trang nhà l trang sách l bản tin l thiền học l tiểu sử l trang thơ l h́nh ảnh l bài vở 
 

Luật Nhân Quả
 trong cuộc sống xă hội và khoa học

Bác sĩ Thái Minh Trung

Kỳ này, mời quí độc giả đọc một bài viết lư thú của Bác sĩ Thái Minh Trung, dùng lư luận khoa học để giải thích những khái niệm tôn giáo, và ứng dụng những khái niệm này trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Bác sĩ Thái Minh Trung là Associate Clinical Professor, chuyên khoa Tâm Thần, tại UCI Medical Center, Hoa Kỳ.

Bác sĩ Nguyễn Văn Đức


Luật Nhân Quả
 trong cuộc sống xă hội và khoa học

Bác sĩ Thái Minh Trung

 

Luật Nhân Quả là một cuộc cách mạng tâm linh

Khi không hiểu luật nhân quả, con người sống trong sự sợ hăi mê tín mù mờ. Họ giải thích những hiện tượng thiên nhiên qua sự mê tín dị đoan. Thí dụ khi hạn hán mất mùa, họ nghĩ là v́ ông thần đất đai giận nên phải hối lộ ông ta bằng cách cúng kiến mới có được trời mưa. Mới đầu th́ tế lễ bằng con gà không có hiệu quả, rồi đến con ḅ, đến khi sự cuồng tín lên cao có thể dẫn đến giết một em bé hay một trinh nữ để tế thần như dân tộc Incas đă từng làm. Ngoài ra trong cuộc sống hàng ngày, đi đứng làm cái ǵ quan trọng th́ phải coi ngày giờ tốt như vậy để tránh cái sợ hăi của những điều xấu xảy ra bất thần chớ không hẳn là tránh được những điều xấu.

Nếu quả thật có như vậy th́ thế giới này không có sự đau khổ v́ mọi sự đều như ư con người muốn. Ông vua dù có mướn thầy địa lư giỏi nhất nước để xây cung điện nhưng nếu không thương dân, lấy thuế cắt cổ, lúc hết thời th́ ngai vàng vẫn bị mất như thường. Nói về hành động cá nhân, nếu không nhận thức có luật nhân quả th́ không có ǵ ngăn cản con người làm việc ác miễn sao trốn tránh được cặp mắt của luật pháp là được, cho nên xă hội rất bấp bênh. Nếu vua và dân hiểu được luật nhân quả th́ đất nước dễ thanh b́nh và dân sẽ được hạnh phúc.

Khi Đức Phật giác ngộ th́ Ngài nhận ra luật nhân quả là nền tảng của thế giới tâm linh và vật chất. Mọi hiện tượng từ tâm lư đến vật chất đều có những sự liên quan vô h́nh rất chặt chẽ, đó là luật nhân quả. Luật nhân quả là sợi dây vô h́nh nối liền hai biến cố xuyên qua thời gian và không gian. Cho nên khi hiểu luật nhân quả, ta có thể thay đổi biến cố đó theo chiều thuận cho ta, thay v́ phải lo sợ hối lộ hoặc cầu khẩn một vị thần linh tưởng tượng nào đó phù hộ cho ta hoặc thỏa măn điều ta mong ước. Sự mê tín cuối cùng sẽ đưa đến sự thất vọng và mặc cảm tội lỗi (ta có tội nặng quá vị thần không giúp được).

Luật nhân quả rất đơn giản, nếu muốn có một kết quả tốt th́ ta phải tạo nhân lành. Thí dụ như khi ta nuôi dưỡng một ư nghĩ hận thù th́ ta không thể vui cười hồn nhiên được. Khi ta gạt gẫm người khác th́ tối về ngủ không yên giấc v́ sợ bị phát hiện. Khi ta gieo hạt lúa th́ không bao giờ được cây cổ thụ. Khi con người bắt đầu hiểu được như vậy th́ họ lấy về được một phần sức mạnh của những vị thần linh. Họ bắt đầu làm chủ được tương lai của họ và lấy lại định mệnh của họ từ tay các vị thần. Hiểu và tin được luật nhân quả là một cuộc cách mạng tâm linh (spiritual revolution) v́ sự nhận thức đó sẽ phá tan gông cùm của sự mê tín và giúp con người làm chủ được cuộc sống của họ.

Luật Nhân Quả và khái niệm không gian thời gian

Khi đi từ thế giới tâm linh qua thế giới vật chất th́ sự thể hiện của luật nhân quả thay đổi từ rơ đến mờ. Sự thể nghiệm ở thế giới tâm linh rất nhanh và rơ nhưng khi qua cái màn nặng nề của thế giới vật chất th́ luật nhân quả bị loăng ra v́ phải trải qua nhiều thời gian mới hiện ra rơ được. Cũng v́ thế mà khi con mắt bị vật chất làm mờ rồi rất khó mà nhận thức luật nhân quả. Thí dụ như kẻ trộm thành công một vài lần rất khó nhận thức rằng ḿnh sớm muộn ǵ sẽ vào tù. Nếu kẻ trộm đó nhận thức rằng ḿnh cần phải thay đổi ḷng tham của ḿnh (thế giới tâm lư) th́ trong tức khắc có khả năng thay đổi được chiều hướng cuộc sống ḿnh bằng cách học nghề và làm ăn lương thiện. Ngược lại, nếu anh ta cứ tiếp tục hành nghề bất lương, ḷng tham càng lớn và ăn trộm càng táo bạo hơn, th́ một thời gian sau đó anh bị bắt vào tù và sẽ hối hận (thế giới vật chất).

Như vậy, khi nhận thức ở tâm linh th́ chuyển nghiệp (karma) rất nhanh, đợi khi nó thể hiện ở cơi vật chất rồi th́ cái thời gian thay đổi rất chậm chạp, khó khăn, phức tạp và khổ sở. Với đời sống con người có giới hạn thời gian, sự nhận thức có được khi hoàn cảnh xấu xảy ra đôi lúc quá trễ. Con người có thể không c̣n đủ thời giờ để cải thiện. Ngoài ra khi họ tiến quá sâu trong hoàn cảnh xấu, trở lại điểm ban đầu rất là gian nan. Thí dụ như anh trộm khi ra tù muốn học lại th́ tuổi cao, kiến thức đổi khác nhiều, bạn bè cùng lứa đă có sự nghiệp thành công hết. Anh ta phải khuất phục sự chậm chạp của tuổi cao và ḷng mặc cảm để đi học lại. Mặc dù như thế, anh ta sẽ khó mà ngang hàng với các bạn được v́ mất khoảng thời gian quá lâu trong tù.

Khi hiểu được luật nhân quả th́ câu hỏi có định mệnh (destiny) hay không là tùy nơi con người. Định mệnh có thật khi ta để lực (force) nhân quả lôi cuốn và thụ động để cái nhân ở tâm lư biến thành cái quả ở thế giới vật chất. Định mệnh không có khi ta chủ động biến chuyển những tư tưởng (nhân) xấu thành tốt và theo đó diễn biến (quả) tốt lành sẽ đến với ta. Đôi lúc cái nhận thức nhân quả ở thế giới vật chất rất khó khăn v́ có người làm lành mà sao lại gặp ác, rồi họ đâm ra chán nản và cho rằng không có luật nhân quả. Sở dĩ như vậy v́ con mắt phàm không thể nh́n thấu được quá khứ và không hiểu được những khúc mắc của nghiệp. Nhưng nếu có người nào đó giữ được tâm hồn tha thứ buông xả th́ mặc dù biến cố xấu đến với họ đó, nhưng cái tác động trên tâm lư tạo sự đau khổ giảm đi rất nhiều. Th́ đó chẳng qua là một điều lành trong một biến cố dữ. Hiểu được luật nhân quả ở tâm th́ ta nhận thức rơ hơn và ta sẽ thấy sự thay đổi nhanh hơn.

Nhân-Duyên-Quả

Nghiệp (karma) là những biến cố vui buồn xảy ra trong đời người. Nghiệp, ḍng sông nhân quả trong cuộc đời con người, rất là phức tạp. Nghiệp không phải đơn giản như một cái máy, ta bấm nút (nhân) th́ máy hoạt động (quả). Nghiệp có thể ví như một ḍng sông và nhân quả là những phân tử (molecule) nước lưu chuyển, tác động lẫn nhau trong ḍng sông đó. Ngoài nhân-quả ra c̣n yếu tố duyên nữa. Duyên là những yếu tố ở không gian và thời gian giúp nhân trở thành quả hoặc ngược lại ngăn cản hoặc đ́nh trệ sự nối liền của nhân quả, làm giảm sức mạnh của quả. Sự sống đa dạng và sáng tạo là nhờ duyên. Như vậy duyên đóng vai tṛ điều chỉnh (modulation) nhân-quả. Thí dụ dễ hiểu là khi ta gieo hạt lúa (nhân) trong đồng ruộng ẩm ướt ph́ nhiêu (duyên), vài tháng ta sẽ có những cọng lúa xanh mượt (quả). Nếu có người lữ hành băng qua sa mạc và làm rơi một hạt lúa th́ ngàn năm sau hạt lúa đó vẫn là hạt lúa (nghịch duyên). Nếu hạt lúa đó được gió thổi rơi vào một nơi ẩm ướt trên sa mạc th́ hạt lúa sẽ mọc thành cọng lúa nhưng rất yếu ớt v́ thiếu phân bón. Như thế ta thấy rằng cùng một nhân, qua nhiều duyên khác nhau sẽ cho ta kết quả khác nhau. Thực tế nhân quả không đơn giản như trên mà hoạt động như một mạng lưới nhện (web).

Một nhân có thể là khởi đầu của một chuỗi phản ứng (chain of events). Những yếu tố duyên tác động lên chuỗi phản ứng đó để cho ra nhiều kết quả ở nhiều từng lớp khác nhau. Thí dụ: Có một người v́ ḷng tham (nhân) phá rừng bán gỗ làm lợi nhuận cho riêng ḿnh. Trời mưa, không có rễ cây hút nước (duyên) nên tạo thành lụt (quả), loài chim mất môi sinh (duyên) dời đi nơi khác (quả). Không có chim ăn (duyên) nên sâu bọ lan tràn đồng ruộng (quả). Không có cây hút thán khí (CO²) nên từ đó khí hậu bị ô nhiễm. Một nhân thiếu sáng suốt sẽ gây ra rất nhiều hậu quả tai hại về sau mà ta khó có thể lường trước được.

Giới luật là nhằm biến đổi cái duyên để cho cái nhân tham, sân và si không có cơ hội để biến thành quả dữ (tham-ăn trộm, sân-giết chóc, si-đau khổ). Xuất gia là tránh xa những duyên có thể dẫn đến quả dữ và gần gũi với những duyên khuyến khích quả lành được biểu hiện. Tuy nhiên thay đổi duyên ở thế giới vật chất không bền vững lắm. Thí dụ ḷng tham tiền có thể biến thành tham chùa ḿnh được đẹp nhứt, sân (giận) có thể biến thành bực bội khi đệ tử quên chấp tay xá ḿnh, và si là chấp vào thời gian tụng kinh mà không hiểu ư kinh tạo ra sự tranh chấp hơn thua. Cho nên vào cảnh tịnh mà c̣n giữ mầm mống tham, sân, si th́ cảnh tịnh đó sẽ trở nên cảnh ưu phiền.

Thiền tông chú trọng đến cái duyên ở tâm là tư tưởng. Tham, sân, si mà không có tư tưởng để nuôi dưỡng chúng th́ dần dần sẽ tự tiêu ṃn. Cho nên giữ giới nơi tâm th́ hiệu nghiệm hơn là giữ ở thân hay cảnh. Nếu tâm ta nuôi dưỡng sự bực dọc mà miệng th́ tụng kinh th́ khó có thể mà ta có được hạnh phúc v́ càng tụng kinh, càng mệt mỏi th́ sự bực dọc càng nhiều hơn nữa. Một trong những phương pháp thiền là ta nhận thức sự bực bội và từ bi hỷ xả phóng sanh nó ra theo từng hơi thở nhẹ nhàng rồi dần dần sự bực bội đó sẽ tan biến. Đó là một cách “tụng kinh sống” hữu hiệu nhứt. Tụng kinh sống là tụng ư (thay v́ chữ) kinh trong từng hơi thở, trong lúc đi, đứng, nằm và ngồi. Nói một cách khác, thiền hay tụng kinh sống là khi ta ư thức không tạo cái duyên nuôi dưỡng tham, sân, si trong tâm ta. Nếu ta không nuôi chúng th́ tự động chúng sẽ rời bỏ ta. Rồi ta sẽ trở về sống với con người hạnh phúc của ta.

Nhân quả và Thiên Chúa giáo

Mặc dù Thiên Chúa giáo không đề cập nhân quả một cách trực tiếp nhưng tất cả những câu chuyện trong Thánh kinh đều khuyên răn con chiên hăy củng cố ḷng tin Chúa, thương người, giúp đỡ xă hội th́ sẽ được cuộc sống hạnh phúc trong vĩnh cửu. Nói một cách khác Chúa khuyên con chiên tạo nhân lành (ḷng tin, thương người, tha thứ), tạo duyên lành (xây dựng một xă hội lấy nền tảng là sự yêu thương đùm bọc lẫn nhau, truyền đạo cho nhiều người được nhận thức) th́ kết quả cuộc sống hạnh phúc sẽ dễ được thực hiện trên thế gian này và nếu tất cả mọi người làm được th́ sẽ được hạnh phúc trong vĩnh cửu.

Tuy nhiên có nhiều con chiên quá cuồng tín dùng sức mạnh áp đặt niềm tin lên kẻ khác và kết quả là hận thù và chiến tranh. Điều dễ hiểu là v́ cái nhân là tham (muốn cá nhân ḿnh được nhiều phước khi dẫn người khác vào đạo), sân (bực tức khi người ta không theo đạo ḿnh) và si mê (ngạo mạn coi đạo ḿnh trên tất cả các đạo khác) th́ kết quả sẽ là chiến tranh và đau khổ. Vấn đề này không hẳn xảy ra ở đạo Chúa mà c̣n gặp ở nhiều tôn giáo khác hoặc ngay cả ở đạo Phật (phái này chê bai phái khác). Đó là v́ con người mê lầm không chữa trị cái tham, sân si nơi chính ḿnh mà muốn thay đổi thế gian. Muốn cái quả khác cái nhân th́ không bao giờ có được. Nếu có kẻ nào nói làm được hẳn là họ tự gạt chính họ, sống trong ảo tưởng u mê. Tôn giáo cũng như thuốc, trị đúng bịnh th́ thuốc hay, dù có thuốc quư mà dùng sai bịnh th́ thuốc quư có thể thành độc dược. V́ thế không thể nói thuốc này hay hơn thuốc kia được. Đạo Phật có thí dụ ngón tay (phương tiện) chỉ mặt trăng, nếu ta ở nhiều nơi khác nhau th́ ngón tay sẽ chỉ nhiều hướng khác nhau, nhưng khi nh́n thấy mặt trăng (cứu cánh) th́ chỉ có một.

Tác động trên tâm lư của Thiên Chúa giáo là dùng t́nh thương người và sự tha thứ tạo cái duyên lành làm giảm bớt ảnh hưởng của hoàn cảnh xấu (quả). Nếu ta tin vào một Thượng Đế công bằng bác ái ở bất cứ mọi nơi và mọi lúc, th́ ta giao phó cho Ngài xử phạt những bất công trong cuộc đời ta. Như thế ta không mất ngủ bực tức t́m cách trả thù hay t́m những lời nói đâm thọc xỏ xiên. Với ḷng tin đó ta sẵn sàng tha thứ kẻ muốn ám hại ta, tâm ta được an ổn và ta gieo rắc sự an ổn đó cho những người chung quanh ta. Làm được như vậy, mặc dù ta không mở miệng truyền giáo nhưng sẽ có rất nhiều người theo v́ họ mến ta. Như thế lời cầu nguyện hữu hiệu nhứt phát xuất từ tư tưởng tha thứ thương yêu chớ không phải từ miệng nói tiếng thương yêu trống rỗng. Giáo đường chân thật của một linh mục hay mục sư là sự an ổn của con chiên khi họ cảm nhận được t́nh thương và sự tha thứ chân t́nh qua hành động của vị mục sư đó, chớ không phải cái giáo đường bằng ngói, bằng gạch. Cái giáo đường vật chất không bao giờ làm ấm được ḷng người. Ta không thể nào gieo rắc sự an lành chung quanh ta nếu ta không có cái nhân của sự an lành đó trong tâm ta. Ta có thể dối chính ta chớ không thể dối với Thượng Đế và luật nhân quả được.

Nhân quả và y khoa

Tuy nhân quả xuất xứ từ Phật giáo nhưng không hạn chế ở phạm vi tôn giáo. Hiểu được nhân quả giúp ta rất nhiều trong việc pḥng ngừa bịnh tật. Trong Đông Y có câu người y sĩ giỏi trị bịnh lúc mà bịnh chưa phát triển. Y khoa hiện đại cũng đồng ư với vấn đề ngưà bịnh hơn là chữa bịnh. Cách tốt nhứt cho con người về vấn đề sức khỏe và xă hội về vấn đề tài chánh là thay đổi cuộc sống để ngừa bịnh. Muốn ngừa bịnh (quả) ta phải hiểu cho ra lẽ những yếu tố gây ra bịnh (nhân), t́m cách làm suy giảm những nguyên nhân gây ra bịnh, t́m cách không tạo duyên xấu để cho hậu quả bịnh dễ xảy ra và củng cố những duyên lành để ngăn ngừa bịnh.

Bây giờ ta hiểu nguyên nhân của nhiều chứng bịnh là do vi trùng (bacteria) và vi khuẩn (virus) có kích thước nhỏ hơn vi trùng gây ra. Để làm suy giảm những nguyên nhân tạo ra bịnh, những nhà thuốc sáng chế ra các loại thuốc trụ sinh. Sự ỷ y có thuốc trụ sinh để trị bịnh mà không cần pḥng ngừa hoặc dùng thuốc trụ sinh một cách không phân biệt đưa đến sự ra đời của những siêu vi trùng (“super bugs”) có sức kháng trụ sinh. Về phần bịnh nhân phải ráng ăn ở vệ sinh để không tạo cái duyên cho những loại vi trùng xâm chiếm cơ thể họ. Vaccine (chích ngừa) là cách pḥng ngừa bịnh bằng cách dùng bộ kháng nhiễm (immune system) để chống lại bịnh. Vaccine là một cách thay đổi duyên làm cơ thể không thuận cho sự phát triển của bịnh. Một cách ngừa bịnh khác nữa là ta ăn ở vệ sinh, t́m cách tránh những nơi dễ gây ra bịnh tật là góp phần vào sự củng cố những duyên không thích hợp cho bịnh phát triển. Thực tế, ta không thể nào diệt trừ được tất cả những nhân tạo bịnh mà cách dễ dàng nhất là biến đổi cái duyên không thuận cho bịnh-quả phát triển. Con đường trị bịnh bằng cách diệt trừ nhân một cách hoàn toàn rất nguy hiểm v́ có thể đưa đến sự mất cân bằng môi sinh và có thể tạo nhiều mối hiểm nguy khác. Thí dụ như khi ta đi du lịch ở những nước khác dễ bịnh tiêu chảy v́ ở điều kiện ta sống không có loại vi trùng đó (nhân bị diệt) nên cơ thể ta không có chất miễn nhiễm, dễ sanh ra bịnh. Đứng trên phương diện năng lượng (sức lực, thời gian, tài chánh), dùng duyên để pḥng ngừa quả là áp dụng năng lượng một cách hữu hiệu nhứt.

Nhân quả và tâm lư học

Stress, sự căng thẳng tinh thần, là vấn đề lớn của thời đại. Stress có thể coi như cái cửa mở cho nhiều bịnh tật vào thân thể ta. Những triệu chứng khởi đầu của stress là lo âu, bực bội và mất ngủ. Ngoài ra nhức đầu, buồn nôn, mất ăn, cao máu với nhịp tim đập nhanh cũng có thể là một triệu chứng của stress nữa. Thuở xưa, Đức Phật có cho một thí dụ rất thích hợp với stress ngày nay. Thí dụ rằng có một người bị mũi tên bắn bị thương. Người đó lo âu muốn biết mũi tên này từ đâu tới, ai bắn, lư do nào bắn, rồi lo sợ cho tính mạng, không biết vết thương như thế nào, ..., người đó cứ mải lo mà quên t́m cách tháo gỡ mũi tên ra. Tính chất của lo âu là nó không bao giờ chịu dừng ở hiện tại mà lại có chiều hướng lẩn quẩn ở quá khứ hoặc tương lai. Chính v́ vậy mà sự lo âu ngày càng tăng v́ khi tư tưởng lẩn quẩn ở quá khứ và tương lai th́ ta sẽ không giải quyết được vấn đề và t́nh trạng vô định đó tạo nên cái duyên làm cho lo âu càng lớn dần.

Một khoa tâm lư trị liệu (psychotherapy) trị stress là Cognitive behavioral psychotherapy, tạm dịch là tâm lư trị liệu qua nhận thức. Ta nhận thức ta có những tư tưởng sai lầm dẫn đến sự lo âu đau khổ (1), quán xét kỹ càng rằng những tư tưởng đó không có liên hệ ở thực tế (2), sau cùng thay thế vào đó những tư tưởng thích hợp với thực tại hơn (3). Khi nhận thức thích hợp với thực tại th́ ta sẽ t́m được biện pháp giải quyết vấn đề một cách hữu hiệu và từ đó nhẹ gánh lo âu. Thí dụ anh A có triệu chứng hay lo (general anxiety disorder). Khi bị chủ sở phê b́nh, anh về ngủ không được, liên tưởng đến ngày mai ḿnh sẽ mất việc, không có tiền trả tiền nhà, vợ anh sẽ bực bội bỏ anh (1)... Qua khâu tâm lư trị liệu, anh kiểm duyệt lại thực tế th́ không thấy có dấu hiệu nào chủ sở sẽ đuổi anh, chủ anh chỉ muốn anh sửa khuyết điểm nhỏ mà thôi, vợ chồng lúc nào cũng ḥa thuận (2)... Khi nhận thức như vậy, anh cảm thấy yên tâm và hiểu rằng ḿnh có phản ứng quá đáng (3). Khi nh́n ở khía cạnh nhân duyên quả, th́ khi anh nhận thức rằng cái nhân sai lầm không quan trọng lắm, không để những tư tưởng lo âu thổi phồng sự thật (nghịch duyên), và anh t́m cách học hỏi trau giồi nghề nghiệp th́ kết quả sẽ tốt đẹp. Như thế hiểu được nhân quả th́ cuộc sống ta sẽ nhẹ gánh lo âu.

Tóm lại

Nhân quả không phải là một khái niệm tôn giáo (dogma) mà là một quy luật thiên nhiên (natural law) ảnh hưởng thế giới nội tâm và thế giới vật chất. Nhân quả c̣n là một lực (force) gắn liền hai biến cố với nhau qua không gian và thời gian.

Ta khó có thể thay đổi nhân ở quá khứ, nhưng điều dễ làm là thay đổi duyên ở hiện tại để quả xấu khó có thể biểu hiện được. Ở thế giới vật chất, duyên lành là bạn tốt, nơi chốn yên tịnh (chùa, nhà thờ, học đường...). Ở thế giới tâm lư, duyên lành là ư muốn học hỏi, trau giồi trí tuệ, cố giữ ḷng nhân từ, bác ái và tha thứ. Gần duyên lành th́ quả xấu khó thể hiện hoặc thể hiện một cách yếu ớt hơn.

Nếu ta c̣n giữ tâm tham, sân, si (làm nhân) và nuôi dưỡng những tư tưởng tham, sân, si (ác duyên) th́ không bao giờ biến đổi được cuộc sống hay xă hội một cách tốt lành được (quả). Cảnh lúc nào cũng hiện theo tâm. Người mang tâm xấu lên thiên đàng sớm muộn ǵ cũng biến cảnh thiên đàng thành địa ngục.

Hiểu được nhân quả th́ ta nắm giữ được ch́a khóa mở cửa tự do trong đời ta và giúp ta làm chủ lấy cuộc đời. Không hiểu nhân quả th́ ta sẽ sống trong mê tín dị đoan hay trong sự lo âu của cuộc sống vô định, bấp bênh.

Hiểu được nhân quả giúp ta định hướng dễ dàng và có một hướng đi và một quan niệm sống vững chắc trước mọi hoàn cảnh khó khăn.

Bác sĩ Thái Minh Trung
 


 trang nhà l trang sách l bản tin l thiền học l tiểu sử l trang thơ l h́nh ảnh l bài vở