô cùng tốt hơn nhờ vào sự tin cậy và lư tưởng hóa đó. Đôi khi bản chất thấp hèn của người ta có thể lợi dụng bà, nhưng chơn ngă đă được tôn trọng và thừa nhận cho nên kết quả là nó có thêm sức mạnh để chế ngự được các hạ thể. Tôi tin rằng thái độ này là thái độ mà tất cả chúng ta nên càng ngày càng phấn đấu để chọn theo. Việc thử thách tính linh nơi một cá nhân là việc y có năng lực xuyên suốt h́nh tướng bên ngoài để nhập vào thực tại bên trong, bỏ qua v́ là phù du điều mà nhiều người trong chúng ta có thể coi là bản thể và kết hợp với thực tại mà hầu hết chúng ta có thể không thấy được. Mỗi người trong chúng ta đều có các khiếm khuyết và nhiều người bạn của chúng ta chỉ dừng lại ngay những khiếm khuyết đó, nhưng nhà lănh đạo rút ra chơn ngă của cá nhân đó và hiệu triệu nó chế ngự được những điều vô minh, dần dần làm giảm bớt quyền năng gây chướng ngại của những điều vô minh đó. Nhà lănh đạo là người đă gây cảm ứng được một ư thức năng lực, sự sống, năng lượng, khả năng vượt qua chướng ngại và khắc phục các khó khăn. Nhà lănh đạo có thể làm được điều này bằng cách khơi dậy Thượng Đế nội tâm và khả năng khơi dậy Thượng Đế nội tâm đó được xác định qua mức độ mà bản chất nội tâm của chính y đă trở nên mạnh mẽ khi trải qua kinh nghiệm.

 

BỔN PHẬN CAN THIỆP

 

Chơn sư có nêu rơ rằng bổn phận của chúng ta là phải can thiệp trong những trường hợp độc ác. Trong những trường hợp như thế, vấn đề không phải là “chỉ quan tâm tới việc của riêng ḿnh” mà phải bảo vệ kẻ yếu, chống lại sự vô minh của kẻ mạnh. Do đó dĩ nhiên là có một vài điều vô minh mà ta không thể dung thứ được. Nếu chúng ta thấy một trường hợp độc ác với một con thú hoặc một đứa trẻ, th́ bổn phận của chúng ta là phải can thiệp nhưng không phải do thú tính hoặc sự đam mê. Đôi khi chúng ta trở nên giận dữ trước những điều sai trái dành cho những người khác và sự giận dữ như thế là một giai đoạn cần thiết, nhưng quyền năng và sức mạnh của sự giận dữ có thể được dùng một cách tốt hơn bằng những phương thức khác. Về lâu về dài th́ sự giận dữ chẳng bao giờ có ích lợi thật sự; thiên hạ dễ bị chế ngự bởi ḷng b́nh tĩnh hơn là bởi cơn băo ḷng.

Ta cũng được dạy bảo rằng, nếu chúng ta thấy có một ai đó vi phạm pháp luật của xứ sở th́ chúng ta phải báo cho nhà cầm quyền. Đây là một trong những câu mà  độc giả của quyển sách nhỏ này ít thông cảm nhất. Họ không hiểu rằng bổn phận đầu tiên của chúng ta là phải tỉnh táo chống lại những luật lệ mà chúng ta coi là sai trái và càng tích cực đấu tranh với những luật lệ tồi tệ th́ càng tốt. Chừng nào mà chúng ta c̣n mặc nhận luật lệ th́ chúng ta c̣n phải chấp nhận nó là một bộ phận của guồng máy để xác lập sự b́nh an ở khắp đất nước. Do đó trong những hoàn cảnh ấy, những kẻ phạm pháp là những kẻ phá rối an b́nh và với vai tṛ là công dân tốt th́ ta chỉ việc hiểu rằng sự an b́nh đó càng ít bị xáo trộn th́ càng tốt. Người ta thường phản đối kịch liệt một luật lệ mà không chịu mất công hoặc là vận động để băi bỏ nó hoặc là cố t́nh tuân theo những điều khoản của nó ngơ hầu chứng tỏ sự bất công của nó. Bổn phận đầu tiên của chúng ta là phải góp phần khiến cho luật lệ của xứ sở càng công chính bao nhiêu th́ càng tốt bấy nhiêu. Nếu chúng ta làm như thế th́ chúng ta phải hiểu ra rằng ḿnh không được phạm pháp. Khó khăn ở đây là thiên hạ ít chú ư tới luật lệ của xứ sở mà chỉ quan tâm tới luật lệ đó khi bản thân bị mâu thuẫn mạnh mẽ với luật lệ. Bạn ắt lưu ư trong quyển Tự Truyện của bà Besant làm thế nào mà bà luôn luôn để mắt tới khi bà bắt gặp một điều sai trái để cho ta có thể áp dụng được luật lệ; v́ bà biết rằng sự tồn tại của luật lệ trong xứ sở là điều duy nhất bảo đàm cho tự do cá nhân, và trong khi bà nghĩ rằng đôi khi bà có bổn phận đấu tranh với luật lệ th́ bà sẽ đấu tranh một cách công khai và sẵn ḷng chịu chấp nhận thẩm quyền của nó. Thật vậy, bà luôn luôn đi lệch ra khỏi đường lối của ḿnh nhằm giúp cho nhà cầm quyền nhận biết được hành động của ḿnh sao cho trong khi bà có thể phạm pháp th́ bà lại thật sự không gây ra sự mất b́nh an.

Đôi khi thiên hạ bảo tôi rằng họ không muốn phản bội những cá nhân đào tị luật lệ và tin cậy vào ḿnh. Tôi không tin rằng một thái độ như thế tất nhiên là ḷng trung thành chân chính hoặc là đối với cá nhân hoặc là đối với nhà nước. Nếu cá nhân vi phạm pháp luật của xứ sở th́ sự vi phạm của y cần phải làm cho y sáng mắt ra để cho y rút kinh nghiệm. Nếu luật lệ của xứ sở là không công bằng th́ ta ắt phải bận rộn phấn đấu yêu cầu thay thế những luật lệ đó bằng những pháp luật tốt hơn. Điều này có nghĩa là thiên hạ không vận dụng quyền công dân của ḿnh một cách tha thiết đúng mức, không mất công đúng mức về những bổn phận công dân của ḿnh, không thực hiện trách nhiệm cá nhân của ḿnh đối với luật lệ xứ sở. Những kẻ nào không có trách nhiệm đối với luật lệ của xứ sở và không thể ảnh hưởng tới nó theo bất cứ cách nào th́ thật ra đang ở một vị thế khó khăn; nhưng hầu hết chúng ta đều có một trách nhiệm như thế và khi có trách nhiệm th́ chúng ta phải tuân theo luật pháp trong khi đó vẫn c̣n là luật pháp, và nếu chúng ta nghĩ là thỏa đáng th́ chúng ta nên t́m cách sửa đổi những phần luật lệ nào mà đối với chúng ta dường như có thể là bất công. Dĩ nhiên điều này có nghĩa là chẳng những chúng ta phải chú ư tới luật lệ mà c̣n phải quan tâm tới nhà cầm quyền nữa. Thường xảy ra chuyện nhà cầm quyền là những người nam hoặc nữ chẳng biết cầm quyền ǵ hết, chẳng biết cách vận dụng quyền lực của ḿnh một cách khôn ngoan; trong trường hợp đó, khi báo cho nhà cầm quyền, chúng ta có thể đặt cá nhân vào tay của những kẻ mà ư thức quyền lực đè bẹp ư thức công bằng của ḿnh. V́ vậy ta phải cẩn thận để xem chúng ta chỉ đưa qua nhà cầm quyền nếu thấy họ đáng tin cậy. Tôi hoàn toàn đồng ư rằng điều này phải mất thời gian nhưng chúng ta phải nỗ lực không ngừng để cải thiện t́nh h́nh của xă hội và v́ chúng ta không coi những bổn phận này nghiêm chỉnh một cách thỏa đáng cho nên chúng ta mới thấy ḿnh gặp khó khăn khi phải chọn lựa giữa bổn phận đối với xứ sở mà chúng ta ở trong đó và ư thức công bằng đối với cá nhân yêu cầu sự che chở của chúng ta. Xứ sở phải có thể che chở một cách công bằng như chính chúng ta, và nếu xứ sở không làm được như vậy th́ chúng ta phải giúp cho tổ quốc làm được như thế. Ta cũng nên nhớ rằng phúc lợi của nhiều người có tầm quan trọng lớn lao hơn nhu cầu của một người, và chúng ta không được để cho thiện cảm cá nhân của ḿnh đối với cá thể đó hoàn toàn lấn lướt được t́nh huống trực chỉ tới sự an b́nh của xứ sở xét chung.

 

LUÂN LƯ VỀ NÓI DỐI

 

Về vấn đề này, thường nảy ra thắc mắc là việc nói dối để bảo vệ người khác có đúng hay chăng. Trong những buổi họp, đôi khi người ta có hỏi tôi liệu tôi muốn bảo vệ một kẻ muốn tị nạn có được công bằng th́ tôi có sẵn ḷng vạch ra cho nguyên cáo thấy rằng y đă đi theo một đường lối khác với đường lối thật sự nên theo. Tôi xin trả lời rằng mọi chuyện c̣n tùy thuộc vào hoàn cảnh, vào bản chất của điều sai trái mà người ta phạm phải, vào đủ thứ điều mà tôi vừa ám chỉ. Mặt khác, nếu tôi tự nguyện nói dối và chấp nhận nghiệp báo v́ làm như thế th́ đó là chuyện riêng của tôi chứ đâu phải là chuyện của ai khác. Cố nhiên hoàn toàn rơ ràng là người ta không nên nói dối, nhưng cá nhân tôi có thể quan niệm được những trường hợp phát sinh trong đó thay v́ nói sự thật th́ tôi sẽ nói dối và cam chịu nghiệp báo của ác nghiệp đó. Dĩ nhiên vấn đề này là vấn đề gai góc và động cơ thúc đẩy ta nói dối phải có tính chất rất cực đoan. Trong rất ít trường hợp th́ chúng ta mới có lư do chính đáng khi nói dối, nhưng bản thân tôi không sẵn ḷng tuyên bố rằng ḿnh chẳng bao giờ nói dối. Khi nêu ra thắc mắc đó, theo tôi thiên hạ dường như chú trọng quá nhiều tới sự tiến bộ cá nhân của chính ḿnh. Họ không muốn nói dối chẳng phải v́ đó là sai trái mà v́ nó can thiệp vào sự tiến bộ cá nhân của họ, và v́ điều đó làm tăng thêm gánh nặng nghiệp báo của họ. Tôi thấy đây là một lư do ích kỷ.

 

KẾT LUẬN

 

Chơn sư kết luận bằng cách dạy chúng ta rằng đôi khi chúng ta có bổn phận phải dịu dàng nói cho người khác biết lỗi của họ, nhất là nếu chúng ta ở địa vị có trách nhiệm đối với họ, và tôi dám đánh bạo nhấn mạnh tới từ ngữ “dịu dàng”. Sỗ sàng rất thường là thái độ của kẻ muốn ḿnh chính xác. Tôi xin kết thúc phần này bằng những lời vô giá: “Con hăy quan tâm tới việc của riêng ḿnh và học đức tính im lặng”.

 

 

CHƯƠNG XIV

 

SÁU ĐIỀU VỀ HẠNH KIỂM

 

Bây giờ chúng ta xét tới sáu điều về hạnh kiểm mà những kẻ nào t́m cách phụng sự Chơn sư đều phải chú ư. Cố nhiên là người Ấn Độ thừa biết sáu điều này v́ trong kho tài liệu tôn giáo Ấn Độ có đặc biệt đề cập tới chúng. Tôi không muốn làm phiền bạn bằng những danh xưng Bắc phạn v́ đủ thứ đường lối phát triển do Chơn sư nêu ra. Ngài đă dùng một vài từ tiếng Anh để dịch thuật cho nên chúng ta không cần bận tâm v́ thuật ngữ trong nguyên bản.

Có lẽ bạn đă lưu ư thấy rằng thoạt đầu Chơn sư đưa ra tính Phân biện v́ nhờ có phân biện chúng ta mới học được cách phân biệt giữa điều đúng và điều sai. Cố nhiên năng lực này là nền tảng của việc chúng ta tiến hóa trong giới nhân loại. Chúng ta có một lương tâm nghĩa là bản thân chúng ta có được kết quả kinh nghiệm trong quá khứ nhờ đó chúng ta có thể trắc nghiệm những sự trải nghiệm khi chúng xảy ra và chấp nhận hoặc bác bỏ chúng tùy theo việc chúng ta biết chúng có tác dụng nâng cao hay làm thoái hóa.

Thế rồi Ngài nhấn mạnh tới điều kiện Vô dục (Đoạn tuyệt ham muốn) và dùng từ vô dục theo đúng nghĩa của nó là không để cho bản thân bị dục vọng khống chế. Chơn sư có dạy rằng: “Điều kiện Vô dục cho thấy rằng chúng ta phải kiểm soát được thể vía” và chúng ta được dạy bảo rằng điều đầu tiên trong sáu điều về hạnh kiểm (nghĩa là tự chủ đối với cái trí) cho thấy rằng chúng ta phải kiểm soát được thể trí. Có lẽ bạn ắt thắc mắc tại sao cái điều kiện đặc biệt này không được dành cho nó một chương riêng giống như điều kiện vô dục đối với thể vía. Thật ra th́ đối với hầu hết chúng ta thể vía phát triển trọn vẹn hơn thể trí. Thể trí của chúng ta chỉ mới xuất hiện khi chúng ta chuyển từ giới động vật sang giới nhân loại và do đó nó tương đối mới tăng trưởng gần đây. Mặt khác, thể vía đă sát cánh với chúng ta trong khi chúng ta c̣n sinh hoạt trong giới động vật, và trong một mức độ rất lớn nó là phương tiện giúp chúng ta tăng trưởng măi cho đến tận ngày nay – chẳng hạn như sự tăng trưởng của con thú tùy thuộc phần lớn vào những rung động thuộc thể vía của nó. Kết quả là khi chuyển sang giới nhân loại với một thể vía được rèn luyện biết rung động theo nhiều chiều hướng khác nhau, th́ bài học mới mẻ chúng ta phải học là chúng ta phải kiểm soát nó mà phần lớn là nhờ vào sự trợ giúp của thể trí mới tinh cho măi đến một mức độ nào đó trong giới nhân loại th́ mới được dùng làm phương tiện đặc biệt để tăng trưởng. V́ vậy Chơn sư nhấn mạnh tới nhu cầu phải kiểm soát được thể vía tức thể xúc động và đặt điều kiện đặc biệt này vào vị trí tự nhiên của nó ngay sau đức tính tối cao là phân biện.

 

KIỂM SOÁT CÁI TRÍ

 

Chơn sư tức khắc dẫn chúng ta tới khía cạnh quan trọng nhất trong việc kiểm soát cái trí, là kiểm soát được tính khí và dây thần kinh. Sự b́nh tĩnh của cái trí là một trong những điều kiện quan trọng nhất, v́ nếu chúng ta không có được điều kiện đó th́ chúng ta có rất ít cơ may có thể kiểm soát được xúc động. Một tư tưởng náo động tất yếu sẽ phản tác động lên thể vía, và v́ thể trí là một hiện thể có nhiều quyền năng hơn thể vía cho nên hậu quả của một thể trí náo động phần lớn là làm cho thể vía càng náo động hơn. Thế rồi lại xét tới những dây thần kinh vốn là phương tiện để truyền ấn tượng lên bộ óc và từ bộ óc xuống, th́ ta rất cần kiểm soát được chúng sao cho điều ḥa được cả năng lực tiếp nhận lẫn năng lực biểu lộ. Luôn luôn có khó khăn nhất là đối với kẻ nào thật sự tha thiết và đang cố gắng đạt được sự đồng cảm và t́nh thương, v́ muốn làm được như thế th́ họ tất ỵếu phải khiến cho các hạ thể của ḿnh nhạy bén nhiều hơn với những ấn tượng bên ngoài sao cho họ có thể đáp ứng với những ấn tượng đó dễ dàng hơn mức đạt được từ trước đến nay. Điều này có nghĩa là mọi ấn tượng bên ngoài ảnh hưởng tới họ dễ dàng hơn so với ảnh hưởng lên kẻ phàm phu, và kết quả là dây thần kinh đâm ra mệt mỏi v́ phải dẫn truyền quá nhiều đáp ứng và ấn tượng do đó có khuynh hướng tuột khỏi tầm tay của ta. V́ thế mới có sự bực bội và sự trầm cảm, nói cách khác là thần kinh bị kiệt quệ. Ở một mức độ cao hơn, cá nhân có thể kiểm soát được sự đáp ứng của dây thần kinh đối với những kích thích ở bên ngoài, và có thể không chịu bỏ ra nhiều năng lượng thần kinh hơn mức ḿnh có thể cung ứng được, do đó trong khi vẫn nhạy cảm không kém các huynh đệ trẻ tuổi hơn th́ họ giỏi quản lư được tài nguyên của ḿnh vén khéo hơn và đáp ứng một cách thuận lợi nhất thay v́ đáp ứng một cách ẩu tả. Những người trong các bạn vốn đang cố gắng thực hành những nguyên tắc được tŕnh bày trong quyển Dưới Chơn Thầy rất có thể nhận thấy có khuynh hướng gia tăng bực bội, thiếu b́nh tĩnh, thậm chí có những tư tưởng và xúc cảm bất hảo băng ngang qua tâm trí hoặc các xúc động của ḿnh. Nếu bạn thật sự tha thiết th́ bạn có thể tự an ủi qua sự thật là có lẽ nhiều điều này là hệ quả tất yếu của việc bạn nỗ lực tiến bộ và nhiều điều đó đáng hơn là thuộc về phần bên ngoài của bạn: xuất phát từ những nguồn bên ngoài nhưng được bạn coi là chính ḿnh, v́ khả năng tưởng tượng của bạn. Nên nhớ rằng sự đồng cảm và thiện chí phần lớn tùy thuộc vào óc tưởng tượng và nếu bạn rèn luyện ḿnh để tưởng tượng theo một đường lối nào đó th́ bạn không thể không có khuynh hướng cũng tưởng tượng theo một đường lối khác, và bạn chỉ có thể kiểm soát được óc tưởng tượng của ḿnh sau khi bạn đă vận dụng nó đến mức tối đa. Tôi muốn nhấn mạnh tới vấn đề óc tưởng tượng này, v́ nhiều người đang làm hết sức ḿnh để hầu như trở thành thánh tử v́ đạo cho óc tưởng tượng – tưởng tượng đủ thứ khó khăn và rắc rối một cách không cần thiết, tưởng tượng đủ thứ điều tồi tệ một cách không cần thiết. Mặt khác, cũng trong chừng mực mà họ có thể chính xác tưởng tượng ra những phiền năo và rối rắm của những người xung quanh ḿnh th́ trong chừng mực đó họ vẫn c̣n có thể hữu dụng để giúp cho những người khác. Hiện nay thế giới là một nơi rất khó sống. Có quá nhiều sự xáo trộn cả trên cơi trí tuệ lẫn trên cơi xúc động đến nỗi những người rất nhạy cảm thấy thật khó sống ở một đô thị lớn nơi mà đại khối quần chúng đang phóng ra những lực bạo động đi qua các cơi này, một công việc thật khó khăn. Nhất là có nhiều xao xuyến, lo âu và sầu muộn, nhiều tuyệt vọng và thất vọng, nhiều nghi ngờ và rối trí. Tất cả những điều này giống như biết bao nhiêu cú đấm nện vào kẻ nhạy cảm và y thường đâm ra bối rối không biết liệu những cú đấm đó xuất phát từ bên trong hay bên ngoài. Thế giới đang ở trong một ṿng xoáy kích động và nếu người ta không có đủ khả năng để làm cho ḿnh ổn định chống lại những lực xoáy lốc th́ người ta hầu như chẳng biết được liệu sự kích động đó có nguồn gốc từ bên trong hay bên ngoài.

 

KHÓ KHĂN CỦA VIỆC RÈN LUYỆN

 

Chính v́ lư do này mà việc rèn luyện tôn giáo thường xảy ra cách ly thế giới theo nghĩa xa rời những hoạt động bên ngoài của thế giới. Thời xưa thầy và tṛ ẩn dật trong rừng thẳm, sống trong ảnh hưởng khuây khỏa và thống nhất của thiên nhiên. Tôi được dạy cho biết rằng hiện nay người ta đang thử nghiệm để cho một phần sự rèn luyện này diễn ra nơi ngoại giới. Nếu cuộc thực nghiệm thành công th́ sự tiến bộ có thể rơ ràng là trở nên nhanh hơn v́ một số lớn thí nghiệm có thể được thực hiện liên tiếp nội trong một thời gian tương đối ngắn. Mặt khác, sự căng thẳng sẽ vô cùng lớn lao cho dù sự tiến bộ có thể nhanh hơn nhiều và chúng ta phải trả giá bằng sự căng thẳng để có được sự nhanh chóng giúp chúng ta có thể tăng trưởng. Khi nói theo kinh nghiệm bản thân, tôi chẳng bao giờ khuyên bất cứ ai không cân nhắc kỹ lưỡng mà lại hiến ḿnh cho sự rèn luyện đặc biệt mà quyển Dưới Chơn Thầy dự tính sẽ đưa ra. Nếu chúng ta làm được th́ thật bơ công hết sức, nhưng chẳng có ích ǵ khi giả vờ rằng điều này là dễ dàng và không có những lúc cực kỳ phiền năo và bất hạnh. Sự phiền năo và bất hạnh đó chắc chắn là do các hạ thể và tuyệt nhiên không được xen vào trong sự rèn luyện. Dù thế nào th́ sự thật là vẫn có phiền năo và tôi chẳng biết có ai đang bước trên Thánh đạo mà lại dám bảo rằng trong khi mục tiêu xứng đáng với mọi tinh tấn th́ tuy nhiên nó thật đ̣i hỏi một nỗ lực có tầm mức đáng kể. May mắn thay vẫn c̣n có mức độ tăng trưởng b́nh thường và thông thường, và bản thân tôi đôi khi tự hỏi tại sao ḿnh lại không bằng ḷng với điều đó. Nên nhớ rằng chúng ta không thể cưỡng chế ai ngược lại ư muốn của y nhằm tiến nhanh hơn tốc độ b́nh thường. Không ai có thể bảo tôi: “Bạn phải đi nhanh hơn mức bạn muốn”. Điều mà họ có thể nói ắt là: “Nếu bạn muốn đi nhanh hơn th́ cơ hội đang mở ra cho bạn để cho bạn quyết định”. Tôi có thể tưởng tượng rằng bạn đọc ắt bảo rằng thật khó ḷng mà biết được phải quyết định cái ǵ nếu thật ra ta chẳng biết phía trước ḿnh có cái ǵ; bạn chỉ có thể quyết định dựa trên cơ sở kinh nghiệm đă qua chứ không dựa vào kết quả những kinh nghiệm của người khác. Điều này là đúng nhưng tôi nghĩ rằng chơn ngă có lẽ biết điều ǵ rất có thể ở phía trước ḿnh, nó có thể chọn lựa một cách hiểu biết như thế và trọn cả khó khăn cốt ở việc rèn luyện các hạ thể làm điều mà chủ nhân ông muốn chúng làm. Ở dưới đây, trên các cơi hồng trần và trung giới, chúng ta vô minh hơn chơn ngă v́ chơn ngă là phản ánh trực tiếp của Chơn thần, tức một Điểm Linh Quang trong ngọn lửa Thượng Đế. Hơn nữa, thể xác và thể vía của chúng ta đă gây ra nhiều chuyện trong lộ tŕnh của riêng ḿnh thuộc quá khứ, chúng ta đă dùng chúng v́ mục đích tăng trưởng và chúng muốn tiếp tục đi theo đường cũ cho dù chúng ta không c̣n cần chúng v́ mục đích này nữa. Điều mà chúng ta cần chúng hiện nay là chúng trở thành hiện thể để biểu lộ ư chí của chơn ngă. Chúng ta muốn chúng là các sứ giả hơn là các cá thể độc lập. Trong trường hợp những người là ứng viên của Thánh đạo, chúng đă tăng trưởng hết mức cần thiết rồi. Chức năng riêng của chúng đă được xác lập. Sức mạnh đă được sản sinh ra và giờ đây chơn ngă chỉ việc điều khiển sức mạnh đó đi vào những kênh dẫn thích hợp. Tôi không nói rằng đây là trường hợp đối với mọi người. Chắc chắn có nhiều người cần biểu hiện nhiều hơn về thể xác và thể vía so với mức họ có thể đạt được cho đến nay. Nhưng điều đó không áp dụng cho chúng ta v́ nhiệm vụ đặc biệt của chúng ta là có được điều kiện vô dục.

Nên nhớ rằng mục tiêu lớn của chúng ta là rung động hài ḥa hết mức với các rung động của Chơn sư sao cho thần lực của Ngài có thể tuôn chảy qua chúng ta một cách không gián đoạn. Trong khi chúng ta rung động theo một nhịp độ c̣n Ngài rung động theo một nhịp độ khác, th́ thần lực đi xuyên qua chúng ta rất khó khăn, và trong nhiều trường hợp hầu như không làm được điều đó. V́ vậy trong quyển Dưới Chơn Thầy Ngài dạy chúng ta cách làm cho rung động của ḿnh hài ḥa với rung động của Ngài, sao cho tất cả đều ít nhiều đạt được cùng một tốc độ hầu Ngài có thể tương đối đỡ mất công khi gửi xuyên qua chúng ta những thông điệp tới cho thế giới bên ngoài. Chúng ta cần có cái trí b́nh thản chẳng những để cho không suy nghĩ hấp tấp, chẳng những để cho chúng ta có một bầu hào quang yên b́nh mà thần lực của Chơn sư có thể tuôn chảy vào và xuyên qua đó, mà c̣n là v́ chúng ta có thể không sợ sệt đương đầu với mọi rắc rối và khó khăn xảy đến cho ḿnh khi chúng ta được trắc nghiệm sức mạnh. Chơn sư dạy rằng Ngài muốn chúng ta coi thường những rắc rối xảy ra trong đời ḿnh và tránh lo âu về những chuyện nhỏ mọn. Tôi nghĩ một trong những đoạn tuyệt vời nhất thuộc quyển sách đó là chỗ Chơn sư dạy chúng ta rằng mọi điều xảy đến với chúng ta từ bên ngoài – phiền muộn, rắc rối, đau ốm, mất mát – đều thuộc về quá khứ và do đó không quan trọng. Tôi phải thẳng thắn thú nhận rằng ḿnh c̣n lâu mới đạt được tiêu chuẩn mà Sư phụ đưa ra về vấn đề này. Tôi chỉ biết điều đó trên lư thuyết và tôi hi vọng rằng ḿnh sẽ tiến bộ theo chiều hướng đúng đắn, nhưng hiện nay tôi không thể thực hành nó được. Thế rồi tôi không thể luôn luôn nhớ được rằng những chuyện rắc rối cũng phù du như những chuyện vui vẻ, mặc dù Chơn sư dạy rằng đúng là như thế. Sự thật th́ Chơn sư muốn lúc nào chúng ta cũng nhớ rằng chúng ta nên làm chủ được số phận của ḿnh chứ đừng nô lệ cho nó. Điều xảy đến cho chúng ta hiện nay là điều vốn do chúng ta gây ra trong quá khứ, và chúng ta càng chịu đựng nó vui vẻ và hạnh phúc bao nhiêu th́ nó càng chóng qua đi bấy nhiêu. Dĩ nhiên điều này là rành rành ra rồi, nhưng khi người ta đang ở giữa mọi chuyện rắc rối th́ người ta cũng chẳng biết bao nhiêu lâu nữa th́ nó mới trôi qua hết, v́ nó đâu phải là chuyện rắc rối nữa nếu người ta có thể tự ḿnh tách ra khỏi nó.

 

LO ÂU VÀ NGĂ L̉NG

 

Chúng ta được dạy bảo rằng ḿnh không thể thay đổi được những phiền muộn và rắc rối, v́ vậy đừng mắc công lo âu về chúng. Thật vậy, tôi có nghe một số bạn trẻ biểu hiện t́nh cảm này một cách tán đồng chân thành nhất. Nhưng tôi không thể không nghĩ rằng các bạn trẻ này không lo v́ thật ra th́ họ có ǵ phải lo đâu. Việc tránh không phải lo âu chẳng có ǵ kỳ diệu khi bạn đâu có ǵ phải lo, nhưng thật là một tiến bộ tâm linh xác định khi vốn có chuyện phải lo mà bạn lại không để cho nó khiến ḿnh bù đầu lo nghĩ. Nếu tôi được phép mạo muội phỏng đoán th́ tôi tưởng tượng rằng chỉ những vị ở cấp Chơn sư mới có thể lúc nào cũng vui vẻ và thanh thản. Tôi không nói như vậy để khiến cho người ta có cơ hội nghĩ rằng ḿnh chẳng trông mong ǵ có thể vui vẻ và thanh thản được. Tất cả chúng ta đều mong sẽ được vui vẻ và thanh thản, nhưng phải mất thời gian để học bài học này và cũng chẳng quan trọng ǵ lắm nếu có một số sự tái phạm dọc đường. Người ta quá chú tâm tới sự lỡ bước nhằm phấn đấu thành công theo hướng các điều kiện nêu trên nên không nhận ra được rằng tất nhiên là phải như thế. Ta nên càng ít chú ư tới chúng bao nhiêu th́ càng tốt bấy nhiêu. Nếu chúng ta không thường hay sa ngă dọc đường th́ chúng ta không học được cách đồng cảm với những kẻ có lẽ c̣n thường xuyên sa ngă nhiều hơn chúng ta (nếu có thể). Thất bại là mẹ thành công và nếu bản thân chúng ta không có kinh nghiệm thất bại th́ chúng ta không thể giúp được những người khác vào những lúc mà họ cần trợ giúp nhất nghĩa là khi chính họ thất bại.

Lại nữa, chúng ta được dạy bảo không bao giờ được phép cảm thấy buồn rầu hoặc ngă ḷng, v́ nó khiến cho cuộc đời người khác khó chịu hơn. Ở đây chúng ta lại phải đi một đoạn đường dài trước khi chúng ta có thể hi vọng hoàn thành được nhiệm vụ mà Chơn sư đặt ra cho chúng ta. Vào lúc giống như bây giờ th́ việc hoàn thành nhiệm vụ đó là khó gấp đôi, v́ có nhiều người tự nhiên là cảm thấy ngă ḷng do không được hiểu biết như chúng ta về luật Nhân Quả và Luân Hồi nên không được ai trợ giúp. Họ không biết sự thật là nhiều điều họ không thể làm được trong kiếp này th́ họ có thể làm được trong kiếp khác; sự thật là những điều mà họ khao khát nhưng chưa thể làm được trong kiếp này th́ một ngày kia họ sẽ có thể làm được và họ cũng chẳng biết là không có chuyện ngăn cách với những người mà ḿnh yêu thương. V́ không biết tất cả những điều này cho nên chẳng lấy ǵ làm lạ khi họ ngă ḷng, nhất là v́ chúng ta đă biết hết mọi chuyện như thế mà họ cũng không thể không ngă ḷng. Nhưng chúng ta phải thừa nhận rằng ngă ḷng là một biểu lộ của sự vô minh, v́ không thể ứng dụng được theo đúng cách tri thức mà ḿnh có được. Chúng ta phải cố gắng vứt bỏ sự ngă ḷng càng sớm càng tốt, nhưng điều này cố nhiên là khó khăn hơn khi ở giữa một cuộc chiến tranh lớn mang lại những phiền năo cho tâm hồn và gia cư của mọi người. Nhất là chúng ta cần hiểu biết nếu chúng ta muốn xua tan sự ngă ḷng và chính v́ thế mà chúng ta đă phải có gắng thực hiện những phong trào như Hội Thông Thiên Học, Hội Ngôi Sao Đông Phương để truyền bá sự hiểu biết đặc biệt qua những quyển sách như quyển Dưới Chơn Thầy chẳng hạn, để cho nhờ thế thiên hạ có được sức mạnh chịu đựng áp lực của cuộc sống đang tiến hóa.

Trong đoạn sắp tới chúng ta sẽ được dạy cho biết một trong những cách để tránh ngă ḷng là đừng để cho tư tưởng của chúng ta đi lang thang. Nếu chúng ta có rắc rối th́ những rắc rối này sẽ tạo ra những rănh ṃn để cho tư tưởng và xúc cảm dễ dàng tuôn theo đó. Nếu chúng ta để cho tư tưởng và xúc cảm của ḿnh đi lang thang th́ chúng tự nhiên là sẽ theo kênh dẫn dễ đi nhất, và kênh dẫn đó có thể là kênh dẫn mà sự rắc rối hoặc đau khổ đă h́nh thành. Nếu chúng ta để cho tư tưởng đi lang thang th́ chúng có thể chạy theo kênh dẫn đau khổ và rắc rối, như vậy làm hồi sinh những khó khăn có lẽ thực ra đă trôi qua rồi. Cũng thế, nếu chúng ta để cho tư tưởng đi lang thang th́ mọi thứ tư tưởng độc ác từ bên ngoài có thể tràn vào một tâm trí mà chúng ta chưa hoàn toàn kiểm soát được và như vậy bộ óc chúng ta có thể tiếp thu những tư tưởng bất hảo mà chúng ta rất có thể nghĩ là của ḿnh khiến cho chúng ta mất rất nhiều công lao để gạt bỏ. Chơn sư nêu rơ rằng chúng ta phải luôn luôn cố gắng giữ cho những tư tưởng tốt ở bối cảnh của tâm trí sao cho khi không có điều ǵ đặc biệt để suy nghĩ th́ những tư tưởng này có thể xuất hiện vào tiền cảnh và giữ cho chúng ta chẳng những kiên định mà c̣n có ư thức về mối quan hệ vốn trường tồn giữa bản thân ta và các bậc Huynh trưởng. Bằng cách này kênh dẫn luôn luôn được mở toang và bất cứ lúc nào Chơn sư cũng có thể phóng rải xuyên qua chúng ta sự trợ giúp của Ngài cho thế gian.

 

 

CHƯƠNG XV

 

SÁU ĐIỀU VỀ HẠNH KIỂM (tiếp theo)

 

Bây giờ chúng ta đi tới một nhận xét rất quan trọng liên quan đến những cách thực tiễn giúp ta phấn đấu kiểm soát được cái trí.

 

CÁC CÁCH THỰC TIỄN ĐỂ KIỂM SOÁT CÁI TRÍ

 

Chơn sư gợi ư rằng mỗi ngày chúng ta nên nghĩ tới một người nào đó đang gặp rắc rối, bao quanh y bằng tư tưởng yêu thương sao cho từ tư tưởng yêu thương đó, y có thể rút ra được ḷng can đảm và khả năng nhẫn nhục. Trong hầu hết các trường Huyền bí học đều có những hệ thống nhất định để rèn luyện cho các học viên cách thức kiểm soát những loại tư tưởng nhập vào bộ óc ḿnh, làm thế nào để diệt trừ những thứ mà ḿnh không muốn tiếp nhận và làm thế nào mà bất cứ lúc nào cũng rút tâm trí ra khỏi bất cứ đường lối đặc biệt nào mà nó đă dấn thân và tập trung nó vào nơi khác. Khi tôi là Hiệu trưởng của trường Trung học Trung ương Ấn Độ ở Benares, tôi có thói quen giúp cho một số lớn học sinh theo chiều hướng này, tôi gợi ư với chúng là chúng nên dành ra ba buổi đặc biệt trong ngày, trong đó chúng chỉ cho phép có một loại tư tưởng đặc biệt được đi qua tâm trí. Một trong ba buổi này là lúc sáng sớm khi thức dậy, buổi thứ nh́ là lúc chính ngọ, buổi thứ ba là ngay trước khi đi ngủ. Vào buổi sáng tôi khuyên họ trước hết hăy nghĩ tới điều mà ḿnh sắp làm trong ngày và cố gắng quyết tâm dứt khoát làm mọi thứ đúng lúc nhưng không hấp tấp. Bằng cách này họ có thể làm tṛn công việc hằng ngày một cách hữu ích tối đa, dĩ nhiên vẫn có nhiều thời giờ để giải trí và nghỉ ngơi. Sau khi đă vạch ra kế hoạch của ngày đó trong trí, tiếp theo họ chuyển tư tưởng qua hướng nhắm tới những người cần được ḿnh giúp đỡ. Đó ắt là các bạn cùng học hoặc cùng chơi, hoặc có thể là những người đang khốn khổ và phiền năo mà theo lệnh của Chơn sư họ có thể gửi cho những người đó một tư tưởng yêu thương. Thế rồi họ chuyển chú tâm sang gia đ́nh, phóng ra những tư tưởng đầy thiện chí tới cho anh chị em và các thân quyến khác. Sau đó th́ họ ắt chuyển sang các bậc lăo thành: cha mẹ, thầy dạy và giáo sư. Cuối cùng th́ tư tưởng của họ xoay chuyển sang quan niệm cao siêu nhất cho dù nó có thể ra sao đi chăng nữa. Tôi thường khuyên các học sinh Ấn Độ hăy nghĩ tới Gurudeva và cúi đầu kính cẩn trong trí đối với Ngài. Một số người có thể xoay chuyển tư tưởng yêu thương tới cho vị thầy kính mến, những người khác có thể nghĩ tới bà Besant, những người khác có thể nghĩ tới một trong các đại Chơn sư Minh triết. Việc nó xoay chuyển về phía ai th́ không quan trọng miễn là tư tưởng đó nâng họ lên tới mức cao nhất mà họ biết vào lúc đó. Bằng cách này ngay từ khi mới bắt đầu một ngày làm việc, họ đă thấm nhuần những tư tưởng vĩ đại nhất mà họ có thể đạt được, và đă trổi lên một nốt nhạc mà theo thời gian do thường được lập đi lập lại, nó sẽ gửi liên tục sóng âm thanh của nó ra rung động suốt ngày. Kết quả là y đă tạo ra một lực nhất định có khuynh hướng làm giảm thiểu tối đa cơ may nhầm lẫn, và cá nhân hữu quan ắt là những trung tâm mà thần lực Thiêng Liêng có thể dễ dàng tuôn chảy qua hơn. Trọn cả quá tŕnh này không cần phải mất nhiều hơn năm phút hoặc cùng lắm là mười phút, và nó phải mang lại một phẩm giá cho chương tŕnh làm việc trong ngày vốn không có được phẩm giá đó khi chúng ta hối hả không chuẩn bị chuyển từ t́nh trạng yên nghỉ ban đêm sang những hoạt động thông thường của cái gọi là thế giới tỉnh thức.

Thế rồi lúc giữa trưa, cho dù họ đang làm ǵ đi nữa, tôi cũng yêu cầu các bạn trẻ này hăy xoay chuyển tư tưởng ḿnh hướng về lư tưởng cho dù nó có thể ra sao để chứng tỏ rằng giữa những bộn bề của thế gian họ vẫn có thể rút tâm trí nhất thời ra khỏi điều mà nó dường như có vẻ đắm ch́m vào đó. Suy nghĩ về lư tưởng không bao giờ được vắng mặt nơi chúng ta cho dù chúng ta đang làm ǵ đi chăng nữa, cho dù chúng ta đang làm việc vất vả đến đâu đi nữa, th́ để cho lư tưởng không mất đi địa vị của ḿnh tôi khuyên người ta vào lúc chính ngọ hăy xoay chuyển ḿnh, có thể nói là dứt bỏ những ǵ ḿnh đang dấn thân và quay sang thực tại cao siêu nhất mà ḿnh   biết được. Điều này ắt chỉ có nghĩa là một giây xao lăng và c̣n lâu mới làm hại tới công việc mà ta đang làm, nhưng lại cung cấp thêm cho ta nghị lực và khả năng định trí.

Vào buổi tối, tôi yêu cầu học sinh kiểm điểm trong trí chương tŕnh làm việc trong ngày để xem điều ǵ làm được tốt, điều ǵ làm kém, không phải để họ lo âu về những lầm lỗi mà để họ lưu ư tới những lỗi lầm nhằm phấn đấu ngăn không cho chúng tái phạm. Sau khi đă làm như vậy, tôi yêu cầu họ hiến ḿnh trong tư tưởng để phụng sự như thế sao cho họ có thể thực hành suốt đêm và cuối cùng th́ họ sẽ phấn đấu quên ḿnh khi nghĩ tới lư tưởng khiến cho nó có thể mang họ an toàn đi qua trung giới. Dĩ nhiên có nhiều cách khác để tạo ra kết quả giống như thế nhưng đây không phải là một phương pháp khó làm và theo kinh nghiệm mà tôi biết th́ nó có thể thành công phi thường.

Sau một thời gian th́ suy nghĩ tới lư tưởng trở thành một thói quen và suốt trong ngày th́ cá nhân có khuynh hướng tự động qui chiếu về tư tưởng này đủ thứ hành động mà ḿnh nhắm tới. Y đặt hành động bên cạnh lư tưởng rồi chấp nhận hoặc bác bỏ hành động tùy theo đó. Đây là một t́nh trạng tâm trí đáng mong muốn nhất và mặc dù chắc chắn là phải mất thời gian để xác lập th́ nó cũng xứng đáng với bất cứ nỗ lực nào do thông qua đó chúng ta dần dần học được giá trị và khả năng đặt tư tưởng ḿnh bên cạnh tư tưởng của Chơn sư, một phát biểu khiến cho nhiều người thấy khó ḷng hiểu nỗi. Thật vậy, nếu chúng ta chưa thực hành việc cố gắng so sánh tư tưởng b́nh thường của ḿnh với những tư tưởng cao siêu nhất th́ thật khó ḷng tưởng tượng được làm thế nào mà chúng ta lại dùng được tư tưởng của Chơn sư v́ mục đích so sánh giống như thế. Ở phương Đông quá tŕnh này dễ hơn ở phương Tây v́ ở phương Tây có quá nhiều sự cạnh tranh và hối hả bon chen cho nên thiên hạ dường như ít có thời gian để cân nhắc suy nghĩ và nhất là để thu hút những tâm thức tinh thần cao siêu nhất. Nhưng sớm muộn ǵ th́ mọi người tha thiết đều phải quyết tâm đi theo sơ đồ tổng thể mà tôi đă phác họa nêu trên và họ phải sẵn ḷng thi hành nó cho dù có thấy kết quả hay chăng. Người ta rất ưa có khuynh hướng cảm thấy rằng hệ thống là sai lầm nếu kết quả xảy ra không như họ trông mong hoặc như họ thành công do đó không cần cố gắng thêm nữa. Chúng ta phải học cách không màng tới kết quả hơn mức chúng ta thực sự đạt được hiện nay – động cơ thúc đẩy mới là quan trọng và chẳng có điều ǵ mà chúng ta không thể hoàn thành nếu chúng ta có được cả ư chí lẫn một khả năng vô hạn về sự kiên tŕ.

 

SỰ VÔ MINH CỦA NGẠO MẠN

 

Thế rồi chúng ta được dạy bảo đừng để cho cái trí ngạo mạn v́ Chơn sư có dạy rằng “ngạo mạn chỉ bắt nguồn từ vô minh”. Tôi chẳng biết độc giả có cơ hội nào quan sát những người thật sự vĩ đại, nhưng về phần ḿnh tôi đặc biệt lưu ư thấy rằng địa vị tâm linh càng lớn th́ ư thức khiêm tốn chân chính càng lớn. Chẳng hạn như bạn ắt thấy rằng bà Besant dành hết mọi thành công của ḿnh cho Chơn sư và thừa nhận rằng chính v́ vô minh cho nên bà mới sinh ra những nhầm lẫn như thế. Nói cách khác, bà giống như “con người minh triết biết rằng chỉ có Thượng Đế là cao cả và mọi điều tốt chỉ do Thượng Đế làm ra thôi”, và nếu muốn chúng ta có thể dùng từ “Thượng Đế” ngụ ư là Chơn sư hoặc Chơn ngă hoặc có thể là lư tưởng của chúng ta. Những kẻ thường ngạo mạn vốn là những kẻ biết rất ít, muốn cho rằng những điều mà ḿnh   biết chút ít đó là trùm hơn hết, chứ c̣n người ta càng biết nhiều th́ người ta càng nhận ra được rằng ḿnh c̣n phải học thêm nhiều điều nữa, và những người biết nhiều nhất đều có ư thức sâu sắc nhất về khuyết điểm của ḿnh. Theo kinh nghiệm riêng, tôi có thể thực sự bảo rằng v́ tôi mới bắt đầu học từ các thủ lănh cho nên tôi càng ngày càng nhận ra được rằng chẳng những tôi biết ít xiết bao mà c̣n là tôi có biết bao nhiêu khiếm khuyết trước đó tôi không nghĩ rằng ḿnh có thể có. Sự thật là nếu chúng ta hiến ḿnh phụng sự Chơn sư th́ chúng ta phải được thử thách trước khi chúng ta có thể được tin cậy và sự thử thách phần nào cốt ở việc khiến cho chúng ta biết được những khiếm khuyết của ḿnh sao cho chúng ta có thể chẳng những diệt trừ được chúng mà c̣n cố gắng ngăn ngừa không cho chúng cản trở công việc tốt đẹp mà chúng ta có thể hoàn thành. V́ vậy bạn đừng lấy làm ngạc nhiên khi lúc khởi sự đời sinh hoạt chân chính – hoặc là do gia nhập Hội Ngôi sao Đông phương, nhóm Phụng sự viên Ngôi sao hoặc Hội Thông Thiên Học – nếu khó khăn dường như nhân lên gấp bội và nếu bằng một cách nào đó cuộc sống chẳng những trở nên rắc rối hơn mà thậm chí khía cạnh tồi tệ nhất trong bản chất của bạn dường như lại ngóc đầu dậy. Chúng đă ở đó rồi trước khi bạn gia nhập một trong những phong trào lớn về tâm linh, nhưng chúng c̣n thiu thiu ngủ. Giờ đây khi bạn lao lên cấp sinh khí cho bản chất cao thượng của ḿnh th́ bạn cũng nên chẳng lấy làm lạ nếu sinh khí đó cũng tuôn chảy qua bản chất thấp hèn và khiến cho nó xuất lộ với sắc thái chân thực. Thiên hạ đôi khi ngă ḷng lúc chuyện này xảy ra. Họ bảo rằng ḿnh không ngờ ḿnh lại độc ác như thế và họ đâu có biết đó là tác dụng của việc gia nhập một phong trào tâm linh. Đôi khi họ tự trách ḿnh và bảo rằng ḿnh không xứng đáng gia nhập nhưng đôi khi nếu đặc biệt ích kỷ họ lại trách ngược phong trào, nghĩ rằng phong trào không có tính cách tâm linh như họ tưởng bằng không th́ tại sao họ lại dường như tồi tệ hơn sau khi gia nhập phong trào ? Họ không biết được lực vẫn cứ là lực, và nó c̣n tùy thuộc vào việc chúng ta sử dụng lực ra sao. Điều của chúng ta thu được từ việc gia nhập một phong trào tiên tiến vĩ đại là có thêm thần lực, thần lực gia tăng này có thể tương đối dễ dàng được xoay chuyển theo chiều hướng đúng đắn. Mặt khác nó cũng có thể được xoay chuyển theo chiều hướng sai trái, và do đó chúng ta phải cẩn thận đừng để cho bản chất thấp hèn kiểm soát được thần lực gia tăng vốn được ban cho chúng ta do chúng ta là thành viên của một trong các phong trào đó.

Một bậc đại Đạo sư có thể ban quyền năng cho con người. Y sử dụng quyền năng đó như thế nào th́ tùy theo bản thân y. Thật vậy, tuyệt nhiên không được suy đoán rằng đôi khi y không sử dụng quyền năng đó một cách khôn ngoan, nhưng điều này không có nghĩa là Chơn sư đă sai lầm khi phó thác quyền năng cho y. Nếu Chơn sư thấy là nói chung quyền năng sẽ được sử dụng một cách khôn ngoan th́ Ngài có thể thấy ḿnh đánh liều để cho sự thiếu khôn ngoan đó thỉnh thoảng cũng lộ ra. Một cá nhân gia nhập Hội Ngôi sao Đông phương hoặc Hội Thông Thiên Học quả thật được cấp thêm một chút quyền năng và thần lực tuôn đổ qua trọn cả bản chất của y, chỉ khi bản chất của y chủ yếu dựa vào điều cao thượng chứ không dựa vào điều thấp hèn th́ y mới có thể sử dụng tốt đẹp được tư cách hội viên của ḿnh. Tôi đă luôn luôn nghĩ rằng ngoại trừ một lư do rất đặc biệt nào đó, người ta có lẽ không nên được phép gia nhập một trong những phong trào này v́ phải gánh thêm trách nhiệm nếu dường như không có một sự chắc chắn rơ ràng là nói chung sẽ sử dụng thần lực v́ mục đích tốt và chỉ hiếm khi dùng nó một cách sai trái. Chắc chắn là chúng ta sẽ phạm nhiều lầm lỗi và khi chúng ta gia nhập một trong những phong trào này th́ có lẽ chúng ta sẽ phạm nhiều lầm lỗi hơn trước, nhưng mặt khác chúng ta có thể hi vọng làm được nhiều điều tốt đẹp hơn trước và dần dần do những lỗi lầm đó chúng ta sẽ học được cách điều khiển thần lực một cách càng khôn ngoan hơn. Nhưng sự ngạo mạn là hàng rào gây chết người khiến ta không vận dụng hữu ích khả năng tâm linh. Những người nào kiêu ngạo ngay cả về sự hiểu biết tâm linh của ḿnh đều tương đối là chẳng hữu dụng bao nhiêu. Tôi đă được dạy bảo rằng không thể hoàn toàn diệt trừ được sự ngạo mạn cho tới khi ta đă tiến rất xa trên thang tiến hóa, nhưng bây giờ chúng ta đă phải bắt đầu và làm tất cả mọi điều mà chúng ta có thể nhận ra được là chẳng những bản thân cá nhân chúng ta biết ít xiết bao, thậm chí thực sự chúng ta c̣n biết ít hơn ngay cả những người xung quanh ḿnh. Như vậy lời khuyên của chúng tôi ắt phải luôn luôn có tính cách rất gợi ư. Trong quyển Dưới Chơn Thầy có dạy rằng chỉ Chơn sư mới biết được đệ tử của Ngài. Chỉ Chơn sư mới biết được động cơ thúc đẩy một người và trong thế giới tâm linh th́ động cơ thúc đẩy đáng kể hơn bất cứ thứ nào khác. Khi gợi ư như thế tôi không có ư cho rằng hành động không quan trọng. Hành động trên cơi của riêng ḿnh, nhưng động cơ thúc đẩy c̣n quan trọng hơn hành động. Cả hai đều tạo nghiệp báo nhưng ư nghiệp (của động cơ thúc đẩy) mạnh mẽ hơn thân nghiệp (của hành động).

 

 

CHƯƠNG XVI

 

SÁU ĐIỀU VỀ HẠNH KIỂM (tiếp theo)

 

Bây giờ chúng ta chuyển sang xét tới sự Tự chủ trong Hành động. Chơn sư nhận xét rằng chỉ suy nghĩ không thôi chưa đủ, cần phải không lười biếng khi hành động; nhưng Ngài có nêu rơ rằng v́ vậy chúng ta không được cố gắng làm những công việc của người khác chẳng khác nào làm việc của chính ḿnh nếu người ta không yêu cầu chúng ta trợ giúp. Chơn sư có dạy rằng: “Đối với nhiều người th́ chuyện khó nhất trên đời này là học cách để ư tới công việc của chính ḿnh”. Thiên hạ dường như thấy rất khó hiểu được nếu ḿnh cố gắng làm việc của người khác th́ ḿnh lại đang cản trở những người khác đó tiến hóa nhanh như lẽ ra họ đạt được. Thiên hạ tăng trưởng nhờ công việc mà họ làm và nếu bạn cố gắng ôm đồm nhiều như thế th́ bạn cản trở người khác nỗ lực đến mức tối đa, chẳng những bạn làm việc của chính ḿnh không tốt mà bạn c̣n vô hiệu hóa sự tăng trưởng của những người xung quanh. Ta nên hiểu rơ rằng nhà lănh đạo chân chính là người trợ giúp những người khác làm việc theo đường lối của họ một cách thành công hơn. Đây không phải là vấn đề nhà lănh đạo làm ǵ mà là vấn đề nhà lănh đạo gợi hứng đến đâu cho những người khác làm việc. Nếu nhà lănh đạo giúp họ đóng một vai tṛ tích cực hơn trong cuộc sống, cảm thấy sống động hơn, quan tâm hơn tới công việc của ḿnh th́ đó quả thật mới là nhà lănh đạo và dẫn dắt. Nhưng nếu y nhận một phần việc rồi tập trung hết ḿnh vào đó, khiến cho người khác cảm thấy rằng họ hoàn toàn lệ thuộc vào y để có nỗ lực sáng kiến th́ y không phải là kẻ biết cách quan tâm tới công việc của ḿnh. Chúng ta thường được dạy dỗ rằng không ai trong chúng ta là cần thiết và lư do chúng ta không cần thiết là v́ luôn luôn có những người làm được việc nếu công việc cần phải được thực hiện. Chúng ta cần có dưới trướng ḿnh những người sẵn sàng hiểu được những người xung quanh ḿnh phải làm ǵ, và trong khi chắc chắn là nói chung phải đảm nhận một phần việc đặc biệt nào đó th́ họ cẩn thận ẩn đằng sau hậu trường đến mức tối đa, và để cho mọi người xung quanh ḿnh có cơ hội tăng trưởng qua hành động độc lập, thế nhưng vẫn hài ḥa. Đây là điều tôi nghĩ là căn bản của phát biểu Chơn sư nói rằng chúng ta nên để cho mọi người làm công việc của ḿnh theo cách của riêng ḿnh. Dĩ nhiên chúng ta nên sẵn sàng trợ giúp khi được yêu cầu hoặc khi cần thiết, nhưng theo thông lệ th́ tốt hơn là nên để cho người ta học hỏi bởi vấp phải những lỗi lầm và cảm thấy ḿnh là những tác nhân tự do trong phạm vi những giới hạn hợp lư. Quả thật là vào lúc khẩn cấp nhà lănh đạo có thể phải kiểm soát hoàn toàn và yêu cầu thuộc hạ phải tuân lời hơn là có sáng kiến. Nhưng những lúc đó là hiếm có và trong hầu hết mọi trường hợp th́ điều mà chúng ta phải khuyến khích là sáng kiến và óc độc lập, thế nhưng vẫn có năng lực hợp tác.

 

NHIỆM VỤ CHUNG LÀ SINH HOẠT HẰNG NGÀY

 

Thế rồi Chơn sư nhận xét rằng cho dù chúng ta có thể quan tâm nhiều tới đâu đi nữa về cái gọi là “công việc cao siêu”, th́ chúng ta không được lơ là những nhiệm vụ thông thường trong đời sống. Thật vậy, sự tiến bộ và hữu ích của chúng ta tùy thuộc vào việc chúng ta làm tṛn những bổn phận thông thường này. Nếu chúng ta không thể làm tốt những chuyện thông thường th́ chúng ta không có nhiều hi vọng làm tốt cái gọi là “những chuyện cao siêu”. Ngay cả hiện nay do ảnh hưởng của sự mê hoặc của chúng, ta có thể dồn hết nghị lực vào đó và như vậy dường như làm những chuyện đó tốt hơn những chuyện thông thường. Nhưng sự mê hoặc không kéo dài lâu và nếu chúng ta có thói quen làm không tốt những chuyện b́nh thường th́ sớm muộn ǵ chúng ta cũng thấy ḿnh làm không tốt những chuyện cao siêu. Và thật nghiêm trọng hơn nhiều khi làm những chuyện cao siêu mà thậm chí lại c̣n tồi tệ hơn khi làm chuyện b́nh thường một cách cẩu thả. Dĩ nhiên sự thật là có rất ít sự khác nhau mà ta rút ra được giữa điều cao siêu và điều thấp thỏi. Chúng ta học cách tăng trưởng nhanh chóng qua việc hoàn thành nhiệm vụ khiêm tốn nhất cũng như qua việc hoàn thành những nhiệm vụ cao siêu hơn. Chơn sư bảo chúng ta rằng chừng nào chúng ta chưa làm hết những bổn phận thông thường trong cuộc sống th́ chúng ta chưa tự do để có những việc phụng sự khác. Nên lưu ư rằng Ngài dùng từ “khác” chứ không dùng từ “cao siêu”. Thật vậy, chúng ta được dạy dỗ rằng nếu một cá nhân chưa diệt trừ được hết phần nghiệp chướng nặng nề nhất th́ y chưa được tự do để đảm nhiệm gánh nặng làm đệ tử. Và cách duy nhất để diệt trừ nghiệp chướng – thật ra là bất kỳ nghiệp báo nào – là phải cố gắng làm những chuyện nho nhỏ càng tốt bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Dĩ nhiên những chuyện nho nhỏ dường như khá buồn tẻ và không thú vị, nhưng trong khi chúng dường như thế đối với ta, th́ chúng ta phải nhớ rằng chẳng bao lâu sau chúng ta sẽ không c̣n quan tâm tới “những điều cao siêu” nữa nếu chúng ta có dịp. Chỉ khi chúng dường như mới mẻ và không b́nh thường th́ chúng ta mới lại trực tiếp quan tâm tới chúng, và như vậy thật ra chúng ta đă chứng tỏ rằng chúng ta quan tâm nhiều tới điều kích động chúng ta hơn là tới điều cần phải làm. Chừng nào sự quan tâm c̣n chưa được rèn luyện để cho nó tự động hướng về điều cần phải làm th́ chúng ta c̣n chưa đi thật xa. V́ thế cho nên chúng ta cần phải cố gắng nhớ kỹ rằng những chuyện nhỏ là những ḥn đá tảng dẫn tới những chuyện lớn hơn. Tôi không nghi ngờ là điều tôi đang viết ra ở đây nghe không đặc biệt thú vị hoặc hữu ích hoặc mang lại cảm hứng. Tôi có thể nghe bạn đọc kêu ầm lên rằng chẳng có ǵ vất vả khi có sự tiến bộ hơn mức mà họ nghĩ ra được. Hoàn toàn đúng như thế ! Thoạt đầu có rất nhiều vất vả cho đến khi bắt đầu nhận ra được rằng thật ra chẳng có ǵ là vất vả. Không ai trong chúng ta đă từng đạt tới giai đoạn đó, nhưng nguyên tắc lớn trong cuộc sống là chẳng có điều ǵ cần phải làm mà xét về bản chất lại có vẻ vất vả. Sự vất vả như thế dường như là do chúng ta vô minh, và sự thật là đối với nhiều người trong chúng ta th́ chẳng có chi là đáng giá ngoại trừ những điều gây ra một sự kích động bất thường của thể vía hoặc thể trí.

 

SỰ TẬP TRUNG NĂNG LƯỢNG

 

Thế rồi chúng ta được dạy bảo rằng chúng ta không nên đảm nhiệm những bổn phận mới trên thế gian. Nói như vậy tôi không ngụ ư rằng chúng ta không bao giờ nên thử làm bất cứ điều ǵ mới mẻ, mà đúng hơn là thật rất không khôn ngoan khi ta tiếp tục cố gắng đảm nhiệm công việc mới, mở rộng chú tâm sang những điều quan tâm mới, khi chúng ta không thật sự làm tṛn nhiệm vụ của ḿnh đối với công việc và những quyền lợi mà chúng ta đang có sẵn trong tay. Chẳng hạn như nhiều người luôn luôn mong ước thuộc về mọi thứ ǵ mới mẻ, gia nhập mọi phong trào mới, tham gia vào mọi hoạt động mới khi có thể. Kết quả thường là họ phí phạm năng lượng và không cung cấp được cho những hoạt động này, cũng chẳng nhận được ǵ từ những hoạt động đó – cái điều lẽ ra là kết quả, tức là gia tăng sinh lực cho cả phong trào lẫn cho cá nhân. Mặt khác, nếu người ta cảm thấy rằng ḿnh có thể trợ giúp cho một hoạt động mới mẻ nào đó bằng cách tham gia vào, th́ chẳng có lư do ǵ tại sao người ta không nên gia nhập vào nó sau khi đă cẩn thận cứu xét tới số lượng thời gian mà người ta phải dành cho nó, và cân nhắc xem liệu số lượng thời gian đó có thể tạo ra việc làm tṛn thỏa đáng bất kỳ nghĩa vụ hữu quan nào hay chăng. Nói cách khác, người ta phải tiến hành một cách cố ư và không đảm nhiệm những bổn phận mới trên thế gian chỉ để “hùa” theo mọi người khác, và gỡ gạc được càng nhiều càng tốt từ chuyện đó. Chúng ta không được quên rằng có cả nghiệp báo khi không làm tṛn nghĩa vụ, cho dù nghĩa vụ đó được đảm nhiệm một cách cân nhắc hoặc hời hợt. Chúng ta đă tạo ra mối liên kết và chúng ta không được tưởng tượng rằng ḿnh có thể tránh được trách nhiệm nghiệp báo nếu chúng ta bỏ dở hoạt động khi chúng ta không c̣n cảm thấy thú vị nữa. Nói tóm lại, chúng ta phải làm đến mức tối đa khả năng của ḿnh nhưng không hơn mức lẽ ra chúng ta nên làm. Sự thật là những người trong chúng ta vốn tha thiết và đang phấn đấu để tiếp xúc với một trong các bậc đại Đạo sư, th́ chúng ta phải nhớ rằng Chơn sư dạy chúng ta phải làm việc b́nh thường tốt hơn những người khác làm việc b́nh thường. Nếu chúng ta làm những việc b́nh thường của ḿnh mà không tốt hơn những người khác làm bổn phận của họ, th́ chúng ta không xứng đáng với mối quan hệ đặc biệt mà chúng ta hi vọng tạo ra giữa bản thân ta và các Huynh trưởng. Thật vậy, mọi người đều đă có quan hệ với một vị Huynh trưởng, nhưng nếu chúng ta muốn cho mối quan hệ riêng của ḿnh được mạnh mẽ và trong sáng hơn th́ chúng ta phải tỏ ra là ḿnh có giá trị, và để chứng tỏ rằng ḿnh có giá trị th́ chúng ta phải sống một cách mạnh mẽ hơn và sung sức hơn, quan tâm nhiều hơn tới chi tiết. Bất cứ người nào có đặc quyền theo dơi Chơn sư làm việc đều biết rằng các Ngài cực kỳ kỹ lưỡng đối với những chi tiết nhỏ nhặt nhất và xét theo biểu kiến là tầm thường nhất. Ngài không phí phạm một giây phút nào, mọi giây phút đều được tận dụng đến mức tối đa, thế mà lại không có vẻ hối hả hoặc hấp tấp. Ngược lại, mọi thứ đều toát ra sự b́nh thản, sức mạnh và quyền năng v́ không có sự phí phạm. Sự phí phạm tất nhiên có nghĩa là yếu kém và chủ đích lơ mơ, năng lực cùn nhụt. Như vậy vấn đề không phải là chúng ta làm loại công việc nào mà là cách thức chúng ta làm công việc đó, và người nào quản trị công việc của nhà nước mà lười biếng và cẩu thả th́ phải học hỏi rất nhiều nơi người phu quét đường đang cẩn thận giữ cho sạch bóng quăng đường mà y đang chú ư làm sạch. Chơn sư có dạy rằng: “Nếu con là đệ tử của Ngài th́ con phải làm những việc b́nh thường tốt hơn những người khác chứ không phải là tồi tệ hơn, v́ con cũng phải làm điều đó nhân danh Ngài.

 

SỰ ĐỘC LẬP CHÂN CHÍNH

 

Tôi muốn đặc biệt nhấn mạnh tới phát biểu của Chơn sư theo đó công việc mà chúng ta phải làm chính là việc mà chúng ta nhận ra một phần trong bổn phận của ḿnh chứ không phải là những bổn phận tưởng tượng mà những người khác nghĩ rằng chúng ta phải làm. Ngày nay trên thế giới có nhiều người đang cố gắng buộc những người khác phải làm điều mà họ quan niệm là bổn phận của những người khác. Họ dường như biết điều ǵ tốt cho người khác c̣n rành rẽ hơn biết điều ǵ tốt cho bản thân. Lập trường này hiển nhiên là vô lư, nhưng chúng ta đă trở nên lệ thuộc vào dư luận bên ngoài đến nỗi mà chúng ta có nhiều khả năng chú ư tới quan điểm của người khác về bổn phận của ḿnh hơn là mức chúng ta nên lắng nghe bất cứ trực giác cá nhân độc lập nào. Hiển nhiên là khi người ta c̣n trẻ, th́ cha mẹ và thầy cô có bổn phận phải giúp người ta phát hiện được những bổn phận cá nhân của ḿnh và đôi khi thậm chí c̣n cần phải áp đặt bổn phận lên họ. Nhưng thầy cô và cha mẹ nên hết sức cẩn thận đừng để cho những người mà ḿnh phụ trách nghĩ rằng thầy cô và cha mẹ tất nhiên phải biết điều ǵ tốt cho con trẻ nhiều hơn mức bản thân con trẻ có thể biết được. Về lâu về dài th́ mỗi cá nhân phải có một luật lệ của riêng ḿnh và bổn phận của thầy cô hoặc cha mẹ là giúp cho đứa trẻ trai hoặc gái t́m ra luật lệ đặc biệt của chúng là ǵ. Nói cách khác, họ có nhiệm vụ khuyến khích năng lực phân biện của những người mà ḿnh phụ trách chứ không áp đặt khả năng phân biện của chính ḿnh lên những người mà ḿnh phụ trách. Trẻ con không được rèn luyện để tự ḿnh suy nghĩ và hành động th́ có rất ít công dụng trên thế gian, và phải phó mặc cho những dư luận cùng ảnh hưởng của môi trường xung quanh, và hành động theo lời khuyên cũng như ư kiến của bạn bè. Chúng ta phải học cách đừng tin vào điều ǵ chỉ v́ những người khác tin như thế hoặc hành động theo một cách đặc biệt chỉ v́ người khác hành động như thế. Chúng ta phải trở nên độc lập và học được sự thật là sự độc lập chân chính tuyệt nhiên không đ̣i hỏi sự đối kháng. Biết bao nhiêu người có khuynh hướng tin rằng bạn không thể thực sự độc lập nếu bạn không thô bạo và khó chịu, nếu bạn không cố t́nh rán làm những điều theo cách thức khác hẳn cách thức mà người khác làm. Đôi khi người ta nghĩ rằng bạn phải tự ḿnh trổi lên một nốt nhạc mới. Tôi không phản đối cụm từ này miễn nốt nhạc đó là nốt nhạc hài ḥa, nhưng nếu nó không hài ḥa th́ trừ phi sự tồn tại của nó có một động cơ thúc đẩy đặc biệt mạnh mẽ nào đó, c̣n th́ tốt hơn là nó không nên xuất hiện. Chẳng hạn như khi đối với vấn đề tuân thủ tôn giáo, tôi nghĩ rằng mọi đứa trẻ trai hoặc gái rất nên được huấn luyện theo những niềm tin và nghi lễ của tín ngưỡng mà chúng đă sinh ra đời trong bối cảnh đó; nhưng tôi cũng nghĩ rằng cha mẹ và thầy giáo nên giải thích cho con trẻ là chúng tiếp nhận những nghi lễ và niềm tin này vốn rất có ích cho đa số mọi người, chỉ khi nào chúng t́m ra được một điều ǵ đó có lẽ thích hợp hơn với tính khí đặc thù của ḿnh. Tôi chẳng bao giờ nghĩ rằng ḿnh có bổn phận phải cố gắng khiến cho một đứa trẻ tin rằng bất cứ một h́nh thức đặc biệt hoặc một sự thật đặc biệt nào cũng là h́nh thức hoặc sự thật duy nhất mà nó phải chấp nhận. V́ nghiệp báo đă đưa nó lọt vào trong môi trường giáo huấn một vài dạng sự thật nhất định, cho nên nó cũng có thể tăng trưởng trong môi trường đó, nhưng nên luôn luôn dành cho nó một lối thoát để có thể phán đoán cá nhân sao cho nó có thể cảm thấy rằng ḿnh có thể tự do hành động mà không trở thành một kẻ phản bội hoặc là đối với các bậc trưởng thượng hoặc là đối với truyền thống. Không có lư do ǵ tại sao một đứa trẻ khi mới sinh ra là tín đồ Ấn giáo mà sau này lại không trở thành một tín đồ Ki Tô giáo nếu nó bị thôi thúc không thể chống cự nỗi; nhưng nếu nó sinh ra là một tín đồ Ấn giáo th́ tốt hơn nó vẫn nên là tín đồ Ấn giáo cho tới khi nó đă đạt được mức phán đoán chính chắn đủ để khiến cho nó có thể quyết định xem liệu nó có muốn thay đổi hay chăng. Không bao giờ có hại ǵ khi huấn luyện cho một đứa trẻ hiểu được những h́nh thức và sự thật vốn đă có ích cho đại đa số mọi người, v́ sự huấn luyện đó sẽ mang lại một sự đồng cảm khiến cho nó sau này có thể trợ giúp, cho dẫu sau này bản thân nó, t́m ra được những h́nh thức khác và sự thật khác thích hợp hơn với đường lối tiến hóa đặc biệt của ḿnh.

 

SỰ KHOAN DUNG

 

Mọi việc này đưa chúng ta tới sự cân nhắc điều Hạnh kiểm thứ ba nghĩa là Khoan dung. Chơn sư nhấn mạnh hơn hết tới nhu cầu cho chúng ta cảm thấy chân thành quan tâm tới đức tin của một người thuộc tôn giáo khác. Những sự khác nhau về tôn giáo đă gây ra vô số điều tai hại trên thế giới, và giờ đây chúng ta phải bắt đầu làm việc sao cho những sự khác nhau về tôn giáo không c̣n đe dọa sự đơn nhất chân thực ở bên dưới. Chơn sư có nhận xét rằng: “Tôn giáo của họ là một con đường dẫn tới đấng tối cao cũng giống như tôn giáo của con”, thế rồi Ngài dạy điều có lẽ là cốt tủy trong trí óc của Ngài xuyên suốt mọi giáo huấn: “Muốn giúp đỡ được mọi người th́ con phải hiểu được mọi người”. Đây quả thật là nốt chủ âm của giáo huấn. Mọi điều được viết ra trong quyển Dưới Chơn Thầy đều có dụng ư mang lại cho bạn đọc khả năng phụng sự hữu hiệu hơn cho những người xung quanh. Nếu bạn muốn thuộc về Chơn sư th́ bạn phải có thể đi đến bất cứ nơi đâu và làm bất cứ điều ǵ. Bạn phải có thể giúp cho mọi hạng người, bạn phải có thể thích ứng với đủ thứ hoàn cảnh và thực tế là phải đồng cảm với những rối rắm mà có lẽ bản thân bạn chưa bao giờ trải nghiệm. Để tự do phụng sự theo kiểu này, bạn phải lưu ư đừng để cho bản thân ḿnh bị ràng buộc bởi chính xiềng xích mà bạn đang t́m cách giải thoát người khác theo chúng. Nếu bản thân bạn nghĩ rằng tôn giáo của ḿnh là tôn giáo duy nhất đúng, nếu bản thân bạn nghĩ rằng tập quán của ḿnh là những tập quán duy nhất có ích, nếu bạn nghĩ rằng quốc gia của ḿnh là quốc gia duy nhất đúng là vĩ đại, nếu bạn nghĩ rằng lối sống của ḿnh là lối sống duy nhất thực sự hữu ích th́ bạn đang mù quáng; cho dù có thể bạn đang cố gắng giúp đỡ người khác cũng mù quáng như bản thân bạn. Chơn sư có dạy chúng ta rằng chúng ta phải “thoát khỏi sự ngu tín và mê tín”. Điều này không có nghĩa là mọi người giải thoát khỏi sự ngu tín và mê tín, mà đúng hơn là những người muốn phụng sự Chơn sư th́ bản thân họ phải thoát khỏi t́nh huống làm cản trở hoạt động của họ, cho dù t́nh huống đó có giúp đỡ được những người khác đến đâu đi chăng nữa. Ở một giai đoạn nào đó th́ chắc chắn là    tất yếu phải có sự ngu tín và mê tín. Chúng là cái giàn giáo giúp ta dựng nên ṭa nhà. Nhưng khi ta dựng xong ṭa nhà  th́ ta không c̣n cần tới giàn giáo nữa và ṭa nhà tâm linh của chính ta phải ở mức độ tiên tiến đến nỗi nó có thể bỏ qua được hai cái giàn giáo này (ngu tín và mê tín) một cách hữu dụng. Đối với bạn và tôi th́ hầu hết những nghi lễ thông thường không c̣n cần thiết nữa, nghĩa là những nghi lễ đó không c̣n cần thiết cho những kẻ nào trông mong chỉ một thời gian ngắn là đủ để tập sự trong đạo tràng của Chơn sư. Nếu muốn th́ chúng ta có thể tham gia vào đó; chúng ta có thể vui hưởng nó nhưng đó không c̣n là những bộ phận cần thiết cho kiếp sống của ta, bằng không th́ như Chơn sư có nêu rơ    chúng ta sẽ nghĩ ḿnh, về một phương diện nào đó, là tốt hơn những người không thực hiện cái loại nghi lễ đặc biệt vốn làm cho ta chú ư.

đây phát biu ca Chơn sư cũng không có ngụ ư nói với chúng ta là không ai nên thực hành nghi lễ nào. Phi nh rng Ngài đang nói vi mt người đă là đệ t thuộc đạo tràng của Ngài do đó y đang được huấn luyn rt đc bit. Nghi lễ có thể cần thiết cho một s người trong chúng ta, và quả thật là cho hầu hết mi người, nhưng đây có nêu rơ rng nghi l không c̣n cn thiết cho những k đang được huấn luyện đặc bit. Bạn sẽ rơ rt là sai lm    khi cảm thy khinh b nhng người vẫn c̣n cần nghi l. Chơn sư đâu có cảm thy khinh thường sự vô minh khng l ca chúng ta về nhiu vn đ có tính cht bn th. Ngài muốn giúp đ chúng ta mc tiến hóa ca chúng ta, và đây cũng là phải thái độ ca chúng ta đối vi nhng người kém tiến hóa hơn bản thân chúng ta. Chúng ta phải cố gắng giúp cho những người đang ở mức tiến hóa nào đó để cho họ đi xuyên suốt đường lối tăng trưởng đặc biệt của riêng ḿnh. Chính v́ thế mà chúng ta rất cần phải “hiểu mọi người”. Nói cách khác, trước khi bất kỳ người nào có thể trở thành một đệ tử của Chơn sư th́ trong kiếp trước y phải trải qua hàng loạt rộng lớn những kinh nghiệm sao cho y có thể dùng trực giác để lĩnh hội được đủ thứ t́nh huống và tŕnh độ đức tin cho dẫu bản thân y có thể không thực sự trải qua những t́nh huống đó. Y phải lĩnh hội được cái thần của kinh nghiệm, mặc dù y không nhất thiết phải trải qua cái dạng kinh nghiệm cá biệt đó. Nhưng chúng ta phải cẩn thận là thiên hạ không cố gắng áp đặt lên chúng ta những điều mà họ biết là cốt yếu cho bản thân họ và v́ vậy họ nghĩ rằng cũng cốt yếu cho chúng ta. Thiên hạ thường phấn đấu làm như thế. Họ cảm thấy rất cần có một kinh nghiệm nào đó cho nên bản thân họ không giây phút nào có thể tưởng tượng ra được làm thế nào mà những người khác lại cũng không cần cái kinh nghiệm ấy, và do đó mới có chuyện Ṭa án Tôn giáo và các dạng độc ác hẹp ḥi khác. Thiên hạ không được phép xen vào việc thực hành điều mà chúng ta quan niệm là bổn phận của ḿnh, cho dù bổn phận đó có khác bao nhiêu đi chăng nữa đối với bổn phận của những người xung quanh chúng ta. Nhưng trong khi chúng ta phải khăng khăng đ̣i hỏi quyền của ḿnh th́ song le chúng ta phải “dung thứ cho mọi chuyện, phải tử tế với mọi chuyện”.

 

 

CHƯƠNG XVII

 

SÁU ĐIỀU VỀ HẠNH KIỂM (tiếp theo)

 

Một trong những ẩn dụ chứa nhiều thông tin nhất trong quyển Dưới Chơn Thầy là chỗ Chơn sư dạy chúng ta rằng nhiều phong tục, nghi lễ và niềm tin mà chúng ta có lẽ đă vượt qua rồi vẫn c̣n có thể cần thiết cho đại đa số mọi người, cũng giống như trẻ con vẫn cần những ḍng kẻ đôi để giúp chúng viết ngay hàng thẳng lối chừng nào chúng c̣n chưa học được cách viết chữ tốt hơn mà không cần có hàng kẻ đôi. Chơn sư có giải thích lập trường đó là chúng ta vẫn phải c̣n tiếp xúc đồng cảm với những người có thể chưa đạt tới mức tiến hóa của chúng ta. “Kẻ nào đă quên mất tuổi thơ ấu và không đồng cảm với trẻ con th́ kẻ đó không thể dạy dỗ hoặc giúp đỡ trẻ con được”. Về phần những người đă trở nên trưởng thành th́ có một khuynh hướng rất chung chung là người ta trở nên sốt ruột đối với trẻ con và thấy cái cách trẻ con sống chẳng thú vị ǵ. Những điều mà trẻ con quan tâm không làm cho họ thú vị nữa và dần dần họ trôi giạt vào cái mà tôi có thể gọi là một tuổi già cáu kỉnh, không c̣n tiếp xúc được với những hoài băo và xung động của thế hệ trẻ hơn, và tin chắc rằng mọi chuyện đều đang dần dần trở nên sai trái. Nhiều người trung niên tin chắc rằng vào thời họ c̣n trẻ th́ mọi thứ đều tốt đẹp hơn nhiều so với hiện nay. Họ cảm thấy hoàn toàn chắc chắn rằng trẻ con được dạy dỗ một cách tốt đẹp hơn, nhà cầm quyền của xứ sở ít dao động và bất lực hơn, có ít sự phóng túng hơn và có nhiều sự tự do chân chính hơn. Họ cảm thấy rằng thiên hạ không c̣n biết được ḿnh đang đứng ở đâu. Sự thật là chính những người trung niên và những người già đó mới không biết được ḿnh đang đứng ở đâu. Nói cách khác, họ đă mất chỗ đứng và không thể t́m ra được nữa, kết quả là họ cảm thấy không hài ḥa với cái thế giới thật ra bỏ họ lại tụt hậu măi đằng sau.

 

NHU CẦU THÍCH ỨNG

Thế mà thái độ này không đạt yêu cầu. Chúng ta càng lớn lên, già đi th́ chúng ta càng phải cố hết sức tiếp xúc với giới trẻ, trẻ theo với chúng và nhất là nhận ra được rằng những lư tưởng vốn đủ cho thế hệ chúng ta tất yếu không cần phải là những lư tưởng thích hợp với điều mới lạ. Vấn đề sự thật là một người phụng sự chân chính phải làm hết sức ḿnh để thích ứng với t́nh huống đang ngày càng thay đổi mà sự tăng trưởng của thế giới cần tới. Tôi nhận thấy rằng một trong những đặc trưng nổi bật nhất của bà Besant là bà hiểu những người c̣n trẻ và có thể nói lên những hoài băo của họ. Bà kết hợp minh triết của thời đại với ḷng nhiệt thành của tuổi trẻ, và như vậy bà ắt thấy ḿnh luôn luôn ở mức tiên phong của mọi phong trào mới – hạn chế được sự nhiệt thành, hung hăn và thiếu kinh nghiệm, nhưng không cản trở công việc tốt. Ta cũng có thể nói như vậy về ông Leadbeater. Thật vậy mọi người chân chính giúp đỡ thế gian đều có đặc trưng chuyên biệt này là có thể sống theo tinh thần của thời đại và đáp ứng với những nhu cầu đang biến đổi của thế giới. Điều này cố nhiên có nghĩa là có tính khí dễ thích ứng và nhiều trực giác; chúng ta phải luôn luôn cảnh giác để phát hiện ra được những dấu hiệu của thời đại và hiểu ra được trong những hoài băo của tuổi trẻ có sự ló dạng của Thời Đại Mới. Một người càng già đi th́ kinh nghiệm của y càng trở nên vô giá, do đó y càng phải được tôn trọng và vinh danh, miễn là y dùng kinh nghiệm của ḿnh để phục vụ cho những người chưa có thời giờ đạt được kinh nghiệm đó. Bạn luôn luôn nên nhớ rằng thế giới ở t́nh trạng tương lai thuộc về thế hệ  sắp tới và mọi điều mà chúng ta phải làm là giúp cho việc chuyển tiếp từ thế hệ cũ sang thế hệ mới được càng đơn giản và dễ dàng bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Cuộc Cách mạng Pháp phần lớn là do sự thật thế hệ già không hiểu được thế hệ mới. Họ xung đột khủng khiếp với nhau và kết quả là một thời kỳ chuyển tiếp đau khổ ghê gớm. Cũng như hiện nay chúng ta đang ở vào một giai đoạn chuyển tiếp tương tự và nhiều điều c̣n tùy thuộc vào sự khôn ngoan  và hợp tác của thế hệ lăo thành. Chúng ta phải không ngừng nghiên cứu đường lối tư tưởng của những người c̣n trẻ. Chúng ta bao giờ cũng phải cảnh giác để quan sát thấy những dấu hiệu thuộc t́nh huống mới vốn có thể biểu hiện trong cuộc đời của thế hệ trẻ. Chúng ta phải giữ cho ḿnh được cập nhật, không được chế nhạo mà phải hoan nghênh trật tự mới vốn đang thế chỗ cho trật tự cũ. Đó chẳng qua chỉ là vấn đề đồng cảm và hiểu ra rằng đường lối của những người khác cũng có thể hữu ích thậm chí c̣n hữu ích hơn đường lối của chính ta. Nhất là chính ta ở địa vị đă vượt qua một vài tập quán và niềm tin thích hợp với thế giới nói chung th́ do đó chúng ta không được tưởng tượng rằng mọi người khác nữa cũng đă vượt qua được những tập tục và niềm tin như thế. Việc của chúng ta là phải giúp cho thiên hạ ở ngay mức họ đang tiến hóa tới chứ không phải cưỡng chế họ theo một đường lối mà họ chưa sẵn sàng. Dĩ nhiên phải thừa nhận rằng để nêu gương th́ đôi khi người ta cảm thấy có nghĩa vụ phải liên kết với một tập quán hoặc niềm tin đặc biệt nào đó. Chẳng hạn như nếu tôi đang sống ở một xứ sở, th́ tôi có thể thấy ḿnh nên đi nhà thờ đều đặn không phải v́ lợi ích của chính ḿnh mà v́ lợi ích của những người đối với họ nhà thờ vẫn có nghĩa là sự hướng dẫn tâm linh. Nhưng tôi không được bị ràng buộc bởi những tập quán hoặc niềm tin mà tôi đă vượt qua, mặc dù nếu cần th́ đôi khi tôi có thể khoác lấy những tập tục hoặc niềm tin đó.

 

SỰ VUI VẺ

 

Thế rồi Chơn sư nhấn mạnh tới sự Vui vẻ và Ngài dạy chúng ta nhiều sự thật quan trọng. Trước hết chúng ta phải rán hiểu được rằng thật là vinh dự khi đau khổ đến với chúng ta. Tôi giả sử ở đây Ngài ngụ ư muốn nói thật là một vinh dự nếu đau khổ đến với chúng ta ở mức lớn hơn b́nh thường nó phải như thế, v́ mọi đau khổ dĩ nhiên là kết quả của những hành động trong quá khứ, do đó theo quan điểm này th́ đâu có chi là “vinh dự” hoặc không vinh dự mà chỉ là vấn đề qui luật. Mặt khác, nếu chúng ta hiến ḿnh cho Chơn sư th́ sự đau khổ như thế mà chúng ta cần v́ mục đích tẩy trược ắt được tập trung lại chỉ nội trong một thời gian tương đối ngắn sao cho chúng ta có thể diệt trừ được mọi ác nghiệp càng nhanh càng tốt. Chơn sư có dạy rằng bằng cách này chúng ta chỉ làm việc qua một hoặc hai kiếp sống, bằng không chúng ta phải trải qua cả trăm kiếp. Chừng nào chúng ta chưa trừ bỏ phần nghiệp chướng gây cản trở nhiều nhất th́ chúng ta c̣n chưa tự do để chia xẻ với Sư phụ gánh nặng thế gian. Vai chúng ta tương đối không c̣n gồng gánh nghiệp quá khứ nếu chúng ta muốn nhập thế nơi ngoại giới và kề vai sát cánh với những người cần được giúp đỡ. Cố nhiên điều này không có nghĩa là trước khi chúng ta có thể trở thành đệ tử th́ chúng ta phải đặc biệt dẹp hết mọi chướng nghiệp. Chẳng những trường hợp này không hề có mà ngược lại món nợ của chúng ta sẽ trút xuống đầu chúng ta khi chúng ta hiến ḿnh phụng sự. Nhưng đó không phải là những món nợ vốn tuyệt vọng cản đường việc phụng sự tiếp nối. Trước hết chúng ta phải dẹp bỏ những món nợ hầu như cản đường chúng ta phụng sự một cách gian khổ v́ nếu chúng ta muốn hiến ḿnh cho Chơn sư th́ phải có một điều ǵ đó đáng được cung hiến. Vậy là theo như tôi có nói, chúng ta phải tương đối thoát khỏi những gánh nặng. Nhưng thật là rất điên rồ khi trông mong có những cuộc đời thoải mái: ngược lại chúng ta sẽ có những cuộc đời cực kỳ khó khăn nhưng mà phàn nàn th́ chẳng khôn ngoan. Chúng ta phải hiến ḿnh để trả nợ càng nhanh càng tốt và nếu sự hiến ḿnh thể hiện thành ra đau khổ th́ chúng ta đừng lấy ǵ làm lạ. Sớm muộn ǵ chúng ta cũng được tự do, mặc dù trong lúc này th́ quá tŕnh có thể là gây đau đớn oằn oại.

Tuy nhiên cho dù nghiệp của chúng ta có khắc khe đến đâu đi chăng nữa, Chơn sư cũng dạy rằng chúng ta nên cám ơn là nó không tồi tệ hơn thế. Tôi phải thú nhận rằng rất thường khi người ta không hiểu nỗi làm thế nào mà nó lại tồi tệ hơn thế được ! Nhưng tôi tin chắc rằng trong một chừng mực nào đó th́ suy nghĩ như vậy ắt mang lại cho ta một niềm an ủi. Tôi cố gắng tưởng tượng rằng nó có thể c̣n tồi tệ hơn sao cho tôi có thể nhận ra được rằng cho dù ở dưới đây tôi có ra sao đi chăng nữa, th́ thực ra tôi cũng đâu đến nỗi ở tận cùng dưới đáy ! Tuy nhiên tôi xin nói rơ rằng theo một số đường lối nào đó, dường như có vẻ thỏa đáng hơn nếu người ta cảm thấy rằng ḿnh đang ở tận dưới đáy để biết chắc rằng sự việc không thể tồi tệ hơn được nó. Nếu bạn biết cám ơn là sự việc không tồi tệ hơn nữa th́ bạn cũng có thể tự hỏi liệu trong một thời gian ngắn nó có thể không xảy ra như thế chăng. Dĩ nhiên điều mà Chơn sư muốn chúng ta hiểu đó là chúng ta phải luôn vui vẻ và nh́n vào khía cạnh tươi sáng của sự vật. Một phần trong việc trả món nợ nghiệp báo của chúng ta cốt ở việc vui vẻ trả nợ: chẳng bao lâu nữa th́ kẻ thù nghiệp báo của chúng ta sẽ không c̣n quậy chúng ta nếu chúng ta chấp nhận sự thù địch của họ - do chính ta tự gây thù chuốc oán – một cách vui vẻ và cam chịu. Có lẽ chúng ta có thể làm được như vậy một cách thỏa đáng hơn nếu chúng ta tiếp tục cố gắng nhận ra được rằng mọi điều đến với chúng ta là một phần của sự rèn luyện tất yếu mà chúng ta phải trải qua khi chúng ta tiến từ mức vô ư thức lên mức hữu ngă thức.

Thế rồi Chơn sư tiếp tục nhận xét rằng chúng ta phải từ bỏ mọi cảm xúc chiếm hữu v́ “chiếm hữu” là một khía cạnh của bản chất thấp hèn. Chơn ngă biểu hiện qua ư thức Đơn nhất, phàm ngă biểu hiện qua óc chiếm hữu. V́ thế cho nên Chơn sư thúc đẩy chúng ta hăy từ bỏ cảm xúc này v́ làm như thế chúng ta mới loại trừ được điều gây cản trở. Ngài nêu rơ rằng nghiệp báo có thể tước đoạt của chúng ta ngay cả những người mà chúng ta yêu thương nhất. Điều này có nghĩa là nghiệp báo dường như tước đoạt của chúng ta những người đó nhưng chúng ta không bao giờ mất cái mà chúng ta đă thu hút được vào trong Nhất nguyên đại đồng thế giới. Sự mất mát hoàn toàn thuộc về các cơi thấp, đó là một điều hăo huyền mặc dù tôi biết rất rơ rằng điều hăo huyền này gây ra vô vàn đau khổ. Chắc chắn là cơi trần sẽ vận dụng ảnh hưởng tất yếu thuộc cơi ḿnh và một sự mất mát trên cơi trần chỉ có thể được cảm nhận khi chúng ta đang nhất thời ch́m đắm trong vật chất của cơi trần. Nhưng cho dù sự chia ly có thể khó khăn đến đâu đi nữa th́ không v́ vậy mà chúng ta được suy ra rằng đó là một sự chia ly có thực. Cá nhân tôi th́ khi tôi càng học hỏi được nhiều, tôi càng thấy rằng sự chia ly trên cơi trần ít gây nản ḷng hơn khi tôi đă xác lập bản thân vững chắc hơn trong cuộc sống vĩ đại hơn. Một sự chia ly trên cơi trần chắc chắn là có những thuộc tính gây rối, nhưng chúng ta càng sống trong thế giới của Chơn sư th́ chúng ta càng dứt khoát thấy rằng những người mà chúng ta yêu thương thật ra luôn luôn ở với chúng ta và mọi sự chia ly đều có dụng ư làm cho chúng ta sáng mắt ra với bài học này.

Chơn sư kết luận những nhận xét về sự vui vẻ bằng cách khẳng định lại sự thật là ngă ḷng rất độc ác. Ngài nhận xét rằng Ngài thường dùng những người phụng sự để thông qua họ tuôn đổ thần lực trợ giúp cho những người khác, và Ngài nhận thấy rằng Ngài không thể làm điều này nếu chúng ta bị ngă ḷng, v́ ngă ḷng dựng nên một bức vách u ám xung quanh chúng ta khiến cho sự thoải mái chút xíu từ bên ngoài cũng không xuyên qua được, và một chút xíu ánh sáng của Chơn sư cũng không xuyên qua được để ra với ngoại giới. Ta nên nhớ rằng sự ngă ḷng thường có nguyên nhân là một cơ thể không khỏe mạnh, hoặc do hoàn cảnh bên ngoài mà nguyên nhân là sự xáo trộn của các trung tâm sinh lực của chính ta. Do đó chúng ta không được kết luận rằng chúng ta ngă ḷng cho nên sự ngă ḷng phải xuất phát từ bên trong. Để giúp ta pḥng ngừa đối với sự ngă ḷng, ta cần có một cơ thể khỏe mạnh đến mức tối đa và phải cẩn thận giữ cho nó được khỏe mạnh. Khi thần kinh hệ của chúng ta bị mất sinh lực do quá căng thẳng hoặc do một dạng kém sức khỏe nào đó, th́ sự vui vẻ ắt khó duy tŕ được hơn v́ các kênh dẫn để giao tiếp với thế giới của Chơn sư nhất thời đă bị hư hỏng. Cũng giống như vậy, chúng ta phải cảnh giác đối với những sự xáo trộn từ bên ngoài. Nhiều tư tưởng và xáo trộn có vẻ như của chúng ta th́ thực ra lại chỉ là những thứ tạm trú đột nhập, và chúng ta phải cố gắng tưởng tượng đến mức tối đa rằng mọi tư tưởng và xúc cảm bất hảo đều là tạm trú đột nhập; và nếu muốn chúng ta có thể xua đuổi chúng đi. Đừng bao giờ để cho chúng ta giả sử rằng bất kỳ tư tưởng hoặc xúc cảm nào đều là một phần không thể tách rời khỏi bản chất của chúng ta.

 

NHẤT TÂM

 

Bây giờ chúng ta tiếp tc xét ti tính Nht tâm, có nghĩa là làm công việc của Chơn sư. Thật vy mi điu hu ích và vị tha đều là công việc của Chơn sư. Chúng ta không được tưởng tượng rằng ch công việc liên quan tới Hi Ngôi sao Đông phương hoặc Hi Thông Thiên Học mới là công việc ca Chơn sư. Sống hu ích ở nhà th́ chẳng khác ǵ làm công việc cho Chơn sư. Chơi tṛ chơi gii, hc hành gii giang th́ cũng chng khác ǵ làm việc cho Chơn sư. Người ta đôi khi mun ḿnh có thể làm việc phng s cho Chơn sư nhiều hơn mc thi điểm đó     dường như thể được. Họ nói rng nghip báo đang chng li h ! Tht ra nghip báo chng bao gi chống li bất c ai v́ đó chẳng qua ch là một ngưỡng cửa dẫn tới cuộc sống cao siêu hơn – chúng ta nhảy vọt lên một vị trí cao hơn từ cái bàn nhún mà nghiệp báo đă tạo ra cho chúng ta. Cho dù bạn có thể cô độc, cho dù môi trường Thông Thiên Học xung quanh có thể bị cô lập đến đâu đi nữa th́ song le bạn vẫn có thể làm việc cho Chơn sư, và công việc của Chơn sư cốt ở cách thức mà bạn làm điều xảy đến với bạn hết ngày này sang ngày khác. Mọi điều xảy đến với chúng ta, cho dù có bản chất nhỏ nhặt đến đâu đi chăng nữa đều là một chút phần việc rèn luyện được dành cho chúng ta để đưa chúng ta đến gần hơn với thế giới của Chơn sư. Bạn và tôi có thể không nhận ra được điều này. Chúng ta có thể thắc mắc làm thế nào mà một phần việc xét theo biểu kiến là nhỏ nhặt mà lại có thể liên quan tới Chơn sư. Chẳng hạn như một nhân viên văn pḥng có thể thắc mắc làm thế nào việc viết một bức thư không quan trọng v́ lợi ích của xí nghiệp mà lại có thể phụng sự cho Chơn sư được. Thật ra nếu y viết tốt được bức thư không quan trọng đó th́ y mới có thể viết tốt được một bức thư quan trọng hơn một chút, cho đến khi y có thể viết tốt được những bức thư quan trọng và một ngày kia có lẽ y có dịp viết tốt được những bức thư của Chơn sư. Mọi hành vi trong cuộc sống đều là một bước tiến trên thang tiến hóa và đưa tới bước tiến kế tiếp bên trên. Cho dù hành vi đó có thể ra sao đi chăng nữa th́ đó là một bước tiến gần hơn so với hành vi trước kia và dứt khoát đưa tới bước tiến vượt ra ngoài. Sự thật là mọi hành động đều là một phần trong công việc của Chơn sư nếu chúng ta nhớ tới Ngài trong khi chúng ta đang làm điều ǵ đó. V́ vậy chúng ta rán hiểu được rằng bản chất của hành động không quan trọng, điều quan trọng chính là việc bạn thừa nhận sự việc là Chơn sư để mắt tới mọi chuyện mà bạn làm và bằng cách đó bạn khiến cho mọi điều bạn làm có thể liên hệ được giữa bản thân ḿnh với chính Ngài.

Phần c̣n lại trong nhận xét về sự nhất tâm chỉ nhấn mạnh tới nhu cầu nhận ra được rằng mọi ngày trong cuộc đời đều có thể tận dụng để cho chúng ta được thu hút gần hơn rất nhiều tới Chơn sư. Chơn sư có dạy rằng chúng ta “phải hợp nhất với Thánh đạo” và Thánh đạo vốn ở khắp mọi nơi. Người ta đôi khi nghĩ rằng Thánh đạo chẳng ở đâu cả ngoại trừ ở Tổng Hành Dinh của Chi bộ mà họ thuộc về, và họ chỉ bước trên Thánh đạo khi họ đang tham dự những buổi họp. Trọn cả thế giới và mọi bộ phận trong đó, mọi t́nh huống trong đó đều là Thánh đạo đưa nhân loại tới mục tiêu của ḿnh và trong khi một vài t́nh huống chắc chắn là góp phần làm gia tăng ư thức về thế giới của Chơn sư th́ đó là v́ có những người sống trong t́nh huống đó đă cấp sinh khí cho chúng. Bạn cũng có thể ư thức về thế giới của Chơn sư trong sinh hoạt gia đ́nh của ḿnh, trong sinh hoạt học đường của ḿnh, ở sân chơi cũng như khi bạn ở bất cứ nơi đâu. Nhưng đừng để cho những cám dỗ hoặc ngay cả những luyến ái trần tục lôi kéo bạn đi xa. Luôn luôn có khuynh hướng là những điều này sẽ gây ra khó khăn cản đường bạn v́ mọi cấp vật chất đều có khuynh hướng tự nhiên là chú trọng tới quán tính. Vật chất luôn luôn muốn ở ́ ra một chỗ để tránh sự tan ră và thay đổi. V́ lư do này, nhiều người sợ chết nhưng bạn phải cố gắng tối đa để tránh được điều có khuynh hướng cản trở sự tăng trưởng của ḿnh. Thiên hạ đôi khi bảo rằng cũng tự nhiên thôi khi phó mặc bản thân cho những luyến ái trần tục hoặc những cám dỗ đời thường. Nhưng ở đây từ ngữ “tự nhiên” được dùng theo nghĩa sai trái. Phó mặc bản thân cho những điều này không phải là tuân theo tự nhiên mà chắc chắn là tuân theo tập tục và thói quen. Nói cách khác, thiên hạ chắc chắn có khuynh hướng phó mặc bản thân cho mọi thứ t́nh huống cản trở sự tiến bộ, nhưng bạn và tôi nên nhớ rằng chúng ta không c̣n bị ràng buộc bởi thói quen và tập tục nữa, và chúng ta chẳng bao giờ chân thực với tự nhiên hơn khi chúng ta phấn đấu tăng trưởng bằng cách vượt qua những tập tục và rào chắn mà nhờ có chúng trong quá khứ chúng ta đă có thể tiến hóa được.

Xét về vấn đề luyến ái trần tục tôi không muốn bạn đọc tưởng tượng rằng chúng ta nên cố gắng bóp nghẹt t́nh thương của chúng ta đối với thân bằng quyến thuộc. Ngược lại, chúng ta càng có thể biểu lộ t́nh thương qua bản chất ḿnh bao nhiêu th́ chúng ta càng tăng trưởng nhanh bấy nhiêu. Nhưng chúng ta không được để cho sự luyến ái của ḿnh trở nên ích kỷ khiến cho chúng ta bạc nhược, v́ điều này chẳng ích lợi ǵ cho bản thân chúng ta cũng như cho những người mà chúng ta yêu thương. Việc phụng sự yêu thương nhất mà chúng ta có thể dành cho bạn bè ḿnh là trở thành một ḥn đá tảng vững chắc hỗ trợ cho người bạn cần giúp đỡ, nhưng chúng ta không thể làm được như vậy nếu chúng ta để cho sự luyến ái khiến chúng ta mù quáng với con đường mà chúng ta có thể thật sự hữu ích được. Một đứa trẻ thường nghĩ rằng mẹ ḿnh không yêu thương ḿnh v́ mẹ ḿnh không cho ḿnh các thứ mà ḿnh muốn. T́nh thương chân chính nhất là giúp cho linh hồn tăng trưởng, c̣n t́nh thương ích kỷ rất thường khi làm bại hoại thể xác.

 

QUYẾT ĐỊNH CỦA CHƠN THẦN

 

Chơn sư cuối cùng nhận xét rằng Chơn thần vốn là Thượng Đế nội tâm của chúng ta quyết tâm tăng trưởng và các hạ thể càng sớm hài ḥa chính ḿnh với ư chí sắt đá của Chơn thần bao nhiêu th́ ư chí của Thượng Đế càng sớm được hoàn thành bấy nhiêu. Chơn thần tạo ra những bức màn hăo huyền để nó có thể thu lượm kinh nghiệm trong mọi giới của thiên nhiên thuộc Thượng Đế, và những bức màn được tạo ra như thế cố gắng duy tŕ sự tồn tại của ḿnh ngay cả khi giá trị của chúng đă biến mất. Nhờ vào một quá tŕnh tưởng tượng, họ phấn đấu tin ḿnh là thực tại thay v́ chỉ là những h́nh tướng hữu hoại. Thỉnh thoảng chúng ta cần rút lui vào trong bản thân để cắt đứt được sự liên kết với các hạ thể vốn rất thường là nguyên nhận khiến chúng ta tin rằng các hạ thể là thực tại duy nhất. Chính v́ lư do này mà tham thiền có giá trị xiết bao, và tôi khuyên bạn đọc nên chọn theo một sơ đồ tổng thể nào đó mà tôi đă phác họa ở một chương trước kia. Nhưng nên nhớ rằng lư do để tham thiền như thế là chúng ta phải không ngừng học cách phân biệt giữa Thượng Đế nội tâm với những hiện thể mà Thượng Đế nội tâm hoạt động thông qua đó; như vậy chúng ta mới học được cách đem lại sự cân xứng chân chính và giá trị chân chính cho mỗi bộ phận của chính ta.

 

CHƯƠNG XVIII

SÁU ĐIỀU VỀ HẠNH KIỂM (hết)

 

Điểm cuối cùng trong sáu điều về hạnh kiểm là sự Tin tưởng. Chúng ta được dạy cho biết rằng chúng ta phải tin cậy Chơn sư. “Nếu con đă gặp Chơn sư th́ con ắt tin cậy Ngài hết mức qua nhiều kiếp sinh tử luân hồi”. Tôi tin rằng đây là một phát biểu của chính Alcyone – khi cảm thấy sự linh hứng hào hùng qua sự hiện diện của Chơn sư, ông buộc miệng thốt ra những lời lẽ tri ân như thế. V́ một khi ta đă biết được Chơn sư th́ chính Ngài là ḥn đá tảng xua tan mọi vô minh và mọi nỗi nghi ngờ. Nhưng mặc dù nhiều người trong chúng ta có thể có đặc quyền diện kiến một trong các bậc Chơn sư th́ có lẽ bạn không nhớ được các Ngài xét về kư ức trên cơi trần, và do đó bạn khó ḷng đưa xuống thế giới này cái tri thức là chân tướng của các Ngài ra sao. Nhưng chúng ta đươc dạy dỗ là ḿnh phải cố gắng nhận ra được các Ngài. Nếu chúng ta không thể cảm thấy được sự hiện diện bằng xương bằng thịt của các Ngài hoặc nếu các Ngài dường như không giám sát chúng ta th́ đó là việc chúng ta đang học cách trông cậy vào Thượng Đế nội tâm và tự thắp đuốc lên mà đi. Chúng ta liên tục ở trong sự hiện diện của các Chơn sư, chúng ta nên luôn luôn tin cậy vào các Ngài. Điểm Linh Quang ở nơi mỗi một trong chúng ta và chúng ta có nhiệm vụ trông cậy nhiều vào Thượng Đế nội tâm cũng như vào Thượng Đế ngoại giới. V́ vậy đôi khi Chơn sư dường như có vẻ ngh́n trùng xa cách với chúng ta mặc dù thật ra Ngài gần gũi chúng ta hơn cả người bạn thân thiết nhất của chúng ta hoặc người quyến thuộc mà chúng ta yêu thương nhất. Nếu trong óc phàm, chúng ta không biết được sự tồn tại cá nhân của các Ngài th́ song le chúng ta phải nghĩ tới các Ngài và cố gắng nhớ rằng sự hoàn thiện của các Ngài là niềm hứa hẹn của chính chúng ta. Khi kính cẩn nghĩ đến các Ngài, chúng ta thật ra chỉ kính cẩn với chính ḿnh, tức là Thượng Đế nội tâm. Chúng ta phải liên tục nghĩ đến các Ngài, cố gắng làm điều mà chúng ta nghĩ rằng các Ngài mong chúng ta làm như thế. Bằng cách này, chúng ta tạo ra được một mối liên kết giữa các Ngài và bản thân chúng ta, và thông qua kênh dẫn được tạo ra như thế các Ngài có thể trợ giúp chúng ta. Đây là điều ngụ ư khi Ngài dạy rằng “nếu con không tin cậy Chơn sư th́ ngay cả chính Ngài cũng không trợ giúp được con”. Nên nhớ rằng Chơn sư không can thiệp giúp đỡ kẻ nào không muốn điều đó. Tất cả chúng ta đều có quyền tự do ư chí và nếu chúng ta không muốn trợ giúp th́ sự trợ giúp đó ắt không áp đặt lên chúng ta. Nói cách khác, nếu chúng ta không muốn tạo ra phần đóng góp của ḿnh vào kênh dẫn th́ các Ngài sẽ không tạo ra kênh dẫn cho chúng ta. Như vậy, nếu chúng ta muốn cho các Ngài dẫn dắt và chỉ đạo th́ chúng ta phải chứng tỏ rằng ḿnh muốn nó bằng cách tạo ra một kênh dẫn hướng về các Ngài thông qua nỗ lực trở nên giống như Ngài.

 

TIN CẬY VÀO CHƠN SƯ

Chúng ta cũng được dạy bảo rằng chúng ta phải tin cậy Chơn sư. Bạn có lẽ thắc mắc rằng làm thế nào chúng ta có thể tin cậy các đấng mà ḿnh không nhớ đă gặp rồi. Thật ra Chơn sư đích thực là gương mẫu hiện thân điều mà chính bản thân chúng ta một ngày nào đó sẽ thành ra như thế. Hiện nay chúng ta ra sao th́ xưa kia các Ngài cũng có lần giống như thế. Nhờ sức mạnh và quyết tâm không nao núng trợ giúp thế gian, các Ngài đă phát triển Thượng Đế nội tâm cho tới khi Ngài chói sáng không bị che lấp bởi ḷng ích kỷ và sự biệt lập. Sau khi đă khơi hoạt trọn vẹn được Chơn ngă của ḿnh, giờ đây các Ngài sẵn ḷng giúp chúng ta khơi hoạt Chơn ngă của chúng ta sao cho tin cậy vào các Ngài, thật ra là chúng ta đang tin cậy chính ḿnh. Các Ngài chính là mọi điều tốt đẹp nhất nơi chúng ta và c̣n nhiều hơn thế nữa; thật ra giữa Thượng Đế nội tâm và Thượng Đế bên ngoài ta không hề có sự ngăn cách. Mọi hành động tử tế mà chúng ta thực hiện, mọi nỗ lực mà chúng ta thực hiện theo chiều hướng vị tha, mọi phương tiện mà chúng ta sử dụng để phát triển thể trí, thể vía và thể xác nhằm phụng sự đều là biết bao nhiêu dấu hiệu của việc chúng ta tin cậy vào Chơn sư. Nếu chúng ta tin cậy vào Chơn ngă th́ chúng ta phải tin cậy vào Chơn sư. “Nếu không có sự tin cậy hoàn toàn th́ không thể có sự tuôn chảy hoàn toàn của t́nh thương và quyền lực”. Điều này có nghĩa là nếu chúng ta không quyết tâm từ bỏ mọi điều ích kỷ v́ ích lợi trợ giúp thế gian, th́ chúng ta ắt không được như những huynh đệ trẻ tuổi đối với các bậc Huynh trưởng của nhân loại. Chúng ta phải phấn đấu để hiệp nhất về bản chất với các Ngài nếu chúng ta muốn có ḍng chảy liên tục t́nh thương và quyền lực từ các Ngài đến ban bố cho chúng ta. Mọi tư tưởng ích kỷ, mọi sự sa đà của bản chất thấp hèn đều là một chướng ngại nho nhỏ ngăn trở ḍng chảy đó. Tin cậy vào Chơn sư có nghĩa là biết rằng Ngài chính là điều mà thâm tâm chúng ta hi vọng một ngày kia ḿnh sẽ trở nên như thế. Do đó chúng ta nghĩ rằng Ngài là lư tưởng sống động mà chúng ta chỉ có thể hoài băo hướng về đó, và chúng ta phải cố gắng dùng trí tưởng tượng của ḿnh để phát hiện xem Ngài có thể nói, làm, hoặc suy nghĩ ra sao trong đủ thứ hoàn cảnh mà chúng ta phải đắm ch́m trong đó nơi hạ giới. Do đó tin cậy các Ngài có nghĩa là biết rằng các Ngài là những gương mẫu sống động của Chơn ngă nơi con người và chúng ta phải phấn đấu uốn nắn ḿnh theo h́nh thức và bản chất đó.

 

THƯỢNG ĐẾ NỘI TÂM

Chúng ta cũng được dạy dỗ là phải tin cậy chính ḿnh. Đối với nhiều người th́ điều này dường như là một lời khuyên kỳ lạ. “Con bảo rằng con thừa biết chính ḿnh ư ? Nếu con cảm thấy như thế th́ con chẳng biết ǵ về chính con đâu; con chỉ biết cái lớp vỏ bên ngoài bạc nhược vốn đă nhiều lần rớt xuống śnh lầy. Nhưng con – thật là con đấy – là một điểm linh quang của lửa của chính Thượng Đế, và Thượng Đế chính là Đấng Toàn Năng nơi con, v́ vậy nếu con quyết tâm th́ chẳng có điều chi mà con không thể làm được”. Tôi biết việc tin vào điều này thật khó khăn biết dường nào v́ chúng ta đồng nhất hóa chính ḿnh quá nhiều với các hạ thể đến nỗi mà chúng ta liên tục nghĩ rằng ḿnh chính là các hạ thể. Khi chúng ta bảo rằng “Tôi suy nghĩ”, “Tôi cảm thấy” hoặc “Tôi làm điều này điều nọ”, th́ chúng ta đang tự đồng hóa với xúc cảm, với tư tưởng, với hành vi, mặc dù chúng ta không ngừng được dạy dỗ rằng các hạ thể phải là tôi tớ chứ không phải là chủ nhân ông. Chúng ta phải không ngừng hiểu ra được rằng Thượng Đế nội tâm đang cố gắng hoạt động qua các hạ thể và chính v́ khó kiểm soát được chúng cho nên mới có sự lẫn lộn. Chơn sư dạy rằng chính thật bạn là “một điểm linh quang của lửa của chính Thượng Đế” và “Thượng Đế là Đấng Toàn Năng ở bên trong bạn”. Khi bạn bảo rằng “Tôi không thể” th́ điều này có nghĩa là phàm ngă nhất thời lại lấn lướt. Xúc cảm, tư tưởng, hành động rồi cũng qua đi, chỉ có bạn chân thật là c̣n thôi. Thật vậy, đây là một sự thử thách. Mọi điều mà càng ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn, càng trở nên thường trụ hơn th́ rất có thể là dấu hiệu của việc Thượng Đế nội tâm đă bắt đầu chế ngự được các hạ thể mà ḿnh phải khoác lấy để tiếp xúc với đủ thứ kinh nghiệm mà hạ giới cung cấp. Mọi điều mang lại cho bạn càng ngày càng có thêm khả năng yêu thương, thêm khả năng vị tha, thêm khả năng phụng sự đều là Thượng Đế nội tâm; đôi khi phần c̣n lại dường như khống chế bạn hoàn toàn đến nỗi chẳng những nó không trường tồn mà c̣n không thỏa măn bạn lâu dài được nữa. Bạn càng giúp đỡ được người khác th́ bạn lại càng muốn giúp đỡ hơn nữa. Bạn càng yêu thương được rộng lớn th́ bạn lại càng muốn yêu thương hơn nữa. Nhưng có nhiều ham muốn sẽ không tồn tại vào lúc mà chúng đă chán chê rồi. Thật vậy, hầu hết ham muốn mà bạn có chỉ là những tṛ chơi mà Thượng Đế rèn luyện bạn để phân biệt điều có thực và điều không có thực. Bằng cách cho bạn có được những điều mà ḿnh muốn, Ngài cho bạn biết cái Ta thực của bạn là ǵ, nó không thực sự muốn những điều đó v́ chỉ được một lúc thôi là chúng không c̣n làm cho bạn măn nguyện được nữa. Như vậy, bằng cách xa rời hết điều này đến điều khác theo quá tŕnh loại trừ bạn mới t́m ra điều mà chỉ có một ḿnh nó thôi mới mang lại được sự an b́nh và hạnh phúc trường cửu. Bạn sống trên thế gian cũng v́ điều này và vui buồn luân phiên nhau dần dần khiến cho bạn tập trung nỗ lực vào điều trường cửu. Nếu bạn không có được những thứ đó th́ bạn ắt không cố gắng làm chi. Đó là những dấu hiệu của việc Thượng Đế nội tâm phấn đấu tự biết ḿnh, biết được quyền năng của ḿnh, biết được thiên tính của ḿnh. Nó không ngừng bảo rằng: “Không, tôi chẳng muốn điều này v́ trong đó không có hạnh phúc trường tồn”. Thượng Đế nội tâm bạn phải tăng trưởng nhưng thỉnh thoảng nó có thể nghĩ rằng điều này điều kia hoặc điều nọ là hạnh phúc trường tồn, và do đó là một phần bản chất của chính nó. Nó nếm trải điều dường như là trường tồn đâm ra ngán ngẫm, v́ thấy rằng điều xét theo biểu kiến là trường tồn không c̣n có khả năng thỏa măn ḿnh được nữa và như vậy học biết được rằng chính điều đó cũng không phải là mục tiêu. Dần dần nó bị thu hút lại gần các thực tại của cuộc sống và cuối cùng đạt tới sự tương đối hoàn hảo của Chơn sư, Ngài đă học được bản chất của ít ra là nhiều điều chắc chắn vốn tạo nên Thiên tính.

Ta đă được dạy bảo hăy tự nhủ: “Điều ǵ có người đă làm được th́ tức là con người có thể làm được. Tôi là một con người thế nhưng tôi cũng là Thượng Đế nơi con người; tôi có thể làm được điều này và tôi quyết tâm làm”. Nói cách khác, điều mà Chơn sư đă làm th́ tôi cũng có thể làm được v́ tôi là Thượng Đế nơi con người. Nếu đă có các Chơn sư Minh triết th́ tôi cũng có thể trở thành một Chơn sư Minh triết, v́ nơi tất cả chúng ta chỉ có Sự Sống Nhất Như thôi, mặc dù nó có thể ở nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Điều vốn là Sự Sống Nhất Như nơi Chơn sư th́ cũng là Sự Sống Nhất Như nơi tôi. Sự sống nơi Ngài có thể được phát triển toàn bích hơn, nhưng đó chỉ là v́ Ngài đă đi xa hơn dọc theo con đường mà chính tôi đang bước trên đó. Điều rất quan trọng là tất cả chúng ta đều thấy ḿnh đồng nhất hóa với các đấng tiên phong của ḿnh cũng như ta thấy ḿnh đồng nhất hóa với những người đang nối gót chúng ta. Nhưng khó khăn thật là vô số và cũng chẳng lấy ǵ làm lạ khi chúng ta nghĩ tới sự vinh diệu vô lượng của mục tiêu. Những nỗ lực chút ít có thể mang lại những thành công nho nhỏ: những nỗ lực lớn lao hơn có thể mang lại những thành công lớn hơn. Nhưng khó khăn trên Thánh đạo đưa con người ta tới mức hoàn hảo, và chỉ bằng cách đo lường sự khó khăn th́ ta mới có thể đo lường được sự huy hoàng của mục tiêu mà ta đang phấn đấu hướng về đó. V́ vậy theo một nghĩa nào đó, ta lấy làm vinh hạnh khi có rất nhiều khó khăn, v́ nếu có nhiều chướng ngại khó vượt qua th́ kết cuộc phải là một kết quả rất xứng đáng với mọi nỗ lực mà chúng ta có thể phải thực hiện. V́ vậy, ta đừng nghĩ quá nhiều tới những khó khăn giữa đường mà phải nghĩ tới kết quả cuối cùng; ta nên nhớ rằng ḿnh có khả năng vượt qua được mọi chướng ngại cho dù chúng lớn lao đến đâu đi chăng nữa. Khó khăn là không vượt qua được khi ta không muốn vượt qua chúng. Có thể là trong một kiếp đặc thù nào đó, ta có thể có những khó khăn mà ta không thể vượt qua được, và ta có thể phải ḥa giải hoặc thỏa hiệp với nó. Chẳng hạn như một người có thể có một vài khuyết tật cơ thể vốn ngăn cản không cho y chơi thể thao hoặc có thể có một vài khuyết tật trí tuệ vốn ngăn không cho y khéo léo trong một số chiều hướng. Nhưng đó là tất cả những ǵ thuộc quá khứ. Trong tương lai y có thể trở nên bất cứ thứ ǵ mà y muốn nếu y vận dụng Ư chí Thiêng liêng ở nơi ḿnh.

 

BẢN CHẤT CỦA KHÓ KHĂN

 

Trong lúc này tôi không muốn gợi ư rằng nhiệm vụ là dễ dàng. Nó không dễ dàng đâu. Lư do là v́ có hai lực mâu thuẫn; một là lực sáng tạo c̣n một là lực bảo tồn. Có lực tăng trưởng th́ cũng có lực trơ ĺ. Ba hồi ta muốn hoạt động, ba hồi ta lại muốn nghỉ ngơi. Ba hồi ta tràn đầy năng lượng, ba hồi ta lại thấy mệt mỏi. Nếu chúng ta chẳng biết mệt mỏi nghĩa là ǵ th́ chúng ta cũng chẳng hiểu được tràn đầy năng lượng vui tươi là ra sao, và nếu chúng ta chẳng biết cuộc đời đầy hoạt động là ǵ th́ chúng ta cũng chẳng đánh giá được sự tương phản của nó là nghỉ ngơi. Nhưng luôn luôn có khuynh hướng làm thái quá các sự việc; đôi khi ta quá tràn đầy năng lượng, đôi khi ta lại quá lười biếng. Và ta liên tục dao động giữa hai cực này, đôi khi quá nhấn mạnh tới cực này rồi đôi khi lại quá nhấn mạnh tới cực kia. Chúng ta cần nghỉ ngơi nhưng chúng ta cũng cần năng lượng; song le chúng ta phải nghỉ ngơi khi chúng ta cần nghỉ ngơi và chúng ta phải hoạt động khi chúng ta cần phải làm việc. Ta không được phó mặc cho một trong hai thứ. Nếu đôi khi xảy ra trường hợp khó khăn dường như quá nhiều đối với chúng ta th́ chúng ta đâm ra có khuynh hướng phó mặc cho mọi chuyện xảy ra và cứ yên nghỉ. Dĩ nhiên điều này là rất tự nhiên, nhưng chúng ta quên rằng thực ra không khó khăn nào là quá nhiều đối với chúng ta, v́ thực ra không có khó khăn nào mà không do chính chúng ta gây ra. Mọi khó khăn mà bạn và tôi đang có đều là một bài học giúp chúng ta học được một điều ǵ đó mà hiện nay chúng ta c̣n chưa biết. Lúc mà chúng ta khắc phục được nó, vượt qua được nó th́ nó không c̣n ở dạng khó khăn nữa mà trở thành một lực cho chúng ta tác động. Điều dường như khó leo trèo trên đó th́ sau khi chúng ta leo được lên đó rồi, nó sẽ trở thành một nơi từ đó chúng ta có thể thấy rơ rệt hơn nhiều so với mức chúng ta có thể thấy trước đó. Những người ở trên đỉnh núi thấy rơ hơn những người ở dưới vực sâu. Chắc chắn là việc leo núi ắt gây mệt mỏi, nhưng tầm nh́n từ trên đỉnh thường cũng rất bơ công cho ta leo núi. Chơn sư vốn ở trên đỉnh núi và chúng ta phải tin vào lời đoan chắc của Ngài rằng tầm nh́n từ trên đỉnh ắt đáng cho ta nh́n. Chúng ta thấy niềm vui trên khuôn mặt các Ngài và chúng ta phải cố gắng nhận ra được rằng những khó khăn trước mặt chúng ta chẳng là ǵ so với niềm vui vào lúc tận cùng.

 

CHƯƠNG XIX

T̀NH THƯƠNG

Bây giờ chúng ta xét tới điều kiện quan trọng nhất mặc dù nó được xếp vào cuối quyển sách, đó là T́nh Thương. Tôi có nghe các bậc lănh đạo dạy rằng mỗi thế giới hoặc là hệ thống đều có nốt nhạc đặc biệt của riêng ḿnh, cũng như một cá nhân có đặc trưng nổi bật của riêng ḿnh. Tôi đă hiểu họ khi bảo rằng xét về thế giới này th́ nốt chủ âm của nó là t́nh thương. Cho dù điều này ra sao đi nữa th́ nó vẫn c̣n đúng miễn là có tính t́nh mang nặng nét yêu thương, th́ cũng không có ǵ quan trọng lắm  nếu y có nhiều khuyết điểm liên tục cản trở ḿnh. Theo lời Chơn sư dạy th́ nếu tính chất bác ái đủ mạnh nơi con người, th́ “nó bắt buộc y phải thu hoạch được mọi đức tính c̣n lại và mọi đức tính c̣n lại mà không có t́nh thương th́ chẳng bao giờ đầy đủ cả”. Điều này có nghĩa là bản chất yêu thương đă phát triển toàn vẹn nơi bạn th́ nó ắt dần dần trở nên càng ngày càng thanh khiết cho tới khi nó tẩy trược bạn hoàn toàn khỏi tính ích kỷ. Từ việc yêu thương một người chúng ta dần dần tiến tới việc yêu thương nhiều người. Từ mức thích công việc của ḿnh, nghề nghiệp của ḿnh, chúng ta tiến lên mức thích công việc của thế giới và thích phụng sự nó. Người ta đôi khi nghĩ rằng những người nào muốn phụng sự thế giới th́ phải từ bỏ mọi cảm t́nh cá nhân. Tôi thường nghe thiên hạ bảo rằng họ đang cố gắng cắt đứt mọi sự luyến ái đối với gia đ́nh, bè bạn để cho họ có thể học cách phụng sự thế giới và theo gót Chơn sư. Họ quên mất rằng chỉ có nhờ vào t́nh yêu bạn bè và t́nh thương gia đ́nh mà người ta mới học được cách yêu thương thế giới giống như Chơn sư yêu thương nó. Và chúng ta không nhận ra đúng mức được rằng cảm t́nh cá nhân không cần phải biến mất – thật ra cũng không nên biến mất – cho dù t́nh thương của ta mạnh mẽ đến nỗi nó bao trùm được cả thế giới. Chính các Chơn sư cũng có những cảm t́nh cá nhân. Chúng tôi được dạy rằng các Ngài cũng có những học tṛ cưng và một nhóm nhỏ những người bạn chuyên biệt. Tại sao các Ngài lại không như vậy được ? Thật ra th́ các Ngài không để cho cảm t́nh cá nhân xen vào bổn phận đối với thế giới và các Ngài cũng không cho phép những ràng buộc cá nhân tiếp tay dù là chút ít cho những đường lối hành động sai trái. T́nh thương của các Ngài cho dù dành cho cá nhân hoặc cho thế giới đều là một t́nh thương củng cố - một t́nh thương ban ra chứ không phải t́nh yêu đ̣i hỏi. Đây là căn bản chân chính của mọi t́nh thương và là yếu tố tẩy trược của nó.

 

T̀NH THƯƠNG VÔ NGĂ

Biết bao nhiêu người trong chúng ta khi yêu thương bạn bè đều đ̣i hỏi rằng bạn bè cũng yêu thương lại ta, và có lẽ chúng ta trông mong họ có đủ thứ thái độ và cách phục vụ đáp trả lại t́nh yêu mà chúng ta dành cho họ. Điều này có thể là tự nhiên trong những giai đoạn đầu nhưng bản chất bám víu đó của t́nh yêu chỉ là t́nh yêu ở dưới khía cạnh ích kỷ. T́nh yêu phải lớn rộng như một con sông đầy sức mạnh, bao giờ cũng chảy ra ngoài có tác dụng bất kể nó có thu lại được điều ǵ hay chăng. T́nh yêu ở khía cạnh thấp thỏi là ḷng ham muốn, c̣n ở khía cạnh cao thượng lại là ư chí theo như Chơn sư có nêu rơ. Nhiều người trên thế gian đ̣i hỏi t́nh yêu của ḿnh phải được đền đáp lại và bị tổn thương nếu nó không được đền đáp. Điều này cũng chẳng khác ǵ người ta trả công ngay tức khắc và chứng tỏ rằng người đó chưa bắt đầu tẩy trược được t́nh thương của ḿnh. Những người thật sự biết cách yêu thương đều bảo rằng chỉ nội việc tuôn chảy của ḍng t́nh thương cũng là một sự thỏa măn lớn lao đến nỗi họ không có khuynh hướng cân đong đo đếm bản chất của sự đền đáp. Bài học về t́nh yêu chắc chắn là phải bắt đầu với cá nhân. Nếu có ai mà bạn yêu thương đắm đuối th́ bạn hăy thử thực hành việc cố t́nh dẹp sang một bên bất cứ khuynh hướng nào nghĩ đến kết quả xét về bản thân. Bạn hăy rán tránh dù chỉ một chút hi vọng mong manh được đáp lại. Đừng tốn chút ít năng lượng nào cho việc nghĩ xem anh ấy hoặc cô ấy cảm nhận về bạn ra sao mà hăy tận hiến cho quá tŕnh tuôn đổ năng lượng ra. Có lẽ bạn chẳng có ư niệm ǵ nếu bạn không thử xem liệu sự thỏa măn có hoàn toàn chăng trong việc chỉ có cho ra thôi. Thỉnh thoảng người ta lại sa trở lại cái ư muốn có được một loại đền đáp nào đó nhưng xét về mặt tương phản th́ ham muốn này dường như đê tiện và tồi tệ quá nên người ta lấy làm biết ơn khi ḿnh dẹp được nó đi. Mặt khác, liên tục có việc quan tâm khám phá ra những cách thức yêu thương mới và sự thật là bạn càng ngày càng trở nên vô ngă với sự đền đáp đó, là khởi điểm cho bạn ban rải t́nh thương cho nhiều người thay v́ hạn chế nó vào một người hoặc vài người. Nếu bạn quan tâm sâu sắc tới bất kỳ loại công việc nào đó th́ bạn ắt thấy ḿnh bắt đầu yêu thương thiên hạ v́ sự đóng góp của họ vào công tŕnh mà bạn và họ đang dấn thân vào. Bạn cảm thấy rằng họ là các đồng chí với một chính nghĩa chung và cái cảm xúc của t́nh đồng chí đó chẳng bao lâu phát triển thành ra cảm xúc về t́nh cảm thuần túy. Bạn cảm thấy rằng họ đang làm việc cho cái chính nghĩa mà bản thân bạn đang dấn thân vào, bạn cảm thấy rằng họ kề vai sát cánh với bạn trong những khó khăn và nguy hiểm, sự đơn nhất biểu hiện ra như thế chẳng bao lâu bộc lộ khía cạnh t́nh thương của nó. Dĩ nhiên luôn luôn có những người đặc biệt gần gũi bạn, và có thể có sự thật trong lời khẳng định rằng mỗi linh hồn đều có một ái lực chuyên biệt. Tôi chẳng biết nhiều về điều này nhưng tôi có biết là dựa trên cơ sở cảm t́nh đối với một số ít người th́ dần dần ta mới xây dựng được khả năng yêu thương nhiều người. Và bí mật của mọi điều đó là nhằm không trông mong ǵ được đền đáp lại.

Nếu lúc nào bạn cũng trông ngóng được đền đáp lại, th́ sự đền đáp đó phải xuất phát từ một người hoặc một số ít người thôi. Bạn không thể trông mong có sự đền đáp của nhiều người và do đó có một hàng rào ngăn cách giữa bạn và cảm t́nh mà họ có thể có. Họ không thể mang lại cho bạn sự đền đáp mà một số ít người mang lại cho bạn được do t́nh yêu thương bạn tuôn đổ cho họ, v́ vậy chẳng hơi đâu mà yêu thương người ta ! Đây là kết luận tất yếu của những kẻ lúc nào cũng trông ngóng được trả công cho cảm t́nh của ḿnh dưới dạng này hay dạng khác. Tôi biết rằng diễn tả như vậy nghe sao phũ phàng quá. Thiên hạ ắt căi lại rằng họ đâu có muốn trả công, họ chỉ muốn được công nhận thôi. Nhưng t́nh thương chân chính đâu có đ̣i được công nhận; tự nó lấy làm thỏa măn với niềm vui được tuôn tràn ra cho mọi người. Con sông ắt hạnh phúc khi chảy ra biển. V́ vậy bạn mới hiểu được khi khiến cho t́nh yêu của ḿnh đối với người nào đó độc lập được với thái độ của người ta đối với bạn th́ bạn ắt đặt cơ sở cho Chơn sư mong ước bạn đạt được cho toàn thể thế giới. Khi bạn đạt tới mức mà Ngài đă đạt được th́ có lẽ bạn ắt phát hiện rằng t́nh yêu mà bạn dành cho thế gian không khiến cho bạn quên đi cảm t́nh của bạn đối với cá nhân; ngược lại cảm t́nh cá nhân là nền tảng của tất cả và sẽ được bạn nâng niu với hạnh phúc sâu sắc nhất.

 

L̉NG HAM MUỐN ĐƯỢC GIẢI THOÁT

Bạn ắt nhận thấy rằng điều kiện thứ tư này mà Chơn sư nêu ra thường được dịch là “ham muốn mănh liệt được giải thoát khỏi ṿng sinh tử luân hồi và hiệp nhất với Thượng Đế”. Điều này có nghĩa là ư niệm yêu thương đă được tŕnh bày dưới khía cạnh cá nhân dường như thể nhờ vào t́nh yêu với khía cạnh hạn hẹp hơn mà cá nhân đạt được sự giải thoát khỏi ṿng sinh tử luân hồi. Nhưng Chơn sư có nêu rơ rằng xem xét về t́nh yêu như vậy th́ ích kỷ quá. “T́nh thương không phải là dục vọng mà đúng ra là ư chí, sự quả quyết, quyết tâm. Để tạo ra được kết quả đó, sự quả quyết này phải tràn ngập trọn cả bản chất bạn sao cho không c̣n chỗ đứng cho bất kỳ xúc cảm nào khác. Quả thật ư muốn hiệp nhất với Thượng Đế không phải để bạn có thể thoát khỏi sự mệt mỏi và đau khổ, mà là để cho v́ bạn yêu thương sâu sắc Thượng Đế, bạn có thể hành động cùng với Ngài và giống như Ngài hành động. V́ Ngài là T́nh thương cho nên muốn hiệp nhất với Thượng Đế, bạn cũng phải tràn đầy ḷng vị tha trọn vẹn cũng như tràn ngập t́nh thương. Thật vậy, chúng ta thường rất tha thiết muốn thoát khỏi nỗi chán chường và đau khổ nhưng trong giai đoạn đầu tiên chúng ta muốn thoát khỏi những thứ này để cho ta có thể vui hưởng sự an b́nh và nghỉ ngơi, sau này chúng ta muốn dứt bỏ khỏi những cảm xúc mệt mỏi và đau khổ cá nhân sao cho ta có thể tự do giúp người khác cũng dứt bỏ được những xúc cảm đó. Đây là sự an b́nh của Chơn sư. Ngài có thể góp phần gánh chịu gánh nặng của thế gian một cách tuyệt vời, v́ Ngài không c̣n gánh chịu gánh nặng của chính ḿnh nữa. Nếu muốn th́ Ngài có thể cắt đứt hoàn toàn liên hệ với thế gian v́ Ngài đă đạt được sự giải thoát. Nhưng chúng ta được dạy dỗ rằng nếu một Chơn sư mà làm như thế th́ Ngài cũng chỉ giải thoát được trong một thời gian nào đó thôi và sớm muộn ǵ Ngài cũng phải trở lại để chia xẻ gánh nặng của thế gian. Đó là v́ có một sự Đơn nhất lớn lao duy nhất ràng buộc tất cả chúng ta lại với nhau và chúng ta phải cùng nhau tăng trưởng qua sự đau khổ rồi mới biết thế nào là hoan lạc. Thật ra, cố nhiên là trong khi những bậc đă đạt tới mức Chơn sư nếu muốn th́ có toàn quyền được nghỉ ngơi một thời gian dài, nhưng các Ngài đều dứt khoát từ bỏ sự nghỉ ngơi đó v́ t́nh thương của các Ngài đối với thế gian. Và bạn không được quên – tôi cũng không do dự khi lập đi lập lại điều này – rằng t́nh yêu tuyệt đẹp của Ngài với thế gian vốn nảy sinh từ t́nh yêu vị tha của Ngài trong quá khứ đối với một cá nhân hoặc một số ít người.

 

ĐIỀU ÁC CỦA VIỆC NGỒI LÊ ĐÔI MÁCH

Chơn sư gợi ư cho chúng ta rằng dần dần chúng ta có thể từng bước chuyển dịch t́nh yêu của ḿnh đối với một người thành ra t́nh yêu đối với nhiều người. Hiển nhiên là đối với bất cứ người nào mà chúng ta yêu thương, chúng ta luôn luôn cố gắng giúp đỡ họ bằng mọi cách, cũng như cẩn thận không bao giờ gây thiệt hại ǵ cho họ. Và hai khía cạnh này của t́nh thương phải không được hạn chế vào một cá nhân mà phải khống chế thái độ của chúng ta đối với ngoại giới. Xét về bổn phận không gây hại th́ Chơn sư nêu ra ba ví dụ gây hại rất thông thường. Một là tật ngồi lê đôi mách. “Hăy xem tật ngồi lê đôi mách tác động ra sao. Nó bắt đầu bằng tư tưởng ác độc cho nên bản thân nó đă là một tội ác. Đó là v́ nơi mọi người và mọi vật đều có khía cạnh tốt; nơi mọi người và mọi vật đều có khía cạnh xấu. Chúng ta có thể củng cố cho mỗi một khía cạnh này bằng cách suy nghĩ tới nó và nhờ vậy ta có thể giúp đỡ hoặc cản trở sự tiến hóa; chúng ta có thể thi hành ư chí của Thượng Đế hoặc chúng ta có thể chống lại Ngài. Rơ rệt là chúng ta không thể có tư tưởng độc ác đối với bất cứ người nào mà chúng ta yêu thương, nhưng chúng ta thường có tư tưởng độc ác đối với những người khác, và chúng ta phải cố gắng suy nghĩ về cách thức khiến chúng ta thực sự yêu thương người khác sao cho chúng ta có thể mô phỏng lại những đặc điểm của t́nh yêu đó trong thái độ của chúng ta đối với nhiều người. Chơn sư có dạy rằng “Nơi mọi người và mọi vật đều có khía cạnh tốt” và nếu chúng ta nghĩ tới khía cạnh tốt nơi một cá nhân th́ chúng ta củng cố được khía cạnh tốt nơi y, trong khi nếu chúng ta nghĩ tới khuyết điểm của y th́ chúng ta củng cố khuyết điểm đó. Ta hăy rán tưởng tượng rằng khía cạnh tốt và khuyết điểm liên tục đấu tranh với nhau trong bản chất của con người. Mỗi khía cạnh đều ra sức bon chen đẩy khía cạnh kia văng ra ngoài. Điều mà chúng ta cần phải làm là cố gắng khiến cho khía cạnh tốt mạnh đến nỗi nó dần dần đẩy được nhiều điểm khiếm khuyết của cá nhân văng ra ngoài bản chất con người hoàn toàn. Như vậy điều tốt nơi một con người trở nên lớn mạnh đến nỗi không c̣n chỗ nào dành cho điều khiếm khuyết và chúng ta khiến cho khía cạnh tốt nơi bản chất con người càng ngày càng lớn mạnh khiến cho chúng ta chỉ nghĩ đến nó. Tôi đă lưu ư tới điều này, nhất là trong trường hợp bà Besant. Đôi khi người ta bảo rằng bà rất dễ bị gạt v́ bà luôn luôn lư tưởng hóa người khác. Tôi tin rằng quả thật đôi khi bà cũng bị gạt mặc dù tôi sáng ư mà hoài nghi rằng bà hoàn toàn biết được mức độ mà ḿnh đang bị gạt. Nhưng tôi hoàn toàn thấy rơ rằng sự thật là việc bà lư tưởng hóa người khác đă trợ giúp rất nhiều cho những người này v́ trong quá tŕnh lư tưởng hóa, bà đang củng cố mọi điều tốt đẹp nhất nơi người khác. Dường như thể bà đang tuôn đổ sức mạnh của ḿnh vào bản chất tốt đẹp của người mà bà đến tiếp xúc sao cho nó đẩy lùi dần dần nhiều khuyết điểm văng ra ngoài. Chắc chắn là những điều khiếm khuyết đó sẽ trở lại v́ bản chất của chính con người c̣n chưa đủ mạnh để khiến cho nó văng đi luôn. Nhưng quyền năng của chúng đă bị phá vỡ và miễn là cá nhân có thể lợi dụng được sự kiện này th́ y chẳng khó khăn ǵ cũng hoàn tất được sự thăng tiến của bản chất cao thượng. Sự kiện bà Besant lư tưởng hóa thiên hạ bắt buộc họ phải hiển lộ cái khía cạnh tốt đẹp trong bản chất của ḿnh. trong khi ít ra có sự kề cận của bà. Khuynh hướng này sinh ra một thói quen và nếu cá nhân thật sự tha thiết th́ sự bắt đầu nho nhỏ này của một thói quen có tầm quan trọng lớn lao đối với y. Điều mà bà Besant làm trên một qui mô rất lớn th́ chúng ta có thể làm trên một qui mô nhỏ hơn. Muốn cho một cá nhân đáng tin cậy th́ chúng ta phải bắt đầu bằng cách tin cậy y. Sự tin cậy cần có hai người, một người tin cậy và một người được tin cậy. Chúng ta phải chia xẻ đối với những người khác và tin cậy họ tới mức tối đa v́ khi làm như thế chúng ta củng cố nơi họ khả năng đáng tin cậy. Chơn sư nêu rơ rằng nếu chúng ta nghĩ tới điều ác nơi người khác, th́ chẳng những chúng ta làm tăng cường điều ác ở xung quanh ḿnh mà chúng ta c̣n củng cố điều ác nơi cá nhân được chúng ta nghĩ đến và c̣n tạo ra bên trong chúng ta một khả năng lớn hơn nghĩ tới điều ác. Cố nhiên rất thường xảy ra là điều ác mà chúng ta nghĩ tới thực ra không tồn tại thế rồi óc tưởng tượng của chúng ta là một cám dỗ cản đường cá nhân mà chúng ta nghĩ một cách sai trái. Chơn sư có dạy rằng “Tư tưởng ác độc của con cám dỗ huynh đệ của con làm bậy, v́ nếu y chưa được toàn bích th́ con có thể khiến cho y làm điều mà con đă nghĩ về y”. Như thế, nếu chúng ta ngồi lê đôi mách về người khác th́ hiển nhiên là chúng ta đang chất đầy xung quanh ḿnh tư tưởng ác độc, do đó theo như Chơn sư nêu rơ: “Con đang làm cho khối phiền năo của thế gian tăng lên”.

Chơn sư nghĩ rằng ngoài việc nghĩ tới những điều ác cho dù chúng có thực sự tồn tại hay chăng “kẻ ngồi lê đôi mách c̣n làm hết sức ḿnh để khiến cho những người khác cũng a dua vào tội ác đó”. Kỳ lạ thay thiên hạ rất khoái túm tụm lại với nhau để bới móc khuyết điểm của người khác, hoàn toàn rơ rệt là dường như sự thật có những người khác ở đâu đó cũng túm tụm lại với nhau để nói xấu về những khuyết điểm của họ ! Bạn không được tưởng tượng rằng người khác sẽ xá miễn cho bạn nếu bạn không biết xá miễn cho người khác. Như vậy nếu bạn đang ngồi lê đôi mách một cách không tử tế về người khác th́ lần tới khi bạn đang đi rảo ngoài đường mà lại gặp bạn bè th́ nên nhớ rằng họ có thể đă từng nói đủ thứ điều độc ác về bạn và cũng giống như bạn đă nói đủ thứ điều độc ác về họ. Bản thân tôi không có nhiều dịp ngồi lê đôi mách nhưng trong quá khứ tôi cũng đă từng nhiều lần ngồi lê đôi mách và khi tôi bắt đầu nhận ra được tính độc ác của nó th́ dứt khoát là sau khi đă sa ngă vào một thời kỳ ngồi lê đôi mách ngắn ngủi tôi thường tưởng tượng ra có nhiều bạn mà tôi đă từng gặp ắt cũng sa đà vào cái thói xấu đó. Chắc chắn là tôi chẳng nên tưởng tượng ra điều đó về họ, nhưng việc này cũng có một điều thuận lợi nghĩa là nó khiến tôi cảm thấy rất khó chịu v́ tôi bắt đầu thắc mắc và chẳng biết thiên hạ đang nói xấu chuyện ǵ của ḿnh, thế rồi liệu xét cho cùng th́ những điều ấy có đúng hay chăng ! Sau đó tôi quyết tâm trong bản chất của ḿnh là tôi sẽ cố gắng tránh mang lại một nền móng nào đó cho việc ngồi lê đôi mách như thế, và như vậy từng bước tôi thấy bên trong ḿnh bớt đi khuynh hướng ngồi lê đôi mách về người khác. Cách tốt nhất để tránh ngồi lê đôi mách là không có thời giờ ngồi lê đôi mách, và nếu bạn đang bận bịu với một công việc lành mạnh và những thứ giải trí lành mạnh th́ bạn đâu có màng tới việc ngồi lê đôi mách. “Đừng bao giờ nói xấu về bất cứ ai; hăy từ chối lắng nghe khi có ai đó nói xấu một người khác, mà hăy từ tốn bảo rằng: Có lẽ điều này không đúng sự thật và cho dù là đúng đi chăng nữa th́ không nói tới nó mới là tử tế ”.

CHƯƠNG XX

CÁC TỘI LỖI CHỐNG LẠI T̀NH THƯƠNG

Tội thứ nh́ mà Chơn sư đề cập tới là tội độc ác và Ngài phân chia sự độc ác ra thành độc ác cố ư và độc ác vô t́nh. Xét về độc ác cố ư th́ Chơn sư có dạy rằng người ta khó ḷng tưởng tượng nỗi một người nào đó lại cố t́nh độc ác đối với bất kỳ sinh linh nào khác, tuy nhiên bạn nên nhớ rằng thời xưa có Ṭa án Tôn giáo ở Tây Ban Nha, trong đó người ta bị hành h́nh v́ lương tâm của họ không phù hợp với lương tâm của người hành h́nh họ. Bạn cũng phải biết rằng có những người trên thế gian cố t́nh gây đau khổ cho cả con người lẫn con thú để cho họ có thể cố gắng t́m ra được nguồn gốc và các chữa trị đủ thứ bệnh tật. Và Chơn sư có dạy rằng nhiều thầy giáo cố t́nh gây đau đớn cho học sinh. Tôi thắc mắc chẳng biết có thể nói rằng đằng sau sự độc ác cố ư đó liệu có một ư định tốt đẹp nào chăng. Theo một cách thức u uẩn nào đó, có thể có một động cơ thúc đẩy tốt đẹp ẩn sau sự độc ác, nhưng nó có động cơ thúc đẩy vô minh và bị xuyên tạc đến nỗi chỉ có thể có một lượng điều tốt vô cùng nhỏ liên quan tới nó. Tôi không muốn bảo rằng những người thuộc Ṭa án Tôn giáo, những người giải phẫu sinh vật và những thầy giáo là hoàn toàn xấu xa khi họ phạm phải những hành vi cố t́nh độc ác. Đúng ra th́ họ ở một tŕnh độ tiến hóa đạo đức thấp đến nỗi họ chỉ chịu trách nhiệm trong một mức độ giới hạn về các hành động của ḿnh. Nhưng hành động đó quá đê tiện, theo chỗ chúng tôi biết phản tác động của chúng thật là ghê gớm và nếu họ biết trong thâm tâm ḿnh họ không thể làm được những điều như thế th́ nghiệp báo của họ quả thật là nặng nề. Chơn sư có nêu rơ rằng, thật là vô ích khi bảo rằng một phép thực hành như thế là tập tục: “Một tội ác không ngừng là một tội ác v́ nhiều người phạm phải nó”. Tôi biết rằng v́ có ṿng hào quang tập tục bao xung quanh những điều tàn bạo này cho nên chúng ta ưa cố gắng tha lỗi cho chúng. Xét cho cùng th́ đối với kẻ giải phẫu sinh vật, ta bảo rằng th́ ít ra y cũng cố gắng làm lợi cho loài người. Nhưng chỉ một loài người ích kỷ th́ mới sẵn ḷng làm lợi dựa trên sự đau khổ của những sinh linh khác. Loài người không có quyền gây đau đớn cho những sinh linh khác với hi vọng hăo huyền là nhờ đó mà có được sức khỏe và hạnh phúc.

 

GIẢI PHẪU SINH VẬT

Người ta có thể bảo bạn rằng một vài phát hiện trong việc giải phẫu sinh vật có kết quả là đem lại sự miễn nhiễm nhất định đối với một bệnh đặc thù. Tôi luôn luôn giải đáp điều này là cho dù bạn có thể chận đứng một lối thoát này th́ luôn luôn vẫn có một lối thoát khác để cho nghiệp báo thể hiện ra nếu vẫn c̣n nghiệp báo. Sự dơ dáy mà bạn ngăn cản không cho thoát ra khỏi một lỗ chân lông ắt phải t́m đường x́ ra qua một lỗ chân lông khác. Điều mà nhà giải phẫu sinh vật không thể chứng tỏ đó là mặc dù một dạng bệnh này có thể ít xuất hiện hơn, song bệnh tật xét chung vẫn cứ tiếp tục xảy ra. Chúng ta có những bệnh dịch dưới dạng này hay dạng khác cũng nhiều như người ta mắc bệnh dịch trong những thế kỷ đă qua. Và cho dẫu một số bệnh đă biến mất th́ vẫn có những bệnh mới xảy ra; có lẽ đó quả thật là bệnh cũ với tên gọi mới. Cho dù nó có thể ra sao đi nữa th́ đây là vấn đề đạo đức và bổn phận. Cho dù việc hành hạ một con thú có thể giúp loài người thoát khỏi sự đau đớn, th́ loài người vẫn không có quyền viện cớ đó để hành hạ nó. Nếu con thú tự nguyện chịu hành hạ th́ đây có thể là vấn đề khác, nhưng theo chỗ tôi biết th́ ta không hỏi ư kiến con thú trước khi chúng bị giải phẫu lúc c̣n sống. Tôi không muốn đặt vấn đề dưới dạng một thắc mắc để xem liệu chúng ta có thể thực sự thu được lợi ích mà chúng ta giả sử rằng ḿnh thu được. Tôi không muốn thu được cái gọi là lợi ích bằng cách đó. Đúng hơn th́ tôi chẳng thà chịu mắc bệnh c̣n hơn là tàn nhẫn bắt buộc con thú phải chịu đau khổ thay cho ta. Việc gây đau đớn là một trong những nguồn cội lớn của nghiệp báo: Chúng ta càng gây đau đớn cho con thú th́ nghiệp báo của ta càng trói buộc chúng ta vào thế giới phiền năo này và cho dù điều kiện sức khỏe có ra sao đi chăng nữa th́ chúng ta vẫn có thể nghĩ rằng ḿnh rút ra được ǵ từ việc hành hạ đó. Chúng đă bị thắng thế áp đảo bởi các bệnh tật và phiền năo vốn vây bủa xung quanh chúng ta do chính cái hành động hành hạ đó.

 

SỰ TRỪNG PHẠT BẰNG CÁCH DÙNG ROI VỌT

Xét về các thầy giáo, th́ lại có lập luận rằng đó là tập tục. Sáo ngữ là: “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Nếu bạn và tôi muốn cố gắng theo lời Chơn sư th́ chúng ta phải giải thoát ḿnh khỏi những mắt kính mê tín dị đoan u ám mà cá nhân b́nh thường đă che khuất thực tại khỏi mắt ḿnh. Nhiều người ắt bảo bạn họ cảm thấy tốt hơn xiết bao do sự thật khi họ c̣n là con trẻ thi họ bị trừng phạt bằng roi vọt. Tôi luôn luôn trả lời cho những người như thế là tôi chẳng biết họ tốt hơn được bao nhiêu nếu thầy cô và cha mẹ họ không trừng phạt họ bằng roi vọt. Lập luận cố nhiên là ngớ ngẩn. Việc gây ra đau đớn chỉ có kết quả là khơi dậy sự sợ hăi. Chúng ta được dạy bảo rằng kỷ luật gây cảm giác mạnh (một phần trong đó là việc trừng phạt bằng roi vọt) làm cho bản chất ta cứng rắn hơn. Hiện nay thế giới đang chịu đau khổ chính v́ bản chất rất cứng rắn đó. Chúng ta không muốn cho bản thân ḿnh cứng rắn lên, chúng ta muốn cho nó mềm dẽo đi và nhạy cảm. Chúng ta muốn cho nó có thiện cảm sâu xa hơn so với mức nó có thể biểu hiện ra như ngày nay. Những cú đánh có thể làm tâm hồn con người chai đá đến mức gây ra những kết quả và hậu quả ưa cạnh tranh với đồng loại, nhưng ngày nay chúng ta phải vượt qua cái giai đoạn nhẫn tâm đó. Ít ra th́ chúng ta phải bắt đầu nhập vào giai đoạn hợp tác. Chúng ta không dùng roi vọt để đập vào đóa hoa khiến cho nó tăng trưởng đẹp đẽ hơn, ngược lại chùng ta càng bao quanh nó bằng sự dịu dàng âu yếm th́ nó càng trở nên đẹp đẽ hơn. Một đứa trẻ cũng là một đóa hoa, một đóa hoa đẹp đẽ hơn cả những dạng sinh linh mà chúng ta gọi là hoa. Sự trừng phạt bằng roi vọt rất hiếm khi xảy ra mà không kèm theo sự giận dữ. Người ta có thể áp dụng nó trong những trường hợp cực kỳ hiếm, nhưng nói chung chúng ta không thể để cho thầy giáo trừng phạt bằng roi vọt chỉ v́ một vài người có thể dùng roi vọt mà không có cảm xúc quá đáng. Tôi xin cố t́nh nói rằng thầy giáo b́nh thường không thể tránh dấu vết của sự giận dữ trong khi y đang dùng roi đánh học tṛ, và vết tích như thế có khuynh hướng thấm nhuần vào sự trừng phạt tính dung tục của một sự căi vă cá nhân. Ở nhiều xứ sở th́ sự trừng phạt bằng roi vọt được coi là không khôn ngoan và do đó nó đă bị hủy bỏ. Tiếc thay ở Anh và Ấn Độ vẫn c̣n phương thức cũ, nhưng chúng ta đang làm hết sức ḿnh để dứt bỏ nó và cung cấp cho đứa trẻ ấu trĩ một cơ hội để tăng trưởng giống như chính đóa hoa tăng trưởng.

 

 MỘT SỐ DẠNG HÀNH HẠ    

Về phần Ṭa án Tôn giáo hiện nay theo thông lệ chúng ta không gây sự hành hạ cá nhân cho những người mà lương tâm của họ khác với lương tâm của chính ta. Tôi nói ‘theo thông lệ’, v́ trong cuộc chiến tranh hiện nay một số người nào đó đă thật sự dùng lương tâm để phản đối việc đi quân dịch và phải chịu những điều bất công nhắc nhở chúng ta tới những kẻ bôi nhọ ṭa án tôn giáo thời Trung cổ. Có lẽ ta phải trông mong điều này khi trọn cả thế gian c̣n đang giận dữ và thú tính chiến đấu đă gây ảnh hưởng không chối căi được lên tâm trí con người; những kẻ phản đối bằng lương tâm này đều là thánh tử v́ đạo giống như các Ki Tô hữu trước kia ở thành La mă hoặc những kẻ chịu đau khổ trong tay các Ṭa án Tôn giáo chỉ v́ đức tin của ḿnh.

Tôi đă thêm vào danh sách những điều hành hạ nhiều dạng khác mà ta không biết được vào thời sơ khai. Chẳng hạn như có sự hành hạ mà phái chính thống gây ra cho phái không chính thống – sự hành hạ này thường có dạng tẩy chay một cách độc ác. Có sự hành hạ tự tôn khinh bỉ mà nhiều người giàu đối xử với người nghèo. Có sự hành hạ mà đàn ông gây cho đàn bà khi họ hảnh diện nghĩ rằng chỉ những người thuộc phái nam mới biết được cách cai trị đất nước. Có sự hành hạ mà những người thuộc đức tin này gây ra cho những người thuộc đức tin khác, chẳng hạn như thái độ của phái bộ truyền giáo Ki tô đối với những đức tin khác hơn đức tin của chính ḿnh. Thế rồi Chơn sư dạy chúng ta rằng có những người cố t́nh đi ra giết hại súc vật và gọi đó là “thể thao”. Trong một số trường hợp ư định chắc chắn là có thể tốt, nhưng ư định không luôn luôn làm thay đổi được sự kiện, và ta không có cớ ǵ để độc ác khi bảo rằng ta phạm điều độc ác với một động cơ thúc đẩy tốt đẹp. Bạn và tôi phải liên tục tự ḿnh phán đoán chứ không được bằng ḷng với sự phán đoán theo tập tục mà kẻ phàm phu thường chấp nhận. Nhiều người có ư kiến được làm sẵn. Hầu hết mọi người khó ḷng tự thân ḿnh chịu suy nghĩ. Họ bị vây quanh bởi một vài h́nh tư tưởng nhất định; họ sống trong những h́nh tư tưởng đó và rất hay tưởng tượng rằng bản thân họ đang suy nghĩ. Tất cả cũng thường hay xảy ra khi một người nào đó bảo rằng “Tôi nghĩ rằng” th́ y nên nói “Tôi đă sa vào nanh vuốt của một h́nh tư tưởng và ư kiến mà tôi đang diễn tả là kết quả của điều đó”.

 

NGHIỆP BÁO BẤT CHẤP TẬP TỤC

Bạn ắt nhớ lại rằng trong phần trước kia của quyển Dưới Chơn Thầy, chúng ta được dạy bảo để nhận ra rất rơ rệt rằng bản thân ta và các hiện thể của ta là riêng biệt. Chúng ta cũng phải hiểu rằng bởi v́ một tư tưởng lọt vào trong trí chúng ta, cho nên không được suy ra rằng chúng ta phải nghĩ tới nó. Không được suy ra rằng bởi v́ chúng ta sống trong nhà cho nên chúng ta phải xây nhà bằng bàn tay của chính ḿnh. Chúng ta có thể nói “nhà của chúng tôi”, nó có thể là “nhà của chúng tôi” v́ chúng ta đă biến nó thành nhà của ḿnh, nhưng đó không phải là nhà của chúng ta theo nghĩa là chúng ta đă tạo ra nó trừ phi chúng ta có thể chính ḿnh đă thiết kế nó. Chơn sư cảnh báo chúng ta rằng “nghiệp báo không đếm xỉa ǵ tới tập tục” và nghiệp báo không đếm xỉa tới sự thật là thực ra chúng ta chủ yếu quan tâm tới việc ch́m đắm trong h́nh tư tưởng của người khác và xuất tŕnh nó ra là h́nh tư tưởng của chính ḿnh. Chúng ta phải học cách tự ḿnh suy nghĩ và nhất là không chấp nhận một ư tưởng, một niềm tin hoặc một ư kiến v́ cuộc đời chúng ta sẽ dễ chịu hơn nếu chúng ta chấp nhận điều đó. Cố nhiên là di chuyển cùng một tốc độ với ḍng chảy th́ luôn luôn là dễ dàng hơn. Nhưng bạn và tôi là những người có ư định đi nhanh hơn một chút, và do đó chúng ta phải sẵn ḷng can đảm chịu đựng cái hiện tượng kỳ lạ của một ḍng chảy mặc dù thực ra chuyển động cùng hướng với chúng ta song dường như nó chống lại sự tiến bộ của chúng ta. Cho dù ḍng chảy có thể nhanh đến đâu đi nữa, nếu bạn đang chuyển động nhanh hơn tốc độ chuyển động của nó, th́ dường như thể nước đang chảy theo một hướng đối nghịch lại với hướng mà bạn đang đi. Trong nhiều trường hợp người ta chống đối lại bạn chẳng phải v́ họ không tiến hóa mà v́ bạn đang tiến hóa nhanh hơn họ, tốc độ của họ chậm hơn tốc độ của bạn và v́ vậy dường như họ đang chống lại sự chuyển động của chính bạn. Chúng ta phải tự ḿnh suy nghĩ và không chấp nhận điều ǵ làm phán đoán của chính ḿnh, trở nên độc lập càng nhiều càng tốt, chấp nhận một cách trọn vẹn và không do dự. Cố nhiên sự hành hạ là kết quả tất yếu nhưng ta cũng biết rằng máu của thánh tử v́ đạo – cho dù đó là máu của thể xác, thể vía hoặc thể trí – đều là nền móng xây dựng nên giáo hội

Chơn sư nhắc nhở chúng ta rằng, khi có cơ hội chúng ta can đảm phát biểu chống lại những điều độc ác đó, cho dù biết bao nhiêu người khác có thể tin vào chúng. Giờ đây đă đến lúc một số những điều độc ác này không c̣n tồn tại nữa và cách duy nhất ta có thể tiêu diệt chúng là những người trong chúng ta phải nhận ra được sự vô giá trị của chúng khi tuyên xưng sự thật mà chúng chỉ là những điều xuyên tạc, sự thật này thế chỗ cho sự độc ác. Những người trong nhóm chúng ta muốn cố gắng theo Chơn sư ắt nhớ rằng chúng ta phải có bổn phận tuyên cáo những sự thật mà ḿnh biết bất chấp cá nhân bị nguy hiểm hoặc ít ra th́ tuyên cáo những sự thật theo phán đoán của ḿnh th́ thế gian đă chín muồi rồi. Sự độc ác cố ư nhiều xiết bao.

 

SỰ ĐỘC ÁC VÔ T̀NH

Tuy nhiên chúng ta cũng được dạy dỗ để cảnh giác đối với việc vô t́nh độc ác. Chơn sư có dạy rằng thiên hạ luôn luôn suy nghĩ về chính ḿnh đến nỗi đôi khi họ chẳng nghĩ tới nỗi đau mà chắc chắn là họ đă gây cho người khác một cách thiếu suy nghĩ. Chơn sư đưa ra đủ thứ ví dụ về điều này mà bạn nên nghiên cứu và suy nghĩ về chúng. Nên nhớ rằng rất lâu sau khi bạn đă quên mất hành vi vô t́nh độc ác của ḿnh th́ kết quả của nó vẫn c̣n có thể dằng dai nơi cá nhân mà bạn gây ra đau khổ. Một lời lẽ vô ư vô tứ, một cái nh́n thờ ơ, một sự lơ đễnh xét theo bề ngoài là cố ư mặc dù đằng sau đó không hề có sự cố t́nh, có thể thường là nguyên nhân của nhiều giờ và có thể nhiều ngày đau khổ cho những kẻ mà bạn đă đối xử như thế. Chắc chắn quả thật là Chơn sư có dạy chúng ta trong phần trước kia của quyển sách là những người này nên nhớ rằng chúng ta tuyệt nhiên không nghĩ tới họ. Nhưng đó là chuyện của những người này c̣n bổn phận của chúng ta là phải cẩn thận chứ không vô ư vô tứ. Điều này có nghĩa là chúng ta phải luôn luôn cố ư về điều mà ḿnh làm, điều mà ḿnh nói, điều mà ḿnh suy nghĩ. Tất cả chúng ta đều ít nhiều vô ư vô tứ và v́ vô minh chúng ta thường gây ra sự độc ác vô t́nh.

Khi chúng ta nhận ra được tầm quan trọng của việc càng ít gây đau khổ càng tốt th́ chúng ta sẽ cố gắng kiểm soát đủ thứ hạ thể của ḿnh: thể xác, thể vía, thể trí. Chúng ta có thể quên nhưng Chơn sư có dạy rằng “Nghiệp báo không bao giờ quên và nó không đếm xỉa tới việc con người quên”. Đối với những người trong chúng ta không muốn ưu ái một điều nào th́ nghiệp báo có thể dường như rất độc ác; nhưng một bức tường dơ không thể trở nên sạch chỉ v́ ta quét một lớp vôi lên đó; sớm muộn ǵ lớp dơ đó cũng bắt đầu lộ ra và sau đó nếu chúng ta quét thêm một lớp vôi khác th́ chỉ là vấn đề thời gian khi thứ dơ dáy lại lộ ra. Nếu nghiệp báo mà quên th́ chúng ta cũng tiếp tục quên được, chúng ta ắt tiếp tục quên đi những điều độc ác vô t́nh của ḿnh và v́ quên như vậy cho nên mới có ư tưởng cho rằng chúng ta chưa bao giờ phạm phải điều độc ác. Nếu nghiệp báo mà quên th́ chúng ta chẳng bao giờ học được điều ǵ. Thật vậy trí nhớ của nghiệp báo là điều vĩ đại nhất trong những ân huệ của nó, v́ nó bắt buộc chúng ta cũng phải nhớ theo, và như vậy rốt cuộc học được bài học lợi dụng nó từ khả năng mang lại sức mạnh.

Chơn sư có dạy: “Nếu con muốn nhập vào Thánh đạo th́ con phải nghĩ tới hậu quả của những điều con làm kẻo con phải phạm tội độc ác vô ư”; trong khi tôi biết thật khó khăn xiết bao khi nghĩ tới hậu quả của điều mà ḿnh làm th́ song le đó lại là bài học mà chúng ta phải liên tục học hỏi. Đó là một bài học khó học nhưng rất cần thiết. Sau một thời gian, khi chúng ta đă thật sự học được cách suy nghĩ tới hậu quả của điều ḿnh làm th́ chúng ta ắt thấy rằng chỉ những hành động tử tế và hữu ích th́ mới đáng làm. Nói cách khác, chúng ta ắt thấy rằng việc phục vụ những người khác có nghĩa là hạnh phúc lớn nhất cho bản thân chúng ta và đó là bài học mà Thánh đạo liên tục gây ấn tượng lên chúng ta.

 

CHƯƠNG XXI

SỰ THỬ THÁCH CỦA T̀NH THƯƠNG

Những nhận xét của Chơn sư đối với điều mê tín dị đoan là cực kỳ quan trọng vào lúc này. Chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng khi trông ngóng sự giáng lâm của Đức Chưởng Giáo vĩ đại th́ chúng ta đang trông ngóng sự phục lâm của Đấng sẽ dẫn nhập một Thời đại mới để thế chỗ cho Thời đại cũ đă lỗi thời. Thật vậy, ngay cả giữa cuộc Đại chiến này th́ v́ chúng ta đang ở giữa cuộc Đại chiến đó cho nên chúng ta đang thẩm định cái loại cuộc sống mà chúng ta thường sống theo. Chúng ta đang học cái bài học mà Chơn sư nêu rơ trong phần trước kia của quyển sách khi Ngài bảo rằng “nghiệp báo không đếm xỉa tới tập tục”. Chúng ta thấy rằng có sự thật sâu sắc hơn nhiều trong câu châm ngôn pháp lư theo đó việc không biết luật không phải là cớ để phạm luật, điều này nhiều hơn mức mà ta sẵn ḷng thừa nhận cho đến nay. Ta thấy vô minh và sự thờ ơ là những khuyết điểm gây chết người. Chiến tranh đă dạy chúng ta bài học này. Chiến tranh đă dạy chúng ta rằng cuộc đời của mọi công dân cho dù tầm thường đến đâu đi nữa cũng đều có giá trị đối với nhà nước và chúng ta không thể không biết tới hoặc thờ ơ với cái loại cuộc sống mà y sống theo bằng không th́ ta sẽ gây nguy hại cho phúc lợi của cộng đồng. Chúng ta đă phát hiện ra rằng cho tới nay vô số tập tục dường như ít gây hại th́ thật ra lại được coi là có hại khi ta làm nổi bật nó lên trong bối cảnh của một sự khẩn cấp vĩ đại. Chúng ta bắt đầu nhận ra rằng không được để cho người giàu và người nghèo sống lẫn lộn với nhau khi người nghèo căm ghét sự xa hoa của người giàu c̣n người giàu th́ khinh bỉ sự vật lộn đấu tranh của người nghèo. Chúng ta phải mất nhiều thời gian mới nêu rơ được bản chất của mối quan hệ chân chính giữa đôi bên, nhưng rốt cuộc chúng ta lại chống đối với vấn đề đó v́ trong nỗi đau của quốc gia th́ người nghèo cũng tỏ ra chẳng có ǵ được an ủi hơn người giàu. Chúng ta bắt đầu hiểu ra được rằng phải chấm dứt sự thống trị của bạo lực cùng với nó là niềm mê tín cho rằng phụ nữ vốn thấp kém hơn đàn ông. Trong nỗi đau của quốc gia chúng ta mới thấy được phụ nữ cũng là cần thiết và chúng ta bắt buộc kết luận rằng phải có quyền b́nh đẳng của mọi công dân v́ quốc gia đ̣i hỏi một việc phụng sự thỏa đáng của mỗi người. Vận mệnh của nhà nước nằm trong tay của nam phụ lăo ấu và những bậc trưởng thượng phải cùng nhau xác định điều kiện để cho tuổi trẻ của quốc gia tăng trưởng lên tới mức trưởng thành. Hơn nữa, chúng ta đang bắt đầu nhận ra được rằng sự khác nhau về đức tin tôn giáo không chối bỏ sự đồng nhất về mục tiêu, sự khác nhau về màu da không có nghĩa là khác nhau về phẩm chất. Nói tóm lại, chúng ta từng bước làm lung lay một số điều mê tín dị đoan giờ đây đang chắn đường giữa chúng ta với việc nhận ra t́nh huynh đệ chung của loài người. Chỉ nội cái từ “mê tín dị đoan” cũng gợi ư rằng chúng ta vẫn c̣n bị chế ngự và chúng ta phải vượt lên trên những nấc thang thấp thỏi của cái thang tiến hóa mà chúng ta đang từ từ leo lên.

 

MÊ TÍN DỊ ĐOAN GÂY RA SỰ ĐỘC ÁC

Tuy nhiên bạn và tôi vốn là những kẻ dự bị trong đạo tràng của Chơn sư để phụng sự thế gian th́ phải có một sự phân biện thậm chí phải sâu sắc hơn giữa điều cốt yếu và điều không cốt yếu. Nếu là muốn học cách lănh đạo th́ chúng ta không được để cho ḿnh bị lọt thỏm vào trong đám đông: chúng ta phải vạch đường đi qua đó sao cho đám đông có thể thấy được chúng ta. Chơn sư đặc biệt thu hút sự chú ư tới những điều mê tín dị đoan mà bạn ắt nhận thấy rằng gây ra sự độc ác. Mọi điều mê tín dị đoan đều ít nhiều gây ra sự độc ác, nhưng có vài điều mê tín dị đoan mà chúng ta phải có thể dẹp bỏ được ngay. Điều mê tín dị đoan cho rằng phụ nữ không bằng đàn ông gây ra sự độc ác nhất định đối với nhà nước và chúng ta phải chống lại nó cho dù chúng ta không thể hủy bỏ được nó ngay tức khắc. Hơn nữa, sự độc ác hiến tế thú vật trong các nghi lễ tôn giáo và “sự mê tín dị đoan c̣n độc ác hơn nữa là con người cần ăn thịt”, đó là sự mê tín dị đoan mà cá nhân chúng ta cần bàn tới. Chắc chắn là một vài nơi thuộc Ấn Độ có phong tục hiến tế súc vật trong những nghi lễ tôn giáo. Tập tục ở nhiều nơi trên thế giới là người ta thường ăn thịt. Nhưng những kẻ đang cố gắng tránh bị mù quáng bởi tập tục đều cố gắng nh́n trực diện vào mỗi thói quen để tự ḿnh phán đoán xem liệu thói quen có đúng cho ḿnh chăng. Bạn nên nhớ Chơn sư có dạy rằng: “Cho dù một ngàn người đồng ư với nhau về một đề tài, nếu họ chẳng biết ǵ về đề tài đó, th́ ư kiến của họ là không có giá trị”. Hàng triệu người đều đồng ư rằng ăn thịt là hợp lư và có thể là cần thiết. Nhưng bạn và tôi phải tự hỏi: “Có thật thế chăng ?” Đừng bao giờ thắc mắc xem đối với những người khác nó có cần thiết hoặc hợp lư chăng; bổn phận của chúng ta trong lúc này là quyết định xem liệu nó có cần thiết hoặc hợp lư cho chúng ta chăng. Theo huấn lệnh của Chơn sư về đề tài này th́ chúng ta biết rằng nó không phải như thế.

 

CHÚ Ư TỚI CÁC NGUYÊN TẮC

Khi tôi viết ra những lời lẽ này, tôi đang nghĩ tới một trăm lẻ một lập luận mà  người ta vận dụng để viện cớ cho việc ḿnh không quan tâm tới huấn lệnh của Chơn sư. Hầu hết mọi người muốn trở thành đệ tử dự bị trong đạo tràng Chơn sư nhưng đồng thời lại né tránh mọi sự rèn luyện. Họ muốn trở thành lực sĩ mà thậm chí không phải chịu một kỷ luật thể xác nào và họ thật là ngây ngô khi tưởng tượng rằng ḿnh v́ có thể viện cớ không phải trải qua một kỷ luật nào đó, th́ kết quả vẫn y như thế dường như thể họ đă tự rèn luyện và tuân theo kỷ luật rồi. Họ bảo bạn rằng ăn chay rất tốt cho những người có hoàn cảnh thuận lợi, nhưng có những cơ hội mà việc tuân theo tập tục thông thường ắt là khôn ngoan hơn và có lẽ là tốt hơn để làm được việc. Thế mà tôi đâu có lúc nào cũng chối bỏ việc có những thời kỳ khủng hoảng trong đó ta cần tuân theo tập tục. Tôi có nghe bà Besant dạy rằng cho dù một cá nhân không ưa việc chủng ngừa đến đâu đi nữa th́ y cũng không được khôn ngoan lắm khi để cho sự không ưa đó ngăn cản y làm bổn phận của ḿnh đối với xứ sở trong lúc cần thiết khẩn cấp. Nếu nhà cầm quyền cứ khăng khăng đ̣i chích ngừa th́ tốt hơn là y nên để cho họ chích ngừa. Nói cách khác, có những lúc cực điểm mà người ta phải hi sinh những sự ưa thích cá nhân thậm chí một vài nguyên tắc thứ yếu (những nguyên tắc mà v́ thế gian c̣n quá trẻ nên không hiểu nỗi) v́ ích lợi chung và để bảo tồn những nguyên tắc lớn hơn. Người ta phải vui ḷng đối diện với những điều bất lợi khả dĩ do bởi việc lơ là một vài nguyên tắc sống để cho người ta có thể tự do thích ứng với kế hoạch mà tổ quốc đă hoạch định bảo vệ cho ḿnh. Bản thân các giới hạ đẳng có thể tạm thời phải chịu rắc rối và bất hạnh v́ ích lợi duy tŕ những nguyên tắc cốt yếu mà vào lúc đó chỉ có thể được bảo tồn theo những cách thức thế giới có thể hiểu được và tin cậy được.

Nhưng nói chung th́ có những lúc tương đối b́nh thường. Theo thông lệ th́ tốt hơn là cá nhân nên sống một cuộc sống cá thể càng thanh khiết càng tốt. Chỉ trong những diễn biến cực điểm th́ y mới phải ḥa lẫn cá tính của ḿnh và những nguyên tắc cá biệt của ḿnh vào trong cộng đồng chung. Chắc chắn là khi Chiến tranh đă trôi qua th́ mỗi người trong chúng ta tha thiết muốn là đệ tử dự bị đều phải cố gắng tŕnh bày với thế gian cách thức sống một cuộc đời cá biệt. Những người nào vẫn c̣n tham gia vào những nghi lễ tôn giáo (hoặc là v́ họ c̣n cần tới chúng hoặc v́ họ cần phải nêu gương cho những huynh đệ yếu kém hơn) nên quyết tâm khởi sự bằng bất cứ giá nào chống lại việc tham dự vào hoặc khuyến khích những nghi thức hiến tế. Cũng vậy, họ nên ăn chay. Chắc chắn việc ăn chay rất bất tiện. Người ta thường bảo rằng việc ăn chay khiến cho họ không có những thú vị trong cuộc sống và lại làm phiền chủ nhà. Điều này có thể đúng. Nhưng chắc chắn chúng ta không có quyền gây đau khổ cho một số bạn của ḿnh để tránh sự bất tiện cho những người khác. Chắc chắn là rất phiền hà cho những chủ nhà c̣n ăn thịt, nếu chúng ta lấy làm tiếc mà tŕnh bày việc ḿnh không thể ăn thịt, đặc biệt là nếu không có món ăn nào khác thích hợp được dọn ra. Nhưng người ta phải có một vài nguyên tắc ứng xử và nếu chúng ta muốn là đệ tử dự bị của Chơn sư th́ chúng ta phải có những nguyên tắc ứng xử ở giai đoạn tiên tiến hơn những nguyên tắc dẫn dắt thế gian. Chúng ta biết rằng trong một tương lai tương đối ngắn nữa, th́ trọn cả thế giới sẽ ăn chay (Xem quyển Con Người từ đâu đến, đang sống ra sao và sẽ đi về đâu) và tốt hơn là chúng ta nên có đặc quyền dẫn đường khi nhận ra rằng việc lănh đạo tất nhiên phải đ̣i hỏi sự hi sinh. Có một số người điên rồ bảo bạn rằng người ăn chay không nên ăn rau cỏ v́ đó là các sinh linh. Thật là kỳ lạ khi những người không có nguyên tắc đặc biệt nào về vấn đề này mà lại muốn ép người khác đi đến mức cực đoan về vấn đề nguyên tắc đó. Bản thân họ vốn chẳng có nguyên tắc mà họ lại khăng khăng buộc chúng ta phải thực hành nguyên tắc của ḿnh đến mức không thể làm được. Về vấn đề này, thái độ phải chăng là duy tŕ mạng sống của ḿnh nhờ vào mang sống có mức độ hữu t́nh kém nhất. Nếu chúng ta có thể ăn được đất đá th́ có lẽ tốt hơn v́ đất đá có mức độ hữu t́nh kém hơn cây cỏ. Nhưng cho đến nay đất đá tỏ ra không đủ sức cấp dưỡng, do đó bắt buộc chúng ta phải tiến thêm một bước nữa. Tôi biết rằng cỏ cây là loài hữu t́nh nhưng mức độ hữu t́nh của chúng thuộc loại khác hẳn mức độ hữu t́nh của thú vật.

 

CÁC GIAI CẤP BỊ ÁP BỨC

Thế rồi Chơn sư đề cập tới Ấn Độ và khiển trách việc “đối xử sao cho sự mê tín dị đoan giáng xuống các giai cấp bị áp bức ở Ấn Độ thân thương”. Ngài nhận xét rằng: “Hăy xem ở đó cái tính cách độc ác ấy có thể gây ra sự độc ác tàn nhẫn ngay cả trong số những người có biết về bổn phận t́nh huynh đệ”. Những người trong các bạn ít biết về Ấn Độ ắt không thể biết được theo quan điểm huyền bí học th́ nhiều điều đau khổ ở Ấn Độ được trực tiếp qui cho việc nó đối xử với những người thuộc dân tộc ḿnh mà lại ở ngoài ṿng giai cấp Ấn Độ, coi họ là “những kẻ tiện dân” thế nhưng lại không cắn rứt lương tâm khi bắt những người đó phục vụ một cách hèn hạ nhất. Nói cách khác, trong khi khinh bỉ họ th́ Ấn Độ lại tận dụng họ. Một thái độ như thế là một trong những tội ác lớn nhất chống lại tính cách Cha lành của Thượng Đế và t́nh huynh đệ của con người. Nhưng nên nhớ rằng mọi xứ sở đều có những giai cấp áp bức – những người bị quyền lực đàn áp dưới mọi dạng. Ở đâu đâu th́ người nghèo cũng bị áp bức. Tất cả đều do sự kiện là trong nền văn minh ngày nay của chúng ta có sống c̣n óc bạo lực. Con người cai trị v́ y mạnh hơn về thể chất chứ không v́ lư do nào khác. Kết quả là có những giai cấp bị áp bức. Nếu phụ nữ được liên kết với nam giới th́ vấn đề các giai cấp bị áp bức chẳng bao lâu sau sẽ biến mất. Có điều là trong khi chính phụ nữ c̣n tạo thành một giai cấp bị áp bức th́ chúng ta chẳng thể làm được ǵ. Cá nhân tôi cảm thấy rằng nếu chúng ta đề cập tới vấn đề các giai cấp bị áp bức th́ trước hết chúng ta phải thừa nhận rằng chúng ta không thể làm ǵ nếu không đối xử b́nh đẳng với phụ nữ. Có hai lộ tŕnh mở ra. Hoặc là con người có ư thức công nhận rằng ḿnh đang dùng bạo lực và sự cai trị chân chính không thể có được nếu không có sự hợp tác của phụ nữ; hoặc là người ta cố gắng giữ cho phụ nữ không tham gia vào bổn phận đối với xă hội. Nếu lộ tŕnh sau này mà cứ bị đeo đuổi măi th́ thế giới sẽ chuyển sang một thời kỳ khác đau khổ khủng khiếp v́ quyền đầu phiếu của phụ nữ không dựa vào nền tảng đối xử công b́nh với phụ nữ mà dựa vào nền tảng công b́nh đối với nhà nước. Phụ nữ chẳng những có quyền bỏ phiếu mà c̣n phải có bổn phận bỏ phiếu. Chúng ta phải đương đầu với những vấn đề này một cách minh bạch, giải thoát ḿnh khỏi sự mê tín dị đoan.

Chơn sư có dạy rằng: “Người ta đă phạm nhiều tội ác nhân danh Thượng Đế T́nh thương mà động cơ thúc đẩy chỉ là cơn ác mộng mê tín dị đoan này; v́ vậy con nên rất cẩn thận đừng để cho một chút dấu vết nào của nó tồn đọng nơi con”. Khi bạn đọc thấy câu đó hăy nghĩ tới Ṭa án Tôn giáo, nghĩ tới những điều độc ác ở địa phương bạn sinh sôi nảy nở do giả sử được phê chuẩn bởi thói quen, tập tục, nhu cầu. Hăy nghĩ tới đủ thứ điều ác độc mà người ta làm ra lấy cớ là không thể tránh được. Bạn ắt nhớ điều mà Chơn sư đă dạy về những người giải phẫu sinh vật và những thầy giáo dùng roi vọt đánh học tṛ. Thế rồi bạn hăy tự nhủ là ḿnh nên tránh mọi điều độc ác có thể được và bạn ắt thấy rằng có rất nhiều điều cần phải từ bỏ. Chơn sư tổng kết lập trường rất hay ho khi Ngài dạy chúng ta tránh phạm tội chống lại t́nh thương. Đây thực sự là trọn cả mọi chuyện. Chúng ta thường bị cám dỗ để nghĩ rằng tất yếu phải độc ác với bộ phận bản ngă lớn hơn để bảo tồn bộ phận bản ngă nhỏ hơn. Chúng ta nghĩ rằng ḿnh phải sống dù phải gây thiệt hại cho những người khác – tôi có ư muốn nói với cái giá phải trả là người khác chịu đau khổ. Một thái độ như thế là kết quả của việc đề cao cá nhân như là đối tượng tối thượng để sùng bái. Tuy nhiên chúng ta phải nhớ rằng gia đ́nh là đơn vị của sự sống chứ không phải cá nhân là đơn vị đó; và nhiệm vụ của ta là trong mức độ chúng ta có thể sống một cuộc đời bác ái trong môi trường nhỏ bé th́ dần dần chúng ta mới học được cách mở rộng nó ra cho trọn cả quốc gia.

 

Ư MUỐN PHỤNG SỰ MĂNH LIỆT

Chơn sư dạy “con phải tích cực làm điều thiện. Con phải tràn đầy ư muốn phụng sự mănh liệt đến nỗi lúc nào con cũng cảnh giác phụng sự những người xung quanh ḿnh chẳng những là con người mà c̣n cho loài vật và cây cỏ nữa. Mỗi ngày con phải phụng sự những chuyện nhỏ nhặt để tạo thành thói quen sao cho con không bỏ lỡ cơ hội hiếm hoi khi có chuyện lớn lao cần phải được thực hiện. Đó là v́ con muốn hiệp nhất với Thượng Đế th́ điều đó không phải v́ lợi ích của riêng ḿnh mà v́ nhờ thế con có thể trở thành một phương tiện thông qua đó t́nh thương của Thượng Đế có thể tuôn chảy tới đồng loại của con”. Tôi nghĩ rằng bạn nên chép lại đoạn này treo nó ngay trước giường ngủ của ḿnh sao cho bạn có thể thấy nó khi thức dậy vào buổi sáng. Trong cụm từ “ư muốn phụng sự mănh liệt” ta thấy có điều kiện mạnh mẽ nhất để được nhận vào đạo tràng của Chơn sư. Cường độ càng sắc sảo th́ càng chắc chắn được nhận vào, và có thể nói là kẻ nào hăm hở muốn phụng sự mănh liệt và do đó sẵn ḷng đi tới bất cứ nơi đâu, làm bất cứ điều ǵ th́ kẻ đó đang ở ngưỡng cửa để được thu nhận. Chính cái sự tha thiết đó là thần lực mà Chơn sư có thể sử dụng để giúp đỡ cho thế gian và nó cũng là phương tiện giúp cho đệ tử xa ĺa mọi điều khiếm khuyết khiến cho y không thể tiến bộ và hữu ích trên thế gian. Bạn biết người ta thường bảo rằng muốn bỏ đi một điều khiếm khuyết th́ cần phải có một mục tiêu đủ mạnh để thu hút sự chú ư ra khỏi điều khiếm khuyết. Sự chú ư là thực phẩm tạo ra mội trường sinh sôi nảy nở cho cả các đức tính lẫn các nhược điểm. Nếu bạn muốn bỏ đi một nhược điểm th́ hăy phấn đấu bỏ đói nhược điểm đó bằng cách không chú ư tới nó nữa. Nếu bạn muốn củng cố một đức tính th́ cần phải nuôi dưỡng nó bằng sự chú ư. Tôi tin rằng theo quan điểm của Chơn sư th́ vấn đề không phải là liệu một cá nhân có thoát khỏi mọi khuyết điểm hay chăng mà là liệu y có nốt chủ âm đủ mạnh hay chăng để ít ra về lâu về dài sẽ tập trung được chú ư vào đó gây khó khăn cho việc phát triển khiếm khuyết. Nếu được phép minh họa cá nhân th́ tôi xin bảo rằng sự tự chủ mà tôi có được phần lớn là do sự chú tâm áp đảo tới khoa học giáo dục. Tôi có một ham muốn mănh liệt cho một kiếp sống tương lai nào đó sẽ trở thành một bậc thầy vĩ đại và một đấng có thẩm quyền lớn lao về phương pháp và những nguyên tắc giáo dục. Tôi biết rằng một vài khuyết điểm mà tôi hiện có cản đường ḿnh thành tựu những hi vọng đó. Tôi đùa giỡn với những khuyết điểm của ḿnh ít hơn mức có thể được v́ việc tôi muốn trở thành một bậc thầy chân chính đ̣i hỏi nhiều thực phẩm chú ư đến nỗi không dành nhiều sự chú ư cho các khuyết điểm và do đó chúng ít nhiều không được chú ư, thế là chúng bị bỏ đói và cuối cùng phải bị chết đi. Nếu bạn có một ham muốn vĩ đại và cao thượng th́ nó sẽ đ̣i hỏi thực phẩm là sự chú tâm. Nó càng mạnh th́ càng đ̣i hỏi thêm thực phẩm và v́ bạn chỉ có một số lượng thực phẩm nào đó để sử dụng dưới dạng sự chú tâm, cho nên bạn tất yếu phải bỏ đói một thứ ǵ đó, và bạn ắt bỏ đói những khuyết điểm của ḿnh v́ sự bảo tồn chính ḿnh – dùng từ “chính ḿnh” theo nghĩa là “Chơn ngă” – đ̣i hỏi rằng các khuyết điểm phải bị dồn vào ngơ bí.

 

CHƯƠNG XXII

SỰ TĂNG TRƯỞNG CỦA T̀NH THƯƠNG

Chơn sư muốn chúng ta tích cực chứ không tiêu cực. Ngài mong rằng chúng ta lúc nào cũng tràn đầy cái lực yêu thương túa ra bên ngoài với biểu hiện thành “ham muốn phụng sự mănh liệt”. Tôi tự hỏi liệu bạn đă có thấy cái tiêu ngữ hay ho mà bà Besant dành cho Nhóm Phụng sự của Hội Thông Thiên Học. Bà bảo rằng Nhóm này phải là “một hội đoàn những người thích phụng sự cho tất cả những kẻ đau khổ” và nếu bạn đi vào pḥng của bà ở Tổng Hành Dinh tại Adyar th́ bạn ắt thấy tiêu ngữ này nơi trước bàn làm việc của bà. Mới ngày hôm bữa, bà c̣n bảo tôi rằng bà nghĩ đó là một trong những tiêu ngữ hữu ích nhất mà ta có được v́ nó tổng kết tinh thần mà chúng ta nên sống theo đó. Tuy nhiên bạn phải nhớ rằng cụm từ “tất cả những kẻ đau khổ” bao gồm mọi sinh linh chứ không phải chỉ là loài người. Chơn sư có dạy rằng “Con phải luôn luôn tỉnh táo phụng sự mọi thứ xung quanh ḿnh không phải chỉ là con người thôi mà c̣n là con thú và cây cỏ nữa”. Trong thế giới hiện đại có một sự ngăn cách sâu sắc giữa giới nhân loại và những giới dưới nó. Chúng ta quá tha thiết hiệp nhất với giới cao và ưa tưởng tượng rằng có thể đạt tới giới cao bằng cách trèo lên trên các giới thấp. Chúng ta nghĩ tới sự tiến bộ của riêng ḿnh hoặc sự tiến hóa của cá nhân ḿnh dường như thể ta có thể hoàn thành được điều đó độc lập với phần c̣n lại của thế giới. Chúng ta nghĩ rằng theo quan điểm thế tục, nếu chúng ta tránh vi phạm một vài qui tắc đạo đức th́ chúng ta sẽ bỏ qua cho mọi việc sai trái tất yếu và thế là chúng ta đă tôn kính Thượng Đế. Ngài rất hào phóng với chúng ta nhưng trong lúc này tôi không dám nói rằng thái độ này không phải là một giai đoạn tiến hóa cần thiết. Ư tưởng cứu chuộc cá nhân có vai tṛ trong sự tăng trưởng tiến lên v́ nó giúp cho chúng ta thực chứng được chính ḿnh và chúng ta không thể thực chứng được sự đơn nhất lớn lao bên ngoài ḿnh nếu chúng ta chưa nhận ra được bản thân là những cá thể trong một mức độ rất lớn lao. Đây là giá trị của sự cạnh tranh và của nhiều dạng hoạt động và tăng trưởng cá thể khác mà xét theo một vài quan điểm th́ dường như gây phẩn nộ xiết bao. Nhưng thế giới đang tăng trưởng nhờ vào sự cạnh tranh. Cuộc Thế chiến năm 1914 đă nổi lên hồi chuông báo tử cho sự cạnh tranh và báo điềm sự phục lâm của t́nh huynh đệ. Chúng ta vốn thuộc vào thời đại mới th́ phải sống với giáo huấn thời đại mới. Chúng ta phải cố gắng hiểu được rằng quá tŕnh tiến hóa là sự mở rộng dần dần năng lực yêu thương của ḿnh. Có một số người chỉ yêu thương bản thân và mặc dù thế giới đă đạt tới giai đoạn có thể gọi t́nh yêu đó là ích kỷ, nhưng ta phải nhớ rằng t́nh yêu nhân loại phải bắt đầu nơi căn nhà nhỏ bé của bản ngă cá biệt. Một số người yêu thương gia đ́nh ḿnh. Đây là một dạng t́nh thương mở rộng hơn. Những người khác có thể yêu thương cộng đồng mà họ thuộc về. Những người khác có thể yêu thương quốc gia. Tất cả đều chỉ là giai đoạn và giai đoạn lớn hơn bao trùm giai đoạn nhỏ hơn. Cuối cùng có những người vĩ đại yêu thương trọn cả nhân loại, yêu thương trọn cả thế giới v́ tất cả đều là biểu hiện của Thượng Đế. Nhưng những người yêu thương nhân loại là những người ái quốc tốt hơn v́ họ có t́nh thương rộng lớn hơn. Kẻ ái quốc là một người yêu thương cộng đồng tốt hơn so với cá nhân mà cảm t́nh không vượt quá giai cấp đặc thù ḿnh thuộc vào đó. Và cứ như thế tính xuống tiếp. Chơn sư, vốn yêu thương trọn cả thế giới, c̣n yêu thương cá nhân nhiều hơn nữa, Ngài không hề bỏ qua cá nhân vốn bị đắm ch́m trong t́nh thương rộng lớn hơn. Tôi nhấn mạnh tới điều này (kẻo thiên hạ sẽ nghĩ rằng tất yếu họ sẽ nghĩ thế), một t́nh yêu cho toàn thể thế giới là một điều ǵ đó lạnh lùng và không hấp dẫn. Họ tưởng tượng rằng một cá thể như thế phải bỏ qua gia đ́nh, không c̣n chú ư tới nó nữa, không c̣n là một thành viên yêu thương của nó nữa, để cho trải qua những giai đoạn sơ khai nhằm phát triển t́nh thương của ḿnh trong cộng đồng đó. Quả thật là những người mới lần đầu tiên bắt đầu yêu thương nhân loại thường có khuynh hướng quên đi tập thể nhỏ hơn khi háo hức với t́nh thương đối với tập thể lớn hơn. Điều này cũng tự nhiên thôi. Một đứa trẻ có thể vứt đi một đồ chơi cũ v́ đă có một đồ chơi mới đẹp hơn. Khi nó lớn lên, nhất là khi nó già rồi th́ ngay cả những đồ chơi thời thơ ấu lại một lần nữa trở nên thân thương đối với nó. Và như vậy trong khi chúng ta thấy trên thế giới cái điều dị thường kỳ lạ là những người yêu thương trọn cả thế giới thường lơ là với gia đ́nh ngay cận kề ḿnh, th́ điều này không có nghĩa là t́nh thương dành cho thế giới tất yếu đ̣i hỏi phải bỏ đi mọi cảm t́nh nhỏ hơn. Việc từ bỏ nhất thời chỉ là do nhất thời thiếu khả năng thích ứng. Chẳng hạn như xét trường hợp Jean Jacques Rousseau. Lịch sử cho chúng ta biết rằng ông hoàn toàn bỏ bê con cái, thế mà ông lại viết quyển Amiel xét về nhiều mặt tŕnh bày tuyệt vời cách thức nuôi dạy con trẻ. Kẻ có đầu óc hời hợt ắt bảo rằng Amiel chẳng có giá trị ǵ v́ chính cuộc đời ông đă làm ngược lại cái thuyết mà ông xiển dương trong tác phẩm của ḿnh. Sự thật là Rousseau đang ở giai đoạn sơ khai của một t́nh thương rộng lớn hơn. Trong khi cố gắng lĩnh hội những nguyên lư lớn hơn th́ ông nhất thời bỏ bê những nguyên lư nhỏ hơn. Chỉ nội trong một vài kiếp, Rousseau ắt sẽ nhận ra được rằng t́nh thương tổng thể vốn dựa trên t́nh thương của các phần tử cấu thành và mọi thuyết của ông sẽ không thật sự đúng đắn nếu ông không vận dụng được chúng vào sinh hoạt hằng ngày.

 

NHU CẦU HIỂU BIẾT

Như vậy chúng ta thấy sự tiến hóa phức tạp xiết bao và nhất là chúng ta nhận ra được ḿnh có quá ít lư do để xét đoán người khác. Cách cư xử của người khác thường bị chúng ta coi là không khôn ngoan hoặc sai trái và chúng ta nhao nhao lên chỉ trích. Chỉ trích cũng chẳng ăn nhằm bao nhiêu nếu chúng ta không dùng nó để cảnh tỉnh chính ḿnh đừng đi vào vết xe đổ ấy, nhưng chúng ta thường dùng sự chỉ trích làm cây gậy để quật vào những người mà ḿnh chỉ trích. Thế nhưng chúng ta đâu phải là nhà tâm lư học chân chính. Chơn sư có dạy rằng: “Đừng bao giờ gán động cơ thúc đẩy cho người khác, chỉ sư phụ của y mới biết được khuyết điểm của y và y có thể hành động v́ những lư do mà con chẳng bao giờ nghĩ ra nỗi”. Mọi cá thể đều là một mớ guồng máy cực kỳ phức tạp. Chúng ta thấy hiểu được bản thân ḿnh đă đủ khó rồi. Cho nên ta không thể hiểu người khác; ta chỉ có thể cố gắng đồng cảm với họ và giúp đỡ họ. Chơn sư nêu rơ điều này khi Ngài dạy rằng: “Mỗi linh hồn đều có những rắc rối của riêng ḿnh và tư tưởng của nó chủ yếu là cứ quay ṿng ṿng xung quanh nó”. Tôi nghĩ rằng quả thật khi chúng ta cảm thấy muốn kết án người khác th́ chắc chắn là có những trường hợp giảm khinh hoặc đáng giải thích mà chúng ta tuyệt nhiên không biết ǵ hết. Một thái độ nhỏ nhặt vô nghĩa vào một lúc đặc biệt nào đó tự thân nó có thể khiến cho tâm trí chúng ta phải chỉ trích, nhưng có lẽ là cái thái độ nhỏ nhặt đó có những nguyên nhân (có thể ở trong quá khứ xa xăm) mà chúng ta chẳng hề quan niệm nỗi. Tôi không đủ chỗ để minh họa điều này, nhưng bạn có thể triển khai nó ra cho chính ḿnh. Dù sao đi nữa bạn nên nhớ rơ rằng mỗi khi bạn chỉ trích hoặc suy nghĩ một cách không tử tế th́ bạn hầu như chắc chắn là không công bằng.

Và nếu bạn không công bằng với những kẻ thuộc về cùng một giới như ḿnh th́ bạn sẽ không công bằng hơn nữa đối với những thành viên trong gia đ́nh Thượng Đế vốn c̣n khó hiểu hơn nữa. Sự bơ vơ biểu kiến của loài thú vật và cây cỏ đă khiến cho chúng ta lợi dụng chúng, và tưởng tượng rằng v́ chúng bơ vơ cho nên chúng ta có quyền muốn đối xử với chúng ra sao cũng được. Thái độ này là phản ánh của óc cá nhân chủ nghĩa vốn đă hoành hành biết bao nhiêu năm ở nhiều nơi trên thế giới. “Kẻ yếu nhất bị dồn vào ngơ bí” là nguyên tắc cư xử của đại đa số mọi người, thế là loài thú vật và cây cỏ cũng chịu đau khổ tương ứng như thế. Chúng ta vốn có nguyện vọng phụng sự Chơn sư ắt phải nhớ rằng Thượng Đế cũng yêu thương mọi giới trong thiên quốc của ḿnh ngang nhau. Đă đến lúc mà loài thú vật và cây cỏ phải một lần nữa thân thiện với loài người. Có thể nói, loài thú nói chung biết được trong đám thuộc giới nhân loại ai là người đánh giá cao và yêu thương chúng. Nhưng việc nói là ngược đăi giới động vật đă tạo ra vực sâu ngăn cách giữa loài người và loài thú, cho nên thói quen của loài thú tất yếu phải là không tin cậy đối với bậc đàn anh lỗi đạo. Nhưng khi tinh thần huynh đệ bắt đầu thấm nhuần giới nhân loại th́ chúng ta có thể hi vọng rằng nó sẽ bắc cầu qua vực thẳm này và thu hút các giới đang giao chiến với nhau nhập vào một liên minh tương tự như một liên minh giữa giới nhân loại và giới siêu nhân loại.

Đối với loài cây cỏ cũng thế. Nhiều người trong các bạn ắt đă nhận thấy rằng hoa và cây cối bị thu hút về phía một vài cá nhân. Cây cối mọc tươi tốt hơn do được chăm sóc bởi những người yêu thương chúng và tôi thường lưu ư thấy cây cối sống lâu hơn và chúng dường như hạnh phúc hơn khi ở cận kề ngay cạnh bà Besant. Thiên hạ đôi khi tặng hoa cho bà Besant và khi bà cài hoa lên y phục của ḿnh th́ hoa thường sống lâu hơn. Nói cách khác chúng đă t́m ra chỗ trú của ḿnh và hạnh phúc với chỗ trú ấy. Một ngày nào đó thế giới quả thật sẽ tươi đẹp v́ một ngày nào đó sẽ có sự hợp tác yêu thương giữa đủ mọi giới trong Thên nhiên, trong đó giới lăo thành sẽ làm bổn phận với giới trẻ trung hơn, và giới trẻ trung hơn sẽ hành động hợp tác yêu thương với giới lăo thành.

 

CHƯƠNG XXIII

T̀NH THƯƠNG VÀ PHỤNG SỰ

Chơn sư có nêu rơ rằng t́nh thương và phụng sự thật ra là những từ đồng nhất và có thể hoán chuyển được. Nếu chúng ta yêu thương Thượng Đế th́ chúng ta mong ước hiệp nhất với Ngài, nhưng Chơn sư có dạy rằng: “Nếu con mong ước hiệp nhất với Thượng Đế th́ đó không phải v́ lợi ích của riêng con, mà ấy là v́ để cho con có thể trở thành một phương tiện thông qua đó t́nh thương của Ngài có thể tuôn chảy đạt tới đồng loại của con”. Chính v́ thế mà Chơn sư dạy chúng ta rằng chúng ta phải yêu thương và do đó phụng sự tất cả những ǵ trên thế giới – loài người, loài thú và loài cây cỏ. Thật vậy chúng ta cũng phải phụng sự loài khoáng vật, mặc dù ư tưởng này dường như khá viễn vông. Nhưng mọi người nào thật sự yêu thương Thiên nhiên cũng đều biết tới bài học kỳ diệu mà giới khoáng vật dạy cho chúng ta. Do công tŕnh khảo cứu của nhà khoa học vĩ đại người Ấn Độ, ngài J. C. Bose, giờ đây chúng ta thừa biết khoáng vật cũng là các sinh linh, ngoài ra mọi người để ư đến Thiên nhiên đều biết tác dụng mà một phong cảnh đẹp gây cho con người. Sự hùng vĩ của phong cảnh núi non gây ấn tượng lên linh hồn cá nhân khiến cho kẻ yêu thiên nhiên cảm thấy sự đơn nhất ở mức độ rất rơ rệt. Quyền năng của Thượng Đế biểu lộ sâu sắc qua những kết quả gập ghềnh của những sự đảo lộn lớn lao, và biển cả tàn nhẫn nói lên Định luật khắc khe của Ngài. Nói theo giáo sự James th́ tiếng nói của đời sống vĩnh cửu có nghĩa là “nói qua mọi giới trong Thiên nhiên” và nhiệm vụ của chúng ta là phải nhờ t́nh thương và việc phụng sự để phát triển khả năng nghe được thông điệp của Thượng Đế qua đủ thứ giai đoạn phát triển T́nh thương thấm nhuần vạn vật của Ngài.

SỰ ĐƠN NHẤT SỐNG ĐỘNG

Những người nào có đặc quyền trải qua cuộc Điểm đạo lần thứ nhất đều biết được sự đơn nhất sống động trong một chừng mực nào đó. Ít ra th́ trong nhất thời họ cũng có thể ḥa lẫn bản thân với ngoại giới, và khi vong thân như thế họ có được một sự thoáng nh́n mong manh về h́nh ảnh Thượng Đế. Một người đă trải qua kinh nghiệm này bảo rằng:

Tôi không thể hoàn toàn giải thích cho bạn bản chất của kinh nghiệm mà tôi đă trải qua trên cơi Bồ Đề, nhưng tôi có thể kể cho bạn nghe những tác dụng sau đó của nó khi tôi trở lại với cái mà chúng ta gọi là tâm thức tỉnh táo. Khi tôi thức tỉnh dậy th́ tôi bị tràn ngập một xúc cảm thấy bản ngă ḿnh ḥa lẫn với ngoại giới dường như thể tôi bị phân phối ra thiên nhiên xung quanh ḿnh, do đó tâm thức tôi linh hoạt nơi mọi thứ xung quanh. Khi bước xuống giường đi ra cửa sổ, tôi nh́n xuống một khu vườn chanh đẹp đẽ mà các cây trong đó chín mọng những quả chanh. Khi tôi nh́n ra th́ trung tâm tâm thức của tôi dường như lan tỏa mở rộng ra sao cho tôi không chỉ là “tôi” nữa mà c̣n là vườn chanh cũng như người làm vườn lúc đó đang hái những quả chanh. Tôi dường như lan tỏa ra và luân phiên giữa ngoại giới với bản thân. Ba hồi tôi cảm thấy ḿnh là vườn chanh, ba hồi tôi co lại thành ra cái bản ngă thông thường của ḿnh, và tôi nhận ra rằng nhiệm vụ của ḿnh là phải sống, phải yêu thương và phụng sự măi cho tới ngày nào đó tâm thức ḿnh sẽ lan tỏa ra vạn vật xung quanh mà bản thân chỉ c̣n là một trung tâm điểm. Kỳ diệu thay, sự đồng nhất tức thời của bản thân tôi với vườn chanh hoàn chỉnh đến nỗi với tư cách là cây chanh, tôi dường như trải nghiệm cái sự nhức nhối nhỏ nhoi nhất khi những trái chanh bị bứt ra khỏi cành cây. Bằng một cách nào đó dường như có sự tội nghiệp, dường như thể tôi bị lấy điều mà tôi có quyền vui hưởng. Tôi đă sản sinh ra những trái chanh và chúng làm cho tôi đẹp đẽ. Chúng đă làm cho tôi hoàn chỉnh và có một chút đau khổ khi bị tước mất thành quả lao động của ḿnh. Khi trở lại với bản thân, tôi biết rằng cái cây chẳng nên tiếc nuối v́ những trái chanh là t́nh yêu và việc phụng sự của nó. Nhưng tôi cũng biết rằng không thể trông mong cái cây hoàn toàn nhận ra được điều này. Thế rồi tâm trí tôi lại thắc mắc liệu có ṣng phẳng chăng khi gây ra đau đớn cho cái cây. Tuy nhiên, tôi lại nhận ra rằng chỉ có như thế th́ cái cây mới học được thiên chức của ḿnh v́ cây cối cũng có thiên chức giống như con người, và một chút đau đớn mà cái cây phải chịu sẽ được đền đáp xứng đáng bằng ḷng biết ơn của những người đă học được cách suy tư sâu sắc. Điều này khiến tôi nhận ra được rằng chúng ta ắt trợ giúp cho các giới thấp trong Thiên nhiên nhiều hơn mức hiện tại nếu chúng ta chủ đích suy nghĩ tới chúng nhiều hơn mức hiện nay. Vào thời buổi hiện đại th́ hành vi tôn vinh cây chanh khi ăn một trái chanh nghe có vẻ phi lư, nhưng theo quan điểm của cái cây th́ chẳng có ǵ là phi lư hết. Ai mà biết liệu cái cây có sản sinh ra những quả trái tốt đẹp hơn mức hiện nay, và sẽ vui ḷng hiến dâng quả trái đó nếu chúng cảm thấy rằng nỗi đau chia ly chẳng qua chỉ là việc trả công trước cho một sự sống sung sức hơn được cấp dưỡng bằng sự biết ơn của con người ?

Tác giả tiếp tục đề tài này qua nhiều lối rẽ trong đó ông chứng tỏ cách thức trong khi sự đồng cảm bắt đầu bằng cách mô phỏng lại xúc cảm tức là cùng chia xẻ xúc cảm th́ sự đồng cảm chân chính lại có nghĩa là truyền thêm sức mạnh để chịu đựng. Đây quả thật là ư nghĩa của cả tính thương và phụng sự. Nhiệm vụ của chúng ta không phải là thường xuyên gánh đỡ gánh nặng của người khác mà nhân danh một sự đơn nhất chung chúng ta có bổn phận phải chia xẻ với những người khác sức mạnh giúp cho họ can đảm gánh chịu những rắc rối của chính ḿnh.

 

BẢN CHẤT CỦA SỰ TRẢI NGHIỆM

Chơn sư dạy rằng: “Kẻ nào bước trên Thánh đạo không sống v́ riêng ḿnh mà v́ những người khác, y đă quên mất bản thân để có thể phụng sự những người khác”. Ta hăy lưu ư cụm từ “y đă quên mất bản thân”, tôi cho rằng điều này có nghĩa là y đă học cách ḥa lẫn bản thân với những người khác. Chỉ bằng cách ḥa nhập bản thân với những người khác th́ y mới biết cách thông cảm với họ. Và điều này cho ta thấy giá trị của sự trải nghiệm cả cay đắng lẫn ngọt ngào. Ta không cần phải trải qua mọi kinh nghiệm có thể tưởng tượng được, cũng chẳng cần cá nhân ḿnh đồng cảm với cả thế  giới, nhưng ta cần làm quen với bản chất của cuộc trải nghiệm. Chúng ta phải trải nghiệm bản chất của kinh nghiệm đó mặc dù chúng ta tuyệt nhiên không cần phải sống qua mọi dạng kinh nghiệm khác nhau. Kinh nghiệm dạy cho ta những bài học theo nhiều cách khác nhau tùy theo các tính khí khác nhau và t́nh huống khác nhau của loài người cũng như các dạng biểu hiện khác của Thượng Đế. Khi chúng ta học được bài học này th́ chúng ta mới hiểu được quá tŕnh và chúng ta cũng chẳng khó khăn ǵ cũng nhận ra được quá tŕnh dưới các dạng kinh nghiệm khác mà bản thân chúng ta có thể không thực sự trải nghiệm. Những kinh nghiệm thực sự mà chúng ta đă nếm trải mang lại cho chúng ta cá tính, c̣n bản chất tinh hoa của những kinh nghiệm khác mang lại cho chúng ta tính đại đồng thế giới. Một sự phiền năo lớn lao có thể dạy cho chúng ta biết phiền năo thật sự là ǵ bất kể nó biểu hiện qua nhiều dạng khác nhau. Nếu chúng ta biết rút kinh nghiệm qua “những phiền năo của chính ḿnh” th́ chúng ta đă học được bài học “phiền năo” v́ nhờ vào phiền năo của ḿnh mà chúng ta học được về phiền năo rồi th́ chúng ta sẽ hiểu được phiền năo dưới đủ mọi dạng v́ chính sự sống đă tạo ra những dạng thức đó. Như vậy chúng ta phải luôn luôn cố gắng lập luận từ cá thể sang tổng thể. Khi sự rắc rối xảy ra cho chúng ta th́ chúng ta nên cộng đồng hóa xúc cảm của ḿnh và tự nhủ rằng các loại rắc rối khác cũng mang lại những xúc cảm đó cho những người khác. Chúng ta cũng nên nhận ra được rằng mọi sự khó khăn nho nhỏ mà chúng ta gặp phải và mọi cớ viện dẫn mà chúng ta dành cho bản thân đều có đối thể trong cuộc đời của những người khác. Nếu ta xúc phạm tới một người nào đó th́ ta thường có thể t́m ra được cớ và lư do để bào chữa. Mỗi người trong chúng ta đều có thể giải thích và khi giải thích chúng ta thấy hoặc là có lư do chính đáng hoặc ít ra là có trường hợp giảm khinh. Thật vậy, chúng ta luôn luôn đ̣i hỏi trong trường hợp ḿnh phải cân nhắc tới trường hợp giảm khinh th́ trong trường hợp những người khác cũng phải cân nhắc tới điều đó. Và chúng ta nên nhớ rằng nếu chúng ta yêu cầu người khác thông cảm th́ đến lượt ḿnh là cũng phải thông cảm với người khác. Nhưng tất nhiên phải có việc hiểu lầm người khác cũng như hiểu lầm chính ḿnh cho nên nói cách khác, nếu chúng ta không đóng góp được ǵ cho cái hạnh phúc toàn thể thế giới vốn đang trông mong phần đóng góp của chúng ta, th́ đến lượt ḿnh chúng ta cũng sẽ rất khó khăn mới nhận được cái phần chia xẻ mà bản thân chúng ta đang cần tới. Bạn có hiểu ngụ ư của tôi chăng ? Nếu bạn muốn được hạnh phúc th́ trước hết phải đóng góp vào cái kho hạnh phúc chung rồi nhiên hậu bạn mới rút hạnh phúc ra được từ đó. Bạn không thể hạnh phúc một cách độc lập. Chính v́ thế mà quyển Dưới Chơn Thầy có thể được coi là một “phúc âm hạnh phúc”, v́ đó là phúc âm về t́nh thương và phụng sự, và chỉ khi chúng ta yêu thương và phụng sự th́ chúng ta mới có được hạnh phúc lâu bền. Bạn ắt nhận thấy rằng Chơn sư có dạy kẻ nào bước trên Thánh đạo không sống v́ riêng ḿnh mà v́ những người khác. Chỉ dẫn của sự thật này vốn hiển nhiên qua những lời lẽ mà tôi đă trích dẫn từ kẻ chính ḿnh đang bước trên Thánh đạo. Y sống v́ những người khác do bởi y đă trải nghiệm được sự đơn nhất, và một khi người ta đă trải nghiệm sự đơn nhất th́ người ta không bao giờ quên nó được nữa mà theo thời gian sự đơn nhất đó phải càng ngày càng chế ngự được sinh hoạt hằng ngày. Chúng ta được dạy cho biết rằng vào một giai đoạn sau này quá tŕnh sẽ đảo ngược lại sao cho cá thể sẽ thu hút mọi thứ vào bản thân thay v́ cảm thấy bản thân ḥa lẫn vào ngoại giới. Tuy nhiên tôi không cần bàn tới điều này v́ có lẽ là đa số bạn đọc c̣n chưa trải nghiệm các giai đoạn đầu tiên mà tôi đă mô tả bản chất của nó.

“Y là một cây bút trong tay Thượng Đế mà tư tưởng Ngài có thể tuôn chảy qua đó t́m thấy cho ḿnh một biểu hiện dưới đây. Nếu không có cây bút th́ không thể biểu hiện ra được. Đồng thời y cũng là một ng̣i bút lửa sống động tỏa ra trên thế gian T́nh thương Thiêng liêng vốn tràn đầy tâm hồn ḿnh”. Qua những cụm từ huy hoàng này Chơn sư cho thấy bằng cách nào mà trong khi mỗi người trong chúng ta là một phương tiện biểu hiện thần lực Chơn sư th́ đồng thời chúng ta cũng là một suối nguồn cá thể cho nước hằng sống. Xuất phát từ biểu hiện tính đơn nhất của chúng ta th́ các nguyên khí thường hằng của Sự Sống Thiêng Liêng mới giáng trần, trong khi xuất phát từ tính cá biệt của chúng ta, các nguyên khí thiêng liêng này mới có được một vài dạng xác định nhờ đó chúng có thể dễ dàng được nhận ra bởi các cá thể vốn tự nhiên là đáp ứng với những dạng thức chuyên biệt mà chúng ta biểu hiện Sự Sống Nhất Như thông qua đó. Như vậy, chúng ta có thể hữu dụng theo hai cách. Chúng ta có thể hiến dâng cho thế gian cả phần vô sắc tướng lẫn phần sắc tướng. Mỗi một người trong chúng ta đều có phần đóng góp cá thể để tạo thành hạnh phúc của thế gian cũng như ít ra là trong một chừng mực nào đó có thể cống hiến một biểu hiện của những nguyên khí chung. Mỗi người trong chúng ta ít ra cũng có thể là một điều ǵ đó đối với trọn cả thế gian, nhưng với vai tṛ là các cá thể có một đường lối hoạt động đặc thù, chúng ta có thể là rất nhiều đối với một vài người.

 

CHƯƠNG XXIV

KẾT LUẬN

Khi dạy học tṛ, bà Besant nhấn mạnh tới các loại rèn luyện khác nhau mà chúng ta cần để phát triển toàn diện. Nếu chúng ta muốn bước trên đường Đạo thành công, th́ chẳng những chúng ta phải sử dụng và phát triển năng lực của ḿnh mà c̣n phải thay thế những nhược điểm của ḿnh bằng những ưu điểm. Trong hoàn cảnh b́nh thường bổn phận của một cá thể là đặc biệt chú ư tới những khía cạnh c̣n kém phát triển trong tính t́nh ḿnh sao cho y có thể dần dần đạt tới cái sự hoàn thiện toàn diện vốn đặc trưng xiết bao cho các Đấng đă đạt tới quả vị Chơn sư. Kẻ nào mạnh về ư chí nhưng yếu về minh triết chẳng hạn th́ phải phấn đấu để đạt minh triết. Kẻ nào có tri thức nhưng vẫn c̣n yếu kém về tính t́nh th́ phải củng cố ư chí sao cho ḿnh vận dụng được tri thức mà ḿnh đang có. Cũng vậy, đối với mọi đặc trưng và tính chất khác th́ sự tăng trưởng phải phấn đấu đến mức tối đa để đạt được một bản chất thăng bằng trong đó mọi đức tính đều biểu hiện ra được đến một mức nhất định nào đó trong khi những nhược điểm nhất định đă hoàn toàn thay thế bởi ưu điểm. Đây là điều mà ta ít nhiều ngụ ư qua cụm từ phát triển chung. Nó có tầm quan trọng cốt yếu đối với những người c̣n trẻ và có thể được diễn tả theo kiểu b́nh thường bằng cách phát biểu rằng phải có nền tảng vững chắc về tri thức tổng quát trước khi bắt đầu chuyên biệt hóa.

Mặt khác, mỗi cá thể đều có sự đóng góp chuyên biệt của riêng ḿnh cho sự tiến bộ của thế gian. Chúng ta được dạy bảo rằng Quần Tiên Hội vốn cai trị chúng ta được phân chia thành ba ngành hoạt động riêng biệt. Đại khái có ba bộ môn chính: cai trị, giáo huấn và tổ chức. Tuy mỗi bộ môn này có các chuyên gia ở cấp Chơn sư được rèn luyện đặc biệt để làm việc trong bộ môn mà ḿnh trực thuộc. Ta có thể nói một cách kính cẩn rằng mỗi Chơn sư chẳng những có một sự hoàn hảo toàn diện mà c̣n phát triển được bản chất ḿnh theo những huấn lệnh đặc thù của bản thể cá biệt của ḿnh. Âm nhạc của thế giới là một hài âm chứ không phải chỉ là một nốt nhạc. Chính vẻ đẹp của hài âm đó c̣n tùy thuộc vào nhiều sự khác nhau cấu tạo nên nó, miễn là mỗi nốt nhạc riêng biệt đều cùng cung bậc với cái thần của hài âm phối kết. Do đó trong khi mỗi một người trong chúng ta cần có được một sự phát triển toàn diện nhất là củng cố phần yếu kém của bản chất ḿnh th́ đồng thời chúng ta phải nhớ rằng với vai tṛ là cá nhân mỗi một người trong chúng ta phải có một thông điệp đặc biệt để cống hiến cho môi trường xung quanh. Trong ba bộ môn lớn – cai trị, giáo huấn và tổ chức – có nhiều loại công việc và không ai cảm thấy rằng ḿnh chẳng có thông điệp nào để cống hiến. Có thể là y chưa cống hiến được thông điệp của ḿnh, y chưa sẵn sàng chuyên biệt hóa cũng giống như đứa trẻ chưa sẵn sàng để chuyên biệt hóa. Nhưng một ngày nào đó y sẽ biết được công việc của ḿnh và nếu y nhận ra rằng ḿnh có những bổn phận chuyên biệt để hoàn thành th́ y sẽ chăm chú tới chúng và như vậy tăng trưởng nhanh hơn. Nhiều người đọc những trang này có thể cảm thấy rằng ḿnh thật sự cũng chẳng biết ḿnh thuộc về đường lối nào hoặc thuộc phân bộ chuyên biệt nào. Họ nên nhớ sự thật là họ quả thực có địa vị đặc biệt và chức năng chuyên biệt trong việc phụng sự thế gian và sớm muộn ǵ họ cũng sẽ tự ḿnh khám phá ra. Mỗi người trong chúng ta sẽ trở thành một chuyên gia trong tương lai gần hoặc tương lai xa, và chúng ta càng nhanh chóng học được cách thay đổi những thái cực của ḿnh, thay thế khuyết điểm bằng ưu điểm và đưa đủ thứ cấu tạo trong bản chất ḿnh trở nên quan hệ hài ḥa th́ chúng ta càng sớm phát hiện được địa vị chuyên biệt mà Thượng Đế đă biệt phái chúng ta đến đóng vai trong cuộc đời. Tôi không có chỗ để theo đuổi đề tài này thêm nữa và tôi cũng không gợi ư tỉ mỉ làm thế nào mà tôi thấy dường như các phân bộ lớn đang biểu hiện qua nhiều cách khác nhau. Nhưng tôi tin rằng nếu chúng ta nh́n xung quanh ḿnh một cách thông minh, th́ chúng ta có thể bắt đầu thấy những người mà chúng ta biết rơ đang dần dần được lọc lựa ra nhập vào phân bộ nào. Thoạt tiên chúng ta thường sai lầm hơn là đúng, nhưng khi chúng ta có thêm kinh nghiệm th́ mức độ chính xác khi xét đoán sẽ gia tăng. Tôi xin nói thêm lời cuối cùng về đề tài này là nếu tôi học tập đúng đắn th́ sự chuyên biệt hóa mà tôi nói đến ắt sẽ mở rộng sang những cơi cao nhất. Tôi có nghe nói rằng nốt chủ âm của thế giới chúng ta chẳng hạn là t́nh thương biểu hiện theo một cách riêng biệt nào đó. Tôi có thể tưởng tượng rằng nốt chủ âm của một thế giới nào khác có thể là minh triết trong khi đối với một thế giới khác nữa th́ đó có thể là ư chí v.v. . . Cho dù tôi đúng hay sai th́ địa hạt nghiên cứu này cũng cực kỳ hấp dẫn và có giá trị vô song đối với những người phải giao dịch với loài người trên cương vị là chính khách hay thầy giáo.

 

T̀NH THƯƠNG LÀ ĐIỀU LINH HỨNG

Trong đoạn cuối cùng của quyển Dưới Chơn Thầy, Chơn sư tŕnh bày bản chất của những điều kiện căn bản mà mỗi người trong chúng ta phải phát triển. Ngài dạy chúng ta rằng chúng ta phải đạt được minh triết không phải là chỉ để dùng cho ḿnh thôi mà đúng hơn là để cho chúng ta có thể giúp đỡ người khác. Thế rồi chúng ta phải có ư chí để điều khiển sự trợ giúp minh triết của ḿnh đi qua những phương tiện phụng sự thích hợp. Nhưng chúng ta cũng phải có t́nh thương v́ nếu không có t́nh thương th́ không thể có ư chí chân chính; trong khi nếu không có ư chí giúp đỡ th́ không thể có thần lực nào kích thích chúng ta theo đuổi minh triết chân chính. Bạn lưu ư thấy Chơn sư đă coi t́nh thương là yếu tố linh hứng ra sao. Có lẽ v́ nốt chủ âm của thế giới này là t́nh thương. Khi đă có t́nh thương rồi th́ tất yếu phải có ư chí phụng sự. Và khi có ư chí phụng sự rồi th́ phải có ḷng khao khát phụng sự một cách hữu ích, minh triết. Tôi có thể thắc mắc làm thế nào mà đạt được đức tính bác ái đối với những người khác. Tôi có khuynh hướng trả lời rằng người ta học cách yêu thương người khác bằng cách trở nên mỏi mệt yêu thương chính ḿnh. Người ta đâm ra chán ngán với cái bản ngă nhỏ bé và chú trọng tới tự do lớn lao hơn của bản ngă lớn lao hơn. T́nh thương đối với người khác xuất phát từ bên trong chứ không phải từ bên ngoài. Nó không thể được áp đặt lên chúng ta. Không thể ép buộc một đứa trẻ phải yêu thương người khác. Nhưng bậc huấn sư minh triết sẽ khích lệ học tṛ ḿnh có được cái sự mỏi mệt mà sớm muộn ǵ cũng xuất lộ do việc chỉ yêu thương bản thân thôi. Trong một thời gian nào đó tất nhiên là chúng ta chỉ quan tâm hầu hết tới bản ngă nhỏ bé cá biệt của ḿnh thôi. Điều này chẳng những tất yếu mà c̣n đúng đắn nữa; v́ chúng ta chỉ có thể tiến tới cái rộng lớn hơn khi xuất phát từ cái nhỏ hẹp hơn và chúng ta phải bắt đầu từ chính ḿnh. Sau này chúng ta bắt đầu nhận ra được rằng hạnh phúc chân thực tùy thuộc nhiều vào quan hệ của chúng ta với môi trường xung quanh hơn là tùy thuộc vào nỗ lực của chúng ta nhằm có được điều mà chúng ta muốn cho bản thân, bất kể việc thỏa măn các ham muốn đó có thể phải trả giá bằng sự đau khổ tổn hại cho người khác. Nhưng nhận ra được điều này có nghĩa là tăng trưởng dần dần. Chúng ta không thể đạt được tất cả mọi điều đó trong một lúc và do đó tôi lập lại rằng đường lối duy nhất để khích lệ t́nh thương đến với người khác là khích lệ bằng mọi phương tiện hợp thức sự nhàm chán với việc chỉ yêu thương bản thân thôi.

 

KẾT QUẢ CỦA GIÁO HUẤN

Bây giờ tôi xét tới phần cuối cùng của sự nghiên cứu này và tôi nghĩ rằng nếu người ta yêu cầu tôi tổng kết đâu là kết quả của giáo huấn này dành cho bất kỳ cá thể nào th́ tôi xin trích dẫn hai khổ thơ cuối cùng được tŕnh bày ở phần kết. Tôi xin chép lại chúng ở đây:

 

Đợi chờ lời lẽ của Chơn sư

Chăm chú dơi theo Ánh sáng Ẩn tàng

Lắng nghe để nắm bắt được mệnh lệnh của Ngài

Ngay giữa trận chiến khốc liệt;

 

Nh́n thấy những tín hiệu nhỏ bé nhất của Ngài

Ngay trên đầu đám đông ô hợp

Nghe thấy lời th́ thầm nhỏ nhất của Ngài

Vượt trên bài ca huyên náo nhất của thế gian.

 

Kết quả của mọi giáo huấn chân chính là để tạo ra mọi thái độ chân chính hơn là để nhồi nhét vào trong bộ óc những chi tiết tri thức. Giáo huấn tốt nhất sẽ xác lập được một nền tảng vững chắc dựa vào đó rèn luyện cho tâm trí biết cách t́m kiến thức cần thiết ở đâu, làm sao có được thái độ khiến cho cá nhân chẳng những vận dụng tri thức của ḿnh một cách khôn ngoan mà c̣n đồng cảm để thông cảm với cả ngàn lẻ một động cơ thúc đẩy, và hoàn cảnh là cội rễ của mọi kiếp sống cá nhân. Giáo huấn của Chơn sư ắt giúp cho chúng ta có được một thái độ tử tế và tha thiết giúp đỡ người khác, trong khi cả hai điều này phải đủ chân thực th́ mới khiến cho chúng ta sẵn ḷng đảm đương việc rèn luyện cần thiết và hi sinh cần thiết. Đây là một thái độ được diễn đạt qua hai khổ thơ mà tôi vừa trích dẫn, thái độ lắng nghe những chỉ dẫn nhỏ nhất về cách cư xử do chỉ đạo của các bậc có thể gọi là những Người Phụng Sự Toàn Bích.

Khổ thơ đầu tiên cho chúng ta thấy cần khiêm tốn để hiểu được thật ra chúng ta biết ít đến dường nào, cho dù thế gian có thể gọi chúng ta là khôn ngoan đến đâu đi nữa. Do đó nếu chúng ta muốn thật sự trợ giúp th́ chúng ta phải luôn luôn chăm chú ghi nhận những ẩn ư của các đấng có được tri thức chân chính. Hai ḍng cuối cùng của khổ thơ thứ nhất dạy chúng ta bài học quan trọng nhất là chúng ta không bao giờ được quên đi Thiên cơ của Thượng Đế dành cho con người, cho dù chúng ta có thể miệt mài đến đâu cho kiếp sống cá thể của riêng ḿnh. Cuộc sống của chính ta là một phần Sự Sống của Thượng Đế, và chúng ta chỉ có thể sống cuộc đời của riêng ḿnh thật sự khi nào chúng ta phấn đấu uốn nắn chúng, mô phỏng chúng, đúc khuôn chúng theo sự sống của Ngài. Bà Beasant thường dạy chúng ta trong mỗi bối cảnh tâm trí của bà luôn luôn có tư tưởng về Chơn sư với kết quả là mọi điều mà bà làm đều chịu ảnh hưởng và nhuốm màu của tư tưởng chủ đạo đó. Chúng ta cũng phải học cách luôn luôn nhớ tới Chơn sư trong tư tưởng của ḿnh giống như thế v́ Chơn sư tiêu biểu cho hiện thân của Chơn ngă chúng ta, Ngài là Thiên sứ đối với tâm hồn chúng ta. Nếu chúng ta chưa thể nghĩ tới một Chơn sư đặc biệt nào, th́ ít ra chúng ta cũng phải có trước mặt ḿnh h́nh ảnh của một trong các bậc Pḥ trợ Vĩ đại của thế gian. Ngay cả hiện nay cũng có một vài người đang sống giữa chúng ta mà chúng ta nên lồng khuôn vào những vị trí linh thiêng nhất trong bản thể ḿnh. Mọi người trong chúng ta đều nên là một kẻ sùng bái anh hùng, cho dù đó là một anh hùng thời quá khứ hoặc một anh hùng đang sống trên thế giới ngày nay.    

Khổ thơ thứ nh́ mở rộng khổ thơ đầu tiên và chúng ta nên học thuộc ḷng những khổ thơ này để cho chúng có thể thường xuyên thâm nhập vào tư tưởng chúng ta, nhắc nhở chúng ta về động cơ thúc đẩy chân chính ẩn đằng sau tư tưởng, xúc cảm và hoạt động của ḿnh. Các ḍng thơ:

 

Nghe thấy lời th́ thầm nhỏ nhất của Ngài

Vượt trên bài ca huyên náo nhất của thế gian

 

dạy ta rằng lời gợi ư nhỏ nhặt nhất của Chơn sư cũng có tầm quan trọng lớn hơn nhiều so với ư kiến được coi trọng trong thế giới mà chúng ta đang sống. Những kẻ muốn là đệ tử Chơn sư th́ phải học cách tự ḿnh xét đoán, nghĩ ra những tư tưởng mà Chơn sư mong ḿnh nghĩ được, cảm nhận được giống như Chơn sư mong ước ḿnh cảm nhận, nói năng như thể Chơn sư ra lệnh cho ḿnh nói, hành động như thể được lệnh hành động của Chơn sư. Công luận cũng có giá trị, nhưng ư kiến của Chơn sư là sự thật thuần khiết nhất đối với những kẻ mưu cầu hiểu biết, nhất là đối với huyền bí gia. Mặt khác, chúng ta phải cẩn thận đừng quá lười biếng không chịu tự ḿnh suy nghĩ. Sự lười biếng khiến cho đa số mọi người không đến được dưới chơn Đức Thầy, v́ hoặc là họ muốn được các Huynh trưởng đút cho từng muỗng một, tiếp nhận các huấn lệnh riêng biệt để hành động theo đó cho từng chi tiết nhỏ nhặt trong cuộc đời, hoặc là họ lại quỵ lụy trước công luận hơn là mất công tự ḿnh đứng vững, và nếu cần đương đầu với công luận và sẵn sàng chịu hậu quả. Chẳng ai có thể trở thành đệ tử Chơn sư nếu không hoàn toàn sẵn ḷng (thật vậy, c̣n phải tha thiết nữa) chịu đau khổ v́ chính nghĩa của điều mà ḿnh tin là sự thật cho dù v́ thế mà y có thể chuốc lấy sự ghét cay ghét đắng của bạn bè và môi trường xung quanh.

Tôi xin đặc biệt cảnh báo bạn về cái khuyết điểm rất thường gặp nơi nhiều người tốt bụng nhưng không có tâm đạo. Họ đi rêu rao với người khác, họ đă được dạy dỗ làm điều này hoặc điều kia, đă mơ thấy giấc mơ nọ, đă nghe thấy tiếng nói đấng nào đó, đă được bà Besant hoặc ông Leadbeater đặc biệt khuyên dạy điều này, tán thành điều kia, khuyến khích điều nọ và ủng hộ việc giải thích một kinh nghiệm trên cơi trung giới hoặc kinh nghiệm nào khác nữa. Trong môi trường của chúng ta có rất nhiều người đầy hảo ư như thế lặng lẽ xoay ṿng trong đó. Họ muốn nói ǵ th́ nói, nhưng bản thân bạn nên nhớ rằng lời khuyên của ông Leadbeater không được trở thành tâm điểm cho ṿng tṛn của bạn. Những người hành động như tôi vừa mô tả thật ra đang phấn đấu thuyết phục người khác ḿnh là nhân vật rất quan trọng. Họ mưu t́m sự khen ngợi bằng cách cố gắng vênh váo trong bộ y phục được gán cho là do các nhân vật cao cả hơn họ ban tặng. Ngoài sự thật là hết 90% những nhận xét của họ nói chung là những lời ngoa ngoắc chẳng có được bao nhiêu sự thật th́ công việc của chúng ta khi là đệ tử dự bị trong đạo tràng của Chơn sư phải là việc chứng tỏ bản thân qua hành động chứ không phải qua lời nói.

Tôi hi vọng rằng giáo huấn của Chơn sư cũng quí báu với bạn đọc giống như đối với chính tôi. Chúng ta có thể đọc quyển Dưới Chơn Thầy nhiều lần, nhưng chúng ta chỉ bắt đầu hiểu được nó nếu chúng ta thấy là mỗi lần chúng ta đọc lại nó th́ chúng ta lại học được một điều nào đó mới mẻ. Người nào đă đọc quyển Dưới Chơn Thầy rồi mà không muốn đọc đi đọc lại nó ắt chưa hiểu được thông điệp của nó.

 

H Ế T

HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  QUEST  MAGAZINES