|
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES
|
PHẬT GIÁO VẤN ĐÁP
(The Buddhist Catechism)
Tác giả HENRY STEEL OLCOT
|
|
Sơ
lược tiểu sử của tác giả H.S. Olcott
Phần
IV: Sự phát triển và bành trướng của Phật giáo
Những
điều tin tưởng căn bản của Phật giáo
LỜI GIỚI THIỆU
Phật Pháp được trường tồn và phát triển không ngừng, phần lớn đều do sự hy
sinh hoằng pháp của các bậc chân tu thạc học từ thế hệ này tiếp nối thế hệ
khác. Mạng mạch của đạo pháp hưng thạnh hay suy vi đều tùy thuộc vào sự
nghiệp hoằng pháp. Chúng ta hăy nh́n sâu vào đời sống của Đức Phật, Ngài đă
hiến dâng trọn đời ḿnh cho sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh, đó là bằng chứng
hùng hồn và chắc thật nhất.
Đặc biệt, trong bối cảnh của người Việt tỵ nạn ly hương, theo đó, hướng đi
của đạo pháp cho một tương lai sáng sủa, th́ việc hoằng pháp phải được đặt
lên hàng đầu, trên một căn bản vững chắc và rộng răi về lâu về dài. Nhưng sự
hoằng pháp ở hải ngoại này không phải đơn thuần như khi c̣n ở quê nhà “một
dân tộc Việt, một ngôn ngữ Việt” là đủ. Sức sống của đạo pháp ở hải ngoại
không thể nào chỉ bằng vào những ngôi chùa tạm bợ, những người thờ ơ đối với
trách nhiệm hoằng pháp. Để khỏi mất gốc, mất nguồn về niềm tin truyền thống
dân tộc, điều quan trọng trong sự nghiệp hoằng pháp hiện nay là phải làm sao
đáp ứng nhu cầu thông hiểu Phật pháp của tuổi trẻ Việt Nam không thành thạo
tiếng Việt nói riêng; nói chung là cho cả những người muốn nghiên cứu giáo
lư đức Phật bằng Anh ngữ. Từ nhận định đó, kinh sách Phật giáo song ngữ
Việt-Anh là điều cấp thiết trước mắt cho việc duy tŕ và phát triển Phật
giáo cùng văn hóa đạo đức dân tộc ở hải ngoại hiện tại và tương lai.
Phật Học Viện Quốc Tế ngay từ buổi đầu mới thành lập đă đặt vấn đề hoằng
pháp và đào tạo Tăng tài lên hàng đầu. Viện đă kiên nhẫn khắc phục mọi khó
khăn, quyết tâm tái bản những kinh sách Phật giáo giá trị và đồng thời cũng
đă trù liệu cụ thể kế hoạch thực hiện những kinh sách Phật giáo song ngữ
Việt-Anh để đáp ứng nhu cầu thanh thiếu niên học Phật. Tuy chưa măn nguyện,
nhưng điều này quư vị cũng đă thấy rải rác trong các thư mục sách báo của
Phật Học Viện. Sự trở ngại khó khăn trong công cuộc hoằng pháp của Phật Học
Viện, ngoài vấn đề tài chánh và nhân sự ra, kinh sách song ngữ là một trong
những vấn đề khó thực hiện nhất. Điều này có lúc tưởng chừng như bế tắc. Th́
hôm nay, Viện chúng tôi hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The
Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott là dịch phẩm song ngữ giá trị
đầu tiên này đến quư vị.
Tác phẩm “The Buddist Catechism” là một tác phẩm giá trị đă được dịch ra
nhiều thứ tiếng các nước trên thế giới, nhưng được dịch ra tiếng Việt th́
đây chỉ mới là lần đầu tiên do Thượng Tọa Tiến Sĩ Thích Trí Chơn thực hiện.
Giá trị của tác phẩm không những chỉ về nhân cách của tác giả, mà bởi nội
dung của nó rất là quảng bác và hàm súc; có khả năng kết thúc được những
thắc mắc căn bản về Phật giáo, và dẫn đạo cho những ai muốn tiến bước trên
đường quang lộ t́m chân lư. Tôi tin tưởng rằng, sau khi đọc chính bản Anh
ngữ hoặc dịch bản Việt ngữ, độc giả sẽ vơi nhẹ đi những băn khoăn thắc mắc
đă chất chứa từ lâu trong óc năo trên đường t́m đến đạo Phật.
Dịch giả, Thượng Tọa Thích Trí Chơn vốn ấu niên xuất gia, đă du học ở Ấn Độ
mười hai năm, đỗ bằng tiến sĩ Triết học Phật giáo, với kiến thức thông bác
Phật điển; với sự kiên tâm âm thầm nghiên cứu, dịch thuật công phu, với lời
văn trong sáng gọn đủ, hy vọng độc giả sẽ cảm thấy tinh thần phấn khởi, tâm
thức khai thông khi đọc dịch phẩm giá trị này.
Nơi đây, tôi xin chân thành tán thán công đức của dịch giả và thành tâm khấn
nguyện cùng mọi người chân chánh phát Bồ đề tâm noi theo gương đức Phật,
hướng khả năng ḿnh cho sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh, ngơ hầu ḿnh và người
được an lành lợi lạc trên bước đường tiến đến giác ngộ giải thoát.
Hoa Kỳ, Vu Lan Đinh Măo 1987
THÍCH ĐỨC NIỆM
LỜI NGƯỜI DỊCH
Nhằm đáp ứng nhu cầu của số đông độc giả Phật tử Việt Nam tại hải ngoại đang
cần có tài liệu trau giồi Phật Pháp bằng tiếng Anh để dùng nói chuyện, hay
có thể tŕnh bày tóm lược về giáo lư đạo Phật với người ngoại quốc cũng như
giúp các học sinh, sinh viên Phật tử đang theo học ở các trường trung, đại
học tại Hoa Kỳ thông hiểu một số danh từ Phật học Anh ngữ chuyên môn để có
thể soạn viết những bài luận văn, thuyết tŕnh ngắn (papers) hoặc diễn đạt,
trao đổi ư tưởng về Phật giáo với các bạn bè ngoại quốc và giáo sư Mỹ trong
lớp, chúng tôi đă không ngại tài trí thô thiển cố gắng soạn dịch cuốn “Phật
Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) sau đây để cống hiến chư Phật tử gần
xa.
Tác phẩm do Phật tử người Hoa Kỳ, đại tá kiêm học giả H.S.Olcott (1832-1907)
biên soạn, tham cứu từ 15,000 trang kinh điển Phật giáo, gồm có tất cả 383
câu hỏi và trả lời tóm lược về mọi yếu điểm của Phật giáo từ cuộc đời Đức
Phật, giáo lư, sinh hoạt chư Tăng, đến lịch sử truyền bá cùng sự tương quan
giữa Phật giáo và khoa học v.v… Mặc dù nơi bản chính Anh văn ghi 383 câu hỏi
nhưng thật sự chỉ có 381 câu, v́ thiếu hai (2) câu số 104 và 105. Và, để quư
độc giả tiện đối chiếu với nguyên tác, nơi bản dịch, chúng tôi vẫn ghi đủ số
383 câu hỏi như nguyên bản tiếng Anh. Cuốn “The Buddhist Catechism” xuất bản
lần đầu tiên năm 1881 tại Adyar (Ấn độ) và bản tiếng Anh được tái bản lần
thứ 33 (năm 1897); thứ 36 (1903); thứ 40 (1905); thứ 42 (1908); và lần thứ
44 (1915).
Từ đó (1915) đến nay, tác phẩm này đă được các nhà xuất bản, hội đoàn Phật
giáo tại Hoa Kỳ và những quốc gia khác cho in lại nhiều lần nhằm mục đích
truyền bá giáo lư của đức Phật đến người Tây Phương khắp nơi trên thế giới.
Cuốn sách cũng đă được dịch ra ít nhất 20 ngôn ngữ của các nước Á và Âu Châu
như Ấn Độ, Tích Lan, Pháp, Đức, Nga, Ư Đại Lợi và Tây Ban Nha v.v… Hơn nữa,
tác phẩm trên không những khoảng 90 năm trước đây (1897) mà ngay cả hiện
nay, nó vẫn c̣n được dùng làm tài liệu căn bản để dạy Phật Pháp bằng Anh văn
cho đa số học sinh, sinh viên và chư Tăng tại hàng trăm trường trung, đại
học Phật giáo cũng như các chùa, Phật học viện ở Tích Lan, Ấn Độ, Mă Lai,
Tân Gia Ba, và nhiều quốc gia Á Châu khác.
V́ nhận thấy lợi ích thiết thực như thế, nên lần đầu tiên, chúng tôi cố gắng
dịch tập sách này ra tiếng Việt, mong đóng góp phần nhỏ vào kho tàng văn hóa
Phật giáo Việt Nam tại hải ngoại; cũng như để giúp cho các Phật tử, nhất là
giới trẻ thanh, thiếu niên Việt Nam tại Hoa Kỳ, cùng các quốc gia Úc và Âu
Châu có thêm tài liệu Phật Giáo bằng song ngữ Anh-Việt để tiện bề nghiên cứu.
Chúng tôi dịch xong cuốn sách từ mùa hè năm 1986, nhưng v́ thiếu nhân duyên
nên đến nay, nó mới được in ra để gởi đến quư vị.
Chúng tôi cũng xin thưa, ngạn ngữ Pháp có câu: ”Dịch là phản bội” (Traduire
c’est trahir), nhất là dịch sách Phật giáo, chứa đựng triết lư thâm sâu lại
đầy dẫy những thuật ngữ tiếng Pali và Sanskrit (Phạn) khó hiểu; cho nên, mặc
dù đă hết sức tra cứu trong hoàn cảnh thiếu thốn tự điển về danh từ Phật học
bằng tiếng Việt-Pali-Sanskrit như hiện nay tại hải ngoại, chúng tôi chắc
chắn sẽ không tránh khỏi có những lỗi lầm, sơ sót.
Chúng tôi mong dịch làm sao vừa sát nghĩa câu văn của nguyên bản, vừa lột
hết ư của tác giả được chừng nào hay chừng ấy, để quư độc giả khi đọc không
thấy đó là bản dịch. Có những trường hợp, v́ muốn được rơ nghĩa, nên chúng
tôi đă phải thêm vào sau câu văn dịch vài chữ đặt trong hai dấu ngoặc. Hầu
hết các danh từ Phật giáo về triết lư, nhân hoặc địa danh tiếng Pali và
Sanskrit (Phạn), chúng tôi đều dịch ra Việt ngữ, và có ghi kèm sau cả những
tiếng Pali, Sanskrit đó để giúp quư độc giả tiện bề tra cứu.
Riêng bản Phụ Lục (Appendix) phần sau cuốn sách này, chúng tôi chỉ dịch
“Mười bốn (14) điều Tin Tưởng Căn Bản của Phật Giáo” ở trên mà thôi; c̣n
đoạn dưới liệt kê danh tánh của quư Chư Tăng, Phật tử đại diện những phái
đoàn các nước đến tham dự đại hội Phật giáo tổ chức tại Adyar, Madras (Ấn
độ) vào tháng 01 năm 1891, (trang 92, 93, và 94), chúng tôi đă không dịch v́
nhận thấy không mấy cần thiết.
Tiện đây, chúng tôi xin chân thành cám ơn Thượng Tọa Thích Đức Niệm, Giám
Đốc Phật Học Viện Quốc Tế đă hết ḷng khích lệ, góp nhiều ư kiến bổ ích, và
nhất là giúp đỡ chúng tôi phương tiện để ấn hành dịch phẩm này.
Sau cùng, chúng tôi kính mong quư chư tôn, thiền đức; pháp hữu ân nhân cùng
các bậc cao minh thức giả sẽ vui ḷng bổ chính cho những sai lầm, thiếu sót,
nếu có; để nhờ đó, sau này cuốn sách sẽ được hoàn chỉnh, đầy đủ hơn trong kỳ
tái bản.
Hoa Kỳ, mùa Vu Lan 2531 (1987)
THÍCH TRÍ CHƠN
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ CỦA TÁC GIẢ
HENRY STEEL OLCOTT
H.S. Olcott sinh ngày 02-08-1832 tại quận
Nhằm mục đích chấn hưng chánh pháp đang suy đồi tại Tích Lan gây nên bởi
chính sách ngược đăi Phật giáo của các chính quyền thực dân Thiên Chúa Giáo
Bồ Đào Nha (1505-1658), Ḥa Lan (1658-1796) và Anh Quốc (1796-1947) trong
suốt gần 4 thế kỷ; ngày 17-05-1880 bà Blavatsky cùng đại tá Olcott đến
Galle, một hải cảng miền Tây nam Tích Lan, với sự tiếp đón nồng nhiệt của
hàng ngàn dân chúng địa phương. Tuần sau, sáng ngày 25-05-1880, cả hai đă
phát nguyện đi theo con đường giác ngộ của Đức Phật, và xin thọ tŕ tam quy
ngũ giới với Thượng Tọa Bulatgama tại chùa Wijayananda. Buổi lễ đă gây xúc
động cho hàng ngàn chư Tăng và Phật tử hiện diện, v́ đây là lần đầu tiên
trong lịch sử, lễ quy y cho người Phật tử Âu Mỹ (da trắng) được tổ chức tại
Tích Lan.
Vào lúc ấy, Olcott tŕnh bày ư kiến cho cấp lănh đạo Phật giáo Tích Lan biết
rằng muốn chấn hưng, phát huy chánh pháp tại xứ này để chống lại những hoạt
động đàn áp, kỳ thị của chính quyền và các tổ chức Thiên Chúa giáo, việc
trước tiên cần làm là nên mở các trường Phật giáo dùng Anh Văn làm chuyển
ngữ, để dạy dỗ cho các trẻ em Tích Lan. Với sự ủng hộ đắc lực của giáo hội
Tăng già và nhiều cư sĩ Phật tử lănh đạo, ngày 17-06-1880, ông đứng ra thành
lập đầu tiên hội Phật giáo Thông Thiên Học (The Buddhist Theosophical
Society) và sau này hội đă phát triển xây dựng được 7 chi nhánh khắp nơi
trong nước. Mục đích chính của hội nhằm kết hợp các công nhân Phật tử không
phân biệt giai cấp hay chức vị, thành một khối thống nhất để góp phần tích
cực trong việc thiết lập các trường học Phật giáo và giúp đỡ hàng dân chúng
Phật tử nghèo địa phương.
Khi Olcott mới đến Tích Lan, khắp toàn quốc không có một trường học Phật
giáo nào dạy tiếng Anh nhận được sự tài trợ của chính phủ. Trong khi đó, các
đoàn truyền giáo Thiên Chúa gồm cả Giáo hội La Mă, với sự giúp đỡ của chính
quyền, họ xây dựng được tất cả 800 trường học. Để ngăn chận không cho Phật
giáo thiết lập cơ sở giáo dục, giới hữu trách bấy giờ đă ban hành nhiều luật
lệ khắt khe như muốn mở trường phải có giấy phép của vị thống đốc (Governor)
chính quyền Anh cấp và “không trường nào hội đủ điều kiện nhận sự giúp đỡ
của chính phủ, trừ phi trường đó mỗi ngày vào giờ đầu có giảng dạy Kinh
Thánh” (No school was eligible for grants of aid from the government unless
it devoted the first hour of the day to the teaching of the Bible).
Vào những năm 1880 và 1882, Olcott cùng với thanh niên David Hewanitarne (sau
này là cố Đại Đức Angarika Dharmapala: 1864-1933) làm thông dịch, đă dùng xe
ḅ hoặc đi bộ từ làng này qua làng kia khắp thôn quê để thuyết giảng kêu gọi
mọi người quay về theo giáo lư của đức Phật; và cổ động quần chúng đóng góp
gây quỹ kiến thiết các trường học Phật giáo. Do nỗ lực này của ông, hội Phật
giáo Thông Thiên Học nói trên, năm 1897 đă thành lập được 25 trường nam, 11
trường nữ và 10 trường nam lẫn nữ. Đến năm 1903, Hội xây dựng được 174
trường với khoảng 30,000 học sinh, và năm 1940 khắp toàn quốc số các trường
tăng lên tới 429 trong đó có 12 trường Trung Học. Hiện nay các trường này
đều do chính phủ kiểm soát và tài trợ.
Không những chỉ có ở Tích Lan mà đại tá Olcott c̣n vận động hô hào thành lập
các trường học Phật giáo tại nhiều quốc gia khác như Nhật Bản, Thái Lan,
Miến Điện và Ấn Độ. Ngoài ra, để giúp Giáo hội Phật giáo Tích Lan có nơi
diễn đàn nói lên tiếng nói của ḿnh trong cộng đồng Phật tử, nhất là đối với
dư luận quần chúng khi bị chính quyền Thiên Chúa đàn áp, Olcott đă khuyến
khích hội Phật giáo Thông Thiên Học vào tháng 12 năm 1880 cho ra tờ “Sarasavi
Sandarasa” mà về sau nó biến thành tạp chí tiếng Anh “The Buddhists” (Phật
tử) do Hội “Thanh niên Phật giáo” (Young Men’s Buddhist Association) xuất
bản hàng tháng và hiện nay vẫn c̣n tiếp tục.
Giữa lúc mọi người Châu Âu sống hoàn toàn cách biệt với dân bản xứ, đạo hữu
Olcott đứng trong hàng ngũ của đại đa số chư Tăng và quần chúng Phật tử Tích
Lan bị đàn áp, ông sang Anh quốc đại diện cho họ, nhiều lần tranh đấu để
giành lại quyền lợi cho Phật giáo tại xứ này. Kết quả là năm 1885, lần đầu
tiên ngày lễ Phật Đản Rằm tháng 04 – Vesak ( khoảng tháng 05 dương lịch)
được chính quyền thực dân Anh công nhận như ngày lễ công cộng (public day)
mà trước kia điều này chỉ đặc ân dành cho các ngày lễ của Thiên Chúa Giáo.
Năm 1889, cùng với Thượng Tọa H. Sumangala (Tích Lan), đại tá Olcott phỏng
theo 6 màu hào quang của đức Phật (xanh, vàng, đỏ, trắng, da cam và màu tổng
hợp của 5 màu vừa kể) đă phát họa mẫu cờ Phật giáo mà ư nghĩa theo lời ông
phát biểu “Nó có thể được tất cả các nước Phật giáo chấp nhận như một biểu
tượng quốc tế cho tín ngưỡng của họ, giống như cây thánh giá đối với những
tín đồ đạo Thiên Chúa” (The flag which could be adopted by all Buddhist
nations as the Universal symbol of their faith, thus serving the same
purpose as the cross does for all Christians). Lá cờ này đă được treo lần
đầu tiên ở các chùa Tích Lan, vào dịp lễ Phật đản năm đó (1889) và 61 năm
sau, nó được chính thức công nhận làm cờ Phật giáo thế giới tại đại hội Phật
giáo Quốc Tế tổ chức họp ở Colombo (thủ đô Tích Lan) năm 1950. Hiện nay lá
cờ được gần 80 quốc gia sử dụng trong các ngày lễ Phật giáo trên toàn thế
giới.
Đại tá Olcott cũng góp phần vào công cuộc phát triển chấn hưng Phật giáo tại
nhiều nước Âu và Á châu khác. Năm 1885, đại tá đầu tiên sang thăm, thuyết
giảng nhiều nơi công cộng tại Miến Điện (Burma); và trước khi rời xứ này,
ông đă thành lập ở Ngưỡng Quang (Rangoon) 3 chi nhánh của Hội Thông Thiên
Học cho 3 đoàn thể Phật giáo, Ấn Độ giáo và người Châu Âu. Ông cũng đă 2 lần
sang viếng thăm Nhật Bản. Lần đầu năm 1888, ông đi khắp nơi thuyết tŕnh ít
nhất 70 bài giảng tại các chùa, trung tâm, hội đoàn Phật giáo Nhật trong
ṿng 3 tháng với tổng số khoảng 187,000 người đến dự thính. Lần thứ 2, ông
thực hiện được một công tác quan trọng là đă mang lại sự ḥa hợp, đoàn kết
giữa các tông phái Phật giáo của Đại Thừa (Bắc tông) Nhật Bản, Đại Hàn
(Korea), Trung Hoa, Tây tạng v.v…với Tiểu Thừa (Nam tông) Ấn Độ, Tích Lan,
Miến Điện, Thái Lan và Lào quốc (Laos) v.v... bằng cách dẫn chứng, nêu lên
những giáo lư căn bản tương đồng giữa các tông phái Phật giáo nói trên.
Năm 1886, ông thành lập tại thị trấn Adyar, tiểu bang Tamil Nadu (miền
1.The Buddhist Catechism (Phật Giáo Vấn Đáp), xuất bản đầu tiên năm 1881;
2. Old Diary Leaves (Những trang nhật kư cũ) gồm 6 tập (1928-1935).
THÍCH TRÍ CHƠN
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. “Buddhism in
2. ”The Buddhist Revival in the 19th Century” by Olcott Gunasekera in
DIAMOND JUBILEE 2462-2522 (All
3. “The Betrayal Of Buddhism”: An abridged Version of the Report of the
Buddhist Committee of Inquiry 2499/1956,
4. “Anagara Dharmapala – His Life and Personality” by Andrew Scott in THE
MAHA BODHI, Vol.75, Nos.10-11 (1967),
5. “Colonel H. Steel Olcott – An American loved by Asians” by Dr.
Buddhadassa P. Kirthisinghe in THE MAHA BODHI, Vaisakha Number, Vol. 83,
Nos. 4-5 (1975), Calcutta, India.
6. “The Medieval History of Buddhism in Sri Lanka” by N.A. Jayawickrama in
BUDDHA MARGA, Vesak Annual, Colombo, Sri Lanka, 1980.
LỜI ĐỀ TẶNG
Để tỏ ḷng kính mến, tôi xin tặng cuốn “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist
Catechism), đă được tu chỉnh này, đến bậc đạo sư và là bạn của tôi trong
nhiều năm qua, Trưởng Lăo Hikkaduwe Sumangala, trụ tŕ ngôi chùa trên đồi
Adam (Sripada), cùng lănh đạo Phật giáo khu vực miền Tây (Tích Lan).
H. S. Olcott
Adyar, 1903
GIẤY CHỨNG NHẬN
LẦN XUẤT BẢN ĐẦU TIÊN
Đại Học Vidyodaya,
Tôi chứng nhận rằng, tôi đă duyệt xét kỹ lưỡng bản dịch tiếng Tích Lan
(Sinhalese) cuốn sách Phật Giáo Vấn Đáp do Đại tá H.S Olcott biên soạn, và
nó phù hợp với kinh điển của giáo lư Phật giáo Nam Tông. Tôi xin giới thiệu
tác phẩm đến những giáo sư tại các trường Phật giáo, và với tất cả độc giả
nào muốn phổ biến giáo lư đến hạng người mới bắt đầu, những đặc điểm căn bản
về tôn giáo của chúng ta.
H.SUMANGALA
Viện Trưởng Đại Học Vidyodaya, Pirivena.
Đại Học Vidyodaya,
Ngày 07-04-1897
Tôi đă duyệt xét ấn bản tiếng Anh lần thứ 33 của cuốn sách Phật Giáo Vấn Đáp,
với sự giúp đỡ của các nhà phiên dịch, và xác nhận sự giới thiệu cho việc
dùng nó tại các trường Phật giáo.
H. SUMANGALA
ĐỀ TỰA
LẦN XUẤT BẢN THỨ BA MƯƠI BA
Trong việc sửa soạn lại bản chính, tôi đă thêm nhiều câu hỏi và trả lời vào
nguyên bản của cuốn Phật Giáo Vấn Đáp trong mỗi lần tái bản bằng Anh Văn, để
tùy ư các dịch giả dịch cuốn sách ra bất cứ tiếng bản xứ khác nào mà nó có
thể dịch được. Mục đích khiêm tốn này là nhằm tŕnh bày sự tóm tắt ngắn gọn,
nhưng bao quát về lịch sử, đạo đức và triết học Phật giáo để những người mới
bắt đầu có thể thấu hiểu và lănh hội được giáo pháp cao siêu mà Đức Phật đă
dạy, cũng như giúp họ dễ dàng hơn trong sự học hỏi chi tiết giáo lư đó.
Trong bản in lần này, một số lớn câu hỏi và trả lời mới được thêm vào, trong
khi đó nội dung được phân chia thành nhóm theo 5 tiết mục: 1) Cuộc đời của
đức Phật; 2) Giáo lư; 3) Tăng già; 4) Tóm lược lịch sử Phật giáo, các đại
hội kiết tập, và sự truyền bá của nó; 5) Sự ḥa hợp giữa Phật giáo và khoa
học.
Điều này, tôi tin tưởng rằng sẽ làm tăng thêm lớn lao giá trị của tập sách
nhỏ, và khiến nó thích hợp hơn để dùng tại các trường Phật giáo, trong đó ở
Tích Lan, hơn 100 trường đă được dân chúng Tích Lan mở ra, dưới sự giám sát
tổng quát của Hội Thông Thiên Học. Sửa soạn lần tái bản này, tôi đă nhận sự
giúp đỡ quư báu của vài người bạn đồng nghiệp Tích Lan thâm niên và đủ tư
cách nhất.
Bản chính đă được duyệt xét lại cùng với tôi từng chữ bởi vị Tỳ kheo (bhikkhu)
kiêm học giả H, Sumangala và vị Phó Viện Trưởng trường Đại Học Pali ở Tích
Lan, ông Heyantuduve Anunayaka Terunanse; và Thượng Tọa (Sumangala) cũng đă
hoan hỷ xem lại kỹ luỡng sự hiệu chính này và cho tôi nhiều ư kiến vô giá.
Cho nên, nó có giá trị của sự tŕnh bày đứng đắn về Phật giáo thuộc “Nam
Tông” thu nhận cốt yếu từ những tài liệu trực tiếp. Cuốn Phật Giáo Vấn Đáp
này đă được xuất bản đến 20 thứ tiếng, chính bởi những người Phật tử và cho
các Phật tử.
H. S. Olcott
Adyar, ngày 17-05-1897
ĐỀ TỰA
LẦN XUẤT BẢN THỨ BA MƯƠI SÁU
Sự phổ biến của tập sách nhỏ này dường như không sút giảm, lần xuất bản này
tiếp theo lần tái bản khác đă được đ̣i hỏi. Trong lúc ấn bản hiện nay đang
in, th́ bản in tiếng Đức lần thứ hai, dịch lại bởi nhà học giả Dr. Erich
Bischoff được phát hành tại Leipzig do nhà xuất bản Griebens Co., và bản
dịch Pháp ngữ lần thứ ba bởi người bạn và đồng nghiệp của tôi, thiếu tá D.A.
Courmes, đă có sẵn sàng tại Ba Lê (Paris). Bản dịch mới tiếng Tích Lan cũng
đang sửa soạn tại
Như thế, công tác tiếp tục, và nhờ ở cơ quan khiêm tốn này, những lời dạy
của Phật Pháp đang được truyền bá trên khắp thế giới.
H.S. Olcott
Adyar, ngày 07-02-1903
ĐỀ TỰA
LẦN XUẤT BẢN THỨ BỐN MƯƠI
Tính cách đại chúng của tập sách nhỏ này được chứng tỏ qua sự không ngừng
đ̣i hỏi những lần tái bản bằng Anh văn và các ngôn ngữ khác. Nh́n vào nội
dung của lần xuất bản hiện nay, tôi thấy rất ít có sự thay đổi hoặc bổ túc
thêm vào, v́ tác phẩm chứng tỏ sự tŕnh bày một ư kiến rất chính xác về nội
dung của nền Phật giáo Nam Tông; và như mục đích của tôi là không bao giờ
viết một bài tiểu luận dài cho vấn đề, tôi kiềm chế sự cám dỗ đi ra ngoài đề
trong việc bàn rộng đến những chi tiết, mặc dù thích thú đối với sinh viên
của môn học tôn giáo tỷ giảo, nhưng vô ích trong việc sắp đặt hợp lư cho sự
hướng dẫn sơ đẳng.
Bản dịch mới tiếng Tích Lan (lần xuất bản thứ 38) đang sửa soạn do người bạn
đáng kính của tôi, ông D. B. Jayatilaka. Viện trưởng trường Đại học Phật
giáo Ananda tại
Tôi sợ chúng tôi sẽ phải chờ đợi lâu về sự giúp đỡ của các nhà sư Phật giáo,
phần lớn từ những vị trí thức của Tích Lan, ít nhất tôi đă không có thể,
trong thời gian 20 năm mật thiết trao đổi để kích động sự nhiệt tâm của họ.
Tôi thấy dường như luôn luôn không thích hợp cho một người Hoa kỳ, không
uyên bác bao nhiêu, đáng được cho dân chúng Tích Lan mong chờ, trong việc
giúp những người nầy dạy Phật Pháp cho các con em của họ; và tôi nghĩ rằng
tôi đă nói trong lần xuất bản trước đây, tôi chỉ bằng ḷng viết cuốn Phật
Giáo Vấn Đáp, sau khi tôi nhận thấy rằng không có một Tỳ kheo nào chịu làm
điều đó. Mặc dù chưa hoàn hảo, ít ra tôi có thể bảo rằng cuốn sách chứa đựng
được tinh hoa của khoảng 15,000 trang kinh điển Phật giáo mà tôi đă đọc liên
hệ đến tác phẩm của tôi.
H.S. Olcott
Adyar, ngày 07-01-1905
ĐỀ TỰA
LẦN XUẤT BẢN THỨ BỐN MƯƠI HAI
Tác giả tập sách Phật Giáo Vấn Đáp này đă từ giă cơi đời, nhưng trước khi từ
trần, ông ta đă sắp xếp với Thượng tọa Sumangala, thực hiện một vài sự sửa
chữa nhỏ trong cuốn sách. Những điều nầy được bổ túc vào ấn bản hiện nay do
ư muốn của Thượng Tọa (Sumangala) đă bày tỏ với tôi tại
Tôi đă không sửa đổi sự đánh số thứ tự của những câu hỏi, v́ nó có thể gây
nên sự nhầm lẫn trong lớp học về sự thay đổi các con số, nếu vài học sinh
này có những ấn bản cũ hơn, và vài người khác lại dùng bản in mới.
ANNIE BESANT
Adyar, ngày 17-02-1908
PHẦN I
ĐỜI SỐNG CỦA ĐỨC PHẬT
1. Hỏi:
Bạn theo tôn giáo [1] nào?
Đáp:
Phật giáo.
2. Hỏi:
Phật giáo là ǵ?
Đáp:
Đó là giáo lư thuyết giảng bởi nhân vật vĩ đại, gọi là Đức Phật.
3. Hỏi:
Phải chăng “Phật giáo” là danh xưng đúng nhất để chỉ cho giáo lư này?
Đáp:
Không. Đó là từ ngữ của Tây Phưong, danh từ thích hợp nhất là Phật pháp
(Buddha Dharma).
4. Hỏi:
Một ngựi bạn gọi là Phật tử, phải chăng chỉ v́ cha mẹ sinh họ ra là Phật
tử?
Đáp:
Không phải vậy. Phật tử là ngựi không những chỉ tin tưỏng vào Đức Phật như
bậc Thầy cao cả nhất, tin vào giáo lư do Ngài thuyết giảng và giáo đoàn của
các Thánh Tăng (Arhats), mà c̣n phải hành tŕ giới luật của Đức Phật trong
đời sống hằng ngày nữa.
5. Hỏi:
Đáp:
Ưu Bà Tắc (Upàsaka).
6. Hỏi:
C̣n nữ Phật tử?
Đáp:
Ưu Bà Di (Upàsikà).
7. Hỏi:
Giáo pháp này được thuyết giảng lần đầu tiên vào lúc nào?
Đáp:
Có sự bất đồng ư kiến về niên đại chính xác, nhưng theo kinh điển Tích Lan
vào năm 2513 của năm Kali Yuga hiện nay.
8. Hỏi:
Hăy cho biết các niên đại trọng yếu trong sự giáng sinh của vị Giáo chủ?
Đáp:
Đức Phật giáng trần dưới cḥm sao Visa, vào ngày thứ ba, tháng 5 năm 2478
(Kali Yuga); Ngài vào rừng tu năm 2506; thành Phật năm 2513; và thoát ṿng
luân hồi nhập Niết Bàn (Paranirvana) năm 2558 vào lúc 80 tuổi. Mỗi biến cố
này xảy ra vào ngày trăng tṛn, cho nên tất cả đều kết hợp cử hành đại lễ
vào ngày trăng tṛn của tháng Wesak (Vaisakha) vào khoảng tháng 05 dương
lịch.
9. Hỏi:
Đức Phật có phải là Thượng Đế không?
Đáp:
Không. Phật giáo dạy rằng không có sự hóa thân của “thần linh”?
10. Hỏi:
Phải chăng Đức Phật là một con người?
Đáp:
Vâng! Nhưng là một ngựi giác ngộ, cao siêu và thánh thiện nhất, đă tự ḿnh
tu tập trong vô lượng kiếp vượt hơn các chúng sanh khác, ngoại trừ chư Phật
trong quá khứ.
11. Hỏi:
Trước Đức Phật (Thích Ca) có nhiều vị Phật khác không?
Đáp:
Có, điều đó sẽ được giải thích sau.
12. Hỏi:
Tiếng Phật có phải là tên của Ngài không?
Đáp:
Không. Đó là danh từ để chỉ cho một tŕnh độ hoặc trạng thái của tâm thức,
cái tâm sau khi nó đạt tới sự phát triển cùng tột.
13. Hỏi:
Trạng thái đó gọi là ǵ?
Đáp:
Giác ngộ (thành Phật) hay người có trí tuệ hoàn toàn. Tiếng Pali gọi là
Sabbannu, đấng có trí tuệ vô cùng tận. Phạn ngữ gọi là Sarvajna.
14. Hỏi:
Tên thật của Đức Phật là ǵ?
Đáp:
SIDDHARTHA (Tất Đạt Đa) là tên hoàng tộc của Ngài, và họ của Ngài là GAUTAMA
hoặc GOTAMA (Cồ Đàm). Đức Phật là hoàng tử của vương quốc Ca Tỳ La Vệ
(Kapilavastu) thuộc gia đ́nh danh tiếng Okkaka của thị tộc Thái Dương
(Solar).
15. Hỏi:
Thân phụ và thân mẫu của Ngài là ai?
Đáp:
Vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và hoàng hậu Ma Gia (Maya) gọi là Đại Ma Gia
(Maha Maya).
16. Hỏi:
Nhà vua trị v́ chủng tộc nào?
Đáp:
Bộ tộc Thích Ca (Sakya) và giống dân A-ry-a (Aryan) thuộc giai cấp Sát Đế
Lợi (Kshattriyas).
17. Hỏi:
Vương quốc Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) ở đâu?
Đáp:
Tại Ấn Độ, cách xa thành phố Ba La Nại (Benares) 100 dặm về hướng đông bắc,
và núi Hy Mă Lạp Sơn (Himalaya) khoảng 40 dặm. Nó nằm trong vùng Nepal
Terai. Vương Quốc này ngày nay không c̣n nữa.
18. Hỏi:
Cạnh con sông nào?
Đáp:
Sông Rô-hi-ni (Rohini), nay gọi là Rô-ha-na (Rohana).
19. Hỏi: Xin cho tôi biết Thái
Tử Tất Đạt Đa giáng sinh năm nào?
Đáp:
Năm 623 trước Tây Lịch.
20. Hỏi:
Địa điểm chính xác ở đâu?
Đáp:
Nơi này ngày nay đă được rơ ràng t́m thấy. Nhân viên khảo cổ của chính phủ
Ấn Độ đă khám phá trong khu rừng ở vùng Nepal Terai, một trụ đá do nhà vua
Phật tử vĩ đại A Dục (Asoka) cho dựng nên ngay chính tại địa điểm đó. Ngày
xưa, chỗ nầy đựợc biết là vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini).
21. Hỏi:
Thái tử có cuộc sống đầy thú vui và huy hoàng như các hoàng tử khác hay
không?
Đáp:
Thái tử có đầy đủ; phụ hoàng, vua (Tịnh Phạn) đă xây cất cho thái tử ba lâu
đài gồm có chín, năm, và ba tầng trang hoàng đẹp đẽ, thích hợp với ba mùa ở
Ấn Độ, lạnh, nóng và mưa.
22. Hỏi:
Cảnh trí các lâu đài nầy như thế nào?
Đáp:
Xung quanh mỗi lâu đài có vườn đầy bông hoa thơm ngát, đẹp đẽ, với suối nước
phun, cây đầy chim hót, và những con công đi chậm răi trên mặt đất.
23. Hỏi:
Thái tử sống có một ḿnh?
Đáp:
Không. Năm 16 tuổi, thái tử kết hôn với công chúa Da Du Đà La (Yasodhara),
con gái vua Thiện Giác (Suprabuddha). Nhiều cung nữ đẹp đẽ, giỏi múa hát,
cũng thường xuyên ở bên cạnh để giúp vui cho thái tử.
24. Hỏi:
Thái tử đă cưới vợ bằng cách nào?
Đáp:
Theo truyền thống của ḍng Sát Đế Lợi (Kshattriya) hay tướng quân ngày xưa,
bằng cách chiến thắng các đối thủ trong những tṛ chơi, cùng tập luyện sự
tinh xảo và anh dũng; cuối cùng nàng Da Du Đà La được chọn lựa trong số
những công chúa trẻ đẹp, đă cùng đi với các thân phụ của họ đến tham dự cuộc
đấu (mela).
25. Hỏi:
Sống giữa những lạc thú này làm sao thái tử có thể trở nên người toàn trí?
Đáp:
Bẩm sinh thái tử vốn có nhiều trí tuệ, ngay khi c̣n nhỏ thái tử tỏ ra đă
hiểu biết tất cả các môn nghệ thuật và khoa học, mà hầu hết không cần phải
học. Thái tử có những giáo sư tài giỏi nhất, hễ bất cứ điều ǵ họ dạy, thái
tử đều tỏ ra nhanh chóng hiểu biết.
26. Hỏi:
Phải chăng thái tử đă thành Phật ở trong các lâu đài tráng lệ đó?
Đáp:
Không. Thái tử đă từ bỏ tất cả và một ḿnh vào tu trong rừng.
27. Hỏi:
Tại sao thái tử đă làm như vậy?
Đáp:
Để Ngài t́m ra nguồn gốc của mọi khổ đau và con đường giải thoát khỏi những
khổ đau ấy.
28. Hỏi:
Thái tử đă hành động như thế, phải chăng v́ ḷng ích kỷ?
Đáp:
Không; v́ ḷng từ bi bao la đối với tất cả chúng sanh khiến Ngài đă hiến
thân cho phúc lợi của họ.
29.
Hỏi: Nhưng làm sao Ngài đă có
được ḷng từ bi rộng lớn này?
Đáp:
Với sự quyết tâm muốn thành Phật, trải qua nhiều đời nhiều kiếp, thái tử đă
tu tập hạnh từ bi đó.
30. Hỏi:
Vào lúc ấy thái tử đă từ bỏ những ǵ?
Đáp:
Những lâu đài tráng lệ, sự phú quư xa hoa, thú vui, chỗ nằm êm ấm, y phục
đẹp đẽ, thức ăn ngon và sơn hà xă tắc; Ngài từ bỏ ngay cả người vợ hiền và
đứa con độc nhất, La Hầu La (Rahula).
31. Hỏi:
Có ai đă hy sinh nhiều như thế v́ lợi ích cho chúng ta không?
Đáp:
Không có một ai trong thời đại này của thế giới hiện nay: Chính v́ thế mà
các Phật tử đă kính yêu Đức Phật, và những Phật tử thuần thành cố gắng mong
được như Ngài.
32. Hỏi:
Nhưng phải chăng là ít có người chịu từ bỏ tất cả hạnh phúc thế gian, ngay
cả chính sự sống, v́ phúc lợi cho đồng bào của họ?
Đáp:
Chắc chắn vậy. Nhưng chúng ta tin rằng đức tánh vị tha và ḷng yêu thương
nhân loại này đă được chứng tỏ qua sự từ bỏ hạnh phúc Niết Bàn của thái tử
trong vô lượng kiếp trước, khi Ngài sanh làm vị sa môn Xu-Mê-Đa (Sumedha)
vào thời đức Phật Nhiên Đăng (Dipankara): Lúc ấy (nếu) thái tử nhập Niết
Bàn, thái tử đă không yêu thương nhân loại hơn chính ḿnh. Sự từ bỏ này bao
gồm cả sự tự nguyện của thái tử chịu đựng mọi điều khổ hạnh trong cuộc sống
thế gian cho đến khi Ngài thành Phật, v́ lợi ích khai thị cho tất cả chúng
sanh con đường giải thoát, và mang lại sự an lạc cho thế giới (nhân loại).
33. Hỏi:
Thời gian nào thái tử đă vào tu trong rừng?
Đáp:
Vào năm Ngài 29 tuổi.
34. Hỏi:
Cuối cùng điều ǵ đă khiến thái tử quyết định từ bỏ tất cả mọi thứ mà người
đời thường hết sức đắm say để đi vào rừng tu hành?
Đáp:
Khi Ngài ngồi trên xe ngựa dạo ra ngoài thành, một vị thiên thần Deva [2]
tạo ra trước mắt thái tử bốn cảnh tượng xúc động trong bốn trường hợp khác
nhau.
35. Hỏi: Bốn cảnh tượng đó gồm
những ǵ?
Đáp:
Một người rất già suy nhược v́ tuổi tác, một người bệnh, một xác người chết
và một vị Sa Môn tu hành.
36. Hỏi:
Chỉ một ḿnh thái tử trông thấy những cảnh này?
Đáp:
Không, Xa Nặc (Channa), ngựi hầu cận của Ngài cũng trông thấy các cảnh đó.
37. Hỏi:
Tại sao những cảnh này, rất quen thuộc với mọi người, đă khiến thái tử đi
vào rừng tu hành?
Đáp:
Chúng ta thường thấy các cảnh đó: Thái tử chưa từng gặp, nên chúng đă gây
xúc động sâu xa đến tâm hồn Ngài.
38. Hỏi:
Tại sao Thái tử đă không nh́n thấy chúng?
Đáp:
Khi Thái tử mới sinh các nhà chiêm tinh Bà La Môn đă đoán trước rằng, một
ngày nào đó thái tử sẽ từ bỏ sơn hà xă tắc, và (đi tu) thành Phật. Vua cha
(Tịnh Phạn) không muốn vương quốc của ḿnh không có ai thừa kế, đă cẩn thận
ngăn ngừa không để cho thái tử thấy bất cứ cảnh tượng nào có thể gợi ra
trước mắt các cảnh khổ đau, chết chóc của kiếp người. Ngay cả không một ai
được phép nói nhắc đến những điều đó với thái tử. Ngài hoàn toàn giống như
một tù nhân bị giam giữa những lâu đài và các vườn hoa xinh đẹp. Chúng được
bao bọc bởi các bức tường cao, và bên trong mọi vật được thiết bày vô cùng
mỹ lệ, ngơ hầu thái tử không c̣n muốn đi ra ngoài để nh́n thấy những cảnh
phiền lụy khổ đau trong cuộc đời.
39. Hỏi:
Phải chăng thái tử có từ tâm đến nỗi vua cha sợ rằng Ngài có thể muốn từ bỏ
tất cả v́ hạnh phúc của thế gian?
Đáp:
Vâng; H́nh như thái tử cảm thấy quá từ bi thương xót tất cả chúng sanh.
40. Hỏi:
Ở trong rừng, làm sao thái tử hy vọng t́m hiểu được nguyên nhân của khổ đau?
Đáp:
Bằng cách tránh xa tất cả những điều có thể ngăn cản Ngài suy nghiệm sâu xa
về mọi nguồn gốc của khổ đau và bản thể của con người.
41. Hỏi:
Bằng cách nào thái tử đă vượt thoát hoàng cung?
Đáp:
Vào một đêm, khi mọi người say ngủ, thái tử thức giấc, nh́n lần cuối người
vợ hiền và đứa con thơ đang ngủ; Ngài cùng Xa Nặc, cởi ngựa trắng Kiền Trắc
thân yêu, và đi ra cửa cung điện. Chư Thiên (Deva) đă làm cho những tên lính
gác cổng thành của vua cha ngủ say, để họ không thể nghe tiếng động của vó
ngựa.
42. Hỏi:
Nhưng các cổng thành đều đóng chặt hết phải không?
Đáp:
Vâng; nhưng các Thiên Thần đă mở cửa không một tiếng động nhẹ, và thái tử đă
phóng ngựa lao vào đêm tối.
43. Hỏi:
Thái tử đi đâu?
Đáp:
Đến bờ sông A-nô-ma (Anoma), rất xa thành Ca Tỳ La Vệ.
44. Hỏi:
Rồi thái tử đă làm ǵ?
Đáp:
Ngài xuống ngựa, dùng lưỡi kiếm cắt mớ tóc đẹp, khoác lên ḿnh chiếc y vàng
của nhà tu khổ hạnh, trao đồ trang sức và ngựa Kiền Trắc cho Xa Nặc, bảo ông
ta mang về cho phụ hoàng.
45. Hỏi:
Rồi thái tử đi đâu?
Đáp:
Ngài đi bộ đến thành Vương Xá (Rajagraha), kinh đô của vua Tần Bà Sa La
(Bimbisara), xứ Ma Kiệt Đà (Magadha).
46. Hỏi:
Tại đây, ai đă đến thăm thái tử?
Đáp:
Vua cha và cả triều đ́nh. [3]
46a. Hỏi:
Sau đó, thái tử đi đâu?
Đáp:
Đến Ưu Lâu Tần Loa (Uruvela), gần chùa Đại Giác (Maha Bodhi) hiện nay, ở Bồ
Đề Đạo Tràng (Buddha Gaya).
47. Hỏi:
Tại sao Thái tử đến đó?
Đáp:
V́ trong rừng này có nhiều nhà tu khổ hạnh, rất đạo đức mà thái tử về sau đă
trở thành đệ tử của họ, với hy vọng t́m ra chân lư mà Ngài đang tầm cầu.
48. Hỏi:
Các đạo sĩ này theo tôn giáo nào?
Đáp:
Theo Ấn Độ giáo (Hindu): họ là các vị Bà La Môn – Brahmanas.[4]
49. Hỏi:
Họ dạy những ǵ?
Đáp:
Tự hành hạ, dày ṿ mănh liệt thân xác để con người có thể đạt đến sự giác
ngộ hoàn toàn.
50. Hỏi:
Phải chăng thái tử đă t́m thấy đúng như thế?
Đáp:
Không; thái tử đă t́m học phương pháp và thực hành theo những cách tu ép xác
của họ, nhưng Ngài vẫn không t́m ra được nguồn gốc khổ đau của kiếp người và
con đường dẫn đến sự giải thoát hoàn toàn.
51. Hỏi:
Rồi thái tử đă làm ǵ?
Đáp:
Ngài đi vào rừng gần Ưu Lâu Tần Loa (Uruvela), tu thiền định trong 6 năm,
thực hành pháp môn ép xác khổ hạnh nhứt.
52. Hỏi: Chỉ có một ḿnh thái
tử?
Đáp:
Không; có năm người bạn Bà La Môn cùng tu với Ngài.
53. Hỏi:
Các vị đó tên ǵ?
Đáp:
Kiều Trần Như (Kondanna), Bạc Đề (Bhaddiya), Thập Lực Ca Diếp (Vappa), Ma Ha
Nam (Mahànàma), và Ác Bệ (Assaji).
54. Hỏi:
Thái tử đă áp dụng phương pháp tu hành nào nhằm khai mở tâm ḿnh để thấu
triệt toàn bộ chân lư?
Đáp:
Ngài đă tọa thiền, định tâm suy tưởng đến những vấn đề cao siêu của cuộc
sống, và khép kín nhăn căn và nhỉ căn, những điều có thể làm gián đoạn sự
quán sát nội tâm ḿnh.
55. Hỏi:
Thái tử đă nhịn ăn?
Đáp:
Vâng, suốt trong thời kỳ tu tập. Thái tử ngày càng dùng ít đồ ăn và thức
uống, cho đến khi Ngài mỗi ngày chỉ c̣n dùng một hột gạo hay hột mè.
56. Hỏi:
Phương pháp tu hành này có mang lại cho thái tử sự giác ngộ mà Ngài mong cầu
không?
Đáp:
Không. Thân h́nh thái tử ngày càng trở nên gầy yếu và sức khỏe kém sút dần
cho đến một ngày kia, trong lúc thái tử đang chậm răi đi hành thiền, th́nh
ĺnh Ngài bị kiệt sức, và té xỉu xuống đất bất tỉnh.
57. Hỏi:
Các bạn đồng tu với thái tử nghĩ thế nào?
Đáp:
Họ tưởng rằng thái tử đă chết, nhưng một lát sau, Ngài tỉnh lại.
58. Hỏi:
Rồi thái tử làm sao?
Đáp:
Ngài nghĩ rằng sự giác ngộ không bao giờ có thể đạt tới bằng cách hành hạ
xác thân hay nhịn đói, mà chỉ thành tựu được bằng sự giác ngộ nội tâm. Thái
tử vừa thoát chết do sự tuyệt thực mà vẫn không đạt được trí tuệ hoàn toàn.
Cho nên Ngài quyết định ăn uống trở lại hầu có thể sống lâu ít nhất đến ngày
thái tử thành bậc chánh giác.
59. Hỏi:
Ai cúng dường thức ăn cho thái tử?
Đáp:
Ngài nhận thức ăn ở nàng Tu Xà Đề (Sujata), con gái của nhà quư tộc, cô ta
nh́n thấy thái tử đang ngồi nơi gốc cây đa. Ngài đứng dậy nhận bát sữa cúng
dường, xuống tắm ở sông Ni Liên Thuyền (Neranjara), dùng thức ăn xong và đi
vào rừng.
60. Hỏi:
Thái tử đă làm ǵ ở đó?
Đáp:
Thái tử suy nghĩ để quyết định vào lúc chiều tối, thái tử đi đến cây Bồ đề
(Bodhi), nơi hiện nay có chùa Đại Giác (Mahabodhi).
61. Hỏi:
Rồi thái tử đă hành động thế nào?
Đáp:
Thái tử quyết tâm sẽ không rời khỏi địa điểm này, cho đến khi Ngài chứng
thành đạo quả.
62. Hỏi:
Chỗ nào nơi cây Bồ đề thái tử đă ngồi thiền định?
Đáp:
Phía xoay về hướng đông. [5]
63. Hỏi:
Trong đêm đó thái tử đă chứng ngộ những ǵ?
Đáp:
Ngài thấy rơ mọi kiếp trước của ḿnh, nguồn gốc của luân hồi sinh tử, và con
đường diệt trừ hết những dục vọng. Vào lúc b́nh minh hôm sau, tâm của Ngài
đă hoàn toàn chứng Đạo, như chiếc hoa sen nở trọn đều khắp, và từ nơi Ngài
tỏa ra ánh sáng của đạo vô thượng, hay Bốn Thánh Đế. Thái tử đă thành Phật -
bậc Giác Ngộ, đấng Toàn Giác (the Sarvajna).
64. Hỏi:
Phải chăng sau cùng, thái tử đă khám phá ra nguồn gốc khổ đau của nhân loại?
Đáp:
Cuối cùng, Ngài đă t́m thấy. Như ánh sáng mặt trời ban mai xóa tan bóng tối
của đêm đen, và phát hiện cây cối, ruộng đồng, núi đá, biển cả, sông ng̣i,
thú vật, người cùng vạn vật; từ nội tâm đức Phật tỏa ra toàn ánh sáng của
Giác Ngộ, và Ngài đă thấy rơ nguyên nhân sự khổ của kiếp người, cùng con
đường giải thoát những khổ đau ấy.
65. Hỏi:
Phải chăng Đức Phật đă chiến đấu dữ dội trước khi Ngài đạt tới sự toàn giác
này?
Đáp:
Vâng, những cuộc tranh đấu thật mănh liệt và khủng khiếp. Đức Phật đă chinh
phục nơi thân tâm Ngài những ác tính tự nhiên, cùng các ham muốn và dục vọng
của con người đă gây chướng ngại cho sự t́m thấy chân lư của chúng ta. Ngài
đă phải chế ngự những ảnh hưởng xấu của thế giới tội lỗi xung quanh Ngài.
Như một chiến sĩ chiến đấu anh dũng nơi chiến trường chống lại nhiều kẻ thù,
Đức Phật đă chiến thắng như một anh hùng chinh phục, đạt được mục đích của
Ngài; và sự huyền bí của nỗi khổ đau nhân loại đă được t́m thấy.
66. Hỏi:
Đức Phật áp dụng đạo giác ngộ Ngài đă chứng được như thế nào?
Đáp:
Nói chung, đầu tiên Đức Phật do dự thuyết giảng giáo lư đó cho mọi người.
67. Hỏi:
Tại sao?
Đáp:
Bởi v́ nó quá nhiệm mầu cao siêu. Đức Phật sợ rằng rất ít người có thể thấu
hiểu được.
68. Hỏi:
Điều ǵ khiến đức Phật đă thay đổi ư tưởng này? [6]
Đáp:
Đức Phật nghĩ rằng Ngài có trách nhiệm thuyết giảng càng rơ ràng và dễ hiểu
càng tốt, điều Ngài đă chứng ngộ, và tin tưởng chân lư có thể thâm nhập tâm
trí đại chúng tùy theo nghiệp lực của mỗi cá nhân. Đó là con đường giải
thoát duy nhất, và Đức Phật thấy rằng mọi người đều có khả năng đạt tới. V́
vậy, Ngài quyết định bắt đầu giáo hóa cho năm người bạn cũ mà trước kia họ
đă từ giă Đức Phật khi thấy Ngài chấm dứt lối tu khổ hạnh.
69. Hỏi:
Đức Phật gặp những người này ở đâu?
Đáp:
Tại vườn Lộc Uyển ở Chư Thiên Đọa Xứ (Isipatana), gần thành phố Ba La Nại (
70. Hỏi:
Ngày nay địa điểm này có thể t́m thấy không?
Đáp:
Vâng, một phần di tích của ngôi tháp (stupa) hiện c̣n tồn tại ngay ở chỗ đó.
71. Hỏi:
Năm người bạn cũ có sẵn sàng thọ giáo với Đức Phật không?
Đáp:
Đầu tiên, họ không chịu nghe, nhưng khi thấy Đức Phật xuất hiện với tướng
hảo trang nghiêm, và lời dạy của Ngài hiền ḥa và có sức thu hút đến nỗi sau
đó họ quay lại và hết sức chú ư đến Ngài.
72. Hỏi:
Bài pháp này gây ảnh hưởng thế nào đến họ?
Đáp:
Vị niên trưởng, đức Kiều Trần Như (Kondanna), người “hiểu biết” (Anna) là vị
đầu tiên không c̣n thành kiến, chịu thọ lănh giáo pháp của Đức Phật trở
thành đệ tử của Ngài, và chứng đắc quả A La Hán (Arhatship). Bốn vị kia, ít
lâu sau cũng theo gương Ngài Kiều Trần Như.
73. Hỏi:
Kế tiếp, Đức Phật đă hóa độ cho ai?
Đáp:
Một thanh niên trẻ giàu có, tên Da Xá (Yasa), con của một thương gia phú
quư. Trong ṿng 3 tháng, có 60 người trở thành đệ tử ( xuất gia) của Đức
Phật.
74.
Hỏi: Ai là nữ đệ tử tại gia đầu
tiên của Đức Phật?
Đáp:
Mẹ và vợ của Da Xá (Yasa).
75. Hỏi:
Đức Phật đă làm ǵ vào lúc đó? [7]
Đáp:
Đức Phật gọi các đệ tử của Ngài lại, chỉ giáo đầy đủ, và phái họ đi khắp nơi
để truyền bá giáo pháp của Ngài.
76. Hỏi:
Căn bản của giáo lư ấy là ǵ?
Đáp:
Đó là con đường giải thoát dẫn đến đời sống thánh thiện và hành tŕ theo
những giới luật (Phật chế) mà chúng sẽ được giải thích sau.
77. Hỏi:
Xin cho tôi biết thực hành theo cuộc sống đó, Đức Phật gọi là ǵ?
Đáp:
Bát Chánh Đạo.
78. Hỏi:
Từ ngữ Pali gọi như thế nào?
Đáp:
Ariyo Atthangiko Maggo.
79. Hỏi:
Sau đó, Đức Phật đi đâu?
Đáp:
Ngài đến Ưu Lâu Tần Loa (Uruvela).
80.Hỏi:
Đức Phật làm ǵ ở đây?
Đáp:
Ngài hóa độ cho ông Ca Diếp (Kashyapa), nhà thông bác trứ danh và là thầy
của những tu sĩ (Jatilas), một giáo phái lớn của các tín đồ thờ lửa, tất cả
những người này đều trở thành môn đệ của Đức Phật.
81. Hỏi:
Kế tiếp, vị đại đệ tử của Đức Phật là ai?
Đáp:
Vua Tần Bà Sa La (Bimbisara) của vương quốc Ma Kiệt Đà (
82. Hỏi:
Vào thời đó, hai vị nào là đệ tử trí tuệ và thân tín bậc nhất của Đức Phật?
Đáp:
Ngài Xá Lợi Phất (Sàriputta) và Mục Kiền Liên (Moggallàna), trước kia họ là
môn đồ chính của nhà tu khổ hạnh Sanjaya.
83. Hỏi:
Họ nổi tiếng về những điều ǵ?
Đáp:
Ngài Xá Lợi Phất với trí tuệ (Prajna) bậc nhất, và đức Mục Kiền Liên, có
thần thông (Iddhi) đệ nhất.
84. Hỏi:
Những thần thông này có ǵ huyền bí không?
Đáp:
Không, đó là điều tự nhiên đối với mọi người, và người nào chuyên tu tập,
đều có thể đạt tới.
85. Hỏi:
Sau ngày xuất gia, Đức Phật có nhận được tin tức ǵ của gia đ́nh hoàng tộc
không?
Đáp:
Có, khoảng 7 năm sau, trong lúc Đức Phật trú tại thành Vương Xá, vua cha
Tịnh Phạn (Suddhodana), đă gửi sứ thần đến triệu thỉnh Ngài trở về thăm phụ
hoàng, trước khi nhà vua băng hà.
86. Hỏi:
Đức Phật có trở về không?
Đáp:
Có. Vua cha cùng với thân tộc và các triều thần rất vui mừng ra gặp và
nghênh đón Ngài.
87. Hỏi:
Đức Phật có bằng ḷng nhận lại chức vị cũ của Ngài không?
Đáp:
Không, Đức Phật đă hiền từ giải thích cho phụ hoàng biết rằng thái tử Tất
Đạt Đa đă giải thoát khỏi cuộc sống (thế tục) và như thế, hiện nay đă trở
thành địa vị của một Đức Phật; mà mọi người đều có thể gần gũi, thân thích
với Ngài. Thay v́ cai trị một bộ tộc hay quốc gia, như một nhà vua thế gian,
đức Phật dùng giáo pháp (Dharma) đă cảm hóa tâm hồn tất cả mọi người trở
thành đệ tử của Ngài.
88. Hỏi:
Đức Phật có gặp nàng Da Du Đà La (Yasodhara) và con của Ngài là La Hầu La
không?
Đáp:
Có. Vợ của Ngài đă hết sức nhớ thương, khóc lóc thảm thiết. Nàng cũng bảo La
Hầu La thỉnh cầu Ngài ban cho ḿnh quyền thừa kế Ngài, như con của một vị
quốc vương.
89. Hỏi:
Rồi sự việc xảy ra như thế nào?
Đáp:
Đức Phật đă thuyết giảng giáo pháp cho từng người và tất cả, nhằm chữa lành
mọi thứ phiền năo. Vua cha, con, vợ, ngài A Nan (em con chú), Đề Bà Đạt Đa
(em con chú, và anh rể của Ngài), tất cả đều quy y, trở thành môn đồ của Đức
Phật. Hai vị đệ tử bác học khác là ngài A Na Luật (Anuruddha), sau này trở
thành bậc đại thiên nhăn; và ngài Ưu Bà Ly (Upali), thợ cạo tóc, sau thành
vị tŕ luật (Vinaya) đệ nhất. Cả hai ngài đều rất nổi danh.
90. Hỏi:
Vị Tỳ Kheo Ni (Bhikkhuni) đầu tiên là ai?
Đáp:
Bà Ba Xà Ba Đề (Prajàpati) là d́ và di mẫu của thái tử Tất Đạt Đa. Nhờ bà,
nàng Da Du Đà La và nhiều phu nhân khác được Đức Phật thu nhận làm nữ đệ tử
xuất gia tức là Tỳ Kheo Ni.
91. Hỏi:
Việc xuất gia của thái tử Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn; Đề Bà Đạt Đa, cháu
của vua; Da Du Đà La, dâu của vua; và La Hầu La, cháu nội của vua; đă gây
nên hậu quả như thế nào đối với nhà vua?
Đáp:
Việc đó làm cho vua Tịnh Phạn rất buồn, và nhà vua đă phiền trách Đức Phật,
khiến Ngài phải chế ra điều luật là giáo hội không nên nhận người xuất gia,
mà không có sự bằng ḷng của cha mẹ họ đang c̣n sống.
92. Hỏi:
Xin cho tôi biết về số phận của Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) như thế nào?
Đáp:
Đề Bà Đạt Đa là người rất thông minh, và nhanh chóng liễu Đạo, nhưng cũng có
nhiều tham vọng, nên ông ta đă sanh tâm đố kỵ và oán thù Đức Phật; cuối cùng
Đề Bà đă âm mưu sát hại Ngài. Cũng do sự xúi giục của ông ta, vua A Xà Thế
(Ajàtashatru), con vua Tần Bà Sa La, đă giết hại người cha cao quư của ḿnh,
và trở thành đệ tử của Đề Bà Đạt Đa.
93. Hỏi:
Đề Bà có gây tổn hại ǵ cho Đức Phật không?
Đáp:
Không được, nhưng ác tâm của Đề Bà Đạt Đa âm mưu chống Đức Phật trở lại hại
chính ông ta; và Đề Bà đă phải (chịu quả báo) chết một cách thảm khốc.
94. Hỏi:
Đức Phật đă đi giáo hóa trong bao nhiêu năm?
Đáp:
Bốn mươi lăm năm, trong thời gian này, Ngài đă thuyết rất nhiều bài pháp.
Thói thường Đức Phật và đệ tử của Ngài đi du hóa và thuyết giảng trong 8
tháng nắng, nhưng vào mùa an cư (Was)- mùa mưa - đức Phật và các đệ tử dừng
nghỉ, nhập hạ ở các tịnh xá (pansulas) hay chùa (vihàras), được xây cất dâng
cúng (cho Ngài và Chư Tăng) bởi những vị vua chúa và thí chủ giàu có.
95. Hỏi:
Những tịnh xá nào danh tiếng nhất?
Đáp:
Kỳ Viên Tịnh Xá (Jetàvanàràma), Trúc Lâm Tịnh Xá (Veluvanàràma), Bổ La Phạ
Tịnh Xá (Pubbàràma), Ni Câu Đà Tịnh Xá (Nigrodhàràma), và Lộc Dă Uyển Tịnh
Xá (Isipatanàràma).
96. Hỏi:
Hạng người nào đă quy y Đức Phật và đệ tử của Ngài?
Đáp:
Dân chúng đủ mọi tầng lớp, quốc gia, giai cấp, vua chúa (ràjas), và công
nhân giàu nghèo, quyền thế cũng như b́nh dân, ngu dốt và thông minh nhất.
Giáo pháp của Đức Phật phù hợp với tất cả mọi người.
97. Hỏi:
Đức Phật đă nhập diệt vào lúc nào?
Đáp:
Vào năm thứ 45, sau khi Ngài chứng đạo Giác ngộ vào ngày trăng tṛn tháng 5.
Nhận biết rằng ngày viên tịch gần kề, vào buổi tối, Đức Phật đến thành Câu
Thi Na (Kusinàgàra), một nơi cách thành phố Ba La Nại (Benares) khoảng 120
dặm. Trong rừng cây Sa La của vương quốc Mạt La (Mallas), tại rừng
U-ba-vạc-ta-na (Upavartana) ở Câu Thi Na; giữa hai cây Sa La (sala), Đức
Phật cho kê chỗ nằm của Ngài, theo phong tục cổ truyền, quay đầu về hướng
bắc. Ngài nằm trên đó, với tâm hoàn toàn thanh tịnh, thuyết pháp cho các đệ
tử nghe lời di giáo cuối cùng, rồi vĩnh biệt đồ chúng.
98. Hỏi:
Những lần du hóa sau cùng đó, Đức Phật có quy y cho đệ tử mới nào nữa không?
Đáp:
Có, một nhân vật trọng yếu, vị đại Bà La Môn bác học tên Tu Bạt Đà La
(Subhadra). Đức Phật cũng thuyết pháp cho các vương tôn xứ Mạt La và những
người hầu cận của họ.
99. Hỏi:
Vào lúc tảng sáng việc ǵ đă xảy ra?
Đáp:
Đức Phật nhập đại định (Samàdhi), và rồi Ngài nhập Niết Bàn (Nirvàna).
100. Hỏi: Đức Phật khuyên các
đệ tử của Ngài những ǵ trong lời di huấn cuối cùng?
Đáp:
Ngài dạy: “Này các Tỳ Kheo, Như Lai giờ đây khuyên các con nên ghi nhớ rằng
thân thể và năng lực của con người đều phải hủy diệt. Hăy tinh tấn tu tập để
giải thoát”.
101. Hỏi:
Những chứng cứ xác thực ǵ cho chúng ta thấy rằng Đức Phật, thái tử Tất Đạt
Đa xưa kia, là một nhân vật lịch sử?
Đáp: Sự hiện hữu của Ngài đă chứng tỏ quá rơ ràng như cuộc đời
của bất cứ nhân vật nào khác trong cổ sử.
102. Hỏi:
Hăy kể ra một vài chứng cớ đó.
Đáp:
1) Bằng chứng của những nhân vật đă trực tiếp biết Đức Phật.
2) Sự khám phá ra nhiều nơi và di tích của những kiến trúc
(tịnh xá) được ghi chép trong các mẩu chuyện vào thời Phật c̣n tại thế.
3)
Những bia kư, trụ đá và bảo tháp (dagobas) do các vua chúa sống gần thời đại
Đức Phật xây dựng nên để tưởng niệm Ngài, đă có thể chứng thực lịch sử về
cuộc đời của đấng Giác Ngộ.
4) Sự
liên tục tồn tại của đoàn thể tăng già (Sangha) do Đức Phật thành lập, và sự
duy tŕ của họ về sự thực đời sống của Ngài ngay từ đầu, đă được lưu truyền
từ thế hệ này qua thế hệ khác.
5) Sự kiện
ngay trong năm Đức Phật nhập diệt, và nhiều lần sau đó, các cuộc họp và đại
hội Tăng Già đă được tổ chức để kết tập kinh tạng đương thời của Đức Phật;
và sự truyền thừa những giáo lư đă được duyệt xét đó, từ các bậc tôn sư đến
chư đệ tử, cho đến ngày nay.
6) Sau khi làm lễ hỏa táng, xá lợi (xương tro) của Đức Phật được
phân chia cho 8 vị vua chúa, và mỗi ngọn tháp (stùpa) được xây lên để thờ
một phần. Phần xá lợi do vua A Xà Thế thỉnh về tôn trí thờ tại ngôi tháp ở
thành Vương Xá (Rajagaha); và không đầy 2 thế kỷ sau, đă được vua A Dục
(Asoka) đem phân phát để thờ trong toàn khắp vương quốc của ông. Nhà vua, dĩ
nhiên, có nhiều điều kiện để biết rơ những xá lợi này đúng là xá lợi của Đức
Phật hay không; ngay từ lúc ban đầu, chúng được bảo tŕ tại bảo tàng viện
hoàng gia ở Pát-Na (
7) Nhiều đệ tử của
Đức Phật là các bậc A La Hán (Arhats). Và do đó, có thể kiểm soát tuổi thọ
của họ, nên đă sống được nhiều năm; và không tránh khỏi có hai hoặc ba vị
trong số đó, đă sống kế tiếp nhau, vào thời kỳ khoảng giữa Đức Phật nhập
diệt và triều đại của vua A Dục. V́ thế, nhà vua có thể nhận được từ người
cùng thời, mọi điều chứng thực về sự kiện của đời sống Đức Phật [8]
8) Chúng ta biết, tài liệu cổ sử đáng tin cậy nhất, tập “Đại sử” có
ghi chép các biến cố lịch sử Tích-Lan (Sinhalese) về triều đại vua Vijaya,
năm 543 trước tây lịch - phần lớn thời kỳ của Đức Phật – và cho chúng ta rơ
những điều đặc biệt nhất về đời sống của Ngài, cũng như đời sống của vua A
Dục và các nhà vua khác liên quan đến lịch sử Phật giáo.
103. Hỏi:
Đức Phật được gọi bằng những danh xưng tôn kính nào?
Đáp:
Thích Ca Mâu Ni (Sàkyamuni), Thích Ca Sư Tử (Sàkya-Simha), Thiện Thệ (Sugata),
Đạo Sư (Satthạ), Đấu Chiến Thắng (Jina), Bạc Già Phạm (Bhagavat), Thế Tôn (Lokanàtha),
Nhất Thiết Trí (Sarvajna), Pháp Vương (Dharmaràja), Như Lai (Tathàgata) v.v…
PHẦN II
GIÁO PHÁP HAY DHARMA
106. Hỏi: Danh từ “Phật”
(Buddha) có nghĩa là ǵ?
Đáp:
Bậc Giác Ngộ hay đấng có trí tuệ hoàn toàn.
107. Hỏi:
Phải chăng bạn cho rằng có nhiều vị Phật đă ra đời trước Đức Phật (Thích Ca)
này?
Đáp:
Vâng, chúng tôi tin rằng dưới sự vận hành của luật nhân quả vĩnh cửu, cứ
khoảng cách một thời gian, một Đức Phật sẽ xuất hiện, khi nhân loại đắm ch́m
trong khổ đau v́ vô minh và cần đến sự giác ngộ, th́ hạnh nguyện của Đức
Phật là phải ra đời để giáo hóa chúng sanh (xem lại câu hỏi số 11)
108. Hỏi:
Bằng cách nào để (một chúng sanh) trở thành một đức Phật.
Đáp:
Một người, khi nghe và gặp một trong các Đức Phật ra đời ở thế gian, liền
phát nguyện sống theo Ngài như vậy, đến một kiếp trong tương lai, khi hành
giả thấy nhân duyên thích hợp, họ cũng sẽ thành Phật để hướng dẫn nhân loại
thoát ṿng sanh tử luân hồi.
109. Hỏi:
Hành giả đă hành động như thế nào?
Đáp:
Trải qua nhiều kiếp sống, hành giả nỗ lực diệt trừ ḷng tham dục, tu tập để
đạt đến trí tuệ, và phát triển những năng lực cao hơn. Nhờ vậy, hành giả dần
dần trở nên thánh thiện, siêu việt hơn trong cá tính, và sâu dầy hơn trong
đạo đức cho đến khi, trải qua vô lượng kiếp luân hồi, cuối cùng hành giả đạt
đến quả vị Toàn Thiện, Giác Ngộ, Toàn Giác, đấng Tôn Sư lư tưởng của nhân
loại.
110. Hỏi:
Trong khi trải qua những kiếp tái sinh, sự phát triển dần dần này đang diễn
tiến, chúng ta gọi tên hành giả là ǵ?
Đáp:
Bodhisat hay Bodhisattva (Bồ Tát). Như vậy, thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm
(Siddhartha Gautama) là một vị Bồ Tát cho đến khi Ngài thành Phật dưới cây
Bồ Đề (Bodhi) thiêng liêng ở Gaya.
111. Hỏi:
Chúng ta có tài liệu nào nói về những kiếp tái sinh của Ngài làm Bồ Tát hay
không?
Đáp:
Trong tập Bổn Sanh Kinh (Jàtakat-thakathà), cuốn sách ghi chép những truyện
tiền thân của Bồ Tát, có khoảng vài trăm mẫu chuyện về loại đó.
112. Hỏi:
Những mẫu chuyện này dạy bài học ǵ?
Đáp:
Một con người, trải qua vô lượng kiếp luân hồi, có thể mang hạnh nguyện rộng
lớn và từ bi, giúp hành giả diệt trừ những ư tưởng xấu và phát triển các
việc lành.
113. Hỏi:
Chúng ta có thể ấn định số lượng những kiếp tái sinh mà một vị Bồ Tát cần
phải trải qua trước khi Bồ Tát trở thành Phật được không?
Đáp:
Dĩ nhiên là không. Điều đó tùy thuộc đức hạnh của vị Bồ Tát, tŕnh độ tu
chứng mà Ngài đạt tới khi Bồ Tát phát nguyện trở thành Phật, và những điều
khác.
114. Hỏi:
Chúng ta có cách để phân loại các vị Bồ Tát được không? Nếu được hăy giải
thích.
Đáp:
Bồ Tát - vị Phật tương lai - được phân làm 3 hạng.
115. Hỏi:
Hăy kể tiếp ba hạng Bồ Tát này là ǵ?
Đáp:
Pannàdhika hay Udghatitajna – “Bậc chứng quả chậm nhất”, Sadhàdhika hay
Vipachitajna – “Bậc chứng quả chậm” và Viryàdhika hay Gneyya - “Bậc chứng
quả nhanh chóng”. Bậc Bồ Tát Pannàdhika tu hạnh trí tuệ, bậc Bồ Tát
Saddhàdhika tu hạnh Tín, và Bồ Tát Viryàdhika tu hạnh Tinh tấn. Hạng Bồ Tát
thứ nhất được hướng dẫn bởi Trí tuệ,và không vội vàng; hạng thứ hai hoàn
toàn đặt ở Đức Tin, nên không chú tâm đến sự hướng dẫn của Trí Tuệ; và hạng
thứ ba không bao giờ tŕ hoăn trong việc làm điều thiện. bất chấp mọi hậu
quả xảy đến cho chính ḿnh. Bồ Tát thực hành khi nhận thấy đó là việc lành
nhất và cần phải làm.
116. Hỏi:
Khi vị Bồ Tát của chúng ta đă thành Phật, Ngài thấy điều ǵ là nguyên nhân
khổ đau của nhân loại? Hăy nói cho tôi biết trong một danh từ.
Đáp:
Vô Minh (Avidyà).
117. Hỏi:
Bạn có thể cho tôi biết phương thuốc chữa trị không?
Đáp:
Đoạn diệt Vô minh để có Trí tuệ (Pràjna).
118. Hỏi:
Tại sao Vô Minh gây nên đau khổ?
Đáp:
Bởi v́ nó khiến chúng ta tham đắm những điều không đáng đắm say, đau buồn
khi chúng ta không nên sầu khổ; nhận cho là chân thực cái điều không phải
thực mà chỉ là giả dối; và hướng cuộc sống của chúng ta chạy đuổi theo những
đối tượng vô giá trị, xao lăng đến điều thực ra là quư giá nhất.
119. Hỏi:
Và điều quư giá nhất là ǵ?
Đáp:
Thấu triệt tất cả sự mầu nhiệm của sự sống và định mạng của con người, để
chúng ta ư thức được rằng cuộc sống này và những tương quan với nó không hơn
giá trị chân thực của chúng; và do đó, chúng ta có thể sống theo con đường
đạo để bảo đảm hạnh phúc lớn lao nhất, và sự ít khổ đau nhất cho đồng loại
và chính chúng ta.
120. Hỏi:
Ánh sáng ǵ có thể phá tan Vô Minh và diệt trừ được mọi phiền năo của chúng
ta?
Đáp:
Sự hiểu biết về “Tứ Diệu Đế” như Đức Phật đă dạy.
121. Hỏi:
Tứ Diệu Đế là ǵ?
Đáp:
1) Những khổ đau của sự sống tiếp diễn tạo nên ṿng sanh tử luân hồi, từ đời
này qua đời khác.
2)
Nguyên nhân sanh ra sự khổ là do ḷng dục vọng ích kỷ, luôn luôn muốn tái
diễn nhằm thỏa măn bản thân mà không bao giờ có thể chấm dứt.
3) Sự diệt trừ
ḷng ái dục đó, hay tự ḿnh lánh xa nó.
4) Con đường dẫn đến sự chấm dứt dục vọng.
122. Hỏi:
Hăy kể cho tôi biết những điều ǵ gây nên sự khổ.
Đáp:
Sanh, lăo, bệnh, tử; phải sống xa những vật chúng ta yêu thích; gần gủi
những người ta oán ghét; mong cầu điều ḿnh muốn mà không được.
123. Hỏi:
Những sự khổ này khác biệt nhau nơi từng mỗi cá nhân phải không?
Đáp:
Vâng, nhưng mọi người sẽ chịu sự khổ tùy theo mức độ (dục vọng).
124. Hỏi:
Làm thế nào chúng ta giải thoát được những khổ đau tạo nên do ḷng ái dục
không biết thỏa măn, và ḷng tham mù quáng?
Đáp:
Bằng cách chế ngự và đoạn diệt hoàn toàn sự đắm say cuồng nhiệt cuộc sống và
những lạc thú của nó, đă gây nên khổ đau.
125. Hỏi:
Làm sao chúng ta có thể đạt tới sự chinh phục như thế?
Đáp:
Bằng cách thực hành theo Bát Chánh Đạo mà Đức Phật đă chứng ngộ và chỉ bày
(cho chúng ta).
126. Hỏi:
Ư bạn muốn nói ǵ về danh từ đó? Bát Chánh Đạo có nghĩa thế nào? (từ ngữ
Pali xin xem câu hỏi 78).
Đáp:
Tám phần của con đường này gọi là angas. Chúng gồm có: 1. Chánh kiến (như là
luật Nhân Quả hay Karma); 2. Chánh tư duy; 3. Chánh ngữ; 4. Chánh nghiệp; 5.
Chánh mạng; 6. Chánh tinh tấn; 7. Chánh niệm; 8. Chánh định. Người nào ghi
nhớ và thực hành theo Bát Chánh Đạo này sẽ không c̣n khổ đau và cuối cùng
đạt tới sự giải thoát.
127. Hỏi:
Bạn có thể cho một từ ngữ chính xác hơn chữ “salvation” (sự cứu rỗi) hay
không?
Đáp:
Vâng, “emancipation” (sự giải thoát).
128. Hỏi:
Vậy giải thoát khỏi điều ǵ?
Đáp:
Giải thoát khỏi sự khổ đau của cuộc sống thế gian và ṿng sanh tử luân hồi,
mà tất cả đều do vô minh, ḷng tham và dục vọng bất chính.
129. Hỏi:
Và khi sự cứu rỗi hay giải thoát này được thành tựu th́ chúng ta sẽ đạt tới
cảnh giới ǵ?
Đáp:
Niết Bàn (Nirvana).
130. Hỏi:
Niết Bàn là ǵ?
Đáp:
Trạng thái của sự chấm dứt hoàn toàn mọi sự đổi thay (vô thường), trạng thái
của sự an tịnh tuyệt đối, của sự không c̣n dục vọng lừa dối, và khổ đau;
cũng như sự diệt trừ hoàn toàn mọi thứ tạo thành cơ thể con người. Trước khi
chứng đắc Niết Bàn, con người triền miên bị tái sanh; nhưng khi đạt tới Niết
Bàn, con người không c̣n luân hồi sanh tử nữa.
131. Hỏi:
Ở đâu chúng ta có thể t́m thấy sự thảo luận uyên bác về danh từ Niết Bàn và
một bản kê nhiều từ ngữ khác mà các nhà cựu học giả Pali đă cố gắng giải
thích nó?
Đáp:
Trong cuốn Tự Điển ngôn ngữ Pali danh tiếng của học giả quá cố, ông
R.C.Childers, có một bản giải thích đầy đủ [9]
132. Hỏi:
Nhưng một vài ngựi tưởng tượng Niết Bàn như một cảnh giới ở cơi Trời hay
Thiên đựng. Phật giáo có dạy như thế không?
Đáp:
Không. Khi đệ tử Ku-ta-đan-ta (Kuta-danta) thỉnh vấn Đức Phật “Niết Bàn ở
đâu”, Ngài trả lời rằng “ở nơi nào giới luật được hành tŕ”.
133. Hỏi:
Nguyên nhân ǵ đă khiến chúng ta bị luân hồi?
Đáp:
Do ḷng tham dục ích kỷ không bao giờ thỏa măn (tiếng Phạn: Trshnà; Pali:
Tanhà) những sự vật thuộc hoàn cảnh của đời sống cá nhân trong thế giới vật
chất. Ḷng ái dục không biết nhàm chán về cái thân này (bhàva: hữu) là động
cơ, và tự nó có năng lực sáng tạo mạnh đến nỗi có thể lôi kéo con người sanh
trở lại vào cuộc sống thế gian.
134.Hỏi:
Phải chăng sự luân hồi của chúng ta là do kết quả của ḷng ái dục không biết
thỏa măn của chúng ta?
Đáp:
Vâng; và do bởi việc làm thiện hoặc ác của cá nhân chúng ta.
135. Hỏi: Hành động thiện hoặc
ác của chúng ta quyết định trạng thái, hoàn cảnh hay h́nh thức mà trong đó
chúng ta sẽ đầu thai vào phải không?
Đáp:
Đúng vậy. Luật (nhân quả) dạy rằng nếu chúng ta làm điều thiện, chúng ta sẽ
hưởng quả lành và hạnh phúc ở kiếp sau; nếu làm việc ác, đời sau chúng ta sẽ
chịu (quả báo) khốn cùng và khổ đau.
136. Hỏi:
Yếu điểm của Phật giáo là lư thuyết cho rằng mọi quả báo đều là kết quả của
nguyên nhân hiện tại, phải vậy không?
Đáp:
Phải, do nguyên nhân gần hoặc xa.
137. Hỏi:
Luật nhân quả này chúng ta gọi là ǵ?
Đáp:
Áp dụng cho mọi cá nhân, gọi là nghiệp (Karma) hay hành động. Nó có nghĩa là
chính mọi hành động hay việc làm của chúng ta sẽ mang lại cho chúng ta bất
cứ điều hạnh phúc hay đau khổ mà chúng ta phải chịu.
138. Hỏi:
Một người làm ác có thể thoát khỏi nghiệp báo của họ được không?
Đáp:
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) dạy: “Không chỗ nào ở thế gian này, hoặc trên
trời, dưới biển, hay trốn vào động núi, tránh được quả ác nghiệp”.
139. Hỏi:
Một người làm việc thiện có thể thoát được quả báo không?
Đáp:
Do kết quả của những hành động lành, một người có thể được hưởng những phước
đức (y, chánh báo) về đất nước, thân thể, hoàn cảnh xung quanh và sự giáo
dục trong đời sau của hành giả nhằm tránh khỏi những kết quả của Nghiệp
(Karma) xấu và giúp cho sự phát triển (tu hành) cao hơn của họ.
140. Hỏi:
Những điều đó được gọi là ǵ?
Đáp:
Sự tái sanh thuận lợi (Gati Sampatti), h́nh tướng đẹp đẽ (Upàdhi Sampatti),
thời cơ tiện lợi (Kali Sampatti) và phương pháp thành công (Payoga
Sampatti).
141. Hỏi:
Điều đó có thích hay không thích hợp với ư nghĩa thông thường và những diễn
giải của khoa học hiện đại?
Đáp:
Hoàn toàn thích hợp: Không có ǵ phải nghi ngờ về điều ấy.
142. Hỏi:
Phải chăng mọi người đều có thể trở thành Phật?
Đáp:
Theo lệ thường, không phải mọi người đều trở thành Phật; v́ cứ khoảng cách
một thời gian lâu dài mới có một vị Phật ra đời, và h́nh như khi hoàn cảnh
của nhân loại khẩn thiết mong cầu có một bậc thầy như thế thị hiện để chỉ
bày cho chúng sanh con đường Đạo dẫn đến Niết Bàn. Nhưng mọi người đều có
khả năng chứng đắc Niết Bàn bằng cách diệt trừ Vô Minh và đạt tới trí tuệ.
143. Hỏi:
Phật giáo dạy rằng con người có thể tái sanh vào thế giới của chúng ta, phải
vậy không?
Đáp:
Theo luật chung, đúng là như vậy, cho đến khi hành giả gây nhân được sanh
vào cảnh giới cao hơn; song những thế giới con người có thể sanh vào là vô
số. Thế giới mà một người sẽ luân hồi ở kiếp sau, cũng như bản chất của sự
đầu thai được quyết định bởi sự ưu thế của hành động thiện ác của cá nhân
đó. Nói cách khác, nó sẽ được điều khiển bởi dẫn lực của hành giả như khoa
học đă diễn tả; hoặc do bởi Nghiệp lực (Karma) của người đó theo lối nói của
người Phật tử chúng ta.
144. Hỏi:
Phải chăng có những thế giới hạnh phúc và những thế ǵới khác khổ đau hơn
thế giới của chúng ta?
Đáp:
Phật giáo dạy rằng có nhiều thế giới hệ (Sakwalas) gồm đủ loại, cao hoặc
thấp hơn, và chúng sanh ở mỗi thế giới đều thích ứng với sự phát triển (tu
tập) trong thế giới đó.
145. Hỏi:
Đức Phật có tóm lược toàn bộ giáo lư của Ngài trong một bài kệ (gatha) nào
không?
Đáp:
Có.
146. Hỏi:
Hăy đọc bài kệ (tiếng Pali) đó.
Đáp:
Sabba pàpassa Akaranam,
Kusalassaupasampada
Sachitta
pariyodapanam:
Etam Buddhànusasanam.
“Chớ làm những điều ác,
Gắng làm các việc lành,
Giữ tâm ư trong sạch:
Ấy, lời chư Phật dạy”.
147. Hỏi:
Trong ba câu đầu của bài kệ trên có những đặc điểm ǵ không?
Đáp:
Có: Câu thứ nhứt bao hàm toàn bộ tinh thần của Luật Tạng (Vinaya Pitaka);
câu hai, Kinh (Sutta) và câu ba, Luận Tạng (Abhidhamma). Bài kệ chỉ gồm 8 từ
ngữ Pali, tuy nhiên như giọt sương phản chiếu (ánh sáng) của những v́ sao,
chúng rạng ngời với tinh thần của toàn bộ giáo pháp của Đức Phật.
148. Hỏi:
Những giáo lư trên chứng tỏ Phật giáo là một tôn giáo tích cực hay tiêu cực?
Đáp:
“Tránh điều ác” có thể xem như tiêu cực, nhưng “nên làm việc lành”, và “giữ
tâm ư trong sạch” là những đức tánh tích cực. Đức Phật dạy rằng chúng ta
không những chỉ tránh điều ác mà c̣n nên làm việc lành.
149. Hỏi:
Những ai và điều ǵ –“Ba Phép Quy Y”- The Three Guides [10] mà người
Phật tử được khuyên nên theo.
Đáp:
Chúng được tŕnh bày trong “Ba phép Quy y” (Tisarana): “Tôi quy y Phật; Tôi
quy y Pháp; Tôi quy y Tăng”. Ba câu này, thực sự là Phật Pháp (Buddha
Dharma).
150. Hỏi:
Người Phật tử đọc phép Tam Quy này có ư nghĩa ǵ?
Đáp:
Hành giả muốn nói rằng họ tôn kính, xem đức Phật như một bậc thầy, một Thiện
Hữu và một vị Gưong Mẫu toàn giác; Pháp hay Giáo Lư chứa đựng những nguyên
tắc căn bản, bất biến của sự Công Bằng và Chân Lư, cũng như con đường dẫn
đến sự thể hiện cái tâm an lạc hoàn toàn trên thế gian; và Tăng Già như
những bậc Thầy và người gương mẫu cho Giáo Pháp cao siêu mà Đức Phật đă dạy.
151. Hỏi:
Phải chăng trong đoàn thể “Tăng Già” có các vị ít tu học và thiếu đạo đức?
Đáp:
Vâng, nhưng Đức Phật dạy rằng chỉ những đệ tử tinh tấn thọ tŕ giới luật,
chế ngự được tâm của họ, cố gắng đạt tới hay đă thành tựu một trong tám quả
thánh và toàn thiện, mới lập thành “Tăng Già” của Ngài. Tưởng nên ghi nhận
Tăng Già được nhắc đến trong “phép Tam Quy” (Tisarana) là chỉ cho bậc cao cả
đă chứng đắc một trong 8 quả vị toàn giác. Chỉ khoác chiếc y vàng, ngay cả
sự thọ giới, cũng không làm một vị tăng trở nên thanh tịnh hay đạo đức, hoặc
họ đáng được tôn kính.
152. Hỏi:
Vậy th́, người Phật tử chân chính có nên nhận các tỳ kheo (Bhikkhu) không có
giới đức làm thầy hướng dẫn cho ḿnh không?
Đáp:
Chắc chắn là không.
153. Hỏi:
Năm điều tuân theo hoặc răn cấm, gọi là ngũ giới (Pancha Sila) mà người Phật
tử tại gia nói chung bắt buộc phải thọ tŕ là những ǵ?
Đáp:
Chúng gồm những giới điều sau đây mà Phật tử thường đọc thuộc ḷng tại các
chùa (Vihàras):
Tôi nguyện giữ giới không sát sanh.
Tôi nguyện giữ giới không trộm cắp.
Tôi nguyện giữ giới không tà hạnh [11].
Tôi nguyện giữ giới không nói dối.
Tôi nguyện giữ giới không uống rượu.
154. Hỏi:
Người sáng suốt khi đọc những giới luật này có ư tưởng ǵ?
Đáp:
Họ thấy rằng người nào cẩn trọng giữ ǵn chúng sẽ thoát mọi nguyên nhân khổ
đau của kiếp người. Nếu nghiên cứu lịch sử, chúng ta thấy rằng mọi sự đau
khổ tất cả đều phát xuất từ hành động phạm giới này hay giới kia của những
giới cấm trên.
155. Hỏi:
Những giới nào mà trí tuệ thấy xa (hậu quả) của Đức Phật, được chỉ dạy rơ
ràng nhất?
Đáp:
Giới thứ nhất, thứ ba và năm: V́ hành động sát sanh, tà hạnh và uống rượu;
đă gây nên ít nhất 95 phần trăm nỗi khổ đau cho con người.
156. Hỏi:
Người thọ tŕ các giới này được những lợi ích ǵ?
Đáp:
Họ thu nhận phước đức được nhiều hoặc ít tùy theo phương cách và thời gian
của sự giữ giới, và số giới điều họ giữ được; nghĩa là, nếu chỉ giữ một
giới, c̣n phạm 4 giới khác họ chỉ nhận được phước đức của sự thọ tŕ giới
đó; và giới ấy giữ được càng lâu th́ phước đức thu nhận sẽ càng lớn. Nếu ai
thọ tŕ được tất cả 5 giới th́ đời sau họ sẽ hưởng một đời sống cao sang và
hạnh phúc hơn.
157. Hỏi:
Những giới khác được xem như cần thiết cho người cư sĩ phát tâm thọ tŕ là
ǵ?
Đáp:
Bát giới (Atthanga Sila) gồm 5 giới đă kể trên (dâm dục thay cho tà hạnh ở
giới thứ ba) và cộng thêm 3 giới sau:
Tôi nguyện giữ giới không ăn phi thời (quá ngọ).
Tôi nguyện giữ giới không múa hát, dự nghe âm nhạc, xem các thú vui, cũng
như không đeo tràng hoa, thoa phấn, xức dầu thơm, dùng thẩm mỹ phẩm, xoa
kem, và đồ trang sức.
Tôi nguyện giữ giới không nằm, ngồi giường cao và rộng.
Ghế và giường (đi văng) nói ở đây là chỉ cho các thứ mà người thế tục dùng
để t́m thú vui và thụ hưởng khoái lạc. Người sống độc thân (xuất gia ) nên
tránh những điều này.
158. Hỏi:
Người Phật tử có quan niệm như thế nào về phước đức chân chính?
Đáp:
Không có phước đức nhiều, nếu chỉ hành động bề ngoài; mọi phước đức đều do
việc làm thiện phát xuất từ nội tâm.
159.
Hỏi: Hăy cho một ví dụ.
Đáp:
Một người giàu có thể dùng nhiều lakh (1 lakh bằng 100.000 Rupees, tiền Ấn
Độ) để xây tháp hoặc chùa (vihàras), tô đúc tượng Phật, tổ chức các ngày lễ
và đám rước, cúng dường trai những quán trọ dọc đường cho khách bộ hành;
nhưng tương đối ít có phước đức nếu họ hành động cốt phô trương để được mọi
người tán dương hoặc v́ bất cứ mục tiêu ích kỷ nào khác. Nhưng nếu họ làm
rất ít các việc lành mà với hảo tâm như là ḷng thương đồng bào của họ,
người đó thu được nhiều phước đức. Một hành động dù làm với ư nghĩ không
tốt, nhưng có lợi ích cho người khác, không phải cho chính ḿnh, đều được
xem là thiện. Một người tỏ ra có hành động lành khi làm dù mong được phần
công đức, nhưng với t́nh thương chân thực của họ, chớ không giả dối. Cùng
nguyên tắc ấy cũng áp dụng đối với các hành động xấu.
160. Hỏi:
Song việc làm nào được xem là nhiều phước đức nhất trong tất cả mọi hành
động?
Đáp:
Kinh Pháp cú (Dhammapada) dạy rằng, công đức truyền bá chánh pháp (Dharma)
là tối thắng hơn bất cứ thiện nghiệp nào khác.
161. Hỏi:
Những kinh điển nào chứa đựng trí tuệ thù thắng nhất của giáo lư Đức Phật?
Đáp:
Ba bộ kinh gọi là Tri-pi-ta-ca (Tripitakas) hay “Tam Tạng Kinh” (Three
Baskets).
162. Hỏi:
Ba Tạng Kinh Điển (Pitakas) có tên gọi là ǵ?
Đáp:
Luật Tạng (Vinaya Pitaka), Kinh Tạng (Sutta Pitaka), và Luận Tạng
(Abhidhamma Pitaka)
.
163. Hỏi:
Chúng gồm có những ǵ?
Đáp:
Luật Tạng bao gồm những lời dạy đạo đức và giới luật của đoàn thể Tăng Già
(Sangha); Kinh Tạng chứa đựng những bài kinh thuyết giảng đạo đức học cho
mọi người; và Luận Tạng giải thích về giáo pháp Tâm Lư Học của Đức Phật bao
gồm 24 pháp vi diệu tŕnh bày về mọi sự hoạt động của Vạn Vật.
164. Hỏi:
Người Phật tử có tin rằng những kinh tạng này do đấng Thượng Đế truyền đạt
và khám phá ra không?
Đáp:
Không; nhưng họ tôn kính kinh tạng bao hàm những phần giáo pháp cao siêu
nhất mà người nào thấu triệt các kinh điển này sẽ thoát khỏi ṿng sanh tử
luân hồi (Samsara).
165. Hỏi:
Trong toàn bộ Tam Tạng Kinh có tất cả bao nhiêu chữ?
Đáp:
Tiến sĩ Rhys Davids ước tính chúng có vào khoảng 1.752.800 chữ.
166. Hỏi:
Ba Tạng Kinh được ghi chép lần đầu tiên vào năm nào?
Đáp:
Khoảng năm 88-76 trước Tây Lịch dưới triều vua Tích Lan Vattagamani hoặc 330
năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn (Paranirvana).
167. Hỏi:
Chúng ta có lư để tin rằng tất cả những bài thuyết pháp của Đức Phật đều đă
được truyền lại cho chúng ta (đến ngày nay) hay không?
Đáp:
Chắc chắn là không, và sẽ là điều kỳ lạ nếu chúng c̣n giữ được đầy đủ như
vậy. Trải qua 45 năm sống với quần chúng, Đức Phật đă thuyết giảng hàng trăm
bài kinh. Trong số những bài pháp này, vào giai đoạn chiến tranh và ngược
đăi, nhiều bản kinh đă bị mất, lưu lạc đến những quốc gia xa xôi, và nhiều
bản đă bị cắt xén. Sử liệu ghi chép rằng những kẻ thù của Phật Giáo (Buddha
Dharma) đă thiêu hủy vô số kinh điển chất cao đến ngọn dừa.
168. Hỏi:
Phải chăng người Phật tử xem Đức Phật mà với đạo đức của Ngài có thể cứu rỗi
cho chúng ta thoát khỏi kết quả của những tội lỗi cá nhân?
Đáp:
Hoàn toàn không. Con người phải tự giải thoát cho chính ḿnh. Trừ khi họ làm
vậy, c̣n không họ sẽ tiếp tục luân hồi tử sinh - nạn nhân của sự vô minh và
kẻ nô lệ cho những ái dục không bao giờ thỏa măn được.
169. Hỏi:
Đức Phật đối với chúng ta và các chúng sanh khác, là nhân vật như thế nào?
Đáp:
Là vị Toàn Giác, bậc Cố Vấn toàn trí, đấng đă chứng ngộ và chỉ bày con đường
giải thoát; cũng như đă dạy rơ nguyên nhân và phương pháp chữa trị duy nhất
nỗi khổ đau của con người. Vạch ra con đường, chỉ dạy chúng ta làm cách nào
để thoát khỏi những hiểm nguy, Đức Phật đă trở thành bậc thầy hướng dẫn cho
chúng ta. Đối với chúng ta, Ngài như người hướng dẫn một kẻ mù vượt qua
chiếc cầu hẹp trên ḍng sông nước sâu, chảy xiết, và cứu giúp cho cuộc đời
của y.
170. Hỏi:
Nếu chúng ta cố gắng tŕnh bày toàn bộ tinh thần của giáo lư Đức Phật bằng
một danh từ, vậy chúng ta nên chọn từ ngữ nào?
Đáp:
Công b́nh.
171. Hỏi:
Tại sao?
Đáp:
V́ Phật giáo dạy rằng mọi người phải nhận chịu dưới sự điều động chính xác
của Nghiệp lực (Karma), phần thưởng hay h́nh phạt mà họ xứng đáng được
hưởng, không thêm không bớt. Không có một hành động thiện hoặc ác, dù cho
tầm thường và phạm tội kín đáo đi chăng nữa, mà có thể thoát khỏi cán cân
quả báo tương xứng công b́nh của Nghiệp lực.
172.
Hỏi: Nghiệp lực là ǵ (Karma)?
[12]
Đáp:
Luật nhân quả chi phối các khía cạnh tinh thần, vật chất và những lănh vực
khác. Phật giáo dạy rằng không có ǵ huyền nhiệm trong sinh hoạt của kiếp
người: Con người phải chịu và gặt hái kết quả mà họ đă gieo.
173. Hỏi:
Những từ ngữ nào dùng thích hợp nhất để diễn tả tinh hoa của Phật giáo?
Đáp:
Sự tự ḿnh tu tập và ḷng thương bao la.
174. Hỏi:
Học thuyết nào đă giúp Phật giáo trở thành cao siêu và chiếm địa vị ưu thế
đối với các tôn giáo trên thế giới?
Đáp:
Giáo lư Từ Bi (Metta hay Maitreya). Sự trọng yếu của giáo lư nầy, hơn nữa,
được đề cao qua việc dùng danh hiệu “Từ Thị” (Maitri) để chỉ cho Đức Phật
Tương Lai (Di Lặc).
175. Hỏi:
Tất cả những giáo lư mà bạn giải thích này, phải chăng Đức Phật đă suy tưởng
đến lúc Ngài (tọa thiền) ở cội Bồ Đề?
Đáp: Vâng, những điều này và
nhiều nữa có thể đọc thấy trong các kinh điển Phật giáo. Toàn bộ hệ thống
Phật giáo đă hiện ra trong tâm thức của Đức Phật vào lúc Ngài chứng Đạo Giác
Ngộ.
176. Hỏi:
Đức Phật đă ngồi thiền định gần cội Bồ Đề trong thời gian bao lâu?
Đáp:
Bốn mươi chín ngày.
177. Hỏi:
Chúng ta gọi tên bài pháp đầu tiên Đức Phật thuyết giảng cho năm người bạn
cũ của Ngài trước kia là ǵ?
Đáp:
Kinh Chuyển Pháp Luân (Dham-macakkappavattana Sutta) – bài kinh giảng giải
về những Nguyên tắc của Chân Lư (Doctrine) [13]
178. Hỏi:
Trong bài pháp này Đức Phật đă thuyết dạy những giáo lư ǵ?
Đáp:
“Tứ Diệu Đế” và “Bát Chánh Đạo”. Đức Phật một mặt lên án lối tu ép xác của
các đạo sĩ khổ hạnh; và mặt khác sự thụ hưởng những thú vui khoái lạc; Ngài
chỉ dạy và khuyên nên theo Bát Chánh Đạo tức là Trung Đạo.
179. Hỏi:
Đức Phật có chủ trương thờ thần linh không?
Đáp:
Ngài không chủ trương mà c̣n chống đối điều đó. Đức Phật đă lên án việc thờ
cúng thần linh, ma quỹ, cây cối v.v… Hành động thờ cúng ngoại giới là một sự
ràng buộc mà con người cần phải hủy bỏ nếu họ muốn tiến bộ cao hơn.
180. Hỏi:
Vậy Phật tử có kính lạy trước tượng Phật, xá lợi của Ngài và những chùa tháp
thờ Đức Phật hay không?
Đáp:
Có, nhưng không phải với ư niệm của người sùng bái thần tượng.
181. Hỏi:
Sự khác nhau ở chỗ nào?
Đáp:
Tín đồ Phật giáo của chúng tôi nhận thấy người sùng bái thần tượng không
những chỉ xem các h́nh tượng của họ như biểu hiện rơ ràng của đấng Thượng Đế
hay các thần linh vô h́nh mà khi lễ bái, họ c̣n tin rằng trong bản chất của
thần tượng đó hàm chứa phần nào có thần tính khắp nơi.
182. Hỏi:
Người Phật tử nghĩ như thế nào?
Đáp:
Người Phật tử kính thờ tượng Phật và các pháp bảo khác như những h́nh ảnh
tưởng niệm của một đấng cao siêu, trí tuệ và từ bi nhất trong thế giới của
kiếp (Kalpa) này. Các dân tộc cũng như mọi người bảo tŕ, tàng trữ, và quư
trọng các xá lợi, kỷ niệm vật của những nhân vật nam nữ được xem như là vĩ
đại. Đức Phật, đối với chúng ta, tỏ ra đáng tôn sùng và kính mến hơn bất cứ
vĩ nhân nào khác bởi tất cả những ai đă từng nhận thức được sự khổ đau.
183. Hỏi:
Đức Phật có giải thích cho chúng ta về vấn đề sùng bái thần tượng này hay
không?
Đáp:
Có. Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahaparinirvana Sutta), Đức Phật dạy rằng
sự giải thoát chỉ có thể đạt tới nhờ thực hành đời sống Thánh thiện theo Bát
Chánh Đạo, chứ không phải do sự sùng bái ngoại giới (amisa-puja), hay thờ
kính Ngài và người khác, hoặc bất cứ h́nh tượng nào.
184. Hỏi:
Đức Phật đánh giá thế nào về h́nh thức ham chuộng nghi lễ?
Đáp:
Ngay từ lúc đầu, Đức Phật đă chỉ trích sự ham chuộng nghi lễ và các hành
động hướng ngoại khác mà chúng chỉ làm tăng trưởng đức tin mù quáng và sự
bám chặt vào những h́nh thức mê tín của chúng ta.
185. Hỏi:
C̣n đối với sự hay tranh biện?
Đáp:
Trong nhiều bài pháp, Đức Phật đă lên án thói quen tai hại nhất này. Ngài
khuyên nên sám hối đối với các Tỳ kheo (Bhikkhus) nào đă lăng phí th́ giờ
cùng làm suy yếu khả năng giác ngộ của ḿnh bằng sự hay tranh căi về các lư
thuyết và những vấn đề siêu h́nh.
186. Hỏi:
Sự tin vào bùa chú, những giờ tốt và ma quỹ, đồng bóng có phải là một khía
cạnh của Phật giáo không?
Đáp:
Các điều đó hoàn toàn phản lại với giáo lư căn bản của Phật giáo. Chúng là
di tích c̣n sót lại của bái vật, đa thần giáo và các tôn giáo ngoại lai
khác. Trong kinh Phạm Vơng (Brahmajalasutta) Đức Phật đă tuyệt đối diễn tả
các điều trên và mê tín dị đoan khác như đa thần giáo tầm thường và lừa dối
(spurious) [14].
187. Hỏi:
Giữa Phật giáo và “tôn giáo” khác có những mâu thuẫn ǵ đáng chú ư?
Đáp:
Đối với các tôn giáo khác, đây là những điều tương phản: Phật giáo dạy điều
thiện cao quư nhất mà không cần đến đấng Thượng Đế sáng tạo; một phương thức
sống dựa vào giáo điều ích kỷ, mê tín ở thực thể linh hồn vĩnh cửu, siêu
h́nh vượt ra ngoài thân xác; một hạnh phúc không có thiên đàng khách quan;
một pháp môn giải thoát mà không cần đức Chúa Trời cứu rỗi; hay sự chuộc tội
bởi chính ḿnh như Chúa Giê-Su (the Redeemer); cũng không cần có những lễ
bái cầu nguyện; sám hối, tu sĩ, cùng sự can thiệp của thánh nhân; và một cứu
cánh Niết Bàn (Nirvana) có thể đạt tới ngay trong đời hiện tại và ở thế giới
này bằng cách hướng đến một đời sống thanh tịnh, vị tha của trí tuệ, và từ
bi đối với mọi chúng sanh.
188. Hỏi:
Hăy định rơ về hai loại chính của “thiền định” phương pháp nhờ đó con người
diệt trừ dục vọng và đạt tới giác ngộ.
Đáp:
Chỉ (Samatha), và quán (Vidarsana): 1) Sự đoạn diệt ái dục bằng cách hướng
đến đời sống thánh thiện và tinh tấn không ngừng để chế ngự các giác quan;
2) Sự đạt được trí tuệ phi thường nhờ quán tưởng: mọi pháp môn bao gồm 20
phương diện mà tôi không cần kể rơ chúng hết ra đây.
189. Hỏi:
Tứ đạo quả hay tŕnh độ tu chứng mà một hành giả có thể đạt tới là những ǵ?
Đáp:
1) Sơ quả Tu Đà Hoàn (Sotàpatti) - sự bắt đầu hay nhập vào quả vị của người
đă giác ngộ về “Tứ Diệu Đế”; 2) Nhị quả Tư Đà Hàm (Sakardàgàmi)- quả vị của
người đă diệt hết tham sân si và chỉ c̣n một lần (Nhứt Lai) sanh lại cơi này
(th́ đắc quả Thánh); 3) Tam quả A Na Hàm (Anàgami) - quả vị dành cho những
hành giả đă chế ngự được bản ngă ḿnh, và họ không c̣n sanh trở lại (Bất
Lai) thế giới này; và 4) Tứ quả A La Hán (Arhat) - quả vị Thánh của bậc A La
Hán, là vị không những chỉ thoát khỏi sự luân hồi mà c̣n đạt tới trí tuệ
hoàn toàn, với t́nh thương bao la những kẻ c̣n mê lầm và khổ đau, cũng như
có ḷng từ bi đối với tất cả chúng sanh.
190. Hỏi:
Phải chăng Phật giáo bao hàm không có điều ǵ khác hơn là chân lư và nó phù
hợp với khoa học?
Đáp:
Như mọi tôn giáo khác đă tồn tại qua nhiều thế kỷ, Phật giáo ngày nay chắc
chắn bao gồm những điều pha trộn sự thật và không thật; cũng như vàng t́m
thấy lẫn lộn với chất bẩn dơ. Óc tưởng tượng đầy thi vị, ḷng nhiệt thành,
sự mê tín c̣n sót lại của các tín đồ Phật giáo qua nhiều thời đại và tại
những quốc gia khác nhau, khiến cho các lời dạy cao siêu về giáo thuyết đạo
đức của Đức Phật đă bị pha lẫn ít nhiều những điều ngày nay có thể không c̣n
lợi ích nữa.
191. Hỏi:
Khi biết những suy đồi đó, khát vọng thành tâm nhất của người Phật tử chân
chính như thế nào?
Đáp:
Người Phật tử thuần thành sẵn sàng và nóng ḷng muốn thấy sự sai lầm đó cần
được thanh lọc khỏi giáo lư chân chính và nếu có thể, họ sẽ giúp (để làm
việc ấy). Ba kỳ đại Hội Nghị của Tăng Già (Sangha) đă được tổ chức nhằm mục
đích để thanh lọc khẩn cấp những điều thêm vào sai lầm khỏi Giáo Lư chân
chính (của Đức Phật).
192. Hỏi:
Khi nào?
Đáp:
Lần đầu tiên tại hang Thất Diệp (Sattapanni) ngay sau khi Đức Phật nhập Niết
Bàn; lần thứ hai tại Va-lu-ca-ra-ma (Valukarama) ở Tỳ Xá Li (Vaisali); và
lần thứ ba tại Chùa A-xô-ca-ra-ma (Asokarama Vihara) ở Hoa Thị Thành
(Pataliputra), 235 năm sau khi Đức Phật diệt độ.
193. Hỏi:
Trong bài kinh nào Đức Phật đă cảnh cáo chúng ta về sự suy đồi sẽ xảy ra cho
giáo pháp chân chính của Ngài?
Đáp:
Kinh Tạp A Hàm (Samyutta Nikăya).
194. Hỏi:
Trong Phật giáo có bất cứ giáo điều nào bắt buộc chúng ta tin theo không?
Đáp:
Kkông; chúng ta không bị ép buộc phải tin vào bất cứ giáo lư nào dù nó được
ghi chép trong kinh điển, do tổ tiên chúng ta truyền lại hoặc được giảng dạy
bởi các bậc thánh hiền.
195. Hỏi:
Đức Phật có thuyết giảng giáo lư cao siêu đó không?
Đáp:
Có. Đức Phật dạy rằng chúng ta chớ vội tin một điều ǵ dù đó là điều được
thiên hạ nói đến; chớ vội tin vào những tập quán v́ chúng được truyền lại từ
ngàn xưa; chớ vội tin lời đồn đăi, đừng tin vào kinh sách do các Thánh Hiền
viết ra; không nên chấp nhận điều ǵ v́ nghĩ rằng đó là điều do Thần Linh
(Deva) đă truyền cho chúng ta (tỷ như xem sự linh cảm tinh thần đó là đúng);
đừng nên tin một luận đề nào mà chúng ta suy ra từ sự phỏng định t́nh cờ;
cũng đừng vội tin vào điều ǵ lấy sự giống nhau làm tiêu chuẩn (Analogical);
và chớ vội tin vào oai quyền nơi các giáo sư hay giáo sĩ của chúng ta.
196. Hỏi:
Vậy lúc nào chúng ta mới nên tin?
Đáp:
Chúng ta chỉ tin tưởng khi giáo lư hay những lời dạy đó được kiểm chứng bằng
lư trí và sự hiểu biết của ḿnh. V́ thế, Đức Phật khuyên tiếp rằng ”Như Lai
dạy các con không nên tin chỉ v́ các con đă nghe, nhưng khi các con đă tin
tưởng qua sự nhận thức của ḿnh, th́ nên tinh tấn thực hành theo” (Xem kinh
Kalama trong Tăng Nhất A Hàm và kinh Bát Đại Niết Bàn).
197. Hỏi:
Đức Phật bảo nên xem Ngài như thế nào?
Đáp:
Đức Phật dạy rằng Ngài và các Đức Phật khác chỉ là những “vị thuyết giảng”
chân lư, chỉ bày ra con đường: c̣n tự chúng ta phải nỗ lực tu tập.
198. Hỏi:
Đức Phật dạy điều này ở đâu?
Đáp:
Trong kinh Pháp Cú (Dhamma-pada), chương 20.
199. Hỏi:
Phật giáo có khuyến khích hành động đạo đức giả hay không?
Đáp:
Kinh Pháp Cú dạy: “Như chiếc hoa tươi đẹp chỉ phô trương màu sắc mà chẳng có
hương thơm; những người chỉ biết nói điều lành mà không làm điều lành chẳng
đem lại lợi ích ǵ”.
200. Hỏi:
Đức Phật có dạy chúng ta nên lấy oán báo oán không?
Đáp:
Trong kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy: “Kẻ ác làm hại ta, ta sẽ đáp trả y bằng
ḷng từ bi không oán hận; người đó càng thù hận ta, ta càng có tâm từ với
họ”. Đây là con đường mà bậc A La Hán (Arhat) [15] đă theo. Dùng oán để trả
oán là điều Phật giáo hoàn toàn ngăn cấm.
201. Hỏi:
Phật giáo có khuyến khích những hành động tàn ác không?
Đáp:
Đúng là không. Trong năm giới cấm và nhiều bài kinh khác, Đức Phật dạy chúng
ta nên có ḷng thương đối với mọi người, cố gắng mang lại hạnh phúc cho họ,
nên có tâm từ bi với tất cả, đừng bao giờ sát hại, sanh tâm tùy hỷ, hay
khuyến khích sự sát hại.
202. Hỏi:
Điều ấy được ghi chép trong bài kinh nào?
Đáp:
Kinh Đam-mi-ca (Dhammika) dạy: “Hăy khuyên vị gia chủ chớ có sát hại, hoặc
gây nên sự sát hại bất cứ mạng sống nào, hay khuyến khích người khác làm như
thế. Hăy bảo y giữ ǵn không giết hại bất cứ chúng sanh nào” [16].
203. Hỏi:
Phật giáo có tán đồng việc uống rượu không?
Đáp:
Trong kinh Dhammika, Đức Phật dạy chúng ta không nên uống, gây ra sự uống
rượu cho kẻ khác, hoặc khuyến khích hành động của người uống rượu [17]
204. Hỏi:
Đức Phật cho chúng ta biết sự uống rượu sẽ dẫn đến kết quả ǵ?
Đáp:
Những điều xấu ác tội lỗi, điên loạn và vô minh – là nguyên nhân chính của
luân hồi sanh tử.
205. Hỏi:
Phật giáo dạy thế nào về hôn nhân?
Đáp:
Tuyệt đối không dâm dục là điều kiện cho sự phát triển tâm linh (tu tập)
toàn diện, được Đức Phật tán dương nhiều nhất; nhưng lập gia đ́nh với một vợ
và chung thủy với cô ta, là thực hành đức tánh không tà hạnh. Đức Phật chỉ
trích chế độ đa thê như hành động vô minh và tăng trưởng ḷng tham dục.
206. Hỏi:
Trong bài kinh nào?
Đáp:
Tăng Nhất A Hàm (Anguttara Nikăya), Chương IV, 55.
207. Hỏi:
Phật giáo dạy thế nào về bổn phận của cha mẹ đối với con cái?
Đáp:
Cha mẹ nên khuyên con cái chớ làm điều ác; nên làm các việc lành; dạy dỗ cho
chúng về các môn nghệ thuật và khoa học; giúp chúng dựng vợ gả chồng và chia
cho chúng tài sản của ḿnh.
208. Hỏi:
Bổn phận của con cái như thế nào?
Đáp:
Con cái cần giúp đỡ khi cha mẹ già yếu và túng thiếu; làm tṛn bổn phận gia
đ́nh đối với cha mẹ; bảo vệ tài sản của cha mẹ; hăy tỏ ra xứng đáng là những
kẻ thừa kế của cha mẹ, và khi cha mẹ qua đời, con cái nên kính thờ tưởng
nhớ.
209. Hỏi:
Đệ tử đối với Thầy như thế nào?
Đáp:
Nên kính trọng, chăm sóc, vâng lời thầy; cung cấp nhu cầu cho thầy và nhận
nghe lời chỉ giáo của thầy.
210. Hỏi:
Chồng đối với vợ như thế nào?
Đáp:
Nên thương yêu đối xử tử tế, kính trọng và chung thủy với vợ; giúp vợ được
tôn vinh bởi người khác, biếu tặng vợ đồ trang sức và y phục.
211. Hỏi:
Bổn phận vợ đối với chồng như thế nào?
Đáp:
Bày tỏ ḷng thương chồng, sắp đặt nhà cửa ngăn nắp, niềm nở với khách khứa
(bạn chồng), không tà hạnh, nên cần kiệm, khéo léo và siêng năng trong mọi
việc.
212. Hỏi:
Những điều răn này (Đức Phật) dạy ở đâu?
Đáp:
Trong Kinh Thi Ca La Việt (Sigalovada).
213. Hỏi:
Sự phú quư có giúp con người đạt đến hạnh phúc tương lai hay không?
Đáp:
Kinh Pháp cú dạy: “Đường này dẫn tới sự giàu sang, bố thí; đường kia đưa đến
cảnh giới Niết Bàn” (thiền quán).
214. Hỏi:
Phải chăng điều đó ngụ ư không người giàu nào có thể (tu tập) đạt tới Niết
Bàn?
Đáp:
Vấn đề ấy tùy thuộc vào điều mà hành giả ưa thích nhất. Nếu họ biết dùng của
cải dư thừa cho việc phúc lợi của nhân loại – giúp đỡ người khốn cùng, kẻ bị
áp chế và ngu dốt – th́ sự phú quư giúp y thành tựu vô lượng công đức.
215. Hỏi:
Nếu ngược lại th́ sao?
Đáp:
Nhưng nếu một kẻ giàu tham đắm và tích trữ vô số tiền bạc để tạo tài sản
riêng cho ḿnh, điều ấy làm người đó mất đạo đức, xúi giục anh ta tạo tội
lỗi; rồi họ sẽ gặp tai họa trong đời này, và ác quả cũng đến với y ở kiếp
sau.
216. Hỏi:
Kinh Pháp Cú dạy thế nào về vô minh?
Đáp:
Vô minh là vết nhơ cấu bẩn nhất trong các vết nhơ mà con người đă tự bôi vào
ḿnh.
217. Hỏi:
Kinh Pháp Cú dạy thế nào về hành động bất thiện đối với kẻ khác?
Đáp:
Đó là thấy tội lỗi người th́ dễ, thấy lỗi ḿnh mới khó; lỗi người, ta cố
phanh phui t́m như t́m thóc lẫn trong gạo; c̣n lỗi ḿnh, ta cố che giấu như
kẻ cờ gian bạc lận thu dấu con bài.
218. Hỏi:
Đức Phật khuyên chúng ta thế nào về bổn phận của con người đối với kẻ nghèo?
Đáp:
Ngài dạy rằng tiền lợi tức của một người nên chia làm bốn phần, trong đó nên
dành một phần cho các mục tiêu từ thiện.
219. Hỏi:
Năm nghề nghiệp ǵ Đức Phật cho là thấp kém và hèn hạ?
Đáp:
Những nghề như bán rượu, thịt thú vật, bán thuốc độc, khí giới giết người,
và buôn bán kẻ nô lệ.
220.
Hỏi: Hạng người nào (Đức Phật
dạy) không thể tiến bộ trong sự tu tập.
Đáp:
Những kẻ giết cha, giết mẹ, giết A La Hán và các Tỳ Kheo phá ḥa hiệp Tăng
già (Sangha); những kẻ làm thân Phật chảy máu; tuyệt đối chấp thuyết Hư Vô,
không tin có đời sau, và những người quá tham đắm dục lạc
221. Hỏi:
Phật giáo có chỉ bày rơ những cảnh giới hay t́nh trạng thống khổ mà trong đó
một người tạo ác nghiệp sẽ bị đọa vào, sau khi họ từ giă cơi đời này hay
không?
Đáp:
Có. Những cảnh giới đó là: Đẳng hoạt địa ngục (Sanjiva); Hắc Thằng địa ngục
(Kàlasutra); Chúng Hiệp Địa Ngục (Sanghàta); Khiếu Hoán Địa Ngục (Rauvara);
Đại Khiếu Điạ Ngục (Maha Raurava); Viêm Nhiệt Địa Ngục (Tàpa); Đại Nhiệt Địa
Ngục (Pratăpa); và Vô Gián Địa Ngục (Avichi).
222. Hỏi:
Phải chăng nỗi thống khổ sẽ vĩnh viễn tồn tại?
Đáp:
Chắc không phải vậy. Thời gian tùy thuộc nghiệp báo của mỗi người.
223. Hỏi:
Phật giáo có thuyết giảng rằng những người không tin Đức Phật sẽ bị đọa đày
v́ sự bất tín đó của họ hay không?
Đáp:
Không; nhờ thiện nghiệp họ có thể thọ hưởng phước báo trong một thời gian
hạn định trước khi bị tái sinh do ḷng ái dục (tanhà) vô tận của họ. Muốn
thoát khỏi luân hồi, hành giả phải thực hành theo Bát Chánh Đạo.
224. Hỏi:
Địa vị tinh thần của nữ giới trong Phật giáo như thế nào?
Đáp:
Theo Phật giáo, họ chiếm một địa vị hoàn toàn b́nh đẳng với nam giới. Trong
kinh Chun-la-vê-đan-la (Chullavedalla), Đức Phật dạy rằng: “Phụ nữ có thể
chứng đắc quả vị Thánh cao nhất được dành cho nam giới - A La Hán”.
225. Hỏi:
Nhà phê b́nh hiện đại đă bày tỏ thế nào về ảnh hưởng của Phật giáo đối với
phụ nữ?
Đáp:
Ông Lepel
226. Hỏi:
Đức Phật đă dạy như thế nào về giai cấp?
Đáp:
Đức Phật dạy rằng không phải do sự sanh trưởng, con người trở thành hạng
cùng đinh thấp nhất Pariah (Harijan) hay giai cấp cao quư nhất Bà la môn (Brahmana),
mà là bởi hành động. Ngài dạy “Do hành động, người này là cùng đinh; do hành
động, người kia là Bà la môn” (xem Kinh Vasala).
227. Hỏi:
Hăy kể cho tôi một câu chuyện để chứng minh điều này.
Đáp:
Ngài A Nan (Ananda) đi ngang gần giếng, khát nước và yêu cầu Bát-Cát-Đế (Prakritti),
một cô gái thuộc giai cấp hạ tiện Ma Đăng Già (Matanga) hay cùng đinh Pa-ri-a
(Pariah), cho Ngài xin nước uống. Nàng thưa rằng cô ta thuộc giai cấp thấp
hèn và Ngài sẽ bị ô uế nếu nhận nước uống nơi tay của cô. Nhưng Ngài A Nan
đáp rằng’: “Tôi không xin giai cấp mà chỉ xin nước uống”; và cô gái cùng
đinh Matanga tâm cảm thấy vui mừng cúng dường nước uống cho Ngài A Nan. Đức
Phật đă tán thán hành động này của cô.
228. Hỏi:
Đức Phật đă dạy như thế nào trong “Kinh Vasala” về đệ tử Xô-ba-ca (Sopaka)
thuộc giai cấp hạ tiện Pa-ri-a (Pariah)?
Đáp:
Ngài dạy rằng do công đức của y, Sopaka đă đạt tới danh vọng cao quư nhất;
nhiều vị thuộc giai cấp (quư tộc) Sát-đế-lợi (Kshattryas) và Bà La Môn đă
đến phục vụ cho ông ta; và sau khi qua đời, Sopàka đă được sinh lên cơi trời
Phạm Thiên (Brahma), trong khi những vị Bà la môn đă bị đọa vào địa ngục do
hành động xấu ác của họ.
229. Hỏi:
Phải chăng Phật giáo dạy rằng có một linh hồn bất tử?
Đáp:
“Linh hồn” (Soul) được Phật giáo xem như danh từ dùng để diễn tả một ư niệm
sai lầm của hạng người thiếu hiểu biết. Nếu mọi vật thay đổi, trong đó có cả
con người; và như thế, cơ thể vật chất của nó cũng phải thay đổi. Mà vật ǵ
đă thay đổi th́ không thể thường c̣n: cho nên không thể có một sự sống bất
tử trong một cơ thể (con người) đổi thay được [18]
230. Hỏi:
Vậy điều có thể bị phản đối trong từ ngữ “Linh hồn” này là ǵ?
Đáp:
Ư kiến cho rằng linh hồn của con người có thể là một thực thể biệt lập ngoài
các thực thể khác, và sự hiện hữu của toàn thể vũ trụ. Ư niệm về sự tách
biệt này là điều vô lư, không được chấp nhận bởi luận lư học cũng như khoa
học tán thành.
231. Hỏi:
Vậy th́ không có cái “Ngă” (ta) biệt lập cũng như chúng ta không thể bảo
rằng vật này hay vật kia là “của tôi”, phải thế không?
Đáp: Đúng như vậy.
232. Hỏi:
Nếu quan niệm có một “linh hồn” biệt lập nơi con người bị phủ nhận, vậy cái
ǵ trong con người khiến y nghĩ rằng có một bản ngă (personality) thường
c̣n?
Đáp:
Ḷng ái dục (tanhă) không dược thoả măn về cuộc sống. Con người đă tạo
nghiệp, do đó y được trả ân hay báo oán trong tương lai; và v́ ái dục, y sẽ
chịu luân hồi do ảnh hưởng của nghiệp báo.
233. Hỏi:
Vậy cái ǵ sẽ đi đầu thai?
Đáp:
Những uẩn (Skandhas) mới hay bản ngă (personality) [19] được tạo nên do tiến
tŕnh tư tưởng cuối cùng của một người sắp lâm chung.
234. Hỏi:
Có bao nhiêu Uẩn?
Đáp:
Năm.
235. Hỏi:
Hăy kể năm uẩn đó.
Đáp:
Sắc (Rùpa), Thọ (Vedana), Tưởng (Sannà), Hành (Samkhàrà) và Thức (Vinnàna).
236. Hỏi:
Hăy giải thích sơ lược về năm uẩn..
Đáp:
Sắc: những vật hữu h́nh; Thọ: cảm giác vui buồn; Tưởng: kiến thức về khái
niệm; Hành: những trạng thái tâm lư; và Thức: năng lực trí tuệ hay ư thức.
Năm uẩn đă tạo thành chúng ta, giúp chúng ta ư thức về cuộc sống; và qua năm
uẩn, chúng ta tiếp xúc với thế giới xung quanh chúng ta.
237. Hỏi:
V́ nguyên nhân nào chúng ta thấy có sự sai khác trong việc kết hợp của năm
uẩn, khiến cho người này khác biệt với người kia?
Đáp: Do nghiệp quả thuần thục
của mỗi cá nhân trong nhiều kiếp trước của họ.
238. Hỏi:
Sức mạnh và năng lực nào đă hoạt động dưới sự hướng dẫn của Nghiệp để tạo
thành một con người mới.
Đáp:
Ái dục (tanhà) – ḷng ham muốn sự sống [20].
239. Hỏi:
Giáo lư luân hồi đă được xây dựng trên điều ǵ?
Đáp:
Trên nhận thức của sự hoàn toàn công bằng, thế quân b́nh và điều chuẩn vốn
nằm trong hệ thống phổ biến của Thiên Nhiên. Phật tử không tin rằng một đời
sống - dù có thọ đến 100 hay 500 năm - là đủ dài lâu cho sự trả ân hay báo
oán, gây nên bởi những hành động của con người. Ṿng đại luân hồi sanh tử sẽ
ít nhiều vận chuyển nhanh chóng theo sự ưu thế của nghiệp thiện hay bất
thiện được tạo ra trong nhiều kiếp sống của mỗi cá nhân.
240. Hỏi:
Phải chăng Ái Dục (Tanha) đă dẫn đến sự cấu tạo nên những uẩn (skandhas) mới
– cá nhân mới này cùng một người giống như người trong kiếp trước?
Đáp:
Hiểu theo một nghĩa, đó là con người mới, nhưng nghĩa khác, nó lại là không
phải. Cổ ngữ Pali viết: “Nacha so nacha anno”, nghĩa là không phải giống
vậy, nhưng cũng không phải khác. Trong đời này, năm uẩn (chúng ta) luôn thay
đổi (changing) [21], và trong khi ông A hoặc ông B 40 tuổi được xem như
người không khác thiếu niên A hay B lúc 18 tuổi, nhưng v́, do việc thường
xuyên làm tiêu hao và bổ dưỡng cơ thể của y, cũng như sự thay đổi về tâm lư
và tánh t́nh, ông ta trở thành một nhân vật khác.Tuy nhiên một người đến lúc
tuổi già, sẽ gặt hái thích đáng phần thưởng khổ đau do kết quả của những ư
tưởng và hành động (xấu) của y, đă gây ra vào lúc thiếu thời trong cuộc đời
của họ. Cùng thế ấy, một người mới tái sinh cũng giống như con người trước
kia, nhưng với sự thay đổi, h́nh dáng hoặc sự kết hợp mới của những uẩn,
cũng sẽ nhận chịu chính xác quả báo tạo nên bởi thân nghiệp và ư nghiệp của
y trong kiếp trước.
241. Hỏi:
Người già có thể nhớ lại những việc xảy ra vào thời niên thiếu mặc dầu cơ
thể và tinh thần của ông ta đă thay đổi. Nhưng tại sao chúng ta không thể
nhớ được những việc trong kiếp quá khứ do chúng ta mang từ đời trước đến đời
này?
Đáp:
Bởi v́ trí nhớ bao gồm trong các uẩn; và những uẩn đă thay đổi với sự tái
sinh mới, một trí nhớ mới, cùng sự ghi lại cuộc sống đặc biệt đó đều phát
triển (đổi mới). Tuy nhiên, sự giữ lại hay phản ảnh tất cả hành động trong
những kiếp sống quá khứ ở thế gian này, vẫn c̣n tồn tại; v́ thế nên khi thái
tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) thành Phật, Ngài đă thấy nhớ lại đầy đủ những
kiếp trước của Ngài. Nếu mọi việc xảy ra (trong đời trước) không để lại một
dấu tích ǵ, th́ việc nhớ lại đă không thể có, nghĩa là Đức Phật đă không có
ǵ để thấy. Và bất cứ ai đạt tới tầng thiền (Dhyana) thứ tư đều có thể thấy
lại dấu vết những việc trong các đời trước của ḿnh.
242. Hỏi:
Mục đích cuối cùng nhằm đến (trong sự tu tập) của con người qua những lần
đổi thay (thân xác) này là ǵ?
Đáp:
Niết Bàn (Nirvana).
243. Hỏi:
Phật giáo có dạy chúng ta nên làm điều lành với ư tưởng mong đạt tới cảnh
giới Niết Bàn không?
Đáp: Không; v́ đó là điều hoàn
toàn ích kỷ giống như (chúng ta) hy vọng được phần thưởng về tiền bạc, ngôi
vua, hay bất cứ thú vui dục lạc nào khác. Niết Bàn không thể đạt tới bằng
cách đó, và kẻ đầu cơ thiếu sáng suốt sẽ thấy trước đưa đến sự thất vọng.
244. Hỏi:
Xin giải thích rơ hơn nữa.
Đáp:
Niết Bàn đồng nghĩa với đức tính lợi tha, sự diệt trừ hoàn toàn tánh vị kỷ
để đạt tới chân lư. Người mê mờ mong t́m hạnh phúc Niết Bàn mà không hiểu
biết ǵ hết về bản chất của nó. Tận diệt được ḷng ích kỷ là Niết Bàn. Làm
việc lành với ư niệm mong được kết quả, hay thực hành nếp sống thánh thiện
với chủ đích đạt tới hạnh phúc nơi thiên đàng không phải là Đời sống Cao quư
mà Đức Phật khuyến khích. Không mong chờ phần thưởng được sống một Cuộc Đời
Cao Thượng, đó chính là cuộc sống siêu việt nhất. Cảnh giới Niết Bàn có thể
đạt tới trong khi con người đang sống ở thế gian này.
245. Hỏi:
Hăy kể 10 đại phiền năo (chướng ngại) cho sự tu hành, gọi là Thập Sử
(Sanyojanas).
Đáp:
Thân kiến (Sakkàya-ditthi); Nghi (Vicikicchà); Giới Cấm Thủ Kiến
(Silabbata-paràmăsa); Tham Dục (Kàma); Sân Nhuế (Patigha); Tham Sắc Giới
(Rũparàga); Tham Vô Sắc Giới (Arùparàga); Mạn (Màma); Kiến Thủ Kiến
(Uddhacca) và Vô Minh (Avijjà).
246. Hỏi:
Để thành bậc A La Hán (Arhat), bao nhiêu điều trong Thập Sử này cần phải
diệt trừ?
Đáp:
Tất cả.
247. Hỏi:
Ngũ cái hay Nivàranas (năm thứ phiền năo che lấp tâm tính) gồm những ǵ?
Đáp:
Tham Dục, Sân Nhuế (giận hờn), Thụy Miên (biếng nhác, mê ngủ), Trạo Hối (xao
động nơi tâm) và Nghi Ngờ (chánh pháp).
248. Hỏi:
Tại sao chúng ta thấy có sự phân loại chi tiết về những cảm giác, sự thúc
đẩy, hoạt động của tâm, những phiền năo và trợ duyên cho sự tiến tu được nói
đến quá nhiều trong giáo lư Đức Phật? Điều ấy có làm rối rắm cho người mới
bắt đầu (học Phật) hay không?
Đáp:
Nó giúp chúng ta thành tựu sự hiểu biết chính ḿnh, bằng cách luyện tập tâm
của chúng ta quan sát tỉ mỉ mọi vấn đề. Nhờ tu theo phương pháp tự phản (xét
ḿnh) này, cuối cùng chúng ta đạt tới sự giác ngộ và thấy rơ chân lư đúng
như thật. Đây là đường lối mà các bậc minh sư giúp đỡ để phát triển tâm linh
cho đệ tử của ḿnh.
249. Hỏi:
Đức Phật có bao nhiêu đệ tử nổi danh về các đức tính siêu việt của họ?
Đáp:
Ngài có 80 đệ tử xuất chúng như vậy, gọi là 80 vị Đại Thanh Văn
(Asiti-Maha-Savakas).
250. Hỏi:
Trí tuệ của Đức Phật bao gồm những khả năng ǵ?
Đáp:
Đức Phật giác ngộ bản chất của những điều Khả Tri (có thể biết) và Bất Khả
Tri (không thể biết), Có thể có và Không thể có; nguồn gốc của (nghiệp)
Thiện và Bất thiện. Ngài có thể thấy rơ những ư tưởng của tất cả mọi người;
thấu triệt các định luật Thiên Nhiên, sự giả dối của những giác quan và
phương pháp chế ngự các dục vọng; Ngài cũng có thể nhận biết sự sanh ra và
luân hồi của mỗi cá nhân và những sinh vật khác.
251. Hỏi:
Nguyên lư căn bản mà trên đó toàn bộ giáo pháp của Đức Phật được xây dựng,
chúng ta gọi là ǵ?
Đáp:
Đó là Lư Thập Nhị Nhân duyên (Patica Samuppàdà) [22].
252. Hỏi:
Giáo pháp này có dễ dàng hiểu biết không?
Đáp:
Đó là giáo lư khó hiểu nhất; thật vậy, ư nghĩa rốt ráo và thâm huyền của nó
vượt ngoài trí năng (con người) đến nỗi khó có thể thấu triệt hoàn toàn.
253. Hỏi:
Nhà đại luận sư Phật Minh (Buddha Ghosha) bày tỏ thế nào về giáo pháp của
Đức Phật?
Đáp:
Ngài cảm thấy bơ vơ giữa đại dương của nền tư tưởng (cao siêu) này như người
đang trôi giạt trên biển cả.
254. Hỏi:
Nhưng tại sao Đức Phật lại dạy trong kinh Bát Niết Bàn (Parinibbana Sutta)
rằng Ngài “không làm điều ấy, như vị thầy nắm chặt bàn tay giấu một vật ǵ”.
Nếu toàn bộ giáo lư của Đức Phật được khai mở cho tri kiến của mọi người,
tại sao nhà luận sư tài đức và thông bác như Ngài Phật Minh lại bảo rằng rất
khó thấu hiểu Phật giáo?
Đáp:
Đức Phật rơ ràng muốn nói rằng Ngài đă chỉ dạy hết mọi điều, nhưng nền tảng
thật sự của Phật Pháp chắc chắn là chỉ Đức Phật là đấng có đầy đủ khả năng
trí tuệ mới có thể thấu triệt. Cho nên Phật Giáo với những người thường chưa
giác ngộ, họ không thể hiểu biết được.
255. Hỏi:
Giáo lư Đức Phật tán đồng ư kiến này như thế nào?
Đáp:
Đức Phật đă quan sát tâm niệm mỗi người để thuyết pháp cho thích hợp với căn
cơ của từng cá nhân và sự phát triển tinh thần của người nghe pháp.
PHẦN III
TĂNG GIÀ (SANGHA)
256. Hỏi:
Tỳ kheo (Bhikkhus) Phật giáo khác với tu sĩ các tôn giáo khác ở điểm nào?
Đáp:
Tu sĩ của những tôn giáo khác được xem như nhân vật trung gian giữa tín đồ
và Thượng Đế, hầu giúp chuộc tội cho con người; c̣n các tu sĩ Phật giáo
không thừa nhận hoặc mong đợi bất cứ điều ǵ nơi Thần quyền.
257. Hỏi:
Như vậy tại sao lại cần phải thành lập Tăng đoàn, Giáo hội hay Hội đoàn tách
rời khỏi quần chúng, nếu chư Tăng không thực hiện điều mà giáo hội các tôn
giáo khác làm?
Đáp:
Mục đích thấy rơ nhằm đào tạo những bậc thầy đức độ, trí tuệ, vị tha và có
đạo tâm nhất, xa ĺa cuộc sống thế gian, nơi mà tâm dục vọng và ích kỷ của
chư Tăng được phát sanh mạnh mẽ; hầu để dành hết cuộc đời của họ cho việc tu
học, nhằm đạt tới trí tuệ cao siêu nhất; cũng như dấn thân vào công tác dạy
dỗ, hướng dẫn mọi người khác thoát khỏi cuộc sống dục lạc mang lại khổ đau;
hầu đi theo con đường khắc khổ tu hành dẫn đến hạnh phúc chân thật và giải
thoát cuối cùng.
258. Hỏi:
Ngoài tám giới, thầy Tỳ Kheo phải giữ thêm hai giới nữa là những giới ǵ?
Đáp:
Tôi nguyện giữ ǵới không múa hát và đi xem múa hát.
Tôi nguyện giữ giới không nhận cất vàng bạc.
Tất cả Thập Giới (Dasa Sila) hay mười giới này, các Tỳ Kheo và Sa Di
(Samaneras) bắt buộc phải giữ, nhưng không áp dụng đối với hàng cư sĩ tại
gia.
Bát Quan Trai giới (Atthanga Sila) dành cho những Phật tử mong được sanh lên
các cảnh giới cao hơn cơi chư Thiên (Trời) [23] và những người ước mong
chứng đắc Niết Bàn (Nirvana).
259. Hỏi:
Phải chăng có những phép tắc và giới đ́ều riêng biệt dành cho sự hướng dẫn
và kỷ luật của đoàn thể Tăng già (Order)?
Đáp:
Đúng vậy; có 250 giới, nhưng tất cả đều bao gồm trong 4 phần chính
dưới đây:
Những giới luật trọng yếu.
Những giới luật nhằm chế ngự các căn (Indriyas).
Các giới luật nói về sự thọ lănh và dùng thức ăn, sự kiêng cử ăn uống, y
phục v.v…
Các giới luật nhằm hướng dẫn đến cuộc sống thanh tịnh.
260. Hỏi:
Hăy kể một vài trọng tội và giới điều mà các Tỳ Kheo đặc biệt bị ngăn cấm
không được vi phạm.
Đáp:
Sát sanh,
Trộm cắp,
Dối trá phô trương quyền phép “huyền bí” để phỉnh gạt mọi người,
Dâm dục,
Vọng ngữ (nói dối),
Uống rượu và ăn phi thời (quá ngọ),
Múa hát và đi xem múa hát,
Đeo tràng hoa, thoa phấn, xức dầu thơm v.v…
Nằm, ngồi giường, đi văng hoặc ghế cao và rộng. Nhận tặng phẩm bằng vàng,
bạc, thóc lúa và thịt sống; quà biếu của đàn bà, thiếu nữ và người nô lệ;
nhận trâu ḅ, voi v.v…
Nói xấu (phỉ báng),
Dùng lời nói thô bỉ, chưởi mắng;
Ngồi lê đôi mách,
Đọc, nghe những chuyện thần thoại, hoang đường;
Liên lạc (mai mối) giữa những người thế tục;
Mua bán,
Lường gạt, hối lộ, lừa bịp và gian lận;
Giam cầm, cướp bóc và đe dọa người khác;
Thực hành những nghề nghiệp và yêu thuật như bói toán, chiêm tinh
(coi sao hạn); xem tướng tay, và các ma thuật khác. Bất cứ nghề nào trong
những ma thuật này đều làm tŕ hoăn sự tiến tu của hành giả nhằm đạt tới
cảnh giới Niết bàn.
261. Hỏi:
Tỳ kheo có những bổn phận ǵ đối với hàng Phật tử tại gia?
Đáp:
Nói chung, chư Tăng làm gương mẫu đạo đức cao cả cho người cư sĩ, giáo dục
và hướng dẫn cho họ; thuyết giảng và truyền bá chánh pháp, tụng kinh Cầu an
(Paritta) cho người đau ốm và quần chúng trong lúc gặp thiên tai công cộng,
khi các Thầy được thỉnh cầu làm như thế; cũng như không ngừng khuyến khích
mọi người làm những việc phước đức. Các Tỳ kheo cần khuyên răn Phật tử tránh
làm điều ác, nên thể hiện ḷng từ bi, có tâm hiền lành và t́m cách khích lệ
họ làm việc phúc lợi cho mọi người.
262. Hỏi:
Những giới luật về việc thu nhận đệ tử xuất gia như thế nào?
Đáp:
Họ không được nhận vào chùa từ dưới 10 tuổi, phải có sự đồng ư của cha mẹ;
người ấy không bị mắc bệnh hủi, mụt nhọt, lao phổi và điên loạn; phải là
người không thiếu thuế, không mắc nợ; không phạm tội hay bị tật nguyền, hoặc
đang phục vụ cho chính quyền.
263. Hỏi:
Người mới đi tu gọi là ǵ?
Đáp:
Chú tiểu Sa Di (Samanera)[24].
264. Hỏi:
Đến năm nào, chú Sa di có thể thọ giới làm Sa môn (Sramana)?
Đáp:
Hai mươi tuổi.
265. Hỏi:
Khi đến tuổi thọ đại giới (vị Sa Di) phải làm thế nào?
Đáp:
Tại Đại Giới Đàn của chư Tăng, chú Sa Di được một thầy Tỳ Kheo đưa ra giới
thiệu, thông báo (với Đại Tăng) rằng chú hội đủ điều kiện để thọ giới và
giới tử bạch rằng: “Tôi ngưỡng bạch chư Đại Tăng xin được làm lễ thọ giới Cụ
Túc (Upasampada) v.v…”. Sau đó, vị Tỳ Kheo giới thiệu đề nghị rằng chú đáng
được thọ giới. Và chú Sa Di liền được chấp thuận (bởi Đại Tăng).
266. Hỏi:
Rồi chú làm ǵ nữa?
Đáp:
Sau khi đắp y, chú đọc lại phép Tam Quy Y (Tisarana) và Thập giới (Dasa
Sila).
267. Hỏi:
Hai giới hạnh căn bản thầy Tỳ Kheo cần phải giữ là những ǵ?
Đáp:
Bất túc (thiếu thốn) và thanh tịnh (không dâm dục). Trước khi thọ giới, vị
Tỳ Kheo cần có 8 thứ đồ dùng sau đây: y áo, ṿng đai thắt lưng, b́nh bát,
lọc nước, dao cạo, cây kim, cái quạt, đôi dép. Với sự hạn chế nghiêm nhặt
theo Luật giới (Vinaya), vị Tỳ Kheo có thể giữ một vài vật dụng khác.
268. Hỏi:
Về việc (chư Tăng) sám hối công cộng như thế nào?
Đáp:
Nửa tháng một lần, lễ Bố Tát (Patimokha) được tổ chức khi các Tỳ Kheo phát
lộ trước hội đồng (Đại Đức Tăng) những giới điều mà họ đă phạm để xin sám
hối.
269. Hỏi:
Thời biểu hằng ngày, thầy Tỳ Kheo phải thực hành như thế nào?
Đáp:
Thầy Tỳ Kheo thức dậy trước rạng đông, lau chùi, quét dọn tự viên (vihara),
xung quanh cây Bồ Đề trồng bên cạnh chùa, đi lấy nước uống và lọc để dùng
trong ngày; đi ngồi thiền, dâng hoa trước tháp (dagoba), nơi thờ xá lợi,
hoặc trước cây Bồ-Đề; rồi đi khất thực từ nhà nọ qua nhà kia để thọ lănh
thức ăn - mà vị Tăng không cần phải yêu cầu, nhưng do sự phát tâm cúng dường
để bát của các thí chủ. Rồi vị Tỳ Kheo trở về, rữa chân và dùng sáng, sau đó
họ lại đi ngồi thiền.
270. Hỏi:
Phải chăng chúng ta tin rằng dâng hoa (mala pùjà) như một hành động cúng lễ
là không có phước đức ǵ?
Đáp:
Hành động ấy tự nó không có công đức, chỉ là một h́nh thức; nhưng nếu người
ta dâng cúng hoa nhằm biểu lộ sự thanh tịnh, thuần thành nhất của ḷng tôn
kính đầy nhiệt tâm đối với Đức Phật th́ việc dâng hoa đích thực là một hành
động lễ bái cao cả.
271. Hỏi:
Tiếp sau đó, Thầy Tỳ Kheo làm ǵ?
Đáp:
Thầy theo đuổi việc học của ḿnh. Lúc chiều tối, thầy lại đi lau chùi những
nơi thờ cúng, thắp đèn, nghe lời chỉ giáo của bậc sư trưởng; và thú nhận bất
cứ lỗi lầm nào mà thầy có thể phạm.
272. Hỏi:
Bốn phép quán tưởng hay Tứ Niệm Xứ (Sati-pàtthàna) của thầy Tỳ Kheo gồm
những ǵ?
Đáp:
1. Thân Niệm Xứ (Kayànapas-sana)
2. Thọ Niệm Xứ (Vedanànupassànà)
3. Tâm Niệm Xứ (Cittànupassànà)
4. Pháp Niệm Xứ (Dhammanupassànà.
273. Hỏi:
Mục đích của sự hành pháp Tứ Chánh Cần (Sammappadhànà) để làm ǵ?
Đáp:
Chế ngự ḷng ái dục và phát triển thiện nghiệp nơi con người.
274. Hỏi:
Theo nhận thức của thầy Tỳ Kheo về chân lư vô thượng, lư trí hay trực giác
là điều toàn hảo nhất?
Đáp:
Trực giác - trạng thái ư thức trong đó bất cứ chân lư mong muốn nào đều có
thể nhanh chóng thấu triệt.
275. Hỏi:
Lúc nào có thể đạt tới tŕnh độ ấy?
Đáp:
Khi hành giả nhập thiền định, đă đắc đệ tứ thiền.
276. Hỏi:
Phải chăng chúng ta tin rằng vào giai đoạn cuối cùng của Trí tuệ (Jnàna), và
trong trạng thái gọi là Định (Samadhi), tâm (chúng ta) trống rỗng và ư tưởng
bị giữ lại.
Đáp:
Trong t́nh trạng tỉnh thức thông thường, huệ nhăn của hành giả bị giới hạn
như sự thấy biết của một người đang đi trên con đường giữa những ngọn đồi
cao; nhưng khi tâm thức đạt tới tŕnh độ cao hơn của Trí Tuệ (Jnàna) và
Thiền Định (Samadhi); huệ lực, như sự thấy của chim đại bàng bay lơ lửng
trên bầu trời xanh, và nh́n xuống thấy khắp toàn vùng.
278. Hỏi:
Kinh điển của chúng ta nói thế nào về việc dùng huệ lực này của Đức Phật?
Đáp:
Trong kinh chép rằng thường lệ, vào mỗi buổi sáng, Đức Phật dùng thiên nhăn,
quán sát thế gian xem đâu có người sẵn sàng giác ngộ chân lư; Đức Phật liền
sắp đặt, nếu có thể, Ngài đến thăm họ. Với những người tới yết kiến Đức Phật,
Ngài quán sát tâm niệm, thấu rơ căn cơ, và hóa độ cho các thiện tín này, tùy
theo phước duyên của họ.
PHẦN IV
SỰ PHÁT TRIỂN VÀ BÀNH TRƯỚNG CỦA PHẬT GIÁO
279. Hỏi:
Xét về tổng số tín đồ, so sánh với các tôn giáo lớn khác, Phật giáo ngày nay
như thế nào?
Đáp:
Số người theo Phật giáo đông hơn tín đồ của các tôn giáo khác.
280. Hỏi:
Phỏng chừng được bao nhiêu?
Đáp:
Khoảng 500 triệu (5.000 lakhs hoặc 500 crores của Ấn Độ): 5 phần 13 hay chưa
bằng nửa tổng dân số toàn thế giới.
281. Hỏi:
Có những cuộc đại chiến đánh nhau, các quốc gia bị xâm lăng, và nhiều máu
đào đă chảy v́ sự truyền bá Phật giáo hay không?
Đáp:
Không thấy lịch sử ghi chép một hành động tàn bạo và tội ác nào xảy ra v́ sự
truyền bá Phật giáo. Đến nay, như tôi được biết, Phật giáo chưa làm đổ một
giọt máu nào (xem chú thích ở trước - bằng chứng của giáo sư Kolb).
282. Hỏi:
Vậy th́, bí quyết về sự phát triển mầu nhiệm của Phật giáo là ở đâu?
Đáp:
Có thể không ǵ khác hơn là do bản chất vô thượng của giáo pháp Đức Phật:
nền tảng chân lư hiển nhiên của nó, lời dạy đạo đức cao siêu và sự phong phú
của Phật giáo đối với mọi nhu cầu của nhân loại.
283. Hỏi:
Phật giáo đă được truyền bá như thế nào?
Đáp:
Đức Phật, trong suốt 45 năm của đời Ngài đă đi du hóa rộng khắp toàn xứ Ấn
Độ, và thuyết giảng Phật pháp. Ngài đă gởi các đệ tử trí tuệ và tài đức bậc
nhất của Ngài đi thuyết pháp khắp nơi trên đất Ấn.
284. Hỏi:
Đức Phật đă phái các nhà truyền giáo đầu tiên của Ngài đi hoằng pháp lúc
nào?
Đáp:
Vào ngày trăng tṛn tháng mười (Wap).
285. Hỏi:
Đức Phật đă dạy các đệ tử như thế nào?
Đáp:
Ngài gọi tất cả lại và bảo: “Này hởi các Tỳ Kheo, hăy lên đường, ra đi và
thuyết giảng giáo pháp cho toàn thế giới. Hăy đi hoằng pháp v́ lợi ích cho
nhiều người khác cũng như cho chính các con… Hăy mang lại nguồn vui cho nhân
loại. Và mỗi người hăy đi một ngả”.
286. Hỏi:
Việc này xảy ra bao lâu trước Công nguyên?
Đáp:
Khoảng sáu thế kỷ.
287. Hỏi:
Các vua chúa có giúp đỡ ǵ trong việc hoằng pháp không?
Đáp:
Ngoài những giai cấp thấp hèn, nhiều vị vua (Rajas) và đại vương (Maharajas)
đă quy y theo Phật, và góp phần giúp đỡ của họ cho việc truyền bá Phật giáo.
288. Hỏi:
Những nhà hành hương đă góp phần như thế nào?
Đáp:
Các nhà hành hương thông thái, trải qua nhiều thế kỷ, đến tu học tại Ấn Độ
và đă mang theo họ về bản quốc, nhiều kinh điển Phật giáo. Do đó, mọi quốc
gia dần dần đă từ bỏ đạo gốc của họ để theo Phật giáo.
289. Hỏi:
Trong sự nghiệp kiến lập lâu dài cho Phật Pháp, đối với ai, hơn bất cứ nhân
vật nào khác mà thế giới đă mang ơn?
Đáp:
Đối với vua A Dục (Ashoka), hiệu Đại Vương, cũng gọi là Thiện Kiền Vương
(Piyadàsi) hay Pháp A Dục (Dharmàshoka). A Dục là con của Tân Đầu Sa La
(Bindusàra), vua xứ Ma Kiệt Đà (Magadha), và cháu nội của Chiên Đà La Cấp Đa
(Chandragupta), vị vua đă đánh đuổi quân Hy Lạp ra khỏi Ấn Độ.
290. Hỏi:
A Dục Vương lên ngôi năm nào?
Đáp:
Vào thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch, khoảng hai thế kỷ sau thời đại của Đức
Phật. Các sử gia bất đồng ư kiến, nhưng không quá nhiều, xem đó như là ngày
chính xác tức vị của đức vua.
291. Hỏi:
Điều ǵ đă làm vua A Dục trở nên vĩ đại?
Đáp:
Nhà vua là một quốc vương hùng mạnh nhất trong lịch sử Ấn Độ, như một chiến
sĩ và chính khách; song những đức tính cao thượng nhất của đức vua là ḷng
yêu sự thật và công b́nh, khoan dung với mọi khác biệt tôn giáo, không thiên
vị đối với nhân viên chính quyền; chăm sóc các bịnh nhân, những người nghèo
khổ và thú vật. Danh tiếng của nhà vua được tôn vinh từ Xi-bê-ri-a (Siberia)
đến Tích Lan (
292. Hỏi:
Phải chăng vua A Dục bẩm sinh là một Phật tử?
Đáp:
Không. Đức vua đă quy y theo Phật giáo với Đại Đức Ni Câu Luật (Nigrodha),
một vị A La Hán (Arhat) vào năm thứ mười, sau khi nhà vua làm lễ đăng quang.
293. Hỏi:
Vua A Dục đă đóng góp ǵ cho Phật giáo?
Đáp:
Nhà vua đă loại trừ các Tỳ Kheo (Bhikkhus) phá giới, khuyến khích các vị tu
hành chân chính, kiến tạo nhiều chùa tháp khắp nơi; thiết lập những công
viên, mở nhà thương cho mọi người và thú vật, tổ chức đại hội ở Hoa Thị
Thành (Patna) để duyệt xét và kết tập lại kinh điển Phật giáo; phát triển sự
giáo dục tín ngưỡng cho hàng nữ giới, và gởi sứ thần đến năm vị vua Hy Lạp
cùng chư hầu của họ, và đến các quốc vương của Ấn Độ để giảng truyền giáo lư
Đức Phật. Chính vua A Dục đă cho xây dựng các bảo tháp kỷ niệm tại Ca Tỳ La
Vệ (Kapilavastu), Bồ đề Đạo Tràng (Buddha Gaya), vườn Lộc Uyển (Isipatana),
và Câu Thi Na (Kusinara); bốn nơi Phật tích quan trọng của du khách hành
hương, ngoài hàng ngh́n thánh tích Phật giáo khác.
294. Hỏi:
Những chứng tích danh tiếng nào hiện c̣n tồn tại, nói đến đức tính cao
thượng của nhà vua?
Đáp:
Trong những năm gần đây, người ta đă khám phá t́m thấy tại nhiều nơi ở Ấn
Độ, 14 Sắc lệnh (Edicts) của đức vua khắc trên đá, và 8 chỉ dụ khác khắc
trên các thạch trụ do nhà vua truyền cho thiết lập. Những bi kư này hoàn
toàn chứng minh cho thấy vua A Dục là một trong những quốc vương tài đức và
có tâm hồn cao thượng nhất từ trước đến nay.
295. Hỏi:
Các bi kư này bày tỏ thế nào về Phật giáo?
Đáp:
Trên đó ghi chép rằng Phật giáo là một tôn giáo của ḷng từ bi quảng đại,
t́nh huynh đệ thế giới, của đạo đức và công bằng. Phật giáo không có sự xấu
xa của ḷng ích kỷ, chủ trương bè phái hay thiếu ḷng khoan dung. Những bi
kư ghi chép điều hơn thế nữa là Phật giáo đă chinh phục được ḷng tôn kính
mà các đại học giả (Pandits) Tây Phương ngày nay đang c̣n duy tŕ.
296. Hỏi:
Món quà quí báu nhất mà A Dục Vương đă cống hiến cho Phật giáo là những ǵ?
Đáp:
Đức Vua đă cho phép hoàng tử của Ngài là Mahinda và công chúa Sanghamitta đi
xuất gia và phái họ qua Tích Lan để truyền bá Phật Pháp.
297. Hỏi:
Sự kiện này có thấy ghi chép trong lịch sử Phật giáo của Tích Lan hay không?
Đáp:
Có, tất cả đều được ghi chép trong tập Đại Sử (Mahavamsa) bởi các nhân viên
bảo tồn sử liệu của hoàng gia mà bấy giờ họ đang sống và gặp thấy các nhà
hoằng pháp đó.
298. Hỏi:
Hiện nay c̣n t́m thấy chứng tích nào về phái đoàn truyền giáo của Sư cô
Sanghamitta hay không?
Đáp:
Có. Sư cô đă mang (từ Ấn Độ) qua Tích Lan một nhánh chiết từ cây Bồ Đề gốc
mà chính ở đó Đức Phật đă ngồi thiền định khi Ngài thành đạo, và hiện nay nó
đang c̣n xanh tốt.
299. Hỏi:
Trồng ở đâu?
Đáp:
Tại thị trấn
300. Hỏi:
Ai đang trị v́ vương quốc (Tích Lan) vào lúc ấy?
Đáp: Vua Devanampiyatissa. Vợ
của nhà vua, hoàng hậu Anula đă mời Sư Cô Sanghamitta qua để thành lập một
phân bộ của giáo hội Tỳ Kheo Ni (Bhikkhunis).
301. Hỏi:
Sư Cô Sanghamitta đi với ai?
Đáp:
Với các Tỳ Kheo Ni khác. Sư Cô lúc bấy giờ, đă thu nhận hoàng hậu Anula, và
nhiều phu nhân cùng với 500 thiếu nữ vào Giáo Hội (Ni Bộ).
302. Hỏi:
Chúng ta có thể tŕnh bày những kết quả hoằng pháp do các phái đoàn truyền
giáo của A Dục Vương thực hiện được ở ngoại quốc hay không?
Đáp:
Hoàng tử và công chúa của A Dục đă truyền bá Phật giáo qua Tích Lan, chư
Tăng của Ngài đă phổ biến đạo Phật đến toàn miền bắc xứ Ấn, vào 14 tiểu quốc
Ấn Độ bên ngoài lănh thổ của đức vua; đến năm vị hoàng đế Hy Lạp và chư hầu
của họ, mà vua A Dục đă kư hiệp ước để những quốc vương này đón tiếp Tăng
đoàn truyền giáo của ḿnh.
303.
Hỏi: Bạn có thể kể tên các vị
vua đó ra được không?
Đáp:
Vua Antiochus của nước Syria, Ptolemy của Ai cập (Egypt), vua Antigonus của
xứ Macedon, vua Merga của vương quốc Cyrene, và hoàng đế Alexander của nước
Epidos.
304. Hỏi:
Do đâu chúng ta biết những điều này?
Đáp:
Từ các sắc lệnh của A Dục đại vương, do đức vua truyền khắc ghi trên đá và
thạch trụ mà hiện đang c̣n tồn tại, và có thể nh́n thấy bởi những ai đến
viếng thăm các nơi đó.
305. Hỏi:
Qua giáo hội tôn giáo Tây Phương nào, Phật Pháp (Buddha Dharma) đă ḥa hợp
với tư tưởng Âu Châu?
Đáp:
Qua các giáo phái của Therapeuts ở Ai Cập và phái Essenes ở
306. Hỏi:
Những kinh điển Phật giáo đầu tiên được truyền sang Trung Quốc vào thời kỳ
nào?
Đáp:
Ngay từ thế kỷ thứ 2 hay thứ 3 trước Tây Lịch. Trong hai tập sách tiếng Pali
Samanta Pasàdika và Sàrattha Dipani ghi chép có năm vị Tăng đă được vua A
Dục phái sang năm vùng đất của Trung Hoa.
307. Hỏi:
Phật giáo du nhập Đại Hàn (
Đáp:
Từ Trung Hoa, vào năm 372 Tây Lịch.
308. Hỏi:
Từ đâu và lúc nào Phật giáo đă du nhập Nhật Bản?
Đáp:
Từ Đại Hàn, vào năm 552 sau Tây Lịch.
309. Hỏi:
Đạo Phật được truyền vào Cochin China, Formosa (Đài Loan), Java (Nam Dương),
Mongolia (Mông cổ), Yorkand, Balk, Bokhara, Afghanistan (A Phú Hăn) và các
quốc gia miền Trung Á Châu, từ đâu và lúc nào?
Đáp:
Vào khoảng thế kỷ thứ 4 và thứ 5 sau Tây Lịch.
310. Hỏi:
Từ Tích Lan Phật giáo được truyền tới đâu và vào lúc nào?
Đáp:
Đến Miến Điện (
311. Hỏi:
Từ Kashmir (Ấn Độ), ngoài Trung Hoa ra, Phật giáo đă truyền đến đâu?
Đáp:
Vào
312. Hỏi:
Tại sao Phật giáo đă một thời là tôn giáo thạnh hành khắp Ấn Độ, ngày nay
gần như suy đồi tại đó?
Đáp:
Phật Pháp, giáo lư của Đức Như Lai (Tathagata), khởi nguyên vốn thanh tịnh,
cao siêu; chư Tăng (Sangha) có đạo đức và giữ ǵn ǵới luật, Phật giáo nhờ
vậy cảm hóa mọi tâm hồn và mang sự an lạc đến cho nhiều quốc gia, như ánh
sáng ban mai chiếu nguồn sống đến những cành hoa. Nhưng, sau vài thế kỷ các
thầy Tỳ Kheo bất hảo đă thọ giới cụ túc (Upasampasa); đoàn thể chư Tăng trở
nên giàu có, biếng nhác, thích hưởng thụ, cho nên Phật Pháp suy đồi và Phật
giáo đă rời bỏ Ấn Độ.
313. Hỏi:
Vào thế kỷ thứ 9 hay thứ 10 Tây Lịch có biến cố nào xảy ra khiến Phật giáo
càng nhanh chóng bị suy yếu hay không?
Đáp:
Có.
314. Hỏi:
Ngoài t́nh trạng thối nát về tinh thần, sự đồi bại của chư Tăng, và phản ứng
của quần chúng từ lư tưởng cao siêu của con người đến sự mê lầm sung bái
thần tượng, đă có nguyên do khác nữa phải không?
Đáp:
Đúng vậy. Chúng ta được biết rằng quân Hồi giáo đă xâm lăng tàn phá và chiếm
đóng nhiều vùng rộng lớn của Ấn Độ; và khắp mọi nơi, chúng đă cố gắng hết
sức để tiêu diệt Phật giáo của chúng ta.
315. Hỏi:
Chúng bị lên án đă hành động những tội ác như thế nào?
Đáp:
Bọn chúng đă đốt cháy, phá đổ hủy diệt nhiều chùa tháp, tàn sát chư Tăng và
phóng lửa thiêu đốt những kinh điển Phật Giáo của chúng ta.
316. Hỏi:
Kinh sách của chúng ta có hoàn toàn bị thiêu hủy ở Ấn Độ hay không?
Đáp:
Không. Nhiều vị Tỳ Kheo đă mang theo những kinh sách của họ trốn thoát vượt
qua biên giới (Ấn Độ) vào đất Tây Tạng và nhiều nơi ẩn trú an toàn khác.
317. Hỏi:
Có chứng cớ ǵ cho biết những kinh sách này gần đây đă được t́m thấy lại hay
không?
Đáp:
Có. Ông Rai Bhanur Sarat Chandra Das, nhà học giả (pandit) người Bengali (Ấn
Độ), đă t́m thấy hàng trăm cuốn kinh trong các thư viện tại những ngôi chùa
(Vihara) ở Tây Tạng, và ông đă mang theo về nước nhiều bản kinh sách Phật
quí giá nhất mà hiện nay chúng đang được chính phủ Ấn Độ dùng, để sưu tập,
chú giải và cho ấn hành.
318. Hỏi:
Tại quốc gia nào chúng ta có lư để tin rằng các kinh điển Phật Giáo nguyên
thỉ được bảo tŕ toàn hảo nhất và ít bị hư hoại?
Đáp:
Ở Tích Lan. Cuốn Bách Khoa Tự Điển Britannaica ghi chép rằng tại hải đảo
này Phật giáo có những lư do đặc biệt “vẫn duy tŕ được phần lớn tinh hoa
nguyên thỉ của nó cho đến ngày nay”
319. Hỏi:
Có sự duyệt xét kinh điển nào được thực hiện trong thời hiện đại hay không?
Đáp:
Có. Tại Tích Lan vào năm 1875, một đại hội gồm các Tỳ Kheo thông bác đă được
tổ chức để duyệt chính lại cẩn thận về Luật Tạng (Vinaya Pitaka), dưới sự
chủ tọa của hai vị Trưởng lăo H. Sumangala và Pradhana Sthavira.
320. Hỏi:
Có sự trao đổi thân thiện nào, v́ lợi ích của Phật giáo giữa dân tộc các
quốc gia theo
Đáp:
Năm 1891, một đại hội đă tổ chức thành công nhằm liên kết hai tông phái lớn
chịu đồng ư chấp thuận 14 đề nghị, xem như biểu hiện những giáo lư căn bản
của Phật giáo mà được cả hai hệ phái đều thừa nhận và giảng truyền. Những đề
nghị này do đại tá Olcott (người Hoa Kỳ) soạn thảo, được phiên dịch kỹ lưỡng
sang các thứ tiếng Miến Điện, Tích Lan, Nhật Bản; thảo luận từng điểm một,
đă được nhất trí chấp thuận, kư tên bởi các vị Tăng đại diện (trưởng phái
đoàn) và ấn hành vào tháng giêng năm 1892.
321. Hỏi:
Với kết quả tốt đẹp như thế nào?
Đáp:
Kết quả đă mang lại sự hiểu biết thân thiện c̣n duy tŕ đến ngày nay, nhiều
vị Tỳ Kheo và Sa Di (Samaneras) Nhật Bản được gửi qua Tích Lan, Ấn Độ để
theo học cổ ngữ Pali và tiếng Phạn (Sanskrit).
322. Hỏi:
Có dấu hiệu ǵ cho thấy Phật Pháp đang được phát triển đầy thiện cảm tại các
quốc gia Tây Phương hay không? [25]
Đáp:
Có. Những dịch phẩm của các kinh sách (Phật giáo) giá trị đang xuất hiện,
nhiều tài liệu viết đăng ở tập san, tạp chí, và báo chí được phát hành cũng
như những bài luận thuyết xuất sắc của các tác giả nổi tiếng đă được in ra.
Hơn nữa, nhiều thuyết tŕnh viên Phật tử và không Phật tử đang thuyết giảng
Phật giáo cùng khắp cho đông đảo thính giả tại các nước Tây Phương. Phái
Chân Tông (Shin Shu) của Phật Giáo Nhật Bản đă thực sự thiết lập các hội
truyền giáo ở Honolulu, San Francisco, Sacramento, và nhiều nơi khác tại Hoa
Kỳ.
323. Hỏi:
Hai lư thuyết căn bản ǵ của Phật giáo đă được người Tây Phương đặc biệt
chấp nhận?
Đáp:
Đó là thuyết Nghiệp Báo (Karma) và Luân Hồi. Sự nhanh chóng tin vào thuyết
này của họ là điều rất đáng ngạc nhiên.
324. Hỏi:
Họ tin tưởng điều ǵ khi giáo lư Nghiệp Báo và Luân Hồi được giải thích?
Đáp:
Họ tin vào nguyên tắc tự nhiên của sự công bằng và chân lư rơ ràng của các
giáo thuyết đó.
PHẦN V
PHẬT GIÁO VÀ KHOA HỌC
325. Hỏi:
Phải chăng nên xem đạo Phật là tôn giáo của khoa học hay có thể xếp nó vào
loại tôn giáo “Thiên Khải”?
Đáp:
Phật giáo được nhấn mạnh không phải là tôn giáo mặc khải. Đức Phật đă không
thuyết giảng điều như vậy, và cũng không ai hiểu Ngài như thế. Trái lại Đức
Phật đă tŕnh bày giáo pháp của chân lư vĩnh cửu mà chư Phật (quá khứ) trước
Ngài đă dạy giống y như Ngài.
326. Hỏi:
Hăy cho biết tên bài Kinh (Sutta) trong đó Đức Phật dạy chúng ta đừng nên
tin tưởng vào điều Thiên Khải mà không được kiểm chứng bởi lư trí và kinh
nghiệm của ḿnh.
Đáp:
Kinh Kalama trong Tăng Nhất A Hàm (Anguttara Nikaya).
327. Hỏi:
Phật tử có chấp nhận lư thuyết cho rằng mọi vật được tạo thành từ cái không
có bởi Thượng Đế hay không?
Đáp:
Đức Phật dạy có hai điều mà không có nguồn gốc phát sinh, đó là Hư Không
(Akasha) và Niết Bàn (Nirvana). Mọi vật đến từ Hư Không, tuân theo định luật
vận hành (nhân quả) nằm trong đó và sau khi sinh ra, chúng sẽ hủy diệt. Chưa
bao giờ có một vật ǵ lại sinh ra từ cái không có. Chúng ta không tin vào
phép mầu, cho nên chúng ta phủ nhận sự tạo dựng và không thể tin được một sự
lập thành từ cái không có. Không một vật thể hữu cơ nào tồn tại vĩnh cửu.
Vạn vật ở trong t́nh trạng biến dịch thường xuyên, cùng trải qua mọi sự đổi
thay, cải tạo; và duy tŕ tiếp tục măi như thế theo luật tiến hóa (vô
thường).
328. Hỏi:
Phải chăng Phật giáo phản đối sự giáo dục và nghiên cứu khoa học?
Đáp:
Hoàn toàn trái hẳn, trong một bài pháp ở kinh Thi Ca La Việt
(Sigalovada), do Đức Phật thuyết giảng, Ngài nhấn mạnh một trong những bổn
phận của bổn sư là nên dạy cho đệ tử của ḿnh “kiến thức khoa học và mọi sự
hiểu biết khác”. Giáo lư cao siêu của Đức Phật dành cho người gíác ngộ, tài
đức và có tư tưởng.
329. Hỏi:
Bạn có thể tŕnh bày bất cứ sự xác nhận nào khác của khoa học đối với Phật
giáo hay không?
Đáp:
Giáo pháp Đức Phật dạy rằng nhân loại có nhiều đời tổ tiên, và có một nguyên
lư sai biệt giữa con người; một vài cá nhân này có nhiều khả năng chóng đạt
tới giác ngộ và chứng đắc Niết Bàn hơn những kẻ khác.
330. Hỏi:
Có điều ǵ khác nữa không?
Đáp:
Phật giáo tán đồng lư thuyết không thể nào hủy diệt được năng lực (force).
331. Hỏi:
Nên gọi Phật giáo là một đồ biểu khoa học hay quy tắc đạo lư?
Đáp:
Nói đúng ra, Phật giáo là một triết học luân lư thuần túy, một hệ thống đạo
đức và là một siêu h́nh học tiên nghiệm. Đức Phật tỏ ra hết sức sáng suốt
trong thái độ giữ im lặng, khi đồ đệ Malunkya thỉnh vấn Ngài về nguồn gốc
của vạn hữu.
332. Hỏi:
Tại sao Đức Phật đă hành động như thế?
Đáp:
Bởi v́ Ngài nghĩ rằng mục đích chính của chúng ta là nên nhận thức rơ cảnh
sống (khổ đau) đang hiện hữu xung quanh chúng ta và cố gắng (tu tập) cải
thiện cho cuộc đời được toàn hảo hơn, chứ không nên để mất th́ giờ vào những
lư luận siêu h́nh.
333. Hỏi:
Phật tử giải đáp thế nào về trường hợp cha mẹ ác đức, sinh ra con cái hiền
lành, thông minh; và thuần lương lại gặp phải cảnh con cái xấu xa?
Đáp:
Chính v́ do Nghiệp Báo (Karmas) của riêng con cái và cha mẹ, mỗi người có
thể xứng đáng nhận chịu sự liên hệ đặc biệt như thế, nên đă phải gặp nhau
trong đời này.
334. Hỏi:
Phải chăng Phật tử tin rằng thân thể của Đức Phật phóng hào quang?
Đáp:
Đúng vậy, từ bên trong kim thân Đức Phật có ánh sáng huyền diệu được phóng
ra bởi thần lực thánh thiện của Ngài.
335. Hỏi:
Danh từ Pali gọi đó là ǵ?
Đáp:
Hào quang của Đức Phật (Buddha-ransi).
336. Hỏi:
Trong hào quang, người ta có thể thấy bao nhiêu màu?
Đáp:
Sáu màu, từng cặp nối liền nhau.
337. Hỏi:
Hăy kể tên các màu đó.
Đáp:
Xanh (Nila), vàng (Pita), đỏ (Lohita), trắng (Avadata), da cam, và màu tổng
hợp của năm màu vừa kể.
338. Hỏi:
Những người khác có thể phóng ra ánh hào quang như thế được không?
Đáp:
Được, tất cả các vị A La Hán đều có hào quang và thực vậy, người có định lực
càng cao th́ ánh hào quang của họ phát ra càng mạnh, càng sáng.
339. Hỏi:
Các màu tượng trưng này chúng ta thấy ở đâu?
Đáp:
Những tượng Phật tô sơn màu tôn trí thờ ở các chùa. Những màu hào quang này,
chúng cũng được thấy nơi các sọc cờ Phật giáo dùng lần đầu tiên tại Tích
Lan, và hiện nay đă được rộng răi chấp nhận ở khắp những quốc gia Phật giáo.
340. Hỏi:
Trong bài kinh nào Đức Phật đă nói đến ánh hào quang này của Ngài?
Đáp:
Trong kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahàparinibbàna Suttà), Ngài A Nan, đệ tử thân
tín của Đức Phật, nhận thấy ánh sáng rực rỡ phát sinh từ kim thân của đức
Bổn Sư; và Đức Phật dạy rằng có hai trường hợp mà ánh hào quang này xuất
hiện, đó là: a) ngay khi Đức Như Lai (Tathagata) vừa chứng đạo vô thượng; và
b) trong đêm cuối cùng Ngài nhập Niết Bàn.
341. Hỏi:
Chúng ta đọc thấy ở đâu ánh hào quang này được chiếu ra từ kim thân của một
vị Phật khác?
Đáp:
Trong câu chuyện về Đức Bồ Tát Sumedha, và Phật Nhiên Đăng (Dipankara), ghi
chép ở tập Nhân Duyên Truyện (Nidànakatha) trong kinh Bổn Sanh (Jataka), hay
chuyện tiền thân của đức Bồ Tát Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Bodhisattva Siddhartha
Gautama).
342. Hỏi:
Hào quang này được diễn tả như thế nào?
Đáp:
Như vầng ánh sáng có chiều sâu của một fathom (đơn vị đo bề sâu của nước
khoảng 6 feet).
343. Hỏi:
Tín đồ Ấn Độ giáo (Hindus) gọi ánh sáng đó là ǵ?
Đáp:
Tejas, và ánh sáng rộng dài của nó gọi là Prakàsha.
344. Hỏi:
Hiện nay người Châu Âu gọi ánh sáng đó là gi?
Đáp:
Tinh hoa của con người.
345. Hỏi:
Nhà đại khoa học nào đă chứng minh sự hiện hữu của tinh hoa này bằng cách
hướng dẫn chu đáo các cuộc thí nghiệm?
Đáp:
Ông Baron Von Reichenbach. Công tŕnh khảo nghiệm của ông đă tŕnh bày đầy
đủ trong tập Khảo Cứu (researches), xuất bản năm 1844-1845; và bác sĩ Braduc
ở Ba Lê (Paris) gần đây cũng đă chụp được h́nh ánh sáng đó.
346. Hỏi:
Ánh sáng tinh hoa này là một hiện tượng huyền bí hay tự nhiên?
Đáp:
Tự nhiên. Nó không những chỉ t́m thấy nơi con người, mà ngay cả ở loài vật,
cây cối và khoáng chất cũng có.
347. Hỏi:
Trường hợp nơi Đức Phật hay một vị A La Hán (Arhat) th́ đặc biệt ánh sáng đó
như thế nào?
Đáp:
Nó hoàn toàn sáng chói hơn và chiếu xa hơn trường hợp ở con người và các vật
thể khác. Đó là chứng cứ về sự phát triển cao độ của oai lực thần thông
(iddhi). Ánh sáng này được thấy phát chiếu ra từ một ngôi bảo tháp ở Tích
Lan, nơi người ta bảo rằng có xá lợi (tro cốt) của Đức Phật tôn thờ tại đó.
348. Hỏi:
Tín đồ của các tôn giáo khác, ngoài Phật và Ấn Độ giáo ra, cũng tin có ánh
sáng này phải không?
Đáp:
Đúng vậy, nơi những h́nh tượng vẽ của các họa sĩ Thiên chúa, ánh sáng này
tượng trưng cho hào quang chiếu ra từ thánh thể của các vị Thánh Nhân của
họ. Nhiều tôn giáo khác cũng tin như vậy.
349. Hỏi:
Sự kiện lịch sử nào đă tán đồng lư thuyết hiện đại về ư kiến thôi miên?
Đáp:
Câu chuyện về Tỳ Kheo Chullapanthaka ghi chép trong tập chú giải tiếng Pali
về kinh Pháp Cú (Dhammapada) v.v…
350. Hỏi:
Hăy cho tôi bằng chứng cụ thể.
Đáp:
Đó là một Tỳ Kheo đă chứng quả A La Hán. Ngày nọ, Đức Phật phái một sứ giả
đến thăm Tỳ Kheo trên. Khi vị này vừa đến chùa (Vihàra), ông ta thấy một
nhóm gồm 300 Tỳ Kheo, tất cả đều giống y hệt nhau về mọi phương diện. Vị sứ
giả liền hỏi ai là Tỳ Kheo Chullapanthaka; mọi người trong số 300 khuôn mặt
giống nhau đều trả lời: “Tôi là Chullapanthaka”.
351. Hỏi:
Rồi vị sứ giả làm sao?
Đáp:
Trong t́nh trạng mơ hồ nhầm lẫn đó, ông ta đành trở về để bạch lại với Đức
Phật.
352. Hỏi:
Đức Phật đă dạy vị sứ giả như thế nào?
Đáp:
Đức Phật bảo vị này trở lại chùa đó, và dặn nếu sự việc xảy ra giống như
trước th́ nắm tay người nào đầu tiên nói ông ta là Chullapanthaka, và huớng
dẫn người đó về cho Ngài. Đức Phật biết rằng vị tân A La Hán muốn phô trương
thần lực chứng đắc của ḿnh bằng cách gây ấn tượng những h́nh ảnh ảo giác về
ông ta trước vị sứ giả.
353. Hỏi:
Năng lực tạo ảo giác này danh từ Pali gọi là ǵ?
Đáp:
Manomaya Iddhi (Tâm tạo thần thông).
354. Hỏi:
Phải chăng những khuôn mặt ảo giác là h́nh dáng con người đích thực của vị A
La Hán? Chúng bao gồm thực chất và có thể xúc phạm hoặc điều khiển được bởi
vị sứ giả hay không?
Đáp:
Không; chúng là những h́nh ảnh tạo ra trong tâm thức vị sứ giả bởi ư tưởng
và ư lực được tu luyện của đức A La Hán.
355. Hỏi:
Bạn có thể so sánh chúng với điều ǵ?
Đáp:
Sự phản chiếu của một người trong tấm gương giống hệt như người đó, nhưng
không phải thực.
356. Hỏi:
Muốn tạo sự ảo giác như thế trong tâm thức của vị sứ giả, điều cần thiết là
phải làm sao?
Đáp:
Tỳ Kheo Chullapanthaka phải h́nh thành rơ ràng trong tâm thức ông ta đúng
diện mạo của chính ḿnh; và rồi tạo ra nhiều h́nh ảnh giống hệt hay trùng
hợp, tùy ư thích vị Tỳ Kheo mong muốn trong tâm trí của người sứ giả.
357. Hỏi:
Sự tiến triển này ngày nay gọi là gi?
Đáp:
Ư kiến về thôi miên.
358. Hỏi:
Phải chăng những h́nh ảnh ảo giác đó, bất cứ nhóm thứ ba nào cũng có thể
thấy được?
Đáp:
Điều ấy tùy thuộc ư muốn của vị A La Hán hoặc nhà thôi miên.
359. Hỏi:
Bạn muốn nói thế nào?
Đáp:
Chẳng hạn, có 50 hay 500 người ở đó, nhưng thay v́ một, vị A La Hán có thể
muốn tất cả mọi người đều chứng kiến thuật ảo giác đó, hoặc nếu thích ông ta
có thể làm cho riêng ḿnh vị sứ giả thấy chúng mà thôi.
360. Hỏi:
Ngày nay, ngành khoa học này ai cũng biết phải không?
Đáp:
Nó rất phổ thông và quen thuộc đối với các sinh viên của môn học thôi miên
và ảo thuật.
361. Hỏi:
Niềm tin tưởng nền khoa học hiện đại của chúng ta đă tán đồng lư thuyết
Nghiệp Báo của Phật giáo như thế nào?
Đáp:
Các nhà khoa học hiện đại thuyết minh rằng mỗi thế hệ con người là kẻ thừa
hưởng những kết quả của các việc làm thiện và ác của thế hệ trước đó, không
phải ở tập thể, mà trong mọi trường hợp cá nhân. Mỗi người chúng ta, theo
Phật giáo, nhận chịu sự ra đời mà nó tiêu biểu cho những hành động do người
ấy đă tạo ra trong kiếp trước. Đây là ư niệm về thuyết Nghiệp Báo (Karma).
362. Hỏi:
Kinh Vasettha dạy thế nào về lư nhân duyên trong Thiên Nhiên (vũ trụ)?
Đáp:
Kinh dạy rằng: “Thế giới tồn tại do nhân duyên, mọi vật tồn tại do nhân
duyên, và tất cả chúng sanh liên hệ với nhau đều do nhân duyên”.
363. Hỏi:
Phật giáo có dạy rằng vũ trụ hữu h́nh: quả đất, mặt trời, mặt trăng, các v́
sao, khoáng vật, thảo mộc, loài vật, và thế giới con người của chúng ta là
thường c̣n hay không?
Đáp:
Không. Phật giáo dạy rằng tất cả đều luôn luôn thay đổi (vô thường), và tất
cả phải hủy diệt theo thời gian.
364. Hỏi:
Phải chăng chúng không bao giờ tái hiện trở lại.
Đáp:
Không phải vậy: định luật biến đổi, hướng dẫn bởi Nghiệp Lực, cá nhân và tập
thể, sẽ tạo ra vũ trụ khác với dung tích của nó, như vũ trụ của chúng ta đă
được tạo thành từ hư không (Akàsha).
365. Hỏi:
Phật giáo thừa nhận rằng bản chất con người có tiềm năng tạo ra việc phi
thường, gọi chung là “phép lạ”, phải vậy không?
Đáp:
Đúng thế. Song những phép mầu đó là tự nhiên, chứ không phải siêu tự nhiên.
Chẳng hạn chúng có thể phát triển bởi phương pháp được tŕnh bày trong cuốn
sách Phật giáo Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi Màrga).
366. Hỏi:
Môn khoa học này gọi là ǵ?
Đáp:
Danh từ Pali gọi là Thần Túc Thông (Iddhi Vidhanànà).
367. Hỏi:
Có bao nhiêu loại?
Đáp:
Hai: Bàhira, là phép thần thông tạo nên cảnh vật, có thể nhất thời chứng đắc
do công phu tu hành khổ hạnh; hay nhờ đến sức của những vị thuốc, sự tụng
niệm thần chú hoặc các ngoại lực giúp đỡ khác; và Sasanikas, là phép thần
thông thành tựu bằng cách tu luyện nội tâm; nó bao gồm tất cả và hơn cả phép
lạ của thần thông trong cơi Dục Giới (Laukika Iddhi).
368. Hỏi:
Hạng người nào có được những thần thông này?
Đáp:
Ai thực hành theo pháp môn tu khổ hạnh gọi là Thiền định (Dhyana), dần dần
họ sẽ phát triển được các phép thần thông đó.
369. Hỏi:
Thần thông này có thể bị mất hay không? [26]
Đáp:
Phép thần thông Bàhira có thể mất, nhưng thần thông Sasanika một khi đă được
th́ c̣n măi. Xuất thế (Lokottara) trí, khi đă được, cũng không bao giờ mất,
và chỉ cần có trí tuệ ấy, vị A La Hán có thể đạt tới cảnh giới tuyệt đối của
Niết Bàn (Nirvana); và trí tuệ này có thể thành tựu nhờ thực hành theo cuộc
sống cao siêu của Bát Chánh Đạo.
370. Hỏi:
Đức Phật có xuất thế thần thông (Lo-kottara Iddhi) hay không?
Đáp:
Có, một cách toàn hảo.
371. Hỏi:
Các đệ tử của Ngài cũng có thần thông này?
Đáp:
Có ở một vài vị, chứ không phải tất cả đều có; tŕnh độ đạt tới những thần
thông này khác biệt tùy theo mỗi cá nhân.
372. Hỏi:
Hăy cho ví dụ.
Đáp:
Trong tất cả đệ tử của Đức Phật, Ngài Mục Kiền Liên (Moggallana) là vị chứng
đắc thần thông bậc nhất, có thể tạo nên nhiều phép lạ, c̣n đức A Nan
(Ananda) lại không có được thần thông ǵ cả, mặc dù trong suốt 25 năm liền,
Ngài là đệ tử thân cận và tâm phúc của Đức Phật. Sau này, y như lời Đức Phật
dạy, ngài A Nan cũng đă có được thần thông.
373. Hỏi:
Th́nh ĺnh hay từ từ người ta đạt được những thần thông này?
Đáp:
Thông thường, các thần thông được phát triển dần dần, do hành giả không
ngừng tiến đến sự chế ngự bản tánh xấu ác của ḿnh trong nhiều kiếp sống
[27]
374. Hỏi:
Phật giáo có tin rằng thần thông có thể cứu con người thoát khỏi sự chết hay
không?
Đáp:
Không. Đức Phật dạy ngược lại, trong câu chuyện lư thú nàng Kisa Gotami với
hạt cải. Chỉ trường hợp khi con người tưởng đă chết nhưng không phải thật
vậy, th́ mới có thể làm sống lại.
375. Hỏi:
Hăy cho tôi biết về những giai đoạn phát triển của xuất thế thần thông
(Lokottara Iddhi).
Đáp:
Có sáu tŕnh độ mà một vị A La Hán có thể đạt tới, và chỉ Đức Phật mới có
thể chứng đắc cao hơn các tŕnh độ trên.
376. Hỏi:
Hăy giải thích sáu tŕnh độ ấy.
Đáp:
Chúng ta có thể phân chia chúng thành hai nhóm, mỗi nhóm có ba tŕnh độ.
Nhóm thứ nhất bao gồm: 1) Khả năng từ từ nhớ lại đời trước, chẳng hạn, khả
năng dần dần nhớ lại nguồn gốc của vạn vật trong kiếp quá khứ; 2) Sự tiến
triển biết trước hay khả năng tiên tri; và 3) Sự lần hồi chấm dứt mọi dục
vọng và tham đắm những vật chất.
377. Hỏi:
Nhóm thứ hai gồm có những ǵ?
Đáp:
Cùng khả năng như nhóm trên, nhưng được phát triển rộng lớn hơn. Như vậy, vị
A La Hán có khả năng hoàn toàn nhớ lại kiếp quá khứ; hoàn toàn biết trước
mọi việc, và chấm dứt hoàn toàn dấu vết cuối cùng của dục vọng và thú vui
ích kỷ.
378. Hỏi:
Bốn phương tiện để chứng đắc thần thông (Iddhi) là những ǵ?
Đáp:
Ư chí, hạnh tinh tấn, sự phát triển tâm linh, cùng phân biệt giữa điều thiện
và ác.
379. Hỏi:
Kinh điển của chúng ta ghi chép hàng trăm chứng minh về phép thần thông do
các vị A La Hán thực hiện: bạn gọi khả năng hay thần lực ấy là ǵ?
Đáp:
Thần Túc thông (Iddhi Vidha). Người chứng đắc thần thông này có thể điều
khiển sức mạnh của Thiên Nhiên, tạo nên bất cứ phép lạ nào; có nghĩa là thực
hiện các thí nghiệm khoa học tùy ư họ muốn.
380. Hỏi:
Đức Phật có khuyến khích phô trương thần thông hay không?
Đáp:
Không. Ngài tuyệt đối ngăn cấm người biểu diễn thần thông nhằm gây xáo trộn
tâm ư của những kẻ không biết ǵ về nguyên lư của các phép lạ. Thần thông
cũng xúi giục những người chứng đắc phô trương nó nhằm làm thỏa măn sự hiếu
kỳ vẩn vơ và tánh kiêu ngạo của chính họ. Hơn nữa, những nhà ảo thuật và phù
thủy ở thế gian (Laukika) cũng có thể tŕnh diễn các phép lạ tương tự hoặc
những h́nh thức hạ đẳng hơn của môn thần thông. Tánh khoe khoang dối trá về
sự chứng đắc thần thông của chư Tăng là những tội lỗi không thể tha thứ (xem
Kinh Tevijja).
381. Hỏi:
Bạn nói chư Thiên (Devas) đă hiện ra trước thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha)
dưới nhiều h́nh thức; vậy Phật tử tin thế nào về các giống người thuộc cảnh
giới chúng sanh siêu phàm không trông thấy, có những liên hệ với loài người?
Đáp:
Phật tử tin tưởng có hàng chư Thiên sống ở các thế giới hay khu vực riêng
của họ. Phật giáo dạy rằng do sự phát triển tu hành ở nội tâm và chế ngự
được ác tính nơi hành giả, vị A La Hán trở thành siêu việt hơn cả những thần
linh có quyền phép nhất; cũng như có thể chinh phục và chế ngự được các vị
thần thấp hơn.
382. Hỏi:
Có bao nhiêu loại thần linh?
Đáp:
Ba hạng: đó là thần linh ở cơi Dục Giới hay Kàmàvàcarà (chư Thần đang c̣n
dưới sự chế ngự của dục vọng); Sắc giới hay Rùpàvacarà (loại Thần linh cao
hơn đang c̣n duy tŕ h́nh thể vật chất); và Vô Sắc Giới hay Arùpàcavarà (chư
Thiên đạt tới sự thanh tịnh cao nhất không c̣n mang h́nh tướng vật chất).
383. Hỏi:
Chúng ta có nên sợ bất cứ Thiên Thần nào trong ba loại đó hay không?
Đáp:
Người có tâm thanh tịnh, từ bi và hùng lực th́ không có ai, thần linh, ma
quỷ hay Thiên Thần nào có thể làm hại kẻ ấy; nhưng có vài loại thần linh có
khả năng trừng phạt hạng người xấu ác cũng như những kẻ gần gũi thân cận với
các thần linh đó.
PHỤ LỤC
Bản văn gồm 14 điều tin tưởng sau đây được chấp thuận xem như là những
nguyên tắc căn bản của cả hai hệ phái Nam và Bắc Tông Phật giáo, bởi các ủy
ban có thẩm quyền mà qua đó, nó đă do tôi đích thân đệ tŕnh; và bản văn này
mang nhiều tánh cách lịch sử trọng đại đến nỗi, lần xuất bản Cuốn “Phật Giáo
Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) kỳ này, nó đă được tôi cho in thêm vào
phần Phụ Lục (Appendix).
Rất gần đây, hoàng thân Ouchtomsky, nhà học giả Đông Phương ngựi Nga, đă
thông báo cho tôi biết rằng bản văn trên đă được dịch ra tiếng Nga; và những
vị Lạt Ma trụ tŕ các ngôi chùa lớn Phật Giáo Mông Cổ đă bày tỏ cho hoàng
thân rơ là họ chấp nhận mọi điều đề nghị đă soạn thảo, ngoại trừ một điểm về
ngày đản sinh của Đức Phật, th́ vị Lạt Ma tin rằng có thể là một vài ngàn
năm sớm hơn cái ngày tôi đă cho. Sự kiện ngạc nhiên này, cho đến nay, tôi
cũng chưa từng biết đến. Có thể chư Tăng Mông Cổ đă nhầm lẫn về thời kỳ đích
thực của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni) đản sinh với thời đại của vị
Phật trước Ngài chăng? Dù thế nào, thật là điều khích lệ nhất để có thể nói
rằng Phật giáo toàn thế giới hiện nay đă thống nhất trên một phạm vi, ít ra
là của 14 điều đề nghị này.
NHỮNG ĐIỀU TIN TƯỞNG CĂN BẢN
CỦA PHẬT GIÁO
I.- Người Phật tử được giáo huấn nên bày tỏ đức tính khoan dung, nhẫn nhục
và t́nh thương huynh đệ không có sự phân biệt đối với tất cả mọi người, và
ḷng từ tâm quảng đại đối với các phần tử của thế giới loài vật.
II.- Vũ trụ tiến hóa không phải được sáng tạo, và nó hoạt động theo luật (thiên
nhiên), không do sự quyết định của bất cứ đấng Thượng Đế (God) nào.
III.- Chân lư mà trên đó Phật Giáo được xây dựng, là tự nhiên. Chúng ta tin
rằng giáo pháp ấy được thuyết giảng trong nhiều kiếp (Kalpas) liên tục, bởi
các bậc đă giác ngộ gọi là chư Phật; danh từ Phật có nghĩa là “giác ngộ”.
IV.- Vị giáo chủ thứ tư trong đời Hiền Kiếp là Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni)
hay Đức Phật Cồ Đàm (Gautama Buddha), người đă sanh ra trong một gia đ́nh
hoàng tộc tại Ấn Độ vào khoảng (hơn) 2500 năm trước. Ngài là một nhân vật
lịch sử, và tên của Ngài là Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhartha Gautama).
V.- (Đức Phật) Thích Ca Mâu Ni dạy rằng vô minh phát sanh ái dục, ḷng dục
vọng không biết nhàm chán là nguồn gốc của sự luân hồi; và luân hồi, nguyên
nhân gây ra phiền năo. Cho nên, muốn không c̣n phiền năo, cần phải giải
thoát luân hồi, cần phải chấm dứt ái dục; và muốn chấm dứt ái dục, cần phải
diệt trừ vô minh.
VI.- Vô minh nuôi dưỡng đức tin rằng luân hồi là điều cần thiết. Khi vô minh
đă diệt trừ, sự vô dụng của luân hồi xem như tự nó chấm dứt, được nhận thấy;
cũng như nhu cầu cùng tột trong việc thừa nhận một ḍng sống mà qua đó, điều
cần thiết cho sự tiếp diễn luân hồi như thế, có thể chấm dứt. Vô minh cũng
khiến con người có ư niệm sai quấy, phi lư cho rằng đời người chỉ có một
kiếp sống; và nhận thức lầm lạc khác tin rằng, cuộc sống này sẽ được tiếp
nối theo sau bởi những trạng thái bất biến của hạnh phúc hoặc khổ đau.
VII.- Việc dứt trừ tất cả vô minh có thể đạt tới bằng sự kiên tŕ thực hiện
đức tính vị tha rộng khắp trong hành động; phát triển tánh sáng suốt, trí
huệ trong ư tưởng; và đoạn diệt các dục vọng nhằm đến những thú vui cá nhân
thấp hèn.
VIII.- Ḷng tham dục muốn sống là nguyên nhân của luân hồi, khi dục vọng
không c̣n th́ luân hồi chấm dứt ; và nhờ thiền định, con người toàn thiện
đạt tới trạng thái cao siêu nhất của sự an tịnh gọi là Niết bàn (Nirvana).
IX.- Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy rằng con người có thể xé tan vô minh và
đoạn diệt phiền năo, nhờ ở sự giác ngộ về Tứ Diệu Đế như sau:
1) Hiện hữu của những sự khổ;
2) Nguồn gốc phát sinh sự khổ, đó là ḷng dục vọng, mong được luôn luôn đổi
mới, nhằm thỏa măn chính bản thân mà không bao giờ có thể đạt tới sự chấm
dứt;
3) Sự diệt trừ ḷng ái dục hay tự ḿnh tránh xa nó.
4) Phương pháp thành tựu sự đoạn diệt ḷng ái dục. Những pháp môn mà Đức
Phật đă chỉ dạy gọi là Bát Chánh Đạo; đó là: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh
ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
X.- Chánh định dẫn đến sự giác ngộ tâm linh, hay phát triển Phật tánh (khả
năng thành Phật) mà nó tiềm ẩn ở mọi người.
XI.- Tinh hoa của Phật giáo; mà chính Đức Như Lai (Phật) đă tóm lược trong
bài kệ là:
Chớ làm điều ác,
Nên làm việc lành,
Giữ tâm ư trong sạch.
XII.- Vũ trụ tùy thuộc vào luật nhân quả tự nhiên gọi là Nghiệp (Karma).
Hành động thiện hay ác của con người trong những kiếp trước quyết định cuộc
sống của y trong đời hiện tại. V́ vậy mỗi người đă tạo nên những nguyên nhân
của mọi kết quả mà hiện nay họ phải lănh thọ.
XIII.- Những trở ngại cho sự đạt tới thiện nghiệp có thể diệt trừ bằng cách
thọ tŕ các điều răn sau đây mà chúng bao gồm trong giới luật đạo đức của
Phật giáo, đó là: 1/ Không được sát sanh, 2/ Không được trộm cắp, 3/ Không
được tà hạnh, 4/ Không được nói dối, và 5/ Không được dùng chất làm say, và
loại thuốc hay rượu làm ngây dại, đê mê. Năm giới cấm khác mà chúng không
cần kể ra đây, nên được thọ tŕ bởi những ai muốn đạt tới, nhanh chóng hơn
người thường cư sĩ tại gia, sự giải thoát khổ đau và luân hồi.
XIV.- Phật giáo không khuyến khích tính cả tin (dị đoan mê tín). Đức Phật Cồ
Đàm dạy rằng bổn phận của cha mẹ là giáo dục cho con cái hiểu biết khoa học
và văn chương. Ngài cũng dạy rằng mọi người đừng nên tin vào điều ǵ do bất
cứ thánh nhân nào thuyết giảng, ghi chép ở kinh sách, hay được thừa nhận bởi
tập quán, trừ khi điều đó phù hợp với lư trí.
Bản dự thảo được xem như nền tảng chung mà tất cả mọi Tông Phái Phật Giáo
đều có thể đồng ư.
H.S. Olcott
THƯ MỤC
Cuốn sách Phật Giáo Vấn Đáp (The Buddhist Catechism) đă soạn ra do sự nghiên
cứu riêng (của tác giả) tại Tích Lan (Ceylon), và được tham khảo các sách
dưới đây.
Vinaya Texs... Davids and Oldenberg.
Buddhist Literature in
Catena of Buddhist Scriptures... Beal.
Buddhaghosa’s Parables...
Buddhist Birth Stories... Fausboll and Davids.
Legend of Gautama... Bigandet.
Chinese Buddhism... Edkins.
Kalpa Sutra and Nava Patva... Stevenson.
Buddha and Early Buddhism... Lillie.
Sutta Nipàta... Sir Coomaraswami.
Nàgananka... Broyd.
Kusa Jataka... Steele.
Buddhism... Rhys-Davids
Dhammapada... Fausboll and Max Muller.
Romantic History of Buddha... Beal.
Udanavarga... Rockhill.
Twelve Japanese Buddhist Sects... B, Nanjio.
The Gospel of Buddha... Paul Carus.
The Dharma... Paul Carus.
Ancient
The “Sacred Books of the East” Max Muller’s Edition.
Encyclopadia Britannica.
CHÚ GIẢI
[1]“Tôn giáo” là một danh từ không thích hợp nhất để áp dụng chỉ cho Phật
giáo, v́ Phật giáo không phải là tôn giáo, mà là một triết học luân lư, như
tôi sẽ tŕnh bày sau.
Nhưng theo cách dùng thông thường, danh từ này (tôn giáo) nhằm áp dụng cho
tất cả những nhóm người tự nhận cho nó là một học thuyết luân lư đặc biệt và
đă được dùng như thế bởi các chuyên viên thống kê.
Người Phật tử Tích Lan chưa bao giờ có quan niệm về điều như ngựi Châu Âu
ngụ ư dùng trong cách cấu tạo từ nguyên theo nguồn gốc La Tinh của danh từ
này. Theo tín ngương của họ (Tích Lan), không có điều đó như một sự “ghép
lại” trong cái ư nghĩa của Cơ Đốc Giáo - Sự phục tùng hay ḥa hợp tự ngă vào
với đấng Thượng Đế. Àgama là tiếng bản xứ của người Tích Lan dùng để diễn tả
sự tương quan giữa Phật Giáo và Đức Phật. Nó là một danh từ tiếng Phạn (Sanskirt)
thuần túy, có nghĩa là “lại gần hay sự đến” c̣n “Buddha” (Phật) là Giác ngộ,
nên danh từ ghép này nhằm chỉ cho Phật Giáo – Buddhàgama - được dùng thật sự
để diễn tả cái ư tưỏng “Sự lại gần hay đạt tới sự Giác ngộ” hoặc có nghĩa là
đi theo Giáo lư của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni).
Các nhà truyền giáo t́m thấy có sẵn chữ Àgama đă chấp nhận dùng nó như đồng
nghĩa với “tôn giáo”; và đạo Cơ Đốc đă được người Tích Lan viết là
Christianàgama, trong khi nó đúng ra viết là Christianibandhana, v́
bandhana, theo từ nguyên đồng nghĩa với “tôn giáo”. Từ ngữ Vibhajja Vada,
hay ngựi nghiên cứu – là một danh từ khác dùng để chỉ cho Phật tử, và
Adhayuradi là một danh từ thứ ba. Với sự giải thích này, tôi tiếp tục miễn
cương dùng danh từ quen thuộc khi nói về triết lư Phật giáo cho sự tiện dụng
của hàng độc giả b́nh dân.
[2] Xin xem định nghĩa Thiên thần (deva) sau.
[3] Tường thuật về cuộc thăm viếng này, xin xem sách “Gospel of Buddha”
(Chân lư của Đức Phật) của Dr. Paul Carus, trang 20.
[4] Danh từ “Hindu” một từ ngữ tỏ vẻ sự khinh miệt, ngựi Hồi giáo
(Musalmans) dùng để chỉ dân tộc Sindh mà họ đă chinh phục; ngày nay nó được
dùng trong cái nghĩa chỉ cho thầy tu(Ấn Độ giáo).
[5] Trong các kinh điển không thấy nói lư do tại sao (Đức Phật) đă chọn
hướng này của cây Bồ Đề. tuy nhiên người ta t́m thấy có sự giải thích theo
truyền thuyết b́nh dân, mà nó đă làm nền tảng cho các sách viết của Giám mục
Bigander và nhiều nhà b́nh luận Âu Châu khác. Các phương hướng khác nhau
trong bầu trời, chắc luôn luôn có ảnh hưởng đến chúng ta. Đôi khi từ hướng
này có ảnh hưỏng tốt nhất, nhiều lúc lại từ hướng khác. Nhưng Đức Phật dạy
rằng ngựi toàn thiện vượt hẳn lên trên tất cả mọi ảnh hưỏng bên ngoài.
[6] Kinh sách Phật ghi chép rằng đấng Phạm Thiên đă thỉnh cầu đức Thế Tôn
nên thuyết giảng giáo pháp vi diệu cứu độ chúng sanh.
[7] Đạo Bà La Môn (Bràhmanism) không đựoc thuyết giảng cho những người không
theo Ấn Độ Giáo, bởi thế cho nên Phật Giáo là một tôn giáo có đoàn truyền
giáo xưa nhất thế giới. Các sứ giả hoằng pháp đầu tiên (của Đức Phật) đă
phải chịu đựng nhiều gian khổ, sự tàn bạo và ngược đải với ḷng can đảm quả
quyết.
[8] Tại Đại Hội Kết Tập Kinh Điển lần thứ hai, v́ thế cho nên đă có hai vị
đệ tử của Ngài A Nan, sống đến 100 tuổi, và trong kỳ Đại Hội của vua A Dục
(Asoka), lại có nhiều vị đệ tử của hai ngài đệ tử của Đức A Nan.
[9] Ông Childers có ư kiến hết sức bi quan về cảnh giới Niết Bàn, xem đó như
là sự hủy diệt. Về sau, các sinh viên đều bất đồng ư kiến với ông.
[10] SARANAM – Wijesinha Mudaliar viết cho tôi: “Danh từ này, cho đến nay,
đă được dịch một cách rất sai lầm và không thích hợp là Refuge (nơi trú ẩn)
bởi các học giả cổ ngữ Pali ngựi Châu Âu; và các học giả Pali địa phương
(Tích Lan) đă không suy nghĩ chấp nhận như vậy. Cả về mặt ngữ nguyên học
Pali lẫn triết học Phật giáo đều không biện minh được cho lối dịch thuật
này. Refuge, trong ư nghĩa của sự ẩn trốn phía sau hay chỗ ẩn náu là hoàn
toàn xa lạ đối với Phật giáo chân chính mà nó đ̣i hỏi mọi người cần thực
hiện sự giải thoát cho chính ḿnh. Ngữ căn Sr. trong tiếng Sanskrit
(Sara: tiếngPali) có nghĩa là di chuyển, đi tới, như thế Saranam diễn
tả sự chuyển động, hoặc hành giả hay người ấy đi đến trước hay cùng với kẻ
khác – Hướng dẫn viên hoặc người giúp đỡ. Tôi phân tích câu này như sau:
Gachchàmi: Tôi đi đến; Buddham: với Đức Phật: Saranam: như bậc hưóng dẫn cho
tôi. Cách dịch chữ Tisarana là “Ba nơi ẩn náu” (Three Refuges) gây ra nhiều
sự hiểu lầm và tạo nên lư do tốt cho ngựi chống đối Phật giáo, nhạo báng
các Phật tử rằng họ đă phi lư đi t́m nơi ẩn trốn trong sự bất tồn tại
(non-entities) và tin tưỏng vào những điều không thực tế. Thuật ngữ refuges
(nơi ẩn náu) dùng thích hợp hơn cho ư tưỏng Nirvàna (Niết Bàn) mà Saranam là
một tiếng đồng nghĩa. Thượng Tọa Sumangala cũng đă bảo tôi chú ư đến sự kiện
rằng nguồn gốc Pali của chữ Sara có một nghĩa thứ hai là sự tiêu diệt
(killing) hay điều làm phá hủy. Vậy th́, câu Buddham saranam gachchàmi có
thể diễn đạt như sau: “Tôi quy y Phật, Pháp và Tăng như những ngựi diệt trừ
các điều sợ hăi của tôi - trước hết bằng lời dạy của Đức Phật, thứ hai bằng
chân lư rơ ràng của giáo pháp, và thứ ba bằng gương mẫu và giới đức của chư
Tăng”.
[11] H́nh thức này, dĩ nhiên, dành cho cư sĩ tại gia, những ngựi chỉ phát
nguyện giữ 5 giới: Một Tỳ Kheo (Bhikkhu) nên tuyệt đối giữ cuộc sống độc
thân (không dâm dục). Do đó, người cư sĩ cũng phải tự buộc ḿnh thọ tŕ 8
trong toàn thể 10 giới vào những thời gian ấn định; và trong thời kỳ này,
hành giả phải giữ giới không dâm dục (độc thân). Ngũ giới Đức Phật chế ra
cho tất cả mọi ngựi. V́ vậy, một ngựi dù không phải là Phật tử, nhưng sự
thọ tŕ 5 và 8 giới này đều có thể lợi ích cho tất cả. Chính do hành động
thọ “Tam Quy” (Three Refuges) đă khiến một người trở thành một Phật tử.
[12] Nghiệp (Karma) được định nghĩa như tổng số các hành động của con ngựi.
Luật nhân Quả đựoc gọi là Giáo Pháp Mười Hai Nhân Duyên (Paticca Samuppada
Dhamma). Trong bộ Kinh Tăng Nhứt A Hàm (Auguttara Nikaya), Đức Phật dạy rằng
Nghiệp của Như Lai là vật sở hữu và di sản của Như Lai. Nghiệp của Như Lai
là phước huệ thai đă cưu mang Như Lai, là thân quyến và nơi ẩn trú của Như
Lai.
[13] Sau lần xuất bản đầu tiên tôi nhận được từ một trong các học giả Pali
có uy tín nhất tại Tích Lan, cố học giả L. Corneille Wijesinha Exq.,
Mudaliar ở Matale, ư kiến về cách dịch thuật ngữ Dhammacakkap-parattana,
h́nh như được hoàn chỉnh hơn danh từ đă dịch trước kia. Ông ta dịch là: “Sự
thành lập triều đại của Chánh Pháp”. Giáo sư Rhys Davids thích dịch “Nền
tảng Vương Quốc của sự chánh đáng” hơn. Học giả Wijesinha viết cho tôi: Đạo
hữu cũng có thể dùng “Vưong Quốc của sự Chánh Đáng” nhưng nó có vẻ thoáng
giáo điều thần học hơn đạo đức triết học. Dhammacakkaappa Vattama Suttam là
bài kinh có tên “Sự Thành Lập Triều Đại của Chánh Pháp”. Khi tŕnh bày điều
này với Thưọng Tọa Sumangala tôi hân hạnh có thể nói rằng Thượng Tọa đồng ư
với cách dịch của ông Wijesinha.
[14] Sự pha trộn giữa những pháp thuật và thực hành này với Phật giáo là một
dấu hiệu của sự suy đồi. Các sự kiện và hiện tượng của chúng là có thực, và
có thể dùng khoa học để giải thích. Chúng bao hàm trong ư nghĩa “pháp
thuật”, nhưng khi được xử dụng nhằm mục đích ích kỷ sẽ mang lại ảnh hưỏng
xấu cho con người; và làm trở ngại đến sự tiến bộ tinh thần. Khi chúng đựơc
dùng vào các mục tiêu vô hại và lợi ích như chữa trị bịnh nhân, cứu mạng
sống v.v... Đức Phật cho phép dùng đến.
[15] Nhà tu khổ hạnh Phật giáo, qua một thời gian ấn định tu tập, sẽ đạt tới
một tŕnh độ siêu đẳng trong sự phát triển tinh thần và trí tuệ.
Các vị thứ nhất có thể thực hiện phép lạ (thần thông), nhưng vị thứ hai
không làm được. Đức A La Hán của hạng trước, khi trí tuệ phát triển đầy đủ
(toàn giác), không c̣n là nạn nhân cho sự lừa dối của các giác quan, hay nô
lệ cho ḷng ái dục, và phạm trọng tội nữa. Vị nầy thấu triệt nguồn gốc của
bất cứ vấn đề nào tâm họ nghĩ tới mà không theo tiến triển chậm chạp của sự
suy luận. Ngài hoàn toàn chế ngự được tâm ḿnh, và thay v́ t́nh cảm cũng như
dục vọng làm khuấy động và mê hoặc ở một người thường. Ngài vượt thoát tiến
lên t́nh trạng mà diễn đạt theo thuật ngữ thích hợp nhất gọi là “Niết Bàn”
(Nirvanic).
Tại Tích Lan có quan niệm phổ biến sai lầm cho rằng ngày nay không ai có thể
tu chứng A La Hán (Arhatship), và chính Đức Phật đă tiên đoán là khả năng
chứng quả đó sẽ tiêu diệt khoảng 1.000 năm, sau khi Ngài nhập diệt. Tin đồn
trên và sự việc tưong tự cũng được nghe ngựi ta nói tới khắp nơi tại Ấn Độ,
là vào thời kỳ mạt pháp này, sự tu theo pháp môn Du Già (Yoga Vidya), hay
môn học tinh thần cao siêu cũng không thể thực hiện được. Tôi cho là v́ tài
trí của những người đáng lư phải giữ thanh tịnh và nội tâm sáng suốt (nói
theo từ ngữ thông dụng không Phật giáo) như các bậc tiền bối của họ; nhưng
v́ không đạt được quả vị siêu phàm đó, nên họ đă t́m cách tự bào chữa. Đức
Phật dạy ư kiến hoàn toàn trái lại. Trong Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya) Ngài
bảo: “Hăy lắng nghe, này Tu Bạt Đà La (Subbhadra), thế gian sẽ không bao giờ
hết các vị A La Hán nếu trong giáo hội (đoàn thể Tăng Già) của Như Lai c̣n
những nhà tu khổ hạnh (Tỳ kheo) chân thành lănh thọ và nghiêm tŕ giới
luật”.
[16] Trong cuốn “Lịch sử văn hóa”: (History of Culture), ông Kolb viết:
“Chính Phật giáo chúng ta nên cảm ơn về hành động ân xá các tù binh chiến
tranh mà trước kia thường bị giết; cũng như sự đ́nh chỉ bắt đi cầm tù các
thường dân ở những nơi bị xâm chiếm”.
[17] Giới thứ năm liên quan đến sự dùng các chất say và loại thuốc làm (trí
óc) đần độn, cuối cùng đưa tới nghiện rượu.
[18] “Linh hồn” (Soul) nói tới ở đây đồng nghĩa với tiếng psyche của Hy Lạp
(Greek). Chữ “material” bao hàm ư nghĩa chỉ các trạng thái vật chất hơn là
t́nh trạng của cơ thể.
[19] Về ư tưỏng tôi thay thế danh từ “bản ngă” (personality) cho chữ
cá nhân (individuality), như tôi đă soạn trong lần xuất bản đầu tiên. Sự
liên tục tái sinh tại một hoặc nhiều thế giới, hay “sự lưu truyền qua thế
hệ”của những phần tử ái dục kết hợp (skandhas: Uẩn) của một chúng sanh là sự
tiếp nối của những bản ngă. Trong mỗi lần sinh ra, bản ngă hiện nay khác
biệt với bản ngă đời trước hoặc ở kiếp sau. Nghiệp (Karma) tự ẩn giấu (hay
chúng ta sẽ bảo là phản ảnh?) đời này trong bản ngă của một hiền triết, kiếp
nọ như một người thợ và vân vân, suốt qua chuỗi dài sinh tử (luân hồi).
Mặc dù các bản ngă luôn biến đổi, nhưng một ḍng sống tựa như một xâu chuỗi
hột liên tục tuôn chảy không gián đoạn; và luôn luôn là ḍng sống đặc biệt
đó, chứ không bao giờ là cái ǵ khác. Cho nên, chính cá nhân - một gợn sóng
cá nhân - chảy nhanh qua bề mặt khách quan của Thiên Nhiên, dưói sự thúc đẩy
của Nghiệp và chiều hưóng tạo tác của Ái Dục (Tanhà), được duy tŕ qua nhiều
biến đổi luân hồi. Giáo sư Rhys Davids bảo rằng ḍng sống đó hiện hữu từ
trong bản ngă này chuyền qua bản ngă khác cùng với chuỗi cá nhân gồm “cá
tính” hay “nghiệp” (hành động). V́ “cá tính” không những chỉ là sự trừu
tượng siêu h́nh, mà c̣n là tổng số các năng tánh (qualities) tinh thần và
khuynh hướng đạo đức của con người; phải chăng cá tính đó không giúp ích để
làm tiêu tan cái mà giáo sư Rhys Davids gọi là “mưu chước ghê gớm của một sự
huyền bí” (Buddhism, trang 101) nếu chúng ta xem gợn sóng của ḍng sông
chẳng khác ǵ một cá nhân; và mỗi chuỗi những hiện tưọng phát sinh của làn
sóng nước như một bản ngă riêng biệt?
Chúng ta cần có hai danh từ để phân biệt giữa hai ư niệm, và tôi nhận thấy
không có chữ nào rơ ràng và ư nghĩa như hai từ ngữ (bản ngă và cá nhân) mà
tôi đă chọn. Tôi có thể bảo Đức Phật, nói theo nghĩa Phật giáo, là một cá
nhân toàn thiện; v́ Đức Phật không có ǵ khác hơn là đóa hoa hiếm có của
nhân loại, mà không pha trộn một chút siêu nhiên nào. Và, phải trải qua vô
lượng kiếp – “bốn A Tăng Kỳ và trăm ngàn lần sinh tử luân hồi” (Xem Buddhist
Birth Stories của Fausboll và Rhys Davids, No. 13) để từ một con ngựi tu
tập tiến lên quả vị Phật; và ư chí sắt đá muốn trở thành Đức Phật trải qua
liên tục nhiều kiếp tái sinh, như vậy chúng ta gọi cái ǵ đă quyết chí và
kiên tŕ? Cá tính hay cá nhân? Một cá nhân, nhưng lại đựoc phần nào thể hiện
trong bất cứ mỗi lần sinh ra, đă tạo nên những giai đoạn (sống) từ nhiều
kiếp luân hồi.
Sự phủ nhận có một “Linh hồn” (Soul) của Đức Phật (Xem Bộ Tập A Hàm trong
Kinh Tạng) nhằm vạch ra cho chúng ta thấy sự tin tưỏng sai lầm vào một bản
ngă độc lập; một thực thể mà sau đời sống này, sẽ đựoc sanh vào một quốc độ
hay cảnh giới nhất định, nơi mà như một thực thể toàn hảo, nó có thể vĩnh
viễn hạnh phúc hay đau khổ. Và Đức Phật dạy cái quan niệm cho rằng “tôi là
cái Ngă” ư thức, được xem như thựng c̣n, là điều không hợp lư, v́ những yếu
tố cấu tạo căn bản của nó luôn luôn biến đổi và cái “Tôi” của đời này không
giống với cái “Tôi” của những kiếp sống khác. Song những điều tôi t́m thấy
trong Phật giáo đều phù hợp với lư thuyết về sự tuần tự tiến hóa của một con
ngựi toàn giác - gọi là Đức Phật – qua vô luợng kiếp tái sinh. Và trong tâm
thức của cá nhân đó, người mà khi chấm dứt được ṿng luân hồi, trở thành Đức
Phật (Buddhahood), hoặc sự thành tựu đạt tới tầng Thiền (Dhỳana) thứ tư; hay
sự giác ngộ mầu nhiệm trong bất cứ đời sống quá khứ nào của họ cho đến kiếp
cuối cùng, cảnh tượng của tất cả những tiền kiếp này đều được thấy hiện ra.
Trong tập Jàtakatthavannana - dịch giả là giáo sư Rhys Davids - lối diễn đạt
liên tục sự hồi tưởng, mà tôi nghĩ đúng là đă chứng minh cho ư kiến này,
nghĩa là: “Đức Thế Tôn rơ ràng đă tạo nên một việc xảy ra, được che giấu
trong nhiều kiếp luân hồi” hay “điều đó đă đựoc giữ kín bởi” v.v... Ngoài
ra, Phật giáo Nguyên Thỉ cũng đă minh bạch duy tŕ đối với sự lâu dài ghi
trong tập Akasha và tiềm năng của con người để thấu hiểu điều trên, khi hành
giả đạt tới tŕnh độ của sự giác ngộ cá nhân đích thực. Vào lúc lâm chung
(cơ thể con người) rung chuyển và thần trí hôn mê, tốc hành tâm (Javana
citta) được chuyển đến đối tượng do các dục vọng cuối cùng tạo nên. Ư chí
muốn sống đem tất cả những tư tưởng để tạo thành một khách thể (chúng sanh)
mới.
[20] Sinh viên có thể tham khảo một cách hữu ích với Schopenhauer trong vấn
để này. Arthur Schopenhauer, một triết gia Đức tài danh nhất đă bảo rằng: “Nguyên
lư hay Nguồn gốc của vạn vật và các đối tượng của nó bao gồm thân thể con
người, thực chất chỉ là điều chúng ta nhận thức rơ nhất ngay từ trong cơ thể
của chúng ta, gọi là Ư Chí (Will). Trí tuệ là năng lực thứ hai của ư tưởng
chính yếu; sự hoạt động của óc năo trong đó ư chí này tự phản ảnh vạn vật,
đối tượng và thể xác như trong một tấm gương... Trí tuệ dù là (năng lực) thứ
yếu, nhưng có thể hướng dẫn đến sự từ bỏ hoàn toàn ư chí, cho tới khi trí
tuệ thúc đẩy “sự sống” và rồi nó được tận diệt trong Niết Bàn (Nirvana)”
(L.A. Sanders trong tập Theosophist, số tháng 5 năm 1882, trang 213)
[21] Nói theo sinh lư học, cơ thể con người hoàn toàn thay đổi trong mỗi 7
năm.
[22] Nguyên lư căn bản và chủ yếu này, danh từ Pali gọi là “Nidàna” - chuỗi
nhân quả hay “Nhân Duyên Sanh”. Mười hai nhân duyên (Nidànas) là: Vô Minh (Avijjà):
mê lầm, không biết chân lư của tôn giáo tự nhiên; Hành (Samkhàra): hành động
hay Nghiệp (Karma); Thức (Vinnàna): vọng thức về bản ngă. “Ta là Ngă”; Danh
sắc (Nàma-Rùpa): tinh thần, thể chất; Lục Nhập (Salayatana): sáu căn; Xúc (Phassa):
tiếp xúc: Thọ (Vedanà): Sự lănh thọ; Ái (Tanhà): ḷng ham muốn hưởng thụ:
Thủ (Upàdàna): sự giữ lấy; Hữu (Bhava): sự hiện hữu: Sanh (Jàti): sự sanh ra;
và Lăo Tử (Jaramarana): suy yếu, chết chóc, sầu khổ, khóc than, tuyệt vọng.
[23] Ưu Bà Tắc (Upàsaka) và Ưu Bà Di (Upàsika) thọ tŕ các giới này vào
những ngày trai kỳ (ăn chay) của Phật giáo (Uposatha). Đó là các ngày mùng
8, 14, và Rằm (15) của mỗi nửa tháng âm lịch.
[24] Sự liên hệ giữa đệ tử với Bổn Sư (Guru) giống như mối tương quan giữa
vị Chúa con và đức Chúa Cha trong Cơ Đốc Giáo hay nói đúng hơn, vị bổn sư
trở thành như cha mẹ, gia quyến và tất cả đối với ngựi đệ tử.
[25] Xem bản Phụ Lục (Appendix) ở sau.
[26] Thượng Tọa Sumangala Sthavira giải thích với tôi rằng thần thông ấy chỉ
tồn tại lâu dài nơi người đă diệt trừ hết ḷng ái dục (Klesa), nói cách khác
là vị A La Hán (Arhat). Ngựi xấu cũng có thể luyện đắc thần thông, và dùng
để làm các việc bất chính, nhưng chúng chỉ hoạt động được trong thời gian
ngắn ngủi; ḷng dục vọng bất trị lại khống chế vị thầy pháp, và sau cùng,
ông ta trở thành nạn nhân của các phép thần thông đó.
[27] Khi thần thông được biểu diễn th́nh ĺnh, điều ấy có nghĩa là hành giả
đă tự ḿnh tu luyện trong đời trước. Chúng tôi không tin vào những cơ may
khác thường trong luật
----------------
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES