Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  QUEST  MAGAZINES 

 

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ TRONG LỊCH SỬ

HỘI THÔNG THIÊN  HỌC THẾ GIỚI

Tiếp theo cuốn hồi kư của đại tá H.S. Olcott

Bản Dịch Nguyễn Hữu Kiệt

Đánh máy: Như Khuê Tiểu Hoa Nhi

  2011

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ TRONG LỊCH SỬ

HỘI THÔNG THIÊN  HỌC THẾ GIỚI

CHƯƠNG MỘT

I

        Quyển hồi kư của H.S Olcott, cố hợi trưởng hội Thông Thiên Học Thế Giới, đă miêu tả bà Blavatsky ở ngoài xă hội, bây giờ chúng ta hăy nhận xét bà khi ở nhà.

        Nếp sinh hoạt hằng ngày của chúng tôi tại tư gia (mà tôi dặt cho cái tên hài hước là “Lạt Ma Viện” là như sau đây. Chúng tôi ăn điểm tâm lúc tám giờ, dùng bữa chiều lúc sáu giờ,làm việc tới hai giờ sáng mới nghỉ, tùy theo việc làm của chúng tôi và những lúc gián đoạn công việc khi có khách đến viếng. Bà HPB dùng bữa trưa tại nhà, c̣n tôi ăn trưa ngoài thành phố, ở một nơi gần văn pḥng Luật của tôi.Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên hoạt động của Câu Lạc Bộ “Loto Club”, nhưng khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén Màn Isis”, tôi bèn chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đ́nh đám và mọi hoạt động thế tục nói chung.

        Sau bữa ăn điểm tâm, tôi đến văn pḥng làm việc của tôi, c̣n bà HPB ngồi vào bàn làm việc tại nhà. Đến bữa ăn chiều, chúng tôi thường hay có khách, chứ ít khi không có ai; và dẫu cho những ngày không có khách đến dùng bữa, thường cũng có người đến ở chơi vào hôm. Việc bếp núc của chúng tôi rất đơn giản, chúng tôi không uống rượu, và chỉ ăn uống sơ sài. Chúng tôi có một người tớ gái giúp mọi việc nhà, hay đúng hơn là một chuỗi dài những người giúp việc luân phiên đến rồi lại đi, v́ chúng tôi không giữ họ ở lâu.

        Người tớ gái dọn dẹp bữa ăn chiều xong th́ về nhà nghỉ, và sau đó chúng tôi phải đích thân trả lời những tiếng gọi cửa. Việc ấy không bận rộn bao nhiêu, nhưng có điều nghiêm trọng hơn là cung ứng trà với sữa và đường cho một số đông quan khách đến đầy nhà có khi vào độ một giờ sáng. Những dịp đó, bà HPB nhân lúc cao hứng, tự pha cho ḿnh một chén trà, và với một cách điệu rộng răi hào phóng, không màng nghĩ đến những khả năng tiếp tế thực phẩm trong gia cư, bèn tuyên bố:

        -Tất cả mọi người đều uống một chén, quư vị nghĩ sao?

        Dẫu cho tôi ra dấu làm hiệu để can gián cũng vô ích, bà vẫn không chú ư.

        Thế là, sau nhiều cơn lục lạo đi t́m sữa và đường một cách vô hiệu ở vùng lân cận vào lúc nửa đêm, tôi bèn dán một tờ cáo tri lên vách về việc đó như sau:

                                               Trà

        “Quư khách sẽ thấy có nước sôi và trà trong nhà bếp, có thể cũng có sữa và đường, xin hăy tự pha chế và tùy nghi sử dụng.  

        Điều nầy có vẻ phù hợp với bầu không khí tự do phóng khoáng của tư gia chúng tôi, nên không ai nghĩ ǵ khác, và sau đó thật là một điều thú vị mà thấy những khách quen thản nhiên đứng dậy đi vào nhà bếp để tự pha lấy một chén trà nóng. Các bà mệnh phụ, các vị giáo sư, học giả, nghệ sĩ và kư giả nổi tiếng, tất cả đều vui vẻ trở thành những nhân viên tự động pha trà trong nhà bếp của chúng tôi.

        Bà HPB không hề có một kiến thức sơ đẳng vế vấn đề nội trợ. Có lần,muốn ăn trứng luộc, bá để những quả trứng sống trên ḷ than hồng! Đôi khi người tớ gái xin phép nghỉ cuối tuần vào chiều thứ bảy và để cho chúng tôi tự xoay sở lấy bữa ăn chiều. Những lần đó, có phải bà HPB ra tay nấu nướng và dọn ăn không? Hẳn là không, mà là bạn đồng hành bất hạnh của bà! C̣n bà th́ hoặc là ngồi viết và hút thuốc lá, hoặc bước vào nhà bếp nói chuyện chơi tiêu khiển. Đôi khi, có những vị nữ khách đến nhà trong những dịp đó, bèn giúp tôi một tay, chẳng hạn như tuần rồi, nữ bá tước L.P. bước vào đúng lúc và làm giúp tôi một món sà lách ngon tuyệt trần.

        Hồi đó, bà HPB luôn luôn có một tính chất trẻ trung, vui nhộn. Tôi không thể diễn tả tâm trạng vui tươi phấn khởi của bà hối đó bằng cách nào khác hơn là trích dẫn một đoạn văn phóng sự đăng trên nhật báo Hartford nói về bà như sau.Phóng viên báo ấy viết:

        “…HPB phu nhân cười! Khi tôi viết về cái cười của bà HPB, tôi cảm thấy dường như tôi muốn nói rằng bà là hiện thân của Thần Hài Hước ngay trong pḥng khách! V́ trong tất cả những chuỗi ngày dài sáng sủa, vui tươi, gịn giă, mà tôi đă từng nghe trong đời, th́ chuỗi cười của bà thật là độc đáo, điển h́nh. Thật vậy, bà dường như là tiêu biểu cho cái tinh thần hài hước mà bà biểu lộ thường xuyên bất cứ lúc nào, nó chứng tỏ nơi bà một nguồn sinh khí dồi dào vô tận”.

        Đó là cái sắc thái của tư gia chúng tôi; và tính vui vẻ hồn nhiên, ngôn ngữ hoạt bát linh động, t́nh thân hữu đậm đà của bà HPB đối với những người mà bà ưa thích hoặc muốn cho họ quư mến bà, những đề tài đàm thoại lạ lùng kỳ bí và, bộ môn hấp dẫn nhất đối với số đông các quan khách, những phép thuật thần thông của bà, làm cho “Lạt Ma Viện” của chúng tôi trở thành pḥng khách sáng giá nhất của thành phố New York hồi thời kỳ đó, tức là trong những năm đầu của hội Thông Thiên Học Thế Giới.

II

        Pḥng khách của chúng tôi được trang hoàng theo một mỹ quan đặc biệt lạ thường. Nói chung nó có một phong cách mỹ thuật và hấp dẫn đối với gia chủ và các quan khách; nó là một đầu đề của nhiều bài phóng sự đăng trên các báo và đầu đề những câu chuyện mạn đàm trong các giới hạn hữu của chúng tôi. Không một bối cảnh nào có thể thích nghi hơn nữa để làm nổi bật cái cá tính lạ lùng của chủ nhân nó là nhân vật kỳ bí HPB.

        Nhiều nhà báo đă từng viết bài diễn tả pḥng khách của chúng tôi đăng trên các báo Mỹ thời bấy giờ, trong số đó có bài tường thuật của phóng viên nhật báo Hartford Times như sau:

        “…Bà HPB ngồi nơi pḥng khách vừa là pḥng làm việc của bà,  mà người ta cũng có thể gọi là pḥng trưng bày đồ cổ của bà nữa, v́ không một gian pḥng nào chứa đầy những vật lạ, vật quư, đồ cổ xưa, đẹp mắt ,sang trọng, đắt giá và cả những đồ cổ có vẻ tầm thường vô giá trị nữa, hơn là gian pḥng nầy. Miệng ngậm thuốc lá, tay cầm kéo, bà đang bận rộn cắt ra những đoạn văn, những bài báo, bài phê b́nh, và những bài vở đủ mọi loại, từ những đống báo chí đến từ khắp nơi trên thế giới nói về bà, về quyển sách của bà viết, về Hội Thông Thiên Học, và về bất cứ mọi chuyện liên quan đến công việc và mục đích của đời bà.

        Bà đưa tay ra hiệu mời chúng tôi ngồi, và trong khi bà đang chăm chú đọc một bài báo, chúng tôi có th́ giờ quan sát qua một lượt cảnh vật trang trí trong pḥng khách của “Lạt Ma Viện” nầy. Đứng sững ngay giữa pḥng là một con khỉ đột nhồi cứng, mặc quần áo chỉnh tề, với cổ “cồn” trắng thắt cà vạt, tay cầm tập bản thảo một bài diễn văn, sống mũi đeo kính trắng. Phải chăng đó là một sự châm biếm ngầm các hàng giáo phẩm? [Không, mà là các nhà bác học duy vật(HSO) ]!

        Phía trên cánh cửa lớn, là một đầu sư tử cái dồn g̣n, hai quai hàm mở lớn với những nanh nhọn nhe ra một cách dễ sợ, đôi mắt trừng lên với vẻ độc ác tự nhiên của loài mănh thú rừng xanh. Giữa những đồ vật cổ xưa, những pho tượng Phật bằng trầm hương, và những vật linh tinh khác, bà HPB nổi bật trong chiếc áo choàng bằng tơ óng ánh, màu mè sặc sỡ, hoàn toàn phù hợp và thích nghi với cảnh vật chung quanh. Bà có một tác phong đặc biệt nó toát ra một dũng lực và một sự tự tín lạ thường. Trên gương mặt bà, dường như luôn luôn có sự diễn biến của nhiều sắc thái và tâm trạng khác nhau. Bà dường như không bao giờ chú tâm vào một vấn đề nhất định. Có một luồng cảm xúc linh động, tế vi, sắc bén biểu lộ trong cặp mắt bà, nó làm cho chúng tôi có cái ấn tượng rằng bà có hai cá tính song đôi: cơ hồ như bà đang ở đây, nhưng không có ở đây; bà nói chuyện nhưng tâm trí bà đang suy tư, hay bà đang bận hoạt động ở một cơi giới khác.

        Bà có một bộ tóc rất dầy, màu nâu lợt, dợn sóng tự nhiên và không thấy có một sợi bạc nào. Da mặt bà hơi sậm hẳn là v́ phơi nắng và hứng gió miền biển, và không có một vết nhăn; hai cánh tay và bàn tay bà nơn nà trắng nuột như tay con gái. Toàn thể cá tính của bà biểu lộ một sức tự chủ, phong thái uy nghi, và nội lực điềm tĩnh của nam phái, nhưng vẫn không vượt quá cái giới hạn những đức tính thuần hậu, dịu dàng tế nhị của nữ giới.”

        Như đă nói ở trên, các quan khách đến viếng trụ sở “Lạt Ma Viện” đều rất thích thú mà có dịp thấy bà HPB làm những hiện tượng thần thông ngoài việc được nghe những câu chuyện lạ lùng thú vị, cùng thưởng thức tài hùng biện và nói năng lưu loát hấp dẫn của bà. Đôi khi, câu chuyện tạm ngưng một lúc, một vị khách bỗng đưa một ngón tay lên với cử chỉ ngạc nhiên, rồi tất cả đều nín thở lắng tai nghe trong im lặng, th́ kế đó nghe có tiếng nhạc reo trong không gian. Có khi tiếng nhạc ấy chỉ thoảng nghe vọng lại từ đàng xa, rồi từ từ đến gần và vang dội âm thanh cho đến khi nó vang rền khắp pḥng, vọng lên trần nhà, và sau cùng th́ lại tan biến dần trong khoảng không. Hoặc có khi bà HPB đưa tay đánh mạnh trong không khí vài cái, th́ nghe vọng lại có tiếng ngân như tiếng chuông. Nhiều khi trước mặt người khác, bà đặt bàn tay lên một thân cây, một vách tường, một thùng đồng hồ lớn, hoặc trên đầu một người, hoặc bất cứ vật ǵ khác hay ở bất cứ chỗ nào khi có sự yêu cầu, và làm cho tiếng “chuông âm” vang động ở bên trong chất liệu của cái vật thể đông đặc mà bà vừa đặt bàn tay lên.

        Có lần tôi với bà cùng có mặt tại nhà của ông bà Sinnett ở Simla, và khi chúng tôi đang đứng ngoài hàng ba, bà làm cho những tiếng nhạc vọng đến chúng tôi từ đàng xa, trong không gian của một đêm sao sáng. Tôi cũng có mặt tại chỗ trong một buổi tiếp tân khi bà làm cho tiếng chuông âm ngân vang trong đầu của một vị khách có chức vị cao, và một tiếng chuông âm reo trong túi áo ngoài của một vị quan chức lớn khác nữa.

III

          Về h́nh dáng, bà HPB từ khi c̣n trẻ, vẫn là một người đầy đặn phương phi, và khi đến độ trung niên bà là người có một thân h́nh rất đồ sộ.Dường như đó là một huyết thống của gia đ́nh. Trong trường hợp nầy th́ cái khuynh hướng ấy càng trở nên trầm trọng do bởi nếp sinh hoạt của bà hoàn toàn thiếu vận động về thể xác, và ăn uống rất khỏe trừ ra những khi bà ngă bệnh. Dẫu trong những lúc đó, bà cũng ăn nhiều thịt mỡ và thường tưới rất nhiều bơ lỏng lên đĩa trứng gà chiên khi ăn điểm tâm. Bà không uống rượu mà chỉ uống trà và cà phê.

        Bà không phải là một người khổ hạnh, không ăn uống chay lạt, mà ăn thịt dường như là điều cần thiết cho sức khỏe và tiện nghi của bà, cũng như đối với nhiều người khác trong Hội, kể cả tôi. Tôi biết có nhiều người cố gắng ăn chay với tất cả thiện chí và vài người khác, trong đó có tôi, đă ăn chay trong nhiều năm liên tiếp, nhưng sau cùng đă phải bỏ cuộc và quay về với lối sống trước kia ngoài ư muốn của họ. vài người khác, trái lại, như bà A.Besant và những bạn đạo tên tuổi khác mà tôi biết, đă trở nên lành mạnh hơn, sáng suốt hơn và sức khỏe tốt hơn với cách ăn uống chay lạt, và lâu dần đă trở nên sợ ăn thịt dưới bất cứ h́nh thức nào. Điều nầy chứng minh cho câu tục ngữ “thức ăn của người nầy là thuốc độc của người kia”. Tôi nghĩ rằng không có vấn đề khinh trọng, khen chê trong trường hợp nầy hay trường hợp khác, do sự chọn lựa cách ăn uống thích hợp của mỗi người. Không phải cái ǵ chui vào lỗ miệng của một người nó làm cho y bị ô nhiễm xấu xa, mà chính là cái ǵ nằm trong tâm hồn y. Đó là một lời cách ngôn cổ mà người học Đạo nên ghi nhớ(*).

        Bà HPB như cả thế giới đều biết, là một người ưa hút thuốc lá. Bà tiêu thụ một số rất nhiều thuốc lá mỗi ngày, và do thói quen, bà vấn thuốc rất khéo. Thậm chí bà có thể vấn thuốc lá bằng tay trái trong khi bà cầm bút viết bằng bàn tay mặt.

        Trong khi bà viết bộ “Vén màn Isis” tại New York bà không hề bước chân ra khỏi nhà suốt một thời gian sáu tháng trường liên tiếp. Bà ngồi vào bàn làm việc từ sớm mai cho đến khuya, thường là đến gần hai giờ sáng. Một điều thông thường không ai lạ, là bà làm việc mỗi ngày mười bảy giờ đồng hồ. Sự vận động duy nhất của bà là đi vào pḥng ăn hay pḥng tắm rồi trở lại bàn viết.

        Tính vui vẻ hồn nhiên là một trong những khía cạnh duyên dáng hấp dẫn của bà HPB. Bà hay nói những chuyện trào phúng hài hước và thích nghe người khác nói những chuyện ấy. Như đă nói ở trên, pḥng khách của bà không bao giờ nhàm chán, vô vị, trừ ra đối với những người không hiểu biết ǵ về triết học Đông Phương hay không có chút kiến thức nào về Đạo Lư cổ truyền. Đối với họ, thời gian có thể kéo dài một cách nặng nề khi mà bà luận về những giáo lư thâm sâu hay những quan điểm cao siêu huyền bí suốt nhiều giờ liên tiếp. Dẫu cho trong những lúc đó, bà cũng nói năng hoạt bát tự nhiên, không g̣ bó kiểu cách và phát biểu những quan điểm của bà một cách lưu loát dễ dàng như gịng suối chảy trường lưu bất tận, đến nỗi nếu người nghe không thể theo dơi gịng tư tưởng của bà, th́ y cũng phải thán phục tài hùng biện và khoa ngôn ngữ điêu luyên hấp dẫn của kỳ nữ HPB.

        Trong những lúc nhàn rỗi, tức là sau những giờ làm việc ban đêm, hoặc khi có khách đến viếng, hoặc những khi rất hiếm mà bà muốn nghỉ ngơi giải trí trong giây lát, bà kể cho tôi nghe những chuyện lạ lùng, kỳ bí, những chuyện pháp môn phù thủy hoặc những chuyện phiêu lưu mạo hiểm của bà, và đổi lại, bà bảo tôi huưt gió, hoặc hát những bài hát khôi hài chọc cười, hoặc kể những chuyện vui vô lư.

IV

          Về mặt xă giao, lúc b́nh thường bà là người hay nói thẳng, nói toạc sự thật không sợ mích ḷng, nhưng khi cần phải lễ độ đối với một nhân vật mới quen biết, th́ bà tỏ ra là một phụ nữ quư phái chính cống. Dù cho bà ăn mặc xuề x̣a không chải chuốt về h́nh dáng bên ngoài, bà vẫn có cái tác phong của một người thuộc ḍng quư tộc, và nếu bà muốn,bà vẫn có thể sang trọng, hào hoa như một bà công tước nước Pháp. Nhưng trong đời sống b́nh thường hàng ngày, những lời châm biếm của bà thật sắc như dao, và những cơn thịnh nộ của bà cũng như những quả bom nổ!

        Đối với bà, cái điều khả ố duy nhất không thể tha thứ là sự giả dối khoác lác, mạo lấy cái vẻ thượng lưu, trang trọng bề ngoài. Khi gặp những trường hợp đó, bà không ngần ngại nói phăng vào mặt kẻ giả dối, làm cho y cảm thấy như bị tạt một thúng nước lạnh! Do nhăn quang thần thông, bà thường nh́n thấy như soi gương, những thói hư tật xấu của những người nam và nữ mà bà gặp; và nếu họ tỏ ra chê bai giáo lư Thông Thiên Học, hoặc nói đến bà với một giọng khinh thường, th́ bà sẽ trút tất cả những sự thật bỉ ổi kia lên đầu họ! Những hạng người giả dối làm cho bà phát ghét, c̣n đối với những người nghèo khổ, dốt nát nhưng ngay thẳng, thật thà, bà luôn luôn dành cho họ một ḷng ưu ái và thường tặng cho họ một món quà.

        Tinh thần khoáng đạt và không chịu sự g̣ bó chật hẹp theo nghi thức xă hội, đối với bà gần như một điều thiêng liêng và bà cảm thấy không ǵ thích thú hơn là làm hoặc nói những điều làm sửng sốt những kẻ đạo mạo mực thước. Thí dụ như tối hôm nọ, bà mặc áo ngủ nằm trên giường tiếp chuyện với một nhóm khách quen cả nam lẫn nữ. Đó là một lối sinh hoạt theo cách điệu của các vị phu nhân vương giả quư phái hồi thời tiền cách mạng ở Âu Châu. Tính chất tự nhiên vô mặc cảm của bà trong cách xă giao đó vẫn không làm cho ai khó chịu. Không một vị nữ khách nào nh́n thấy nơi bà một kẻ t́nh địch khả hữu, không một người đàn ông nào nghũ rằng bà có thể bị họ ve văn đến phải xiêu ḷng.

        Bà nguyền rủa (chửi thề) như lính tập ngoài mặt trận nhưng không có ác ư, và nếu cái thú vui dị thường đó của bà không làm cho ai chú ư và lên án, th́ bà sẽ thôi không c̣n tiếp tục. Đó là điểm tâm lư chung của mọi người, cũng nhu nó thuộc tính chất tự nhiên của bà, là thích làm những điều cấm kỵ chỉ v́ do một tinh thần phản kháng. Cuộc đời thế gian đối với bà là một tṛ vô nghĩa, mồi danh bă lợi chỉ là đồ rơm rác, cuộc sống thức tỉnh của bà lúc ban ngày chỉ là một sự sống ảm đạm, khô khan, tẻ nhạt; đời sống thật sự của bà là lúc ban đêm, khi bà rời khỏi thể xác để đi đến ngồi dưới chân các đấng Chân Sư.

        Bà khinh bỉ những nhà bác học thiển cận mù quáng, đầu óc nông cạn chật hẹp, họ không hề nh́n thấy mảy may sự thật, nhưng lại xét đoán bà bằng sự nhận biết bất chính và thiển kiến sai lầm, rồi họ t́m cách chận họng bà bằng những âm mưu vu khống.

        Đối với các hàng giáo phẩm nói chung, bà rất ghét, bởi v́ họ thường không biết ǵ về những chân lư trên địa hạt tinh thần, nhưng lại nắm quyền dắt dẫn những kẻ mù quáng tâm linh, kiểm soát tín ngưỡng của người thế tục, hưởng thụ lợi lộc mà họ không có làm ra và lên án những người “ngoại đạo”, những người nầy lại thường là những nhà hiền triết, thức giả, siêu nhân.

        Bà HPB có vô số bạn bè thân hữu, nhưng thường hay mất bạn, có người về sau lại trở thành những kẻ thù nghịch với bà. Không ai có thể dễ mến hơn bà khi bà muốn, đó là những khi bà muốn quy tựu những người cộng tác với bà trong công việc đạo sự. Những khi đó th́ bà tỏ ra rất ngọt ngào dễ thương trong giọng nói và thái độ, cử chỉ, làm cho người kia cảm thấy rằng y được coi như người bạn tốt nhất, nếu không phải là người bạn duy nhất của bà. Đối với những người thường như tôi và những người cộng tác thân tín khác nữa, tôi không thể nói rằng bà luôn luôn trung hậu, chân thành. Tôi nghĩ rằng bà chỉ coi chúng tôi như những con xe con pháo trong một ván cờ, thế thôi, chứ bà không hề có một cảm t́nh tŕu mến xâu xa tự đáy ḷng. Bà nói lại cho tôi biết những điều bí mật của những người, cả nam lẫn nữ, chí đến những điều rất tổn thương danh dự mà họ đă kể lại  cho bà nghe, và tôi tin chắc rằng bà cũng xử sự y như vậy về những việc riêng của tôi. Nhưng bà luôn luôn trung thành tuyệt đối với các đấng Chân Sư; v́ công việc của các Ngài, bà sẵn ḷng hy sinh không phải chỉ trọn một cuộc đời, mà có thể đến hai chục kiếp, và thản nhiên nh́n xem toàn thể chủng tộc loài người bị cháy thiêu trong lửa đỏ nếu cần.

Chương Hai

CUỘC HÀNH TR̀NH SANG ẤN ĐỘ

I

          Ngày dời Trụ Sở Hội Quán của chúng tôi càng đến gần, th́ bà HPB càng phấn khởi hơn trong việc ca tụng xứ Ấn Độ, người Ấn Giáo, toàn thể phương Đông và người Đông phương nói chung, và càng hăng tiết chỉ trích người Tây phương, những tập quán xă hội, óc độc tài tôn giáo và những lư tưởng hẹp ḥi nói chung của họ.

        Có những đêm hào hứng sôi nổi diễn ra tại “Lạt Ma Viện”, trong những đêm đó, có xảy ra một chuyện đáng kể. Nhà nghệ sĩ Walter Paris, một trong những hội viên đắc lực nhất đă từng sống vài năm ở Bombay với chức vụ kiến trúc sư của chánh phủ, đă thích thú nói chuyện với chúng tôi về xứ Ấn Độ. Nhưng y không có ḷng kính trọng đặc biệt đối với Ấn Độ và ḷng ưu ái đối với dân tộc xứ ấy như chúng tôi, nên y thường làm phật ḷng bà HPB với những lời lẽ mà tôi cho rằng theo lập trường của giới cai trị Anh Ấn.

        Một đêm nọ, y nói chuyện về một người gia nô của y đă làm một việc lỗi lầm ngu ngốc trong khi thắng một cỗ yên ngựa, và thản nhiên nói rằng y đă quất người ấy bằng roi vọt. Ngay tức khắc, dường như bị cú roi vọt ấy quất vào mặt ḿnh, bà HPB chồm hẳn dậy, đứng ngay trước mặt người kia, và trong một tràng độc thoại kéo dài độ năm phút, bà cho y một trận sửa sai và quở trách nặng nề đến mức làm cho y ngồi im không thốt ra được  một lời nào. Bà lên án hành động của y như một cử chỉ hèn mạt, và nhân dịp ấy bà ứng khẩu thốt ra một bài luận thuyết hùng hồn chỉ trích cách đối xử của giới cai trị Anh Ấn đối với các chủng tộc Đông phương.

        Đó không phải là một trường hợp đơn độc về mối bất b́nh của bà đối với cách sử xự của người Tây phương; bà vẫn luôn luôn giữ một thái độ đó trong nhiều dịp khác nữa, và tôi đă thường thấy bà biểu lộ hào khí và ăn nói bạo dạn y như vậy trong nhiều lần tiếp xúc với những viên chức cao cấp Anh Ấn ở Allahabad, simla, Bombay, Madras, và ở các nơi khác.

        Khi cuộc hành tŕnh sang Ấn Độ của chúng tôi đă được quyết định, tôi bắt đầu thu xếp mọi công việc riêng của tôi vào mùa thu năm 1878. Việc trao đổi thư từ vẫn tiếp tục với các bạn đạo ở Bombay và Tích Lan (một số Phật Tử và tín đồ Ấn giáo đă gia nhập Hội Thông Thiên Học bằng thơ từ). Chúng tôi không công khai tuyên bố ư định xuất hành, nhưng các bạn bè thân hữu đến đầy nhà khi họ biết được tin chúng tôi sắp ra đi. Những lời ghi chép của bà HPB trong tập Nhật Kư của tôi khi tôi thường vắng mặt tại New York trong những tuần lễ cuối cùng, diễn tả sự hối thúc của các Chân Sư mong muốn chúng tôi lên đường càng sớm càng hay. Ngày 22 tháng 10, bà viết:

        “N. xuất ra và S. nhập vào(thể xác của bà) với mật lệnh của Q.T.H. dạy phải hoàn thành tất cả mọi việc vào đầu tháng 12”.

        Câu ấy ngụ ư có sự thay đổi cá tính của các Nhân Vật mượn xác bà HPB, và các đoạn nhật kư với những lời ghi bằng những tuồng chữ khác nhau cũng xác nhận việc ấy.

        Một đoạn Nhật Kư tương tự ngày 14 tháng 11 nói rằng chúng tôi phải cố gắng tối đa để lên đường trước ngày 20 tháng 12 là kỳ hạn cuối cùng.

        Ngày 22 tháng 11, những thượng lệnh khẩn cấp khác nữa cũng đến bằng một đường lối ấy, và chúng tôi được lệnh phải bắt đầu chuẩn bị rương tráp ḥm xiểng. Nhiều bạn Đạo muốn tháp tùng đi theo chúng tôi sang Ấn Độ, và vài người cũng đă cố gắng sửa soạn chuyến đi, nhưng sau cùng chỉ có hai người là cô Bates, một cô giáo người Anh, và ông Wimbridge, một họa sư và kiến trúc sư, cùng đi với chúng tôi. Kể từ đó, các thượng lệnh vẫn tiếp tục đến luôn luôn không ngớt và hối thúc chúng tôi lên đường.

        Những quan khách đến viếng thăm dồn dập và văng lai nhộn nhịp, có những bài vở xuất hiện trên các báo nói về chuyến đi của chúng tôi và những bài trả lời của bà HPB. Ngày 13 tháng 12, tôi nhận được một bức thơ viết tay của Tổng Thống Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ giới thiệu tôi cho tất cả các viên Đại Sứ và Lănh Sự Hoa Kỳ ở hải ngoại; và một thẻ thông hành đặc biệt của Bộ Ngoại Giao giống như những thẻ thông hành cấp cho các nhà ngoại giao Mỹ, với một sứ mạng tường tŕnh cho chính phủ về triển vọng và khả năng nới rộng những quyền lợi thương măi của Hoa Kỳ ở Á Châu. Những văn kiện nầy đă tỏ ra có tác dụng hữu ích về sau ở Ấn Độ, khi bà HPB và tôi bị nghi ngờ là nhân viên gián điệp của Nga! Những chi tiết của sự diễn biến khôi hài nầy sẽ được tường thuật vào đúng chỗ của nó ở một chương sau.

        Trong những ngày cuối cùng, tôi không hề nghỉ ngơi được chút nào, thường ngồi thức suốt đêm để viết thơ, hoặc di chuyển thường xuyên đến các thành phố xa gần để thu xếp công việc, và ăn uống rất thất thường trong khi di chuyển: trong khi đó th́ luôn luôn vang dội những mật lệnh hối thúc chúng tôi phải lên đường trước ngày 17 tháng 12 là kỳ hạn chót. Tuồng chữ của bà HPB có vẻ nguệch ngoạc, và trong đoạn Nhật Kư đề ngày 15 tháng 12, tôi nhận thấy có hai lối viết khác nhau của tuồng chữ bà như đă nói trước đây, chứng tỏ rằng có hai vị Chân Sư đă mượn xác của bà trong đêm hôm đó.

        Ngày 17 tháng 12 là ngày cuối cùng của chúng tôi trên đất Mỹ. Đoạn Nhật Kư của bà HPB viết:

        Một ngày đáng ghi nhớ! Olcott trở về lúc bảy giờ tối với những vé tàu “Canada” và ngồi viết thơ đến 11 giờ 30. Maynard mời HPB dùng cơm tối tại nhà y. Bà về nhà lúc chín giờ. Đến gần mười hai giờ đêm, HSO và HPB rời khỏi nhà bước lên xe ngựa để ra bến tàu”.

        (Hăy nhận xét người viết luôn luôn đề cập đến bà HPB với nhân vật đại danh từ ở ngôi thứ ba).

            Thế là chấm dứt giai đoạn đầu tiên của lịch sử Hội Thông Thiên Học,  với cuộc khởi hành của hai nhà sáng lập rời khỏi Mỹ Quốc.

        Sau lưng họ là một dĩ văng ba năm tranh đấu; với những chướng ngại đă vượt qua; những kế hoạch đă thức hiện được vài phần; những công lao trước tác sách vở; những bạn bè bỏ cuộc nửa chừng; những kẻ thù nghịch phải đối phó; và với việc đặt nền tảng rộng lớn cho cái cơ cấu vĩ đại được xây dựng lên trải qua thời gian để quy tựu các quốc gia, cái thành quả nầy, hồi đó họ không thể ngờ trước được. Bởi v́ họ đă xây dựng một công tŕnh Những ǵ c̣n thuộc về tương lai, chúng tôi không thể tiên liệu trước. Ư nghĩ về sự phát triển thần diệu lạ lùng của Hội Thông Thiên Học, không hề thoáng qua chí đến trong những ước mơ của chúng tôi.

        Một bạn đạo của chúng tôi tuyên bố rằng Hội Thông Thiên Học đă chết một cách tự nhiên trước khi chúng tôi lên đường sang Ấn Độ. Sự thật là trong những năm đầu ở New York, Hội tương đối bất động và không có làm ǵ đáng kể, nhưng nó bắt đầu phục sinh kể từ khi Trụ Sở Hội được dời sang Ấn Độ.

        Chiếc “Canada” tách rời khỏi bến vào ngày 18 và phải đợi cho nước thủy triều lên cao mới ra khơi vào trưa ngày 19 tháng 12. Sau cùng, chiếc tàu đă vượt ra biển đại dương màu xanh biếc trực chỉ vùng Đất Hứa của chúng tôi. Ḷng tôi tràn đầy một ḷng hứng khởi và triển vọng tương lai đến mức tôi không c̣n muốn đứng trên sàn tàu để ngắm nh́n cảnh tượng đất Mỹ lui dần rồi tan biến khỏi tầm mắt ḿnh, mà liền đi xuống pḥng “cabin”của tôi để t́m vị trí hải cảng Bombay trên tấm bản đồ của xứ Ấn Độ.

II

          Tuy chúng tôi rời khỏi cảng New York ngày 17 tháng 12 năm 1878, chúng tôi vẫn chưa ra khỏi hải phận Mỹ cho đến trưa ngày 19, v́ bị nước ṛng vào ngày 18 và tàu phải bỏ neo ở vịnh Lower Bay để chờ con nước lên. Bạn đọc hăy tưởng tượng tâm trạng của bà HPB nếu bạn có thể! Bà quở trách, quát tháo vị thuyền trưởng, viên hoa tiêu, các kỹ sư, chủ tàu, và cả những con nước thủy triều lên xuống!

        Sau hơn hai tuần vượt biển Đại Tây Dương, vào ngày đầu năm 1879, tàu tiến vào hải phận Anh trong một biển sương mù dầy đặc, giống như cái tương lai hăy c̣n mờ mịt của chúng tôi. Sáng ngày hôm sau, tàu cặp bến Gravesend, tại đây chúng tôi đáp xe lửa đi Luân Đôn, và thế là kết thúc giai đoạn đầu của cuộc hành tŕnh. Đến thủ đô Anh Quốc, chúng tôi được Tiến sĩ Billing và phu nhân tiếp đón nồng hậu tại tư gia của họ ở vùng ngoại ô Norwood Park, ngôi nhà nầy đă trở nên trung tâm quy tựu tất cả những bạn đạo và thư tín viên của chúng tôi ở Luân Đôn kể từ khi đó. Ngày 15 tháng 1, tôi chủ tọa một phiên họp của xứ bộ Thông Thiên Học Anh Quốc, để bầu cử một ban Chấp hành và bàn về nhiều vấn đề linh tinh khác.

        Thời gian của chúng tôi ở Luân Đôn hoàn toàn bận rộn với những công việc Hội, tiếp khách, và đi viếng thăm viện Bảo Tàng Anh cùng những nơi khác. Ngoài ra cũng có những màn trổ phép thuật thần thông của bà HPB và những buổi họp đàn với bà Hollis-Billing và vong linh khuất mặt mệnh danh “Ski”, mà toàn thể các giới Thần Linh Học đều biết tên.

        Diễn biến kỳ diệu nhất trong thời gian chúng tôi ở Luân Đôn là việc gặp gỡ một vị Chân Sư khi tôi và hai bạn đạo cùng nhau đi dạo chơi trên đường lộ Cannon Street. Sáng hôm đó sa mù dầy đặc đến nỗi người ta không nh́n thấy bờ bên kia đường, và cả thành phố đều hoàn toàn mờ mịt. Hai bạn tôi nh́n thấy Ngài trước nhất, c̣n tôi lúc ấy mắc lo nh́n quanh nên không để ư. Khi hai bạn tôi thốt lên một tiếng kêu ngạc nhiên, tôi mới quay đầu nh́n lại và gặp cái nh́n của Chân Sư, khi ấy Ngài cũng vừa quay đầu nh́n lại đằng sau. Tôi nhận ra Ngài không phải như một người quen biết thường, mà là nhận ra gương mặt của một đấng Cao Cả, v́ gương mặt ấy khi người ta đă gặp một lần th́ không bao giờ có thể lầm lẫn. Cũng như ánh sáng huy hoàng chói rạng của Mặt Trời so với ánh sáng nhẹ nhàng êm dịu của Mặt Trăng, vốn có một sự khác biệt rơ ràng giữa sự sáng sủa dịu hiền trên gương mặt một người hiền lương của thế tục, và sự sáng lạn huy hoàng rực rỡ trên gương mặt của một vị Siêu Nhân, nó phản ảnh cái ánh sáng bên trong của tinh thần đă thức tỉnh về phương diện tâm linh và hoàn toàn giải thoát.

        Chúng tôi ba người cùng dạo chơi trong thành phố và cùng về một lượt, nhưng khi vừa bước vào nhà th́ đă nghe bà Billing và bà HPB nói cho chúng tôi biết rằng Chân Sư đă đến đây và Ngài có nói đă gặp chúng tôi đi chơi ngoài thành phố. Ngài cũng có nêu đích danh của cả ba người. Câu chuyện của bà Billing thuật lại rất thú vị. Bà nói rằng cửa trước vẫn đóng và khóa chặt như thường lệ, và không ai có thể vào nhà mà không reo chuông báo hiệu. Tuy nhiên, khi bà rời khỏi pḥng khách đi qua hành lang để đến pḥng bà HPB, th́ bà suưt đụng phải một người lạ mặt h́nh dung cao lớn, đứng sững ngoài hành lang trước cửa buồng của bà HPB. Bà diễn tả người ấy như là một người Ấn Độ có cái tác phong sang quư, với đôi mắt sáng và cái nh́n như soi thấu ḷng người. Lúc ấy bà ngạc nhiên đến nỗi không thốt ra được một lời nào, nhưng người lạ mặt nói: “Tôi muốn gặp bà Blavatsky”,và tiến về phía cửa buồng của bà HPB. Bà Billing đích thân mở cửa cho Ngài và mời Ngài vào. Ngài bước vào pḥng, tiến đến gần bà HPB, chào bà theo cung cách của người phương Đông, và bắt đầu nói chuyện với bà HPB bằng thứ ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ đối với bà Billing, tuy rằng bà nầy, với tư cách một người đồng tử công cộng với nhiều năm thực nghiệm, đă từng tiếp xúc với mọi hạng người của nhiều xứ khác nhau. Tự nhiên bà Billing đứng dậy để bước ra ngoài, nhưng bà HPB mời bà ở lại và bảo bà đừng để ư về việc hai người nói chuyện với nhau bằng một thổ ngữ lạ, v́ họ cần thảo luận với nhau về một việc đạo sự trên phương diện huyền linh.

        Không biết rằng người khách Ấn Độ bí mật nầy có trợ giúp thêm thần lực cho bà HPB hay không th́ tôi không thể nói, nhưng khi ngồi vào bàn ăn tối hôm đó, bà làm cho vị nư gia chủ rất vui mừng thích thú khi bà tḥ tay xuống dưới mặt bàn rồi lấy lên cho bà kia một ấm trà Nhật Bổn bằng sứ rất đẹp, dường như do lời yêu cầu của chủ nhà, tuy rằng tôi không chắc lắm về chi tiết nầy.

        Ngày 15 tháng 1, chúng tôi sửa soạn điLiverpool để đáp tàu “speke Hall” đi Ấn Độ qua ngă Địa Trung Hải, Hồng Hải và Ấn Độ Dương trực chỉ Bombay. Đúng một tháng sau, ngày 15 tháng 2, chúng tôi đă lọt vào hải phận Ấn Độ và sáng ngày hôm sau, tàu đă cặp bến hải cảng Bombay. Đêm hôm đó, tôi đă ngồi trên sàn tàu đến một giờ sáng để ngắm nh́n bầu trời xanh biếc hùng vĩ của xứ Ấn Độ, và vận hết nhỡn lực nh́n lên bờ để mong nh́n thấy ánh sáng đầu tiên của thành phố Bombay.

        Sau cùng, từ đàng xa một ngọn đèn nhỏ xuất hiện trên mặt biển, và tôi liền trở về ca bin  để dưỡng sức cho cái thể xác mỏi mệt được nghỉ ngơi để c̣n chờ đón công việc của ngày mai. Trước khi mặt trời mọc, tôi lại trở lên sàn tàu, và khi chiếc tàu lướt trên mặt nước, tôi ngắm nh́n và thưởng thức cảnh tượng hải cảng Bombay diễn ra trước mắt tôi. Động Voi (Elephanta Cave) ngay trước mặt là địa điểm đầu tiên mà chúng tôi muốn được xem, v́ đó là cái kiểu mẫu điển h́nh của xứ Ấn Độ cổ xưa, tức đất Tây Trúc thiêng liêng cổ kính của muôn đời (Bharata-Varsha),mà chúng tôi vẫn chiêm bái tận đáy ḷng và ước mong được thấy phục sinh trở lại nơi xứ Ấn Độ ngày nay. Nhưng than ôi! Khi chiếc tàu lượn ṿng quanh ngọn đồi Malabar Hill, th́ sự mơ ước của chúng tôi liền tiêu tan ra mây khói. Cảnh tượng mà chúng tôi thấy ngay trước mắt đó là một xứ Ấn Độ tân thời với những dinh thự, lầu đài nguy nga tráng lệ, lồng trong cái bối cảnh xinh tươi của những công viên được chăm sóc lịch sự theo kiểu du nhập từ Anh Quốc, và bao phủ chung quanh với tất cả những dấu hiệu giàu có sung măn thu hoạch được bằng các nghiệp vụ kinh doanh thương măi. Xứ Tây Vực cổ kính của thời đại Elephanta đă bị xóa nḥa bởi sự lộng lẫy huy hoàng của một nền trật tự mới, trong đó triết học và tôn giáo không có dự phần, và ḷng tôn sùng nhiệt thành nhất được đặt vào h́nh ảnh của thần tượng Nữ Hoàng trên tờ giấy bạc Ru bi! Bây giờ th́ chúng tôi đă quen với t́nh trạng đó, nhưng lần đầu tiên cảnh tượng đó gây cho chúng tôi cái cảm giác đau ḷng của sự thất vọng chua cay.

        Tàu chưa bỏ neo để cặp bến th́ đă có ba người Ấn  sắc phục chỉnh tề đến t́m chúng tôi. Đó là Mulji Thackersey, Krishnavarma và Sitaram, đă gia nhập Hội Thông Thiên Học bằng thơ từ và được cấp chứng thư của Hội. Ba người này đă ngủ đêm trên một chiếc giang đỉnh nhỏ để đợi tàu cặp bến và lấy làm vui mừng mà tiếp đón chúng tôi cũng như chúng tôi rất vui mừng mà đến xứ họ. Chúng tôi bốn người cùng với họ xuống chiếc giang đỉnh để vào bến. Khi vừa đổ bộ lên đất liền, cử chỉ đầu tiên của tôi là cúi rạp xuống hôn bực tam cấp bằng đá, một hành động chiêm bái do bản năng thúc đẩy tự nhiên của tôi! Đây là cái giờ phút chờ đợi từ lâu, nay mới là lúc chúng tôi đă thật sự đặt chân lên giải đất thiêng liêng, nơi đất lành của các Chân Sư, quê hương của các tôn giáo cổ từ ngàn đời, xứ sở của những huynh đệ đồng môn cùng một lư tưởng tâm linh với chúng tôi, và cùng sống chết với họ là tất cả những ǵ chúng tôi có thể mong ước. Tất cả những ǵ mà người ta đă nói với chúng tôi trên tàu về những thói hư, tật xấu của họ như sự nhu nhược tinh thần, thói a dua, nịnh hót, bợ đỡ, sự bất trung bất tín của họ, nay đă bị quên mất hết cả. Đó là bởi v́ chúng tôi thương yêu họ v́ những truyền thống tổ tiên của họ và thậm chí, v́ những điểm thiếu sót bất toàn của họ như thế nào. Ít nhất đối với tôi, cái cảm nghĩ đó vẫn c̣n nguyên vẹn cho đến ngày nay. Tôi cảm thấy thực sự rằng dân tộc họ là dân tộc của tôi, quê hương xứ sở họ là quê hương xứ sở của tôi: ước mong sao những ân huệ của các đấng Chân Sư Minh Triết luôn luôn đến với họ và che chở họ măi măi!

III

          Những đường phố của Bombay có một tính chất đặc biệt Đông Phương nó làm cho chúng tôi vô cùng thích thú. Những dinh cơ nguy nga đồ sộ, những sắc phục màu mè sặc sỡ của dân bổn xứ gồm đủ mọi thành phần vô cùng phức tạp, những xe cộ h́nh dáng dị kỳ, cái cảm giác mới mẻ lạ lùng mà toàn thể cảnh tượng đó gây ra do cái thẩm quan mỹ thuật của chúng tôi, và niềm phúc lạc thần tiên được đạt tới mục đích cuộc hành tŕnh sau những chuỗi ngày khắc khoải chờ mong kéo dài, để đến giải đất của những dân tộc mệnh danh “ngoại đạo” thân yêu của chúng tôi, để tiếp xúc và sống chung với họ chúng tôi đă vượt qua bao vùng biển cả trùng dương và chạm trán với bao cơn giông tố băo bùng, tất cả những cảm giác, ấn tượng sống động đó làm cho ḷng chúng tôi tràn ngập một niềm sung sướng hạnh phúc khôn tả.

        Chiếu ngày 17 tháng 2, một cuộc tiếp tân được tổ chức tại tư gia một bạn đạo với ba trăm quan khách được mời đến để gặp gỡ chúng tôi. Như thường lệ trong những dịp nầy có đọc diễn văn chúc mừng, với những tràng hoa trồng vào cổ và nước hoa rẩy vào người chúng tôi theo phong tục bổn xứ. Bà HPB, ông Wimbridge, ông Scott và tôi đều có đáp từ tùy theo khả năng và tùy hứng của mỗi người, và cơn xúc động sâu xa trong ḷng đă khiến cho tôi rơi nước mắt.

        Ngày hôm sau, chúng tôi được mời đi tham dự cuộc lễ kỷ niệm “Shivaratri” của Ấn Giáo tại Động Voi. Sau đó, chúng tôi hàng ngày đều có quan khách đến viếng nườm nượp mỗi lúc càng đông, trong số đó có các gia đ́nh cư sĩ tại gia người Parsi (Hỏa Giáo), người Ấn Giáo, các tu sĩ xuất gia, tăng lữ Kỳ Na Giáo (jain)v.v….Có những mâm lễ vật hoa quả được gởi đến tặng chúng tôi với những thông điệp chào mừng. Một đêm văn nghệ đặc biệt với vở kịch Ấn Độ “Sitaram” được tŕnh diễn cho chúng tôi xem tại Hí Viện Elphinstone.

        Ngày 7 tháng 3, chúng tôi dời chỗ ở đến một ngôi biệt thự nhỏ ở số 108, đường Girgaum, chúng tôi ở luôn tại đây suốt hai năm liền, và dùng nơi đó làm Tổng Bản Dinh Hội Thông Thiên Học Thế Giới. Bạn Mulji có t́m được cho chúng tôi một đứa tớ trai chừng mười lăm tuổi tên Babula mà ai cũng biết ḷng trung tín của nó đối với bà HPB thật là tuyệt đối cho đến khi bà rời khỏi xứ Ấn Độ.

        Mỗi đêm chúng tôi đều có quan khách đến viếng, trong những dịp có những vấn đề triết học, siêu h́nh và khoa học rắc rối khó khăn nhất được đem ra thảo luận. Chúng tôi sống và thở trong một bầu không khí tinh thần, trí tuệ, với những lư tưởng tâm linh cao cả nhất. Trong cái bối cảnh tinh thần đó, lần đầu tiên đă xuất hiện những bạn đạo cùng đồng thanh khí với chúng tôi, những người này về sau đă có liên hệ mật thiết với sự tiến triển của phong trào Thông Thien Học. Trong số những người bạn mới của chúng tôi lúc ấy, có hai anh em MM. và AM. Kunte, người anh là một giáo sư kiêm học giả ưu tú về môn Phạn Ngữ, c̣n người em là một vị bác sĩ giảng khoa Cơ Thể Học tại trường Đại Học Y Khoa ở Bombay. Người bác sĩ nấy đă tỏ ra thiếu sự can đảm tinh thần đến một mức độ tuyệt vọng, nó khêu gợi ḷng khinh bỉ của tôi. Y là một thành viên trong Hội Đồng Quản Trị của Hôi Thông Thiên Học, được đối xử trên một cương vị b́nh đẳng và thân hữu mật thiết với chúng tôi. Lúc đầu y rất nhiệt thành với Hội, sẵn ḷng trợ giúp và ứng đáp rộng răi mọi nhu cầu của chúng tôi; y cung hiến nhà ở, tài sản, xe ngựa của y cho chúng tôi tùy nghi sử dụng; y thật sự coi chúng tôi như anh em một nhà. Bỗng nhiên, một ngày nọ, tên gia nô của y đem đến cho tôi một bức thơ từ chức và xin ra khỏi Hội mà không một lời giải thích lư do. Tôi c̣n không tin nơi thị giác của tôi, và nghĩ rằng đó chắc là một tṛ đùa vô lư, nhưng khi tôi hối hả đến nhà y th́ mới bật ngửa người ra mà nghe y nói rằng đó là sự thật. Sau nhiều lần cật vấn về lư do của sự việc ấy, tôi mới biết rơ sự thật. Vị Khoa Trưởng Trường Đại Học Y Khoa đă khuyên y nên chấm dứt mọi liên hệ với chúng tôi, v́ Hội Thông Thiên Học đă bị chánh phủ Anh Ấn nghi ngờ là có những ư đồ và mục tiêu chính trị! Như vậy, thay v́ mạnh dạn đứng ra binh vực chúng tôi và tuyên bố rằng Hội Thông Thiên Học hoàn toàn không dính dáng ǵ đến vấn đề chính trị, mà y, với tư cách là một bạn thân của chúng tôi và là một thành viên Hội Đồng Quản Trị của Hội, đă có thể làm một cách dễ dàng, người bác sĩ giàu có phong lưu nầy, mà vấn đề sinh kế không lúc nào tùy thuộc vào cái số lương chết đói của chính phủ, lại chay thẳng một mạch về nhà và đặt sự hèn nhát của y trên giấy trắng mực đen! Người biết chuyện sẽ hiểu cái cảm giác khinh bỉ của tôi đối với y luôn luôn từ đó về sau. Ngày hôm sau, tôi viết thơ cho vị giáo sư Phạn Ngữ nói rằng v́ người em ruột của y thấy có điều bất lợi trong việc liên hệ với Hội Thông Thiên Học, nên tôi hy vọng rằng không một sự e ngại tế nhị nào có thể ngăn sự rút lui của y nếu y cũng chia sẻ sự băn khoăn ấy. Sự trả lời của y là một lá đơn từ chức viết tay!

        Trong một trường hợp khác, với một bạn đạo Ấn Độ mà tôi biết rằng vấn  đề sinh kế của y tùy thuộc vào số lương nghèo nàn của chính phủ đài thọ là bốn chục Ru bi mỗi tháng, tôi nói:

        _Anh Martandras Bhai, thí dụ như sáng mai đến sở làm, anh thấy trên bàn giấy của anh một bức thơ nói rằng anh hăy chọn một trong hai điều, là chỗ làm của anh với Hội Thông Thiên Học, bởi v́ chúng tôi bị nghi ngờ là có âm mưu chính trị, th́ chừng đó anh sẽ nghĩ sao?

        Người bạn kia lộ vẻ đăm chiêu nghĩ ngợi, nét mặt cứng rắn như người sắp phải quyết định một việc nghiêm trọng, và kế đó với đôi môi mím chặt và một cái lắc đầu, y bèn đáp một cách quyết liệt:

        -Tôi…tôi không thể làm trái với lương tri của tôi!

        Tôi bèn ôm chầm lấy y và kêu to với bà HPB ở pḥng kế bên:

        -Qua đây! Bà hăy qua đây để nh́n xem một người Ấn Độ chân chính và một con người can đảm !...

        Tên họ người ấy là Martandras Babaji Nagnath; y là một người Bà La Môn thuộc tiểu bang Maratha.

IV

          Những quan khách dủ các giới vẫn tiếp tục tới viếng Trụ Sở Thông Thiên Học của chúng tôi càng ngày càng đông, và thường ở nán lại mỗi đêm cho đến khuya để thảo luận về các vấn đề tôn giáo. Nhờ những cuộc tiếp xúc nầy trong những thuở ban đầu sống trên đất Ấn Độ, mà chúng tôi mới nhận thức sự khác biệt giữa những quan niệm sống của Đông Phương và Tây Phương, và thấy rằng người Phương Đông có một nhân sinh quan cao cả hơn nhiều.

        Những vấn đềdanh lợi trần gian, khác biệt chủng tộc, doanh thương, hay chính trị không hề lọt vào ngưỡng cửa của chúng tôi. Sự tiến hóa tâm linh là đề tài thảo luận nóng bỏng nhất, và đó là lần đầu tiên mà bà HPB và tôi chú trọng sâu xa đến những vấn đề tiến hóa tuần tự của linh hồn qua từng giai đoạn luân hồi chuyển tiếp theo định luật Tuần Hoàn. Chúng tôi cảm thấy hoàn toàn thỏa măn mà được ẩn cư nơi một biệt thự hẻo lánh dưới bóng mát của những hàng dừa rậm rạp, trong một khu vực b́nh dân của thành phố nầy. Những chuyến văng lai của những chiếc tàu chở đầy của cải kho tàng, sự ồn ào, náo nhiệt của thị trường thương măi, sự cạnh tranh ráo riết của các xí nghiệp doanh thương trên thị trường bông vải và sự lên cao xuống thấp của các giá trị cổ phần; những tranh đua ti tiện nhỏ nhen giữa các hàng quan chức; những cuộc tiếp tân linh đ́nh trọng thể tại dinh Chính Phủ; tất cả những thứ đó không hề thoáng qua trong trí óc của chúng tôi. Chúng tôi lấy làm sung sướng mà quên lăng việc đời, và bị đời bỏ quên!

        Người đời có thể cho chúng tôi là cuồng tín, mộng mơ, có những hứng khởi điên rồ, không thiết thực, nạn nhân của những điều giả tưởng ngông cuồng, hoặc tự lừa dối lấy ḿnh. Tuy nhiên, những mộng mơ của chúng tôi là ước mơ sự toàn thiện của loài người khát khao sự minh triết thiêng liêng, hy vọng duy nhất của chúng tôi là giúp đỡ nhân loại,  nâng cao hoài bảo tinh thần và sống một cuộc đời thanh cao tốt đẹp hơn. Và dưới những hàng dừa sầm uất, chúng tôi đă được sự đích thân viếng thăm của các đấng Chân Sư. Sự hiện diện cao cả của các Ngài đă giúp thêm sức mạnh cho chúng tôi tiến bước trên con đường ḿnh đang theo đuổi, và tưởng thưởng chúng tôi gấp trăm lần nhiều hơn tất cả những sự lừa đảo, phản bội, nhạo báng, lăng nhục, ngược đăi của người đời và sự ŕnh rập theo dơi của nhân viên công an, cảnh sát, mà chúng tôi đă phải chịu.

        Khi đă có các Ngài thường xuyên hỗ trợ chúng tôi, th́ có hề ǵ nếu chúng tôi bị người đời chống  đối thù nghịch? Thế gian đă không chinh phục được chúng tôi, nhưng Nghiệp Quả đă đặt để cho chúng tôi cái vai tṛ thắng đoạt sự thờ ơ lănh đạm của nó và rốt cuộc đáng được cho thế gian tôn trọng.

        Chúng tôi không biết, nhưng các đấng Chân Sư biết, rằng hai chúng tôi sẽ được xử dụng như cái trung tâm hạt nhân cần thiết cho sự tập trung và phổ biến những giáo lư Huyền Môn cổ truyền của Ấn Độ, nay đă  đến chu kỳ tái xuất hiện để đáp ứng nhu cầu của nhân loại theo định luật Tuần Hoàn. Một người thừa hành luôn luôn là cần thiết như một vận hà để phát động những phong trào phục hưng trí tuệ và tâm linh đó, và tuy hăy c̣n là thiếu sót bất toàn, nhưng chúng tôi cũng tạm gọi là khá tốt để thi hành cái sứ mạng đó, bởi v́ chúng tôi có ít nhất là niềm hứng khởi nhiệt thành, ḷng ưu ái và sự vâng lời tuyệt đối. Những điểm thiếu sót bất toàn cá nhân của chúng tôi không đáng kể vào đâu so với những nhu cầu cấp bách của nhân loại. Bởi vậy nên, hiểu theo một ư nghĩa, chúng tôi là những người hướng đạo dọn đường khai sáng phong trào Thông Thiên Học, sẽ tác động như cái trung tâm để thể hiện và phát huy bầu ánh sáng rạng ngời của nền Minh Triết cổ truyền Đông Phương, nó đang gây nên sự thán phục và ca tụng trong các giới học giả quốc tế hiện đại do bởi sự thanh cao mỹ lệ và giá trị độc đáo vô song của nó.

Chương Ba

MỘT ĐỘNG PHÙ THỦY

I

          Mọi người đều biết tên tuổi của ông A.P.Sinnett như một vị Phó Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học, có t́nh thân hữu đậm đà với hai nhà Sáng Lập, và liên hệ mật thiết với mọi ngành hoạt động của Hội trong một thời gian lâu dài. Sự quen thuộc của ông với chúng tôi bắt đầu bằng một bức thơ đề ngày 15 tháng 2 năm 1879, tức chín ngày sau khi chúng tôi đổ bộ lên Bombay, trong đó, với tư cách Chủ Nhiệm tờ nhật báo Pioneer, ông bày tỏ ư muốn làm quen với chúng tôi và sẵn ḷng công bố trên mặt báo mọi sự kiện lư thú về sứ mạng của chúng tôi ở Ấn Độ.

        Cũng như toàn thể báo giới Ấn Độ, nhật báo Pioneer đă đăng tin chúng tôi đến. Trong thơ ông Sinnett nói rằng hồi c̣n ở Luân Đôn ông đă có nhiều dịp khảo sát vài hiện tượng đồng tử đáng kể, do đó ông cảm thấy thích thú với những vấn đề huyền linh hơn mọi người kư giả thông thường. V́ lẽ những định luật về các hiện tượng nầy c̣n chưa được khám phá, những cuộc biểu diễn thường xảy ra dưới những điều kiện không thỏa đáng, và cái trí lực đằng sau các hiện tượng vẫn c̣n là một vấn đề gây nhiều lư thuyết mâu thuẫn hỗn độn, không được rơ ràng dứt khoát, nên sự ṭ ṃ của ông cũng chưa được thuyết phục. Bức thơ trả lời của tôi đánh dấu sự bắt đầu một mối liên hệ quư giá và một t́nh thân hữu bền bỉ lâu dài. Sự trợ giúp của ông Sinnett đă đến với chúng tôi vào đúng lúc khẩn thiết nhất, và tôi không bao giờ quên rằng Hội Thông Thiên Học nói chung, và cá nhân chúng tôi nói riêng, đều có một mối biết ơn sâu xa đối với ông.

        Vừa đổ bộ lên đất liền, không bao lâu chúng tôi đă được mọi người biết là có khuynh hướng đồng hóa với tư tưởng Đông Phương và không có thiện cảm với quan niệm nhân sinh của các giới trong cộng đồng Anh Ấn. Không những vậy, chúng tôi lại định nơi cư trú trong một ngôi nhà hẻo lánh ở trung tâm khu bổn xứ của thành phố Bombay, được nghinh đón một cách phấn khởi nồng nhiệt và được người Ấn Độ chấp nhận như những nhà đại diện cho nền Đạo Lư cổ truyền và hoằng khai tôn giáo của chính họ. Hơn nữa, chúng tôi không yết kiến các quan chức trong Dinh Chính Phủ, cũng không đến viếng thăm xă giao những nhân vật của giai cấp người Âu, v́ giai cấp nầy thật hoàn toàn dốt đặc về Ấn Giáo và về dân tộc Ấn cũng như họ vốn mù tịt về cá nhân chúng tôi. Bởi vậy nên đương nhiên chúng tôi không có quyền trông đợi một ân sủng nào từ phía những người đồng chủng của ḿnh, và cũng không cần phải ngạc nhiên v́ bị Chính Phủ nghi ngờ là có những ư đồ tâm tư thầm kín.

        Không có một vị chủ báo Anh Ấn nào khác sẵn ḷng có hảo ư với chúng tôi, hoặc có thái độ vô tư trong việc thảo luận về những quan điểm và lư tưởng của chúng tôi. Chỉ có ông Sinnett là người bạn duy nhất và người phê b́nh vô tư, chân chính của chúng tôi; ông là một bạn đồng minh có thế lực rất mạnh, v́ ông làm chủ tờ nhật báo có ảnh hưởng lớn nhất ở Ấn Độ, và hơn tất cả mọi vị chủ báo khác, ông được sự tín nhiệm và kính trọng của những quan chức thượng cấp trong Chính Phủ.

        Tôi luôn luôn rất là ngạc nhiên, khi nói chuyện với các nhân vật Anh Ấn, mà thấy họ với chúng tôi sống trong những thế giới khác biệt nhau như thế nào trên đất Ấn Độ. Thế giới của họ chỉ là một sự nới rộng nếp sống quen thuộc ở xứ nhà, gồm có những thú vui tầm thường và những tṛ chơi tiêu khiển vô vị để trải qua những giờ phút nghỉ ngơi của họ một cách ít nhàm chán nhất. Thế giới của chúng tôi là sống với những lư tưởng thấm nhuần Đạo Lư Đông Phương, suy tư cảm nghĩ với những tư tưởng Đông Phương, không hề có thời giờ rảnh để vui chơi hưởng lạc, cũng không cảm thấy nhu cầu về những tṛ tiêu khiển, những tiệc tùng đ́nh đám, những buổi dạ hội tiếp tân theo xă giao thông thường. Nếu không phải do kinh nghiệm bản thân, người ta không thể tưởng tượng rằng có một sự tương phản lớn lao rơ rệt như vậy.

II

          Ít lâu sau khi chúng tôi đến định cư tại ngôi nhà ở đường Girgaum, có xảy ra một giai thoại mà bà HPB đă viết lại thành một câu chuyện ly kỳ trong quyển “Động thẳm rừng già của Ấn Độ”. Tôi chỉ tŕnh bầy một cách đơn giản, ngắn gọn những sự việc xảy ra, và độc giả sẽ thấy bằng cách nào bộ óc tưởng tượng dồi dào phong phú của bà đă biến đổi chúng hoàn toàn khác hẳn, và từ một chuyện rất thông thường bà đă tạo thành một chuyện phiêu lưu kỳ diệu đầy tính chất rùng rợn quái đản.

        Một buổi chiều nọ chúng tôi đang ngồi trong nhà, th́ nghe có tiếng trống nhỏ, vang dội bên tai làm cho tôi chú ư. Tiếng trống vẫn tiếp tục kéo dài theo một điệu độc âm, buồn tẻ, nhàm chán chứ không chơi một nhạc điệu nào. Một người gia bộc được sai đi thăm ḍ tung tích, sau một lúc trở về cho biết rằng đó là tiếng trống ở một nhà láng giềng, báo hiệu rằng một “bà bóng” vốn là cốt của một vị “nữ thánh”, sắp sửa lên đồng và trả lời những câu hỏi về những vấn đề họa phước của các tín chủ.

đến nơi để xem việc ǵ xảy ra. Thế là chúng tôi đi đến nhà bà bóng. Trong một gian nhà tranh vách đất nhỏ hẹp, chúng tôi thấy độ ba mươi đến bốn mươi người bổn xứ thuộc giai cấp cùng đinh hạ tiện đứng ṿng quanh, có vài ngọn đèn dầu dừa để kê sát vách, và ngối xếp bằng ngay chính giữa nền đất, là một người đàn bà coi có vẻ man dại, đầu bỏ tóc xơa, thân ḿnh lắc lư bên nọ qua bên kia, và xoay đầu đảo theo ṿng tṛn làm cho bộ tóc dài cũng cuốn xoay theo ṿng quanh ḿnh. Độ một lát, một trẻ thiếu nhi từ cửa sau bước vào, cầm một cái đỉa bàn tṛn trên đó có vài miếng lonh năo đang cháy, vài nhúm bột son đỏ, và vài lá cây xanh. Thiếu nhi ấy đưa cái đĩa ấy lại gần mặt bà bóng, bà này cúi mặt xuống chất long năo bốc khói, vừa hít vào từng hơi dài vừa thốt ra những tiếng rên khoái trá. Sau đó một lúc, bà nhảy dựng người lên, giật lấy cái đĩa bàn, cầm đưa qua bên mặt bên trái, đầu lại xoay ṿng tṛn như trước, và với bàn chân rún rẩy theo nhịp trống, bà ấy đi quanh khắp pḥng và nh́n thẳng vào gương mặt khiếp sợ của những người chung quanh.

        Sau khi đă đi quanh khắp pḥng như vậy nhiều lần, th́nh ĺnh bà bóng lao ḿnh vút đến trước mặt một phụ nữ trong đám đông, phóng cái đĩa bàn về người ấy, và nói với y vài câu bằng tiếng thổ ngữ Marathi, mà lẽ tất nhiên chúng tôi không thể hiểu, nhưng dường như có liên quan đến việc riêng của bà kia. Dù đó là việc ǵ, cái ảnh hưởng gây nên đă hiển hiện rơ ràng, v́ người nữ ấy bật ngửa người và thụt lui lại một bước, gương mặt lộ vẻ kinh hoàng, và đưa hai tay nắm chặt về phía bà bóng, dường như trong cơn xúc động sâu xa. Cũng một sự việc tương tự đă được tái diễn với nhiều người khác trong ṿng cử tọa, sau đó nhà nữ linh thị đi xoay ṿng vào giữa gian pḥng, vẫn tiếp tục xoay ṿng sang bên nọ bên kia trong một lúc, cất tiếng thốt lên vài âm thanh nghe dường như một câu thần chú, rồi chạy thoát ra khỏi pḥng qua cửa sau.

        Sau vài phút bà ấy trở lại, với bộ tóc ướt sũng nhỏ giọt, lại để rơi ḿnh xuống đất, đầu lại đảo quay ṃng ṃng như trước, lại nhận cái khay đựng long năo đốt cháy, và tái diễn cái tṛ lao vút ḿnh vào người đứng xem để nói với họ những ǵ họ muốn biết. Nhưng lần này, giọng nói của nhà tiên tri hơi khác một chút và những động tác của bà có vẻ nhẹ nhàng hơn. Chúng tôi được cho biết rằng đó là bởi v́ đă có một nữ thánh khác ốp vào khi bà bóng ngâm đầu vào một chậu nước đă đặt sẵn ở ngoài cửa. Tính cách mới lạ của sự việc nầy không bao lâu đă trở thành nhàm chán đối với chúng tôi, và chúng tôi quay bước trở về nhà.

        Câu chuyện chỉ có thế thôi, không hơn không kém. Đó là những sự kiện đơn giản, và không có ǵ khác lạ hơn nữa. Thế nhưng, nếu độc giả lật cuốn “ Động thẳm rừng già của Ấn Độ”, ở chương với cái tựa đề “Một động phù thủy” th́ sẽ thấy bà HPB làm cho nó biến chất như thế nào. Thay v́ câu chuyện xảy ra trong một căn nhà lá tồi tàn ở một khu xóm b́nh dân lao động của thành phố Bombay, với một số khán giả gồm toàn những người lao công lam lũ hầu bàn, chúng tôi được bà cho ngồi trên lưng voi, đi trên con đường ṃn dưới ánh đuốc lập ḷe mờ ảo, xuyên qua một khu rừng rậm, hai ngàn bộ chiều cao trên dăy núi Vindhya. Bà viết:

        Giữa cơn im lặng thâm trầm, chỉ nghe có tiếng chân voi bước đều đặn và nghiền nát sỏi đá trên đường núi gập ghềnh; thỉnh thoảng, chợt nghe có những tiếng nói th́ thầm quái đản và những âm thanh lạ lùng huyền bí. Đến một chỗ nọ, chúng tôi cho voi quỳ xuống để chúng tôi hạ thổ, và đi bộ xuyên qua những bụi cây xương rồng rậm rạp, gai đâm đau nhói! Chúng tôi gồm một đoàn ba mươi người, kể cả những phu cầm đuốc. Ông Đại Tá(tức là tôi)ra lệnh cho tất cả những khẩu súng trường và súng đoản đều phải lắp đạn sẵn sàng để sửa soạn vừa qua truông núi. Sau khi đă bỏ lại phần lớn những y phục của chúng tôi trên những cành gai nhọn của bụi cây lê rừng, trèo lên một ngọn đồi, và vượt qua một khe núi khác nữa, chúng tôi đến nơi động phủ của một vị nữ phù thủy, mệnh danh là “Bà cốt của Ấn Độ “,sống một cuộc đời chân tu thánh thiện, và là một nhà tiên tri xuất sắc!...

        Động phủ của bà nằm trong hang núi, trong một ngôi đền cổ hoang tàn xây bằng đá ong đă loang lở nhiều nơi, nơi cư trú của bà ở trong một đường hầm (địa đạo), tại đây người ta tin rằng bà đă sống đến ba trăm tuổi!

        Khoảnh đất vuông vức phía trước mặt ngôi đền được soi sáng bằng một ngọn lửa trại khổng lồ; ở giữa sân, có một đám thổ dân miền núi trần truồng nước da đen sậm giống như những thể tinh đang nhảy múa một vũ khúc ếm quỷ theo nhịp trống cổ và trống cơm. Lúc đó, một vị lăo trượng có cḥm râu bạc nhảy ra và xoay tít thân ḿnh đi theo ṿng tṛn chung quanh sân, hai cánh tay duỗi thẳng như hai cánh và nhe hàm răng nhọn như răng chó sói, thân ḿnh ông cứ xoay tít măi cho đến khi ngă quỵ xuống đất, bất tỉnh nhân sự.

        Th́nh ĺnh, vị nữ phù thủy xuất hiện, từ đâu và bằng cách nào cũng không ai biết. Bà có thân h́nh cao lêu khêu, gầy đét như bộ xương, nơi bộ vai xương xẩu của bà có treo lủng lẳng một cái xương sọ đầu lâu nhỏ bé của trẻ con đă chết. Đôi mắt sâu hoắm, phóng ra những tia lửa đỏ từ cái liếc nh́n sắc như dao đâm xuyên vào mắt bạn, làm cho bạn phát sởn ốc cùng ḿnh, bạn bắt đầu cảm thấy óc ḿnh tê liệt, tinh thần bấn loạn không c̣n suy tư sáng suốt và máu bạn đông đặc lại trong huyết quản!

        Bà phù thủy đứng yên không cử động trong giây lát, một tay cầm cái đĩa đựng long năo đốt cháy, tay kia cầm một nắm gạo. Bà giống như một pho tượng tạc trên đá, cái cổ nhăn nheo đeo ba ṿng tiền vàng cổ xưa, đầu quấn một con rắn bằng vàng khoanh tṛn, thân ḿnh dị dạng của bà bao phủ bằng một lớp áo vải mịn màu vàng nghệ…”

        Tiếp theo đó là sự diễn tả cơn nhập đồng của bà phù thủy, với những cử chỉ giống như người bị chứng động kinh, phong giật; một màn nhảy múa xoay tít thân ḿnh coi như một chiếc lá vàng trong cơn gió lốc; cái nh́n rùng rợn của đôi mắt sắc như dao; những cơn múa may quay cuồng, những bước nhảy dựng chồm người lên; và những động tác man dại rừng rú khác. Rồi đến những màn thay đổi các “giá đàn”:thần thánh luân phiên xuất nhập xác bà bóng, tất cả là bảy vị; những màn phát ngôn tiên tri họa phước; một vũ điệu kỳ quái với cái bóng của chính bà phù thủy; những màn đập đầu lên những bậc đá tam cấp phát ra tiếng động nghe đến rợn người,v.v.và v.v…Sự diễn tả cảnh tượng động phú thủy chiếm trọn hai chục trang giấy với một bút pháp điêu luyện làm cho người đọc say mê thích thú, cơ hồ như là chính họ được đưa vào tận chốn rừng thiêng bí ẩn để chứng kiến bao nhiêu sự việc quái đản, dị kỳ.

        Một trí óc có thể làm một việc kỳ diệu như vậy, hẳn phải là khối óc của một thiên tài. Điều mà bà đă làm trong câu chuyện nầy, bà cũng đă làm trong toàn bộ cuốn sách:một số sự việc giản dị, tối thiểu trong mỗi trường hợp cũng đủ để cho bà chế biến thành một chuyện ly kỳ huyền bí chứa đựng nhiều chi tiết hấp dẫn đến độ độc đáo, thần t́nh.

        [Những chuyện phiêu lưu du kư của bà HPB viết ở Ấn Độ, trước hết được viết bằng chữ Nga để gửi đăng từng kỳ hạn hằng tuần trên tạp chí “Russky Vyesnick”, tờ tạp chí lớn nhất ở Moskowa; về sau mới được dịch ra Anh ngữ và sưu tập lại để in thành sách nhan đề “Caves and jungles of Hindustan” Động thẳm rừng già của Ấn Độ].

III

          Những hy vọng của chúng tôi về một cuộc sống ẩn cư không bao lâu đă tiêu tan như mây khói. Không những chúng tôi luôn luôn bị vây phủ bởi những khách đến viếng, trong số đó có vài người hứng khởi nhiệt thành, dốc ḷng tầm Đạo, và đáng được chúng tôi giúp đỡ, nhưng chúng tôi cũng bị lôi cuốn vào việc giao dịch thơ từ càng ngày càng nhiều, phần lớn là với người Ấn Độ, về những vấn đề liên quan đến giáo lư Thông Thiên Học.

        Ngày 23 tháng 3 năm ấy, tôi cung hiến một buổi thuyết pháp công cộng đầu tiên ở Ấn Độ tại hội trường Framji Cowasji Hall ở Bombay, với đề tài: “ Hội Thông Thiên Học và những mục đích của Hội”.

        Nói về tính cách mới mẻ và lạ mắt, th́ cảnh tượng của hôi trường hôm ấy thật là ngoạn mục, thích thú đến tuyệt đỉnh: thính đường coi như một biển khăn vấn đầu trăm máu ngh́n sắc, những thính giả mặc sắc phục bằng vải hay tơ trắng xóa như tuyết, những bộ “sari” bằng tơ óng ánh, màu mè sặc sỡ của phụ nữ Ấn, những cặp mắt màu vân thạch chiếu trên những gương mặt màu nâu sậm với những nét thanh tao biểu lộ dân tộc tính với một truyền thống duy linh có sẵn từ muôn đời. So với những bộ Âu phục màu đen, những gương mặt nhợt nhạt và đầu trần của những thính giả Tây Phương, không có một màu sắc nào ngoại trừ những khăn choàng của phái nữ, th́ cảnh tượng ấy tŕnh bày một sự tương phản rơ rệt.

        Hàng thính giả đông nghẹt đến mức chật ních cả hội trường, choán hết các bao lơn, cầu thang, cho đến khi không c̣n chứa thêm được một người nào nữa, tuy vậy họ vẫn giữ im lặng, trật tự, và chăm chú nghe dường như mỗi người đều có đủ chỗ rộng răi, thoải mái cho riêng ḿnh.

        Nhóm bốn người của chúng tôi ngối trên diễn đàn, hàng ghế đầu được dành cho những nhân vật trưởng thượng của những cộng đồng bổn xứ khác nhau của thành phố Bombay và bài thuyết pháp của tôi được tất cả mọi người lắng tai nghe với một sự chú ư dường như muốn nín thở, thỉnh thoảng bị gián đoạn bởi những tràng pháo vỗ tay hoan hô. Đó thật là một diễn biến lịch sử, v́ đây là lần đầu tiên mà một người Phương Tây đứng ra đề cao tính chất cao siêu hùng vĩ của nến Đạo Lư cổ truyền Đông Phương, và kêu gọi t́nh thương yêu tổ quốc giống ṇi của người Ấn Độ, hăy nên tưởng nhớ đến truyền thống tổ tiên của họ mà giữ vững lấy nền tôn giáo cổ của ḿnh.

        Cái tiinh thần của buổi giảng tràn ngập tâm hồn của giảng viên cũng như của thính giả, và có một lúc tôi không thể chế ngự được những xúc cảm của tôi, mà tôi phải tạm ngưng v́ cơn xúc động làm cho tôi nghẹn cổ họng và trào nước mắt! Tôi có cảm tưởng như một thằng ngốc v́ đă mất b́nh tĩnh và không tự chủ được, nhưng tôi không thể làm khác hơn; tiếng nói của quả tim bị đè nén làm cho tôi không thốt được nên lời, mặc dù tôi cố gắng vượt qua.

        Trong buổi thuyết tŕnh, tôi bày tỏ quan niệm rằng sự phục hưng của một quốc gia phải đến do hành động của những nhà lănh đạo sáng suốt của nó, chứ không phải đến từ bên ngoài; và nếu muốn ngăn chặn sự suy vong của Ấn Độ, th́ người có thiên ân sứ mạng phải được t́m kiếm ngay trên lănh thổ xứ ấy, chứ không phải ở nước ngoài, cũng không phải do trong số những người ngoại chủng.

        Về phần chúng tôi, chúng tôi hoàn toàn phủ nhận mọi vai tṛ lănh đạo, hay cho rằng ḿnh có đủ điều kiện đóng vai tṛ ấy. Về sau, khi đă trải qua một thời gian hai mươi năm kinh nghiệm về xứ Ấn Độ, tôi tin rằng đó là quan niệm chánh đáng, và quan niệm duy nhất có thể đứng vững. Tôi vẫn tin tưởng, cũng như tôi đă thuyết tŕnh ngày hôm ấy, rằng đấng Giáo Chủ tâm linh ấy vốn có thật, và sẽ xuất hiện vào đúng lúc, khi thời giờ đă điểm. Thật vậy, những dấu hiệu về sự lâm phàm của Ngài vẫn đến dồn dập hằng ngày, và ai dám nói rằng Hội Thông Thiên Học chúng ta, bà A.Besant đạo sư Vivekananda, Dharmapala, và những vị khác nữa, há không phải là những bậc tiền phong đem điềm triệu báo trước cái ngày chờ đợi từ lâu, khi mà sự khát khao tâm linh lại sẽ sống động trong ḷng mọi người, và trào lưu duy vật chỉ c̣n là một điều lỗi thời của cái dĩ văng hắc ám?

        Lẽ tự nhiên, trong cái hoàn cảnh xă hội và t́nh trạng tâm lư của thời bấy giờ, sự việc diễn biến nói trên đây đă gây một ấn tượng mạnh mẽ sâu xa. B́nh phẩm bài diễn văn của tôi, nhật báo “Indian Spectator” viết:

        “Chưa bao giờ có một sứ mạng nào lớn lao hơn. Thiết tưởng ngưới Ấn Độ hăy nên kết hợp với nhau lại trong một lư tưởng chung. Người Ấn Giáo, Hỏa Giáo, Hồi Giáo, Gia Tô Giáo hăy quên đi những sự dị đồng của họ, rồi cái ngày phục hưng xứ Ấn Độ sẽ không c̣n bao lâu nữa”.

        Nhật báo “Amrita Bazaar Patrika” ra ngày 8 tháng 5 năm 1879 nói rằng “mục tiêu của chúng tôi là cái mục tiêu vĩ đại nhất mà con người đă từng theo đuổi từ trước đến nay”.

Chương Bốn

BIỆT THỰ HOA HƯỜNG

       Kể từ ngày 29 tháng 3 năm 1879 trở đi, đă xảy ra một loạt những sự việc dị kỳ mà nhân chứng quan trọng là bạn Mulji Thackersey không kể bà HPB. Ngày đó, bà HPB bảo Mulji kêu một cỗ xe ngựa, và cùng với y lên ngồi trên xe. Bà không trả lời khi y hỏi bà đi đâu, mà chỉ bảo y nói với người phu xe hăy quẹo bên mặt, hay bên trái, hoặc đi thẳng luôn, theo lịnh truyền của bà. Những ǵ đă xảy ra, Mulji đă thuật lại cho chúng tôi nghe khi y trở về nhà chiều hôm đó.

        Bà HPB đă chỉ đường cho xe chạy xuyên qua rất nhiều ngơ ngách, quanh co cho đến khi ra đến ngoại ô thành phố Bombay cách đó độ tám đến mười dặm, vào một rừng thông rậm rạp, ở khu vực Parel. Mulji biết rơ vùng nầy v́ y đă hỏa táng xác chết của mẹ y ở vùng lân cận. Trong rừng thông có nhiều đường ṃn xuyên nhau qua lại chằng chịt,nhưng bà HPB không hề lạc đường, và chỉ bảo tên đánh xe đi quanh đi quẹo một hồi lâu cho đến khi ra tới vùng bờ biển. Sau cùng, Mulji vô cùng ngạc nhiên mà thấy xe đưa họ vào cổng một khuôn viên rộng lớn, với một vườn hoa hường ở phía mặt, và một biệt thự nguy nga với những hành lang rộng răi theo kiểu kiến trúc Đông Phương.

        Bà HPB xuống xe, bảo mulji hăy đợi bà ở đó, và không được vào nhà bất cứ v́ lư do ǵ nếu muốn được an toàn tính mạng. Thế là y ngồi đợi trên xe trong một trạng thái băn khoăn khó hiểu, v́ cái dinh cơ nầy, vốn là người đă từng sống cả đời ở tỉnh Bombay, y chưa từng nghe nói đến bao giờ. Y gọi một trong những người làm vườn đang trồng hoa, nhưng người nầy không nói ǵ cả về tên họ, tung tích của chủ y, người đă ở đó từ bao giờ, hoặc ngôi nhà đă được xây cất từ hồi nào: đó là một điều rất bất thường giữa những người Ấn Độ với nhau.

        Bà HPB đi thẳng đến ngôi nhà, được một người Ấn Độ h́nh dung cao lớn, mặc áo rộng trắng, với một phong cách sang cả tôn quư khác thường, ân cần tiếp đón bà ở ngoài cửa và hai người cùng đi vào nhà. Sau độ một lát, hai người lại bước ra cửa, người lạ mặt bí mật kia chào từ giă, và trao cho bà một bó hoa hường lớn mà một người làm vườn vừa đem vào cho chủ y. Bà HPB trở lại chỗ cũ, bước lên xe và bảo người đánh xe trở về nhà.

        Tất cả những ǵ mà Mulji được biết do bà HPB nói lại có thể tóm tắt như sau: Người lạ mặt là một nhà Huyền Học mà bà có liên hệ trực tiếp và có việc phải thương lượng với người vào ngày đó. C̣n bó hoa hường, th́ người ấy gởi cho tôi và nhờ bà trao lại. Phần lạ lùng nhất trong câu chuyện nầy là theo chỗ chúng tôi biết, th́ bà HPB không thể nào biết ǵ về vùng ngoại ô nầy và con đường đưa đến đó, dù sao kể từ khi chúng tôi đến Bombay, v́ bà không hề rời khỏi nhà một ḿnh, nhưng bà lại tỏ ra hoàn toàn quen thuộc đường xá lẫn cả vùng nầy.

        Ngôi biệt thự kia có thật hay không, chúng tôi không thể biết được trừ phi tin theo lời tường thuật của Mulji. Y rất ngạc nhiên về việc nầy đến nỗi y đă thuật lại câu chuyện cho các bạn y trong thành phố nghe. Việc ấy làm cho một người đă từng quen thuộc với vùng ngoại ô nầy bỏ ra một trăm Ru bi để đánh cuộc rằng không bao giờ có một biệt thự nào như thế ở gần bờ biển, và Mulji không thể hướng dẫn bất cứ người nào đến đó.

        Khi bà HPB nghe câu chuyện đó, bà cảnh cáo Mulji rằng chắc chắn y sẽ thua cuộc; c̣n Mulji tuyên bố rằng y có thể trở lại, bởi y thuộc từng tấc đất trên lộ tŕnh đă đi qua, và chấp nhận cuộc thách đố. Tôi bèn cho gọi một cỗ xe ngay lập tức, và cả ba chúng tôi cùng lên xe đi. Do một người Ấn khác làm thông ngôn, tôi bảo người phu xe hăy tuân theo chỉ thị của Mulji về lộ tŕnh sẽ đi qua và thế là chúng tôi khởi hành.

        Sau một cuộc hành tŕnh kéo dài chuyên qua nhiều ngơ ngách quanh co, chúng tôi lại đến khu rừng thông như lần trước, là nơi tọa lạc của ngôi nhà bí mật kia. Những đường lộ trong khu rừng quanh co chằng chịt, tôi mới bảo Mulji hăy cẩn thận nhắm hướng thật kỹ kẻo đi lạc đường. Tuy nhiên, y vẫn rất tự tin như bao giờ, mặc dù bà HPB phóng đến y những lời chế diễu về t́nh trạng mê hoặc của y và việc y chắc chắn sẽ thua cuộc mất một trăm Ru bi.

        Cỗ xe chúng tôi vẫn tiếp tục dong ruổi độ trên một tiếng đồng hồ, quanh bên nọ, quẹo bên kia, có khi ngừng lại để cho y bước xuống xe và nhắm hướng. Sau cùng, và chỉ độ một hai phút sau y tuyên bố hoàn toàn chắc chắn rằng chúng tôi đang trực chỉ đến ngôi biệt thự trên bờ biển, th́ ơ ḱa! Lạ thay! Một chuyến xe lửa chạy đến ầm ầm trên một con lộ gần bên, và cho Mulji thấy rằng y đă hướng dẫn chúng tôi theo một phương hướng ngược chiều với mục tiêu phải đi tới.

        Chúng tôi đề nghị dành cho y nhiều thời giờ tùy nghi xử dụng để theo đưởi sự t́m kiếm ngôi nhà bí mật, nhưng y cảm thấy hoàn toàn lạc hướng và rối loạn tinh thần, rồi chịu thua và bỏ cuộc. Thế là chúng tôi đành quày xe trở về nhà.

        Bà HPB nói cho chúng tôi biết rằng Mulji đă có thể t́m thấy ngôi nhà bí mật nếu y không bị một bức màn ảo giác làm che lấp nhỡn quang của y. Ngôi biệt thự nầy, cũng như tất cả những nơi cư trú khác của các vị Chân Sư, luôn luôn được bảo vệ chống lại sự đột nhập của người đời bằng một ṿng đai ảo giác bao phủ chung quanh và được ǵn giữ, canh pḥng cẩn mật bởi những vị thần linh khuất mặt. Ngôi nhà đặc biệt nầy được đặt dưới sự chăm sóc thường xuyên của một người tin cẩn, và được dùng làm nơi tạm trú, hội họp của các Chân Sư và đệ tử trong khi di chuyển, lưu động.

        Bà nói rằng tất cả những thư viện cổ xưa chôn dưới ḷng đất, và những kho tàng châu báu của cải c̣n chôn dấu kín cho đến khi nào Nghiệp Quả cho phép khai quật lên để sử dụng, đều được bảo vệ chống lại sự khám phá của kẻ thế nhân phàm tục.

        Có những bức màn ảo ảnh được tạo ra dưới h́nh thức những núi dựng như vách, mặt đất cứng rắn, hố sâu vức thẳm, hoặc những chướng ngại vật tương tự, để đánh lạc hướng những kẻ t́m ṭi, những bức màn Ảo Giác đó sẽ biến tan khi người đó có duyên phần thụ hưởng được d́u dắt đến tận nơi vào lúc thời giờ đă điểm.

        Dù sao, tôi chỉ kể lại chuyện nầy một cách vô tư, như tôi vẫn giữ thái độ đó trong mọi trường hợp mà tôi không chứng kiến tận mắt. Tôi chỉ nói như một người kể chuyện, và để cho độc giả tự nhận xét, dù họ tin hay không tin, việc ấy cũng không can dự ǵ đến tôi.

        Nếu tôi được yêu cầu cho biết ư kiến, th́ tôi phải nói rằng theo ư tôi, câu chuyện ngôi nhà bí mật có thể đúng, bởi v́ như đă nói trước đây, chúng tôi đă từng được nhiều vị Chân Sư đến thăm tại nhà ở đường Girgaum trong thể xác của các Ngài. Và một đêm trăng sáng, bạn Damodar và tôi cùng với bà HPB đang đi trên đường đưa đến ngôi nhà ẩn dấu, th́ thấy một vị tiến đến gần và hỏi thăm chúng tôi, chỉ cách nhau có một tầm tay. Những chi tiết của chuyện này không cần phải nêu ra đây v́ tôi c̣n nhiều chuyện khác phải kể tiếp.

II

          Bây giờ chúng tôi xin kể theo thứ tự thời gian một câu chuyện du hành lư thú độc đáo, mà những sự việc diễn biến đă được bà HPB khai triển thêm một cách cô cùng phong phú trong quyển “Động thẳm rừng già của Ấn Độ”. Chuyện nầy vẫn in sâu trong kư ức của tôi như một kỷ niệm đáng kể nhất và thích thú nhất trong những mối liên hệ của tôi với bà HPB.

        Ngày 4 tháng 4 năm 1879, bạn Mulji và tôi rời khỏi Bombay bằng xe lửa trong một chuyến du hành đến những hang động Karli. Đứa tớ trai Babula cùng đi với chúng tôi. Đến ga Narel, chúng tôi xuống xe và dùng kiệu vượt lên đồi đến Matheran, là trung tâm bồi dưỡng của Sở Y Tế thành phố Bombay.

        Tôi được cho biết rằng chúng tôi đến động Karli do lời mời của một vị Chân Sư mà tôi đă có liên hệ mật thiết ở mỹ trong thời gian soạn bộ sách “Vén màn Isis”, và những đồ vật thực cần thiết cho sự tiện nghi của chúng tôi khi đi đường đă được Ngài ra lịnh cung ứng cho chúng tôi đầy đủ.

        Bởi vậy, tôi không ngạc nhiên chút nào mà gặp tại ga Narel một người hầu Ấn Độ loại trung lưu, tức là không phải người đầy tớ hạ cấp, người này tiến tới và sau khi đă vái chào, liền đưa ra một thông điệp bằng thổ ngữ Marathi, mà bạn Mulji dịch lại như là những lới chào mừng của chủ y, và yêu cầu chúng tôi hăy tùy ư chọn cách đi kiệu hay đi ngựa để lên núi, v́ cả hai loại phương tiện nầy đề sẵn sàng.

        Bà HPB và tôi chọn đi kiệu, c̣n Mulji và Babula chọn đi ngựa. Thế rồi chúng tôi lên đường trong đêm trăng sáng rỡ như ban ngày, mỗi chiếc kiệu có mười hai người phu khiêng vác trung b́nh, vạm vỡ mạnh khỏe, nước da sậm, thuộc giống thổ dân Thakur, vừa đi lên dốc với những bước chân vững chắc, vừa hát theo một điệu nhạc b́nh dân nghe êm tai để giữ nhịp bước cho nhanh.

        Đó là một đêm của vùng nhiệt đới nó làm cho cuộc hành tŕnh của tôi có đầy những nét thi vị với một nền trời đầy sao chói sáng rực trước khi trăng lên, tiếng kêu của loài sâu bọ ở khắp nơi trong rừng già, những loài chim bay đêm gọi đáp lẫn nhau, những loài dơi lớn bay lượn âm thầm không một tiếng động, tiếng lá dừa xào xạc trước gió, cùng hương thơm của hoa rừng tỏa ra một mùi vị ấm áp, cay nồng với tiếng hát lạ tai của những phu khiêng kiệu để giữ nhịp với những bước chân đi mau của họ.

        Sáng ngày hôm sau, chúng tôi lên xe lửa đi Khandalla, một thị trấn có khí hậu mát mẻ trên vùng núi. Tại đây, người hầu đă phục dịch chúng tôi ở Narel lại tiếp đón chúng tôi với một chiếc xe ḅ rộng răi để đưa chúng tôi đến nhà lữ quán của chính phủ, tại đây chúng tôi nghỉ ngơi suốt một ngày và đêm hôm sau.

        Chiều hôm chúng tôi đến, bạn Mulji đi dạo chơi đến ga xe lửa để nói chuyện với người xếp ga vốn là một người quen cũ, và gặp một việc lạ lùng làm y rất ngạc nhiên. Một chuyến xe lửa đến từ Bombay và ngừng lại bến ga, khi đó y nghe có người gọi tên y rất lớn từ trong xe.

        Nh́n từ toa xe nầy đến toa xe khác, y thấy một người Ấn Độ vẫy tay gọi y và y bước đến gần cửa sổ của toa xe ấy. Th́ ra người lạ mặt là nhân vật kỳ bí mà bà HPB đă đến viếng thăm tại ngôi nhà bí mật! Người ấy trao cho y một bó hoa tươi, dường như cùng một loại hoa hường mà y đă thấy trong vườn hoa của biệt thự trên bờ biển, và là thứ hoa đẹp nhất mà y đă từng thấy. Người lạ mặt nói trong khi đoàn xe bắt đầu chuyển bánh:

        -Anh hăy trao bó hoa nầy lại cho Đại Tá Olcott và nói là của tôi tặng.

        Thế rồi Mulji đưa bó hoa cho tôi và kể lại đầu đuôi câu chuyện.

        Một giờ sau đó, tôi nói với bà HPB rằng tôi muốn gởi lời cám ơn vị Chân Sư về hảo ư của Ngài đối với bọn chúng tôi, và nếu bà có thể trao thơ của tôi đến tay Ngài, th́ tôi sẽ viết. Bà bằng ḷng,  thế là tôi viết một thông điệp ngắn rồi đưa cho bà. Bà đưa cho Mulji và yêu cầu y hăy đi thẳng trên đường lộ ở trước mặt và giao bức thơ ấy. Mulji hỏi:

        -Nhưng tôi phải trao thơ cho ai, và ở đâu: v́ không thấy có tên và địa chỉ người nhận ở ngoài bao thơ?

        Không hề ǵ, anh hăy cầm lấy, rồi anh sẽ biết phải giao cho ai.

        Y làm theo lời dặn và thẳng tiến trên đường lộ, nhưng sau đó mười phút, y chạy trở về không kịp thở và lộ vẻ rất ngạc nhiên, y nói qua hơi thở đứt đoạn:

        -Thơ đi rồi.

        -Sao? Anh nói ǵ?.

        -Cái thơ, người ấy lấy rồi.

        Tôi hỏi:

        -Ai lấy thơ ấy?

        -Người ấy là ai?.

        -Thưa Đại Tá, tôi không biết, nếu đó không phải là ma quỷ hiện h́nh: người ấy có thể từ dưới ḷng đất chui lên, tôi có cảm tưởng gần như vậy. Tôi đang từ từ tiến bước, nh́n bên mặt bên trái, và không biết phải làm ǵ để thi hành ư muốn của bà HPB. Chung quanh tôi không có một bóng cây hay bụi rậm để có thể ẩn núp, mà chỉ có con lộ bụi bặm và trắng xóa. Th́nh ĺnh, xuất hiện ngay trước mặt tôi một người chỉ cách đó có vài thước, cơ hồ như người từ dưới đất chui lên, và tiến về phía tôi. Đó là người ở ngôi biệt thự có hoa hường, người đă đưa cho tôi bó hoa để tặng ông ở ga Khandalla, mà tôi đă nh́n thấy trên chuyến xe lửa đi Poona!

        Tôi đáp:

        -Vô lư, anh đă mơ hoảng rồi đấy!

        -Không đâu, tôi vẫn tỉnh táo như thường. Người ấy nói: “Anh định đưa thơ cho tôi phải không, cái thơ anh cầm nơi tay?” Tôi ngạc nhiên và nói: “Thưa Ngài, tôi cũng không biết, v́ thơ không có địa chỉ”. “Thơ ấy của tôi, anh đưa đây”. Ông ấy lấy thơ trên tay tôi và nói: “Bây giờ, anh hăy về đi”. Tôi quay lưng đi vừa độ một lát và day lại nh́n xem th́ ông ta đă biến mất: đường lộ chỉ c̣n trống trơn! Tôi sợ quá, quay lại chạy về, nhưng vừa chạy được chừng năm mươi thước th́ nghe một giọng nói bên tai tôi: “Đừng có làm thằng điên, hăy b́nh tĩnh một chút; mọi sự đều tốt lành”. Điều nầy lại càng làm cho tôi sợ hơn nữa, v́ chung quanh tôi không có một người nào. Tôi lại chạy, và về đến đây.

        Đó là câu chuyện tường thuật của Mulji và tôi lặp lại trung thực những lời y đă nói với tôi. Nếu có thể tin ở bề ngoài, thí chắc chắn y đă nói sự thật, v́ cơn sợ hăi và xúc động của y thật quá rơ rệt để có thể nói là giả vờ bởi một kịch sĩ vụng về như y.

        Dù sao, một điều yêu cầu chứa đựng trong bức thông điệp của tôi đă được Chân Sư trả lời trong một bức thơ của Ngài, mà sau đó tôi đă nhận được tại lữ quán ở Bhurtpore, tỉnh Rajputana cách chỗ Mulji gặp người lạ mặt trên một ngàn dặm đường. Và đó là một sự kiện đáng kể.

Chương năm

VIẾNG ĐỘNG KARLI

I

       Đó là một đêm trăng sáng, chúng tôi ba người cùng ngồi thưởng thức trăng trên sân cỏ trước nhà cho đến khuya, và đặt kế hoạch đi du ngoạn hang động Karli vào ngày hôm sau.

        Tối hôm đó, bà HPB ngồi nhập định độ năm phút, và sau đó khi xả thiền bà nói với tôi rằng đúng năm giờ chiều mai, sẽ có một vị tăng lữ Bà La Môn đến gặp chúng tôi trong hang.

        Bốn giờ sáng hôm sau, Baburao, người thừa sai của Chân Sư, rón rén bước vào pḥng ngủ của tôi và Mulji, sẽ đánh thức tôi dậy, nhét vào tay tôi một cái hộp sơn mài nhỏ, h́nh tṛn, đựng một miếng trầu có têm vôi và gia vị gói ở trong, như người ta thường gói sẵn cho gọn để mời khách, và nói nhỏ vào tai tôi thánh danh của vị Chân Sư bảo trợ chúng tôi trong cuộc  đi chơi nầy. Ư nghĩa món quà nầy là: trong tổ chức Huyền Môn của chúng tôi, đó là dấu hiệu thâu nhận đệ tử mới.

        Chúng tôi trở dậy đi tắm, dùng cà phê sáng xong, đúng năm giờ lên xe ḅ đi Karli, và đến nơi vào lúc mười giờ. Vào giờ này, mặt trời đă lên cao, chúng tôi phải đi lên dốc một cách vất vả khó nhọc trên con đường ṃn từ dưới chân đồi dẫn lên các hang động trên núi. Bà HPB có vẻ mệt đừ và muốn đứt hơi đến nỗi, vài người phu phải đem lại một chiếc ghế bành và khiêng kiệu cho bà trên nửa đoạn đường dốc cuối cùng.

        Tôi không cần phải miêu tả ở đây ngôi đền vĩ đại khoét trong hang núi và những xà lim nhỏ vuông vức đục trong vách đá dùng làm chỗ ngủ của các tu sĩ khổ hạnh thời xưa, nó gây cho du khách một căm giác bàng hoàng ghê rợn về tính cách hùng vĩ của công tŕnh mỹ thuật độc đáo vô song nầy. Mỗi cuốn lịch chỉ nam đều có diễn tả hang động Karli với đầy đủ chi tiết.

        Mệt mỏi sau cuộc leo núi dưới ánh nắng mặt trời nóng bức, chúng tôi bước vào trong hang lớn, trải nệm và cắm trại luôn trên nền đá. Kế đó chúng tôi ăn trưa và đàm đạo với nhau về vấn đề thịnh vượng và suy vong của nền Minh Triết cổ truyền (Brahma Vidya) của Ấn Độ, và những triển vọng phục sinh của nó trong tương lai.

        Cuộc đàm thoại về những vấn đề cao siêu đó làm tiêu hao thời gian cho đến khi tôi nh́n đồng hồ th́ thấy chỉ c̣n có sáu phút nữa là đúng năm  ở ngoài cửa hang để ngồi đợi.

        Không có một tăng lữ khổ hạnh nào xuất hiện, nhưng sau độ mười phút, th́ thấy có một người tu sĩ đẩy tới trước một con ḅ cái có tật với một cái chân thứ năm ngắn ngủi mọc ra từ cái gù trên lưng. Có một người nô bộc đi theo y. Người tu sĩ có một gương mặt dịu dàng, khôi ngô, dễ mến. Y có một đầu tóc đen dợn sóng và xơa xuống tận vai, một bộ râu rậm chẻ hai ở dưới cằm theo kiểu dân Rajput, đuôi rau vắt lên hai bên mép tai và xoắn lại với tóc trên đầu. Y mặc bộ áo vàng của người tu sĩ xuất gia, trên cái vầng trán rộng biểu lộ sự thông minh, có bôi tro xám biểu hiệu chi phái thờ Thần Shiva.

        Chúng tôi để ư ḍ xét xem y có nhận ra chúng tôi không, nhưng thấy là không, sau cùng chúng tôi mới lên tiếng để bắt chuyện với y. Y nói rằng ngày hôm qua trong khi y đang tiến hành đi hành hương ở Hardwar, sư phụ y truyền lệnh cho y hăy đến đây ngày hôm nay lúc năm giờ chiều v́ có những người mà y cần gặp gỡ.

        Ngoài ra, y không có nhận thêm chỉ thị nào khác nữa. Nếu chúng tôi trông đợi y, th́ chúng tôi hẳn là những người mà sư phụ y muốn ám chỉ, nhưng y không có đem một thông điệp nào cho chúng tôi, hoặc ít nhất th́ cũng là chưa có.

        Sư phụ y không có đích thân nói chuyện với y, mà y nghe được lịnh truyền qua một giọng âm thanh, dường như nói vào lỗ tai. Điều nầy, chúng tôi biết được, sau khi đă chất vấn y bằng nhiều câu hỏi quanh co, và sau một cơn im lặng, trong khi đó y dường như lắng nghe giọng nói của một người khuất mặt. Đó là cái phương pháp mà y luôn luôn tiếp nhận chỉ thị trong khi đi đường. Thấy rằng không c̣n khai thác được y thêm điều ǵ nữa, chúng tôi tạm biệt y và trở lại với bà HPB.

        Chúng tôi quyết định ngủ đêm trên núi, và sau khi thông báo quyết định ấy cho Baburao, y và Mulji đi t́m một nơi cư trú thích hợp, và khi họ trở lại, chúng tôi di chuyển đồ hành trang đến một hang nhỏ dùng làm pḥng ngủ đục trong vách đá, ở một quăng cách ngôi đền khoét trong hang núi không xa.

        Những điêu khắc gia thời cổ đă thực hiện công tŕnh tạc một cổng vào hang động nầy với hai cây cột đá chạm trổ tinh vi, và bên trong động là mười căn pḥng nhỏ, với những hành lang đưa đến một pḥng vuông vức rộng lớn dùng làm nơi trung ương đại sảnh hay hội trường. Ở bên trái cổng vào là một bồn chứa nước đục trong đá, để tiếp nhận một thứ nước suối rất trong và mát lạnh.

        Bà HPB cho chúng tôi biết rằng từ một căn pḥng nhỏ trong hang, có một cửa bí mật giao thông với những hang động khác ở trung tâm quả núi, tại đây có một tập đoàn các bậc Siêu Nhân đang ẩn trú, mà người thế gian không hề biết được mảy may tung tích.

        Bà nói rằng nếu tôi có thể t́m thấy một bộ phận nào đó trên vách đá và biết đẩy nó theo một phương pháp nhất định, th́ không có ǵ ngăn trở tôi lọt vào bên trong cửa động bí mật. Đó là một sự tiết lộ rất hấp dẫn trong hoàn cảnh hiện tại! Tôi đă thăm ḍ, t́m kiếm rất lâu và trong một hang nhỏ khác cách đó không xa, tôi đă thử đặt tay tôi vào một chỗ nọ và sắp sửa đẩy mạnh vào một chút, th́ bà HPB bắt đầu gọi giật tôi lại một cách hối hả. Trong bức thơ của Chân Sư mà tôi nhận được ở Bhurtpore sau đó, Ngài cho tôi biết rằng lúc ấy tôi đă thật sự đặt tay vào đúng chỗ và đă có thể đột nhập quá sớm vào nơi ẩn trú của Ngài nếu tôi không bị gọi giật trở lại.

        Mulji và Babula đă cùng với Baburao đi xuống chợ trong làng để mua vật thực, c̣n HPB và tôi ở lại. Chúng tôi ngồi trước cổng hút thuốc và nói chuyện, một lát sau bà bảo tôi hăy ngồi yên một chỗ trong vài phút và đừng nh́n chung quanh cho đến khi bà lên tiếng. Kế đó, bà đi vào động, c̣n tôi vừa hút thuốc vừa ngắm xem cảnh vật rừng núi mênh mông ở dưới chân đồi.

        Th́nh ĺnh, từ phía trong hang vọng ra một tiếng động lớn giống như tiếng đóng sầm lại của một cánh cửa rất nặng, và một chuỗi cười dài ngạo nghễ nghe vang tai. Tự nhiên tôi day đầu lại, nhưng bà HPB đă biến mất. Bà không có mặt ở trong xà lim nào, mà tôi đă xem xét tỉ mỉ từng chi tiết. Tôi cũng quan sát cẩn thận những mặt đá trên tường, nhưng không thấy một chỗ rạn nứt nào hay một dấu hiệu ǵ tỏ rằng có một cánh cửa bí mật.

        Tôi đă từng trải qua nhiều kinh nghiệm huyền linh trong một thời gian lâu dài với bà HPB, nên tôi không thắc mắc nhiều về điều bí hiểm nầy, và trở lại ngồi chỗ cũ châm lửa hút thuốc, thản nhiên chờ đợi mọi diễn biến có thể xảy ra.

        Nửa giờ đă trôi qua kể từ lúc bà biến mất dạng, bỗng nghe có tiếng chân người ngay sau lưng tôi và giọng nói của bà HPB nói chuyện với tôi, một giọng nói rất tự nhiên dường như không có ǵ đă xảy ra một cách khác thường. Tôi mới hỏi rằng năy giờ bà đi đâu, th́ bà đáp rằng v́ bà có việc đạo sự cần bàn tính với Chân Sư X.,nên bà đă đến viếng Ngài tại nơi trú ẩn bí mật của Ngài.

        Có điều lạ là bà cầm nơi tay một ngọn đao đă rỉ sét, kiểu cổ xưa coi rất kỳ dị, mà bà nói bà đă lượm được trong một hành lang ẩn dấu, và bà đă đem theo tới đây. Bà không chịu để cho tôi giữ cây đao ấy, mà dùng toàn lực quăng nó ra xa với hết sức ḿnh, và tôi nh́n thấy nó rơi xuống một bụi rậm ở tận dưới chân đồi.

        Tôi không giải thích những sự việc đă xảy ra, để cho độc giả  tự t́m hiểu tùy khả năng của mỗi người. Tuy nhiên, để rào đón trước những cảm nghĩ của những người có ít nhiều thành kiến, tôi có thể nói rằng, ngoài chuyện cây đao rỉ sét, tất cả đều có thể giải thích bắng giả thuyết thôi miên.

        Tiếng động của cánh cửa đá đóng sầm lại và giọng cười vang dội kéo dài, sự tàng h́nh và th́nh ĺnh xuất hiện trở lại của bà HPB, tất cả đều có thể giải thích như những ảo giác do bà HPB dùng thuật thôi miên tác động trên giác quan của tôi. Bà có thể đă đi qua cái cổng hang ở ngay bên cạnh tôi, để đi đến một nơi nào đó, và trở lại ngay trước mắt tôi mà tôi không nh́n thấy bà. Đó là một cách giải thích, tuy rất bấp bênh mơ hồ, của người môn đệ sơ cơ như tôi đối với một người đă lăo luyện tinh thông về khoa Phương Thuật.

II

          Các người bạn Ấn Độ đi mua sắm vật thực đă trở về; chúng tôi được dọn cho ăn một bữa cơm tối nóng sốt trong hang, và sau đó ra ngắm cảnh đồi núi dưới ánh trăng. Đêm hôm đó chúng tôi trải nệm trên sàn đá và ngủ một cách ngon lành cho đến sáng. Baburao ngồi trước cổng hang và đốt lửa trại suốt đêm để ngăn ngừa sự đột nhập của loài thú dữ.

        Trong quyển “Động thẳm rừng già của Ấn Độ”, có đoạn bà diễn tả tôi bị rơi xuống vực thẳm và được người tu sĩ Ấn Độ có con ḅ năm chân cứu thoát, nhưng đó chỉ là chuyện giả tưởng. Cũng y như thế, những “tiếng gầm thét của chúa sơn lâm từ xa vọng lại dưới chân đồi; một con cọp lớn ŕnh chụp chúng tôi lúc nửa đêm, và bị đẩy xuống vực sâu do một quyền năng bí mật che chở chúng tôi,v.v…” đều là do óc tưởng tượng của bà để làm cho câu chuyện phiêu lưu du kư nầy thêm phần ly kỳ hấp dẫn đối với độc giả bên Nga.

        Sáng ngày hôm sau, Mulji và tôi thức dậy trước bà HPB, và sau khi chúng tôi đi tắm dưới suối, y đi xuống làng mua sắm đồ ăn trong ngày, c̣n tôi đứng trên đồi ngắm xem cảnh vật chung quanh dưới ánh nắng mặt trời ban mai. Sau một lúc, tôi lấy làm vui thích mà thấy người tu sĩ có con ḅ năm chân bước đến gần tôi và hiển nhiên là có ư muốn nói chuyện với tôi. Tôi c̣n do dự không biết phải làm sao, v́ bà HPB và tôi không ai biết nói tiếng thổ ngữ địa phương. Nhưng sự băn khoăn của tôi về vấn đề nầy đă được giải tỏa ngay, v́ y liền đến gần bên cạnh tôi, nắm lấy bàn tay tôi, bày tỏ ḷng thiện cảm đối với Hội Thông Thiên Học, và nói nhỏ vào tai tôi thánh danh của Chân Sư! Kế đó, y chào từ giă tôi một cách rất lịch sự, và lui bước. Chúng tôi không c̣n gặp y lần nào nữa.

        Suốt ngày hôm đó, chúng tôi đi thám hiểm các hang động, và đến bốn giờ ba mươi chiều, trở về nhà lữ quán Khandalla. Đang khi chúng tôi c̣n ở trong hang lớn, bà HPB chuyển đạt cho tôi một huấn lệnh của Chân Sư, mà bà nói là bà nhận được bằng thần giao cách cảm, Ngài dạy chúng tôi phải đi Rajputana, trong tỉnh Punjab.

        Sau buổi ăn tối, chúng tôi ra ngồi ngoài sân cỏ ngắm trăng. Hai bạn tôi vừa đi rảo bước vừa nói chuyện với nhau và đi ṿng ra phía sau nhà quán trọ, nhưng bỗng thấy Mulji hối hả trở lại, và trong cơn xúc động bàng hoàng, y nói rằng bà HPB đă biến mất dạng ngay trước mắt y trong khi y đang đứng nói chuyện với bà dưới ánh trăng.

        Y vừa nói vừa run cầm cập, dường như sắp sửa muốn phát chứng động kinh. Tôi bảo y ngồi xuống, hăy giữ b́nh tĩnh, và đừng có làm thằng điên, v́ đó chỉ là một tṛ thôi miên làm che lấp thị giác của y, cái tṛ ấy vốn tuyệt đối vô hại, như bất cứ một nhà thôi miên nào cũng có thể làm cho nó tác động trên một đối tượng nhậy cảm.

        Độ một lát, bà xuất hiện trở lại, ngồi lại chỗ cũ, và chúng tôi lại tiếp tục nói chuyện. Bỗng thấy có hai người Ấn Độ mặc sắc phục trắng đi qua sân cỏ cách chúng tôi độ năm mươi thước. Khi đến một chỗ đối diện với chúng tôi, họ ngừng lại và bà HPB bảo Mulji hăy đến nói chuyện với họ.

        Trong khi Mulji đang tiếp đón họ, bà HPB lặp lại cho tôi nghe những ǵ họ nói với nhau, và Mulji cũng đă tường thuật lại đúng y như vậy khi y trở lại một lúc sau đó. Đó là một thông điệp nhắn cho tôi biết rằng bức thơ của tôi gởi cho Chân Sư đă tới tay Ngài và được Ngài chấp thuận, và tôi sẽ được thơ trả lời khi tôi tới Rajputana.

        Trước khi Mulji nói dứt lời, tôi thấy hai người sứ giả ấy quay gót ra đi độ một quăng ngắn, đến sau một bụi rậm nhỏ không đủ che khuất một người mặc áo rộng trắng, nhất là dưới ánh trăng sáng tỏ như ban ngày, rồi biến mất dạng. Chung quanh bụi rậm là đồng cỏ trống trơn, nhưng cả hai người đều biến mất không c̣n dấu vết.

        Lẽ tự nhiên, phản ứng đầu tiên của tôi là chạy ngang qua sân cỏ và t́m kiếm đằng sau bụi rậm xem có dấu hiệu ǵ chỉ rằng có một đường hầm trú ẩn nào chăng, nhưng tuyệt nhiên không thấy có ǵ khả nghi: mặt đất vẫn trơn láng, bằng phẳng, không có hang lỗ, hầm hố hay vết tích đào xới nào. Tôi chỉ bị thôi miên mà thôi!

        Sáng hôm sau, chúng tôi lên xe lửa trở về Bombay, nhưng cuộc phiêu lưu của chúng tôi vẫn chưa chấm dứt. Baburao chào từ giă chúng tôi ở ga Khandalla sau khi đă từ chối không nhận tiền “trà nước” của tôi tặng, đó là một cử chỉ hy sinh hiếm có trong giới người thuộc giai cấp lao công Ấn Độ. Ba chúng tôi lên toa xe hạng nh́, c̣n Babula t́m được chỗ trong toa hạng ba. Sau một lát,Mulji ngả ḿnh nằm trên băng “cút xét” và ngủ luôn, c̣n bà HPB và tôi ngồi nói chuyện. Bà nói:

        -Ước ǵ Chân Sư đừng bảo tôi nhắn miệng cho ông bức thông điệp về việc đi Rajputana!

        -Tại sao?

        -Bởi v́ Wimbridge và cô Bates sẽ nghĩ đó là chuyện bịa đặt, để làm cho ông đưa tôi đi chơi một chuyến ngao du thích thú và để cho họ nằm không ở nhà một ḿnh.

        -Ồ! Không sao. Tôi chỉ tin nơi lời nói của bà là đủ.

        -Nhưng, họ sẽ nghĩ xấu về tôi v́ chuyện đó.

        Tôi nói:

        -Nếu vậy, th́ tốt hơn Ngài nên viết cho bà ít chữ, điều nầy Ngài có thể làm một cách dễ dàng. Nhưng bây giờ dù có hối tiếc th́ đă quá trễ.Chúng ta đă đi qua khỏi Khandalla độ mười lăm hay hai mươi dặm. Thôi hăy bỏ qua việc ấy.

        Bà ngẫm nghĩ trong vài phút rồi nói:

        -Dù sao, để tôi thử xem: vẫn chưa phải là quá trễ.

        Kế đó bà viết vài chữ trên một trang giấy trong cuốn sổ tay bỏ túi của bà bằng hai thứ chữ, nửa trang trên viết bằng chữ cổ tự Senzar, là thứ ngôn ngữ đặc biệt của bà dùng để giao dịch thư từ với các Chân Sư, c̣n nửa trang dưới viết bằng tiếng Anh, mà bà để cho tôi đọc. Bức thông điệp ấy viết như sau:

        “Yêu cầu Sư Phụ Gulab Singh điện tín cho Olcott những huấn lệnh do đạo nữ truyền cho ông ấy ở động đá ngày hôm qua. Đó sẽ là một thử thách cho những người khác cũng như cho chính ông”.

        Bà tách rời trang giấy, xếp lại thành h́nh tam giác, dùng ngón tay vẽ nguệch ngoạc trên đó vài dấu hiệu dị kỳ(mà bà nói là có tác dụng kiểm chế các loại Tinh Linh), bà cầm nó trên đầu các ngón tay của bàn tay trái, dường như sắp sửa ném ra ngoài cửa sổ. Tuy nhiên, tôi giữ tay bà lại và nói:

        -Bà muốn đây là một thử thách cho tôi chăng? Vậy bà hăy để tôi mở ra xem lại.

        Bà bằng ḷng, tôi nh́n lại bên trong tờ giấy, trả nó lại cho bà, và theo lời bà dặn, theo dơi tờ giấy khi bà quăng nó ra ngoài toa xe lửa. Tờ giấy bị gió cuốn hút đi, xoay ṿng theo chiều gió và bay đến một cái cây trơ trọi gần bên đường sắt. Lúc ấy chúng tôi đang ở trên đỉnh của dăy núi Ghats, độ một ngàn thước chiều cao, chung quanh không có nhà cửa xóm làng chi cả, mà chỉ có vài cây trơ trọi lẻ tẻ bên cạnh đường xe lửa.

        Trước khi tôi để cho bà quăng tờ giấy ra ngoài cửa sổ, tôi đă đánh thức Mulji, nói cho y biết sự việc ấy, cùng với y xem giờ trên đồng hồ, và y cùng tôi đồng kư tên trên một bổn chứng thư trong quyển sổ tay của tôi, mà hiện giờ tôi đang có ngay trước mặt, và nhờ đó tôi đă nhớ lại từng chi tiết của sự việc đă xảy ra. Bản chứng thư ấy có ghi những chi tiết về địa điểm và ngày tháng như sau:

        “Ga Kurjit, ngày 8 tháng 4, năm 1879, lúc 12 giờ 24 phút” và có nhân chứng Mulji Thackersey kư tên.

        Đến ga Kurjit, Mulji và tôi muốn xuống ga đi bách bộ một lát để cho giăn gân cốt, nhưng bà HPB bảo chúng tôi đừng rời khỏi toa xe cho đến khi xe đến Bombay: bà đă được lệnh và chúng tôi sẽ hiểu sự việc ấy vào đúng lúc. Thế là chúng tôi cũng ở lại trên toa xe với bà.

        Đoàn xe lửa đến nơi đúng giờ quy định, tôi liền đi ra phố có việc, và vắng mặt độ một giờ. Khi về đến nhà, cô Bates đón tôi trước cửa và đưa cho tôi một bức điện tín đựng trong phong b́ có đóng khằng do nhân viên Sở Bưu Điện đưa đến, và cô đă kư nhận thay tôi. Bức điện tín ấy đọc như sau:

        Thời điểm: 2 giờ chiều. Ngày 8-4-1879

        Từ ga Kurjit đến ga Byculla.

        Gulab Singh gửi Đại Tá H.S. Olcott

        Đă nhận được thơ. Sẽ trả lời tại Rajputana. Hăy lên đường ngay lập tức.”

        Như đă nói ở trên, tôi coi sự việc nấy như một trong những chân thật nhất và không thể lầm lẫn mà tôi đă từng có về những mối tương quan huyền diệu của bà HPB với các đấng Chân Sư cao cả.

        Khi đến Bhurtpore trong chuyến đi Rajputana sau đó, một đêm nọ bà HPB và tôi đang ngồi ở ngoài hành lang của quán trọ, th́ thấy một người Ấn cao niên mặc áo rộng trắng bước đến gần, chào theo phong tục bổn xứ, rồi đưa cho tôi một phong thư và lẳng lặng bước đi ngay. Tôi mở thơ ra xem, th́ ra đó là thơ trả lời bức thông điệp của tôi gửi cho Sư Phụ Gulab Singh tại Khandalla, mà Ngài đă báo trước cho tôi biết trong bức điện tín gởi từ Kurjit, rắng tôi sẽ nhận được khi tôi đến Rajputana.

        Đó là một bức thơ chứa đựng những lời khuyên ưu ái đầy thiện cảm, và quan trọng nhất đối với tôi, v́ trong đó Ngài dạy tôi rằng con đường tốt nhất và đảm bảo nhất để t́m Chân Sư là con đường hoạt động trung kiên v́ mục đích phụng sự nhân loại xuyên qua Hội Thông Thiên Học. Con đường đó, tôi vẫn theo đuổi tận tụy đến cùng, và bức thơ của Ngài là một ân huệ và là nguồn an ủi thường xuyên đối với tôi trong những cơn khó khăn, gian lao nghịch cảnh.

Chương Sáu

MỘT CHUYẾN ĐI LÊN MIỀN BẮC

       Trong chuyến đi lên miền Bắc, chúng tôi có dịp đến bờ sông Jumna để viếng thăm một nhà tu khổ hạnh tên Babu Surdass, một đệ tử của Đạo Sư Nanak. Người ấy đă thể hiện đến một tŕnh độ tuyệt luân những khả năng làm chủ thể xác với một ư chí kiên cường không hề lay chuyển.

        Kể từ năm 1827, tức là trong năm mươi hai năm trường, y đă ngồi yên một chỗ trong tư thế tọa thiền trên một cái bệ đá ở gần pháo đài, trên đầu không một mái che, bất chấp mọi sự thay đổi thời tiết, nóng, lạnh, mưa gió, và giông tố, băo bùng. Y vẫn ngồi nhập định như thế trải qua suốt thời kỳ nội chiến, do quân bổn xứ nổi loạn chống giai cấp thống trị người Anh, không màng chú ư đến những tiếng nổ kinh hồn của những khẩu thần công đại bác, hay những trận giao phong đẫm máu diễn ra khắp nơi ở các vùng chung quanh: những tiếng động ồn ào náo loạn của chiến tranh vẫn không thể xâm nhập vào cơi giới thiền định thâm sâu mà trong đó y đă chôn vùi suốt cả cuộc đời.

        Ngày chúng tôi đến viếng là một ngày nóng như thiêu đốt, ngôi mặt trời cháy rực như lửa than hồng, người tu sĩ vẫn để đầu trần nhưng dường như không cảm thấy ǵ là khó chịu. Y vẫn ngồi yên bất động suốt ngày và suốt đêm ở một chỗ ấy, trừ ra vào lúc nửa đêm, khi ấy y mới đứng dậy và đi đến chỗ gặp nhau giữa hai con sông Hằng và sông Jumna để tắm rửa và cầu nguyện. Những nỗi gian lao khổ nhọc của phép tu khổ hạnh ấy đă làm cho y trở nên mù cả hai mắt, và phải có người dắt y đi đến bờ sông, tuy nhiên gương mặt y toát ra một niềm an lạc tuyệt vời, với một nụ cười dịu dàng và chân thật.

        Do Mulji làm thông ngôn, chúng tôi nói chuyện với nhà tu sĩ già. Người cho chúng tôi biết rằng người đă có một trăm tuổi, điều nầy có thật hay không cũng không quan hệ ǵ, nhưng c̣n thời gian mà người đă trải qua trên bực đá, vốn là một vấn đề lịch sử. Trường hợp của người tu sĩ nầy quả thật là ly kỳ độc đáo, xét theo tiêu chuẩn đời sống của xă hôi phương Tây: làm sao y có thể ngồi yên bất động, trong sự tham thiền quán tưởng trải qua một nửa thế kỷ giữa những dục vọng, đam mê và náo loạn của loài người luôn luôn xuẩn động ồ ạt ở xung quanh, nhưng hoàn toàn bất lực không có ảnh hưởng ǵ đến y, dù tốt hay xấu, cũng ví như những đợt sóng cồn gầm thét lăn xả vào một ghềnh đá trên bờ biển nhưng tuyệt nhiên không thể làm rung chuyển cái nền tảng vững chắc của nó.

        Câu chuyện của y cũng có hàm xúc vài nét thi vị, chẳng hạn như khi y nói rằng bậc hiền giả nhận định và nắm vững những điểm Chân Lư cũng giống như con ṣ hấp thụ một giọt nước mưa để chuyển hóa nó thành một hạt trân châu. Y vẫn điềm nhiên khi tôi nói cho y biết sự thật về vấn đề cấu tạo nên hạt trân châu, nhưng y nói rằng khoa học nói sai, và vẫn giữ lập trường của ḿnh. Trích dẫn lời dạy quen thuộc trong các Thánh Kinh Ấn Độ, y nhắc nhở chúng tôi rằng chỉ khi nào tâm hồn yên tịnh, thần trí vắng lặng hư không, người ta mới có thể nhận thấy Chân Lư, cũng ví như h́nh ảnh của Mặt Trời chỉ có thể thấy được trên mặt nước phẳng lặng êm đềm.

        C̣n nói về những tai biến, hoạn nạn nghịch cảnh trong đời người, th́ kinh nghiệm về những điều đó làm thức động cái phần tinh anh tế nhị của linh hồn, cũng ví như chất dầu thơm chỉ có được bằng cách nghiền nát và chế biến những cánh hoa tươi.

        Khi được hỏi rằng y có thể biểu diễn phép thuật thần thông chăng cho chúng tôi xem, th́ y day cặp mắt trống rỗng không c̣n thị giác của y  lại người hỏi, và đáp rằng người hiền giả không bao giờ tách rời tâm trí của ḿnh ra ngoài đường Đạo và để cho bị lôi cuốn bởi những tṛ chơi đó của những kẻ ngu dốt.

        Khi ở trong tâm trạng thích nghi, y có khả năng nh́n thấu suốt dĩ văng và tương lai, nhưng y từ chối không chịu cho chúng tôi thấy bằng chứng cụ thể về năng khiếu thần nhăn của y.Kể từ khi đó về sau, mỗi khi có dịp trở lại Allahabad, tôi đều đến thăm viếng nhà tu khổ hạnh nầy, nhưng trong lần vừa qua, tôi nghe nói rằng y đă từ trần. Thật là một điều lư thú nhất nếu người ta được biết cuộc đời trường kỳ khổ hạnh của y đă ảnh hưởng tới mức độ nào đến t́nh trạng tâm thức của y bên kia cửa Tử.

        Từ đó, chúng tôi tiếp tục chuyến đi đến Kanpur, tại đây chúng tôi gặp người bạn mới là hai anh em ông Ross Scott và Walter Scott, người anh là một kỹ sư làm việc trong chính phủ. Sáng ngày hôm sau, chúng tôi đến viếng một tu sĩ khổ hạnh khác, người nầy đă từng sống trên bờ sông Hằng độ chừng một năm. Y có một gương mặt với những nét thanh tú, biểu lộ một đời sống tinh thần dồi dào, một thân ḿnh gầy ốm, và một phong độ hoàn toàn thản nhiên đối với những sự vật trần gian. Người nầy cũng từ chối không biểu diễn cho chúng tôi xem những hiện tượng thần thông, với một vẻ mặt dường như khinh bỉ. Thật hiển nhiên là những tu sĩ Ấn Độ nầy có một lập trường khác hẳn với quan niệm của người Tây Phương, và khinh thường những phép thuật nhiệm mầu nhất của những đồng tử giỏi nhất của chúng ta. Dù sao, đó là cảm nghĩ của tôi.

        Tuy nhiên, y nói cho chúng tôi nghe chuyện một nhà tu khổ hạnh khác tên là Jungli Shah, ông nầy đă nhiều lần làm phép lạ theo kiểu “Bánh ḿ và cá” nói trong Kinh Thánh, bằng cách làm gia tăng số lượng thực phẩm của một người đến mức có thể làm cho hàng trăm người ăn được một bữa no nê.

        Kể từ khi dó, tôi đă nhiều lần nghe nói có những tu sĩ Ấn Độ khác cũng đă làm những phép lạ tương tự. Những nhà phương sĩ lăo luyện đều nói rằng thật là một điều tương đối dễ dàng mà làm tăng số lượng một vật giản dị đơn thuần, chẳng hạn như hột gạo, một trái cây, một ly nước lạnh v.v… điều kiện cần thiết là phải có một trung tâm hạt nhân để cho hành giả có thể quy tựu chung quanh nó chất liệu của không gian.

        Nhưng tôi muốn biết phải chăng sự gia tăng số lượng thực phẩm đó chỉ là những ảo giác, và nếu không phải như vậy, th́ những ngưới ăn những thực phẩm mầu nhiệm ấy có được bổ dưỡng hay không?

        Tôi c̣n nhớ giáo sư Berheim đă cho tôi thấy rằng bằng phương pháp thôi miên, ông có thể làm cho một đối tượng trong một lúc cảm thấy bụng no tràn đầy thức ăn, và một lúc sau đó y cảm thấy bao tử trống rỗng và đói kinh khủng. Người tu sĩ trẻ nói trên cũng cho biết rằng nhà đạo sĩ Lukhi Bawa và một tu sĩ khổ hạnh khác có quyền năng làm cho nước biến thành sữa.

        Lúc ba giờ chiều hôm ấy, chúng tôi cưỡi voi đi viếng Jajmow, một thành phố cổ hoang tàn ở cách Kanpur bốn dặm, tương truyền rằng đó là kinh đô của chủng tộc Thái Âm(Lunar Race) hồi thời kỳ năm ngàn năm trăm trước Công Nguyên. Mục đích chuyến đi nầy là viếng thăm nhà Đạo Sĩ Lukhi Bawa đă nói ở trên. Chúng tôi nhận thấy nhà Đạo Sĩ nầy có một tác phong khả kính, y là một triết gia và một nhà chiêm tinh lỗi lạc. Một lần nữa, chúng tôi cũng lại bị từ chối sự biểu diễn phép thuật thần thông, khi chúng tôi bày tỏ ư muốn được xem y thi thố quyền năng nhiệm mầu. Đại khái, đó là khía cạnh nghiêm chỉnh của chuyến đi nầy, nhưng ngoài ra nó cũng có một khía cạnh trào lộng rất buồn cười của nó.

        Con voi của chúng tôi cưỡi có cái tên rất thi vị là Chenchal Peri, có nghĩa là “Tiên Nữ Linh Động”. Trên lưng nó không có bành để ngồi dựa lưng cho thoải mái, mà chỉ có đặt một tấm nệm lớn và dầy, buộc chặt vào ḿnh voi bằng những sợi dây cói khổng lồ. Khi voi cất bước di chuyển, người cưỡi phải khéo léo giữ thăng bằng mới ngồi được yên, và tôi để cho những bạn bè quen thuộc với bà HPB hăy thử tưởng tượng việc ǵ xảy ra khi bà với bốn bạn đạo sơ cơ khác về môn cưỡi voi cùng chia sẻ với nhau khoảnh trống có giới hạn trên tấm nệm.

        V́ phép lịch sự, chúng tôi đỡ bà trèo cái thang ngắn lên ngồi trước, đương nhiên nghĩ rằng bà sẽ dành chỗ cho chúng tôi lên sau, nhưng bà lại không nghĩ như vậy:bà nghiễm nhiên chiếm trọn khoảnh giữa của tấm nệm, và không chịu nhích một phân để cho chúng tôi có cơ hội trèo lên.

        Bà c̣n phát ngôn mạnh mẽ và cứng cỏi khi chúng tôi nhắc nhở cho bà nhớ rằng bà không có độc quyền chiếm hữu trọn hết tấm nệm cho một ḿnh bà!

        Thế rồi, khi “Nàng Tiên Linh Động” bắt đầu đập hai cánh quạt trên lỗ tai và biểu lộ những cử chỉ sốt ruột khác nữa, v́ sự dằng co của chúng tôi, bọn chúng tôi bốn người, là: W.Scott, Mulji, Babula và tôi, đều lần lượt trèo lên và bám lấy bốn góc của tấm nệm, tùy sự xoay sở tháo vát của mỗi người.

        Bạn Walter Scott ngồi phía sau, và bỏ một chân tḥng xuống, nhưng con voi đầy hảo ư, ngoắt cái đuôi nó lên đỡ lấy bàn chân y và giúp y ngồi lại ngay ngắn cho được an toàn.

        Thế là chúng tôi khởi hành, bà HPB miệng ph́ phèo thuốc lá, vẻ mặt hân hoan cơ hồ như bà đă từng quen thuộc với bộ môn cưỡi voi từ thuở nhỏ. Nhưng chỉ độ vài trăm thước đầu tiên cũng đủ lấy mất đi cái bộ vó tự phụ của bà. Bà ngả nghiêng bên nọ bên kia một cách nặng nề chậm chạp, làm cho bao nhiêu mỡ trong người bà đều quấy động và hơi thở của bà bơm hết ra ngoài, cho đến khi bà nổi trận lôi đ́nh và nguyền rủa bọn cười đùa chúng tôi, cùng với con voi và cả thằng nài, đều chết sa đọa xuống Âm Ty!

        Bạn Ross Scott, em ruột của Walter, v́ đau chân không thể cưỡi voi với chúng tôi, nên y ngồi trên một chiếc xe nhỏ kiểu bản xứ, coi rất lạ mắt gọi là ekka, coi như một cái thùng mà chỗ ngồi là một mảnh gỗ ván lớn hơn bàn tay, do một con ngựa kéo. Suốt chuyến đi dài bốn dặm đường trường, mà bà HPB quả quyết là hai mươi dặm, chúng tôi đi trong sự vất vả khổ nhọc, c̣n bà trong cơn ầm ĩ thịnh nộ. Nhưng đến bận về, không một sự thuyết phục nào có thể làm cho bà HPB tiếp tục ngồi lại chỗ cũ trên lưng voi; bà bảo bạn Scott ngồi thu h́nh nép vào một bên trên chỗ ngồi của chiếc ekka và bà cùng ngồi chung một xe để trở về nhà.

II

          Do nhiều bạn Đạo kể chuyện, và sau khi đă trao đổi quan niệm bằng cách giao dịch thơ từ với nhóm Arya Samaj, một chi phái Ấn Giáo tiến bộ, tôi được biết Đạo Sư (Swami) Dyànand Saraswati như một nhà bác học Phạn Ngữ(Pandit) và một nhà cải cách tôn giáo, đang lănh đạo một phong trào tâm linh rất mạnh mẽ mệnh danh là tổ chức Arya Samaj, nhằm mục đích phục hưng tôn giáo Phệ Đà thuần túy cổ xưa của Ấn Độ.

        Khi chúng tôi đến Agra, chúng tôi được người đại diện địa phương của Đạo Sư Dyànand Saraswati đến viếng thăm và nói cho chúng tôi biết quan niệm của y về vị lănh đạo tôn giáo nầy. Sự giải thích của y rất thỏa đáng và chúng tôi quyết định đi Saharanpore để gặp vị Swami khi ông đi hành hương từ Hardwar trở về.

        Tại Saharanpore, những tín hữu của chi phái Arya Samaj nghinh tiếp chúng tôi rất nồng hậu với những quà tặng bánh trái và hoa quả. Sự thích thú của chúng tôi bị trở ngại do sự có mặt của một tên cảnh sát “ch́m” và tên gia nô của y, họ theo dơi mọi sự di chuyển của chúng tôi, khám xét thơ từ, đọc điện tín của chúng tôi, và làm cho chúng tôi có cảm tưởng cơ hồ như ḿnh đang lọt vào tầm nanh vuốt của cơ quan Mật Vụ Pḥng Ba của Sở Gián Điệp Nga!

        Trụ sở chi phái Samaj dành cho chúng tôi một cuộc tiếp tân long trọng và một buổi tiệc theo phong tục bổn xứ, chúng tôi ngồi ăn dưới đất với bàn tay mặt rửa sạch, bốc thức ăn đựng trên những dĩa kết bằng lá cây.

        Đạo sư (Swamiji) về đến nơi vào lúc sáng sớm ngày hôm sau, bạn Mulji và tôi cùng đến để chào mừng. Tôi lấy làm vô cùng cảm kích về tác phong, dáng điệu, giọng nói ấm, những cử chỉ lịch sự và cốt cách tôn nghiêm cao quư của ông. Đạo sư nắm tay tôi, đưa tôi đến một hàng ba rộng răi lộ thiên, cho người đem đến một ghế dài và mời tôi ngối bên cạnh người. Sau khi đă trao đổi với nhau những lời chúc mừng, chúng tôi chia tay từ giă, và độ một giờ sau đó, đạo sư đích thân đến nơi quán trọ của chúng tôi để thăm xă giao bà HPB. Trong cuộc nói chuyện dài tiếp theo sau đó, đạo sư cho biết  chúng tôi thấy hoàn toàn phù hợp với quan niệm của chúng tôi.

        Ngày hôm sau, chúng tôi cùng đạo sư đáp chuyến xe lửa đi Meerut. Khi đến nơi, chúng tôi được đưa đến ngôi biệt thự của ông Sheonarain, một nhà thầu giầu có làm công tác của chính phủ và một tín hữu phái Samaj, t́nh nguyện cung ứng ngôi nhà của ông cho chúng tôi sử dụng Chiều ngày hôm sau, lúc sáu giờ ba mươi, chúng tôi tham dự một buổi hội họp đông đảo của môn phái Arya Samaj, được tổ chức  ở một sân rộng lộ thiên, giữa những ngôi nhà lầu bao phủ chung quanh. Ở cuối sân, có một bục xây bằng gạch, trên có trải nệm và thảm Ấn Độ, đạo sư Swami ngồi xếp bằng trên tấm thảm và dựa lưng vào một cái gối tṛn và dầy, loại gối nầy rất thông dụng ở các xứ phương Đông. Tác phong trầm tĩnh oai nghi, đạo sư nổi bật giữa đám đông, và trong một bầu không khí im lặng hoàn toàn, toàn thể hội trường đều lắng tai nghe ông thuyết pháp. Trong cái im lặng đó, người ta chỉ nghe có tiếng chim sẻ ríu rít gọi nhau bay về tổ lúc trời chiều.

        Sau khi phái đoàn chúng tôi được đưa đến chỗ ngồi đă sắp đặt sẵn, ngài Swami im lặng tọa thiền trong vài phút, kế đó ông ngẩng mặt lên trời, rồi với một giọng trầm ấm, ngâm vang những thánh ngữ: “AUM, AUM; Shantih Shantih Shantih!” (ngụ ư:Cầu cho muôn loài được b́nh an), và khi những âm thanh vang đội đă tan dần, ông mới bắt đầu một thời pháp về đề tài :Cầu nguyện”.

        Ông định nghĩa cầu nguyện tức là làm việc; đó không phải là thốt lên những lời lẽ vô vị, trên đầu môi chót lưỡi; không phải là nịnh hót hay ca tụng Thượng Đế mà có đem lại một kết quả nào. Có lần, ông nghe một tín đồ phái Brahmo Samaj bỏ phí mất hai giờ đồng hồ chỉ để lặp đi lặp lại cả ngàn lần những lời nầy:

        “Ôi! Thượng Đế, Ngài là Từ Bi và Công Bằng Vô Lượng Vô Biên!”

        Làm như vậy có ích ǵ? Ông nói có người nói chuyện với Thượng Đế như người ta nói chuyện với tên gia bộc nhà ḿnh; cơ hồ như họ có quyền áp đặt, sai phái! Thật là rồ dại ngu ngốc. Người nào muốn cầu nguyện có hiệu quả, hăy làm  việc, làm việc. Tất cả những ǵ ở ngoài tầm sức ḿnh, phải được t́m kiếm bằng sự công phu thiền định và phát triển những quyền năng tâm linh…

        Đạo sư tiếp tục thuyết giảng một cách hùng biện, giọng nói truyền cảm, ngôn ngữ dễ dàng lưu loát như gịng nước chảy. Trước khi ông kết thúc, ánh trăng bạc chiếu vào mặt tiền ngôi nhà trước mặt chúng tôi trong khi chúng tôi ngồi ẩn khuất trong bóng tối, dưới nền trời xanh biếc một màu xanh thẳm. Một tia trăng sáng rọi vào bối cảnh phía sau lưng đạo sư, giống như một bức màn bằng bạc đánh bóng, làm nổi bật thân h́nh của ông với những nét thanh tú như một pho tượng đồng.

        Ngày hôm sau, đến lượt tôi thuyết tŕnh, dịp nầy được tổ chức trong một lều vải khổng lồ dựng lên trong khuôn viên nhà của ông Sheonarain. Sàn gạch được phủ lên những tấm nệm vải cứng và dầy để làm chỗ ngồi, bên trên có trải những tấm thảm Ấn Độ và Ba Tư. Ngoài một cái bàn riêng cho tôi và vài chiếc ghế cho các thính giả người Âu, kỳ dư là thính giả bổn xứ, kể cả đạo sư Swami, đều ngồi xếp hàng trên sàn gạch. Có vài vị quan chức người Anh tham dự, lại có cả viên công an ch́m hôm trước, lần nầy với bộ râu mép cạo sạch nhẵn, h́nh như với mục đích hóa trang! Cuộc nói chuyện của tôi, do Mulji làm thông ngôn, tŕnh bày những lợi ích hỗ tương có thể đạt được bằng cách phối hợp những quyền lợi và khả năng thiên phú của cả hai chủng tộc Đông Phương và Tây Phương.

        Ngày hôm sau, vị Swami kể cho chúng tôi nghe nhiều sự việc lư thú về những kinh nghiệm bản thân của ông và của những đạo sĩ Yogi khác trong rừng già. Ông đă từng sống gần như khỏa thân (chỉ đóng một cái khố nhỏ để che thân) suốt bảy năm trong rừng rậm, ngủ trên mặt đất hoặc trên tảng đá, ăn toàn hoa quả, rễ cây và uống nước suối, cho đến khi thể xác ông hoàn toàn vô cảm đối với tiết trời nóng, lạnh, vết thương, xây xát hay lửa bỏng.

        Ông không hề bị loại độc xà, ác thú làm hại. Có lần ông chạm trán với một con gấu đói trên lộ tŕnh mà ông đi qua, con gấu nhảy chồm lên định vố lấy ông, nhưng ông đưa tay khoát nó đi ra chỗ khác, và đường đi được giải tỏa. Một vị siêu nhân mà ông đă gặp tại núi Abu, tên là Bhavani Gihr, có thể uống cạn một chai thuốc độc, mà chỉ một giọt thôi cũng đủ giết chết một người thường: vị nầy có thể nhịn ăn suốt bốn mươi ngày một cách dễ dàng và làm nhiều hiện tượng lạ lùng khác.

        Chiều hôm đó, có một cuộc hội họp khác của các tín hữu Arya Samaj cũng đông đảo như lần trước để gặp gỡ chúng tôi, và một cuộc thảo luận đă diễn ra giữa đạo sư (Swami) và vị hiệu trưởng của trường trung học địa phương về những luận điệu chứng minh cho sự hiện diện của Thượng Đế. Ngày hôm sau, chúng tôi sửa soạn lên đường trở vế Bombay, và được vị Swami cùng với một số đông tín hữu của môn phái ông tiễn đưa ra tận nhà ga. Họ tung hoa hồng vào người chúng tôi và hô to khẩu hiệu “Namasté” tiễn biệt khi đoàn xe lửa lăn bánh.

        Sau những ngày và đêm nóng bức trên chuyến xe lửa với những tiếng động ồn ào, bụi bặm, thiếu tiện nghi, chúng tôi đă đến Bombay, nhưng trước khi kiểm soát lại đồ hành lư, bà HPB đi ngay đến trước mặt tên “cảnh sát ch́m”, và ngay trên sân ga, bà cho y một bài học đích đáng. Với một giọng nhạo báng chua cay, bà thốt ra lời khen ngợi y về những thành quả lớn lao mà y hẳn đă gặt hái được trong chuyến đi đắt tiền trên toa xe hạng nhất, và nhắn y chuyển đạt những lời chúc mừng và cảm ơn nồng hậu của bà lên cho thượng cấp của y với sự yêu cầu của bà cho y được thăng chức!

        Tên mật thám thẹn đỏ mặt, lúng túng ngập ngừng nói không ra lời, và chúng tôi bước đi, bỏ y lại đó một cách trơ trẽn. Kế đó, thay v́ đi thẳng về nhà để tắm rửa và ăn sáng, chúng tôi kêu xe đến ṭa Lănh Sự Mỹ và yêu cầu viên Lănh Sự gửi một thông điệp cực lực phản kháng viên Cảnh Sát Trưởng về cách đối xử có tính cách nhục mạ của y đối với những công dân Mỹ vô tội vạ.

        Trào lưu sinh hoạt của chúng tôi vẫn trôi chảy một cách êm đềm, những cảnh tượng lạ mắt của nếp sinh hoạt bổn xứ diễn ra trong đời sống hàng ngày, càng ngày càng gây ấn tượng sâu xa vào tâm hồn chúng tôi với thời gian qua. Ṿng đai giao tế nhân sự của chúng tôi với người bổn xứ mỗi ngày càng mở rộng thêm lên, nhưng ngoại trừ một vài trường hợp lẻ loi rất hiếm, chúng tôi không tiếp xúc với người Âu. Có quan hệ ǵ nếu họ ưa chúng tôi hay không; họ không thể dạy chúng tôi được ǵ mà chúng tôi muốn biết, nếp sống thường ngày và những công việc bận rộn của họ không có một thú vị ǵ đối với chúng tôi.

        Sau khi tôi gởi một bức thư phản kháng cho chính quyền địa phương tỉnh Bombay qua trung gian của ông Franham, Lănh Sự Mỹ, tôi được một bức thư trả lời rằng họ không hề có thái độ cố ư khiếm nhă trong việc cho nhân viên công an theo dơi mọi động tác xê dịch của chúng tôi.

        Về sau,khi đến Simla, tôi được các viên chức cao cấp trong phủ Toàn Quyền của vị Phó Vương Anh cho biết rằng họ rất bực ḿnh mà thấy công tác do thám được thi hành một cách quá ư lộ liễu và vụng về đến nỗi đă làm cho chúng tôi chú ư. Họ nói thêm rằng sự theo dơi chúng tôi không có ǵ là ngoài sự thường t́nh, v́ luật lệ nhà nước ở Ấn Độ quy định phải theo dơi tất cả những người ngoại quốc nào có vẻ thân thiện đặc biệt với người bổn xứ và tránh né sự giao thiệp với người của giai cấp thống trị.

III

        Ngày 4 tháng 7 năm ấy, chúng tôi quyết định xuất bản tờ tạp chí nguyệt san “Theosophist”. Như đă giải thích trước đây, chúng tôi phải đi tới quyết định đó v́ nhu cầu đáp ứng sự thích thú t́m hiểu ngày càng tăng gia của quần chúng về vấn đề Đạo Lư. Nhu cầu đó phải được giải quyết bằng một phương tiện nào tốt hơn là việc trao đổi thơ từ, v́ thật ra chúng tôi không thể nào chịu đựng nổi sự lao tâm mệt trí của một công việc đ̣i hỏi một sự cố gắng vận dụng tinh thần, nhoc nhằn liên tục và thường xuyên như thế. Tập Nhật Kư của tôi ghi nhận rằng đôi khi tôi đă phải làm việc tứ sáu giờ sáng đến chín giờ tối, và tiếp tục cho đến hai hay ba giờ sáng mỗi đêm, mà vẫn không xuể. Vả lại, có những câu hỏi mà phần đông thư tín viên thường hay hỏi đi hỏi lại nhiều lần, và phải trả lời lặp đi lặp lại những câu hỏi đó là một việc rất nhàm chán và mệt mỏi.

        Chúng tôi thảo luận về vấn đề này trên tất cả mọi khía cạnh, tính toán cân nhắc điều hơn lẽ thiệt, và sau cùng chúng tôi quyết định thực hiện kế hoạch. Nhưng chúng tôi cũng gặp phải những nỗi khó khăn nghiêm trọng, mà một là Hội không có một xu vốn liếng hay tài sản để có thể cầm cố vay mượn. Tôi bèn đặt một quy tắc nhất định rằng tờ Tạp Chí sẽ được phát hành theo những điều kiện giống như của các tạp chí lớn nhất ở Anh và Mỹ, tức là mua trả tiền trước chứ không bán chịu. Tôi sẵn sàng cho ra các số nguyệt san đúng kỳ hạn mỗi tháng trong một năm đầu, dẫu rằng chúng tôi chưa có đến một độc giả đăng kư dài hạn. Những bạn đạo Ấn Độ đều không tán thành kế hoạch nầy, và tiên đoán rằng nó sẽ không bao giờ thành công. Nhưng điều đó vẫn không làm lung lay quyết định của tôi. Thế là chúng tôi dự bị đóng góp phí tổn cho mười hai số nguyệt san đầu tiên, và chuẩn bị cho ra số đầu. Chúng tôi liên lạc với các nhà Phật Giáo ở Tích Lan, Đạo Sư Dyanand của Ấn Giáo, các nhà học giả Phạn Ngữ ưu tú ở Ba Nại La và nhiều tu sĩ các môn phái khác để yêu cầu họ đóng góp bài vở, và phổ biến rộng răi xa gần ư định của chúng tôi. Chúng tôi bận rộn với bấy nhiêu công việc đó suột cả mùa hè năm ấy.

        Những hội viên hoạt động của Hội bắt đầu hoạt động mạnh để kiếm độc giả; riêng một bạn Đạo trung kiên là ông Seervai, Thơ Kư của Hội, đă ghi tên được hai trăm độc giả mua dài hạn. Cuối tháng chín, chúng tôi đă cho ra số nguyệt san đầu tiên với đợt đầu là bốn trăm cuốn, một công tŕnh khả quan làm cho tất cả chúng tôi đều rất vui mừng. Kể từ đó về sau, tạp chí Theosophist vẫn xuất hiện đều đều mỗi tháng đúng kỳ hạn không hề suy chuyển, không hề vấp phải một tai nạn hay chướng ngại, và cũng không hề làm cho chúng tôi bị mắc nợ một xu nhỏ nào.

        Cuối năm ấy (1879), tờ tạp chí Theosophist đă ghi nhận sáu trăm hai mươi mốt độc giả mua dài hạn. Con số đó tuy nhỏ đối với người Tây Phương, đă từng quen thuộc với những thành tích huy hoàng của báo chí Âu Mỹ, nhưng đó là một con số lưu hành rất đáng kể đối với xứ Ấn Độ, v́ những nhật báo lớn nhất ở Calcutta, Bombay và Madras cũng chỉ có từ một ngàn rưởi đến hai ngàn độc giả ghi tên mua bán dài hạn trong sổ sách của họ!

Chương Bảy

NỮ TU SĨ Maji

I

        Ngày 2 tháng 12, bà HPB và tôi, cùng với bạn Damodar và em Babula đáp chuyến xe lửa đi Allahabad để viếng thăm ông bà Sinnett mà trước đây chúng tôi chỉ mới có giao dịch bằng thơ từ chứ chưa từng được quen biết tận mặt.

        Sau hai ngày ngồi trên xe lửa, sáng sớm ngày thứ ba, chúng tôi đến Allahabad và được ông Sinett đến đón tại nhà ga cùng với một cỗ xe song mă với người đánh xe và hai người hầu bổn xứ mặc đồng phục rất đẹp. Bà Sinett tiếp đăi chúng tôi tại nhà với một cung cách vô cùng lịch sự, và trước khi bà nói chuyện với chúng tôi được trên mười câu, chúng tôi biết ngay rằng ḿnh đă có một người bạn quư.

        Trong số các vị khách nhà ông Sinett ngày hôm ấy, có một vị Thẩm Phán Thượng Thẩm và ông Giám Đốc Nha Học Chính. Ông bà A.O.Hume đến vào ngày hôm sau và bà Gordon đến vào ngày mùng bảy, sau khi đă đi một chuyến hành tŕnh rất dài để đến gặp bà Hpb. Lần lần chúng tôi đă có dịp quen biết với phần đông những nhân vật Anh Ấn của thành phố nầy, họ cũng đáng được làm quen v́ họ tỏ ra khôn ngoan lịch thiệp và tâm hồn cởi mở.

        Vài người trong số đó có cử chỉ rất khẩn khoản, ân cần và dễ thương, nhưng thu hút chúng tôi nhiều nhất là ông bà Sinett và Gordon phu nhân, bà nầy hồi đó đang ở vào thời kỳ xuân sắc lộng lẫy và trí óc thông minh chói rạng. Tôi nghĩ rằng thật là không uổng công lặn lội sang tận xứ Ấn Độ, mà được quen biết với ba người nầy.

        Theo một quy ước chặt chẽ trong các giới xă hội thượng lưu Anh Ấn, người mới đến xứ nầy thường đi viếng thăm xă giao những nhân vật hiện đang cư trú tại địa phương, nhưng v́ bà HPB không muốn đi thăm ai cả, nên ai muốn làm quen với bà phải bỏ cái tập quán kia đi, và tự họ đích thân đến viếng bà khi nào họ muốn.

        Thời gian chúng tôi ở tại đây luôn luôn có khách đến viếng, ngoài ra c̣n có những buổi dự tiệc tiếp tân, trong một dịp nầy tôi c̣n nhớ rơ đă xảy ra một chuyện lư thú. Một buổi chiều, ông bà Sinett, bà HPB và tôi cùng lên xe đi dự một buổi cơm tối, xe chạy ngang qua một khu phố hăy c̣n xa lạ đối với chúng tôi. Đến một ngă tư, bà HPB bỗng nhiên rùng ḿnh một cái, và nói:

        -Lạ quá! Thật là một cảm giác rùng rợn! Ở chỗ nầy h́nh như đă có xảy ra một vụ tàn sát đẫm máu.

        Ông Sanett hỏi:

        -Bà không biết đây là chỗ nào hay sao?

        Bà đáp:

        -Không! Làm sao tôi biết được, v́ đây là lần đầu tiên mà tôi đi ra khỏi nhà ông.

        Khi đó, ông Sanett đưa tay chỉ một ngôi dinh cơ đồ sộ ở phía tay mặt chúng tôi, và nói cho bà biết rằng trước đây, đó là câu lạc bộ của quân đội, và chính tại đó các sĩ quan Anh của một lữ đoàn quân Anh Ấn đă bị các thuộc viên của họ thảm sát trong bữa ăn trong cuộc nổi loạn của quân bổn xứ. Nhân dịp đó, bà HPB giảng cho chúng tôi nghe một bài thuyết pháp ngắn nhưng vô cùng hữu ích về tính cách trường cửu bất diệt của Kư Ức Không Gian, có tác dụng ghi nhận trải qua thời gian không bao giờ mất, nhất cử nhất động cùng tất cả mọi hành vi của con người trên Tiên Thiên Khí Ảnh.

        Qua ngày hôm sau, tôi thuyết tŕnh trước một cử tọa đông đảo về đề tài: “Thông Thiên Học và những mối liên hệ của nó đối với xứ Ấn Độ”. Ngồi trên ghế chủ tọa cuộc họp, là ông A.O.Hume, một luật gia nổi tiếng, ông đă khai mạc buổi thuyết pháp và giới thiệu diễn giả bằng một bài diễn văn rất hay và rất hùng hồn làm cảm động người nghe.

        Ngày 15 tháng 12, chúng tôi từ giă ông bà Sinett và cùng bà Gordon đáp xe lửa đi Ba Nại La (Bénarès). Đến nơi vào lúc bốn giờ chiều, chúng tôi được vị đại diện của Quốc Vương Vizianagram đón tiếp tại nhà ga và mời chúng tôi về ở tại một ṭa lâu đài của Quốc Vương với tư cách là tân khách của ngài.

II

          Ngày hôm sau, sau khi ăn điểm tâm, chúng tôi lên xe để đến viếng đạo viện của bà Maji, một vị nữ tu sĩ rất nổi tiếng, làu thông kinh điển Phệ Đà, ở một động đá dưới hầm của đạo viện, trên bờ sông Hằng cách thành phố Ba Lại La độ hai dặm. Bà thừa kế đạo viện nầy của thân phụ bà, vốn là một người Yogi, cùng với một ngôi nhà trong thành phố và một thư viện Phạn Ngữ rất phong phú và quư giá.

        Đó là một nơi ẩn cư rất tĩnh mịch, nhất là vào buổi sáng sớm, và rất thuận lợi cho việc công phu thiền định. Tọa lạc trên bờ sông độ mười lăm thước cao hơn mặt nước, và che khuất dưới những lùm cây cổ thụ, thật là một nơi đạo viện lư tưởng có phong vị thần tiên khi chúng tôi ngồi trên bệ đá dưới những gốc ḥe nở hoa đỏ thắm, cành lá sum suê rậm rạp, và luận đàm về Đạo Lư với nhà nữ tu trí thức nầy. Đó là một trong nhiều kinh nghiệm kỳ thú nhất của chúng tôi trên đất Ấn Độ, mà người quen sống ở các xứ Tây Phương không bao giờ có thể ngờ trước được.

        Hối ấy, bà Maji trạc độ bốn mươi tuổi, máu da lợt, với một phong độ trang nghiêm và cốt cách lịch sự nó làm cho người ta phải kính nể. Bà có một giọng nói dịu dàng, gương mặt và thân h́nh đầy đặn, đôi mắt tinh anh biểu lộ sự thông minh và đức tính quả cảm, cương nghị. Bà từ chối không chịu biểu diễn phép thuật thần thông, như chúng tôi vẫn luôn luôn yêu cầu các nhà đạo sĩ trong những dịp tương tự.

        Những lư do từ chối của bà đều được tất cả các bạn trong nhóm chúng tôi chấp nhận là đầy đủ, và cuộc thăm viếng vẫn có ảnh hưởng thuận lợi cho tất cả mọi người. Tôi không biết rằng bà có thể làm các hiện tượng hay không, nhưng vốn là một tín đồ chân chính của triết học Vedanta, bà mạnh dạn chỉ trích sự dại khờ của những kẻ ham mê những tṛ chơi tương đối ấu trĩ ấy, thay v́ để tâm hồn được yên tĩnh vắng lặng mà đạo lư cổ truyền từ ngh́n xưa vẫn luôn luôn khuyên nhủ các môn sinh trên đường tầm Đạo.

        Dù đi đến bất cứ nơi nào trên đất Ấn Độ, người ta luôn luôn có cái quan niệm đó, những nhà tu khổ hạnh cao siêu nhất vẫn luôn luôn từ chối không biểu diễn những quyền năng thần bí trừ phi trong những trường hợp rất đặc biệt. Những người làm các phép thuật nhiệm mầu bị coi như thuộc hạng thấp kém, chẳng hạn như các nhà phù thủy bên hắc phái, họ chỉ được sự bảo trợ và trọng vọng của những người thuộc giai cấp hạ tiện.

        Vài ngày sau, vị nữ tu Maji đến viếng thăm trả lễ bà HPB. Việc ấy gây sự ngạc nhiên trong các giới Ấn Độ, và chúng tôi được cho biết rằng thật là một điều rất lạ thường mà thấy vị nữ tu nầy đích thân đến viếng một người nào ngoài tôn sư của bà, c̣n việc đến thăm viếng một người Âu th́ không bao giờ. Tôi cảm thấy một sự say mê thích thú về nữ tu sĩ nầy do những chuyện mà tôi đă nghe kể lại về thành tích của bà, và thật sự tôi đă đến viếng bà mỗi khi có dịp ghé qua thánh đại Ba Nại La; lần cuối cùng với bà Annie Besant và nữ bá tước Wachtmeister.

        Trong nhiều năm, tôi vẫn tin bà là một siêu nhân. Trong cuộc viếng thăm của bà lúc ấy, bà vẫn là một người hoàn toàn xa lạ đối với chúng tôi, và theo chỗ chúng tôi biết không một người nào đă từng nói cho bà biết chúng tôi là ai, trừ ra chúng tôi tự giới thiệu trong dịp đến viếng đạo viện của bà lần đầu tiên. Tuy vậy, bà đă nói cho các bạn đạo cùng đi với tôi, trong một dịp bà HPB vắng mặt, nghe một chuyện dị kỳ về bà HPB. Bà nói rằng thể xác của bà HPB đă được một nhà đạo sĩ Yogi mượn tạm v́ mục đích phổ biến Triết Học Đông Phương. Đó là cái thể xác thứ ba mà nhà đạo sĩ đă dùng vào mục đích ấy, và thời gian y đă trải qua trong ba cái thể xác đó, cộng chung lại tất cả là độ một trăm năm mươi năm.

        Trong một chuyến đi Calcutta nhiều năm sau đó, tôi đă đến khu ngoại ô Bhowanipore để viếng Maji, trong dịp bà từ Ba Nại La đến đây để viếng thăm một bạn đạo là Nobin Bannerji ở tại nhà ông nầy. Tôi đă hội kiến với bà hằng ngày trong thời gian hai tuần ở Calcutta, và luôn luôn rất thích thú mà nghe lời thuyết giáo của bà.

        Bà lúc nào cũng có một số người tầm Đạo vây phủ chung quanh, và những lời giải đáp thắc mắc của bà luôn luôn biểu lộ một học lực uyên thâm và sâu sắc. Phong thái hấp dẫn và giọng nói dễ mến của bà làm cho bà càng thêm đắc nhân tâm và có nhiều người ngưỡng mộ. Sau hết, c̣n có sự hấp dẫn  của những quyền năng thần bí, thường được gán cho những đạo sĩ chân tu ở Ấn Độ, một di sản c̣n sót lại của những truyền thống từ những thời đại cổ xưa.

        Những quyền năng đó, bà Maji hẳn là phải có đến một mức độ nào, bởi v́ chúng ta đă thấy rằng lần gặp gỡ đầu tiên giữa bà với chúng tôi hồi năm 1879, trước khi người ta được biết ǵ về sự liên hệ giữa bà HPB với hai vị Chân Sư, bà Maji đă nói với tôi những điều về các Ngài mà không ai có thể nói lại cho bà biết, và trong tập Nhật Kư của bạn Damodar có ghi rằng bà đă làm cho y vô cùng ngạc nhiên với những lời tiết lộ của bà về nhà huyền học T. Subba Rao và về những nhân vật khác nữa.

        Sau khi bà Maji từ Calcutta trở về đạo viện của bà ở Ba Nại La, chúng tôi đă có dịp trở lại viếng thăm bà lần nữa, nhưng không ngờ đây là lần chót v́ sau đó ít lâu, chúng tôi được tin bà đă từ trần.

 III

          Khi chúng tôi trở về Bombay, một buổi chiều tà, bà HPB, bạn Damodar và tôi đă trải qua một kinh nghiệm lạ lùng, mà trước đây tôi đă có kể lại sơ lược bằng trí nhớ, nhưng bây giờ nó phải được tường thuật lại với đầy đủ chi tiết vào đúng chỗ của nó.

        Chúng tôi ba người ngồi trên chiếc xe ngựa mui trần mà Damodar đă làm quà tặng cho bà HPB, nhắm về phía cầu Warli gần bờ biển để hóng gió mát. Một cơn giông có sấm chớp đang diễn ra từ đằng xa nhưng không có mưa, những tia chớp nối tiếp nhau thường xuyên một cách sống động đến mức chiếu sáng cả vùng lân cận như ban ngày. Bà HPB và tôi ngối hút thuốc và cả ba chúng tôi đều cùng nhau đàm luận việc nầy viếc nọ, bỗng nghe có tiếng nói chuyện của nhiều người từ trên bờ biển đi về phía tay mặt chỗ chúng tôi ngồi. Ngay khi đó, xuất hiện một nhóm người Ấn ăn mặc lịch sự vừa nói vừa cười đùa với nhau, họ đi qua khỏi chỗ chúng tôi và lên xe riêng của họ đậu thành hàng trên đường Warli, rồi chạy về thành phố. Để nh́n theo, bạn Damodar, đang ngồi quay lưng về phía ngưới đánh xe, mới đứng dậy và ngước mắt nh́n lên thùng xe. Khi đoàn người cuối cùng từ bờ biển đi lên vượt ngang qua xe chúng tôi, y lẳng lặng sờ nhẹ vào vai tôi và hất đầu làm hiệu cho tôi nh́n về hướng ấy. Tôi đứng dậy và thấy đằng sau nhóm người cuối cùng đi hóng gió biển trở về, một bóng người lẻ loi bước đến gần chúng tôi. Cũng như những người kia, người nầy mặc sắc phục trắng, nhưng sắc trắng của y phục nầy vượt trội hẳn làm cho y phục của những người kia có vẻ như màu xám, cũng ví như ánh sáng đèn điện làm cho ngọn đèn hơi sáng tỏ nhất cũng hóa ra đục mờ. Người nầy vóc vạc cao hơn nhóm người kia đến một cái đầu, và dáng đi của người quả thật là biểu lộ một cốt cách thần tiên. Người ấy bước đến gần, tách rời khỏi đường lộ và đi về phía chúng tôi, khi ấy chúng tôi mới nhận ra Ngài là một vị Chân Sư. Cái khăn trắng bịt đầu, chiếc áo rộng trắng, mái tóc đen xỏa xuống vai và bộ râu đen, mới thoạt nh́n chúng tôi tưởng là đức “Sư Phụ”, nhưng khi Ngài bước đến bên hông xe và chỉ cách chúng tôi độ một thước, Ngài  đặt nhẹ bàn tay Ngài lên cánh tay trái của bà HPB lúc ấy đang gác trên thùng xe, nh́n chúng tôi vào tận mắt, và đáp lại sự kính cẩn vái chào của chúng tôi, chừng đó chúng tôi mới biết không phải là Sư Phụ, mà là một vị Chân Sư khác. Bà HPB về sau có một bức chân dung của Ngài lồng trong một cái khuôn vàng bà đeo trước ngực mà nhiều người đă từng thấy.

        Ngài không nói một lời nào, mà lẳng lặng đi về phía đường lộ, không màng chú ư đến những người du ngoạn khi họ ngồi trên xe chạy về thành phố. Những tia chớp liên tục của cơn giông chiếu sáng thân h́nh Ngài khi Ngài đứng bên cạnh chúng tôi, và khi Ngài đă đi trên con đường đá cách xa chúng tôi độ hai mươi thước, tôi nhận thấy rằng ánh đèn trên chiếc xe cuối cùng rọi lại làm cho thân h́nh Ngài nổi bật trên bối cảnh chân trời ở đàng xa. Không có cây cối hay bụi rậm nào che khuất Ngài khỏi tầm mắt chúng tôi, nên chúng tôi vận hết nhỡn lực để theo dơi động tác của Ngài. Chúng tôi vừa mới nh́n thấy Ngài đây, th́ trong khoảnh khắc Ngài đă biến mất dạng, cũng như một tia chớp sáng ḷe rồi vụt tắt. Dưới sự phản ứng của cơn xúc động bàng hoàng, tôi nhảy vọt ra ngoài xe, chạy đến chỗ mà tôi nh́n thấy Ngài lúc năy, nhưng không thấy ǵ nữa. Tôi chỉ nh́n thấy có con đường lộ vắng teo, và phía sau lưng của chiếc xe vừa chạy qua.

Chương tám

ĐẠO SƯ DYANAND SARASWATI NÓI VỀ

PHÁP MÔN YOGA

       Ngày 27 tháng 8 năm ấy, bà HPB và tôi cùng với đứa hầu trai Babula lại đáp chuyến xe lửa đêm từ Bombay đi lên miền Bắc. Đến thị trấn Meerut, chúng tôi được toàn thể chi bộ của môn phái Arya Samaj tại địa phương đến tiếp đón tại nhà ga, và đưa chúng tôi về trụ sở của họ. Tại đây, chúng tôi đă gặp lại Đạo Sư Dyànand Saraswati, nhà lănh đạo tinh thần của môn phái Arya Samaj đă nói ở trên.

        Trước sự có mặt của các tín hữu trong môn phái ông, chúng tôi mở một cuộc thảo luận nhằm biết rơ quan điểm thật sự của ông về pháp môn Yoga và về những quyền năng tâm linh siêu đẳng của con người.

        Chúng tôi được biết rằng những giáo lư của ông dạy các tín hữu khuyến cáo họ không nên thực hành pháp môn khổ hạnh, và thậm chí c̣n gieo sự nghi ngờ về sự thật của các quyền năng thần bí; trái lại, trong những cuộc đàm thoại với chúng tôi trước đây ông lại có một luận điệu khác hẳn. Cuộc phỏng vấn của tôi lần nầy đă được các tín hữu trong môn phái ghi chép lại đúng y nguyên văn mà tôi xin thuật lại như dưới dây:

        “… Câu hỏi đầu tiên đưa ra cho Thầy (Swami) là: Pháp môn Yoga phải chăng là một khoa học thật nghiệm, hay chỉ là một giả thuyết siêu h́nh; và đạo sư Patanjali có cho rằng người ta có thể đạt được những quyền năng thần bí hay không? Và đă có ai đạt được những quyền năng ấy hay chưa?

        Thầy đáp rằng pháp môn Yoga có thật và căn cứ trên sự hiểu biết những định luật Thiên Nhiên.

        Câu hỏi kế tiếp là những quyền năng siêu đẳng, hiện nay người ta c̣n có thể sở đắc được hay không, hay là thời kỳ ấy nay đă qua rồi?

        Câu trả lời là những định luật Thiên Nhiên vốn không dời đổi và không bị giới hạn trong thời gian và không gian: những ǵ người ta đă làm được trong quá khứ đương nhiên cũng vẫn áp dụng trong hiện tại. Không những ngày nay người ta có thể làm tất cả những ǵ đă được diễn tả trong các sách cổ xưa, mà chính Thầy (Swami) có thể truyền dạy các phương pháp ấy cho bất cứ người nào thật t́nh mong ước đi vào con đường ấy.

        Có nhiều người đă đến xin thụ giáo Swami và quả quyết rằng họ có khả năng đạt tới sự thành công; Thầy đă thử hết ba người, nhưng tất cả đều thất bại. Lúc đầu họ tỏ ra có nhiều thiện chí, nhưng không bao lâu họ đâm ra chán nản và bỏ cuộc. Yoga là một khoa học khó khăn nhất, và ngày nay rất ít người có thể sở đắc được.

        Câu hỏi tiếp theo là ngày nay c̣n có chăng những đạo sĩ Yoga chân chính, có thể làm những hiện tượng nhiệm mầu như đă diễn tả trong các sách cổ Ấn Độ.

        Thầy đáp rằng những vị đạo sĩ ấy ngày nay vẫn c̣n, nhưng rất hiếm. Họ ẩn cư ở những nơi hẻo lánh, và ít khi, hay không bao giờ xuất hiện ở những nơi công cộng. Họ không bao giờ tiết lộ những bí quyết của họ cho kẻ thế nhân phàm tục, cũng không truyền dạy bí pháp của họ, trừ phi cho những người mà họ nhận thấy là xứng đáng sau nhiều cơn thử thách.

        Đại Tá Olcott hỏi rằng phải chăng những vị Chân Sư luôn luôn khoác bộ áo vàng của nhà tu sĩ xuất gia như người ta thường thấy, hay cũng mặc y phục như thường?

        Thầy đáp rằng các Ngài có thể mặc mọi thứ sắc phục thích nghi tùy nhu cầu của hoàn cảnh.

        Đáp lời yêu cầu cho biết người đạo sĩ chân tu có những thứ quyền năng nào? Thầy nói rằng ngưới Yogi chân chính có thể làm những việc mà người thế gian gọi là những phép lạ. Không cần phải nêu ra những loại quyền năng nào, v́ trên thực tế quyền năng của y chỉ bị giới hạn bởi ḷng mong muốn và sức mạnh của ư chí.

        Chẳng hạn như y có thể giao cảm bằng tư tưởng với những vị đạo sĩ khác dù họ ở cách nhau bao xa trong không gian, và không cần xử dụng những phương tiện viễn thông thường lệ như thư từ hay điện tín. Y có thể đọc tư tưởng của người khác. Y có thể di chuyển (trong Chân Ngă của y) từ một nơi nầy đến một nơi khác, không cần sử dụng những phương tiện chuyên chở thông thường, và với một tốc độ mau chóng hơn nhiều. Y có thể đi trên mặt nước hay trên không trung; vượt cao khỏi mặt đất. Y có thể xuất hồn ra khỏi xác và nhập vào thể xác một người khác, trong một thời gian ngắn hay trong nhiều năm tùy ư muốn. Y có thể kéo dài sự sống của thể xác bằng cách xuất hồn trong giấc ngủ, và do đó bằng cách tiết giảm những hoạt động của cơ thể đến mức tối thiểu, y tránh được một phần lớn sự già nua. Thời gian dùng trong việc ấy sẽ cộng vào và tăng thêm tổng số thời gian sinh tồn tự nhiên của thể xác trong kiếp sống hiện tại.

        HỎI:Cho đến ngày, giờ, nào của cuộc đời y, người Yogi có thể sử dụng quyền năng chuyển di Linh Hồn hay Chân Ngă của y qua thể xác của một người khác?

        ĐÁP:Cho đến giờ phút chót, chí đến từng giây cuối cùng. Người Yogi biết trước, chí đến từng giây đồng hồ, lúc nào y phải chết, và cho đến khi đó, y có thể xuất hồn để nhập vào thể xác một người khác nếu có một thể xác sẵn sàng cho y chiếm đóng. Nhưng nếu y để cho cái giây phút đó trôi qua, th́ chừng đó y sẽ không thể làm ǵ được nữa. Sợi dây bạc đă bị đứt đoạn vĩnh viễn, và nếu người Yogi chưa được tinh luyện đầy đủ đến mức toàn thiện để đạt tới sự Giải Thoát, th́ y phải tái sinh trở lại theo định luật Luân Hồi. Sự khác biệt duy nhất giữa trường hợp của y với trường hợp thông thường của mọi người là v́ y đă có công phu tu luyện trong kiếp nầy để trở nên tốt lành hơn, thông tuệ hơn và minh triết hơn người thường, nên y sẽ được tái sinh trong những hoàn cảnh thuận lợi hơn.

        HỎI:Người Yogi có thể nào kéo dài sự sống của y tới mức độ nầy chăng:chẳng hạn như kiếp sống hiện tại của y đă định là bảy mươi tuổi; trước khi chết, y có thể nào nhập xác một đứa trẻ lên sáu tuổi, sống trong cái thể xác đó thêm một kỳ hạn bảy mươi năm nữa, rồi chuyển di tứ cái thể xác đó qua thể xác một đứa trẻ khác, và sống trong đó thêm một kỳ hạn bảy mươi năm nữa?

        ĐÁP:Y có thể, và bằng cách đó y có thể kéo dài sự sống của y trên thế gian đến một thời hạn độ chừng bốn trăm năm.

        HỎI:Người Yogi có thể nào chuyển di bằng cách đó từ thể xác của y qua thể xác của một người đàn bà?

        ĐÁP:Cũng như người ta có thể khoác lấy y phục đàn bà một cách dễ dàng, người Yogi có thể nhập vào thể xác của một người nữ. Chừng đó, xét về h́nh dáng và cử chỉ bên ngoài, th́ y là một người nữ, nhưng xét về phần nội tàng bên trong,y vẫn là một người Yogi.

        HỎI:Tôi đă gặp hai người như vậy; nghĩa là hai người nữ xét về h́nh dáng bề ngoài, nhưng hoàn toàn có tính chất đàn ông trong mọi sự trừ ra cái thể xác. Một trong hai người ấy, ông có nhớ chăng, trước đây chúng ta đă có dịp cùng đi viếng thăm tại Ba Nại La, trong một đạo viện trên bờ sông Hằng.

        ĐÁP:À, nữ tu sĩ Maji.

        HỎI:Pháp môn Yoga có tất cả mấy thứ?

        ĐÁP:Có hai loại pháp môn Yoga, luyện thể xác (Hatha Yoga) và luyện tinh thần (Raja Yoga). Trong pháp môn Hatha Yoga, người hành giả công phu luyện xác một cách rất khổ hạnh nhằm mục đích bắt thể xác phải tuân theo mệnh lệnh của Ư Chí. C̣n Raja Yoga là một pháp môn tu luyện khiến cho Ư Chí được phát triển mạnh mẽ đến mức làm chủ được tinh thần. Pháp môn Hatha Yoga đem lại những kết quả thể chất, c̣n Raja Yoga giúp hành giả phát triển những khả năng tâm linh. Người hành giả nào muốn được thành thục về pháp môn Raja Yoga, phải đă có trải qua công phu tu luyện Hatha Yoga.

        HỎI: Phải chăng có những người đă sở đắc những quyền năng tâm linh siêu đẳng của pháp môn Raja Yoga, mà không hề trải qua giai đoạn khổ luyên xác thân theo Hatha Yoga? Tôi đă gặp ba người như vậy ở Ấn Độ, và chính họ đă cho tôi biết rằng họ không hề khổ luyện xác thân.

        ĐÁP:Nếu vậy, th́ họ đă có tu luyện theo pháp môn Hatha Yoga trong kiếp trước.

        HỎI:Xin ông vui ḷng giải thích làm sao người ta có thể phân biệt những hiện tượng nào là thật hay giả khi được tạo nên bởi một người mệnh danh là Yogi?

        ĐÁP:Những hiện tượng lạ gồm có ba loại: loại thấp nhất được tạo ra bằng sự lanh lẹ của bàn tay, như ta thường thấy trong những màn tŕnh diễn ảo thuật hay trong các gánh xiếc; loại thứ nh́, bằng cách sử dụng hóa chất hay những máy móc dụng cụ; loại thứ ba và cao nhất, bằng những quyền năng thần bí của con người.

        Việc tạo nên những tṛ lạ mắt làm cho cử tọa ngạc nhiên do bởi hai phương pháp đầu tiên, và được tuyên bố giả dối như những hiện tượng siêu nhiên hay phép lạ, gọi là tamasha, hay sự phỉnh gạt bất lương. Nhưng nếu những hiện tượng đó được người ta đưa ra một sự giải thích đúng đắn và chân thật th́ chừng đó chúng ta được coi như sự biểu diễn xảo thuật khoa học hay kỹ thuật. Chỉ có những hiện tượng tạo nên bởi việc sử dụng ư chí đă được tập luyện thành thục của con người, không tùy thuộc các đồ máy móc, dụng cụ, mới là thuộc pháp môn Yoga chân chính.

        HỎI:Xin định nghĩa tính chất của Linh Hồn con người.

        ĐÁP:Linh Hồn (Atmà) con người gồm hai mươi bốn thứ khả năng, trong số đó có ư chí, hành động, kiến thức, kư ức sắc bén,v.v… Khi nào tất cả những khả năng đó được đem ra tác dụng ở ngoại giới, người chủ động tạo nên những hậu quả được xếp hạng dưới cái chủ đề là Khoa Học Vật Lư.

        Khi người ấy đem áp dụng chúng vào nội tâm, hay thế giới nội tàng, th́ đó là Triết Học Tâm Linh, hay Yoga nội môn. Khi hai người nói chuyện với nhau từ hai nơi cách biệt nhau rất xa bằng điện thoại, th́ đó là họ sử dụng kiến thức khoa học; khi nào họ giao tiếp với nhau không phải bằng máy móc dụng cụ mà bằng cách sử dụng kiến thức về những gịng từ điện và sức mạnh thiên nhiên, th́ đó là kiến thức Yoga. Cũng chính do kiến thức Yoga mà nhà thuật sĩ làm cho những đồ vật thuộc bất cứ loại nào được đem tới cho y từ một nơi cách xa, và ngược lại, gửi những đồ vật ấy từ chỗ của y đi đến bất cứ nơi nào, trong cả hai trường hợp đều không dùng những phương tiện chuyên chở như xe,tàu,v.v… Người xưa vẫn từng biết rơ những định luật hấp dẫn và xô đẩy của tất cả mọi sự vật trong Thiên Nhiên, tác động hỗ tương giữa chúng với nhau, và những hiện tượng thần thông mầu nhiệm trong pháp môn Yoga đều căn cứ trên sự hiểu biết đó. Ngưới Yogi có thể thay đổi hay tăng cường những sức mạnh hấp dẫn và xô đẩy đó tùy ư muốn.

        HỎI:Người hành giả muốn sở đắc những quyền năng đó phải có những điều kiện tiên quyết như thế nào?

        ĐÁP:Đó là:

        1.-Sự ước muốn học hỏi. Ḷng ước vọng đó phải mănh liệt cũng giống như của người sắp chết đói mong có thức ăn, hay người khát thèm nước uống.

        2.-Hoàn toàn làm chủ mọi thứ đam mê và dục vọng.

        3.-Sự trinh khiết; giao du với những bạn bè tốt và có đức hạnh; ăn uống chay tịnh, chỉ dùng những đồ vật thật trong lành, tinh khiết; nơi ăn chốn ở phải thanh tịnh sạch sẽ, không bị ô nhiễm bởi những ảnh hưởng xấu xa ô trược bất cứ loại nào; không khí trong sạch; ở nơi vắng vẻ.

        Hành giả phải có trí óc thông minh, để có thể hiểu biết những định luật Thiên Nhiên; phải biết tập trung tư tưởng, để cho khỏi bị lo ra và trí lực phân tán trong cơn thiền định: và phải biết tự chủ, để kiểm chế mọi thứ đam mê, dục vọng. Y phải diệt trừ năm điều sau đây: Vô Minh, Tự Kiêu Ngă Mạn, Dâm Dục, Ích Kỷ và Sợ Chết.

        HỎI:Như vậy, phải chăng ông không tin rằng người Yogi hành động trái với những định luật tự nhiên?

        ĐÁP:Không khi nào; bởi v́ không có ǵ xảy ra mà trái với những định luật Thiên Nhiên. Do pháp môn Hatha Yoga, người ta có thể thực hiện vài loại hiện tượng nhỏ, chẳng hạn như tập trung tất cả sinh lực của ḿnh vào trong một ngón tay, hoặc, trong cơn thiền định, biết được những tư tưởng của người khác.

        Bằng pháp môn raja Yoga, hành giả trở nên có phép thần thông; y có thể làm bất cứ việc ǵ tùy ư muốn, và biết bất cứ điều ǵ y muốn biết, chí đến những ngôn ngữ mà y chưa bao giờ học. Nhưng tất cả những việc ấy đều hoàn toàn phù hợp với những định luật tự nhiên.

        HỎI:Đôi khi tôi được thấy những vật thể vô tri như thư từ, tiền đồng hay kim loại, bút ch́, đồ nữ trang,v.v… được tạo ra thành những phó bổn thứ nh́ ngay trước mắt tôi. Làm sao giải thích điều đó?

        ĐÁP: Trong không gian có chứa đựng những nguyên tử của mọi vật thể hữu h́nh trong một trạng thái vô cùng tế vi. Người Yogi biết tập trung những nguyên tử đó bằng cách sử dụng Ư Chí, và tượng h́nh những vật thể đó theo kiểu mẫu mong muốn bằng trí óc sáng tạo của ḿnh.

        Đến đây, Đại Tá Olcott hỏi vị Swami có ư kiến ǵ về những hiện tượng thần thông mà bà HPB đă làm từ trước đến nay trước sự có mặt của nhiều nhân chứng, chẳng hạn như bà làm cho những hoa hường rơi xuống như mưa từ trên trần nhà trong một pḥng khách ở Bénarès hồi năm ngoái, gây tiếng chuông reo trong không khí, làm cho ngọn lửa trong một cây d8en2 lu mờ dần cho đến khi hầu như sắp tắt, rồi truyền lệnh cho nó bùng cháy lên cao mà không động đến cái bộ phận vặn bấc đèn,v.v…

        Câu trả lời là: Đó là những phép thuật thuộc lănh vực của pháp môn Yoga. Vài loại hiện tượng nầy, những người làm tṛ ảo thuật có thể bắt chước, nhưng những phép thuật của bà HPB không phải thuộc về loại đó.”

        Tôi nghĩ rằng đây là những quan điểm tóm lược đơn giản, rơ ràng, sáng sủa và gợi ư nhất về khoa pháp môn Yoga của Ấn Độ. Người đối thoại của tôi là một trong những nhân vật ưu tú nhất trong giới tu sĩ Bà La Môn, một người học vấn uyên thâm, một nhà tu khổ hạnh đầy kinh nghiệm, một nhà biện thuyết hùng hồn và một người có tinh thần cao nước yêu độ.

        Sau đó ít lâu chúng tôi đă trải qua một giai đoạn khó khăn trong vấn đề giao tế nhân sự với Đạo Sư Dyanand Saraswati. Không có một lư do nhỏ nhặt nào, tự nhiên y có thái độ thù nghịch đối với chúng tôi. Yviet61 cho chúng tôi những bức thư lời lẽ gay gắt, nặng nề; kế đó y đấu dịu lai đôi chút; rồi lần sau y lại đổi giọng, và như thế y đặt chúng tôi vào một t́nh trạng căng thẳng thường xuyên.

        Sự thật là tờ Tạp Chí của chúng tôi không thể là một cơ quan ngôn luận đặc biệt của môn phái Arya Samai, và chúng tôi cũng không chịu tách rời khỏi các nhóm tín đồ Phật Giáo và Hỏa Giáo, như điều y vẫn mong muốn. Hiển nhiên là y muốn bắt buộc chúng tôi phải chọn lựa một trong hai điều: hoặc là sự tiếp tục bảo trợ của môn phái y; hoặc là sự trung thành với lư tưởng không bè phái của chúng tôi. Và chúng tôi đă chọn lựa.V́ những lư tưởng và nguyên tắc của Hội, chúng tôi không chịu nhượng bộ bất cứ một áp lực nào từ bên ngoài.

        Cũng xin nhắc lại rằng sau những lần tiếp xúc đầu tiên với chi phái Ấn Giáo Arya Samaj, Đạo Sư Dyanand đă cùng tôi thảo luận về những Điều Lệ mới của Hôi Thông Thiên Học. Y đă nhận lănh một chân trong Hội Đống Quản Trị của Hội, cho tôi có thẩm quyền thay mặt y trong những cuộc biểu quyết của Hội Đồng bằng một văn thư chính thức, và hoàn toàn phê chuẩn kế hoạch của chúng tôi, là dung ḥa những phân chi gồm có những tín đồ các giáo phái khac nhau như Phật Giáo, Hỏa Giáo Hồi Giáo Ấn Giáo,v.v…

        Nhưng về sau, tinh thần khoan dung, không bè phái của y đă thay đổi trở thành óc bè phái, độc đoán, và sự thiện chí tốt đẹp của y đối với chúng tôi đă trở thành đố kỵ thù nghịch.

Chương chín

CUỘC VIẾNG THĂM TÍCH LAN

I

          Chúng tôi đă quyết định viếng thăm đảo Tích Lan, do lời mời khẩn cấp của các vị chức sắc lănh đạo Phật Giáo và Phật Tử xứ ấy, và đă bận rộn suốt một tháng để chuẩn bị lên đường.

        Khi mọi việc đă chuẩn bị xong, chúng tôi xuống tàu chạy miền duyên hải của công ty hàng hải Anh Ấn đi Tích Lan. Ngoài bà HPB, ông Wimbridge và tôi, phái đoàn c̣n gồm có bạn Damodar và bốn người Ấn Độ khác.

        H́nh như phái đoàn chúng tôi là những hành khách duy nhất trên tàu. Trong chuyến đi nầy, nhờ chiếc tàu sạch sẽ, các sĩ quan hăng hái vui vẻ dễ mến, tiết trời quang đăng và những hải cảng ghé dọc đường đầy vẻ thích thú hấp dẫn, chúng tôi vui thích như đi nghỉ mát trên tàu riêng của ḿnh. Bà HPB tinh thần đầy hứng khởi vui tươi, nói chuyện trào phúng khiến cho cả tàu đều vui nhộn. Vốn là người thích chơi bài tây, có khi bà ngồi suốt nhiều giờ mỗi ngày để đánh bài tiêu khiển với các sĩ quan trên tàu, ngoại trừ viên thuyền trưởng Wiakes, v́ quy luật hàng hải ngăn cấm vị thuyền trưởng chơi bài với các chức viên trực thuộc.

        Viên thuyền trưởng già là một người đẫy đà, vui tính, và không có mảy may tin tưởng nơi các vấn đề tâm linh hay huyền bí. Y thường nói đùa với bà HPB về những quan niệm của chúng tôi với một sự dốt nát về toàn thể vấn đề đến mức nó đă làm cho chúng tôi bất giác cười lớn. Ngày nọ, bà đang chơi bài một ḿnh về môn chơi đơn độc mà bà thích thú nhất, th́ vị thuyền trưởng bước vào và yêu cầu bà hăy nói tiên tri số mạng của ông ta bằng một quẻ bài. Thoạt tiên bà từ chối, nhưng sau cùng bà bằng ḷng, và bảo ông ta kinh rồi lật bài lên bàn. Bà nói:

        -Thật là lạ lùng, có thể nào lại như vậy!

        Vị thuyền trưởng hỏi:

        -Bà nói sao?

        -Những ǵ hiện lên trên các lá bài. Kinh lần nữa.

        Vị thuyền trưởng làm y theo lời, khi bài được chia và lật ngửa lên th́ dường như cho thấy kết quả cũng giống y như lần trước, v́ bà HPB nói rằng quẻ bài tiên tri một chuyện thật vô lư đến nỗi bà không muốn nói cho y biết. Viên thuyền trưởng khẩn khoản yêu cầu, bà mới nói rằng theo quẻ bài cho biết th́ y sẽ không c̣n đi biển được bao lâu nữa; y sẽ được cấp trên đề nghị nhận một việc làm trên đất liền, và y sẽ giải nghệ. Viên thuyền trưởng to béo cười lớn,  và nói cho bà biết rằng đó chính là điều mà y đang mong ước. C̣n nói về việc từ bỏ nghề đi biển, th́ không ǵ làm cho y thích thú hơn nữa, nhưng y không thấy có triển vọng được sự may mắn đó.

        Việc ấy đến đây không ai nói thêm điều ǵ nữa, ngoài việc viên thuyền trưởng lập lại lời tiên tri ấy cho một sĩ quan nghe, rồi qua ông nầy, nó trở nên một vấn đề trào lộng chọc cười cho cả tàu! Nhưng chưa phải là hết. Một hay hai tháng sau khi chúng tôi trở về Bombay, bà HPB nhận được một bức thư của Thuyền Trưởng Wickes, trong đó y nói y phải xin lỗi bà về thái độ của y đối với quẻ bài, và y phải thú nhận rằng lời tiên tri ấy đă được thực hiện. Sau khi chúng tôi đổ bộ lên đảo Tích Lan, y tiếp tục chuyến đi đến Calcutta. Khi tàu cặp bến, y được đề nghị nhận lấy chức vụ hải quan ở cảng Karwar. Y bằng ḷng nhận và đi chuyến trở về như một hành khách trên chiếc tàu của y!

        Đây là một trường hợp điển h́nh trong nhiều quẻ bài tiên tri khác nữa của bà HPB. Tôi không nghĩ rằng những lá bài có ăn nhằm ǵ đến lời tiên tri ấy, trừ phi chúng có thể đă tác động như một cái khoen liên lạc giữa bộ óc linh thị của bà và cái hào quang tâm linh của vị thuyền trưởng, và bởi đó nó khích động khả năng thần nhăn của bà để nh́n thấy việc tương lai. Tuy nhiên, mặc dù bà có năng khiếu thần thông, tôi không thấy bà đă từng tiên liệu trước một việc nào trong số những biến cố đau thương và tổn hại thanh danh đă xảy đến cho bà do âm mưu của những kẻ phản bội và những kẻ thù nghịch đầy ác ư. Hoặc nếu có, bà cũng không hề nói với tôi hay với bất cứ một người nào theo chỗ tôi được biết. Có lần ở Bombay, bà bị mất trộm một kỷ vật đáng giá, nhưng bà vẫn không thể t́m ra kẻ gian,  cũng không trợ giúp được nhân viên cảnh sát trong việc truy nă thủ phạm.

II

          Nói về khả năng tiên tri, tôi nghĩ rằng có lẽ tôi cũng có đôi chút khi tôi viết trong Nhật Kư của tôi câu nầy một ngày trước khi đến hải cảng Colombo:

        “C̣n phải đương đầu với những trách nhiệm mới mẻ và lớn lao: những vấn đề quan trọng độc đáo c̣n tùy thuộc nơi kết quả của chuyến đi nầy”.

        Thật không có ǵ đúng hơn nữa.

        Chúng tôi bỏ neo ngoài khơi cảng Colombo vào sáng ngày 16 tháng 5, và sau đó một lúc, một chiếc tàu nhỏ tiến đến cặp vào hông tàu, có chở theo Đại Đức Megittuwatte Gunanda và vài nhà sư trẻ trong tu viện Phật Giáo của ông đến đón chúng tôi.

        Đại Đức Megittuwatte tuổi độ trung niên, râu tóc cạo sạch, vóc vạc trung b́nh, trán cao, mắt sáng, miệng rộng, có tác phong đầy tự tín và dáng người rất nhanh nhẹn. Không như những nhà sư khác có vẻ trầm tư, mắt thường nh́n xuống đất khi nói chuyện, Đại Đức ngang nhiên nh́n thẳng vào người đối thoại. Ông là nhà diễn giả hùng biện, ăn to nói lớn nhất trong các giới lănh đạo Phật Giáo ở xứ này, và là một mối kinh hoàng, nể sợ đối với các nhà truyền giáo Gia Tô. Vừa nh́n thấy ông, người ta biết ngay ông là một nhà tranh luận hơn là một tu sĩ khổ hạnh. Trong nhiều năm, ông là nhà lănh tụ táo bạo, xuất chúng và có uy thế mạnh mẽ nhất của Phật giáo Tích Lan, và hiện nay là lănh tụ phong trào phục hưng Phật Giáo tại xứ nầy. Sau khi chào hỏi chúng tôi một cách đặc biệt thân t́nh và nồng hậu, Đại Đức yêu cầu chúng tôi cứ tiếp tục ở trên tàu để đi tới cảng Galle, tại đây đă có sắp đặt mọi việc để dành cho chúng tôi một cuộc tiếp đón quan trọng: c̣n Đại Đức sẽ đích thân đáp xe hỏa đi Galle ngay chiều hôm đó.

        Hừng sáng ngày hôm sau, chúng tôi đă ở ngoài khơi hải cảng Galle. Tàu bỏ neo ngoài khơi, cách bờ độ năm trăm thước, chúng tôi bước xuống một chiếc thuyền lớn được trang hoàng lịch sự, kết hoa sặc sỡ, trên đó có các vị chức sắc Phật Giáo cao cấp đến đón chúng tôi. Trên bến tàu và dọc theo băi biển, một đám quần chúng khổng lồ đă đợi sẵn chờ chúng tôi đến, và đồng thinh hô to khẩu hiệu chào mừng: “Sahdu! Sahdu!” vang cả một góc trời!

        Một khoảng đường được lót bằng vải trắng từ những bậc tam cấp ven bờ biển đưa lên mặt đường lộ, tại đây đă có xe chực sẵn, và muôn ngh́n lá cờ được phất lên một cách ráo riết để nghinh đón chúng tôi. Quần chúng bao vây quanh và đi theo đoàn xe, cuộc diễn hành trực chỉ nơi trú quán dành sẵn cho chúng tôi, là biệt thự của bà Wijeratne, quả phụ của một nhà thầu tỷ phú tại Galle.

        Khi đến nhà, có ba vị Sư Trưởng đón tiếp và ban ân huệ cho chúng tôi tại ngưỡng cửa, miệng lẩm nhẩm đọc kinh chúc lành bằng thổ ngữ Nam Phạn Pali. Kế đó, chúng tôi có một buổi hội kiến với các nhân vật địa phương, và vô số quan khách đến chào mừng. Bà Wijeratne và con trai bà lo săn sóc phục dịch chúng tôi một cách chu đáo tận t́nh. Trên các bàn lớn giữa nhà luôn luôn có đầy những mâm kẹo bánh, thực phẩm ngon lành và hoa quả, trái cây tươi ngon cỡ thượng hạng không đâu sánh kịp. Từng chặp một, lại có một cuộc diễn hành mới, gồm các phái đoàn sư săi áo vàng, sắp đặt theo thứ tự thâm niên của họ kể từ khi xuất gia quy y, tuần tự đến viếng và chúc lành chúng tôi. Thật là một kinh nghiệm độc đáo, một điều triệu tốt lành rực rỡ mở màn cho những mối quan hệ tương lai của chúng tôi với xứ nầy.

        Trong thời gian sau đó, luôn luôn chúng tôi có khách đến viếng đầy nhà và văng lai không ngớt suốt ngày, ngày nào cũng như ngày ấy. Những cuộc thảo luận về Đạo Lư vẫn tiếp diễn không ngừng với vị Sư Trưởng cao niên Bulatgama Sumanatissa và những nhà sư thông thái khác.

        Do sự sắp đặt của Ban Tổ Chức, tôi nói một bài thuyết pháp công cộng vào ngày 22 về Thông Thiên Học trước một cử tọa đông đảo chật ních cả hội trường. Ngoài phái đoàn của chúng tôi, c̣n có đủ mặt tất cả các Sư Trưởng và chức sắc của nhiều chi phái Phật Giáo đến dự thính.

        Cuộc thăm viếng nầy của chúng tôi là bước khởi đầu giai đoạn thứ nh́ của phong trào phục hưng Phật Giáo do Đại Đức megittuwatte đă khởi xướng trước đây. Đó là một phong trào nhằm mục đích quy tựu toàn thể các giới thanh thiếu niên Tích Lan vào những trường học Phật Giáo dưới sự tổng giám sát của chúng tôi. Tờ thông tri dưới đây do bạn Damodar chánh thức công bố, cho thấy những bước đầu do chúng tôi thực hiện, để đưa đến việc thành lập những chi bộ Thông Thiên Học trên đảo Tích Lan.

        Thông tri

Một cuộc hội họp sẽ được tổ chức vào chiều thứ hai tới đây tại Minuvengoda vào lúc 20 giờ, trong dịp nầy Đại Tá Olcott sẽ tŕnh bày về những mục đích của Hôi Thông Thiên Học. Sau đó, quư vị nào muốn gia nhập Hội, có thể ghi tên vào sổ.

Galle, ngày 22 tháng 5, năm 1880

(Thừa lệnh)

Damodar K. Mavalankar

Phó Tổng Bí Thư Hội Thông Thiên Học

Cuộc hội họp ấy do vị Sư Trưởng Bulatgama chủ tọa, và Đại Đức Megittuwatte khai mạc bằng một bài diễn văn hùng hồn làm khích động ḷng người.

        Ngày hôm sau, có mười một thí sinh đầu tiên được tôi thâu nhận vào hàng ngũ Hội viên, và cùng với họ, tôi tổ chức Chi Bộ Thông Thiên Học tại Galle. Thế rối bắt đầu một cuộc hành tŕnh dài hạn để viếng thăm nhiều thành phố khác nhau ở các vùng đại phương trên đảo. Những sự việc đă xảy ra tại Galle lại tái diễn ở các nơi khác: những cuộc tiếp đón long trọng; những sự vui mừng nồng nhiệt của quần chúng; những buổi thuyết pháp trước những cử tọa đông đảo, thường có đến vài ngàn người; những cuộc viếng thăm các tu viện, chùa chiền, đàm đạo giáo lư với các vị Sư Trưởng và các vị sư tăng ưu tú lỗi lạc,v.v…

        Với cái đà diễn biến đó, lần lần tôi thành lập các Chi Bộ Thông Thiên Học tại Colombo, với hai mươi bảy hội viên mới; Chi Bộ Kandy với mười bảy hội viên; các Chi Bộ Lanka, Bentota (hai mươi ba hội viên), Welitara, Panadure, Matara,v.v… Ngoài ra, tôi c̣n nhận được hàng chục thơ mời đến viếng những làng mạc xa xôi ở các vùng quê hẻo lánh. Thế là, sau cuộc viếng thăm các thành phố lớn, tôi bắt đầu đi thăm viếng các vùng làng mạc và thôn quê.

III

          Nếu có ai nghĩ rằng cái ảnh hưởng mà Hội Thông Thiên Học đă gây nên ở các xứ phương Đông, đă thu hoạch được dễ dàng mà không phí tổn công lao khó nhọc, họ hăy đọc qua những trang của quyển Hồi Kư này.

        Ngày ngày hoạt động, suốt tuần, suốt tháng, suốt năm, đều được ghi chép về những chuyến đi công tác đạo sự bằng tất cả mọi loại phương tiện di chuyển, từ toa xe lửa, cho đến các loại xe ngựa, xe thồ, lớn nhỏ đủ kiểu, do một con ngựa hay con ḅ kéo. Có khi đi bằng thứ xe ḅ thông dụng ở vùng đồng quê, với những bánh xe to lớn, chỗ ngồi làm bằng tre phủ lên một lớp rơm mỏng, do một cặp ḅ gù lưng mang trên cổ một cái ách bằng cây kéo đi chậm chạp. Có khi đi bằng thuyền ván đóng sơ sài với một mái che bằng lá dừa thiếu tiện nghi, chỗ ngồi không có ghế hoặc nệm chi cả. Khi th́ ngồi trên lưng voi trong một cái bành, hoặc thông thường hơn nữa là lưng voi không có bành, mà chỉ có một tấm nệm dầy buộc vào ḿnh voi bằng những sợi dây to lớn.

        Có khi di chuyển trong những ngày sáng sủa tốt trời, có khi gặp những ngày mưa dầm như trút nước, có khi đi trong những đêm trăng sáng, có đêm đi dưới ánh sao. Có những đêm, giấc ngủ của tôi bị gián đoạn bởi những âm thanh, tiếng động chọc phủng lỗ tai của cái thế giới sâu bọ trong rừng già của vùng nhiệt đới, tiếng kêu rùng rợn của loài chó rừng, tiếng động từ xa của những con voi rừng đi xuyên qua các băi mía, những tiếng ḥ hét không ngừng của người phu xe thúc đẩy những con ḅ chậm chạp, và những bài dân ca của y hát vang, thường trộn lẫn với những âm thanh chát chúa để giữ cho y khỏi buồn ngủ dọc đường.

        Ngoài ra, c̣n có những đám muỗi ṃng vây phủ quanh ḿnh bạn khi ngồi trên xe, với những tiếng kêu inh ỏi và những mũi dùi của chúng, gây nên một thứ cực h́nh chậm chạp và những nết sưng trắng nổi lên da thịt sáng ngày hôm sau.

        Kế đó, là lúc đến nơi, xe tiến vào các làng mạc lúc trời hừng sáng; toàn thể dân làng đứng chực sẵn hai bên đường để đón tiếp bạn; sự ṭ ṃ của họ phải được thỏa măn; những sự khó khăn gặp phải khi bạn cần tắm rửa sạch sẽ khi vừa đến nơi, sau chuyến đi vất vả mệt nhọc; buổi ăn sáng điểm tâm với cà phê, bánh hấp và trái cây; cuộc viếng thăm nơi các tịnh xá, tu viện; những cuộc thảo luận về kế hoạch, chương tŕnh hành sự và những triển vọng tương lai với các nhà lănh đạo Phật Giáo; một buổi thuyết pháp ở chỗ lộ thiên, hoặc nơi một giảng đường nếu có, trước một đám quần chúng đông đảo.

        Kế đó, là việc ghi tên họ những người quyên góp vào quỹ phước thiện, cho thỉnh kinh sách Phật Giáo nhập môn vá Phật Giáo Vấn Đáp. Đến chiều, có khi c̣n phải nói một buổi thuyết pháp thứ nh́ cho những người mới đến sau từ những làng lân cận. Rối đến những màn từ giă, giữa những tiếng trống dồn dập và tiếng kèn bổn xứ inh ỏi vang tai, những dân làng phất cờ tiễn đưa và kêu to khẩu hiệu “Sadhu! Sadhu!”, rồi lại tiếp tục chuyến đi qua những làng khác trên chiếc xe ḅ kêu kiũ kịt.

        Bấy nhiêu sự việc vẫn tiếp diễn ngày này qua ngày khác, trong khi tôi đi châu du hành đạo khắp nơi trong miền Tây đảo Tích Lan, làm cho quần chúng lưu ư đến vấn đề giáo dục con em theo đường lối, tôn chỉ nền quốc giáo của dân tộc họ, phân phát kinh sách, và kêu gọi sự quyên góp, cúng dường vào quỹ Phật Giáo để thực hiện kế hoạch công ích vĩ đại nầy.

        …………………………………………………………………………..

        Ngày 12 là ngày cuối cùng của chúng tôi trên đảo Tích Lan. Ngày 13, tàu đến, và chúng tôi lên tàu lúc hai giờ trưa, để lại sau lưng chúng tôi nhiều bạn hữu ứa lệ v́ tiếc thương, và đem theo chúng tôi nhiều kỷ niệm êm đềm của t́nh tương thân tương ái,  sự vui ḷng trợ giúp, và thiện chí tốt đẹp. Thêm vào đó là cái kỷ niệm của những chuyến đi hành đạo thích thú thần tiên với những danh lam thắng cảnh đẹp như mơ, những đám quần chúng đầy hứng khởi nhiệt thành, và những kinh nghiệm lạ lùng, cũng khá đủ tràn đầy kư ức với những h́nh ảnh sống động, để c̣n hối tưởng lại trong những năm về sau với một niềm sung sướng triền miên, với sự trợ giúp của vài hàng Nhật Kư cũ.

Chương Mười

MỘT CUỘC KHỦNG HOẢNG NỘI BỘ

I

       Vào khoảng cuối năm 1879, bắt đầu có sự bất ḥa trong cuộc sống tập thể của nhóm bốn người trong chúng tôi, nó là cái nguyên nhân đưa đến sự phân ly giữa nhóm người lưu vong khởi hành từ Mỹ Quốc sang đây. Sự kết hợp của nhóm người nầy là một điếu vô lư và phản tự nhiên, một sản phẩm kỳ khôi ngông cuồng của bà HPB và đương nhiên là phải gây xáo trộn.

        Bà HPB và tôi, như đă nói trước đây, vẫn luôn luôn đồng một quan điểm về vấn đề các Chân Sư, sự liên hệ giữa chúng tôi với các Ngài, và về lư tưởng phụng sự. Dầu cho giữa chúng tôi một đôi khi có sự va chạm nào, do bởi sự cách biệt phàm ngă và bởi cái nh́n khác biệt nhau về các vấn đề thế sự, chúng tôi vẫn luôn luôn hoàn toàn ḥa hợp ư kiến về một lư tưởng chung và về việc thực hiện cái lư tưởng đó. Nhưng đối với hai người bạn kia th́ lại khác. Ông Wimbridge và cô Bates đều là người Anh, và chỉ được phết một lớp sơn hiểu biết nông cạn về các vấn đề huyền học, siêu h́nh, do ḷng hứng khởi nồng nhiệt của bà HPB truyền sang. Ông W. là một họa viên và kiến trúc sư, c̣n cô B. là một nữ giáo viên dạy trẻ, độ chừng ba mươi lăm tuổi. Cả hai đều đă sống vài năm ở Mỹ, và được giới thiệu cho bà HPB do những bạn quen của đôi bên. Cả hai đều tán thành kế hoạch của bà HPB theo đó họ sẽ cùng đi với chúng tôi sang Ấn Độ để hành nghề tùy khả năng của mỗi người, với sự trợ giúp có thể t́m cho họ do ảnh hưởng của chúng tôi đối với những người Ấn Độ có thế lực.

        Tôi không có ǵ phiền trách ông W., nhưng cảm thấy một sự đố kỵ tự nhiên đối với cô kia. Tôi yêu cầu bà HPB đừng cho cô ấy đi theo chúng tôi. Bà luôn luôn đáp rằng v́ cả hai đều là người Anh có tinh thần quốc gia yêu nước, nên có họ đi cùng với ḿnh sẽ là một sự bảo đảm đối với nhà cầm quyền Anh Ấn, cho thấy sự vô tư của chúng tôi, hoàn toàn không có ư đồ hay mục tiêu chánh trị. Bà c̣n nói bà sẽ gánh chịu tất cả mọi hậu quả của việc này, v́ bà biết rằng sự liên hệ với hai người ấy hoàn toàn vô hại. Trong việc nầy, cũng như trong một trăm trường hợp khác nữa, tôi luôn luôn nhượng bộ trước sự tiên kiến chắc hẳn là huyền diệu và cao siêu hơn của bà; và thế là chúng tôi tất cả bốn người cùng vượt biển sang Ấn Độ và cùng định cư chung với nhau ở Bombay. Nhưng than ôi! Thật là không may mắn chút nào! Cô ấy bắt đầu gây nên một sự hiểu lầm giữa bà HPB và một thiếu phụ khác, Hội Viên Hội Thông Thiên Học ở Nữu Ước, lôi cuốn ông W. vào cuộc tranh chấp, và làm tan vỡ sự ḥa hợp trong nhóm chúng tôi. Tôi không có dính dáng ǵ về sự hiềm khích ấy, nhưng sau cùng tôi phải đảm nhiệm cái công tác không thú vị, là bắt buộc cô Bates phải đi ra khỏi Hội.

        Đó là cái số phận luôn luôn được gán ghép cho tôi: bà HPB là người vô t́nh gây nên những vụ căi lẫy, tranh chấp, c̣n tôi phải hứng chịu những cú đấm đá và đuổi cổ những kẻ bất hảo! Điều nầy, tất cả những bạn bè quen thuộc của chúng tôi đều biết rơ. Bà bạn tôi luôn luôn nói đến năng khiếu “linh cảm,linh giác” của bà, nhưng cái năng khiếu đó rất ít khi giúp bà phát hiện một kẻ phản bội hay một kẻ thù truyền kiếp đến với chúng tôi dưới ngụy trang của một t́nh bạn giả tạo.

II

          Trong chuyến đi Tích Lan kể trên, chúng tôi để cô Bates và bà Coulomb ở lại coi sóc Hội Quán. (Ông bà Coulomb là hai người Pháp vừa mới đến giúp việc cho chúng tôi). V́ cô Bates là gái độc thân, c̣n bà Coulomb đă có kinh nghiệm về nội trợ, nên tôi bỗng có cái ư nghĩ dại dột là bảo cô Bates hăy giao chức quản gia của cô lại cho bà Coulomb, c̣n cô lănh nhiệm vụ khác. Cuộc đời làm gia trưởng trên mười lăm năm của tôi vẫn chưa dạy cho tôi biết điều khôn dại nầy, là đừng nên để cho một người mới đến có cái cơ hội làm “bà chủ” để sai phái chỉ huy người đàn bà kia! Bây giờ th́ tôi đă biết rồi. Khi chúng tôi trở về Bombay, th́ thấy Hội Quán có một bầu không khí rất căng thẳng: cô Bates và bà Coulomb đang xung đột nhau, tất cả mọi sự tố giác và phản kích được cả hai người đổ vào lỗ tai không muốn nghe của chúng tôi! Cô Bates tố bà Coulomb toan bỏ thuốc độc cho cô, và bà nầy cũng trả đũa bằng một sự tố giác tương tự, ăn miếng trả miếng.

        Tôi muốn lấy chổi quét cả hai ra khỏi nhà, và đó là một điều rất tốt nếu tôi có thể làm như vậy. Nhưng thay v́ như thế, tôi lại được mời làm phán quan phân xử những sự tranh chấp căi lẫy của họ. Thế là tôi đành phải ngồi nghe những chuyện vô lư của họ suốt hai đêm liên tiếp, và sau cùng tôi quyết định rằng vụ tố giác bà Coulomb bỏ thuốc độc không đủ lư do buộc tội v́ không có bằng chứng cụ thể. Cái lư do chính của vụ xung đột là v́ chúng tôi đă giao chức vụ quản gia cho bà Coulomb trong khi chúng tôi vắng mặt, và cô Bates không hài ḷng với nhiệm vụ biên tập viên tạp chí mà chúng tôi giao cho cô. Trong khi tôi phân xử, bà HPB ngồi kế bên; bà có vẻ hút thuốc lá nhiều hơn lúc thường, và thỉnh thoảng cũng góp một lời, nhưng ư kiến của bà lại có khuynh hướng làm tăng gia hơn là làm dịu bớt sự căng thẳng. Sau cùng, ông Wimbridge, với tư cách là bạn của cô Bates, cũng đồng ư với tôi để bắt buộc cả hai đàng phải chịu ḥa giải,và tạm thời cơn giông tố đă lắng dịu.

        Những ngày kế đó, chúng tôi hoàn toàn bận rộn với công việc sưu tập và soạn bài cho tờ tạp chí “Theosophist”, một việc đă trở nên rất khẩn thiết sau thời gian vắng mặt khá lâu của chúng tôi.

        Ngay trước khi trở về Bombay, chúng tôi được tin bạn Mulji Thackersey đă từ trần, và thế là Hội Thông Thiên Học đă mất một cộng tác viên đắc lực.

Chiều tối ngày 4 tháng 8 năm ấy, một vị Chân Sư đến viếng bà HPB, và tôi được gọi đến để gặp Ngài trước khi ngày từ giă. Ngài đọc cho tôi viết một bức thư dài rất quan trọng cho một người bạn đạo có thế lực của chúng tôi ở Paris, và đưa cho tôi những sự gợi ư quan trọng về vấn đề quản trị công việc của Hội. Tôi được mời ra ngoài trước khi cuộc viếng thăm kết thúc, và v́ tôi để Ngài ngồi lại trong pḥng với bà HPB, nên tôi không thể biết rằng Ngài đă ra đi bằng cách nào, và Ngài có biến mất một cách mầu nhiệm hay không.

        Cuộc viếng thăm ấy đến với tôi rất đúng lúc, v́ chính vào ngày hôm sau, đă xảy ra một vụ nổ lớn: cô Bates phẫn nộ với bà HPB về một việc có liên quan đến người thiếu phụ ở New York kể trên, và căm giận quyết định của tôi trong vụ phân xử cuộc xung đột giữa cô với bà Coulomb. Trong khi cô day lưng về phía tôi và c̣n đang căi vă với bà HPB, th́ một bức thư của vị Chân Sư đến chiều hôm trước, từ trên không trung rơi xuống chỗ tôi ngồi. Tôi mở thư ra xem, th́ thấy đó là lời khuyên của Ngài về hành động tốt nhất mà tôi phải làm trong cơn khó khăn hiện tại.

        Ngày hôm sau, bắt đầu cuộc chia ly giữa bốn người trong nhóm chúng tôi; ông Wimbridge đứng về phe cô Bates. Có sự đồng ư chung về kế hoạch mua vé tàu cho cô Bates trở về New York, nhưng rốt cuộc điều nầy đă bị cô bác bỏ, sau khi một bạn đạo là ông Seervai đă lo sắp đặt xong mọi việc và làm các thủ tục cần thiết. Thật là một điều đáng tiếc v́ câu chuyện xảy ra do sự ganh tị, hiềm khích nhỏ nhen giữa đàn bà, một vụ xung đột thật vô lư và không đáng xảy ra, đáng lẽ nó có thể tránh khỏi bằng cách sử dụng lư trí và có một ít nhẫn nhục, tự chủ. Tuy rằng đối với chúng tôi, chuyện ấy không có ǵ đáng bận tâm, nhưng nó đă gây một ảnh hưởng xấu cho Hội. Một hậu quả đáng tiếc là những người ly khai đă t́m cách liên hệ với một tờ nhật báo bổn xứ ở Bombay, từ trước vẫn không hề có thiện cảm với chúng tôi, và tờ báo này đă công khai mạ lỵ Hội Thông Thiên Học với những lời lẽ cay đắng vẫn c̣n tiếp tục cho đến bây giờ.

III

          Cộng thêm vào cái viễn ảnh đen tối đó, sau chuyến đi Tích Lan trở về, chúng tôi thấy những Hôi viên đều im ĺm mê ngủ và Chi Bộ Bombay hoàn toàn bất động. Hai tháng vắng mặt của chúng tôi dường như đă làm tê liệt mọi hứng thú đối với công việc Hội, và khi tờ nhật báo bổn xứ nói trên bắt đầu khai pháo tấn công chúng tôi, th́ ṿm trời của chúng tôi rất u ám. Tuy vậy, chúng tôi vẫn tiếp tục với một ư chí kiên cường dũng mănh, và cố gắng cho tờ tạp chí ra đúng kỳ hạn mỗi tháng, và trả lời thư từ bốn phương gửi đến cho chúng tôi với số lượng càng ngày càng nhiều. Đó là một trong những cơn khủng hoảng của Hội, mà trong t́nh trạng hầu như cô đơn, bà HPB và tôi cùng sát cánh với nhau một cách chặt chẽ nhất để hỗ trợ tinh thần và khích lệ lẫn nhau. Tuy rằng những bạn bè thân tín nhất có thể phản bội và những cộng tác viên đắc lực nhất có thể bỏ cuộc nửa chừng, chúng tôi luôn luôn nói với nhau những lời lẽ đầy lạc quan, cố ư làm cho nhau nghĩ rằng cơn nghịch cảnh hiện tại không có ǵ đáng kể, và sẽ trôi qua như một cụm mây thưa thớt của mùa hè. Khi đó, chúng tôi biết, v́ cả hai chúng tôi đều có bằng chứng cụ thể và thường xuyên, rằng các đấng Cao Cả mà chúng tôi phục vụ, luôn luôn bao bọc che chở chúng tôi với nguồn thần lực mạnh mẽ và ân huệ của các Ngài; đó là một cái khiên vững chắc để bảo vệ chúng tôi khỏi mọi sự trắc trở nguy vong, và một điềm triệu báo trước sự thành công hoàn toàn trong sứ mạng.

        Tuy nhiên, với thời gian qua chúng tôi không đến nỗi cô đơn. Một trong số bạn đạo người Ấn Độ thường xuyên đến trợ giúp chúng tôi, và lần lần chúng tôi phục hồi lại được cái tư thế đă mất của thuở ban đầu.

        Trong số những người cộng tác đắc lực với chúng tôi, có bạn Damodar Mavalankar, một thanh niên Ấn thuộc gịng Bà La Môn mà chúng tôi đă nhiều lần đề cập tới trước đây. Tuy dáng người mảnh mai, ốm yếu, y đă lao ḿnh vào công việc đạo sự với tất cả tâm hồn và biểu lộ một tấm ḷng trung kiên sắt đá không ǵ lay chuyển. Hồi c̣n thơ ấu, vướng một chứng bịnh ngặt nghèo và bị sốt nặng sắp chết, trong cơn mê sảng y nh́n thấy linh ảnh một bậc hiền giả đạo mạo bước đến gần, nắm tay y và bảo y chưa nên chết vội, mà phải sống để làm việc Đạo trong tương lai. Sau khi gặp bà HPB, nhăn quang tâm linh của Damodar phát triển lần lần, và y nhận ra đấng mà chúng tôi gọi là Chân Sư K.H., chính là nhà hiền giả đă xuất hiện trong cơn mê sảng của y hồi c̣n trẻ thơ, khi y nằm hấp hối trên gường bệnh.

        Điều nầy đă làm cho y quyết tâm trung thành với lư tưởng và mục đích của chúng tôi; và y coi bà HPB như người mẹ đỡ đầu. Đối với tôi y đặt một niềm tin tuyệt đối, lẫn cả t́nh thương và ḷng kính trọng. Y binh vực tôi khi tôi vắng mặt, trước những sự vu khống công khai hay riêng tư, và đối xử với tôi như con đối với cha.

        Damadar đă hợp tác chặt chẽ và sát cánh với chúng tôi trong t́nh thân hữu đậm đà nhất. Y làm việc với một ḷng trung thành và vô kỷ tuyệt đối cho đến năm 1885, khi đó y khởi hành từ Madras sang Tây Tạng, qua Darjiling, và vẫn c̣n ở đó dưới sự huấn luyện của Chân Sư để chuẩn bị cho y làm công tác phụng sự cho nhân loại trong tương lai. Thỉnh thoảng, có tin đồn nhảm được loan truyền rằng y đă chết trên lộ tŕnh đầy tuyết phủ trong chuyến đi lên dăy Tuyết Sơn, nhưng tôi có lư do vững chắc để tin rằng y c̣n sống mạnh khỏe và có ngày y sẽ trở về. Tôi sẽ trở lại vấn đề nầy ở một đoạn sau.

        Có lần Damodar nhận được bốn bức thư gởi đến từ bốn thành phố cách nhau rất xa và tất cả đều có đóng dấu sở Bưu Điện. Tôi đưa tất cả cho Giáo Sư Smith, yêu cầu ông hăy vui ḷng xem xét cẩn thận mỗi bao thư xem có dấu hiệu ǵ chỉ rằng có ai đă bóc ra không, v́ trong thư tín của chúng tôi, thường thấy có những lời ghi chú của Chân Sư viết thêm vào những khoảng trống. Sau khi đă khám xét tỉ mỉ,Giáo sư trả lại cho tôi và nói rằng tất cả các thư đều c̣n nguyên vẹn hoàn toàn, không có dấu vết ǵ khả nghi. Tôi mới yêu cầu bà HPB hăy thử "nh́n" xem có thông điệp nào của Chân Sư trong đó không. Bà bèn cầm lấy các thư vẫn c̣n nguyên vẹn, để từng cái một lên trán, và nói rằng trong hai bức thư có chữ viết của Chân Sư. Kế đó bà đọc các thông điệp bằng khả năng linh thị, và tôi bèn yêu cầu Giáo Sư Smith hăy tự tay ông mở các bao thư. Ông này săm soi xét kỹ các bao thư lại một lần nữa rồi lấy dao rọc mở các bao, và tất cả chúng tôi đều nh́n thấy rằng nội dung các thông điệp đều giống y như bà HPB đă đọc bằng thần nhăn.

        Chính vào ngày chia ly giữa nhóm chúng tôi như đă kể trên, chúng tôi nhận được thư ông Sinnett mời chúng tôi lên chơi tại nhà nghỉ mát của ông ở Simla, thủ đô mùa hè của chính phủ Ấn Độ, ở dưới chân dăy Tuyết Sơn. Chúng tôi rời khỏi Bombay bằng xe lửa, và dọc đường chúng tôi ghé lại vài thị trấn trên miền Bắc để viếng thăm các Chi Bộ đă thành lập trước đây. Kế đó, chúng tôi ngồi xe thồ leo đường dốc núi đến Kalka, nghỉ ngơi tại đó hết nửa ngày rồi mới thuê xe ngựa để đi Simla. Cảnh vật miền núi thật là hùng vĩ, ngoạn mục với những đỉnh núi cao trùng điệp nối tiếp nhau đến tận chân trời. Chúng tôi đến thị trấn Simla trước khi mặt trời lặn, những ngôi biệt thự phản chiếu ánh nắng vàng làm cho thành phố có vẻ rất hấp dẫn. Một người nô bộc của gia đ́nh ông Sinnett đón tiếp chúng tôi khi vào thành phố, với những chiếc kiệu nhỏ hai người khiêng ở hai đầu, và không bao lâu chúng tôi đă đến ngôi biệt thự của ông bà Sinnett, tại đây một cuộc tiếp đón nồng hậu đang chờ đợi chúng tôi.

Chương mười một

VIẾNG THỊ TRẤN SIMLA

I

       Thị trấn Simla phô bày trước mắt chúng tôi những cảnh tượng rất hùng vĩ của miền sơn cước. Ngôi biệt thự của ông Sinnett tọa lạc trên một sườn núi, nh́n xuống một vùng thung lũng rất ngoạn mục, và ngồi trên hàng ba nhà ông, người ta có thể nh́n thấy những biệt thự của phần nhiều những vị quan chức Anh Ấn cao cấp nắm guồng máy cai trị cả một đế quốc rộng lớn nầy.

        Sáng ngày hôm sau, cử chỉ đầu tiên của ông Sinnett là bắt đầu có một cuộc nói chuyện rất nghiêm trọng với bà HPB về chính sách mà bà nên theo đuổi. Ông khẩn khoản yêu cầu bà hăy nên coi cuộc viếng thăm nầy như một chuyến đi chơi giải trí mà thôi, và trong thời gian ba tuần lễ ở tại đây, bà đừng nói ǵ đến Hội Thông Thiên Học cũng đừng đề cập đến việc chúng tôi bị chính phủ theo dơi v́ bị t́nh nghi là gián điệp của Nga. Nói tóm lại, hăy quên đi việc riêng của ḿnh, mà tốt hơn hăy đạt kết quả bằng cách gây cảm t́nh trong các giới quen biết tại đây, những giới nầy sẽ không có thiện cảm nếu họ bị bắt buộc phải nghe những quan niệm dị kỳ của chúng ta và nghe những sự than phiền về những nỗi bất công vô lư mà chúng ta phải chịu.

        Lẽ tất nhiên, bà HPB hứa sẽ nghe theo, và cũng lẽ tất nhiên, bà quên hết tất cả khi người khách đầu tiên vừa bước chân vào nhà. Những tin tức từ Bombay về hậu quả của vụ xung đột với cô Bates làm cho bà xúc động đến cực điểm, và sáng ngày hôm sau, như thường lệ, bà trút hết tất cả mọi tội lỗi, trách nhiệm lên đầu tôi. Bà dậm chân đi bách bộ tới lui trong pḥng và nói độc thoại cơ hồ như tôi là cái nguyên nhân của tất cả mọi sự đắng cay khổ sở của bà. Sau đó, ông Sinnett, trong một buổi nói chuyện riêng với tôi, có bày tỏ sự thất vọng mà thấy rằng bà không chịu tự chủ lấy ḿnh, mà đă bỏ mất tất cả những cơ hội kết thân với những người mà ḿnh rất cần gây thiện cảm như một điều tối ư quan trọng. Ông nói rằng người Anh luôn luôn coi đức tự chủ, điềm nhiên như một dấu hiệu của giá trị nhân bản thực sự của con người.

        Bà bạn trung kiên của chúng tôi, Gordon phu nhân, là vị khách đầu tiên của chúng tôi tại Simla, và sau đó nối tiếp nhau một loạt những quan chức quan trọng nhất của chính phủ, mà ông Sinnett mời đến nhà để gặp bà HPB. Trong tập Nhật Kư của tôi có chép rằng bà bắt đầu làm những hiện tượng thần thông ngay lập tức. Từ ngày đầu tiên cho đến sau, không một buổi dạ tiệc nào được coi như đầy đủ mà không có sự biểu diễn những phép thuật của bà HPB, chẳng hạn như phát động tiếng gơ nhịp dưới mặt bàn và tiếng chuông reo trong không khí,v.v... Thậm chí, bà c̣n làm cho tiếng chuông reo ở trên và bên trong đầu của những vị chính khách nghiêm trang khả kính nhất.

        Từ trước đến nay, chúng tôi vẫn bị chính phủ ghét và theo dơi v́ bị nghi ngờ là nhân viên gián điệp của Nga. Một mục tiêu của chuyến đi nầy là phải làm sao giải tỏa sự hiểu lầm vô lư đó để cho công việc làm của chúng tôi ở Ấn Độ khỏi bị ngăn trở, chướng ngại. Nhưng tôi đợi cho đến khi chúng tôi đă đích thân gặp gỡ và tiếp xúc với tất cả những vị quan chức ở cấp lănh đạo, để cho họ có cơ hội nhận xét trực tiếp về tác phong, hạnh kiểm và ư đồ khả hữu của chúng tôi khi đến xứ Ấn Độ.

        Khi nhận thấy đă đến lúc, một ngày nọ sau bữa ăn tối, tôi nói chuyện một cách thân hữu với vị Bộ Trưởng Bộ Ngoại Vụ trong chính phủ, và sắp đặt một cuộc trao đổi thư từ, kèm theo với những bổn sao các văn kiện, chứng thư riêng của tôi. V́ tính cách lịch sử và tầm mức quan trọng của vấn đề nầy, nên tôi in lại nguyên văn bức thư của tôi như sau:

        Simla, ngày 27 tháng 9 năm 1880

        Kính gởi: Ông Bộ Trưởng Bộ Ngoại Vụ.

        Thưa ông Bộ Trưởng,

        Tham chiếu cuộc đàm thoại giữa chúng ta ngày thứ bảy vừa qua về Hội Thông Thiên Học và công việc của Hội tại Ấn Độ, và thể theo lời đề nghị của tôn ông, tôi xin tŕnh bày vấn đề lại bằng văn thư.

        1.-Hội Thông Thiên Học được tổ chức tại New York năm 1875 do bởi một số học giả khoa Đông Phương học và Tâm Linh học, nhằm mục đích học hỏi khảo cứu các tôn giáo, triết lư và khoa học cổ của Á Châu với sự trợ giúp của các nhà học giả, chuyên viên bổn xứ.

        2.-Ngoài những mục đích kể trên, Hội không có mục đích nào khác nữa, và nhất là không có ư định xen vào các vấn đề chính trị, dù ở Ấn Độ hay bất cứ ở đâu.

        3.-Năm 1878, hai nhà sáng lập Hội, là bà H.P.Blavatsky, một công dân nhập quốc tịch Mỹ(*)[i] và là một học giả khoa Tâm Linh Học Á Châu và tôi, cùng với hai hội viên khác (thuộc quốc tịch Anh) đă đến Ấn Độ để xúc tiến công việc của Hội. V́ lẽ hai người trong nhóm chúng tôi là ngưới Anh, người thứ ba có quốc tịch Mỹ, và tôi là một công dân sinh trưởng tại Mỹ Quốc, nên chúng tôi không hề dính líu đến vấn đề chính trị của xứ Ấn Độ. Riêng tôi có một thẻ thông hành đặc biệt (theo thể thức ngoại giao) của Ngoại Trưởng Evarts cấp cho tôi, với một chứng thư của Bộ Ngoại Giao Mỹ giới thiệu cho tôi các vị Đại sứ và lănh sự Mỹ ở hải ngoại, cùng với một chứng thư tương tự viết tay của Tổng Thống Hoa Kỳ. Những bổn sao các văn kiện trên đă được lưu trữ tại Văn Khố của chính phủ tiểu bang Bombay, và sẽ được gởi đến Bộ Ngoại Vụ Ấn Độ trong nay mai.

        4.-Những báo cáo sai lầm, do bất minh hay ác ư, về mục đích của chúng tôi tại Ấn Độ, đă được đệ tŕnh lên chính phủ Ấn, bởi đó chúng tôi bị đặt dưới sự canh chừng và theo dơi của nhân viên công lực, nhưng công việc nầy đă được thi hành một cách vụng về đến nỗi nó làm cho cả nước đều chú ư, và người dân bổn xứ thấy rằng mọi liên hệ với chúng tôi sẽ gây ác cảm đối với chính quyền, và sẽ ảnh hưởng bất lợi đến tương lai của họ.

        Như vậy, những kế hoạch lợi ích của Hội chúng tôi bị ngăn trở một cách trầm trọng, và chúng tôi phải chịu nhiều sự ngược đăi hoàn toàn không có lư do chính đáng, do hậu quả hành động của chính phủ căn cứ trên những tin đồn nhảm và thất thiệt.

        5.-Bất cứ người nào đă từng có dịp biết rơ sự thật, đều nhận thấy rằng trong thời gian lưu trú của chúng tôi trên mười tám tháng nay ở Ấn Độ, chúng tôi đă gây một ảnh hưởng lành mạnh và bảo thủ đối với dân bổn xứ, và được họ chấp nhận như những người bạn tốt lành, chân chính của dân tộc và xứ sở họ. Chúng tôi có giữ nhiều thư từ gởi đến từ khắp mọi nơi trên xứ Ấn Độ để chứng thực điều ấy.

        Nếu chính phủ có thể giải tỏa những sự bất lợi mà họ đă vô t́nh gây cho chúng tôi, và phục hối trở lại thanh danh mà chúng tôi vẫn có trước khi cái nhăn hiệu "âm mưu chính trị" bị chụp mũ lên đầu chúng tôi một cách tàn nhẫn và bất công như đă kể trên, th́ chúng tôi sẽ có thể làm một công việc phụng sự lớn lao không những cho dân chúng Ấn Độ mà c̣n cho cả nền văn hóa và khoa học Đông Phương.

        Nếu lịnh cho nhân viên mật thám theo dơi chúng tôi chỉ bị hủy bỏ không thôi cũng vẫn chưa đủ, v́ sự nghi ngờ đă âm thầm tác động từ trên xuống dưới trong guồng máy cai trị của chính phủ, xuyên qua tất cả mọi giai tầng cơ sở trong quần chúng Ấn, làm cho chúng tôi đương nhiên trở thành một h́nh ảnh của tai họa.

        Như một giải pháp hữu hiệu, chúng tôi yêu cầu Bộ Ngoại Vụ ra lịnh cho các cấp trực thuộc hăy thông báo cho từng địa phương biết rơ sự kiện nầy là chúng tôi không c̣n bị nghi ngờ, và xét v́ công việc của chúng tôi làm là v́ sự lợi ích cho xứ Ấn Độ, nên nó được chấp nhận. Và điều nầy, với tư cách là một sĩ quan và một công dân Mỹ, tôi trân trọng giải bày với tôn ông như nhà đại diện của nền công lư và luật pháp công minh của Anh Quốc.

        Trân trọng kính thư,

        Đại tá Henry S. Olcott.

Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học Thế Giới

        Sự trả lời của chính phủ Ấn Độ vẫn chưa làm tôi thỏa măn; tuy họ có lời bảo đảm rằng chúng tôi sẽ không bị quấy rầy nếu chúng tôi không xen vào việc chính trị, nhưng họ không nói rằng những lịnh truyền cho các quan chức Anh Ấn ở các tiểu bang theo dơi và ḍ xét chúng tôi sẽ được hủy bỏ.

        Trong một bức thư thứ nh́, tôi đă lưu ư Bộ Ngoại Vụ đến vấn đề này, và sau đó ít lâu, tôi đă đạt được như ư muốn. Kể từ khi đó, chúng tôi đă được tự do.

II

          Ngày 29 tháng 9, bà Sinnett, bà HPB và tôi cùng đi dạo chơi trên đỉnh một ngọn đồi ở vùng chung quanh. Trên nóc lợp ngói của một ngôi miễu nhỏ của Ấn giáo tại đó, giữa vô số những chứ khắc tên họ của du khách bốn phương đến viếng, tôi nhận thấy có một chứ khắc ám hiệu của Chân Sư M. với tên tôi ở dưới, nhưng do đâu mà có chữ đó th́ tôi cũng không biết. Khi chúng tôi đang ngồi nói chuyện, bà HPB nhân lúc cao hứng, mới hỏi chúng tôi có ai mơ ước điều ǵ không?

        Bà Sinnett nói:

        -Tôi muốn có một thông điệp của Chân Sư rơi xuống ngay chỗ tôi ngồi.

        Bà HPB bèn lấy từ trong quyển sổ tay bỏ túi của bà một tờ giấy màu hồng, dùng ngón tay vẽ lên đó vài phù hiệu bí mật, xếp tờ giấy thành h́nh ba góc, cầm nó trong tay đi xuống sườn đồi cách đó độ hai mươi thước, day mặt về hướng Tây, đưa tay vẽ một đạo bùa trên không gian, x̣e cả hai bàn tay ra, và tờ giấy kia liền biến mất.

        Thay v́ nhận được thư trả lời rơi xuống chỗ bà đang ngồi, bà Sinnett nhận thơ bằng cách trèo lên một cái cây ở gần bên. Thông điệp ấy được viết trên tờ giấy màu hồng lúc năy, cũng xếp thành h́nh ba góc, và mắc vào một nhánh nhỏ trên cây. Trên tờ giấy có chữ viết do một bàn tay lạ, để trả lời một câu hỏi riêng tư của bà Sinnett, và do Chân Sư K.H. kư tên bằng chữ Tây Tạng.

        Bây giờ tôi xin kể một chuyện khác.

        Một nhóm chúng tôi gồm sáu người, ba người nam và ba người nữ, sửa soạn từ nhà ra đi trong một cuộc du ngoạn dưới một thung lũng cách xa thành phố. Người quản gia của gia đ́nh Sinnett đă sắp đặt các giỏ mây đựng đồ vật thực, và đă gói vào trong giỏ sáu bộ chén dĩa kiểu lạ để dùng trà. Khi chúng tôi sắp sửa ra đi, th́ một người khách đến th́nh ĺnh, và cũng được mời cùng đi với chúng tôi. Những người gia bộc đă xách các giỏ mây đi trước, c̣n chúng tôi từ từ đi sau theo hàng một, trên con đường ṃn gồ ghề khúc khuỷu đưa xuống thung lũng. Sau một chuyến đi bộ dạo chơi thong thả, chúng tôi đến một chỗ bằng phẳng trên sườn một dăy đồi cỏ cây sầm uất, với những cây cổ thụ to lớn có tàn cây che mát rợi.

        Chúng tôi bèn cắm trại ở đây, và nằm ngồi rải rác trên băi cỏ xanh, trong khi những gia nô trải tấm nắp bàn trên băi cỏ và bày đồ vật thực. Họ vừa nhúm lửa nấu nước pha trà, th́ thấy người quản gia vẻ mặt băn khoăn bước đến gần bà Sinnett, và thưa với bà rằng c̣n thiếu một bộ chén dĩa cho ông khách mới đến vào giờ phút chót. Bà nói với một giọng bực ḿnh:

        -Anh thật là lơ đễnh mà không nhớ đem thêm một bộ chén dĩa nữa, khi anh biết rằng ông khách ấy cũng sẽ dùng trà như mọi người.

        Kế đó bà quay lại với chúng tôi và vừa nói vừa cười:

        -H́nh như trong các bạn, chắc phải có hai người uống chung một cốc.

        Lúc ấy tôi mới nói rằng trước đây trong một trường hợp tương tự, chúng tôi đă giải quyết vấn đề bằng cách đưa cái chén cho một người và cái dĩa cho người kia. Đến đây, một người trong nhóm nói đùa với bà HPB:

        -Bây giờ, thưa bà, đây là một cơ hội để cho bà làm một ít phép thuật thần thông.

        Tất cả chúng tôi đều bất giác cười lớn v́ câu nói đùa bỡn vô lư đó, nhưng khi thấy bà HPB có vẻ sẵn ḷng chấp nhận th́ mọi người đều hoan hô thích thú, và yêu cầu bà ra tay ngay lập tức. Những người nằm trên băi cỏ cũng đă đứng dậy và tề tựu chung quanh. Bà HPB nói rằng để làm cái việc nầy, bà cần có sự trợ giúp của Thiếu Tá X., một bạn hữu của chúng tôi cũng đang có mặt lúc ấy.

        Ông này tỏ vẻ bằng ḷng, bà mới yêu cầu ông đem theo một đồ dụng cụ để đào đất; ông ta bèn chụp lấy con dao lớn đựng trong giỏ và đi theo bà. Bà HPB nh́n chăm chú trên mặt đất, đưa mặt chiếc nhẫn lớn của bà đeo, chiếu xuống chỗ nọ chỗ kia, và sau cùng bà nói:

        -Ông hăy đào chỗ nầy.

        Ông khách kia ra tay đào xới, và nhận thấy rằng phía dưới lớp cỏ xanh che phủ mặt đất, là một hệ thống chằng chịt những rễ cây của những cây lớn nhỏ ở gần bên. Ông ta cắt những đám rễ và lôi ra từng nắm, kéo đất rời qua một bên, và đụng phải một vật màu trắng. Th́ ra đó là một cái chén sứ uống trà nằm trong ḷng đất, và khi ông ta lấy cái chén ra th́ thấy nó thuộc cùng một kiểu giống y như sáu cái chén kia. Hăy tưởng tượng những tiếng kêu ngạc nhiên và xúc động của nhóm người đứng xem chung quanh!

        Bà HPB bảo ông kia hăy tiếp tục đào nữa ở chỗ ấy, và sau khi ông nầy đă cắt bỏ và kéo ra một rễ cây lớn bằng ngón tay út của tôi, ông ta lôi ra một cái dĩa cũng cùng một kiểu với những bộ chén dĩa khác. Điều nầy làm cho cả bọn xúc động đến cực điểm, và ông khách sử dụng con dao lại là người kêu to ầm ĩ nhất v́ ngạc nhiên và khoái trá.

        Khi cuộc đi chơi kết thúc và chúng tôi trở về nhà, bà Sinnett và tôi cùng đi thẳng đến cái tủ đựng chén để kiểm điểm lại, th́ thấy bốn bộ chén dĩa uống trà bỏ sót lại ở nhà vẫn c̣n nguyên, cùng với sáu bộ đem theo là tất cả mười bộ. Thế là bộ thứ bảy do bà HPB tạo thêm trong cuộc đi chơi, không phải ở trong số mười bộ chén của bà Sinnett.

        Nếu có kẻ hoài nghi đưa ra giả thuyết rằng bộ chén sau cùng nầy đă có thể được chôn dấu từ trước để ḷe bịp chúng tôi, th́ sự thật hiển nhiên đă đính chánh ngay điều ấy. Mọi người có mặt đều nh́n thấy rơ rằng bộ chén dĩa ấy nằm gọn trong ḷng đất y như những mảnh đá vụn, giữa những rễ cây mọc dọc ngang chằng chịt như màng lưới, phải dùng sức mạnh và dao bén để chặt đứt và bứng ra một cách tàn bạo phũ phàng mới lôi bộ chén dĩa kia ra được. Lớp cỏ trên mặt đất ở chỗ ấy vẫn xanh tươi và không có dấu hiệu ǵ khả nghi, và nếu có ai đă đào đất lên để chôn bộ chén dĩa từ trước, th́ mặt đất bị đào xới đă không thể nào thoát khỏi cái nh́n nhận xét tinh vi của toàn thể quan khách đứng vây chung quanh trong khi ông Thiếu Tá ra tay làm việc.

        Sau buổi ăn trưa, bà HPB c̣n làm một phép mầu khác, nó làm tôi ngạc nhiên hơn cả. Một trong những vị khách nói rằng ông ta sẵn ḷng gia nhập Hội Thông Thiên Học nếu bà HPB có thể làm ngay tại chỗ cho ông ta một chứng chỉ Hội viên đă hoàn tất mọi thủ tục.

        Đó hẳn là một yêu cầu quá đáng, nhưng bà bạn tôi không hề e ngại, đưa tay khoát một cái trên không trung, và chỉ vào một bụi rậm cách đó một khoảng ngắn, bà bảo người kia hăy đến đó xem có ǵ không, v́ cây và bụi rậm thường được dùng làm các trạm phát thư tín.

        Người khách kia vừa cười vừa đi đến chỗ bụi rậm, dường như không tin tưởng lắm về kết quả mong ước, nhưng khi đến nơi, ông ta rút ra từ trong bụi rậm một chứng chỉ hội viên bằng chữ in có ghi tên họ của y và ngày tháng hôm đó, với một bức thư chính thức của vị Hội Trưởng, mà tôi biết chắc rằng tôi không hề viết, nhưng lại viết bằng chính tuồng chữ của tôi!

        Điều nầy làm cho tất cả mọi người đều hoan hô vui vẻ, và v́ bà HPB đang nhân lúc cao hứng, nên dường như không một phép lạ nào khác mà bà không làm cho chúng tôi xem. Những màn biểu diễn phương thuật của bà HPB đă có kết quả là làm cho nhiều nhân vật người Âu có thế lực đă gia nhập Hội Thông Thiên Học, và biểu lộ một ḷng ưu ái đầy thiện cảm đối với bà bạn của tôi.

        Ngày 7 tháng 10, tôi thuyết tŕnh về đề tài: "Thần Linh Học và Thông Thiên Học " tại hội trường của Viện Phụng Sự Hợp Nhất ( United Institution). Tôi được cho biết rằng số thính giả hôm ấy gồm một cử tọa đông đảo nhất chưa từng thấy tại Simla. Tối hôm đó tôi được mời tham dự buổi dạ tiệc tiếp tân của vị Phó Vương Anh, Lord Ripon, tại Dinh Chính Phủ và được nhiều bạn hữu đến chúc mừng, khen tặng tôi về buổi diễn thuyết và về những mối giao tế được cải thiện tốt đẹp với chính phủ Anh Ấn.

        Hằng ngày chúng tôi đều bận rộn tiếp khách, bà HPB vẫn tiếp tục làm các hiện tượng thần thông, đến mức làm cho một nửa dân số Simla tin rằng bà được sự " trợ giúp của Quỷ Vương (Satan)". Một viên sĩ quan Anh trong nhóm quan khách cũng đă không ngần ngại mà nói thẳng với bà như vậy. Chiều hôm đó, ông Hume đưa cho bà một bức thư đầu tiên để nhờ bà chuyển đạt lên Chân Sư K.H. Đó là bước khởi đầu cuộc trao đổi thư từ vô cùng thú vị giữa ông với Chân Sư, thỉnh thoảng vẫn được mọi người nhắc đến.

        Những ngày cuối cùng của chúng tôi ở Simla vẫn c̣n gồm những buổi dạ tiệc tiếp tân và những cuộc đi du ngoạn ngoài thành phố, trong những dịp đó một vài màn biểu diễn phép thuật của bà HPB đă làm cho các quan khách thích thú đến cực điểm. Một màn trong số đó rất thú vị.

        Ngày hôm đó bà Sinnett, bà HPB và tôi đang ngồi đợi ông Sinnett tại pḥng khách. Các bà ngồi chung với nhau trên chiếc divan, bà Sinnett cầm tay bà HPB để ngắm nh́n đến lần thứ hai mươi và trầm trồ khen ngợi một chiếc nhẫn kim cương màu vàng rất đẹp, vốn là món quà tặng của bà Wijeratne, vợ một nhà thầu giầu có ở tỉnh Galle trong dịp viếng thăm của chúng tôi đến Tích Lan trong năm ấy.

        Đó là một hột kim cương loại rất hiếm và quư giá, long lanh chớp và phóng ra những tia sáng chói lập ḷe. Bà Sinnett đă có lần yêu cầu bà HPB dùng phép thuật tạo thêm cho bà một phó bổn của hột kim cương ấy, nhưng bà này không hứa ǵ cả. Tuy nhiên, lần này bà chịu làm.

        Bà HPB dùng hai ngón của bàn tay kia xoa lên hột đá quư độ một lúc, kế đó bà ngừng tay và để lộ chiếc nhẫn đeo trên bàn tay bên này. Nằm sánh đôi với hột kim cương của bà đeo, giữa ngón tay đeo nhẫn và ngón tay bên cạnh, là một hột kim cương khác cũng màu vàng, tuy không chói sáng bằng hột của bà, nhưng cũng là một hột kim cương rất đẹp, mà bà liền tặng cho bà Sinnett. Cho đến bây giờ, món bảo vật ấy vẫn c̣n là sở hữu của bà bạn quư mến của chúng tôi.

        Buổi cơm tối hôm đó, bà HPB không ăn ǵ cả, nhưng trong khi mọi người đang dùng bữa th́ bà cứ ngồi sưởi ấm hai bàn tay trên dĩa bàn đựng nước nóng đặt trước mặt bà. Độ một lát, bà xoa hai bàn tay, và chà xát thật mạnh, th́ tahy61 có hai hột ngọc bích nhỏ rơi xuống dĩa. Hiện tượng làm cho xuất hiện các loại đá quư này cũng rất thường xảy ra đối với Staiton Moses, người bạn Anh mà chúng tôi có đề cập tới trong quyển Hồi Kư I. Đôi khi các loại đá quư nhỏ rơi xuống như mưa trên ḿnh y và rơi khắp pḥng, có khi th́ vài viên ngọc thạch lớn. Người Đông Phương nói rằng đó là do tác động của những tinh linh của loài khoáng thạch, thuộc loại mà người Tây Phương gọi là Thổ Tinh (Gnomes), hay tinh linh của các hầm mỏ, và thổ ngữ Tamoul Ấn Độ gọi là Kalladimanden.

        Ông Sinnett có ghi chép lại một việc xảy ra ngày 20 tháng 10, mà ông gọi là "hiện tượng cái gối". Hôm ấy chúng tôi đi du ngoạn và cắm trại trên một ngọn đồi, ông Sinnett cũng đang trông đợi một thông điệp trả lời cho một bức thư ông gửi cho một vị Chân Sư, nhưng ông không nghĩ rằng ông sẽ nhận được trong chuyến đi dạo chơi hôm đó.

        Tuy nhiên, một người trong nhóm đề nghị với bà HPB làm xuất hiện một vật ǵ bằng phép thần thông. Bà HPB hỏi:

        -Các ông muốn nhận được vật ấy ở đâu ngoài trên một cành cây? không nên làm cho phép thuật trở thành nhàm v́ cứ lặp lại những chuyện cũ.

        Mọi người mới thăm ḍ ư kiến lẫn nhau, và sau cùng họ đồng ư yêu cầu bà làm cho vật ấy xuất hiện bên trong cái gối dựa lưng của bà Sinnett đang dùng ở trên chiếc ghế bành của bà lúc ấy. Bà HPB bèn nói:

        -Được rồi, hăy mở nó ra xem có vật ǵ ở trong không.

        Ông Sinnett bèn lấy con dao bỏ túi của ông và rọc cái gối. Cái áo gối ở ngoài mặt có thêu hoa, được lót bằng da hay một thứ vải cứng và may bằng thứ chỉ lớn, dầy và rất chắc. Đó là một cái gối kiểu xưa, và đường chỉ đă trở nên cứng chặt với thời gian, làm cho công việc cắt rạch nó ra hơi có phần khó nhọc.

        Tuy nhiên, sau cùng th́ cái bao ngoài đă bị rách đứt, và bên trong là một cái bao thứ nh́ chứa đựng lông chim và cũng được may bằng một thứ chỉ rất chắc. Khi cái gối trong đă bị cắt ra xong, ông Sinnett mới thọc tay vào, ṃ trong đống lông chim, và lấy ra một bức thư với một cái trâm cài đầu. Đó là bức thư của Chân Sư K.H. đề cập đến một câu chuyện giữa ông Sinnett với bà HPB; c̣n cái trâm cài đầu là của bà Sinnett, và ngay trước khi xuất hành, bà c̣n để nó lại trên mặt bàn phấn của bà. Tôi để cho độc giả hăy tự rút lấy kết luận của những sự việc kể trên.

III

          Để hoàn tất đầy đủ việc ghi chép lịch sử những mối giao thiệp đầu tiên của chúng tôi với chính phủ Ấn Độ, và cho thấy họ đă đi tới hành động cực đoan vô lư như thế nào để tự bảo vệ chống những âm mưu chính trị khả hữu của Hội Thông Thiên Học, tôi đă quyết định in lại bức thư của tôi đề ngày 17 tháng 9. Thư ấy tuy cũng khá thân thiện, nhưng không đủ làm thỏa măn yêu cầu của chúng tôi. Nguyên văn bức thư ấy như sau:

        Bộ Ngoại Vụ

        Tổng Lư Sự Vụ

        Số 1025 E.G.

        Simla, ngày 2 tháng 10 năm 1880

        H.M. Durand,

        Thứ Trưởng Ngoại Vụ Chính Phủ Ấn Độ

 

        Kính gửi:Đại Tá H.S.Olcott

        Hội Trưởng

        Hội Thông Thiên Học Thế Giới

        Kính Ông,

        1.-V́ lư do công vụ, ông Bộ Trưởng A.C.Lyall vắng mặt tại Simla, nên tôi được chỉ thị trả lời bức thư Ông đề ngày 27 tháng 9 vừa qua.

        2.-Ông tŕnh bày rằng Hội Thông Thiên Học không có chủ trương can thiệp vào việc chính trị, dù ở Ấn Độ hay bất cứ ở đâu; nhưng ông đă bị theo dơi và phiền nhiễu trong những khi di chuyển ở Ấn Độ v́ công việc của Hội; và bởi lẽ đó những chương tŕnh hoạt động công ích của Hội đă bị ngăn trở trầm trọng. Ông yêu cầu Chính Phủ Ấn Độ giải tỏa những sự bất lợi đă vô t́nh gây ra cho ông trong vấn đề nầy do bởi việc cho người dọ thám và theo dơi mọi động tác, xê dịch của ông.

        3.-Tôi xin cám ơn Ông về những tin tức, dữ kiện mà Ông đă có nhă ư tŕnh bày về những mục đích và hoạt động của Hội Thông Thiên Học, và tôi xin bảo đảm rằng Chính Phủ Ấn Độ không có ư muốn gây sự bất tiện cho Ông trong thời gian lưu trú tại xứ này. Bao lâu mà những hội viên của Hội chỉ theo đuổi sự học hỏi khảo cứu triết học và khoa học, hoàn toàn không dính dấp đến vấn đề chính trị, mà Ông đă giải thích rằng đó là mục đích duy nhất của họ, th́ họ không cần phải lo ngại một sự phiền phức nào đến với họ từ phía các chức viên Cảnh Sát.

        4.-Tôi xin nói thêm rằng Chính Phủ Ấn Độ sẽ rất hân hạnh nếu Ông vui ḷng gửi đến Bộ Ngoại Vụ những bổn sao các văn kiện nêu ra ở đoạn thứ ba trong thư ông.

        Trân trọng kính thư,

        Kư tên: H.M.DURAND

        Thứ Trưởng Bộ Ngoại Vụ.

        Ngày 20 tháng 12, tôi nhận được của chính quyền bức thư sau cùng mà tôi trông đợi, giải tỏa mọi sự khó khăn giữa chúng tôi với quan chức Anh Ấn. Thơ ấy viết như sau:

        Bộ Ngoại Vụ

        Tổng Lư Sự Vụ

        Số 1060 E.G.

        Simla, ngày 20 tháng 10 năm 1880

        H.M.Durand,

        Thứ Trưởng Ngoại Vụ

 

        Kính gửi: Đại Tá H.S. Olcott

        Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học Thế Giới

        Kính Ông,

        1.-Tôi được chỉ thị nhận thơ Ông đề ngày 14 tháng 10, có kèm theo những văn kiện, chứng thư của Ông gửi cho Chính Phủ Ấn Độ, và yêu cầu rằng tất cả những chức viên Chính Phủ có lệnh theo dơi và canh chừng Ông trước đây, được thông báo cho biết rằng mục đích của Ông khi đến Ấn Độ nay đă được giải thích rơ ràng.

        2.-Tôi xin đa tạ Ông về những bản sao văn kiện mà Ông đă gửi, và chúng tôi sẽ cho lưu trữ tại Văn Khố của Bộ Ngoại Vụ.

        3.-Về khoản yêu cầu của Ông, tôi được chỉ thị trả lời rằng những viên chức địa phương mà chúng tôi đă báo động về sự có mặt của ông ở xứ này, sẽ được thông tri cho biết rằng những biện pháp theo dơi do lịnh truyền cho họ thực thi trước đây, nay đă được thâu hồi.

        4.-Tuy nhiên, tôi xin nói thêm rằng sở dĩ có quyết định này là do hậu quả của sự tín nhiệm mà Tổng Thống Hoa Kỳ và Ngoại Trưởng Mỹ đặt nơi Ông, chứ nó không nên được hiểu là đương nhiên bày tỏ thái độ lập trường của Chính Phủ Ấn Độ đối với Hội Thông Thiên Học, mà Ông là Hội Trưởng.

        Trân trọng kính thư,

Kư tên: H.M. Durand,

Thứ Trưởng Bộ Ngoại Vụ.

        Đoạn chót của bức thư này đề cập đến những văn kiện của tôi gởi, gồm có bức thư viết tay của Tổng Thống Hayyes giới thiệu và gửi gấm tôi cho tất cả các vị Đại Sứ và Lănh Sự Mỹ ở hải ngoại, và một bức thư giới thiệu tương tự của Ngoại Trưởng W.M. Evarts, cùng với thẻ Thông Hành Ngoại Giao của tôi.

        Thời gian viếng thăm Simla của chúng tôi đă chấm dứt, chúng tôi bèn rời khỏi thị trấn miền núi đẹp đẽ này để tiếp tục chuyến đi công tác đă sắp đặt trước ở các vùng đồng bằng. Kiểm điểm lại những kết quả đă thu thập được, có thể nói rằng chúng tôi đă có thêm vài bạn hữu, giải tỏa Hội Thông Thiên Học khỏi sự vướng mắc về phương diện chính trị, và tạo thêm nhiều kẻ chống đối thù nghịch trong các giới Anh Ấn, họ vẫn bám giữ lư thuyết cho rằng có sự can thiệp của Quỷ Vương Satan trong các vấn đề nhân sự (mà trong trường hợp này là bà HPB được sự trợ giúp của Quỷ Vương Satan để làm các phép thuật nhiệm mầu).

        Trong một xă hội nghiêm chỉnh và bảo thủ như các giới ở đây, th́ những cử chỉ, tác phong giang hồ phóng đăng của bà HPB đương nhiên là đă làm chướng mắt mọi người; cái khả năng trí thức, tâm linh xuất chúng của bà đă gây nên sự tị hiềm, đố kỵ; và những quyền năng thần thông kỳ bí của bà đă làm cho người ta nh́n bà bằng cái nh́n sợ hăi, kinh hoảng.

        Dù sao, nhận xét chung th́ những lợi điểm thu hoạch được vẫn trội hơn sự mất mát thua thiệt, và chuyến đi này được coi như một sự thành công xứng đáng.

Chương mười hai

VÀI MẪU CHUYỆN BÊN LỀ

I

        Sau khi rời thị trấn Simla, bận về chúng tôi dừng chân tại Amritsar, thành phố nổi tiếng về Ngôi Đền Vàng, một kỳ công kiến trúc mỹ lệ của người dân Sikh, một chủng tộc thiện chiến và có tinh thần thượng vơ ở miền Punjab (Bắc Ấn). V́ lúc đó chúng tôi c̣n đang được sự bảo trợ tinh thần hoàn toàn của Đạo Sư Dyanand Saraswati, nên sự giao tế của chúng tôi với những tín hữu môn đệ của ông rất thân thiện tốt đẹp, và những Chi Bộ địa phương của môn phái Arya Samaj đă dành cho chúng tôi những cuộc tiếp đón thân mật đầy hảo ư ở khắp mọi nơi.

        Có ba mươi tín hữu Arya Samaj đến đón chúng tôi tại nhà ga xe lửa Amritsar và đưa chúng tôi về quán trọ an nghỉ. Ngày hôm sau, một phái đoàn Arya Samaj đến từ Lahore, do các bạn Rattan Chand và Siris Chandra cầm đầu. Đó là hai bạn Đạo lịch thiệp và khả kính, mà tôi có hân hạnh coi như những người bạn tốt và vẫn giữ mối t́nh thân hữu cho đến ngày nay.

        Một cuộc đàm thoại và thảo luận về Đạo Lư rất thú vị đă diễn ra với độ ba mươi hay bốn mươi tín hữu Ấn Giáo Arya Samaj, và đến chiều tối, khi mọi người đă ra về và chỉ c̣n có hai người bạn trẻ nói trên ở lại với chúng tôi, bà HPB làm reo vang những tiếng "Chuông thần" một cách rơ ràng và du dương hơn tất cả những lần mà tôi đă từng được nghe bà làm ở Ấn Độ trước đây.

        Kế đó, bà đề nghị với hai người bạn trẻ một việc nó đă đưa đến một sự hiểu lầm, mà tôi thấy cần phải thuật lại một cách chính xác để tránh sự đáng tiếc có thể xảy ra nếu có một kẻ thù nghịch nêu việc ấy ra để chống lại bà trong tương lai.

        Từ trước đến nay, ông Sinnett chưa bao giờ có dịp thảo luận về Đạo Lư với một người Ấn Độ trí thức nào, đó là điều mà ông và chúng tôi đều lấy làm tiếc. Sự trao đổi thư từ giữa ông với Chân Sư K.H. vẫn đang tiếp tục, nhưng ông muốn được có dịp gặp gỡ tận mặt với Ngài hay với một vị đệ tử của Ngài.

        Nhận thấy bạn Rattan Chand là người có đủ tính chất cần thiết để lănh nhiệm vụ giao liên, bà HPB, bà HPB với sự chấp thuận của Chân Sư (như bà nói cho y và tôi biết điều ấy), đă cố gắng thuyết phục y đến gặp ông Sinnett với tư cách là một sứ giả đem thư của Chân Sư K.H. Y sẽ không được tiết lộ cho ông Sinnett biết ǵ về cá nhân của y, như tên họ, thân thế, chỗ ở của y ra sao, mà chỉ trả lời đầy đủ tất cả những câu hỏi của ông Sinnett về những vấn đề triết học và tôn giáo.

        Bà HPB c̣n cho y biết rằng mọi tư tưởng và luận điệu cần thiết sẽ được truyền đạt cho y vào lúc cần dùng bằng phương pháp thần giao cách cảm. Hai người bạn trẻ, vốn chưa biết ǵ về hiệu lực của phương pháp chuyển di tư tưởng, và không thấy tung tích Chân Sư cũng như bức thư của Ngài ở đâu, nên đă tỏ ra e ngại và không có hứng thú để làm việc này. Nhưng sau cùng, họ bằng ḷng và trở về Lahore để xin phép nghỉ việc ngắn hạn rồi sẽ trở lại ngày hôm sau.

        Khi họ đă ra đi, bà HPB tỏ vẻ hài ḷng và nói với tôi rằng vai tṛ của họ sẽ đem lại kết quả rất thuận lợi cho ông Sinnett, và gây một Nghiệp Quả rất tốt lành cho hai người bạn trẻ. Ngày hôm sau, không thấy họ trở lại mà chỉ có một bức điện tín nói rằng họ cực lực từ chối không chịu thực hiện vai tṛ nói trên; và trong một bức thư sau đó, họ cho biết rằng họ không muốn tham dự vào một hành động giả trá phỉnh lừa như thế.

        Việc ấy làm cho bà HPB rất bực ḿnh và bày tỏ sự bất măn bằng những lời lẽ nặng nề. Bà không do dự mà gọi họ là hai thằng điên v́ đă gạt bỏ một cơ hội hiếm có, là làm việc với các Chân Sư để thực hiện những kết quả lớn lao. Bà cho tôi biết rằng nếu họ chịu hợp tác, th́ bức thư của Chân Sư sẽ rơi xuống ngay trước mắt họ từ trên không gian, và họ sẽ có dịp thi hành sứ mạng,

        Đây là một trong những trường hợp mà một việc hoàn toàn có thể thực hiện được đối với nhà Huyền Học, vốn đă khai mở những giác quan nội tàng và những quyền năng tâm linh, lại có vẻ như một việc không tưởng, viễn vông đối với người thường, họ không thể quan niệm rằng việc ấy có thể làm được, trừ phi bằng những mưu mẹo dối trá, phỉnh lừa.

        Thế là những người bạn trẻ chưa tiến hóa kia đành phải tự tạo lấy nghiệp quả của họ, họ đă chọn lấy con đường thích hợp với ḿnh, và đă bỏ mất đi một cơ hội tốt. Đă có hằng bao nhiêu trường hợp tương tự mà bà HPB bị hiểu lầm và chuốc lấy sự h́nh phạt đắng cay chỉ v́ sự dột nát tâm linh của kẻ khác, mà ư muốn thành thật của bà chỉ là để giúp đỡ họ.

II

          Ngày 27 tháng 10, tôi thuyết tŕnh đề tài "Môn phái Arya Samaj và Hội Thông Thiên Học) trước một cử tọa đông đảo, và ngày 29, tôi nói tiếp theo về đề tài "Quá Tŕnh Lịch Sử và Tương Lai của Ấn Độ".

        Những ai nghĩ rằng người Ấn không có tinh thần yêu nước, ước ǵ họ có dịp nh́n thấy tác dụng của buổi diễn thuyết này đối với toàn thể hội trường  đông đảo như hôm ấy. Khi tôi diễn tả tính cách vĩ đại huy hoàng của nền văn minh cổ Ấn Độ, và t́nh trạng suy đồi của Ấn Độ ngày nay, toàn thể cử tọa phát ra những tiếng th́ thầm vui sướng hoặc những tiếng thở dài đau đớn năo nuột. Có lúc họ hoan hô và vỗ tay nhiệt liệt, một lúc sau đó họ ngồi im lặng, và rơi nước mắt.

        Tôi lấy làm ngạc nhiên và sung sướng, nhưng cảnh tượng bi ai đau đớn của họ làm tôi xúc động đến mức tôi gần như muốn xỉu. Đó là một trong những dịp vẫn thường xảy ra trong những cuộc tiếp xúc giữa chúng tôi với người Ấn Độ, trong khi đó những sợi dây liên lạc của t́nh tương thân tương ái kết hợp cơi ḷng chúng tôi làm một, và chúng tôi cảm thấy thật là một ân sủng quư báu mà có cơ hội đến đây để sống chung và phụng sự sát cánh với những bạn Đạo cùng đồng chung lư tưởng với ḿnh.

        Tôi c̣n nhớ một kinh nghiệm tương tự đă trải qua khi tôi cùng đi với bà Annie Besant trong chuyến đi thuyết pháp đầu tiên của bà. Trong dịp đó, bà thuyết pháp về đề tài "Vị Trí của Ấn Độ trên Thế Giới", tại một tỉnh nhỏ ở miền Nam Ấn. Nói theo nguồn cảm hứng thiêng liêng, và sử dụng những ư nghĩ gần giống như của tôi, bà lôi cuốn toàn thể cử tọa theo với bà, và làm cho họ đáp ứng như những sợi dây đàn mà những ngón tay điêu luyện của bà có thể tác động khéo léo để tạo ra bất cứ âm điệu nào bà muốn.

        Bận về ngồi trên xe, tôi với bà không ai có thể thốt ra một lời nào, mà chỉ ngồi đê mê trong im lặng, cơ hồ như vừa bước ra từ một nhạc viện trong đó vị Nhạc Trưởng vừa mới tŕnh bày những âm điệu nhạc khúc của Cơi Trời. Ai chưa từng cảm xúc được nguồn cảm hứng thiêng liêng thoi thóp rung động trong người của ḿnh, không bao giờ biết rơ ư nghĩa của danh từ "hùng biện".

        Ngày hôm sau, chúng tôi đáp xe lửa đi Lahore, tại đây một cuộc tiếp đón nồng nhiệt đă chờ đợi chúng tôi. Một phái đoàn Ấn Giáo hùng hậu của chi phái Arya Samaj đến đón chúng tôi tại nhà ga và đưa chúng tôi về nơi quán trọ. Kế đó họ trở về nhà dùng bữa và tối hôm đó họ trở lại để thảo luận về Đạo Lư với chúng tôi cho đến khuya. Những đề tài thảo luận là vấn đề tính chất của Thượng Đế, Thượng Đế Hữu Ngă và Vô Ngă. Những quan điểm của tôi và bà HPB đưa ra đều trái ngược hẳn với những sự tin tưởng của họ.

        Hôm sau, bảy tín hữu Arya Samaj, gồm cả hai người bạn trẻ mà chúng tôi đă gặp tại Amritsar trước đây, gia nhập Hội Thông Thiên Học và đứng ra thành lập một Chi Bộ tại địa phương.

III

          Trong thời gian ở tại Lahore, chúng tôi luôn luôn bận rộn tiếp khách và thảo luận về những vấn đề Đạo Lư, nhưng không phải là không có những cơ hội tiêu khiển. Chẳng hạn như chuyến đi tham quan kinh lư của vị Phó Vương Anh, Lord Ripon, vào ngày mồng mười, và chúng tôi có dịp trông thấy cuộc tiếp rước linh đ́nh trọng thể diễn ra trong thành phố.

        Phó Vương cưỡi một con voi lớn, lưng voi bao phủ vải vàng óng ánh, đầu con voi cũng có đội một thứ mào hay đồ trang sức bằng vàng. Bành voi mạ vàng sáng chói, đứng một bên là một người hầu Ấn Độ mặc sắc phục sặc sỡ cầm một cây lọng vàng che trên đầu ngài.

        Những vị Quốc Vương và Đại Vương (Maharajah) Ấn Độ mặc triều phục lộng lẫy, cưỡi voi đi theo sau tùy theo cấp bậc chức vị lớn nhỏ, và tất cả đều được những quan viên dân sự người Anh cũng cưỡi voi đi theo hộ tống ( bà HPB cho là dường như bị canh chừng).

        Nối tiếp theo sau là những toán kỵ binh Anh và kỵ binh xứ Bengale, quân bổn xứ mặc sắc phục đỏ, những đội quân Ấn Độ cầm kích và cầm giáo dài, những toán quân nhạc thổi kèn, đánh trống, và đánh chụp chơa. Thật là một cuộc diễn hành long trọng huy hoàng, tiền hô hậu ủng, rực rỡ tưng bừng.

        Tôi quả quyết chắc chắn rằng mỗi người Anh trong cuộc diễn hành hẳn là cảm thấy lố bịch, và mỗi vị Quốc Vương bổn xứ chắc cũng cảm thấy bị hạ thấp trong cái màn tŕnh diễn công khai phô trương thanh thế và uy lực này, nó làm nổi bật trước mắt công chúng cái vị thế của kẻ chinh phục và kẻ bị trị, mà cái ư nghĩa thật sự của nó, trong thâm tâm mỗi người đều biết rằng tất cả mọi người khác cũng biết rơ như ḿnh.

        Bà HPB và tôi đứng xem cuộc diễn hành từ trên lầu một nhà ga xe lửa được xây cất như một pháo đài, để có thể xử dụng như một công sự pḥng thủ khi có biến. Những lời b́nh phẩm của bà về cuộc diễn hành và về những nhân vật ăn mặc trang sức lố lăng thái quá, làm cho tôi luôn luôn phát cười nôn ruột, và về sau, trong một bài phóng sự du kư của bà đăng trên tạp chí Russky Vyestnick, bà làm cho cả nước Nga đều cười vỡ bụng về chuyện vắng mặt của vị Đại Vương xứ Kashmir trong cuộc diễn hành, mà thoạt tiên người ta nghi ngờ là có che dấu một vụ âm mưu chính trị, nhưng sau đó mới vỡ lẽ ra rằng đó chỉ là v́ bịnh kiết lỵ và đi tiêu chảy!

        Ngày 15 tháng 11, vị Phó Vương Anh, Lord Ripon, chủ tọa một cuộc lễ tiếp kiến các vị Đại Vương, Quốc Vương và các ông Hoàng bổn xứ. Một sảnh đường rộng lớn được dựng lên bằng vật liệu nhẹ, gồm những tấm vải cứng lớn có sọc xanh được căng ra làm nóc trên những cột đứng bằng sắt, và những tấm vách ngăn cũng bằng một loại vải cứng tương tự, dưới đất trải những tấm thảm gấm đỏ, bên trong thắp sáng bằng những ngọn đèn lớn.

        Phó Vương ngự trên một chiếc ngai bằng bạc, mặc triều phục chỉnh tề có thêu chỉ vàng và gắn đầy phù hiệu, huy chương, với một tấm băng lụa xanh vắt ngang trên ngực. Đứng phía sau ngài là những người hầu bổn xứ mặc đồng phục trắng tay cầm những cây quạt lớn màu đỏ thêu phù hiệu của Hoàng Gia Anh; hai người hầu khác cầm những cây phất thủ trắng làm bằng đuôi con Yak của xứ Tây Tạng, và hai người hầu nữa cầm những cây vương trượng, biểu hiệu quyền uy của vị Phó Vương.

        Giữa sảnh đường là hai hàng ghế đối diện nhau, các quan viên Anh ngồi ở hàng ghế bên tay mặt Phó Vương, các vị vương hầu bổn xứ ngồi bên tay trái; ở dưới hai hàng ghế là lối đi rộng răi từ chỗ cửa vào đưa đến ngai chủ tọa. Các vị Quốc Vương, Đại Vương và những ông Hoàng khác của xứ Ấn Độ được chỉ định chỗ ngồi theo thứ tự cấp bậc, vị cao nhất ngồi gần vị Phó Vương.

        Khi mỗi ông Hoàng vừa đến ngoài cửa, có tiếng súng đại bác chào mừng, quân dàn hầu hai bên bồng súng chào, và đoàn nhạc thổi kèn. Ông Alfred Lyall, trưởng ban Nghi Lễ, mặc quốc phục ngoại giao, tiếp đón và đưa mỗi ông Hoàng đến trước ngai vị Phó Vương. Ông Hoàng Ấn Độ dâng lên một mâm lễ vật gồm có một số đồng tiền vàng đựng trên một cái mâm bạc, mà vị Phó Vương đưa tay sờ với một cử chỉ tượng trưng, rồi trả lại (nghĩa là không nhận). Cả hai, chủ và khách, đều cúi đầu chào nhau, kế đó ông Hoàng được đưa đến chỗ ngồi an tọa, rồi đến lượt một ông Hoàng khác.

        Sau khi tất cả các ông Hoàng đă được tiếp đón xong, vị Phó Vương mới đứng dậy làm lễ ban phát quà tặng quư giá gồm có những đồ trang sứcbằng vàng ngọc châu bảo, những đồ khí giới nạm bạc, yên ngựa thêu vàng,v.v... mà những ông Hoàng chỉ đưa tay sờ một cái rồi để cho những quân hầu mang đi.

        Những bộ triều phục lộng lẫy và khăn vấn đầu giát ngọc chớp sáng lập ḷe của những ông Hoàng Ấn Độ tŕnh bày một cảnh tưởng huy hoàng đặc biệt của Phương Đông, và làm cho buổi lễ càng thêm phần long trọng.

IV 

 Sau khi đă viếng thăm vài trạm dọc đường, chúng tôi tiếp tục đi Bénarès và được tiếp đón như những tân khách của vị Quốc Vương tại địa phận này.

        Trong thời gian tám ngày ở Bénarès, chúng tôi thường hội kiến với vị Quốc Vương và các triều thần cùng với những nhân sĩ của thành phố Ba Nại La. Có lần, Quốc Vương đi với hai người thông ngôn viên đến nơi quán trọ và thảo luận suốt nhiều giờ với chúng tôi về những vấn đề Đạo Lư, Triết Học và Tôn Giáo. Một lần khác, Quốc Vương đi với viên quan Thủ Kho và đề nghị cho viên quan này đếm ngay tại chỗ vài ngàn đồng Ru-bi (một số tiền rất lớn) để cung hiến cho Hội Thông Thiên Học nếu bà HPB chịu biểu diễn cho ông ta xem vài phép lạ.

        Lẽ tự nhiên, bà từ chối cũng như bà đă từ chối làm như vậy đối với nhiều nhà tỷ phú Ấn Độ khác, mà một là ông Mungaldas ở Bombay, nhưng khi ông này vừa đi khỏi, th́ bà liền biểu diễn một số phép thuật thần thông cho những vị khách nghèo không có tiền.

        Tuy nhiên, bà đă tiết lộ cho vị Quốc Vương biết một điều bí ẩn về nơi chôn dấu những văn kiện giấy tờ quan trọng của Hoàng Gia nay đă mất, mà nếu tôi không lầm, th́ những giấy tờ đó đă được đem chôn dấu một cách vội vă trong cuộc Nổi Loạn năm 1857.

        Tuy bị thất vọng, nhưng tôi có lư do để tin rằng vị Quốc Vương kính trọng bà bội phần hơn là nếu bà đă chấp nhận lấy món quà tặng của ông ta. Thái độ thản nhiên đối với tiền bạc luôn luôn được người Ấn Độ coi như một bằng chứng chắc chắn về đức xả thân vô kỷ của một vị đạo sư.

        Người đạo sĩ ở Lahore từng biểu diễn cơn xuất thần nhập định trước Quốc Vương Runjit Singh, đă vĩnh viễn tự hạ thấp nhân cách ḿnh khi ông ta nhận lănh những món quà đắt tiền của nhà vua. Một người cận thần cũ đă già của nhà vua có lần nói với tôi ở tại Lahore rằng:

        -Nếu người đạo sĩ ấy không nhận quà biếu, mà tỏ thái độ dửng dưng đối với của cải tiền bạc, th́ có lẽ vị Quốc Vương đă giữ ông ta lại suốt đời bên cạnh ḿnh và tôn sùng ông ta như một vị Thánh.

V

          Ngày đầu năm (Tết Tây) 1881, tôi ngồi vào bàn làm việc đến hai giờ khuya, để viết bài cho tạp chí Theosophist. Nói chung, th́ những tuần lễ đầu năm, mọi sự vẫn b́nh thường, không có ǵ đáng kể, trừ ra những dịp chúng tôi đă tiếp xúc và có những mối quan hệ thân thiện hay bất thân thiện với một vài nhân vật.

        Tác giả quyển sách nổi tiếng " Nhựa Sống", với cái biệt danh Mirza Murad Ali Beg, đến với chúng tôi lần đầu tiên vào ngày 20 tháng giêng. Y là một người thanh niên Anh, thuộc gịng dơi của gia đ́nh Mitford, đă từng đào tạo ra nhiều nhà văn nổi tiếng của Anh Quốc.

        Y sinh trưởng tại Madras, có một nếp sống dị thường, và theo đạo Hồi Giáo. Khi chúng tôi gặp y, th́ y đang phục vụ trong quân đội của vị Đại Vương xứ Bhavnagar, với cấp bậc "sĩ quan kỵ binh", nhưng trên thực tế th́ đó chỉ là một chức vụ ngồi không, ăn lương.

        Y sống một cuộc đời phiêu lưu, phóng dật, dẫy đầy những nỗi trắc trở gian lao. Y đă từng thực hành khoa Bàn Môn Tả Đạo, và cho tôi biết rằng tất cả những nỗi khổ đau mà y đă trải qua trong ṿng vài năm trước đây đều có thể trực tiếp truy nguyên từ những tác động hiểm ác của vài loại âm binh bất hảo mà y đă kêu gọi để trợ giúp y chinh phục một người nữ nết hạnh mà y thèm muốn.

        Tuân theo sự chỉ dẫn của một nhà Phù Thủy Hắc Phái Hồi Giáo, y đă ngồi suốt bốn mươi ngày trong một gian pḥng kín, mắt nh́n chăm chú vào một cái chấm đen trên vách tường, trong khi đó y dùng trí tưởng tượng h́nh dung gương mặt của người nữ ấy và niệm một câu thường trú nửa Ả Rập và nửa tiếng Phạn, lặp đi lặp lại đến cả trăm ngàn lần.

        Y phải tiếp tục làm như vậy cho đến khi y nh́n thấy gương mặt của người phụ nữ ấy linh động như người thật ở trước mặt y, và khi y thấy đôi môi nàng mấp máy như sắp sửa nói chuyện, th́ khi đó nàng đă hoàn toàn bị quyến rũ bởi ma lực của y và sẽ tự động t́m đến với y.

        Tất cả những sự việc đă xảy ra y như đă dự liệu trước, cái ư đồ hiểm ác xấu xa của y được thực hiện, người đàn bà kia bị tàn hại cuộc đời, và chính y bị lệ thuộc quyền của những âm binh bất hảo mà y không có đủ sức mạnh tinh thần để chế ngự khi đă nhân lănh sự phục dịch cưỡng ép của chúng.

        Thật sự y đang ở vào một t́nh trạng bi đát, khốn cùng. Thần kinh căng thẳng, dễ bị kích động, không nhất quyết về một điều ǵ, nô lệ cho những cảm xúc cho chính ḿnh, nh́n thấy những khả năng cao quư của bản chất con người, nhưng lại bất lực không thể đạt tới, y đến với chúng tôi để t́m nơi ẩn trú, và đă ở lại trong nhà chúng tôi trong vài tuần.

        Tuy là người Anh, nhưng y lại có một h́nh thù dị dạng.

Y mặc y phục của người Hồi Giáo, gồm có một cái áo vải trắng rộng và dài phủ đến chân. Y để tóc dài màu nâu lợt, bới phía sau ót như kiểu bới đầu của đàn bà, nước da trắng và mắt xanh. Từ ngày y đến với chúng tôi, y dường như trải qua một cơn xung dột mănh liệt trong nội tâm. Y than phiền rằng y bị lôi cuốn dằng co từ mọi phía, trước hết bởi những ảnh hưởng tốt lành, và kế đó bởi những lực lượng bất hảo.

        Y có một trí óc thông minh, và đă đọc qua nhiều sách vở; y muốn gia nhập Hôi Thông Thiên Học, nhưng v́ tôi không tin tưởng nơi căn bản đạo đức của y nên tôi từ chối. Tuy nhiên, v́ bà HPB đề nghị chịu trách nhiệm về phần y, nên tôi không phản đối và để cho bà bảo trợ sự gia nhập của y. Vài tháng sau đó, y trả ơn cho bà một cách đích đáng, bằng cách giật lấy một cây gươm của một lính canh ở ga Wadhwan và toan đâm chết bà, rồi la lớn lên rằng bà và các Chân Sư đều là ma quỷ! Nói tóm lại, y đă nổi điên.

        Đây nhắc lại khi y c̣n trí óc lành mạnh và đang ở chung với chúng tôi, y có viết vài bài đăng trong tạp chí "Theosophist" và một đêm nọ, sau một cuộc nói chuyện với chúng tôi, y ngồi viết một bài tham luận về quyền năng của ư chí và tác dụng của nó đối với sự sống lâu. Bà HPB và tôi c̣n ngồi lại trong pḥng, và khi y bắt đầu viết, bà bước đến gần và đứng sau lưng y, cũng như hồi ờ New York, bà đă đứng phía sau lưng họa sĩ Harisse khi người này đang vẽ bức chân dung của một vị Chân Sư theo sự hướng dẫn vô vi bằng phương pháp chuyển di tư tưởng của bà.

        Bài tham luận của Mirza Sahib được sự chú ư của mọi người khi nó xuất hiện trên tạp chí, và được coi như một trong những bài vở có giá trị nhất trong văn chương đạo lư của Hội Thông Thiên Học. Y tỏ ra có tŕnh độ trí thức, và có nhiều triển vọng cứu văn một phần lớn những khả năng tâm linh đă bị mất của y nếu y chịu ở lại với chúng tôi. Nhưng sau khi đă hứa làm như vậy, y lại tuân theo một động lực vô h́nh không thể cưỡng, và bỏ nhà ra đi theo tiếng gọi của sự diệt vong.

        Y không thể nào phục hồi lại được sự thăng bằng của trí năo; kế đó y theo đạo Gia Tô, rồi quay trở lại Hồi Giáo, và sau cùng y đă chết và được chôn tại Junagadh, tại đây tôi có nh́n thấy nấm mồ sơ sài của y. Trường hợp của y là một trường hợp đáng sợ về cái hiểm họa nó chờ đợi những người nào thực hành Bàn Môn Tả Đạo trong khi c̣n những đam mê thú dục tiềm ẩn trong ḷng.

Chương mười ba

ADYAR

I

        Trong chuyến đi Ba Nại La, một buổi sáng chúng tôi ngồi thuyền lướt trên mặt nước sông Hằng, và bận về chúng tôi cho thuyền thả trôi dọc theo bờ sông để ngắm nh́n cảnh tượng độc đáo của hàng muôn ngh́n tín đồ Ấn Giáo sùng tín xuống tắm dưới sông vào buổi sáng sớm.

        Hằng ngh́n tín đồ lũ lượt đi xuống những bậc tam cấp của những thang xây bằng đá ven bớ sông. Họ ngồi kiết dà nhập định trên những bục gỗ có mái che bằng lá dừa, hoặc đứng dưới sông, mực nước vừa chí đầu gối, chắp tay lẩm nhẩm đọc kinh cầu nguyện.

        Vài người giặt giũ y phục trên những bậc thang bằng đá. Những nhà tu khổ hạnh ḿnh trần bôi tro thánh biểu hiệu ḍng tu hay môn phái của họ. Những phụ nữ lấy bùn lau chùi và đánh bóng những b́nh đựng nước bằng đồng cho đến khi sáng chói như vàng mới, múc đầy nước sông Hằng vào b́nh rồi cắp vào bên hông, thong thả đi lên bờ.

        Những nhóm người khác tiến đến khu vực hỏa táng, tại đây xác người chết được thiêu trên đống lửa hồng, trong khi những tử thi khác chờ đến lượt ḿnh.

        Ánh nắng mặt trời ban mai chiếu sáng rực trên những b́nh đựng nước bằng đồng của các cô gái Ấn, làm nổi bật màu sắc ḷe loẹt trên y phục đỏ thắm của họ, cùng những khăn vấn đầu màu mè sặc sỡ của bọn đàn ông.

        Những đám quần chúng đông đảo lũ lượt nối tiếp nhau lên xuống không ngớt trên những nấc thang tam cấp rộng răi từ mặt nước sông đưa lên đến mặt đường lộ của thành phố tấp nập ồn ào.

        Trong khi đó, những chiếc thuyền h́nh dáng lạ mắt với lái thuyền chạm h́nh cn công từ từ lướt trên gịng sông. Cảnh tượng ấy thật không đâu có, ngoài ra ở thánh địa Ba Nại La vào những buổi sáng sớm.

        Điều làm cho nó gây một ấn tượng sâu xa hơn nữa, là cũng một cảnh tượng ấy vẫn tái diễn hằng ngày kể từ những thế hệ xa xưa nhất. Những ǵ người ta nh́n thấy ngày hôm nay, vẫn đă từng diễn ra kể từ khi đấng Hóa Thân Krishna xuất hiện giữa loài người.

        Nhưng nó sẽ c̣n tồn tại bao lâu nữa, th́ không ai có thể nói trước. Bàn tay tàn phá của Thời Gian đă tác động trên những dinh thự lâu đài trên bờ sông. Vài ngôi dinh cơ đồ sộ nguy nga nhất và vài khu vực trên những bậc thang tam cấp bằng đá đă loang lở, sụp đổ.

        Những ngôi kiến trúc to lớn, nền tảng bị lung lay v́ những cơn ngập lụt của nước sông Hằng lên cao, đă ngả nghiêng siêu vẹo, hoặc sụp xuống dưới mặt nước. Những tảng vôi, hồ, đă rơi xuống từ những vách tường loang lở của các ngôi dinh thự, để lộ ra ngoài những viên gạch đỏ.

        Một ngôi đền Hồi Giáo vĩ đại,  mà những bầu tṛn và tháp nhọn nhô lên cao như có vẻ ngự trị khắp vùng, được xây bằng những tảng đá của những ngôi đền Ấn Giáo cổ mà quân xâm lược Hồi đă phá hủy.

        Khu hỏa táng là một nơi xác xơ tiêu điều, tại đó những đống củi lửa thiêu xác được chất lên trên những đống gạch ngói hoang tàn.

        Tôi có cảm tưởng rằng những tín đồ Ấn Giáo xuống sông tắm gội mỗi buổi sáng, dường như làm những nghi thức tôn giáo này một cách hời hợt cẩu thả cho có h́nh thức thế thôi, chứ không phải do động lực thúc đẩy sâu xa của ḷng sùng tín trung thành.

II

       Trong suốt cả thời gian liên hệ giữa chúng tôi, bà HPB và tôi chưa bao giờ sống gần bên nhau một cách thân mật như trong chuyến du hành trên một chiếc thuyền trên con kinh đào Buckingham. Kinh đào này là một công tŕnh thủy lợi để cứu trợ cho hằng ngh́n nông dân bị mất mùa, đói kém trong vụ thiên tai kinh khủng hồi thời kỳ quận công Buckingham đảm nhiệm chức vụ Giám Đốc tỉnh Madras.

        Từ trước đến giờ, chúng tôi vẫn sinh hoạt và làm việc chung với sự có mặt của các bạn bè thân hữu, hay nói chung là các "đệ tam nhân", nhưng trong dịp này chúng tôi sống riêng biệt trong một chiếc du thuyền, chỉ có đứa hầu Babula và vài người chèo thuyền theo phục dịch chúng tôi.

        Khoang thuyền được trang bị như một pḥng ca-bin nhỏ, hai bên là hai cái tủ nhỏ để đựng đồ hành trang, trên mặt có trải nệm để làm giường nằm. Ở giữa có một cái bàn xếp, khi nào không cần dùng đến, th́ có thể xếp lại và treo lên nóc khoang. Phía ngoài là chỗ nấu bếp, có lu đựng nước uống, có mọi thứ tiện nghi tối thiểu và mọi thứ phẩm vật cần dùng trong khi đi đường. Khi có gió thổi, th́ giương buồm lên cho thuyền lướt nhẹ trên mặt nước. Khi bị gió ngược, th́ những phu chèo thuyền nhảy lên bờ, dùng dây cói buộc lên vai họ và kéo thuyền đi với một tốc lực độ năm cây số một giờ.

        Theo sau chúng tôi, c̣n một chiếc thuyền khác chở vài bạn đạo thân tín nhất thuộc tỉnh Madras, trong số đó có bạn Ivalu Naidu, công chức Sở Thuế Vụ hồi hưu, một người có tấm ḷng vàng mà chúng tôi rất quư mến và hănh diện mà được kết t́nh thân hữu với ông. Mục tiêu cuộc hành tŕnh bằng thủy đạo này là thị trấn Nellore, phải mất hai ngày đi thuyền mới tới nơi.

        Chúng tôi khởi hành lúc bảy giờ tối của một đêm trăng sáng, nhằm ngày 3 tháng 5 năm 1882, trăng đă gần tṛn, thuyền lướt nhẹ trên mặt nước lặng yên và trong như bạc, làm cho chúng tôi có cảm giác như đi vào cảnh mộng. Sau khi ra khỏi thành phố, không một tiếng động làm gián đoạn cái im lặng thâm trầm của miền đồng quê, trừ ra những tiếng kêu lẻ loi của những con chó rừng, những giọng nói th́ thầm của bọn phu chèo thuyền nói chuyện với nhau, và tiếng nước vỗ nhẹ vào hai be thuyền. Xuyên qua các cửa sổ, một ngọn gió đêm thổi vào mát rợi, đượm mùi ruộng lúa trổ hoa với hương vị đồng quê thật nhẹ nhàng bát ngát. Bà bạn tôi cùng ngồi thưởng thức cảnh vật êm đềm, tinh thần sảng khoái trong giờ phút nghỉ ngơi rất hiếm có này, ngoài cuộc sống nhập thế vô cùng kích động, ồn ào và nhộn nhịp của chúng tôi. Chúng tôi chỉ nói rất ít, dưới ảnh hưởng mê ly đầy thi vị thần tiên của một đêm trăng Ấn Độ, và khi giờ đă khuya, sau cùng cũng đă phải chia tay để nghỉ ngơi dưỡng sức.

        Nhờ có ngọn gió nồm từ hướng tây nam thổi mạnh, chiếc thuyền thẳng tiến suốt đêm, và lộ tŕnh của chúng tôi được nhẹ nhàng êm ái, không chướng ngại. Trời vứa hừng sáng, thuyền tấp vào bờ để cho phu chèo thuyền nhúm lửa nấu cơm; các bạn hữu trong chiếc thuyền kia cũng cho thuyền đậu và qua với chúng tôi. Khi mọi người đă dùng bữa xong, chúng tôi lại tiếp tục lên đường, hai chiếc thuyền lướt nhẹ êm ru như những bóng ma.

        Bà HPB và tôi bận rộn suốt ngày hôm đó với công việc trả lời thư từ c̣n ứ đọng và soạn bài vở cho tạp chí Theosophist, thỉnh thoảng cũng tạm ngưng để cùng nhau mạn đàm trong giây lát. Lẽ tất nhiên, đầu đề duy nhất của chúng tôi là t́nh h́nh và triển vọng của Hội Thông Thiên Học, và tác dụng rốt ráo khả hữu của những tư tưởng Đông Phương mà chúng tôi đang truyền bá đối với dư luận quần chúng đương thời.

        Trên vấn đề này, chúng tôi cùng lạc quan đồng như nhau, và không một điểm nghi ngờ hay bất đồng quan niệm nào thoáng qua trong trí óc. Chính cái đức tin mănh liệt đó làm cho chúng tôi thản nhiên, b́nh tĩnh trước mọi biến cố tai ương và nghịch cảnh, nó có thể ngăn chận bước tiến hằng bao nhiêu lần trong cuộc đời hành đạo của chúng tôi. Vài bạn đồng hành hiện hữu có lẽ không thỏa măn, nhưng quả thật  là những sự tiên liệu của chúng tôi nhắm vào ảnh hưởng của giáo lư Thông Thiên Học đối với trào lưu tư tưởng cận đại nhiều hơn là bàn về sự bành trướng khả hữu của Hội khắp nơi trên thế giới: thật sự chúng tôi không hề trông đợi việc ấy có thể xảy ra.

        Cũng như khi rời khỏi New York đi Bombay, chúng tôi không hề mơ tưởng rằng Hội có thể mở Chi Bộ cùng khắp Ấn Độ và Tích Lan, th́ bây giờ cũng y như thế, trên chiếc du thuyền lướt đi trong im lặng này, chúng tôi không hề nghĩ rằng Hội có thể tạo nên một cơn sôi động quần chúng để tổ chức các Chi Bộ và thành lập những trung tâm truyền bá giáo lư Thông Thiên Học khắp nơi ở Châu Mỹ, Châu Âu; đừng nói chi đến Châu Úc, Châu Phi, và Viễn Đông.

        Làm sao chúng tôi có thể nghĩ đến điều đó? Chúng tôi có thể trông cậy ở nơi ai? Ai là người dũng lực phi thường để có thể gánh lấy trên vai của ḿnh cái trách nhiệm nặng nề như thế? Bạn đọc hăy nhớ rằng hối đó chỉ mới là năm 1882, và ngoài Á Châu ra, chỉ có ba Chi Bộ Thông Thiên Học trên thế giới (không kể trung tâm New York vẫn c̣n chưa được tổ chức lại). Chi Bộ Luân Đôn và Chi Bộ Corfu (Hy Lạp) chỉ là những cơ quan bất động.

        Ông Judge đă đi sang Nam Mỹ để làm việc cho một công ty khai thác mỏ bạc, và Trụ Sở Thông Thiên Học ở New York vẫn im ĺm không hoạt động. Chỉ c̣n có hai bạn già chúng tôi trên chiếc du thuyền này là nắm giữ giềng mối điều khiển mọi sự, và khoảnh đất dụng vơ của chúng tôi là phương Đông; cũng không hơn ǵ tôi, lúc ấy bà HPB không hề biểu lộ khả năng tiên tri nào, nên chúng tôi vẫn làm việc và xây dựng nền tảng cho cái tương lai vĩ đại mà không người nào trong hai chúng tôi có thể nh́n thấy trước.

        Trong số hằng ngh́n hội viên Hội Thông Thiên Học hiện tại, chắc hẳn có bao nhiêu người sẵn ḷng đổi lấy với hầu như bất cứ giá nào, t́nh tương thân đầm ấm, mà bà HPB dành cho tôi trong chuyến du hành bằng thuyền này! Điều làm cho chuyến đi này càng thú vị và lợi lạc hơn nữa, là bà có sức khỏe tốt, tinh thần lên cao, và không có ǵ làm che ám bầu không khí vui tươi giữa t́nh bạn của chúng tôi. Chứ nếu không; th́ có lẽ tôi đă hầu như trở thành một kẻ bị nhốt trong chuồng cọp, làm bạn với một con sư tử trong Sở Thú! Và như vậy, chắc hẳn là tôi đă phải nhảy lên bờ để đi bách bộ, hoặc chuyển sanh thuyền kia để làm bạn với Iyalu Naidu!

        Ôi! HPB, người bạn đáng thương, bạn đồng môn, người cộng tác, người hướng dẫn của tôi: không ai có thể làm khổ tôi hơn bà trong những cơn giông tố ồ ạt, và cũng không ai dễ mến và đáng yêu hơn trong những khi tinh thần lên cao, bà có một tác phong đằm thắm dịu dàng! Tôi tin rằng chúng tôi đă từng làm việc chung với nhau trong những kiếp trước, tôi cũng tin rằng chúng tôi sẽ c̣n hớp tác với nhau trong những kiếp tương lai v́ mục đích phụng sự nhân loại.

        Chúng tôi đến Nellore lúc mười một giờ khuya và được tiếp đón trọng hậu. Một ngôi biệt thự to lớn đă được trang hoàng lịch sự để cho phái đoàn chúng tôi tạm trú, và tuy giờ đă khuya, tôi lại c̣n phải đáp từ hai bài diễn văn, một bằng tiếng Phạn và một bằng tiếng Anh, sau đó chúng tôi mới lui về pḥng ngơi nghỉ, ai nấy đều thấm mệt.

        Từ ngày hôm sau trở đi, chúng tôi lại bắt đầu chương tŕnh hoạt động thông thường như mọi cuộc viếng thăm ở những nơi khác: một buổi thuyết pháp trước một cử tạo đông đảo; ngày kế đó dành cho công việc soạn bài vở tạp chí và thu nhận hội viên mới; chiều đến, một phái đoàn học giả ưu tú về môn Phạn ngữ đến viếng và chất vấn chúng tôi về Đạo Lư; và đến mười một giờ khuya, chúng tôi chánh thức thành lập Chi Bộ Thông Thiên Học tại Nellore.

        Kế đó chúng tôi tiếp tục chuyến đi đến Mypaud, rồi đi Guntur, và cứ như thế, chương tŕnh hành sự của chúng tôi lại tái diễn như trên.

III

       Trong những chuyến đi công tác đạo sự khắp nơi ở Ấn Độ và Tích Lan, tôi đă tham quan nhiều địa điểm, khảo sát nhân vật và khí hậu của từng miền, để chọn lựa một nơi thích hợp nhất hầu có thể thiết lập một Tổng Bản Dinh trường cửu cho Hội Thông Thiên Học thế giới.

        Nhiều dinh cơ tốt đẹp đă được cung hiến cho chúng tôi ở Tích Lan mà khỏi phải trả tiền thuê mướn; đảo Tích Lan lại có nhiều phong cảnh đẹp rất hấp dẫn đối với những ai muốn t́m một chỗ định cư trên đất Á Châu. Nhưng nó cũng có những khía cạnh bất lợi, như vị trí cô lập đối với Ấn Độ, những tổn phí về bưu điện, và tŕnh độ trí thức lạc hậu của dân chúng nói chung, những điều bất lợi đó đă làm nghiêng lệch đ̣n cân và làm cho chúng tôi chọn xứ Ấn Độ. Tuy nhiên, cho đến nay chúng tôi vẫn chưa t́m được một nơi nào vừa ư và chưa có một kế hoạch nào nhất định.

        Trong một dịp đến Madras, vài bạn đạo đề nghị với chúng tôi hăy đi xem một khu bất động sản có thể mua được với giá rẻ. Chúng tôi được đưa đến khu ngoại ô Adyar, và vừa xem qua, chúng tôi biết ngay đó là nơi cư trú thích hợp mà ḿnh muốn t́m.

        Ngôi dinh cơ đồ sộ, những ngôi biệt thự lớn nhỏ dựa bờ sông, cùng những dăy nhà phụ thuộc, vườn cây to bóng mát, những cây đa cổ thụ, và rừng thông trên bờ biển, làm cho khu này càng vắng vẻ u tịch, có thể dùng làm một nơi ẩn cư lư tưởng với một phong vị thần tiên.

        Giá tiền phải trả là chín ngàn Ru-pi, tức là độ sáu trăm Anh kim, quả thật rẻ, hầu như là một giá tượng trưng, và chúng tôi quyết định mua. Một bạn đạo ứng trước một phần tiền, số c̣n lại do một bạn đạo khác đứng ra vay mượn với những điều kiện thật dễ dàng. Một thông tri được lập tức công bố để kêu gọi sự đóng góp của hội viên, và trong ṿng một năm sau, tôi được hài ḷng mà có thể thanh toán ṣng phẳng khoản tiền vay mượn trên và nhận tờ bằng khoán bất động sản. Lư do khu đất này bán giá rẻ là bởi v́ chính phủ vừa phóng một đường xe lửa từ Madras đến Uty, một thị trấn cao nguyên, khí hậu mát mẻ dưới chân dăy núi Nilgiri, làm thu ngắn lộ tŕnh và sự giao thông từ Madras lên miền núi chỉ mất có một ngày đường. Nhờ đó, những chức viên cao cấp của chính phủ Madras có thể định cư trên vùng cao nguyên sáu tháng mỗi năm để tránh khí hậu nóng nực của mùa hè, làm cho những ding cơ đồ sộ của họ ở Madras bị xuống giá trên thị trường bất động sản.

        Khi trở về Bombay, chúng tôi bắt đầu lo dọn nhà, thu xếp ḥm xiểng, rương trắp, sách vở, và đồ tư trang để di chuyển đến Madras. Chi bộ Thông Thiên Học ở Bombay có tổ chức một tiệc tiễn hành trọng thể để đưa chúng tôi lên đường. Ngày 17, chúng tôi đáp xe lửa đi Madras, để định nơi cư trú tại Adyar. Khi đă yên nơi yên chỗ, Chân Sư M. đều hằng ngày đều đích thân đến viếng bà HPB tại nơi trụ sở mới của chúng tôi.

        Năm 1883 là một trong những năm bận rộn nhất, lư thú nhất và thành công nhất trong lịch sử Hội Thông Thiên Học. Có bốn mươi ba Chi Bộ mới đă được thành lập, phần nhiều ớ Ấn Độ và do tôi tổ chức. Những chuyến đi công tác của tôi đă trải qua trên bảy ngàn dặm đường (độ mười hai ngàn cây số), có khi đi xe lửa, hoặc ngồi trên lưng voi, hoặc đi bằng xe ḅ. Bà HPB và tôi thường cách biệt nhau, bà th́ ở nhà để coi sóc bài vở cho tạp chí Theosophist, c̣n tôi đi ta bà khắp nơi trên xứ Ấn Độ  để thuyết pháp, chữa bịnh và thành lập những Chi Bộ mới.

        Trong những tháng đầu năm, hàng đống thư từ được gửi đến Trụ Sở Hội tại Adyar từ các nước Âu Mỹ, chứng tỏ rằng thế giới càng ngày càng chú trọng đến giáo lư Thông Thiên Học.

        Xét v́ cuộc đời của mỗi người trong chúng ta đều được cấu tạo bằng bao nhiêu những chuyện lặt vặt không đáng kể, và v́ tôi muốn cho câu chuyện tường thuật của tôi được hoàn toàn trung thực, nên tôi đă kể lại nhiều chuyện nhỏ nhặt để bổ túc vào cái bối cảnh lịch sử của Hội Thông Thiên Học nói chung.

        Những chuyện tầm thường nhỏ nhặt đó cũng tŕnh bày chúng tôi, những nhà tiền phong khai sáng nên phong trào Thông Thiên Học, như những nhân vật sống cận nhân t́nh, tức là cũng sống như mọi người, chứ không phải là những nhân vật phi phàm như người ta thường suy tôn một cách quá đáng và thêu dệt thêm nhiều chuyện vô lư.

        Nếu bà HPB đă viết những bộ sách hi hữu độc đáo đến mức độ siêu phàm, th́ hằng ngày bà cũng ăn sáng với hột gà chiên tưới rất nhiều mỡ, và tập Hồi Kư này chỉ tŕnh bày mỗi nhân vật dưới h́nh thức tả chân chứ không siêu việt hóa họ như một nhân vật lư tưởng.

        Bởi vậy, tôi cũng ghi lại một chi tiết nhỏ, mà tôi cảm thấy khá thích thú vào lúc nó xảy ra, để làm cho tôi muốn ghi chép lại.

        Phía sau nhà của chúng tôi ở tại Adyar, có một con sông nhỏ, nó làm cho chúng tôi muốn bơi lội như chúng tôi vẫn có sở thích đó từ ngày xưa. Và thế là chúng tôi rủ nhau đi xuống sông, luôn cả bà HPB.

        Những người Âu ở láng giềng chắc hẳn là rất ngạc nhiên mà thấy những người da trắng như chúng tôi, lại tắm chung với độ nửa chục người bổn xứ màu da sậm, cùng nhào xuống nước vẫy vùng và đùa giỡn với nhau một cách thân t́nh cơ hồ như chúng tôi không tin rằng ḿnh thuộc về một chủng tộc cao quư hơn!

        Tôi chỉ dẫn cho bà bạn tôi tập bơi lội, hay nói đúng hơn, là tập làm động tác sao cho khỏi ch́m, và cũng chỉ dẫn luôn cho bạn Damodar thân mến, anh bạn trẻ này lại là một người rất hèn nhát trong số những người sợ nước nhất mà tôi đă từng thấy. Y bắt đầu run rẩy lập cập khi mực nước mới ngập tới đầu gối, làm cho bà HPB và tôi đều phóng tới y những lời mỉa mai, châm biếm.

        Tôi c̣n nhớ rơ sự việc ấy đă thay đổi ra sao. Tôi nói:

        -A ha! Anh muốn trở thành một Siêu Nhân như thế nào, khi mà anh không dám làm cho ướt chí đến cái đầu gối của anh.

        Lúc đó, y không nói ǵ, nhưng ngày hôm sau, khi chúng tôi lại cùng nhau đi tắm, y phóng ḿnh xuống nước và lội ngang qua sông.

        Lời nói châm biếm của tôi không ngờ lại có tác dụng đặc biệt đối với y, và y quyết định rằng hôm ấy y phải lội hay là chết. Đó chính là cái bí quyết để trở thành một Siêu Nhân.

        Hăy DẤN THÂN, đó là cái định luật để tiến hóa. Anh có thể thất bại năm chục lần, hay năm trăm lần, nếu cần; nhưng hăy cứ dấn thân tiến bước, và tiến lên măi, nhất định không chịu lùi, rồi sau cùng anh sẽ thành công. Thái độ "Bất Khả" không bao giờ xây dựng nên một người, hay một bầu thế giới.

Chương Mười Bốn

CÁI GIẾNG THẦN

I

       Tôi đă trở lại Tích Lan sau nửa năm vắng mặt, để tiếp tục công việc Hội và cũng để trợ giúp vào công tŕnh chấn hưng Phật Giáo tại xứ này. Ngày 29 tháng 8, có xảy ra một việc tại khu Hoa Viên của thành phố Galle, nay đă trở thành một diễn biến lịch sử.

        Sau buổi thuyết pháp của tôi hôm ấy, có một cuộc lạc quyên để thành lập ngân quỹ cho công tŕnh hoằng khai Phật Giáo tại xứ này. Một người tên Cornelis Appu được giới thiệu cho tôi do ông Jayasekera, Chi Trưởng Chi Bộ Thông Thiên Học tại Galle. Người ấy quyên góp một nửa Ru-pi, và xin lỗi về số tiền quá nhỏ v́ y bị bịnh liệt bại hết một cánh tay và một chân từ tám năm nay, và bởi đó không thể kiếm ăn được bằng nghề nghiệp của ḿnh.

        Khi tôi từ Bombay đến Colombo, vị Sư Trưởng Phật Giáo có cho tôi biết rằng Giáo Hội Gia Tô đă chuẩn bị mọi việc để sử dụng cái giếng trong nhà một giáo dân, gần thị trấn Kelanie, như một cái "giếng phép" hay "giếng thần" để chữa bịnh cho dân chúng, theo kiểu giếng Đức Mẹ tại Lộ Đức (Lourdes). Có tin cho biết một người đă được chữa khỏi bịnh một cách mầu nhiệm, nhưng khi hỏi ra mới biết đó là một chuyện bịa đặt.

        Tôi mới nói với vị Sư Trưởng rằng đây là một vấn đề nghiêm trọng, mà Đại Đức nên lưu ư. Một khi sự gợi ư đó đă bắt đầu thấm nhuần vào tư tưởng người dân, th́ nó sẽ trở thành một sự thôi miên tập thể; không bao lâu sẽ có những vụ khỏi bịnh thật sự, và chừng đó những Phật Tử dốt nát v́ tin tưởng mù quáng, sẽ bỏ đạo ḿnh để hùa nhau theo đạo khác. Sư Trưởng nói:

        -Tôi biết làm sao bây giờ?

        Tôi nói:

        -Đại Đức phải ra tay hành động, hoặc một vị sư danh tiếng nào khác hăy nhân danh Đức Phật để chữa bịnh cho thiên hạ.

        Sư Trưởng đáp:

        -Nhưng chúng tôi không thể làm được; chúng tôi không biết ǵ cả về những việc đó.

        Tôi nói:

        -Dầu sao, việc ấy phải được thực hiện.

        Khi người bịnh nói trên diễn tả căn bịnh liệt bại của y, tôi cảm thấy trong thâm tâm có một cái ǵ h́nh như muốn nói với tôi:

        -Đây là cơ hội cho anh sử dụng cái Giếng Thần!

        Tôi đă có khảo cứu về khoa Nhân Điện và Chữa Bịnh Bằng Nhân Điện (Mes mérisme) trong ba mươi năm, nhưng chưa bao giờ thực tập, mà chỉ có làm vài cuộc thí nghiệm cần thiết lúc ban đầu. Nhưng bây giờ, do sự thúc đẩy của t́nh thương (vốn là cái động cơ căn bản cho việc chữa bịnh có kết quả), tôi đưa hai bàn tay truyền điện  lên cánh tay bại xuội của y một vài lần, và nói tôi hy vọng rằng y sẽ cảm thấy khá hơn đôi chút. Kế đó, y trở về nhà.

        Chiều hôm đó, tôi đang ngồi nói chuyện với các bạn đạo tại nhà, th́ thấy người bịnh liệt bại ngày hôm qua, tay chống nạng chân đi cà nhắc bước vào; y xin lỗi đến làm rộn, nói rằng y cảm thấy khá hơn nhiều và y đến để cám ơn tôi. Tin lành bất ngờ này khích lệ tôi tiếp tục chữa cho y, và sau độ một khắc đồng hồ truyền điện cho cánh tay bại xuội của y, tôi dặn y hăy trở lại sáng hôm sau.

        Tôi phải nói thêm rằng không một ai ở Tích Lan biết tôi có quyền năng chữa bịnh, và có lẽ họ cũng không hề biết ǵ về quyền năng này; như vậy không thể có giả thuyết được nêu ra v́ sự ám thị hay ảo giác tập thể trong trường hợp này.

        Sáng hôm sau người kia lại đến và tỏ vẻ tôn sùng tôi như một siêu nhân v́ y cảm thấy bớt hẳn. Tôi lại tiếp tục chữa cho y luôn ba ngày liên tiếp, và qua ngày thứ tư y đă có thể vung cánh tay bại xuội của y lên ṿng quanh đầu, mở và khép bàn tay, và sử dụng bàn tay để làm các động tác thông thường một cách dễ dàng.

        Trong ṿng bốn ngày kế đó, y đă có thể kư tên bằng bàn tay đă được chữa khỏi, vào một chứng thư kể rơ trường hợp của y để được đem công bố. Đó là lần đầu tiên từ chín năm nay mà y có thể cầm đến một cây viết.

        Tôi cũng đă chữa luôn cái chân bại liệt của y, và độ một hai ngày sau, y đă có thể nhảy với tất cả hai bàn chân, nhảy c̣ c̣ bằng cái chân bại liệt, đá lên vách với một chiều cao đồng đều nhau bằng cả hai chân, và chạy một cách tự do theo ư muốn.

        Giống như rơm khô bắt lửa, tin ấy loan truyền rất mau khắp cả mọi nơi trong tỉnh. Cornelis đưa đến một người bạn liệt bại như y, cũng được tôi chữa khỏi. Kế đó những người khác đến,  lúc đầu c̣n đến từng nhóm nhỏ đôi ba người, kế đến hằng chục người, và trong ṿng độ một tuần lễ sau, nhà tôi bị bịnh nhân vây phủ suốt ngày từ sáng sớm cho đến khuya, để nhờ tôi truyền điện chữa bịnh cho họ. Sau cùng họ trở nên quấy rầy, phiền nhiễu đến nỗi tôi cũng không c̣n biết phải làm sao để thoát khỏi ṿng vây.

        Lẽ tất nhiên, với sự tăng gia đức tin nơi khả năng của ḿnh, sức mạnh từ điển của tôi tăng vọt lên gấp bội, và những chứng bịnh mà lúc đầu tôi phải mất đến nhiều ngày mới chữa khỏi, nay tôi có thể chữa trong ṿng nửa tiếng đồng hồ.

        Một khía cạnh bực bội, khó chịu nhất trong việc này, là cái thái độ ích kỷ, thấp hèn của quần chúng. Họ bao vây tôi trong buồng ngủ khi tôi chưa mặc quần áo, theo sát tôi từng bước một, không cho tôi có thời giờ ăn cơm, và làm áp lực ráo riết đối với tôi, bất luận rằng tôi bị mệt mỏi và kiệt sức đến độ nào!

        Tôi chữa bịnh cho họ suốt bốn, năm giờ liên tiếp, cho đến khi tôi cảm thấy kiệt quệ, không c̣n chút sinh lực nào. Khi đó tôi mới nghỉ độ nửa giờ đi xuống biển để tắm nước mặn, và khi trở lên nhà, tôi lại cảm thấy tràn đầy sinh lực, thể xác được tăng cường. Tôi bèn tiếp tục công việc chữa bịnh cho đến khi hoàn toàn xế trưa, tôi đă mệt lả và phải yêu cầu bịnh nhân hăy trở về nhà.

        Lúc ấy tôi ở trên tầng lầu thứ nhất của ngôi nhà trọ, nên phần nhiều những người bịnh nặng phải được thân nhân bạn bè khiêng lên lầu và đặt họ nằm dưới chân tôi. Có những người hoàn toàn liệt bại với những tay chân co quắp làm cho họ có một h́nh thù dị dạng giống như những rễ cây có bướu coi rất dễ sợ.

        Sau một hay hai lần truyền điện, mỗi lần độ nửa giờ, tôi đă làm cho họ duỗi thẳng tay chân và đi đứng được như thường. Tôi dùng cái hàng ba rộng lớn của ngôi nhà làm một cái sân vận động, chọn lấy hai ba người trong số những người bịnh nặng nhất vừa được chữa khỏi, và bắt họ chạy đua theo chiều dài hàng ba.

        Họ và những người đứng xem đều cười lớn về sự đùa như một siêu nhân v́ y cảm thấy bớt hẳn. Tôi lại tiếp tục chữa cho y luôn ba ngày liên tiếp, và qua ngày thứ tư y đă có thể vươn cánh tay bại xuội của y lên ṿng quanh đầu, mở và khép bàn tay và sử dụng bàn tay để làm các động tác thông thường một cách dễ dàng.

        Trong ṿng bốn ngày kế đó, y đă có thể kư tên bằng bàn tay đă được chữa khỏi, vào một chứng thư kể rơ trường hợp của y để được đem công bố. Đó là lần đầu tiên từ chín năm nay mà y có thể cầm đến một cây viết.

        Tôi cũng đă chữa luôn cái chân bại liệt của y, và độ một hai ngày sau, y đă có thể nhảy với tất cả hai bàn chân, nhảy c̣ c̣ bằng cái chân bại liệt, đá lên vách với một chiều cao đồng đều nhau bằng cả hai chân, và chạy một cách tự do theo ư muốn.

        Giống như rơm khô bắt lửa, tin ấy loan truyền rất mau khắp cả mọi nơi trong tỉnh. Cornelis  đưa đến một người bạn liệt bại như y, cũng được tôi chữa khỏi. Kế đó những người khác đến, lúc đầu c̣n đến từng nhóm nhỏ đôi ba người, kế đến hằng chục người, và trong ṿng độ một tuần lễ sau, nhà tôi bị bịnh nhân vây phủ suốt ngày từ sáng sớm cho đến khuya, để nhờ tôi truyền điện chữa bịnh cho họ. Sau cùng họ trở nên quấy rầy, phiền nhiễu đến nỗi tôi cũng không c̣n biết phải làm sao để thoát khỏi ṿng vây.

        Lẽ tất nhiên, với sự tăng gia đức tin nới khả năng của ḿnh, sức mạnh từ điển của tôi tăng vọt lên gấp bội, và những chứng bịnh mà lúc đầu tôi phải mất đến nhiều ngày mới chữa khỏi, nay tôi có thể chữa trong ṿng nửa tiếng đồng hồ.

        Một khía cạnh bực bội, khó chịu nhất trong việc này, là cái thái độ ích kỷ thấp hèn của quần chúng. Họ bao vây tôi trong buồng ngủ khi tôi chưa mặc quần áo, theo sát tôi từng bước một, không cho tôi có thời giờ ăn cơm, và làm áp lực ráo riết đối với tôi, bất luận rằng tôi bị mệt mỏi và kiệt sức đến độ nào!

        Tôi chữa bịnh cho họ suốt bốn, năm giờ liên tiếp, cho đến khi tôi cảm thấy kiệt quệ, không c̣n chút sinh lực nào. Khi đó tôi mới nghỉ độ nửa giờ đi xuống biển để tắm nước mặn, và khi trở lên nhà, tôi lại cảm thấy tràn đầy sinh lực, thể xác được tăng cường. Tôi bèn tiếp tục công việc chữa bịnh cho đến khi hoàn toàn xế trưa, tôi đă mệt lả và phải yêu cầu bịnh nhân hăy trở về nhà.

        Lúc ấy tôi ở trên tầng lầu thứ nhất của ngôi nhà trọ, nên phần nhiều những người bịnh nặng phải được thân nhân bạn bè khiêng lên lầu và đặt họ nằm dưới chân tôi. Có những người hoàn toàn liệt bại, với những tay chân co quắp làm cho họ có một h́nh thù dị dạng giống như những rễ cây có bướu coi rất dễ sợ.

        Sau một hay hai lần truyền điện, mỗi lần độ nửa giờ, tôi đă làm cho họ duỗi thẳng tay chân và đi đứng được như thường. Tôi dùng cái hàng ba rộng lớn của ngôi nhà làm một cái sân vận động, chọn lấy hai ba người trong số những người bịnh nặng nhất vừa được chữa khỏi, và bắt họ chạy đua theo chiều dài hàng ba.

        Họ và những người đứng xem đều cười lớn về sự đùa giỡn khôi hài đó, và ngạc nhiên tự hỏi sao lạ vậy, nhưng tôi làm vậy là có mục đích truyền cho họ một đức tin nơi hiệu lực của phép chữa bịnh, giống như đức tin của tôi, để cho sự b́nh phục của họ được hoàn toàn chắc chắn.

        Tôi cũng cảm thấy rất sung sướng mà có thể làm dịu bớt bao nhiêu nỗi khổ đau của nhân loại và trong nhiều trường hợp, đă làm cho những phế nhân phục hồi lại được tất cả những niềm vui của một sức khỏe lành mạnh và tất cả những khả năng hoạt động của một đời người.

        Sự việc trên vẫn tiếp tục dầu cho ở những vùng làng mạc xa xôi hẻo lánh trên lộ tŕnh đi hoằng khai đạo pháp của tôi ở miền Nam đảo Tích lan. Tôi thường đến mỗi thị trấn hay xă ấp bằng xe ngựa hay xe ḅ, và thấy bịnh nhân rải rác nằm ngồi đợi tôi trên các hàng ba,băi cỏ, và trong đủ mọi loại xe cộ, hoặc kiệu khiêng bằng tay, đến từ các vùng lân cận.

        Baddegama là một trung tâm nổi tiếng về những hoạt động Truyền Giáo, và cũng về sự thù nghịch đối với Phật Giáo nói chung. Có những tin tức hăm dọa rằng các nhà Truyền Giáo sẽ tấn công tôi trong buổi thuyết pháp tại đây, và lẽ tự nhiên các Phật Tử sẽ tề tựu đông đảo để nghe tôi giảng Đạo.

        Nhiều hội viên Hội Thông Thiên Học cũng tứ Galle đến dự thính, và trong đám đông, tôi nh́n thấy Cornelis Appu, y đă đi bộ suốt hai mươi cây số đường trường đến đây. Thế là không c̣n nghi ngờ ǵ về việc y đă được hoàn toàn chữa khọi bịnh liệt bại!

        Một trường hợp lư thú đă đến với tôi ở một tiểu ấp tên Agalya. Một bà lăo già bảy mươi hai tuổi bị một con trâu cái đá vào khi bà đang vắt sữa độ vài năm trước đây; bà bị vẹo xương sống, không thể đứng thẳng người và đi phải chống gậy. Bà bất giác cười lớn một cách ḍn dă khi tôi nói rằng không bao lâu tôi sẽ làm cho bà nhảy múa được. Nhưng chỉ sau có mười phút truyền điện dọc theo xương sống và tay chân, bà đă cảm thấy b́nh phục sức khỏe. Tôi bèn nắm tay bà, quăng bỏ cây gậy chống và bảo bà cùng chạy với tôi trên sân cỏ. Bà đă chạy được như thường.

II

       Xong việc, tôi trở về Trụ Sở Thông Thiên Học tại Galle, và một cuộc vây khổn thứ nh́ của bịnh nhân đang chờ đón tôi tại đây. Tôi có ghi nhận một việc nó cho thấy cái ting thần ích kỷ, hẹp ḥi, vô nhân của vài người trong giới y sĩ đối với vấn đề chữa bịnh miễn phí của những thầy "tay ngang", chỉ làm việc v́ t́nh thương nhân loại.

        Một số bịnh nhân cũ của bịnh viện Galle, bị cho xuất viện v́ bịnh nan y không thể chữa khỏi, đă đến với tôi và được b́nh phục sức khỏe. Lẽ tự nhiên họ phổ biến tin lành đó một cách hào hứng sôi nổi.

        Giới y sĩ chuyên nghiệp không thể làm ngơ hay dửng dung trước sự việc ấy, và ngày nọ một vị bác sĩ trẻ trong tỉnh đă chứng kiến việc làm của tôi. Ngày đó, có một trăm bịnh nhân đến nhờ tôi chữa, và tôi đă truyền điện cho hai mươi ba người, trong số đó có những trường hợp chữa khỏi bịnh một cách rất nhiệm mầu.

        Khi đă chứng kiến tận mắt, Bác Sĩ K. thành thật nh́n nhận hiệu lực của khoa chữa bịnh bằng nhân điện và đă ở lại với tôi suốt ngày, trợ giúp tôi trong việc chẩn bịnh, và đă làm những công việc của một người trợ tá bịnh viện.

        Chúng tôi đều ưa thích nhau, và khi chia tay, y hẹn sẽ đến sáng ngày hôm sau để trợ giúp tôi tùy theo khả năng của y. Chính y cũng đang bị đau chân v́ một chứng bịnh cứng xương mắt cá, và tôi đă chữa khỏi cho y.

        Ngày hôm sau, y không đến,cũng không cho biết lư do tại sao. Sự bí mật ấy được giải thích trong một bức thư y viết cho một người bạn quen giữa đôi bên, người này đă giới thiệu y đến với tôi trước đây.

        Dường như khi chia tay từ giă tôi hôm trước, đầy ḷng hứng khởi với những ǵ y đă nh́n thấy tận mắt, y bèn đến gặp vị Y Sĩ Trưởng của bệnh viện và báo cáo mọi việc.

        Vị thượng cấp của y nghe một cách lạnh lùng, và khi y đă nói xong, bèn nói lên cảm nghĩ của ông ta về tôi. Tôi là một lang băm, việc chữa bịnh ấy chỉ là một tṛ dối gạt phỉnh lừa, những bịnh nhân đă được trả tiền để nói dối, và vị bác sĩ trẻ bị ngăn cấm không được có sự liên hệ ǵ với tôi hay những tṛ khỉ của tôi nữa.

        Ông ta c̣n cảnh cáo vị bác sĩ rằng nếu y không tuân lệnh, y hăy coi chừng có thể bị mất việc. và nếu y thấy rằng tôi có nhận tiền thù lao, y phải tố giác tôi trước pháp luật v́ hành nghề lương y không có giấy phép!

        Thế là người trợ tá và hâm mộ tọi,  quên cả bổn phận học hỏi cầu tiến của y trong nghệ thuật chữa bịnh, quên cả sự trung thành đối với Chân Lư, quên cả lương tâm chức nghiệp đối với Khoa Học, quên tất cả những ǵ y đă nh́n thấy tôi làm, cả sự hứa hẹn những ǵ mà với thời gian, y cũng sẽ có thể làm, thậm chí cũng không nhớ cái bàn chân y được tôi chữa khỏi, quên cả phép lịch sự tối thiểu của người thất hẹn không đến được như đă có lời hẹn trước, người bác sĩ ấy không đến luôn ngày hôm sau, thậm chí cũng không có một lời xin lỗi.

        Tôi cảm thấy thương hại y bởi v́ tất cả những triển vọng tương lai của y trong chánh phủ bị lâm nguy; đồng thời tôi cũng cảm thấy rằng y đă mất sự quư trọng của tôi, mà đáng lẽ ra tôi vẫn dành cho y nếu y đă mạnh dạn đứng ra chống lại óc nô lệ nghề nghiệp xấu xa bỉ ổi này.

        Đó là một sự thiên lệch, hủ bại về tinh thần, nó muốn rằng toàn thể nhân loại đều phải chịu đau ốm chứ không được chữa trị bịnh tật, trừ phi bởi những lương y chính thống, trong một bầu không khí thiêng liêng và không hề lầm lỗi của khoa Y Học chánh thức!

Chương Mười Lăm

BÍ QUYẾT CỦA SỰ CHỮA BỆNH

I

       Bí quyết chữa bệnh hữu hiệu bằng khoa Nhân Điện đă được tiết lộ cho tôi do một kinh nghiệm mà tôi đă trải qua tại một làng nhỏ ở miền Nam Tích Lan.

        Một người bịnh bán thân bất toại, hay tê liệt hết nửa thân ḿnh, được đưa đến cho tôi chữa. Tôi bắt đầu truyền điện trên cánh tay y dọc theo các đường gân và bắp thịt, và thỉnh thoảng thổi vài cái lên trên. Trong không đầy nửa tiếng đồng hồ, tôi đă làm cho cánh tay y co giăn được như thường đến mức y có thể vung tay ṿng quanh đầu, mở và xếp các ngón tay tự nhiên, cầm bút, chí đến lượm kim gút, và làm mọi động tác tùy ư muốn.

        Kế đó, v́ tôi đă chữa liên tiếp nhiều trường hợp tương tự suốt nhiều giờ và đă cảm thấy mệt mỏi, tôi mới yêu cầu Ủy Ban Tổ Chức hăy bảo y ngồi đợi, để cho tôi nghỉ ngơi giây lát.

        Trong khi tôi ngồi nghỉ và ngậm ống điếu hút thuốc, nhân viên Ủy Ban nói cho tôi biết rằng bịnh nhân ấy rất khá giả, Y đă tốn tiền bác sĩ, thuốc men hết một ngàn năm trăm Ru-pi mà bịnh vẫn không thuyên giảm. Y lại là một người rất hà tiện và ai cũng biết rơ tính keo kiệt, bủn xỉn của y.

        Ái chà! Trong tất cả những thói hư tật xấu ghê tởm nhất đối với nhà Huyền Học, th́ tánh tham tiền là một: đó là một sự đam mê ti tiện và bỉ ổi nhất. Trong ḷng tôi tự nhiên mất hết thiện cảm đối với người ấy. Theo lời đề nghị của tôi, Ủy Ban mới hỏi y định quyên góp bao nhiêu tiền vào quỹ phước thiện Phật Giáo. Y nói rằng y rất nghèo và đă tốn nhiều tiền cho các bác sĩ, nhưng y cũng đóng góp một Ru-pi! Thế là hết chỗ nói!

        Sau một lúc nghỉ ngơi, tôi lại tiếp tục chữa cái chân bại xuội của y và chỉ độ nửa giờ sau, cái chân y đă cử động và đi đứng được như thường. Y bước chân ra về một cách tỉnh táo lành mạnh như mọi người. Người thư kư của tôi cũng đă bảo y viết một chứng thư về sự chữa khỏi bịnh cho y và tôi c̣n giữ bức văn kiện ấy như một kỷ niệm trong chuyến đi hành đạo ở Tích Lan.

        Ủy Ban Tổ Chức công việc hoằng hóa Phật Pháp của tôi đă sắp đặt một loạt những chuyến đi thuyết pháp ở các vùng, mỗi lần kéo dài độ hai tuần lễ, rồi trở về Galle là địa điểm trung ương.

        Khi chuyến đi này kết thúc, một hôm tôi hỏi thăm về t́nh trạng sức khỏe của vài bịnh nhân mà tôi chú trọng nhất v́ tính cách đặc biệt của chứng bịnh họ, trong số đó có trường hợp của bịnh nhân hà tiện bủn xỉn kể trên. Tôi rất ngạc nhiên mà nghe họ trả lời rằng cánh tay y đă hoàn toàn lành mạnh, nhưng c̣n cái chân th́ không khỏi hẳn, mà đă trở lại t́nh trạng liệt bại như cũ.

        Tuy tôi không thấy có trường hợp nào tương tự trong các sách vở dạy về khoa Nhân Điện, nhưng cái lư do đă nổi bật ngay tức khắc: đó là bởi v́ tôi đă mất thiện cảm đối với người kia sau khi nghe nói về thói bủn xỉn, hà tiện của y. Bởi vậy, nguồn sinh lực của tôi không rung động dọc theo Thần Kinh Hệ của y như trong trường hợp chữa cánh tay, và kết quả là chỉ có một sự kích thích lành mạnh tạm thời, rồi lại trở về t́nh trạng liệt bại như cũ.

        Trong cả hai trường hợp, tôi đă áp dụng cùng một kỹ thuật chữa bịnh giống như nhau, và đă truyền qua cho y một số lượng sinh lực đồng đều nhau, nhưng trong trường hợp sau, tôi không cảm thấy có chút nào t́nh thương và ḷng hảo ư để đem lại sự khỏi bịnh thật sự và vĩnh cửu như trong trường hợp của cánh tay.

        vài nhà viết sách về khoa Nhân Điện, trong đó có tác giả Younger, cũng đă khẳng định rằng "t́nh thương là cái bí quyết căn bản để chữa hầu hết mọi bịnh tật bằng cách truyền Nhân Điện".

        Trường hợp trên cũng nhắc nhở sự thật của những giáo lư cổ xưa, dạy rằng những tư tưởng lành của ta đưa đến cho ngưới khác có tác dụng rất nhiệm mầu để gây cho y niềm phúc lạc và sự lành mạnh lâu bền, c̣n những tư tưởng ác đem lại một hậu quả trái ngược lại.

        Điều đó cảnh cáo ta hăy cẩn thận giữ ǵn đừng nghĩ quấy cho kẻ khác, và bởi đó chúng ta sẽ hiểu dễ dàng lư do tại sao có sự sợ sệt những nhà phù thủy với những phép trù ếm và thốt ra những lời trù ẻo hại đời. Những việc đó đều có căn cứ chắc chắn, và người ta có thể sử dụng những sức mạnh vô h́nh để tác họa cũng như để đem niềm vui và hạnh phúc cho người chung quanh.

        Một trường hợp bị "Ma Nữ hấp tinh" đă được vị Sư Trưởng của một ngôi chùa đưa đến cho tôi chữa tại Galle. Một nhà sư trẻ độ chừng hai mươi bảy tuổi, từ hai hay ba năm qua đă bị một con Nữ Yêu (Yakshini) tác quái chọc ghẹo.

        Vị Sư Trưởng nói với tôi rằng con Nữ Yêu này đă đóng vai tṛ vợ ma của nhà sư trẻ, nhưng làm cho vị sư này trác táng quá độ giống như một người bị chứng "động t́nh"(nymphomania). Nhà sư trẻ bị "hấp tinh"như vậy nhiều lần mỗi đêm, làm cho thể chất y hao ṃn đến độ chỉ c̣n da bọc xương.

        Vị Sư Trưởng b́nh tĩnh yêu cầu tôi chữa bịnh cho y. Cũng may là vài năm trước đây ở Mỹ Quốc tôi cũng đă có chữa khỏi một trường hợp tương tự, nhưng bịnh nhân là một người nữ, v́ vậy nên tôi biết khá rơ là phải làm thế nào.

        Tôi dành cho chú săi một khóa trị liệu bằng nước lạnh có truyền nhân điện, và bảo y hăy đến mỗi buổi sáng trong ṿng một tháng, để nhận lấy phần nước đem về uống mỗi ngày. Sau một tháng, y đă được hoàn toàn khỏi bịnh. Kế đó, tôi cho mời vị Sư Trưởng đến và khuyên ông ta nên cho chú săi hoàn tục, để cho y trở về lập gia đ́nh và sống cuộc đời b́nh thường của một người gia trưởng. Thế là y cởi áo nhà sư và trở về nhà.

        Trường hợp này được giải thích một cách đơn giản là ảnh hưởng tác quái của con Nữ Yêu đă bị hóa giải và tiêu diệt bởi cái quyền năng Ư Chí mạnh mẽ hơn của tôi, và tác dụng thường xuyên của nước lạnh có truyền nhân điện đă trợ giúp thêm để tăng cường hiệu lực. Tất cả các nhà chữa bịnh bằng khoa Nhân Điện đều đồng quan niệm như nhau về sự công hiệu của nước lạnh có truyền từ điển như một phương thuốc trị liệu rất thần t́nh.

II

       Ngày 17 tháng 2, tôi xuống tàu đi Calcutta. Sau một chuyến đi thích thú, tôi cặp bến vào ngày 20 và được tiếp đón tại nhà Tân quán của Quốc Vương Jotendra Mohun Tagore. Ngôi dinh thự của ngài được biến thành một bịnh viện, v́ bịnh nhân tề tựu rất đông để chờ đợi tôi cứu chữa cho họ.

        Một trong những bịnh nhân đầu tiên là một thanh niên Ấn bị bịnh động kinh (epilepsy), phát chứng lên cơn từ năm mươi đến sáu mươi lần mỗi ngày. Tuy nhiên, bịnh ấy thuyên giảm rất mau dưới bàn tay truyền điện của tôi, và qua ngày thứ tư, những cơn bịnh động kinh đă hoàn toàn dứt hẳn.

        Tôi không biết rằng sự khỏi bịnh này có được lâu bền hay không: chắc là không, bởi v́ những nguyên nhân sâu xa đến nỗi đă gây nên một số phiền nhiễu những lần lên cơn như vậy mỗi ngày, không có lẽ lại bị tiêu trừ sau chỉ có vài ngày chữa trị.

        Đáng lư ra bịnh nhân phải được chữa trị trong một thời hạn lâu dài, có thể là nhiều tuần trước khi người ta có thể nói là y đă được hoàn toàn b́nh phục. Dẫu sao, sự việc đă xảy ra đúng như tôi đă nhận xét. Bịnh động kinh, tuy là một trong những chứng bịnh dễ sợ nhất, đồng thời cũng là một trong những bịnh dễ trị nhất bằng phương pháp truyền nhân điện.

        Ngoài ra, tôi cũng gặp những trường hợp lư thú tương tự khác nữa. Trong số đó có một thanh niên Bà La Môn, dộ chừng hai mươi tám tuổi, bị chứng tê liệt các đường gân trên mặt đă hai năm qua, làm cho y ngủ mở mắt v́ không thể khép mí mắt lại, và không thể nói chuyện v́ cái lưỡi không cử động được.

        Khi được hỏi tin y là ǵ, y chỉ có thể thốt ra một âm thanh chát chúa trong cổ họng, v́ lưỡi và đôi môi đều tê cứng mà y không c̣n sử dụng được như ư muốn. Khi y bước vào pḥng, y đứng nh́n tôi trong câm lặng và làm dấu ra hiệu để chỉ căn bịnh của y.

        Sáng hôm ấy, tôi cảm thấy sinh lực tràn đầy cuồn cuộn, cơ hồ như tôi có thể truyền điện cho một con voi. Tôi đưa cánh tay và bàn tay mặt thẳng lên trời, và đôi mắt nh́n thẳng vào người bịnh, tôi dơng dạc hô to bằng thổ ngữ Bengali:

        -Anh hăy khỏi bịnh!

        Đồng thới tôi hạ cánh tay xuống tư thế ngang bằng và chĩa bàn tay tôi vào mặt y.

        Lúc ấy bịnh nhân có phản ứng cơ hồ như bị điện giật. Y run rẩy khắp cả thân ḿnh, đôi mắt y nhắm lại và mở ra, cái lưỡi y bị tê cứng đă lâu, nay lại le ra thụt vào, y thốt lên một tiếng kêu mừng rỡ với một âm thanh vang dội và sụp xuống lạy dưới chân tôi. Y vừa ôm hôn hai đầu gối tôi, vừa tỏ ḷng biết ơn bằng những lời nói nhiệt thành rối rít.

        Cảnh tượng ấy thật quá đỗi thương tâm, sự khỏi bịnh của y thật quá đỗi nhanh chóng, đến nỗi mỗi người có mặt trong pḥng đều chia xẻ nỗi cảm xúc lâm ly bi thiết của người thanh niên, và không có ai là người không rơi lệ. Chính tôi cũng vậy, và đó tức là đă nói rất nhiều.

III

       Trường hợp sau đây là trường hợp lư thú nhất. Một người tên Badrinath Banerji, luật sư ṭa án ở thị trấn Bhagalpore bị hoàn toàn mù mắt, và phải được một đứa trẻ dắt đi. Sau khi đă qua tay những y sĩ nhăn khoa giỏi nhất của thành phố Calcutta và bị cho xuất viện v́ vơng mạc bị teo nhỏ dần không thể chữa khỏi, y đến yêu cầu tôi chữa bịnh cho y.

        Tôi nắm chặt hai bàn tay, chĩa ngón cái của bàn tay mặt trước một mắt của y, và ngón cái của bàn tay trái chĩa vào sau gáy (ót), tôi vận dụng ư chí phóng một luồng nhân điện từ đầu dương cực do ngón cái tay mặt chạy xuyên qua con mắt và bộ óc của người bịnh, cho tiếp nối với đầu âm cực ở ngón cái chĩa vào sau ót.

        Thế là tôi sử dụng thân ḿnh tôi như một cái b́nh phát điện, gịng điện lưu thông theo một đường ṿng khép chặt (circuit fermé) với lưỡng cực âm dương là hai ngón tay cái, để "sạt" điện vào con mắt và đường dây thần kinh trong khối năo của người bịnh.

        Phương pháp "sạt điện "này được tiếp tục độ nửa giờ, trong khi đó người bịnh vẫn hoàn toàn tỉnh táo, thỉnh thoảng y cũng thốt lên vài lời để bày tỏ cảm giác mà y tiếp nhận được. Sau cùng, y thoáng thấy một tia sáng đỏ lờ mờ trong con mắt đó. Tôi bèn đổi qua con mắt kia, và cũng áp dụng một phương pháp tương tự, với kết quả cũng giống y như trước. Khi ấy, tôi mới cho y về và dặn y ngày hôm sau hăy trở lại.

        Qua ngày hôm sau, tôi lại tiếp tục, và lần này cái ánh sáng lờ mờ màu đỏ đă biến mất và trở thành màu trắng. Tôi kiên nhẫn chữa trị cho y luôn mười ngày liên tiếp, và sau cùng tôi đă thành công: thị giác của y đă được phục hồi trở lại, và y đă có thể đọc bằng một mắt những chữ in kiểu nhỏ nhất trên một tờ báo hay một cuốn sách, y không cần có người dắt dẫn, và đi đứng như mọi người thường.

        Trường hợp khỏi bịnh này đă gây dư luận sôi nổi, v́ người này c̣n nắm giữ những chứng thư của những vị y sĩ ưu tú và nổi tiếng nhất tuyên bố rằng bịnh mù mắt của y không thể chữa khỏi. Vả lại, tật đui mù của y đă được tất cả mọi người biết và xác nhận trong tỉnh Bhagalpore.

        Giai đoạn tiếp theo sau sự khỏi bịnh này thật rất lư thú và lạ lùng. Thị giác của y đă lu mờ dần và tắt hẳn hết hai lần, và cả hai lần đều được tôi phục hồi trở lại; lần đầu tiên sau khi chữa khỏi được sáu tháng, và lần thứ nh́ sau đúng mười hai tháng. Trong mỗi trường hợp, tôi đều thấy y lại hoàn toàn mù tịt, và đă làm cho y sáng mắt trở lại sau mỗi lần chữa trị độ nửa giờ.

        Muốn cho y được hoàn toàn khỏi hẳn, tôi cần phải có y ở bên cạnh tôi, để có thể chữa trị cho y mỗi ngày cho đến khi những triệu chứng của bịnh "thong manh" (teo con ngươi) đă bị hoàn toàn hủy diệt. Điều này về sau đă được thực hiện, và tật mù mắt của y không c̣n tái phát trở lại nữa.

        Tôi cũng rất may mắn và "mát tay" trong việc chữa bịnh điếc. Người anh của bịnh nhân mù nói trên là một công chức cao cấp Sở Bưu Điện, bị điếc đến nỗi người đối thoại phải la lớn vào lỗ tai y để cho y có thể nghe được, Sau hai lần chữa trị bằng nhân điện trong hai ngày liên tiếp, y đă có thể nghe tôi nói chuyện bằng một giọng b́nh thường ở một khoảng cách độ chừng mười lăm thước tây.

IV

       Trong số những người Âu đến viếng nhà Tân quán (trú quán dành cho tân khách) của Quốc Vương Mohun Tagore ở Calcutta để chứng kiến việc chữa bịnh của tôi, có Mục Sư Phillip Smith, thuộc một phái bộ Truyền Giáo người Anh. Ông ta rất nhă nhặn, lịch sự đối với tôi, và tôi đă dành cho ông ta mọi cơ hội thuận tiện để quan sát các sự việc, hầu có một nhận xét đúng đắn về khoa chữa bịnh bằng phương pháp truyền Nhân Điện.

        Ông ta theo dơi mỗi trường hợp, đưa ra nhiều câu hỏi cho mỗi bịnh nhân và ở lại bên cạnh tôi cho đến chiều tối, khi tất cả mọi người đă ra về. Kế đó, chúng tôi nói chuyện với nhau về vấn đề chữa bịnh, và phân tích tỉ mỉ từng trường hợp mà ông ta đă quan sát tại chỗ. Ông ta tuyên bố hoàn toàn thỏa măn về sự giải thích của tôi, và nói rằng nếu ông ta không nh́n thấy tận mắt mọi việc đă xảy ra, th́ có lẽ ông ta đă không thể tin được khi nghe người khác thuật lại.

        Kế đó, vị Mục Sư nêu ra vấn đề các phép lạ diễn tả trong Kinh Thánh, và phải thú nhận rằng ông ta đă thấy tôi chữa khỏi nhiều chứng bịnh một cách mầu nhiệm, giống như Đức Giê Su và các Thánh Tông Đồ đă làm khi xưa: làm cho người mù được sáng, người điếc được nghe, người câm được nói, người liệt bại quăng nạng gỗ, chữa khỏi các bịnh đau thần kinh, đau bụng kinh niên, phong giật, động kinh, và các chứng bịnh nan y khác.

        Tôi nói:

        -Thưa Mục Sư, xin ông vui ḷng nói cho tôi biết: ông thấy việc chữa bịnh của tôi với những phép chữa bịnh diễn tả trong Kinh Thánh có khác nhau ở điểm nào? nếu những ǵ ông thấy tôi làm đều giống y như những trường hợp nói trong Kinh Thánh, th́ phải chăng cả hai loại đều phải được giải thích giống như nhau? Nếu cách chữa bịnh trong Kinh Thánh được gọi là phép lạ, th́ phải chăng phép chữa bịnh của tôi cũng phải được gọi như vậy? C̣n nếu không phải, mà phép chữa của tôi chỉ là hoàn toàn đúng theo luật tự nhiên, th́ tại sao lại muốn cho người ta tin rằng những phép chữa bịnh của Đức Giê Su và các Thánh Tông Đồ là do quyền năng thiêng liêng hay phép lạ nhiệm mầu. Phải chăng như vậy là không hợp lư?

        Vị Mục Sư ngồi suy nghĩ một hồi lâu, có vẻ đắm ch́m trong cơn suy tư thâm trầm, và kế đó ông ta đưa ra một câu trả lời rất độc đáo mà tôi không bao giờ quên. Ông nói:

        -Tôi nh́n nhận rằng phép chữa bịnh trong cả hai trường hợp đều hoàn toàn giống y như nhau: tôi không c̣n nghi ngờ ǵ về việc đó. Tôi chỉ có thể giải thích bằng cách suy luận rằng những phép chữa bịnh của Đức Giê Su đă được thực hiện bằng sức người, tức là qua cái khía cạnh thể chất hồng trần của Ngài!

V

       Trước đây, những vụ chữa khỏi bịnh của tôi ở Tích Lan được phản ảnh rầm rộ trên báo chí, đă tạo nên một sự sôi động trong quần chúng Ấn Độ, và họ đă khẩn thiết yêu cầu tôi đi chữa bịnh cho họ trong tỉnh Bengale.

        Sự việc ấy nay lại tái diễn một lần nữa, v́ những bài tường thuật hấp dẫn trên báo chí miền Bắc Ấn về việc làm của tôi, đă làm cho tôi bị mời mọc khẩn cấp, ráo riết để đi cứu chữa bịnh nhân ở miền Nam Ấn.

        Dân chúng vây phủ lấy tôi ở Tinnevelly, cũng như ở tất cả các ga xe lửa khác trong vùng, và tôi đă thực hiện vài vụ chữa khỏi bịnh nan y một cách rất thần diệu. Một thanh niên Ấn Độ chừng ba mươi tuổi được cha y dắt đến và yêu cầu tôi chữa tật câm cho y, mà y đă mắc phải từ ba năm về trước.

        V́ bị đám đông vây chặt làm nghẽn hết lối đi, tôi mới trèo lên bực tam cấp của ngôi đền Bà La Môn gần bên, và kéo người câm cùng bước lên với tôi. Lúc ấy tôi đưa tay làm hiệu để yêu cầu quần chúng giữ im lặng, và bảo người cha tuyên bố cho dân chúng biết tự sự.

        Sự việc diễn ra sau đó đă được một bạn đạo là ông Ramaswamier tường thuật lại và đăng trong mục phụ bản tạp chí Theosophist, tháng 8 năm 1883. Ông viết:

        "Giữa một đám quần chúng tề tựu đông đảo trước ngôi đền Nelliappa, Đại Tá Olcott đặt hai bàn tay lên người câm. Ông khoát tay bảy lần ṿng quanh đầu, và bảy lần dọc theo thân ḿnh người bất hạnh, tất cả mọi sự đă diễn ra trong không đầy năm phút, và người câm đă nói được!

        Giữa những tràng pháo tay vang động và những tiếng kêu hoan hô nồng nhiệt, Đại tá Olcott đă chỉ thị cho người câm thốt lên hồng danh của Shiva, Gopala, Rama, ramachandra và của các đấng Thần Minh khác một cách trôi chảy dễ dàng như bất cứ người nào trong đám đông đang chứng kiến sự việc ấy. Tin lành về việc chữa khỏi bịnh cho người câm đă loan truyền tức khắc khắp cả thành phố và đă gây nên một cơn xúc động sâu xa".

        Điều ấy cũng không lạ ǵ, v́ khi tôi làm cho người câm hô to danh hiệu các vị Thần bằng giọng lớn tột đỉnh của y, th́ một nửa đám đông vô cùng xúc động, bèn đổ xô ra đường như điên như dại, vung tay lên khỏi đầu, và la lớn khẩu hiệu ngạc nhiên, mừng rỡ theo kiểu Ấn Độ nghe rền cả một góc trời: Wah! Wah! Wah!(*)[ii]

        Trong tờ phụ bản tạp chí Theosophist tháng 5 năm 1883, độc giả sẽ thấy đăng tờ y chứng của Bác Sĩ Purna Chandra Sen ở Dacca, nói về việc tôi đă chữa khỏi trong ṿng hai mươi phút, hai bịnh nhân bị chứng sốt rét trầm trọng, với hậu quả là bị sưng lá lách, mệt tim và loạn thần kinh.

        Cũng trong phụ bản tạp chí ấy ra số tháng 6 năm 1883, có bản tường thuật của Bác Sĩ Mohun Ghose về mười trường hợp khó trị do tôi chữa khỏi, trong số đó có trường hợp của chính ông ta.

        Đó là trường hợp mù mắt bên tay trái, mà các y sĩ nhăn khoa danh tiếng ở Calcutta đề tuyên bố là không thể chữa khỏi, và có thể là một chứng bịnh do bẩm sinh đă có. Bác Sĩ Mohun viết:

        "Nhưng hôm nay, sau vài phút truyền điện bằng cách thổi vào một cái ống dẫn điện nhỏ bằng bạc, Đại Tá Olcott đă phục hồi lại thị giác cho tôi. Ông bảo tôi nhắm con mắt bên Phải, và đọc bằng con mắt bên trái từ trước vẫn bị mù. Tôi đă đọc được báo in bằng kiểu chữ nhỏ loại thông thường. Những cảm xúc của tôi như thế nào, người ta có thể tưởng tượng rơ ràng hơn là do tôi diễn tả".

        Phải, nhưng hăy thử tưởng tượng những cảm xúc của các y sĩ nhăn khoa trứ danh của thành phố Cacutta, đă tuyên bố là con mắt ấy không thể chữa khỏi!

VI

       V́ những trường hợp chữa khỏi bịnh bằng nhân điện của tôi được các báo chí phổ biến rộng răi và b́nh luận thường xuyên, nên độc giả có thể thích thú mà đọc một bản tóm lược những số thống kê do bạn Chandra Mukerji công bố, ông này cùng đi theo tôi suốt cuộc hành tŕnh công tác đạo sự trong năm 1882 và trợ giúp tôi về phần việc của một bí thư. Ông cho biết tổng số bịnh nhân mà tôi đă chữa trị là hai ngàn tám trăm mười hai người trong một chuyến đi ṿng quanh các thị trấn miền Đông Bắc kéo dài độ năm mươi bảy ngày.

        Bà C.Wallace, tác giả một bộ sách về khoa Nhân Điện, khi nh́n thấy bản thống kê tổng số bịnh nhân do tôi chữa khỏi trong năm ấy, có viết thư cho tôi biết rằng không một nhà chữa bịnh bằng Nhân Điện nào ở Âu Châu có thể thành công tới một nửa số đó.

        Lẽ tất nhiên, bà chỉ nói về những nhà chữa bịnh chuyên nghiệp như bà mà thôi, chứ không đề cập đến những bậc thiên tài như Schlatter, Newton, Linh Mục Ars, Zouave Jacob và những vị khác mệnh danh là có sự hỗ trợ của một quyền năng thiêng liêng. Riêng phần tôi, tôi thành thật thú nhận rằng tôi không thể nào chịu đựng nổi một sự phung phí sinh lực lớn lao và thường xuyên như vậy, nếu tôi không được sự trợ giúp thần lực của các đấng Chân Sư, tuy rằng điều này các Ngài không hề nói cho tôi biết.

        Điều mà tôi bắt buộc phải nh́n nhận là tôi không c̣n có được một quyền năng nhiệm mầu như vậy nữa kể từ khi tôi được lịnh ngưng mọi công tác chữa bịnh, tức là vào khoảng cuối năm 1885. Sau đó, tuy tôi đă luôn luôn cố gắng tối đa, tôi vẫn không chữa khỏi những trường hợp tuyệt vọng mà trước kia tôi đă có thể thành công dễ dàng với chỉ độ nửa giờ chữa trị, hoặc có khi ít hơn.

        Sau đó, tại Bombay, tôi được lịnh của Sư Phụ truyền cho tôi hăy ngưng tất cả mọi công tác chữa bịnh cho đến khi có lịnh mới. Sự ngăn cấm này không phải đến quá sớm v́ tôi nghĩ rằng chính tôi cũng có thể bị tê liệt nếu tôi vẫn tiếp tục cố gắng và dùng sức quá nhiều vào việc ấy.

        Khi đến Madras, một buổi sáng tôi nhận thấy ngón tay trỏ bên bàn tay trái của tôi không c̣n cảm giác, và đó là một sự cảnh cáo rơ rệt cho tôi biết là tôi phải cẩn thận. Ở những trạm dọc đường giữa Madras và Bombay, tôi đă phải mất nhiều th́ giờ hơn và dùng sức cố gắng lớn lao hơn nhiều để chữa khỏi những chứng bịnh tương tự so với những lần trước đây, và tỷ lệ thất bại cũng cao hơn nhiều.

        Điều này cũng không lạ ǵ, v́ sau khi chữa trị bằng cách này hay cách khác độ tám ngàn bịnh nhân trong ṿng mười hai tháng, th́ dù cho một lương y có sinh lực dồi dào mạnh khỏe nhất, đừng nói chi một người tuổi ngoài năm mươi, cũng phải cảm thấy kiệt sức và nguồn sinh khí của ḿnh bị khô cạn.

        Vả lại, với những chuyến du hành mệt mỏi thường xuyên, việc ngủ nghê ăn uống thất thường, sự lao phí tâm lực để trả lời thư tín bốn phương, tiếp khách hằng ngày, và những buổi thuyết pháp hầu như mỗi ngày của tôi về những đề tài triết lư thâm sâu, những điều này đương nhiên là phải đưa đến cái hậu quả nói trên.

VII

       Sau khi lịnh ngưng công tác chữa bịnh của tôi được giải tỏa, tôi lại tiếp tục làm việc.

        Trong một chuyến đi hành đạo ở Madura, miền Nam Ấn, có rất đông bịnh nhân tề tựu đến nhờ tôi chữa bịnh, và mỗi trường hợp chữa khỏi bịnh lại làm cho dân chúng càng thêm sôi động. Tôi đă phải nhờ Ban Tổ Chức sắp đặt trật tự, và chọn lựa những bịnh nhân được chữa ưu tiên, trong số quần chúng vây chặt và xô đẩy nhau ở cửa vào.

        Báo cáo của một bạn đạo gửi đăng tạp chí Theosophist cho biết rằng tôi đă truyền điện cho hai mươi bảy bịnh nhân, và những trường hợp khỏi bịnh đáng kể nhất gồm có ba người điếc, một trường hợp bịnh thấp khớp tủy xương sống đă kéo dài chín năm mà y học không thể chữa khỏi, và hai chứng liệt bại.

        Nói chung, đó là một loạt những sự việc mệnh danh là "phép lạ", mà nếu được một giáo sĩ của bất cứ một tôn giáo nào khai thác triệt để, cũng đủ chứng minh cho người đới thấy rằng y là ngưới có Thiên Ân Sứ Mạng; v́ quần chúng mê tín dị đoan của bất cứ nước nào cũng sẵn sàng tin tưởng như vậy.

        Độc giả sẽ nhận thấy rằng nếu hai nhà Sáng Lập Hội Thông Thiên Học Thế Giới quả thật là những kẻ gian trá lừa bịp như họ thường bị vu khống, th́ họ đă có thể tóm thâu những số bạc khổng lồ và được tôn sùng như thần thánh, thay v́ chỉ có những số lợi tức ít oi như được tường tŕnh trong các bản báo cáo t́nh h́nh tài chính hằng năm của Hội.

        Không phải là chúng tôi không có cơ hội, bởi v́ mọi cơ hội tốt mà bất cứ một nhà cải tạo tôn giáo nào ở Ấn Độ đă từng có, th́ chúng tôi cũng đă có.

        Trong thời kỳ mạt pháp hiện tại, mà ḷng tín ngưỡng đă suy thoái, và các hàng giáo phẩm, tư tế đă lụn bại, đồi trụy tinh thần, th́ những phép thuật thần thông của bà HPB và phép chữa bịnh nhiệm mầu của tôi đă gây ấn tượng sâu xa vào tâm hồn dân chúng đến mức làm cho các nhà tỷ phú sẵn sàng hiến dâng tiền bạc của cải dưới chân chúng tôi, và những số bạc khổng lồ đă được cung hiến để cho chúng tôi biểu diễn quyền năng trước mắt họ(*)[iii]

        Chúng tôi đă từ chối tất cả những đề nghị đó với một sự thành thật hiển nhiên, và đó chính là cái bí quyết làm cho chúng tôi được quần chúng mến phục và kính trọng ở khắp mọi nơi trong xứ Ấn Độ, kể từ lúc đầu cho đến bây giờ.

        Nếu chúng tôi đă thâu nhận một món quà nào cho riêng ḿnh, th́ toàn thể quần chúng Ấn Độ có lẽ đă bỏ rơi chúng tôi trong cơn khủng hoảng về vụ Coulomb, buôn thanh62 bán thánh, hoặc "lấy Đạo tạo Đời".

        Trái lại, với t́nh trạng hiện hữu, tất cả các nhà Truyền Giáo của mọi chi phái và tất cả mọi tổ chức hiệp hội trên thế giới, vẫn không thể lấy mất đi cái cảm t́nh mà chúng tôi gây nên trong ḷng của dân chúng Ấn, dẫu rằng họ thuộc một thế hệ suy đồi!

Chương Mười Sáu

CHÂN SƯ K.H. TẠI LAHORE

I

        Trong một chuyến đi hành đạo ở miền Trung Ấn, khi đến Sholapore một người cộng tác mới là bạn W.T.Brown quê tại Glasgow (Anh Quốc), tháp tùng đi với chúng tôi.

        Y từ Anh Quốc sang đây do sự thúc đẩy của ḷng mong muốn phụng sự, và vừa mới đến Madras. Y có viết thư cho tôi, bày tỏ thiện chí t́nh nguyện trợ giúp tôi trong công việc đạo sự.

        Tôi đă trả lời cho y bằng một bức thư lời lẽ lịch sự nhưng rất thẳng thắn, cảnh giác cho y biết trước về sự hy sinh mà y phải chịu; sự vô ơn bạc nghĩa của người đời; những sự lừa đảo phản trắc cá nhân; những sự vu khống bôi lọ thanh danh; sự nghi ngờ bất công về ư đồ hay mục đích của ḿnh; và những chuyến đi vất vả mệt nhọc đêm cũng như ngày, bằng đủ mọi thứ phương tiện di chuyển thô sơ và thiếu tiện nghi.

        Tôi cũng khuyên y nên trở về xứ nhà nếu y thấy có triển vọng nào khác, để cho bà HPB và tôi tiếp tục công việc mà chúng tôi đă bắt đầu với một tinh thần tỉnh táo chứ không ảo vọng.

        Sự trả lời của y là một bức điện tín cho biết y sẽ đến với tôi, và y đợi tôi tại ga Sholapore.

        Đây nhắc lại trường hợp của Damodar Mavalankar. Khi người bạn trẻ này gia nhập Hội Thông Thiên Học và đặt hết cả tâm hồn công việc phụng sự, y được cha y cho phép đến sống chung với chúng tôi, bất chấp cả những quy luật hạn chế về giai cấp và sống theo giới luật khổ hạnh giống như của một tu sĩ xuất gia.

        Theo tập quán của người Bà La Môn, Damodar đă có đính hôn ngay từ khi c̣n nhỏ, đương nhiên là không có sự chấp thuận của y. Đến giai đoạn trưởng thành, là thời kỳ y phải bước vào đời sống có gia đ́nh.

        Tuy nhiên, nguyện vọng duy nhất của y trong đời là sống một đời sống tâm linh thoát tục, nên y coi hôn nhân như là một chướng ngại ghê gớm. Y cảm thấy ḿnh là nạn nhân của phong tục tập quán, và rất muốn được giải thoát khỏi sự giao kết ràng buộc kia đi, để y có thể trở nên một đệ tử chân chính của Chân Sư K.H., mà y đă nh́n thấy linh ảnh khi c̣n bé thơ, và lại có dịp nh́n thấy Ngài sau khi y đến với chúng tôi.

        Cha y vốn là một người hiểu rộng và khôn ngoan, sau cùng đă bằng ḷng. Damodar bèn kư thác cho cha y phần gia tài ruộng đất của y do tổ phụ để lại, mà nếu tôi nhớ rơ, th́ trị giá đến năm mươi ngàn Ru-pi, với điều kiên là người hôn thê thơ ấu của y phải được cha y đem về nhà và nuôi dưỡng tử tế.(*)[iv]

        Khi đến Kanpur, tôi đă có những bằng chứng về sự phát triển tâm linh mau chóng của Damodar. Như đă nói trước đây, trong một cơn bịnh nặng hồi c̣n thơ ấu, y được sự viếng thăm của một đấng Cao Cả mà nhiều năm về sau y đă có thể nhận ra như một trong các đấng Chân Sư, sau khi gia nhập Hội Thông Thiên Học.

        Kể từ khi đó, mối liên hệ mật thiết giữa Chân Sư và đệ tử đă được thiết lập, và Damodar đă đặt hết cả tâm hồn vào việc tu luyện, ăn uống đạm bạc, tham thiền đúng giờ khắc, luyện đức tính hoàn toàn vị tha vô kỷ, và làm việc ngày đêm không quản công lao khó nhọc để làm tṛn chức vụ mà tôi giao phó cho y trong ban Quản Trị Hội Thông Thiên Học.

        Y tham gia chuyến đi công tác này của tôi là thừa lịnh của Sư Phụ y, và trong suốt thời gian hành tŕnh, chúng tôi đă có nhiều bằng chứng về sự tiến bộ tâm linh mà y đă thực hiện được.

        Tôi c̣n nhớ rằng vào buổi chiều chúng tôi vừa đến Kanpur, y đă làm tôi ngạc nhiên bằng cách nhắn miệng với tôi một thông điệp của Chân Sư để trả lời tôi về một việc mà tôi đang băn khoăn do dự không biết phải giải quyết bằng cách nào.

        Y c̣n nói thêm rằng tôi sẽ thấy bức thông điệp ấy viết trên một tờ giấy nằm trong một hộc tủ có khóa lại cẩn thận, mà ch́a khóa nằm trong túi áo của tôi. Khi tôi đi mở hộc tủ, tôi thấy bản thông điệp viết tay mà y vừa nói, và đó chính là thông điệp của Đức Chân Sư K.H. gửi cho tôi.

        Vào ngày thứ hai khi đến Kanpur, tôi nhận được một bó thư tín chuyển đến cho tôi từ Adyar. Trong số đó có một bức thư của ông Sam Ward gửi từ Capri, có kèm theo một thông điệp gửi cho Chân Sư K.H., mà y yêu cầu tôi chuyển đạt cho Ngài nếu có thể.

        V́ lúc ấy Damodar mỗi đêm đều xuất Vía đi đến đạo viện của Chân Sư, nên tôi đưa bức thư ấy cho y, và nói rằng y có thể hỏi Ngài xem y có nên đem theo bức thư ấy hay không.

        Đó là vào buổi trưa ngày 4 tháng 11 năm 1883, và chúng tôi đang ở tại Kanpur, thuộc vùng Tây Bắc. Độc giả hăy nhớ rơ chi tiết này để theo dơi phần nối tiếp ở một đoạn sau  

        Sau một buổi thuyết tŕnh và làm các công tác đạo sự khác, chúng tôi từ Kanpur đi theo lộ tŕnh đă vạch sẵn, qua các thị trấn Lucknow, Bareilly và Moradabad. Ở một nơi chương tŕnh hành sự gồm có việc tiếp khách, thảo luận về đạo lư, và thuyết pháp công cộng trên diễn đàn.

        Tại Moradabad, bạn Damodar đă cho tôi thấy một bằng chứng khác nữa vế khả năng Xuất Vía của y. Y xuất hồn đi đến Adyar, nói chuyện với bà HPB, nghe giọng nói của một vị Chân Sư thốt ra một thông điệp giử cho tôi, và yêu cầu bà HPB hăy giử điện tín cho tôi phần nội dung của bức thông điệp ấy để chứng tỏ cho tôi thấy tính cách chính xác của các sự việc xảy ra.

        Khi y trở về và báo cáo lại với tôi mọi việc, y đọc lại bức thông điệp của Chân Sư bằng trí nhớ như y đă nghe, và tất cả mọi người có mặt trong văn pḥng đều kư tên vào một bản chứng thư để chứng nhận việc ấy.

        Sáng ngày hôm sau, người thư tín viên của Sở Bưu Điện đem lại cho tôi bức điện tín của bà HPB. Bức điện tín ấy xác định nội dung bản thông điệp như Damodar đă đọc lại ngày hôm trước, và các nhân chứng có mặt trong pḥng cũng lại đồng kư tên vào phía sau bức điện tín để xác nhận việc ấy.

        Trạm kế đó trên lộ tŕnh là Aligarh, và tại đây vào ngày 12 tháng ấy, sự việc đă diễn biến tiếp nối theo vụ bức thư của ông Sam Ward gửi cho Chân Sư K.H.

        Tại nhà bưu điện, tôi nhận được thư tín từ Adyar, trong số đó có một bức thư của bà HPB đề ngày 5 tháng 11, kèm theo với bức thư của ông Sam Ward gửi cho Chân Sư K.H. mà tôi đă nhận được trước đây từ Capri (Ư Đại Lợi), và đă đưa cho Damodar tại Kanpur vào chiều ngày 4 tháng 11, tức là cách một đêm trước khi bà HPB gửi thư ấy tại Adyar.

        Bức thư của bà có đóng dấu gửi đi tại nhà bưu điện Adyar, ngày 5 tháng 11, và con dấu nhận được tại Aligarh ngày 10 tháng 11, hai địa điểm này cách xa nhau năm ngày đường xe lửa. Bức thư ấy đă nằm tại nhà Bưu Điện Aligarh hai ngày trước khi tôi đến nhận thư.

        Đó là một trường hợp có thể chúng thực về việc chuyển di tức khắc một vật thể giữa hai địa điểm cách xa nhau trong không gian. Không thể có sự giả mạo hay ngụy tạo trong vấn đề này, do bằng chứng rơ rệt là những con dấu nhà Bưu Điện đóng ở ngoài b́ thư như đă diễn tả ở trên.

        Damodar có kể cho tôi nghe một việc lư thú liên quan đến chuyến đi bằng Thể Vía của y. Như thường lệ, khi thể xác y đă ngủ mê, y Xuất Vía vượt qua không gian bay thẳng đến nhà Chân Sư trên dăy núi Tuyết Sơn, nhưng khi đến nơi, y thấy rằng Chân Sư cũng đă Xuất Vía đi đâu mất rồi!

        Kế đó, do bởi quyền năng hấp dẫn của Ngài đối với người đệ tử, thể Vía Damodar đă bị cuốn hút mănh liệt và đến với Ngài tức khắc chẳng khác nào như y bị gịng nước xoáy mạnh và sâu thẳm cuốn trôi đi.

        Trong giây phút, Damodar đă thấy ḿnh ở tại Adyar, đứng trước mặt Chân Sư và bà HPB. Khi y đi ngủ, y đă cầm trong tay bức thư của ông Ward, và thư ấy dường như đă cùng với y đi lên cơi Trung Giới, lẽ tất nhiên là đă chuyển biến từ trạng thái vật chất cụ thể sanh trạng thái khinh thanh của chất dĩ thái hay chất thanh khí cơi Trung Giới.

        Khi y nói với Chân Sư về bức thư ấy, y vẫn cầm nó trong tay và trao nó cho Ngài, kế đó Ngài bảo y hăy quay trở về nhà. Do một thứ quyền năng bí hiểm thuộc về khoa Vật Lư hay Hóa Học Siêu H́nh, bức thư bằng chất dĩ thái khinh thanh đă được phục hồi trở lại trạng thái đông đặc vật chất, được bà HPB cầm lấy, và ngày hôm sau, được gửi qua đường bưu điện d8en61 địa chỉ của tôi ở Aligarh. Việc ǵ xảy ra sau đó, th́ ai cũng biết rồi.

        Nếu tôi biết rành về khoa học hơn, th́ tôi đă dùng sự việc này, cùng với hiện tượng cái khăn vấn đầu mà một vị Chân Sư khác đă cho tôi khi Ngài đến viếng tôi bằng Thể Vía ngay trong pḥng của tôi ở tại New York trước đây, và những trường hợp chuyển di các đồ vật khác nữa, làm một đề tài thảo luận về việc người ta có thể biến đổi những đồ vật từ trạng thái vật chất cụ thể, hữu h́nh qua trạng thái khinh thanh, vô h́nh vô ảnh của những vật thể trên cơi Trung Giới.

        Sự biến thể đó có thể tác động theo hai chiều đối nghịch nhau, tức là từ trạng thái vật chất hữu h́nh trở thành siêu h́nh và từ trạng thái khinh thanh quay ngược trở về trạng thái vật chất hiển hiện cụ thể. Những nhà khảo cứu uyên bác về những hiện tượng thông linh đều biết rơ vấn đề này.

        Kế đó, chúng tôi đi Delhi, Meerut và Lahore, tại đây đă diễn ra những sự việc độc đáo. Giữa hai trạm sau này, Damodar đă thực hiện một chuyến đi khác bằng Thể Vía cũng rất lư thú và đáng ghi nhớ.

        Chúng tôi ba người, kể cả bạn Narain Swamy Naidu cùng đi chung trong một toa xe lửa. Damona có vẻ thẫn thờ dường như buồn ngủ, và bước lên một băng "cút -xét" để nằm ngủ, c̣n tôi ngồi đọc sách dưới ánh đèn của toa xe.

        Th́nh ĺnh, Damona bước đến gần tôi để hỏi giờ, tôi nh́n đồng hồ riêng của tôi th́ thấy gần sáu giờ chiều. Y cho tôi biết rằng y vừa từ Adyar trở về, tại đó bà HPB vừa bị một tai nạn, mà y không thể nói là nặng hay nhẹ, nhưng y nghĩ rằng bà đă đi vấp chân vào tấm thảm lót và đă té ngă quỵ trên đầu gối bên tay mặt.

        Độc giả sẽ thấy rằng Damona chỉ là một người sơ cơ trên đường Huyền Môn, và không thể nhớ rơ một cách chính xác việc ǵ đă xảy ra ở cơi giới bên kia khi y trở về tâm thức ngoại giới hồng trần.

        Khi tôi nghe y kể chuyện ấy, tôi làm ngay hai việc sau đây để biết rơ sự thật. Tôi viết một bản chứng thư về sự việc này và yêu cầu bạn Narain Swamy hăy cùng tôi kư tên vào đó, có ghi rơ giờ khắc. Đến nhà ga kế đó, tức ga Saharanpore, tôi gởi điện tín hỏi bà HPB:

        "Tai nạn ǵ đă xảy ra tại Adyar lúc sáu giờ chiều nay?"

        Chúng tôi đến Lahore vào lúc chín giờ sáng ngày hôm sau, và được đưa đến một trại lộ thiên gồm có sáu chiếc lều cá nhân (dùng để ở) và bốn chiếc lều công cộng căng bằng vải cứng dùng làm chỗ hội họp và chỗ thuyết giảng, dựng lên trên một khoảnh đất trống ở ngoại ô phía Bắc thành phố.

        Chúng tôi kể cho các bạn đạo nghe câu chuyện xảy ra đêm hôm trước trên xe lửa, và đưa tờ chứng thư ra cho họ xem: tôi yêu cầu các bạn có mặt lúc ấy kư tên vào đó và ghi nhận rằng lúc ấy bức điện tín mong đợi của bà HPB vẫn chưa đến.

        Kế đó mọi người từ giă tôi để đi tắm và ăn sáng, và trong khi tôi đang ngồi trong lều vải với ông R.C.Bary, chủ bút tạp chí Arya, th́ một người đem thơ của Sở Bưu Điện bước đến gần chúng tôi, tay cầm một bức điện tín có bọc trong một bao giấy màu nâu.

        Tôi yêu cầu bạn Ruttan Chand hăy cầm lấy bức điện tín trong tay y để chờ đợi cho đến khi những người bạn khác trở lại rồi sẽ mở ra và đọc trước mặt mọi người.

        Việc này được thi hành vào đúng mười hai giờ trưa, do ông R.C.Bary thực hiện và chín bạn đạo có mặt đồng kư tên ở phía sau bức điện tín để chứng thực các sự việc.

        Nội dung bức điện tín như sau:

        Tôi vấp phải chiếc ghế bành, té nặng trên đầu gối tay mặt, ngă vào ḿnh bà Coulomb, làm ông bà Morgan hốt hoảng. Damodar làm chúng tôi giựt ḿnh”.

        Bức điện tín của tôi gửi từ Saharanpore đến tay bà HPB vào đêm 17; điện tín trả lời của bà HPB đề ngày 18 tại Adyar lúc bảy giờ năm mươi lăm và tôi nhận được tại Lahore vào giữa trưa hôm ấy. Sự sai biệt về chi tiết giữa câu chuyện tường thuật của Damodar và bà HPB cũng không làm ai ngạc nhiên v́ tŕnh độ sơ cơ của Damodar lúc ấy, c̣n sự việc chính, tức là việc bà bị té nặng và bị thương trên đầu gối bên tay mặt được hoàn toàn xác nhận là đúng.

II

       Lều trại của tôi được khách đến viếng thăm rất đông suốt ba ngày liền trong thời gian chúng tôi lưu trú tại Lahore, và tôi có thuyết pháp hai lần dưới lều vải công cộng trước một đám quần chúng đông đảo.

        Đêm hôm 19, tôi đang ngủ trong lều, th́nh ĺnh tôi thức giấc khi tôi cảm thấy có một bàn tay sờ vào ḿnh tôi. Trại này được dựng lên giữa đồng trống, và ngoài ra sự bảo vệ của Cảnh Sát thành phố Lahore, phản ứng đầu tiên của tôi là tự vệ chống lại một kẻ cuồng tín tôn giáo có thể đến ám sát tôi.

        Tôi bèn ngồi nhổm dậy, nắm chặt lấy hai cánh tay người lạ mặt và hỏi bằng thổ ngữ Hindoustani rằng y là ai và y muốn ǵ.

        Việc ấy chỉ xảy ra trong chớp mắt, và tôi giữ chặt lấy người kia, trong tư thế  tự vệ của một người trước cơn nguy biến có thể bị hành hung bất ngờ và phải bảo toàn tính mạng của ḿnh.

        Nhưng ngay khi đó, một giọng nói êm ái dịu dàng thốt lên:

        -Anh không biết tôi sao? Anh không nhớ tôi chăng?

        Th́ ra đó là giọng nói của Chân Sư K.H. Sự cảm xúc của tôi liền thay đổi đột ngột, tôi bèn buông tay ra, chắp hai tay kính cẩn vái chào ngài, và muốn nhảy ra khỏi gường nằm để đảnh lễ Ngài.

        Nhưng Ngài đưa tay ngăn tôi lại, và sau khi đă trao đổi với nhau vài câu, Ngài nắm bàn tay trái tôi trong tay Ngài, cuốn tṛn những ngón tay mặt của Ngài trong ḷng bàn tay tôi, và đứng yên bên cạnh giường, trong khi đó tôi có thể nh́n thấy gương mặt đầy hảo ư và thánh thiện của Ngài dưới ánh đèn trong lều.

        Sau một lát, tôi cảm thấy một vật ǵ mềm mại tượng h́nh trong bàn tay tôi, kế đó Chân Sư đặt bàn tay trên trán tôi, thốt ra một lời ban ân huệ, và sau khi rời khỏi gian lều ngăn đôi của tôi, Ngài bước qua gian kế bên để thăm ông W.T.Brown, ông này ngủ ở gian bên cạnh, sau một tấm vách ngăn bằng vải cứng chia lều ra làm hai buồng.

        Khi tôi có thời giờ để thu thập tinh thần và chú ư đến ḿnh, tôi thấy tôi đang nắm trong bàn tay trái của tôi một tờ giấy xếp làm tư gói trong một cái khăn lụa. Động tác đầu tiên của tôi lẽ tự nhiên là bước đến gần đèn, và mở tờ giấy ra đọc.

        Đó là một bức thư khuyên bảo về việc riêng tư của tôi, có chứa đựng những lời tiên tri về cái chết của hai người đối thủ tích cực chống lại Hội Thông Thiên Học lúc ấy, nhưng không nói rơ tên. Lời tiên tri này đă ứng nghiệm với cái chết của Swami Dyanand Saraswati và Keshab Chandra Sen ít lâu sau đó.

        Việc ǵ xảy ra trong gian buồng của bạn Brown ở kế bên, y đă kể lại cho nhiều nhân chứng nghe, và đă công bố trong một tập văn thư nhan đề: “Vài Kinh Nghiệm Ở Ấn Độ”.

        Trong một tập văn thư khác nữa nhan đề: “Một Tham Luận Giải Thích về Hội Thông Thiên Học”, y viết:

        Có thể nói rằng Chân Sư K.H. là một bậc Siêu Phàm; người viết đă có hân hạnh gặp Ngài tại Lahore, và có diễm phúc được nói chuyện và tiếp xúc với Ngài. Người viết cũng đă nhận được thư của Ngài tại Madras, Lahore, Jammu, và lại một lần nữa ở Madras, tất cả các thư ấy đều được viết bằng một tuồng chữ giống nhau,v.v…”

        Khi tôi nghe thốt lên một tiếng kêu ngạc nhiên ở gian buồng kế bên, tôi mới bước qua xem việc ǵ xảy ra, th́ y đưa cho tôi xem một bức thư gói trong một chiếc khăn lụa giống như của tôi nhưng với nội dung khác hẳn. Thư ấy cũng được Ngài tượng h́nh trong ḷng bàn tay y giống như trường hợp của tôi, và chúng tôi cùng lấy ra đọc chung nhau.

        Về sau, người bạn trẻ này lại thay đổi chí hướng nhiều lần, và sau khi đă xoay trở giáp một ṿng thay đổi lớn qua nhiều tổ chức tôn giáo khác nhau, sau cùng y theo đạo Gia Tô và làm giáo viên trong một trường học của Hội Thánh La Mă.

        Bức thư của Chân Sư K.H. có đề cập đến việc Chân Sư M. đến viếng thăm tôi tại New York trước đây, khi ấy Ngài đọc được tư tưởng thầm kín của tôi và ban cho tôi cái khăn vấn đầu của Ngài để chứng minh cụ thể rằng thật sự Ngài đă xuất hiện trong pḥng tôi.

        Thư ấy viết:

        Tại New York, con đă muốn có một bằng chứng cụ thể rằng cuộc viếng thăm của Ngài không phải là một Ảo Ảnh (Maya)),và Ngài đă cho con cái bằng chứng đó.

        Bây giờ, tuy con không đ̣i hỏi, ta cũng cho con cái bằng chứng này: khi ta không c̣n ở đây, cái thư này sẽ nhắc nhở cho con biết sự gặp gỡ của chúng ta đêm nay.

        Bây giờ ta sang gặp Brown để thử thách năng khiếu trực giác của nó. Đêm mai,khi trại đă vắng người, ta lại sẽ đến đây để nói chuyện với con nhiều hơn, v́ con cần phải được cảnh giác trước về vài sự việc sẽ xảy đến trong tương lai”.

        Ngài kết luận:

        Hăy luôn luôn cảnh giác, nhiệt thành, và sáng suốt trong mọi việc; v́ con nên nhớ rằng sự hữu ích của Hội Thông Thiên Học phần lớn tùy nơi sự cố gắng của con, và ân huệ của Chúng Ta luôn luôn được ban xuống cho những nhà “Sáng Lập” chịu đau khổ hy sinh, và cho tất cả những người trợ giúp trong công ciệc của họ”.

 

       Cái kinh nghiệm lạ lùng trên đây chắc hẳn là sẽ gây một ấn tượng sâu xa trên tâm hồn những kẻ tŕ độn nhất; huống hồ đối với những người có hoài băo được có cơ hội cộng tác bằng cách này hay cách khác với các đấng Chân Sư v́ mục đích phụng sự nhân loại.

        Nếu có ai hỏi tôi thế nào là nỗi niềm sung sướng hiếm có nhất mà tôi có thể tưởng tượng, tôi sẽ trả lời rằng:

        -Được nh́n thấy và nói chuyện với một vị Chân Sư, v́ dưới cái ảnh hưởng hào quang thánh thiện của Ngài, tâm hồn ta sẽ nẩy nở như cái hoa dưới ánh nắng Mặt Trời và bản thể ta tràn đầy một niềm vui tươi hoan lạc khôn tả.

        Về phần tôi, tôi đă có cái niềm phúc lạc đó mà không mong cầu. Tuy nhiên, mỗi khi tôi có dịp hồi tưởng lại việc ấy, nó chỉ giống như một ánh nắng thoáng qua trong một ngày u ám, chỉ xuất hiện trong giây lát rồi lại biến mất đi.

        Thời gian gặp gỡ giữa tôi với Chân Sư đêm ấy không kéo dài quá mười phút đồng hồ. Cái sờ của bàn tay Ngài kéo tôi ra khỏi giấc ngủ ngon say không mộng mị. Hôm ấy tôi đă trải qua một ngày làm việc mệt mỏi, cái lều vải rất lạnh lẽo, chỉ được sưởi ấm bằng vài cục than hồng đựng trong một cái chậu đất, và tôi kéo mền trùm lên đến tận hai mang tai.

        Tôi bị một bàn tay lạ sờ vào ḿnh, tôi giật ḿnh thức giấc, tôi nắm chặt lấy hai cánh tay người khách lạ, cũng có thể là một kẻ đến ám sát tôi. Thế rồi, giọng nói ngọt ngào hiền dịu của Ngài làm tiêu tan cơn ngái ngủ cuối cùng của tôi, gương mặt Ngài sáng rỡ với một nụ cười; tôi nh́n thấy Ngài dưới ánh sáng mập mờ của ngọn đèn dầu ở phía sau.

        Kế đó là hiện tượng tạo nên một bức thư gói trong chiếc khăn lụa ngay trong bàn tay của tôi, vài lời khuyên bảo, một cái chào từ giă, Ngài bước đi qua khỏi cây đèn để trên cái rương, h́nh dáng phong nhă của Ngài c̣n lưu lại một lúc nơi chỗ cửa lều, Ngài ban cho tôi một cái nh́n thân mến cuối cùng, rồi đi. Tất cả không kéo dài được bao lâu, nhưng cái kư ức của nó vẫn c̣n măi măi suốt cả đời tôi.

        Nhiều năm trước đây, như độc giả chắc c̣n nhớ, tôi được lịnh xúc tiến công việc đạo sự cơ hồ như không có sự hướng dẫn và trợ giúp của các đấng Chân Sư mà chỉ v́ mục đích phụng sự Nhân Loại. Chúng tôi không nên trông đợi ǵ nơi các Ngài, nhưng sẵn sàng làm bất cứ việc ǵ cần thiết  và sẵn sàng ứng phó với mọi diễn biến xảy ra.

        Tôi đă tiếp tục làm việc trong tinh thần đó cho đến ngày nay, không cầu mong được trợ giúp, cũng không hề thối chí ngă ḷng v́ không có lời hứa hẹn giúp đỡ của các Ngài. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn không bao giờ bị bỏ rơi khi mà sự giúp đỡ ấy thật sự là cần thiết.

        Cuộc viếng thăm của Chân Sư tại Lahore chỉ là một trong nhiều bằng chứng cho thấy rằng chúng tôi luôn luôn được theo dơi và trợ giúp;  không hề bị bỏ rơi hay quên lăng trong cơn nghịch cảnh khó khăn, dù cho viễn ảnh tương lai mờ mịt tối tăm hay hăm dọa đến đâu.

        Trên hai mươi năm trải qua cái kinh nghiệm đó đă gieo trong tâm hồn tôi một sự b́nh tĩnh thường xuyên và đức tin vững chắc, như nó đă gây nên trong tâm hồn bà HPB.

        Cái kinh nghiệm đó đôi khi có thể là linh ảnh của một đấng Cao Cả, có khi là một giọng nói nghe được rơ ràng,  có khi là một lời tiên tri sắp đến, có khi cũng là một thông điệp nhắn qua cửa miệng của một đệ tam nhân, chẳng hạn như thông điệp mà bà Mongruel, một nhà nữ linh thị tài t́nh, đă nhắn với tôi trong một cơn xuất thần tại Paris năm ngoái, cho tôi biết trước cái tương lai gần đây của Hội Thông Thiên Học, thời hạn kiếp sống hiện tại của tôi, và t́nh h́nh của Hội khi tôi từ trần.

        Cũng y như vậy, trong bức thư của Chân Sư tạo ra ngay trong ḷng bàn tay tôi, có tiên liệu về cái chết của hai địch thủ lợi hại của Hội, kèm theo với những lời khuyên hữu ích của Ngài.

        Tuy những kẻ thù nghịch phản bội có thể ngụy tạo ra những sự gièm siểm, phỉ báng về lịch sử của phong trào Thông Thiên Học, và bôi nhọ tên tuổi của chúng tôi, nhưng việc ấy không đem cho họ một mảy may lợi ích nào. Công việc đạo sự vẫn tiếp tục, những người phụng sự chân chính được nh́n nhận, khích lệ và trợ giúp, bao lâu mà họ vẫn trung thành với lư tưởng và làm tṛn việc bổn phận.

IV

       Sau khi tôi và ông Brown có cái hân hạnh được Chân Sư đến viếng, đêm hôm sau hai chúng tôi và Damodar cùng ngồi trong túp lều của tôi lúc mười giờ đêm, để đợi sự tái ngộ với Chân Sư K.H. như Ngài đă cho biết trước.

        Trại hoàn toàn vắng lặng, các bạn đạo của chúng tôi đă đi tản mác vào thành phố Lahore. Chúng tôi ngồi trên ghế ở phía sau lều vải, để khuất dạng cho người trong trại không nh́n thấy: con trăng hạ tuần c̣n chưa mọc lên.

        Sau khi ngồi đợi một lát, chúng tôi nghe có tiếng chân người và thấy một người Ấn Độ cao lớn từ phía đồng bằng trống trơn bước đến gần chúng tôi. Người ấy c̣n cách chúng tôi có vài thước, bèn ra hiệu cho Damodar hăy bước đến gần. Người kia nói cho Damodar biết rằng Chân Sư sẽ tới trong vài phút, và Ngài có việc riêng với Damodar. Đó là một đệ tử của Chân Sư K.H.

        Ngay khi đó, chúng tôi thấy Chân Sư K.H. xuất hiện đến cùng một phía và đi qua mặt người đệ tử, người này bèn rút lui ra sau đó một quăng ngắn. Ngài đứng trước mặt nhóm chúng tôi, chúng tôi cũng đă đứng dậy và chắp tay cung kính vái chào Ngài theo kiểu Ấn Độ, chỉ cách Ngài có vài thước.

        Bạn Brown và tôi đứng yên một chỗ, c̣n Damodar bước ra và nói chuyện trong vài phút với Chân Sư, sau đó y trở lại với chúng tôi c̣n Chân Sư bước ra về. Tôi c̣n nghe tiếng chân Ngài đi trên mặt đất, như thế là Ngài không phải đi bằng Thể Vía mà là bằng xác phàm.

        Tôi c̣n ngồi lại bàn để viết Nhật Kư trước khi đi ngủ, th́ thấy vị đệ tử xuất hiện ngoài khung cửa sổ, ra hiệu cho tôi nh́n ra phía ngoài, và chỉ cho tôi thấy Chân Sư đang đứng đợi tôi dưới ánh sao khuya.

        Tôi bước ra khỏi lều đi về phía Chân Sư, Ngài và tôi cùng đi đến một nơi an toàn cách đó độ một quăng mà không sợ bị ai quấy rầy, khi đó Ngài nói chuyện với tôi trong chừng nửa tiếng đồng hồ về tất cả những ǵ tôi cần biết. Không cần phải nói rằng tôi đă ngủ rất ít trong hai đêm đó.

        Tuy nhiên, Chân Sư cho tôi biết rằng Ngài đến không phải hoàn toàn do ư riêng, tuy rằng Ngài rất vui ḷng mà đích thân đến gặp tôi. Ngài đến đây v́ thừa lệnh một đấng Trưởng Thượng c̣n cao cả hơn Ngài, đấng ấy rất hài ḷng về sự trung kiên của tôi, Ngài muốn nhắc nhở tôi hăy giữ vững tinh thần và đừng bao giờ mất ḷng tin tưởng. Khi cuộc hội kiến chấm dứt, Chân Sư ban ân huệ và từ giă tôi, rồi cùng với người đệ tử bước chân ra về.

V

       Ngày hôm sau, chúng tôi giở trại và từ giă Lahore đi Jammu do lời mời của vị Quốc Vương xứ Kashmir. Một quan viên ban tiếp tân của nhà vua được gởi đến Lahore để tiếp đón tôi và đưa tôi về kinh đô.

        Tôi được biết rằng vị Quốc Vương có tục lệ tặng quà rất hậu bằng tiền và đồ y trang quư giá cho các vị tân khách, nhưng tôi tích cực từ chối không nhận một Ru-pi v́ việc ấy không phù hạp với thói quen của tôi.

        Vị sứ giả không biết phải sử xự ra sao giữa hai đàng với những lập trường cứng rắn như thế. Một cuộc trao đổi điện tín tiếp theo sau đó vẫn không làm cho t́nh trạng được tốt đẹp hơn, rốt cuộc vấn đề được giải quyết bằng một cách làm thỏa măn cả đôi bên.

        Sau cùng, có sự thỏa thuận quà tặng của nhà vua sẽ được tôi tiếp thâu và chánh thức kư nhận với tư cách Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học, mà trên cương vị này tôi sẵn sàng chấp nhận mọi sự cúng dường hay quà tặng cho Hội dù số lớn nhỏ bao nhiêu cũng vậy, miễn không gây thiệt hại cho người nào.

        Khi đến thủ đô Jammu, tôi được đưa đến ṭa Vương Cung, tại đây vị Quốc Vương đón tiếp tôi một cách niềm nở, trang trọng theo nghi lễ, tỏ cho tôi thấy rằng tôi được nghinh tiếp như một vị thượng khách. Sau khi đă phân ngôi chủ khách và trao đổi những lời chúc mừng xă giao thông thường, Quốc Vương mới cùng tôi đàm luận về triết học và đạo lư.

        Tôi nhận thấy ông thông thạo triết lư Phệ Đà, và thông suốt các môn phái triết học Ấn Độ. Quốc Vương hoàn toàn tin tưởng nơi sự hiện diện của các Đấng Chân Sư, và tin rằng các Ngài sẽ giúp cho xứ Ấn Độ được những ǵ tùy theo Nghiệp Quả của nó cho phép chứ không hơn nữa.

        Quốc Vương cũng nói qua về sức khỏe kém của ông, ông biết tôi đă từng chữa khỏi bịnh cho nhiều người, và gần đây tôi đă được lịnh ngưng công việc đó, nhưng hỏi rằng tôi có thể nào giúp cho ông bớt cơn đau nhức đầu dữ dội mà ông đang bị. Lẽ tự nhiên tôi bằng ḷng, và sau khi Quốc Vương đă tháo gỡ cái khăn vấn đầu, tôi mới khoát tay truyền điện cho ông. Tôi rất thích thú mà làm cho Quốc Vương hết đau nhức, và khi cuộc hội kiến chấm dứt, Quốc Vương yêu cầu tôi hăy đến viếng ông mỗi ngày hai lần trong thời gian lưu trú tại đây, để chúng tôi c̣n đàm đạo với nhau về các vấn đề tôn giáo cao siêu mà cả hai chúng tôi đều ưa thích.

        Ngày hôm sau, tôi đến Hoàng Cung hai lần để tiếp tục cuộc đàm thoại về đạo lư và cũng để truyền điện chữa bịnh cho Quốc Vương. Vị Thủ Tướng cũng có mặt cùng với những quan viên khác, gồm cả vị Chánh Án Tu Pháp, và thỉnh thoảng cũng xen vào câu chuyện đạo lư, theo lối tự nhiên của người Phương Đông.

        Vị Chánh Án đă cùng tôi đàm luận suốt buổi tối hôm đó, và trong buổi nói chuyện, ông ta nói rằng vị Quốc Vương rất quư mến tôi đến mức sẵn sàng làm thỏa măn bất cứ điều ǵ tôi muốn.

        Tôi nghe vậy th́ biết vậy thôi, nhưng sau khi ông Chánh Án đă đi ra, tôi lấy làm ngạc nhiên v́ bạn Brown yêu cầu tôi xin cho y được bổ nhiệm chức Thẩm Phán.

        Tôi nói:

        -Sao! Anh đến Ấn Độ để hiến thân vào công việc phụng sự, tôi đă viết thư cảnh cáo anh đừng có trông đợi ǵ ngoài cái cơ hội chấp nhận hy sinh.

Anh lại vừa có cái vinh hạnh được một vị Chân Sư đến viếng và gửi thư cho anh, đó là một ân sủng đặc biệt mà nhiều hội viên kỳ cựu nhất của Hội Thông Thiên Học cũng chưa có được. Thế mà nay anh lại sẵn sàng ngă quỵ trước sự cám dỗ đầu tiên, và xin thọ lănh một chức vụ ngoài khả năng của ḿnh?

        Tôi giải thích cho y nghe rằng nếu thật sự vị Quốc Vương kính trọng tôi, đó là bởi v́ ông ta biết rằng tôi không hề chấp nhận lấy bất cứ một món quà tặng hay một ân huệ nào cho riêng ḿnh, hay cho bất cứ một người thân nào của tôi.

        Sau cùng, y đă nghe ra và không nói ǵ nữa, nhưng y đă phơi bày tâm địa của y một cách dứt khoát trước mắt tôi, và cuộc đời y sau đó đă xác nhận đúng đắn những ǵ tôi cảm nghĩ về tŕnh độ và con người của y.

Chương Mười Bảy

DAMODAR BIỆT TÍCH

I

       Trong khi tôi vẫn tiếp tục đến hội kiến hằng ngày với Quốc Vương Kashmir, th́ đêm nọ một biến cố xảy ra: Damodar đă biến mất th́nh ĺnh, và không để lại dấu vết ǵ để cho tôi biết rằng y đă đi đâu hay bao giờ y trở lại.

        Tôi hối hả đi t́m nhưng tất cả gian pḥng đều trống trơn, những bạn đạo khác đều đă đi xuống tắm dưới sông. Tôi hỏi thăm một người gia nô, th́ y cho biết rằng Damodar đă đi ra khỏi nhà một ḿnh vào lúc sáng sớm, nhưng không nhắn lại một lời.

        Không biết phải làm thế nào, tôi mới trở về pḥng riêng th́ thấy trên bàn có một bức thư của một vị Chân Sư, bảo tôi đừng lo nghĩ ǵ về người bạn trẻ v́ y được đặt dưới sự che chở của Ngài, nhưng không nói ǵ về việc y có trở về hay không.

        Tôi chỉ mất có độ một phút đổ đi quanh khắp các pḥng để cửa ngỏ, và không nghe có tiếng chân người đi ngoài sân lót đá sỏi vụn. Không một người nào có thể bước vào pḥng tôi trong thời gian đó, tuy vậy đây là bức thư bí mật, với tuồng chữ viết của Chân Sư K.H. và cái phong b́ kiểu Tàu quen thuộc, nằm trên bàn của tôi.

        Cử chỉ đầu tiên của tôi là thu lượm đồ hành trang của Damodar, gồm một cái rương và đồ nệm gối để nằm ngủ, và xếp gọn dưới gầm giường của tôi. Kế đó tôi gửi một điện tín cho bà HPB biết tin Damodar đi biệt tích không biết bao giờ về.

        Khi những bạn đạo đi tắm xong trở về nhà, họ cũng xúc động như tôi về sự việc này, và chúng tôi đă mất nhiều th́ giờ thảo luận và phỏng đoán về hậu quả khả hữu của nó.

        Tôi đến Hoàng Cung hai lần trong ngày đó, và đă được Quốc Vương đón tiếp ngày càng trọng vọng hơn lên. Ông tỏ ra vô cùng hậu đăi tôi, thảo luận với tôi về triết học Védanta một cách thích thú rơ rệt, và khẩn khoản mời mọc tôi cùng đi với ông lần sau, khi Quốc Vương đi lên Srinagar, thủ đô xứ Kashmir.

        Khi trời đă sắp tối, tôi c̣n ngồi viết một ḿnh trong ngôi biệt thự, khi đó các bạn đạo khác đă cưỡi ngựa đi chơi quanh vùng, bỗng tôi nghe tiếng chân người đi trên mặt đất rắc sỏi ở phía ngoài. Nh́n quanh, tôi thấy một thư tín viên Kashmir cao lớn, đem điện tín đến cho tôi. Đó là thông điệp của bà HPB trả lời bức điện tín của tôi. Bà nói rằng một vị Chân Sư có cho bà hay rằng Damodar sẽ trở về, và dặn tôi không nên để cho một người nào khác động chạm đến đồ hành trang, nhất là đồ nệm gối của y.

        Phải chăng thật lạ lùng, v́ lúc đó bà HPB đang ở Madras, tức là cách đó độ hai ngàn dặm, lại dặn tôi làm chính cái việc mà tôi đă làm, theo phản ứng đầu tiên khi nhận thấy rằng Damodar đă ra đi. Phải chăng đó là thần giao cách cảm?

        Nhưng lại c̣n một điều lạ lùng hơn nữa. Mở ra và đọc bức điện tín không làm cho tôi mất đến một phút; người thư tín viên không có đủ thời giờ đi ngang qua hàng ba ngôi nhà để bước ra sân. Khi ấy, như một tia chớp nhoáng, tôi cảm thấy rằng người thư tín viên ấy không phải là một người thật, mà chỉ là một Ảo Ảnh (Maya), và thuộc về Quần Tiên Hội.

        Tôi biết chắc như vậy, tôi có thể thề thốt để quả quyết như vậy, bởi v́ có một sự giao động tâm linh huyền bí gây ra nơi tôi mỗi khi có một trong các đấng cao cả ấy bước đến gần tôi. Ngay sau khi đó tôi đă có thể nhận ra cái tiết điệu rung động kỳ bí gây nên bởi những luồng từ điển huyền diệu của Sư Phụ tôi, Ngài cũng là Sư Phụ của bà HPB.

        Tôi chạy ra cửa và nh́n qua cái sân trống trơn của khuôn viên nhà, trong đó không có cây cối hay bụi rậm nào để dùng làm nơi ẩn trú, nhưng tuyệt nhiên không nh́n thấy ǵ cả: người thư tín viên đă biến mất cơ hồ như đă chui vào ḷng đất.

        Khi tôi kể lại chuyện này, có người hỏi tôi rằng làm sao có thể giải thích sự thuyên chuyển bức điện tín từ tay người đem thư thật qua tay người thư tín viên giả, và việc thu hồi tờ kư nhận của tôi về Sở Bưu Điện, trừ phi có sự toa rập với người đem thư để làm việc này?

        Việc ấy rất đơn giản, miễn là người ta chấp nhận quyền năng thôi miên, hay nói theo từ ngữ của Huyền Môn Đông Phương, tức là cái bí quyết của việc tạo nên Ảo Giác hay Ảo Ảnh (Maya).

        Vị Chân Sư gặp người đem thư; bằng quyền năng của Ư Chí, Ngài làm cho y không nh́n thấy Ngài; Ngài làm cho y trở nên vô ư thức, đưa y đến một chỗ trú ẩn an toàn; để y nằm đó trong giấc ngủ thôi miên; khoác lấy cái h́nh dáng bên ngoài của người kia để che khuất tác phong diện mạo của Ngài; đem bức điện tín đến cho tôi; cầm lấy cái biên lai do tôi kư nhận; đưa tay lên chào từ giă, và lui bước.

        Một lúc sau đó, sự rung động thần kinh do luồng từ điển của Ngài gây ra nơi tôi phản dội lại nơi Ngài, cảnh giác cho Ngài biết rằng tôi đang ở vào t́nh trạng báo động và đương nhiên sẽ bước ra cửa để theo dơi Ngài; thế là Ngài thôi miên thị giác của tôi để cho tôi không nh́n thấy Ngài; trở lại chỗ người đem thư nằm ngủ lúc năy; nhét tờ biên lai vào bàn tay y; dùng Ư Chí làm cho người kia nhớ lại mọi việc vừa xảy ra giữa tôi với Ngài dường như đă xảy đến cho y; đánh thức y dậy; dùng phép thôi miên che lấp thị giác của y; và trả y về Sở Bưu Điện.

        Đó là một chuỗi dài những sự việc diễn biến nối tiếp nhau một cách rất đơn giản, mà mọi nhà chuyên môn về khoa Thôi Miên và Nhân Điện đều hiểu được một cách dễ dàng.

        Damodar ra đi lúc sáng ngày 25 tháng 11, và trở về chiều ngày 27 tháng 11 sau khi vắng mặt độ sáu mươi giờ, nhưng y đă thay đổi rất nhiều! Khi ra đi, y là một thanh niên mảnh khảnh yểu điệu, một bạch diện thư sinh, nhút nhát rụt rè, nhưng y trở về với một gương mặt rắn rỏi, nước da sậm, rám nắng, thân h́nh khỏe mạnh, cứng cát, và tác phong bạo dạn, đầy cương nghị: chúng tôi không thể ngờ rằng y vẫn là một người. Y đă đến đạo viện của Chân Sư, và đă chịu thụ huấn về một phép tu luyện nào đó. Y đem cho tôi một thông điệp của một vị Chân Sư khác, mà tôi được biết rơ, và để chứng minh sự thật, y nói th́ thầm vào tai tôi một khẩu hiệu đă được thỏa hiệp trước để chứng thực những thông điệp của Quần Tiên Hội gửi cho tôi, và khẩu hiệu ấy đến nay vẫn c̣n hiệu lực.

II

       Ngày từ biệt vị Quốc Vương đă đến. Lúc một giờ trưa, chúng tôi cưỡi voi đi qua sông để đến Wazirabad và ngủ đêm tại đây. Ngày hôm sau, Damodar từ giă chúng tôi để đi Madras, c̣n chúng tôi tiếp tục lộ tŕnh đi đến Jaipur. Sáng ngày hôm sau, những bạn đạo tại địa phương đưa tôi đến viếng một nhà tu khổ hạnh tên là Atmaram Swami.

        Từ lâu trước khi tôi đến, vị tu sĩ này đă từng nói với họ rằng ông ta có liên hệ trực tiếp với những vị Chân Sư của chúng tôi, và tám năm trước đây, ở bên Tây Tạng, một trong các vị ấy là Đế Quân (Chohan) Jivan Singh, có nói với y rằng y không cần phải thất vọng v́ t́nh trạng tâm linh suy đồi ở Ấn Độ, bởi v́ các ngài đă sắp đặt vận chuyển cho hai người Âu Tây, một nam và một nữ, không bao lâu sẽ đến đây để phục hưng nền tôn giáo cổ của Phương Đông. Thời điểm tám năm đó trùng hợp với năm thành lập  Hội Thông Thiên Học tại New York, và điếu tiết lộ này thật tối ư quan trọng đối với tôi.

        Tôi nhận thấy tu sĩ là một người có tác phong cao quư, điềm tĩnh, và trang nghiêm, hoàn toàn khác hẳn những người tu sĩ tầm thường khác mà nay người ta thấy có ở khắp nơi và vô tích sự cho xứ Ấn Độ. Tu sĩ chào tôi với một cung cách lịch sự lễ độ rất dễ mến, và bày tỏ ḷng ước mong thành khẩn rằng những hội viên của chúng tôi nên được khuyến khích tu luyện theo pháp môn Yoga.

        Tôi nói cho ông ta biết rằng tôi không dám làm như vậy một cách cẩu thả bởi v́, trừ phi những thí sinh có một tính chất thích nghi, và trên hết mọi sự, được sự theo dơi tỉ mỉ của những bậc minh sư, th́ họ có thể tu luyện sái phép và bị những hậu quả tai hại.

Tu sĩ dồng ư với tôi về điểm này, nhưng nói rằng mọi sự đă được  liệu trước, và mọi nhu cầu cần thiết sẽ được đáp ứng vào đúng lúc. Thật vậy, điều này quả là đúng như vậy, và những điều huyền diệu đă xảy đến với bà A.Besant, ông Leadboater, và nhiều vị khác nữa mà hồi đó thậm chí cũng chưa phải là hội viên của Hội Thông Thiên Học, đă hoàn toàn xác nhận những lời tiên đoán của tu sĩ Atmaram Swami đă nói với tôi tại Jaipur năm 1883.

        Đại Hội thường niên của Hội Thông Thiên Học được tổ chức tại Adyar vào hạ tuần tháng mười hai. Khi Đại Hội được khai mạc, những đại biểu các Chi Bộ tề tựu tham dự đông đảo từ khắp nơi, chật ních cả hội trường. Toàn thể các buổi hội họp và sinh hoạt đều biểu lộ một ḷng hứng khởi nhiệt thành: vị thế của Hội ở Ấn Độ đă rất vững vàng kiên cố, không một gợn mây u ám nào xuất hiện trên ṿm trời của chúng ta.

        Những khoản tổn phí để tổ chức Đại Hội, phần nhiều do hội viên đóng góp kẻ ít người nhiều. Ngày 28 tháng 12, khi mọi người c̣n đứng ở ngoài hội trường trước khi Đại Hội khai mạc, tôi có phàn nàn với bà HPB rằng thật là một điều đáng tiếc mà thấy hội viên tỉnh Madras lại để cho vị Thẩm Phán Srinivas Row đóng góp tới năm trăm Ru-pi cho Đại Hội, v́ tôi biết chắc rằng ông ta không có đủ khả năng tài chánh để tiêu xài rộng răi như vậy.

        Bà suy nghĩ một lúc, rồi gọi Damodar trong khi người bạn trẻ này đang đứng nói chuyện với một nhóm bạn đạo ở cách đó một quăng không xa. Bà nói:

        -Anh hăy đi lên chánh điện và lấy xuống cho tôi một cái gói mà anh thấy ở đó.

        Damodar tuân lệnh, và không đầy năm phút sau, y hối hả trở lại với một bao thư kín trong tay, ngoài bao thư có đề chữ:”Gửi cho P.Sriivas Row”.

        Vị Thẩm Phán được mời đến để chúng tôi trao bức thư ấy cho ông, và yêu cầu ông mở ra. Ông làm y theo lời, và lấy làm ngạc nhiên khôn tả mà lấy từ trong bao ra, một bức thư lời lẽ rất ưu ái của Chân Sư K.H. tỏ lời cám ơn về tinh thần phụng sự nhiệt thành của ông, và gởi kèm theo đó là một xấp giấy bạc tổng cộng là năm trăm Ru-pi, trên mỗi tờ có viết chữ mẫu tự “K.H.” bằng bút ch́ xanh. Tôi kể lại đúng như sự việc đă xảy ra, và với sự đồng ư của vị Thẩm Phán, tôi c̣n giữ một tờ giấy bạc mười Ru-pi để làm kỷ niệm.

III

       Tháng tư năm ấy, tôi có một buổi hội kiến với một nhà chiêm tinh Bà La Môn sở hữu một quyển sách bói rất cổ xưa viết trên lá kè, gọi là Bhima Grantham. Những lời tiên tri mà ông ta rút ra từ bộ sách này đă làm tôi vô cùng ngạc nhiên.

        Những lời tiên tri họa phước đều không có già trị cho đến khi thực sự ứng nghiệm, nhưng khi đă ứng nghiệm rồi th́ chúng lại có một tầm mức rất quan trọng như là những bằng chứng của khả năng tiên tri tiên giác trong con người.

        Bởi vậy nên tôi có thói quen hay ghi chép làm tài liệu tất cả những ǵ tôi được nghe về vấn đề ấy, để có thể nêu ra vào đúng lúc khi những lời tiên tri đă ứng nghiệm.

        Nhiều bạn đạo có cho tôi biết rằng họ đă được nhà tiên tri này tham cứu trong bộ sách cổ thư đó và nói lên những chi tiết rất chính xác về cuộc đời của họ, và tiên tri về những kế hoạch mưu toan của họ mà về sau đă tỏ ra vô cùng ứng nghiệm.

        Họ cũng đă được nhà chiêm tinh cho phép kiểm chứng lại những lời tiên tri ấy bằng cách đích thân tra cứu trong bộ sách. Hơn nữa, các bạn đạo c̣n cho tôi biết rằng trong khi tra cứu, họ thấy trong sách ấy có ghi nhận mối tương quan của họ với Hội Thông Thiên Học, và ngoài ra, quyển sách c̣n có chứa đựng nhiều điều tiên tri về Hội Thông Thiên Học nữa.

        V́ lẽ đó, họ đă sắp đặt một cuộc hội kiến giữa nhà chiêm tinh với tôi, nhưng chỉ với rất nhiều khó khăn và sau khi đă vượt qua những sự chống đối của người này về việc hội kiến với một người Âu Tây. Dầu vậy, y cũng chưa nhất quyết cho đến khi y đă tra cứu lại trong quyển sách, và ghi nhận ngày giờ chỉ định cho cuộc họp mặt, số người được phép tham dự, và vị trí cùng phương hướng chỗ ngồi của nhà chiêm tinh và của tôi.

        Đến ngày giờ chỉ định, chúng tôi ngồi xếp bằng trên chiếu trải dưới đất, theo kiểu Ấn Độ. Khi cái bọc vải gói quyển sách được mở ra, th́ đó là một quyển sách cổ, chữ khắc trên lá kè bằng một cây bút nhọn. Tôi nhận thấy quyển sách rất cũ, cạnh sách đă phai màu và nhầu nát, những chữ viết đă đen sậm với thời gian.

        Quyển sách được để dựng đứng trước mặt tôi, những b́a lá ngửa lên trên, với một sợi dây buộc lá xuyên qua các lỗ đă soi sẵn trên các lá kè mà một đầu dây c̣n thừa và ló ra ngoài. Nhà tiên tri bảo tôi cầm lấy đầu dây này, để nó vào giữa bất cứ hai lá kè nào do tôi chọn, và mở quyển sách ra ở chỗ đó.

        Tôi làm y theo lời, và lúc bấy giờ nhà chiêm tinh mới đọc những chữ viết trên trang đó và những trang sau.Quyển sách tiên tri viết:

        Đương số không phải là người Ấn Độ, mà là người ngoại quốc. Y sing ra vào lúc sao Thái Âm lọt vào Cḥm sao Rua (Pléiades), với dấu hiệu Sư Tử ở ṿng cung đi lên”.

        Tiếp theo đó là vài điểm chi tiết nói về những sự hy sinh mà tôi đă làm v́ mục đích phụng sự công ích xă hội. Kế đó, quyển sách nói tiếp:

        Cùng với một bạn đồng môn, đương số tổ chức một Hội để truyền bá giáo lư Huyền Môn (Brahma Gnya-num). Người bạn đồng môn ấy là một người nữ, có năng lực mạnh mẽ, thuộc ḍng quư tộc, và cũng như đương số, là người nước ngoài.

        Tuy sinh trưởng nơi quyền quư,  người nữ ấy cũng từ bỏ tất cả, và đă cùng theo đuổi một đường lối hoạt động tương tự trên ba mươi năm. Tuy nhiên, Nghiệp Quả khiến cho bà phải chịu nhiều gian truân, đau khổ; bà bị người đồng chủng ghét bỏ, mặc dù bà đă lao công tổn sức làm việc v́ sự ích lợi cho họ”.

        Kế đó, quyển sách nói về hai người da trắng lúc đầu rất thân thiện, nhưng về sau đă phản bội, đặt chuyện công khai mạ lỵ, bêu xấu bà, và âm mưu làm cho công chúng nghi ngờ sự chân chính của phong trào Thông Thiên Học. Quyển sách tiên tri lại tiếp tục:

        Nhiều phép lạ nhiệm mầu đă được thực hiện liên quan đến Hội Thông Thiên Học, và những thư từ mà các nhà Sáng Lập nhận được của các đấng Chân Sư, đă bị đem ra công bố một cách ngu xuẩn dại dột: đó chính là nguyên nhân của tất cả những sự khó khăn rối rắm hiện nay”.

        Kế đó, tiếp theo lời tiên tri rằng Hội Thông Thiên Học sẽ tồn tại lâu dài sau khi tôi chết, và thật là một điều ngạc nhiên, v́ hai người bạn có mặt cũng không biết ǵ hơn nhà chiêm tinh, quyển sách nói về một cuộc hội họp riêng tư giữa tôi với vài người khác (tại tư gia của Bahadur Ragunath Row) vào ngày trước đó, với đề tài thảo luận, và tiên tri một cách chính xác về kết quả cuộc hội họp. Quyển sách ấy nói:

        Hội Thông Thiên Học hiện đang trải qua một chu kỳ hắc ám, đă bắt đầu từ bảy tháng và mười bốn ngày vừa qua, và sẽ c̣n kéo dài thêm chín tháng và mười sáu ngày nữa, tổng cộng là một thời gian đúng mười bảy tháng”.

        Đếm ngược trở về dĩ văng kể từ ngày xem bói, là thời kỳ trong năm 1884, mà bà HPB bị sự tấn công của các nhà Truyền Giáo, điều ấy xác nhận lời tiên tri trong quyển sách là đúng. Cũng kể từ ngày ấy tính tới với sự diễn biến của các việc xảy ra, lời tiên tri nói về sự chấm dứt chu kỳ hắc ám của Hội Thông Thiên Học và sự bắt đầu một chu kỳ sáng sủa tốt đẹp hơn cũng đă ứng nghiệm.

        Về vấn đề này, đương nhiên lại trở lại trong trí tôi câu hỏi thường được đưa ra về sự tin tưởng của tôi đối với Khoa Chiêm Tinh. Tôi phải nói rằng tôi vẫn chưa có đủ bằng chứng để đảm bảo lời nói của tôi rằng tôi tin hay không tin. Nhiều sự việc thuộc về kinh nghiệm của người khác, vài sự việc trong kinh nghiệm của chính tôi, có khuynh hướng chứng minh sự thật của khoa học huyền bí này, nhưng vẫn chưa đủ để cho một người thận trọng có thể dùng làm nền tảng cho một sự tin tưởng tuyệt đối. Tôi c̣n chờ đợi, và sẵn sàng chịu thuyết phục, nhưng cũng nhất định không nói rằng tôi tin, trừ phi tôi gặp một trường hợp hoàn toàn thỏa đáng để cùng bàn luận với một hội đồng những học giả thông minh sáng suốt và cùng đi đến một kết luận chung.

        Nhà chiêm tinh, hay quyển sách bói của y, nó đưa ra một lời tiên tri mà thỉnh thoảng người ta c̣n phải nhắc lại như một sự thí nghiệm của khoa bói này. Y nói rằng vào lúc tôi từ trần, Hội Thông Thiên Học sẽ có một trăm năm mươi sáu Chi Bộ lớn, không kể những Chi Bộ nhỏ, với tổng số độ năm ngàn hội viên. Nhiều chi bộ sẽ xuất hiện và biến mất, nhiều hội viên cũng đă đến rồi đi trước kỳ hạn đó.

        Chính tôi cũng sẽ c̣n sống thêm được hai mươi tám năm, năm tháng, sáu ngày và mười bốn giờ nữa kể từ ngày hôm nay (tức là ngày 3 tháng 4 năm 1885), và như thế tôi sẽ c̣n sống đến sáng sớm ngày 9 tháng 9 năm 1913. Lời tiên tri này hăy c̣n thuộc về tương lai, để cho người nào c̣n sống sót sau khi tôi chết sẽ kiểm chứng lại.

        V́ tôi chỉ ngồi nghe một cách khách quan chứ không chấp nhận mù quáng những sự tiết lộ trong quyển sách bói cổ Bhima Grantham và v́ tôi không có thời giờ để xem xét tỉ mỉ quyển sách ấy trong cuộc hội kiến với nhà chiêm tinh, nên sau đó tôi đă cùng đi với Ananda đến Mylapore để t́m gặp lại y.

        Y để cho tôi cầm lấy và quan sát kỹ lưỡng quyển sách tùy ư muốn. Nó chứa đựng ba trăm câu trả lời cho những câu hỏi viết bằng bút sắt nhọn trên lá kè, nó có lẽ đă xưa đến năm trăm năm, và viết bằng chữ Telugu. Dường như không ai có thể nghi ngờ rằng đó là một “ngụy thư”.

        Tuy nhiên, có điều lạ kỳ là chỉ trong số ba trăm câu trả lời đó, nhà chiêm tinh đă t́m thấy một số liên quan đến lịch sử và định mệnh của Hội Thông Thiên Học. Phải chăng những lời tiên tri đó đă đợi đến năm trăm năm sau mới được tiết lộ cho người đến xem vận mệnh, khi y xuất hiện vào năm 1885?

        Điều đó có vẻ vô lư, tuy vậy những chi tiết của cuộc hội kiến đă được tường thuật lại một cách trung thực, và lời tường thuật của tôi chắc chắn sẽ được bạn Subiah Chetty xác nhận là đúng như mọi việc đă xảy ra.  



[i] (*)Bà Blavatsky đă nhập quốc tịch Mỹ tại New York tháng 7 năm 1878.

[ii] Tiếng hoan hô ca tụng các vị Thần Thánh (lời dịch giả)

[iii] Một người Hồi Giáo ở tỉnh Bengale có lần đề nghị dâng hiến cho tôi mười ngàn Ru-pi nếu tôi ngưng việc chữa bịnh cho công chúng trong vài giờ để chữa bịnh liệt bại cho vợ y. lẽ tất nhiên là tôi từ chối, mà đáng lẽ ra tôi đă có thể chữa khỏi bịnh cho người vợ, nếu y là một người nghèo khổ cùng đinh, hoặc nếu y hay các bạn y không đặt vấn đề tiền bạc đối với tôi.

[iv] Theo phong tục Ấn Độ thời cổ xưa cho đến thời gian gần đây, người con gái đă đính hôn, dẫu rằng chưa xuất giá, vẫn bị coi như gái đă có chồng và chỉ biết có vị hôn phu là chồng ḿnh thôi, chớ không thể kết hôn với người nào khác suốt cả cuộc đời. Ngày nay, dưới ảnh hưởng trào lưu giải phóng phụ nữ và nam nữ b́nh quyền của nền dân chủ Tây Phương, t́nh trạng ấy đă được cải tiến lần lần và đă thay đổi nhiều.

 

 

HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  QUEST  MAGAZINES