|
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES
|
(trích Nữ thần
của H. P. BLAVATSKY
|
|
LÁ THƯ CỦA MỘT ĐIỂM ĐẠO ĐỒ
Bên ngoài phương Đông, chúng tôi chỉ gặp được mỗi một
điểm đạo đồ (và chỉ một mà thôi), v́ một số lư do mà chỉ có ông mới biết rơ,
ông không bảo mật sự điểm đạo của ḿnh nhập vào Hội đoàn Huynh đệ Liban. Đó
là nhà lữ khách bác học và nghệ sĩ tài ba, giáo sư A. L. Rawson ở
Phố 34
“. . . Bức thư ngắn của
bạn yêu cầu tôi tường thuật cuộc lễ điểm đạo của ḿnh vào một ḍng tu bí mật
trong nhóm người thường được gọi là người Druzes ở núi Liban; thư ấy đă được
tiếp nhận sáng nay. Bạn hẳn biết rơ rằng lúc đó tôi có nghĩa vụ che kín bên
trong kư ức của ḿnh phần lớn những điều “bí nhiệm” với các bộ phận thú vị
nhất của các “giáo huấn” sao cho điều c̣n lại có thể không ích lợi ǵ cho
công chúng. Thông tin mà tôi đưa ra một cách đúng đắn th́ bạn hăy hoan
nghênh tiếp nhận sử dụng khi có cơ hội.
Trường hợp dự bị của tôi
thuộc giáo hệ đặc biệt được thực
hiện trong một tháng, thời gian đó kè kè bên cạnh tôi là một lễ sư, ông đóng
vai tṛ người nấu ăn, hướng dẫn, thông ngôn và phục dịch tôi để cho ông có
thể kiểm chứng sự kiện tôi đă nghiêm chỉnh tuân theo những qui tắc về chế độ
ăn kiêng, tẩy lễ và những vấn đề khác. Ông cũng dạy cho tôi bản văn về nghi
thức mà thỉnh thoảng chúng tôi thực hành diễn tập qua đối thoại và hát xướng
theo mức có thể được. Bất cứ khi nào chúng tôi ở gần một làng người Druzes
vào ngày thứ năm, th́ chúng tôi
đều tham dự vào những buổi họp “mở rộng”, trong đó thiện nam tín nữ tụ tập
lại để được giáo huấn và thờ cúng, và phô trương cho thế gian nói chúng phép
thực hành tôn giáo của ḿnh. Trước khi được khai tâm, tôi chưa bao giờ có
mặt trong buổi họp “kín” vào ngày thứ
sáu, tôi cũng chẳng tin có một người nam nữ nào khác đă từng có mặt như
thế trừ phi thông đồng với một lễ sư, và điều này có xác suất rất nhỏ, v́
một lễ sư giả mạo th́ cuộc đời y coi như tiêu tùng. Đôi khi những người ưa
giễu cợt trong đám họ làm cho một kẻ quá ṭ ṃ “nổi khùng” qua một lễ khai
tâm giả mạo, nhất là khi người ta nghi ngờ tên do thám ấy có liên hệ với
phái bộ truyền giáo ở
“Các điểm đạo đồ” bao gồm
cả nam lẫn nữ, và nghi thức đặc thù có bản chất đến mức độ người ta yêu cầu
cả hai giới phải tham dự và góp phần vào “công tŕnh” nghi lễ. “Đồ đạc”
trong “pḥng cầu nguyện” và “pḥng linh ảnh” thật là giản dị và có thể chỉ
gồm một tấm thảm cho tiện lợi. Trng “sảnh đường màu xám” (nơi này không bao
giờ được gọi tên và ở dưới đất, cách
xa không bao nhiêu đo với Bayt ed Deen), có một số đồ trang trí nội thất
lộng lẫy, bàn ghế xưa cũ có giá trị, đồ vàng bạc Ả rập cách đây 5 – 6 thế kỷ
được khắc chữ và ghi ngày tháng. Ngày khai tâm phải là ngày liên tục ăn chay
từ sáng sớm cho tới lúc mặt trời lặn vào mùa đông hoặc 6 giờ vào mùa hạ. Và
nghi thức ấy từ đầu chí cuối là một loạt những thử thách và cám dỗ được dự
tính để trắc nghiệm sức chịu đựng của ứng viên trước những áp lực thể chất
và tinh thần. Ít khi nào có một người nam hoặc nữ trẻ tuổi thành công chiếm
trọn mọi giải thưởng v́ thiên nhiên
đôi khi sẽ nỗ lực bất chấp ư chí ngoan cường nhất và kẻ sơ cơ không vượt
qua được một số cuộc trắc nghiệm. Trong trường hợp như thế th́ giai đoạn dự
bị được kéo dài sang năm khác khi có một cuộc thử thách khác.
Sau đây là một trong
những cuộc trắc nghiệm khác về tính tự chủ của ứng viên sơ cơ: chọn lấy
những đĩa thịt đă nấu chín, súp ngon lành, cơm đĩa và những đồ ăn hấp dẫn
khác cùng với kem cây, cà phê, rượu nho và nước; ngẫu nhiên đặt trên đường
đi của ứng viên và y bị bỏ mặc một ḿnh trong một thời gian đứng trước những
thứ cám dỗ ấy. Cuộc thử thách thật khắc nghiệt đối với một phần hồn đang đói
và mệt lả. Nhưng c̣n có một thử thách khó khăn hơn khi 7 nữ tu rút lui chỉ
để lại một nữ tu sĩ trẻ tuổi nhất và xinh đẹp nhất; cửa được đóng lại và
chốt ở bên ngoài sau khi cảnh báo ứng viên là y bị bỏ mặc để “tỉnh tâm”
trong nửa tiếng đồng hồ. Mệt mỏi v́ nghi lễ dài dằng dặc liên miên, lả người
đi v́ đói, khát khô cổ và một
phản ứng dịu dàng xuất hiện sau khi sự căng thẳng ghê gớm nhằm kềm chế bản
chất thú tính của ḿnh, cái giây phút riêng tư cám dỗ này thật là đầy nguy
hiểm. Cô nữ tu trẻ đẹp e lệ tiến tới gần, liếc mắt nh́n kèm theo những lời
đường mật rù quến, xuống giọng van xin y hăy “ban phước” cho cô. Khốn nạn
thay cho y nếu y làm như vậy. Cả trăm cặp mắt đang chăm chú nh́n y qua những
lỗ ḍm bí mật và chỉ có kẻ sơ cơ dốt nát mới lộ nguyên h́nh không che đậy
được trong cơ hội ấy.
Trong hệ thống này không
có sự bất trung, sùng bái ngẫu tượng hoặc đặc điểm thật sự xấu xa nào khác.
Họ có di tích của điều đă từng một lần là dạng thờ cúng thiên nhiên long
trọng mà dưới chế độ chuyên chế đă trở thành giao ước của một ḍng tu bí mật
bị che khuất khỏi ánh sáng thanh thiên bạch nhật, chỉ lộ diện trong ánh đuốc
chập chờn, khói tỏa nghi ngút ở dưới một hang động ẩm thấp nào đó hoặc nhà
nguyện dưới đất. Những giáo điều chính yếu trong giáo huấn của họ được bao
gồm trong bảy ‘tấm bảng’ với phát biểu tổng quát như sau:
1-
Sự đơn
nhất của Thượng Đế tức tính nhất như vô hạn của đấng thiêng liêng.
2-
Chơn lư
bản thể thật tuyệt vời.
3-
Luật
khoan dung về ư kiến đối với mọi người nam và nữ.
4-
Tôn trọng
tính cách và hạnh kiểm của mọi người nam và nữ.
5-
Hoàn toàn
tuân phục ư chỉ của Thượng Đế về số phận.
6-
Trinh
khiết về thể xác, tâm trí và phần hồn.
7-
Giúp đỡ
lẫn nhau trong mọi t́nh huống.
Những giáo điều này không
được viết ra hoặc in trên giấy trắng mực đen. Có một số giáo điều khác được
in hoặc viết ra để làm lạc đường kẻ khinh suất, nhưng ở đây chúng ta không
quan tâm tới chúng.
Những kết quả chính yếu
của lễ khai tâm dường như là một loại ảo giác tâm thần hoặc mộng du, trong
đó kẻ sơ cơ nh́n thấy hoặc tưởng là ḿnh nh́n thấy h́nh ảnh của những người
vốn được biết là đang vắng mặt và trong một số trường hợp ở cách xa cả ngàn
dặm. Tôi tưởng rằng (hoặc có lẽ đó là hoạt động tâm trí của tôi) tôi thấy
các thân bằng quyến thuộc mà tôi biết lúc bấy giờ đang ở bang
Tôi cảm thấy tự tin mà
nói rằng lễ khai tâm đặc thù đến nỗi nó không thể được in ra để giáo huấn
cho kẻ nào chưa nếm mùi ở trong pḥng linh ảnh. V́ thế, thậm chí không thể
tŕnh bày về chúng nhiều hơn so với Hội Tam Điểm. Những điều bí mật thật sự
được cử hành chứ chẳng ai nói điều ǵ và cần có nhiều người đă được khai tâm
và trợ giúp công việc ấy.
Tôi cũng chẳng nói làm
thế nào một số khái niệm của những người ấy dường như làm lưu truyền một vài
tín ngưỡng của người Hi Lạp thời xưa – chẳng hạn như ư tưởng cho rằng một
người có hai phần hồn và nhiều phần khác nữa – v́ bạn có lẽ đă được làm quen
với chúng trong cuộc du hành đi qua “pḥng trên” và “pḥng dưới”. Nếu tôi
nhầm lẫn khi tôi giả định bạn là một “điểm đạo đồ” th́ xin bạn thứ lỗi cho
tôi. Tôi biết rằng những người bạn thân thiết thường hay giấu cái “bí mật
linh thiêng” này đối với nhau và ngay cả vợ chồng – theo như tôi biết sự
thật trong một gia đ́nh ở Dayr el Kamar – có thể sống chung với nhau 20 năm
trời mà chẳng ai biết ǵ về cuộc điểm đạo của người kia. Chắc chắn là bạn có
lư do chính đáng để bảo lưu ư kiến riêng của ḿnh.
Thân ái,
A.
L. Rawson
Trước khi kết thúc đề tài này chúng tôi có thể nói thêm rằng nếu một người lạ mặt thỉnh cầu được nhận vào dự buổi họp “ngày thứ năm” th́ người ta sẽ chẳng bao giờ từ chối y. Chỉ có điều nếu là Ki Tô hữu th́ vị okhal sẽ mở Kinh thánh ra đọc; c̣n nếu y là một tín đồ Hồi giáo th́ y sẽ được nghe một vài chương trong kinh Coran và nghi lễ đến đây là hết. Người ta chờ cho y đi khỏi rồi mới đóng kín cửa tu viện lại, t́m kinh sách và nghi thức của ḿnh rồi tiến hành mục đích ấy trong thánh thất dưới đất.
* * * * *
* * *
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES