|
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES
|
KỲ
NA GIÁO
(JAINISM)
Tác giả ANNIE
BESANT
|
|
KỲ NA GIÁO
Lời
Tựa
Nói về tự
do, tự
do tư
tưởng
có thể
nói là dự
phần
quan trọng
trong sự
tiến
hóa của
nhân loại
và sự
đau khổ
của
nhân loại
tỉ
lệ
nghịch
với
sự
tiến
hóa. Khi một
cá nhân sinh ra và lớn
lên trong một
gia đ́nh nào đó th́ hầu
như
họ
thường
theo tôn giáo mà cha mẹ
họ
đang theo. Họ
ít có dịp
khảo
sát tôn giáo
ấy
cặn
kẽ
và mặc
nhiên, mọi
quan niệm
về
nhân sinh quan, về
cuộc
đời,
cũng như những nhận định của họ
thường
được nh́n qua màu sắc
tôn giáo của
họ.
Nói cách khác là theo định
kiến
tôn giáo của
họ.
Mỗi
tôn giáo đều
có màu sắc
óng ánh của
nó toát ra từ
một
Thực
Tại
Nhất
Như.
Thế
giới
mà nhân loại
đang sống
là thế
giới
vật
chất
hồng
trần,
thuộc
tính của
nó là giới
hạn,
là thế
giới
của
nhị
nguyên. Do đó tôn giáo cũng không ngoại
lệ,
cũng phải
mang tính giới
hạn
này, nên mỗi
tôn giáo chỉ
thể
hiện
được
một
sắc
thái nào đó mà thôi hay nói một
cách khác đi, bị
những
giới
hạn
riêng của
nó.
Hơn
nữa,
qua thời
gian, mỗi
tôn giáo đều
có nhiều
sự
biến
đổi
làm che khuất
đi chân lư khởi
thủy.
V́ thế
chúng ta cần
có một
sự
khảo
sát kỹ
lưỡng
tôn giáo mà ḿnh theo đuổi.
Qua những
bài phát biểu
của
bà Annie Besant, chúng ta có dịp
khảo
sát các tôn giáo để
t́m thấy
những
ánh sáng linh diệu
của
các tôn giáo và nhận
ra được
chân lư đích thực
ẩn
trong từng
màu sắc
của
mỗi
tôn giáo. Tuy nhiên, sự
khảo
sát này phải
dựa
trên tinh thần
khoa học
và chúng ta hăy nghe Ali, một
bậc
trưởng
lăo trong Hồi
giáo định
nghĩa về
Khoa học:
"Tinh hoa của
khoa học
là việc
soi sáng cho tâm hồn,
mục
tiêu chính của
khoa học
là sự
thật,
điều
dẫn
dắt
của
khoa học
là cảm
hứng,
khoa học
chỉ
chấp
nhận
lư trí. Đấng
mang lại
linh hứng
cho khoa học
là Thượng
Đế
và lời
lẽ
của
con người
giúp xiển
dương
khoa học."
(Hồi
giáo, Annie Besant) Trong
tinh thần
khoa học
ấy,
chúng ta bước
vào Tuyển
Tập
Tôn Giáo này.
Như Hải
KỲ NA GIÁO
(Một bài thuyết tŕnh trước
Đại hội)
Thưa
các Huynh đệ,
Sáng nay chúng ta sẽ ở trong một bầu hào quang khác hẳn
bầu hào quang ngày hôm qua cũng như bầu hào quang ngày mai. Giờ đây ta không
c̣n có bầu hào quang lăng mạn, hào hiệp mà ta thấy trong các tín ngưỡng Hồi
giáo lẫn trong các tín ngưỡng Đạo Sikh. Ngược lại ta sẽ ở trong bầu hào
quang yên tịnh, b́nh thản mang tính triết học. Ta sẽ thấy ḿnh xem xét những
vấn đề của kiếp nhân sinh theo quan điểm của một triết gia, một nhà siêu
h́nh học, và mặt khác tư tưởng ta phần lớn sẽ xét đến vấn đề hạnh kiểm; con
người nên sống như thế nào; mối quan hệ của y với các tạo vật thấp kém hơn
xung quanh ḿnh sẽ ra sao; y nên chỉ đạo sinh hoạt, hành động của ḿnh ra
sao để không gây tổn hại, không tiêu diệt. Người ta hầu như có thể tổng kết
tiêu ngữ của Kỳ Na giáo qua một cụm từ mà ta thấy có trong kinh
Kritānga (II. 20), theo đó nhờ
không gây tổn hại cho bất kỳ chúng sinh nào, con người ắt đạt tới Niết Bàn
vốn là sự an b́nh. Đây là một cụm từ dường như bao hàm trọn cả tư tưởng của
Kỳ Na giáo: ḥa b́nh, ḥa b́nh giữa người và người, ḥa b́nh giữa người và
thú, ḥa b́nh ở bất cứ nơi đâu và trong vạn vật, một t́nh huynh đệ toàn bích
của chúng sinh. Đây là lư tưởng của Kỳ Na giáo, là tư tưởng mà người ta cố
gắng hiện thực hóa trên trần thế.
Thế mà Kỳ Na giáo là một đoàn thể tương đối nhỏ bé; họ
chỉ bao gồm từ một tới hai triệu người; đây là một cộng đồng đầy quyền lực
không bởi số đông mà bởi cuộc sống thanh khiết và cũng mạnh về phương diện
tài sản của các thành viên v́ đa số là thương gia và doanh nhân. Kỳ Na giáo
vẫn công nhận bốn giai cấp của Ấn giáo, nhưng trong số tín đồ Kỳ Na giáo ta
chỉ thấy có một ít người thuộc giai cấp Bà la môn; ta cũng ít thấy người
thuộc giai cấp Sát đế lị, cái giai cấp dường như hoàn toàn tương kỵ với
những ư tưởng hiện hữu trong Kỳ Na giáo, mặc dù giới chức sắc đều thuộc giai
cấp Sát đế lị. Đại đa số tín đồ thuộc giai cấp Vaishya – thương gia, tiểu
thương và nhà công nghiệp – ta thấy họ hầu hết tụ tập ở Rajputana, ở
Gujarat, ở Kathiawar; thật ra họ cũng ở rải rác những nơi khác nhưng có thể
nói đại đa số cộng đồng Kỳ Na giáo đều được giới hạn nơi các vùng này ở Ấn
Độ. Quả thật trong quá khứ không như vậy, bởi v́ hiện nay ta ắt thấy họ rải
rác khắp cả miền Nam Ấn Độ nhất là vào thời Công nguyên cũng như trước Công
nguyên và sau Công nguyên, nhưng nếu ta xét cộng đồng Kỳ Na giáo ngày nay
th́ ta có thể nói những tỉnh mà tôi đề cập tới hầu như bao hàm đại khối tín
đồ Kỳ Na giáo.
Có một điều liên quan tới những giai cấp phân biệt họ với
Ấn giáo. Bậc ẩn sĩ Samnyasi của Kỳ Na giáo có thể thoát thai từ bất kỳ giai
cấp nào. Ngài không bị hạn chế trong giai cấp Bà la môn như trong Ấn giáo
chính thống b́nh thường. Bậc Yati có thể thoát thai từ bất kỳ giai cấp nào
và dĩ nhiên theo thông lệ bắt nguồn từ giai cấp Vaishya, vốn là giai cấp
chiếm tuyệt đại đa số trong Kỳ Na giáo.
Và bây giờ ta hăy xét tới vũ trụ quan của họ trong chốc
lát; rồi sau đó ta xét tới Đấng Cao Cả được khoa Đông phương học của người
phương Tây coi là Giáo chủ Kỳ Na chứ bản thân tín đồ th́ không coi như vậy.
Họ cũng có những chu kỳ thời gian bao la mà chúng ta quen
thuộc trong Ấn Độ giáo; phải nhớ rằng cả tín đồ Kỳ Na lẫn Phật tử đều căn
bản là hậu duệ của Ấn Độ giáo cổ truyền; tốt hơn là người ta đừng có khuynh
hướng chia rẽ và nhấn mạnh tới những sự khác nhau hơn là những sự giống nhau
– nếu cả hai hậu duệ lớn này đều vẫn c̣n là các trường phái của Ấn Độ giáo
hơn là ly khai thành các tín ngưỡng khác nhau và có thể nói là cạnh tranh
với nhau. Trong một thời kỳ dài thuộc các học giả Tây phương, Kỳ Na giáo
được coi là bắt nguồn từ Phật giáo. Giờ đây người ta công nhận rằng đó là
một nhầm lẫn và cả hai đều bắt nguồn từ Ấn giáo xưa cũ hơn; thật vậy giữa
tín đồ Kỳ Na và Phật tử có giáo huấn khác nhau nhiều mặc dù cũng có những
điều tương tự về giáo huấn. Tuy nhiên nếu được phép tuyên bố khẳng định th́
tôi xin chắc chắn bảo rằng Kỳ Na giáo ở Ấn Độ xưa cũ hơn hẳn Phật giáo. Bậc
đại Đạo sư cuối cùng của Kỳ Na giáo vốn đồng thời với Đức Phật Thích Ca mâu
ni, nhưng ngài là người cuối cùng trong một sự truyền thừa lớn lao và chỉ
mang lại cho Kỳ Na giáo h́nh thức mới nhất của nó. Tôi có nói cả tín đồ Kỳ
Na lẫn tín đồ Ấn giáo đều tin vào các chu kỳ lớn về thời gian và chúng ta
thấy rằng mỗi chu kỳ lớn – giống như ngày và đêm của Brahmā – hai mươi bốn
vị đại Đạo sư đă đến với thế gian khá giống nhưng mặc dù không hoàn toàn
giống bản chất của các Đấng Hóa thân. Họ luôn luôn vươn lên từ mức con người
trong khi có một số trường hợp tín đồ Ấn giáo không thích công nhận rằng một
Hóa thân là một người toàn bích. Tín đồ Kỳ Na tuyệt nhiên không nghi ngờ về
điều này. Hai mươi bốn vị đại Đạo sư mà họ gọi là Tirthamkaras đều là những
người toàn bích. Họ gọi các ngài bằng nhiều danh xưng mà bạn ắt thấy khi áp
dụng vào Phật giáo có nhiều nghĩa hơi khác nhau. Họ gọi các ngài là La Hán,
là Phật, là Như Lai v.v. . . nhưng trước hết là các đấng Jinas; đấng Jina là
đấng chinh phục, là con người đă được toàn bích, đă chinh phục được bản chất
thấp hèn của ḿnh, đă đạt được thiên tính để cho Điểm Linh Quang Jiva khẳng
định quyền năng tối cao và toàn bích của ḿnh; ngài là đấng Ishvara theo
quan điểm Kỳ Na giáo.
Hai mươi bốn đấng này xuất hiện theo mỗi chu kỳ lớn và
nếu ta xét tới kinh Thiên Kiếp
(Kalpa Sūtra) của Kỳ Na giáo th́ ta ắt thấy trong đó có cuộc đời của các
đấng Jinas. Cuộc đời của đấng duy nhất được tŕnh bày đầy đủ trong đó – đầy
đủ th́ cũng chỉ mô tả được rất hạn chế thôi – đó là cuộc đời của đấng cuối
cùng thứ hai mươi bốn – Ngài được gọi là Mahāvīra, tức bậc Anh hùng dũng
mănh. Đối với Kỳ Na giáo, Ngài là đại biểu cuối cùng của các bậc Đạo sư trên
thế gian; như tôi có nói Ngài đồng thời với Đức Thích Ca mâu ni và xét theo
một số người th́ Ngài là thân bằng quyến thuộc của Đức Phật. Cuộc đời của
Ngài thật êm đềm, xét theo biểu kiến chẳng có bao nhiêu diễn biến xảy ra mà
chỉ có những giáo huấn cao cả. Ngài giáng lâm từ vùng cao tột trong kiếp vừa
qua, kiếp mà Ngài đạt được sự giác ngộ; thoạt tiên Ngài được đưa đẩy nhập
vào một gia đ́nh Bà la môn, nơi dường như chuyện kể rằng Ngài có ư định đầu
thai vào đấy; nhưng Indra là vua của chư Thiên khi thấy đức Jina giáng lâm
bèn bảo rằng Ngài không nên sinh ra trong ḍng dơi Bà la môn v́ một đấng
Jina bao giờ cũng thuộc giai cấp Sát đế lị và Ngài phải sinh ra trong vương
tộc. Thế là Indra biệt phái một trong các chư Thiên tiếp dẫn đấng Jina sinh
ra trong gia đ́nh vua Tất đạt đa và Ngài cuối cùng hạ sinh nơi đấy. Xung
quanh sự giáng sinh của ngài có những dấu hiệu vui vẻ và hoan hỉ báo điềm
cho sự quang lâm của một trong các bậc đại Đạo sư nhân loại - những bài hát
của chư Thiên, âm nhạc của thần Khẩn na la (Gandharvas), hoa được rắc xuống
từ trên trời – đây bao giờ cũng là một điềm tốt đi kèm theo sự giáng lâm của
một trong các Đấng Cứu Thế. Thế là đứa trẻ sinh ra giữa những điềm lành ấy
và v́ sau khi nó đầu thai vào gia đ́nh này th́ gia tộc lại càng thêm có
nhiều của cải, quyền lực, thịnh vượng, cho nên họ gọi ngài là Vardhamāna tức
là kẻ làm cho gia tộc sung túc. Ngài lớn lên thành một đứa trẻ, rồi một
thiếu niên, yêu thương và làm tṛn bổn phận đối với cha mẹ; nhưng trong tâm
hồn ngài vẫn ấp ủ lời thệ nguyện mà ngài đă từng thốt ra trước đó nhiều kiếp
là ngài sẽ xả bỏ tất cả để đạt được sự giác ngộ, để trở thành một Đấng Cứu
Thế. Ngài chờ đợi cho đến khi phụ vương và mẫu thân đă qua đời để ngài không
làm cho những vị ấy tan nát tâm hồn khi phải sinh ly mà chỉ phải tử biệt;
thế rồi được phép của bậc huynh trưởng và các vị cố vấn cho hoàng tộc, ngài
lên đường, xung quanh là đám đông đưa tiễn ngài bước vào cuộc sống ẩn tu khổ
hạnh. Ngài vào tận rừng sâu, cởi bỏ vương phục và những đồ trang sức quí
báu; ngài cắt tóc rồi mặc bộ y phục của tu sĩ khổ hạnh; ngài từ biệt đám
rước của hoàng tộc đi theo ngài, tiễn họ về cung điện rồi dấn thân vào rừng
thẳm côi cút một ḿnh. Ở đó trong ṿng 12 năm, ngài thực hành những phép khổ
hạnh ghê gớm, phấn đấu để thực chứng Chơn ngă và thực chứng được vạn vật
chẳng phải là ǵ khác hơn Chơn ngă; vào năm thứ 13, ngài giác ngộ, ánh sáng
Chơn ngă chiếu sáng cho ngài để ngài đạt được tri thức về Đấng Tối Cao. Ngài
rũ bỏ xiềng xích Vô minh và trở thành đấng toàn tri, biết hết mọi thứ; thế
rồi ngài xuất hiện làm bậc Đạo sư của thế gian, dạy đạo trong 42 năm trời.
Ở đây ta hầu như không biết chút ǵ về giáo huấn của
ngài; chỉ có tên gọi của một vài môn đồ; c̣n cuộc đời ngài và các diễn biến
đều bị bỏ sót. Điều này dường như thể tạo cho ta cảm tưởng mọi thứ đều hăo
huyền chẳng có ǵ hết được ghi vào trong sử liệu của bậc Đạo sư sao cho giáo
huấn ngoại môn chẳng có ǵ và chính bậc Đạo sư cũng chẳng là ǵ. Thế rồi
ngài tịch diệt sau 42 năm lao động vất vả ở Pāpā năm 526 trước Công nguyên.
Ta thấy không có nhiều điều mô tả về đấng Mahāvīra, nhưng cuộc đời và công
tŕnh của ngài, thân thế và sự nghiệp của ngài được biểu thị qua triết lư mà
ngài để lại, qua điều mà ngài truyền thừa cho thế gian, mặc dù ta hầu như
chẳng biết ǵ về nhân cách của ngài.
Trước ngài 1.200 năm, ta được biết có đấng Tirthamkaras
đời thứ 23, thế rồi 84.000 năm trước khi có ngài lại có đấng đời thứ 22, thế
rồi cứ truy nguyên măi theo ḍng thời gian dài dằng dặc th́ rốt cuộc ta tới
đấng Tirthamkaras đời thứ nhất là Risabhadeva, phụ thân của vua Bharata, vốn
c̣n để lại tên tuổi của ḿnh cho nước Ấn Độ. Đến đây th́ hai tín ngưỡng Kỳ
Na giáo và Ấn Độ giáo hiệp nhất lại; tín đồ Ấn giáo và Kỳ Na cùng nhau tôn
thờ Đấng Cao Cả khai sinh ra ḍng dơi thánh vương để trở thành bậc Rishi và
bậc Đạo sư.
Khi ta xét tới giáo huấn bên ngoài – bây giờ tôi sẽ xét
tới từ bên trong – th́ ta thấy có thể nói là có vài Kinh điển theo luật tắc
tương tự như các Kinh Tạng của Phật tử; có cả thảy 45 kinh điển được gọi là
Siddhānta do Bhadrabāka kết tập rồi viết thành giấy trắng mực đen giữa thế
kỷ thứ 3 và thứ tư trước Công nguyên. Trước đó cũng theo thông lệ ở Ấn Độ,
chúng được truyền khẩu với sự thuộc ḷng kỳ diệu vốn là đặc trưng của việc
truyền thừa kinh điển Ấn Độ. Ba bốn năm trước Công nguyên, chúng được viết
thành kinh sách mà thế giới Tây phương bảo rằng được san định thành ra một
h́nh thức cố định. Nhưng ta thừa biết rằng nó cũng chẳng cố định nhiều hơn
trí nhớ trung thực của các môn đồ được sư phụ truyền khẩu; và ngay bây giờ
theo Max Muller cho biết nếu mọi kinh Phệ đà đều thất truyền th́ chúng có
thể được mô phỏng lại thành văn bản bởi những kẻ đă học thuộc ḷng kinh
điển. Vậy là kinh Siddhānta vẫn c̣n trên giấy trắng mực đen đă được
Bhadrabāka kết tập vào thời kỳ này trước Công nguyên. Năm 54 sau Công nguyên
có tổ chức một công đồng tức công đồng Valabhi để san định lại các kinh điển
này dưới sự chủ tŕ của Devarddigāmin, một loại Buddhaghosa của Kỳ Na giáo.
Như tôi nói, có 55 bộ kinh: 11 Angas, 22 Upāngas, 10 Pakinnakas, 6 Chedas, 4
Mūla-sūtras và 2 bộ kinh khác. Những thứ này hợp thành pháp điển của Kỳ Na
giáo, là kinh điển đầy thẩm quyền của tín ngưỡng này. Dường như cũng có
những tác phẩm xưa hơn các kinh ấy đă hoàn toàn thất truyền được gọi là
Pūrvas, nhưng nghe đâu ta chẳng biết ǵ về những thứ ấy. Tôi không nghĩ rằng
điều này nhất thiết là đúng. Kỳ Na giáo đặc biệt kín đáo về thánh thư của
ḿnh và có những kiệt tác trong giáo phái Digambaras vốn hoàn toàn không
được xuất bản; và tôi ắt chẳng lấy làm ngạc nhiên nếu trong những năm sắp
tới nhiều kinh sách được giả định là đă hoàn toàn thất truyền lại được xuất
bản khi phái Digambaras hiểu ra được rằng ngoại trừ trong những trường hợp
đặc biệt th́ nên phổ truyền chân lư để cho thiên hạ ai cũng đều biết. Tính
kín đáo có thể đẩy lên mức cực đoan thành ra một thói xấu vượt ngoài giới
hạn của sự kín miệng và giới hạn của sự minh triết.
Thế rồi, ngoài các pháp điển ra c̣n có một kho tài liệu
đồ sộ các kinh Purānas và Itihāsas rất giống như các kinh Purānas và
Itihāsas của tín đồ Ấn giáo. Nghe đâu (tôi cũng chẳng biết có đúng hay
không) kinh của Kỳ Na giáo được hệ thống hóa hơn kinh điển của phiên bản Ấn
giáo; có một điều rơ rệt là các chuyện kể này biến thiên rất nhiều và nhiệm
vụ thật thú vị khi ta đối chiếu các kinh điển với nhau để truy nguyên ra các
sự biến thiên ấy, cố gắng t́m ra lư do tại sao chúng lại biến thiên.
Chúng ta đă nói khá nhiều về cái có thể gọi là kho tài
liệu đặc biệt của Kỳ Na giáo, nhưng sau khi đă khảo sát hết ta thấy rằng
ḿnh vẫn c̣n phải đương đầu với một khối lượng kinh sách khổng lồ mà mặc dù
nguyên thủy thuộc cộng đồng Kỳ Na, nhưng đă trở thành tài sản chung của cả
nước Ấn Độ - ngữ pháp, từ vựng, sách về tu từ học và y học – ta thấy có vô
số những thứ này đă được chọn dùng toàn khối ở Ấn Độ. Chẳng hạn như tác phẩm
Amarakosa, là một tác phẩm Kỳ Na
giáo mà mọi học viên tiếng Bắc phạn đều phải học từ đầu chí cuối.
Tôi có nói tín đồ Kỳ Na đă tới miền
Điều này cũng đúng với kho tài liệu Canara, nghe đâu từ
thế kỷ thứ nhất tới thế kỷ thứ 12 sau Công nguyên, Kỳ Na giáo đă khống chế
trọn cả kho tài liệu Canara. Vậy là vào thời ấy Kỳ Na giáo đă hùng mạnh xiết
bao.
Thế rồi tới một phong trào lớn lao trải khắp miền Nam Ấn
Độ trong đó những tín đồ Mahādeva, tức Siva, đến thuyết pháp và ca ngâm
trong khắp xứ sở, hiệu triệu cái xúc động ẩn sâu trong tâm hồn con người,
tức Bhakti mà tín đồ Kỳ Na đă bỏ sót quá nhiều. Họ đến ca ngâm để xưng tụng
đấng Mahādeva, nhất là chữa bệnh nhân danh ngài, trước khi có sự chữa bệnh
bằng phép lạ này và việc đổ xô sùng tín do sự ca ngâm và thuyết pháp kích
động th́ nhiều tín đồ Kỳ Na đă được tự ḿnh cải giáo; những người c̣n lại bị
trục xuất sao cho họ hầu như không c̣n tồn tại ở miền Nam Ấn độ nữa. Đó là
chuyện kể về họ ở miền
Tuy nhiên họ vẫn c̣n ở Rajputana và họ được kính trọng
rất nhiều đến nổi Akbar là một hoàng đế Hồi giáo rất độ lượng đă ban hành
một sắc lệnh cấm giết thú vật ở gần đền thờ Kỳ Na giáo.
Ta có thể nói thêm rằng Kỳ Na giáo được phân chia thành
hai giáo phái lớn – Digambaras được biết tới vào thế kỷ thứ tư trước Công
nguyên và được một trong các lệnh của vua A Dục nhắc tới; phái Svetāmbaras
xét theo biểu kiến th́ hiện đại hơn. Ngày nay phái Svetāmbaras có đông tín
đồ hơn, nhưng nghe đâu phái Digambaras có những thư viện tài liệu cổ truyền
phong phú hơn phái cạnh tranh với ḿnh.
Dẹp qua một bên khía cạnh lịch sử ấy; bây giờ ta hăy quay
sang giáo huấn triết lư của họ. Họ khẳng định có hai sự tồn tại căn bản mà
cội rễ, nguồn gốc của vạn hữu,
của Luân hồi vốn không phải là thụ tạo và vĩnh hằng. Một sự tồn tại là Jiva
tức Ātmā, tâm thức thuần khiết, tri thức thuần túy, Chủ thể tri kiến (Năng
tri), khi Jiva đă siêu việt được vô minh th́ nó ngộ ra được ḿnh là tri thức
thuần túy xét theo bản thể và biểu lộ thành Năng tri của vạn vật. Mặt khác,
Dravya tức chất liệu là điều có thể biết được (Sở tri); Năng tri Jiva đối
cực với Sở tri Dravya. Nhưng người ta nghĩ rằng Dravya luôn luôn liên kết
với phẩm tính Guna. Dĩ nhiên mọi ư tưởng này đều quen thuộc với các bạn
nhưng ta phải theo dơi chúng lần lượt từng cái một. Dravya chẳng những có
phẩm tính Guna mà c̣n có biến thái Paryāya.
“Chất liệu là nền tảng của phẩm tính, phẩm tính vốn cố
hữu trong chất liệu nhất như; nhưng đặc trưng của sự phát triển là sự phát
triển không cố hữu nơi chất liệu hoặc phẩm tính.
“Dharma (Pháp), Adharma (Phi pháp), không gian, thời
gian, vật chất và linh hồn (đều là sáu loại chất liệu), chúng tạo thành thế
giới này mà các đấng Jinas đă giảng dạy v́ các ngài có tri thức tốt nhất”. (Uttarādhyayana,
XXVIII. 6,7. Bản dịch từ tiếng Prākrit do Hermann Jacobi dịch thuật).
Ở đây ta có nền tảng của mọi sự Luân hồi; Năng tri Jiva
và Sở tri Dravya với các phẩm tính và biến thái. Điều này tạo thành tất cả.
Có nhiều điều suy ra từ những nguyên lư này mà chúng ta không có thời giờ đi
sâu vào đấy; có lẽ tôi có thể cung cấp cho các bạn một điều suy diễn rút ra
từ một Gāthā của Kundācārya, nó sẽ cho bạn thấy một đường lối tư tưởng quen
thuộc với tín đồ Ấn giáo. Họ bảo rằng bạn có thể tuyên bố về mọi sự việc là
nó hiện hữu, không hiện hữu, hữu và phi hữu. Tôi xin xét một ví dụ của chính
họ là cái b́nh quen thuộc. Nếu bạn nghĩ cái b́nh là Paryāya tức sự biến
thái, th́ trước khi cái b́nh ấy được sản xuất ra th́ bạn ắt bảo rằng nó
không hiện hữu, “Syānnāsti”. Nhưng nếu bạn nghĩ đó là chất liệu, Dravya, th́
nó luôn luôn tồn tại và bạn ắt bảo rằng nó hiện hữu; nhưng bạn có thể bảo nó
là Dravya và Paryāya, phi hữu và hữu; và tổng kết toàn bộ điều này chỉ nội
trong câu: “Syādasti nāsti”; hữu và vô. (Phúc
tŕnh về việc Khảo cứu tiếng Bắc phạn, bản thảo của
Tiến sĩ Bhandarkar, trang 95). Đường lối lư luận này cũng quen thuộc
rồi. Chúng ta có thể thấy hàng chục, hàng vài chục và hàng trăm ví dụ minh
họa về vũ trụ quan này, có lẽ nó gây buồn chán cho kẻ phàm phu nhưng cần
thiết và mang lại sự giác ngộ cho nhà siêu h́nh và triết gia.
Thế
rồi ta đạt tới sự tăng trưởng hoặc nói cho đúng hơn là sự bộc lộ của Jiva.
Theo giáo lư th́ Jiva tiến hóa qua sự Tái sinh Luân hồi và Nghiệp báo. Ta ắt
vẫn c̣n thấy rằng ḿnh đang ở trong một địa hạt rất quen thuộc: “Vũ trụ có
nhiều tạo vật trong ṿng Luân hồi này, sinh ra trong những gia đ́nh và giai
cấp khác nhau v́ đă có nhiều tạo tác khác nhau. Ba hồi họ luân hồi trong thế
giới chư Thiên, ba hồi họ đọa địa ngục, ba hồi họ trở thành thần A tu la
theo Nghiệp báo của ḿnh. Vậy là chúng sinh đầy ác nghiệp cứ tái sinh đi tái
sinh lại v́ chưa nhàm chán Luân hồi”. (Uttarādhyayana,
III. 2,3,5) Và nó dạy giống hệt như bạn đọc thấy trong
Chí Tôn Ca, theo đó con người
trầm luân do ác nghiệp. Nếu nghiệp báo trộn lẫn giữa thiện và ác (vô kư) th́
y tái sinh thành người; nếu đă được thanh khiết th́ y tái sinh thành chư
Thiên. Kỳ Na giáo dạy giống hệt về các đường lối này. Chính nhờ nhiều kiếp
tái sinh trải qua vô số kinh nghiệm th́ Jiva mới bắt đầu giải thoát khỏi
những ràng buộc của nghiệp báo (nghiệp chướng). Ta được cho biết rằng có ba
điều quí báu giống như tam bảo mà ta thường nghe nói tới trong các Phật tử;
ba điều quí báu này là Chánh Kiến, Chánh Tín và Chánh Nghiệp; c̣n có một
điều thứ tư thêm cho các tu sĩ khổ hạnh đầu đà: “Học con đường chân chính
đưa tới sự giải thoát tối hậu mà các bậc Jinas đă dạy; điều này c̣n tùy
thuộc vào bốn nguyên nhân được đặc trưng bởi chánh kiến và chánh tín. I-
Chánh kiến, II- Chánh tín, III- Đức hạnh, IV- Khổ hạnh. Đây là con đường mà
các bậc Jinas hiểu biết nhiều nhất đă giảng dạy như trên.” (XXVIII. 1,2).
Nhờ Chánh kiến, Chánh tín và Đức hạnh trong những giai đoạn sau này, Jiva
c̣n tiến hóa tới mức có thêm khổ hạnh, nhờ đó rốt cuộc y giải thoát khỏi
ṿng sinh tử luân hồi. Chánh kiến được định nghĩa là điều mà tôi vừa nói với
các bạn về Sinh tử Luân hồi; cùng với sự khác nhau của Jiva và Dravya với
sáu loại chất liệu: Pháp, Phi pháp, không gian, thời gian, vật chất, linh
hồn; y cũng phải biết chín sự thật: Jiva là linh hồn, Ajiva là chúng vô
t́nh, Bandha là sự trói buộc linh hồn do nghiệp báo, Punya là công, Pāpa là
tội, Asrāva là điều khiến cho linh hồn mắc tội, Samvara là việc ngăn ngừa
Asrāva bằng cách tỉnh thức; tiêu diệt Nghiệp báo; cuối cùng là giải thoát;
đây là chín sự thật.
[[1]]
Thế rồi ta thấy có một định nghĩa về đức hạnh. Đức hạnh
vốn là Sarāga với ḷng ham muốn đưa tới Svarga, tức là nó đưa tới việc trở
thành một vị Thiên thần hoặc đưa tới chủ quyền đối với chư Thiên, A tu la
(Asuras) và loài người, nhưng không đưa tới sự giải thoát. Nhưng đức hạnh
vốn là Vitarāga th́ vô dục và chỉ có nó mới đưa tới sự giải thoát tối hậu.
V́ ta vẫn c̣n đi theo lộ tŕnh của Jiva cho nên ta thấy nó dẹp qua một bên
Tham, Sân và Si. Dĩ nhiên cũng có các đối cực của tam độc v́ ta không thể
dẹp bỏ thứ này mà không dẹp bỏ đối cực của nó; cho đến khi rốt cuộc con
người trở thành Jiva hoàn chỉnh và toàn bích, được tẩy trược mọi điều gian
tà, toàn tri, toàn năng và toàn hiện, trọn cả vũ trụ phản chiếu nơi bản thân
y thành ra một tấm gương tâm thức thuần túy “với các quyền năng của giác
quan mặc dù không có giác quan”; tâm thức thuần túy là chủ thể tri thức, là
Đấng Tối Cao.
Vậy th́ đây là phác họa ngắn gọn về những quan điểm, quan
niệm triết học của Kỳ Na giáo mà mọi tín đồ Ấn giáo đều chắc chắn là chấp
nhận được, v́ xét về hầu hết mọi mặt ta đều thấy gần như ta cùng một ư niệm,
mặc dù đôi khi được tŕnh bày dưới dạng hơi khác một chút.
Ta hăy
xem xét kỹ lưỡng hơn về đức hạnh v́ ở đây phép thực hành của Kỳ Na giáo trở
nên đặc biệt thú vị; và những phương thức của nó có nhiều điều minh triết
khi đặc biệt xét tới sinh hoạt của kẻ thế tục tức cư sĩ. Kỳ Na giáo được
chia thành hai đoàn thể lớn, giới cư sĩ được gọi là Thanh văn (Srāvaka), c̣n
giới tu sĩ khổ hạnh được gọi là Yati. Hai giới này chỉ có những qui tắc hành
xử khác nhau theo ư nghĩa bậc Yati thực hành tới mức hoàn tất điều mà vị cư
sĩ chỉ đang chuẩn bị cho các kiếp vị lai. Năm điều thệ nguyện của bậc Yati
mà chút nữa tôi sẽ bàn tới cũng ràng buộc vị cư sĩ trong một chừng mực giới
hạn. Xét một ví dụ đơn thuần: lời thệ nguyện Brahmacarya, dĩ nhiên áp đặt
việc sống độc thân tuyệt đối cho vị Yati, nhưng đối với vị cư sĩ chỉ có
nghĩa là tiết dục và giữ trinh khiết đúng mức trong sinh hoạt của một
Grhastha. Bằng cách này ta có thể nói song hành với lời thệ nguyện Ahimsa
(vô hại), Sūnriti (trung thực), Asteya (không trộm cắp, ngay thẳng, thẳng
thắn), Brahmacarya và cuối cùng là Aparigraha (không bám víu vào bất cứ thứ
ǵ, không tham đắm), trong trường hợp cư sĩ th́ có nghĩa là y không tham lam
thèm muốn; trong trường hợp vị Yati nó dĩ nhiên có nghĩa là ngài xả bỏ mọi
thứ, không hề biết cái ǵ là “của ḿnh”. Vậy là năm lời thệ nguyện này chi
phối sinh hoạt tín đồ Kỳ Na. Y dịch từ ngữ Ahimsa (vô hại) một cách rất đặc
biệt là “không sát sinh”. Trong chừng mực thực hành qua sinh hoạt tới mức
cực đoan th́ đôi khi nó vượt khỏi ranh giới của đức hạnh mà một kẻ phê b́nh
hà khắc có thể bảo rằng nó đi tới mức phi lư; nhưng tôi không chịu bảo như
vậy mà nói cho đúng hơn tôi thấy đó là lời phản đối chống lại việc chểnh
mảng đối với sự sống của động vật và sự đau đớn của con thú rất phổ biến
trong nhân loại; tôi công nhận lời phản đối này là quá quắt khi đă đánh mất
đi mọi ư thức tỉ lệ v́ có khi sự sống của loài côn trùng muỗi ṃng lại c̣n
dường như thể cao hơn sinh mạng của con người. Nhưng có lẽ ta vẫn có thể tha
thứ khi ta nghĩ tới những điều cực kỳ ác độc mà biết bao nhiêu người tự cho
phép ḿnh thực hiện; và mặc dù đôi khi ta phải mỉm cười khi nghe nói tới bậc
Yati chỉ thở qua khẩu trang v́ ông thở liên tục mà không hé môi sao cho bất
cứ sinh linh nào cũng không thể lọt vào phổi ông được; ông lọc nước rồi đun
sôi nó một cách phản khoa học nhất – điều này thật sự giết chết sinh linh
nếu nước chưa đun sôi có vi sinh vật trong ấy – nụ cười mỉm này ắt là nụ
cười thương yêu v́ t́nh âu yếm ấy thật là đẹp xiết bao. Ta hăy lắng nghe một
lúc điều mà bậc Jina tuyên bố theo đó mọi người chấp nhận nó là một qui tắc
sống đối với Thượng Đế: “Đấng Chí Tôn đă tuyên bố . . . Về phần nỗi đau của
tôi khi bị đánh, đấm bằng một cây gậy, nắm đấm, nắm tay, cục đất hoặc mảnh
sành hoặc khi bị đe dọa, đánh đập, đốt cháy, hành hạ hoặc cướp lấy sinh
mệnh; và khi tôi cảm thấy mọi nỗi đau quằn quại từ việc bị chết xuống tới
việc vặt lông; cũng giống như vậy chắc chắn mọi loại chúng sinh cũng đều cảm
thấy nỗi đau quằn quại ấy giống như tôi khi bị bạc đăi giống như vậy trong
lúc c̣n sống. V́ lẽ ấy, ta không nên đánh đập hoặc đối xử bằng bạo lực hoặc
hà hiếp, hành hạ hay cướp đoạt sinh mạng mọi sinh linh. Tôi xin nói các bậc
La Hán và Bhagavats trong quá khứ, hiện tại và vị lai đều bảo như vậy, dạy
như vậy, tuyên bố như vậy, giải thích như vậy: không nên giết chết, đối xử
bằng bạo lực, hà hiếp, hành hạ hoặc tiêu diệt mọi loại sinh linh. Những
người minh triết thông hiểu vạn vật đều đă từng dạy dỗ định luật chân thực,
vĩnh hằng, thường trụ và bất di bất dịch này”.
[[2]]
Nếu đó là qui tắc dành cho mọi người th́ Ấn Độ sẽ khác
biệt dường nào; không c̣n con thú nào bị đánh đập và hà hiếp, không c̣n tạo
vật nào phải phấn đấu hoặc đau khổ; về phần ḿnh tôi hầu như chỉ có thể bày
tỏ sự đồng cảm ngay cả với điều
quá quắt ấy của Kỳ Na giáo, nó vốn có một nền tảng cao quí và từ bi xiết
bao; tôi mong sao cái t́nh thương ấy mặc dù không phải là quá quắt sẽ ngự
trị trong tâm hồn của mọi người Ấn Độ thuộc mọi tín ngưỡng thời nay.
Thế rồi ta có qui tắc nghiêm ngặt là không tự đầu độc
ḿnh, không được nghiện ma túy hoặc nghiện rượu, chẳng hạn như bồ đà, thuốc
phiện, rượu mạnh; dĩ nhiên không được phép nghiện bất cứ thứ ǵ thuộc loại
ấy, thậm chí luật cũng cấm cả việc dùng mật ong và bơ bởi v́ người ta muốn
lấy mật ong th́ người ta thường phải hi sinh mạng sống của loài ong v.v. . .
Thế rồi ta thấy trong sinh hoạt hằng ngày của Kỳ Na giáo có nêu ra các qui
tắc dành cho mỗi cư sĩ khi y bắt đầu và chấm dứt mỗi ngày sinh hoạt.
“Y
phải thức dậy từ sáng tinh mơ rồi phải im lặng mật niệm chú, dùng ngón tay
để đếm các biến của chú, thế rồi y phải tự nhủ: Tôi là ai, Istadeva của tôi
là ai, Gurudeva của tôi là ai, tôi theo tôn giáo nào, tôi nên làm ǵ và
không nên làm ǵ!” Đây là sự bắt đầu mỗi ngày sinh hoạt, có thể nói là kiểm
điểm cuộc sống của ḿnh một cách kỹ lưỡng và nh́n nhận cuộc sống một cách có
ư thức về bản thân. Thế rồi y phải nghĩ tới Tirthamkaras và rồi phát nguyện
một cách chắc chắn. Thế mà những
phát nguyện này thật đặc thù theo như tôi biết, đặc thù đối với Kỳ Na
giáo và chúng có một mục tiêu đáng khen và rất hữu ích. Một người tự nhủ và
phát nguyện một điều nho nhỏ về chuyện hoàn toàn không quan trọng. Cứ sáng
ra y lại tự nhủ: “Trong ngày này – tôi sẽ lợi dụng trường hợp cực đoan mà
một tín đồ Kỳ Na giáo dành cho tôi – trong bữa nay tôi sẽ không ngồi xuống
nhiều hơn một số lần nào đấy” hoặc y sẽ tự nhủ: “Trong ṿng một tuần, 10
ngày hoặc một tháng, mỗi ngày tôi sẽ tịnh khẩu một tiếng đồng hồ”. Bạn ắt
thắc mắc làm như vậy để làm ǵ? Để cho người ta luôn luôn có ư thức về bản
thân và chẳng bao giờ mất quyền kiểm soát cơ thể. Đây là lư do mà người bạn
Kỳ Na giáo của tôi đă tŕnh bày và tôi thiết tưởng nó hết sức có ư nghĩa.
Ngay từ khi tấm bé trẻ con đă được dạy dỗ, hứa hẹn như vậy và kết quả là nó
kiểm soát được sự vô ư tứ, kiểm soát được sự kích động, kiểm soát được việc
triền miên lơ đễnh vốn là một trong những đại họa của kiếp người. Một đứa
trẻ được giáo dục như vậy ắt không lơ đễnh. Nó luôn luôn suy nghĩ trước khi
mở miệng ra nói hoặc hành động; người ta dạy cho đứa trẻ giữ cho thể xác
theo sau cái trí chứ không đi trước cái trí vốn quá thường xuyên xảy ra.
Biết bao nhiêu lần thiên hạ tự nhủ: “Nếu tôi có suy nghĩ th́ tôi ắt không
không làm như vậy; nếu tôi có cân nhắc kỹ th́ tôi chẳng bao giờ hành động
như thế; nếu tôi chỉ suy nghĩ một lúc thôi th́ cái lời lẽ điên khùng ấy
chẳng bao giờ được thốt ra và cái ngôn ngữ cộc cằn ấy chẳng bao giờ được
phát ra, cái hành động khiếm nhă ấy chẳng bao giờ được thực hiện”. Nếu ngay
từ tấm bé bạn đă tự rèn luyện ḿnh chẳng bao giờ nói mà không suy nghĩ,
chẳng bao giờ làm mà không suy nghĩ, dè chừng cơ thể không cho nó vô ư thức
mà phải học cách đi theo cái trí một cách không phấn đấu, không cố gắng th́
bạn ắt không c̣n lơ đễnh sơ suất nữa. Dĩ nhiên có nhiều lời thệ nguyện
nghiêm túc hơn những lời thệ nguyện của cư sĩ về việc kiên khem một cách
nghiêm chỉnh và khắc khe, mọi chi tiết đều được tŕnh bày kỹ lưỡng qua các
qui tắc trong kinh sách. Nhưng tôi đang nói với các bạn một điều không dễ ǵ
t́m thấy trong sách vở, theo chỗ tôi biết và tôi thấy điều này dường như
mang tính đặc trưng và hữu dụng. Tôi xin nói thêm rằng khi các bạn gặp tín
đồ Kỳ Na th́ các bạn ắt thấy theo thông lệ họ có những đức tính đáng mong
đợi do sự rèn luyện này: tịch lặng, tự chủ, đàng hoàng, khá kín miệng, khá
dè dặt [[3]].
Bây
giờ ta chuyển từ bậc cư sĩ sang bậc tu sĩ khổ hạnh Yati. Giới luật của họ
rất nghiêm. Nhiều phép kiên khem được thực hiện đến mức phi thường cũng
giống như việc kiên khem của các tu sĩ khổ hạnh cao cả trong Ấn giáo. Trong
giáo phái Svetāmbaras có cả nam và nữ tu sĩ khổ hạnh; c̣n trong giáo phái
Digambaras không có nữ tu sĩ khổ hạnh và quan niệm của họ về phụ nữ xét
chung có lẽ cũng chẳng đáng khen lắm. Tuy nhiên trong giáo phái Svetāmbaras
có cả nam lẫn nữ tu sĩ khổ hạnh với những giới luật nghiêm mật về khất thực
và xả bỏ tài sản; nhưng có một qui tắc rất minh triết là tu sĩ khổ hạnh
không được xả bỏ điều ǵ nếu điều ấy không gây cản trở cho sự tiến bộ. V́
vậy, y không được xả bỏ thân xác, y phải khất thực đủ để nuôi thân bởi v́ y
chỉ có thể được giải thoát trong thân xác con người. Y không được xả bỏ Sư
phụ v́ không có giáo huấn của Sư phụ th́ y không thể bước trên trung đạo
mỏng như lưỡi dao cạo vậy; y cũng không được xả bỏ giới luật v́ nếu xả bỏ
giới luật th́ y không tiến bộ được; y cũng không được xả bỏ nghiên cứu Kinh
điển v́ điều ấy cũng cần thiết cho sự tiến hóa của y. Nhưng ngoài bốn điều
ấy ra: cơ thể, Sư phụ, giới luật, nghiên cứu Kinh điển – chẳng có điều ǵ mà
y có thể bảo rằng: “Nó là của tôi”. Một bậc đạo sư có dạy: “Nếu không ai yêu
cầu th́ y không nên thuyết pháp, c̣n nếu người ta thắc mắc th́ y không được
nói dối, y không được buông thả, giận dữ mà phải nhẫn nhục, thanh thản trong
mọi hoàn cảnh dễ chịu và khó chịu. Y phải chế ngự bản ngă rồi th́ y sẽ được
hạnh phúc trên đời này và bên kia cửa tử” [[4]].
Bậc nữ tu khổ hạnh cũng tuân theo giới luật nghiêm mật ấy
c̣n có một bổn phận mà tôi thấy dường như đă được dự pḥng minh triết nhất;
người nữ tu khổ hạnh có bổn phận phải đến thăm viếng mọi người nội trợ theo
Kỳ Na giáo để xem các phụ nữ Kỳ Na là những người vợ và con gái có được giáo
dục dạy dỗ đúng đắn không. Người ta rất chú trọng tới việc giáo dục phụ nữ
và một công tŕnh vĩ đại của bậc nữ tu khổ hạnh là giáo dục và giám sát việc
giáo dục. Đây là một điều mà tôi thiết tưởng tín đồ Ấn giáo rất nên vay mượn
của Kỳ Na giáo để cho phụ nữ Ấn giáo có thể được dạy dỗ mà vẫn không đánh
mất tín ngưỡng theo tục truyền của ḿnh hoặc phải bị sự can thiệp khó chịu
vào tôn giáo của chính ḿnh nhờ được các vị tu sĩ khổ hạnh theo tín ngưỡng
của chính ḿnh dạy dỗ. Chắc chắn là không có thiên chức nào cao quí hơn thế
và chắc chắn điều này sẽ thuận lợi cho Ấn giáo.
Thế rồi bậc tu sĩ khổ hạnh sẽ chết ra sao? Chết bằng cách
tuyệt thực. Y không đợi cho tới khi thần chết rớ tới ḿnh mà khi y đạt tới
mức không tiến bộ thêm nữa trong thể xác này, khi y đă tới giới hạn ấy của
thể xác th́ y bèn dẹp nó sang một bên, tự nguyện tuyệt thực để sang bên kia
cửa tử.
Đây là một bài tường tŕnh ngắn gọn và bất toàn xiết bao
về một tôn giáo cao cả, về một tín ngưỡng vĩ đại mà ta có thể nói hầu như
đồng nhất với Ấn giáo về mọi mặt; nhất là trong trường hợp ở Bắc Ấn Độ th́
tín đồ Kỳ Na giáo và giai cấp Vaishya trong Ấn giáo kết hôn lẫn nhau và cùng
ăn uống với nhau. Họ không coi nhau là thuộc các tôn giáo khác và trong các
trường Ấn giáo ta thấy học sinh Kỳ Na, học sinh nội trú Kỳ Na sống với huynh
đệ Ấn giáo; vậy là từ khi c̣n tấm bé, điều này góp phần kết chặt t́nh thân
của t́nh thương và t́nh huynh đệ. Hôm qua tôi có nói với các bạn về việc
kiến thiết quốc gia và ở đây xin nhắc lại với các bạn Ấn Độ rằng ta phải
kiến thiết quốc gia với những người thuộc nhiều tín ngưỡng khác nhau. Đối
với tín đồ Kỳ Na th́ không có khó khăn ǵ ngoại trừ sự ngu tín mà ta thấy có
trong đám người thất học nhất thuộc mọi tín ngưỡng; bổn phận của những người
minh triết hơn, biết suy nghĩ hơn, xứng danh tôn giáo hơn, có tính linh
nhiều hơn là phải dần dần bớt đi sự ngu tín. Mong sao mọi người thuộc mọi
tín ngưỡng đều dạy cho kẻ vô minh biết thương yêu chứ đừng thù ghét. Mong
sao y hăy nhấn mạnh tới những điều đoàn kết chúng ta lại chứ không chú trọng
tới những điều chia rẽ chúng ta. Mong sao mọi người trong sinh hoạt thường
nhật đừng bao giờ nói ra những lời cộc cằn đối với bất kỳ tín ngưỡng nào
khác, mà nói lên những lời yêu thương đối với mọi tín ngưỡng. Đó là v́ khi
làm như vậy, ta chẳng những phụng sự Thượng Đế mà c̣n phục vụ con người; ta
chẳng những phục vụ tôn giáo mà c̣n phục vụ Ấn Độ, là quê hương chung của
mọi người; tất cả đều là người Ấn, đều là con của Ấn Độ, tất cả đều phải có
chỗ đứng trong nước Ấn Độ tương lai. Vậy th́ hỡi các huynh đệ, ta hăy phấn
đấu làm tṛn phần việc của ḿnh trong sự kiến thiết cho dẫu chỉ là góp một
viên gạch nhỏ yêu thương vào ṭa nhà đồ sộ là T́nh Huynh Đệ; mong sao không
người nào mệnh danh là Thông Thiên Học giả (kẻ yêu chân lư Minh triết Thiêng
liêng) lại dám thốt ra một lời cộc cằn đối với một tín ngưỡng mà Thượng Đế
đă dành cho con người, v́ chúng ta đều từ Ngài mà ra và tất cả chúng ta lại
trở về với Ngài th́ hơi đâu mà chúng ta căi cọ với nhau một cách t́nh cờ?
------------------------
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES