|
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES
|
KI TÔ GIÁO (Một
bài thuyết tŕnh trước đại hội)
Tác giả: ANNIE BESANT Bản Dịch: Chơn Như 2008 |
|
THƯA CÁC HUYNH ĐỆ
Sáng nay khi đề cập tới đề tài Ki Tô giáo, có một vài khó khăn đặc biệt mà chúng ta không phải đương đầu khi nói về ba tôn giáo lớn khác đă được bàn tới trong ba buổi sáng vừa qua. Những khó khăn đặc biệt này xuất lộ từ một vài nguyên nhân riêng biệt. Trước tiên là có một sự mơ hồ lịch sử nào đó ảnh hưởng tới nguồn gốc của nó do những sự đấu tranh mà nó phải trải qua vào thời kỳ sơ khai, lúc mà người ta không giữ cẩn thận các sử liệu và khi một khối lượng khổng lồ các tài liệu giả mạo tá danh thánh thư được nêu ra, trước hết được chấp nhận một cách mù quáng nhiên hậu mới dần dần được sàng lọc. Sự mơ hồ không đáng kể lắm v́ nó có thể nhanh chóng bị xua tan theo sự minh giải của kiến thức huyền bí; nhưng nếu ta thực hiện điều này th́ nhiều Ki Tô hữu thời nay ắt cảm thấy cay đắng nặng nề dường như thể những điều cốt yếu trong tín ngưỡng của ḿnh đang bị đả kích. Khó khăn lớn kế tiếp của chúng ta là sự khác nhau ghê gớm – hoặc nói cho đúng hơn những sự khác nhau ghê gớm – vốn chia rẽ các Ki tô hữu với nhau sao cho việc người ta có thể đi theo bất cứ con đường nào chăng nữa th́ rất có thể gặp phải một số phát biểu trong Ki Tô giáo bị thuyết giải một cách sai lạc bởi v́ người ta không xét nó theo đường lối đặc biệt. Đó là v́ chúng ta có Giáo hội Chính thống Hi Lạp và Giáo hội Công giáo La Mă, bao gồm đại đa số công chúng theo Ki Tô giáo; thế rồi chúng ta lại có một số rất lớn các giáo hội và giáo phái khác nhau được xếp loại theo tên gọi Tin Lành – một tên gọi thật là vụng về v́ nó chẳng khẳng định được điều ǵ mà chỉ tuyên bố sự chống đối các ư kiến của những Ki Tô hữu khác chủ trương. V́ thế cho nên trong cả ba phân bộ này (tôi tạm thời gọi chúng như vậy), ta thấy có một số lớn những sự mâu thuẫn nghiêm trọng, môn sinh muốn tŕnh bày một cách công tâm và tuyệt nhiên không bị xuyên tạc ắt thấy ḿnh ở trong một ḍng xoáy những phát biểu mâu thuẫn lẫn nhau, việc chấp nhận bất cứ phát biểu nào ắt khiến y xung đột với những phát biểu khác. Bên ngoài Thánh kinh và Tín điều của các Tông đồ, chẳng có điều ǵ được toàn thế giới Ki Tô hữu coi là việc tŕnh bày công tâm về giáo lư Ki Tô và có đầy dẫy sự tranh căi về ư nghĩa của chúng. Mọi giáo phái của thế giới Ki Tô hữu đều quan trọng hóa đặc biệt h́nh thức đức tin trí thức, điều này gây ra sự tranh luận cay đắng mà các tín ngưỡng khác chưa hề biết tới, tin tưởng chính xác là một điều kiện khắc khe để trở nên thành viên trong hầu hết các giáo hội thay v́ là việc tuân theo bất cứ qui tắc hành xử nào.
Ở đây tôi xin đề nghị làm theo như tôi thực hiện liên quan đến những tôn giáo khác – ta hăy xét các Thánh kinh, các Thánh kinh đă được chấp nhận của trọn cả tôn giáo và tŕnh bày của tôi là dựa vào các Thánh kinh ấy. Tôi sẽ sử dụng thêm nữa các tài liệu của Giáo hội thời sơ khai, cái gọi là giáo huấn của các “Đức Cha trong Giáo hội” soi sáng cho các Thánh kinh; thế rồi theo sự minh giải của huyền bí học, tôi sẽ cố gắng tháo gỡ những ǵ cốt yếu ra khỏi những điều không cốt yếu, tháo gỡ điều có thực và đúng thật ra khỏi những điều thêm thắt đă được dậm mắm thêm muối vào nó v́ thiếu kiến thức và rất thường khi là do nhu cầu cấp bách của những cuộc tranh căi. Vẫn c̣n một khó khăn lớn khác và đây là một điều có liên quan tới xúc cảm hơn là tới trí năng. Trong số các tôn giáo trên thế giới chỉ có Ki Tô giáo tự cho ḿnh là độc nhất vô nhị; mọi tôn giáo khác đều có được thẩm quyền đối với các tín đồ của riêng ḿnh và có thể nói là ở trong khuôn viên của ḿnh, công nhận giá trị của các tôn giáo khác và theo thông lệ giữ một lập trường trung lập đầy hảo ư đối với các tôn giáo khác chứ không tích cực chống đối. Nhưng đối với Ki Tô giáo th́ trường hợp này không phải như vậy. Ki Tô giáo tự cho ḿnh là sự khải huyền duy nhất, là tiếng nói duy nhất của Đức Chúa Trời đối với con người. Nó không cho phép tôn giáo cạnh tranh với nó trên diễn đàn; nó không thừa nhận bất cứ người anh em nào vào khuôn viên trong nhà của ḿnh; nó đứng một ḿnh không ai có thể tiếp cận được, xếp loại mọi tôn giáo khác trên thế giới đều là sai lầm, đôi khi với tên gọi khinh bỉ là Ngoại đạo, đôi khi th́ lịch sự hơn nhưng vẫn c̣n cái óc độc quyền ấy. Cố nhiên điều này khơi dậy những cảm xúc giận dữ ở cả phía này lẫn phía kia. Nhà tuyên truyền cho Ki Tô giáo nhấn mạnh tới giá trị tối cao trong đức tin của chính ḿnh và giá trị thấp kém của những đức tin khác; trong khi đó mặt khác các thành viên của những tín ngưỡng khác bất b́nh với việc Ki Tô giáo tự cho ḿnh là ưu việt, bèn cảm thấy có khuynh hướng chống đối lại Ki Tô giáo mà họ không cảm thấy giống như đối với các đức tin không phải là phái bộ truyền giáo trên thế giới. Nhất là ở trong một xứ như xứ này th́ những người không thuộc về Ki Tô giáo đều hiểu điều mà tôi không có cách nào gọi khác hơn là khía cạnh tồi tệ nhất của nó, khía cạnh đối lập của nó mà rủi thay rất thường có kèm theo bởi sự ma lỵ và xúc phạm đối với các tôn giáo xưa hơn. Điều này khiến cho bạn rất khó ḷng thông cảm hiểu được tôn giáo thực chất là ǵ v́ bạn đă quan sát nó với một khía cạnh bất lợi nhất dựa vào khía cạnh hiếu chiến hơn là dựa vào khía cạnh thực sự mang tính tôn giáo. Do đó sáng nay tôi xin yêu cầu bạn tạm thời hăy vứt bỏ ra khỏi tâm trí ḿnh mọi điều xúc phạm tới tôn giáo của bạn, mọi điều có thể khơi dậy nơi bạn những xúc cảm đối lập và xem xét tôn giáo này giống như khi bạn dễ dàng xem xét các tôn giáo khác, coi đó là một cách thức mà Đấng Tối Cao đang rèn luyện một số lớn gia đ́nh nhân loại của ḿnh, là một tôn giáo mang lại sự trợ giúp, tiện nghi và giáo huấn tâm linh cho hàng triệu người trong nhân loại. Nếu nó gây đau khổ (nó thường gây đau khổ như vậy) do sự thiếu minh triết của các đại biểu hiếu chiến th́ hăy cố gắng quên nó đi và hăy nh́n vào tôn giáo coi nó là một tôn giáo chứ không phải là một tác nhân tân ṭng hóa.
Với lời nói đầu như vậy (trong xứ này đây là sự dẫn nhập cần thiết) tôi muốn chinh phục cảm t́nh về vấn đề này v́ nó là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới – ta hăy xem xét những người có thẩm quyền và hăy xem ta phải bàn tới nó ra sao khi nghiên cứu về tôn giáo, liệu ta có thể hiểu được môi trường xung quanh bao xa mà nó dần dần tăng trưởng trong đó, v́ nếu không nghiên cứu môi trường ấy th́ ta sẽ chẳng bao giờ hiểu được cách tŕnh bày sau này của các giáo lư và ta sẽ chẳng bao giờ nhận ra được cách thức tăng trưởng của nó.
Trước hết ta có một vài “sách giáo luật” mà mọi phân bộ Giáo hội Ki Tô đều chấp nhận như nhau v́ tuyệt nhiên không có sự thách đố của các Giáo hội Hi Lạp, Công giáo La Mă hoặc Giáo hội Tin Lành. Tất cả đều được chấp nhận như nhau mà không thắc mắc ǵ; một vài quyển sách được gom góp lại với tên gọi Cựu Ước và Tân Ước, cùng nhau hợp thành Kinh Thánh tức là những quyển sách bao hàm sự khải huyền thiêng liêng, bất cứ điều ǵ trái với nó đều được coi là ngoại đạo. Kinh Cựu Ước, phân bộ cổ truyền hơn của các Kinh điển giáo luật này, bao gồm một số lớn những quyển sách khác nhau, nhiều quyển mang tính lịch sử được tiếp thu từ quốc gia Do Thái giáo hoặc Hebrew. Tác phẩm của họ trải rộng qua một thời gian dài và sự nối tiếp những quyển sách này được đánh dấu bởi một sự tăng trưởng rất rơ rệt từ một t́nh trạng tương đối dă man, trong khi mà tôn giáo lại hẹp ḥi, đầy những sự hiến tế có tính cách đặc biệt khát máu; măi cho tới những thời kỳ sau này khi dân tộc Hebrew phần lớn đă tiếp xúc với những nền văn minh khác (đặc biệt là với những nền văn minh bị thống trị bởi tôn giáo Zoroaster) tiếp thu vào tín ngưỡng của chính ḿnh một quan niệm cao cả hơn và rộng lớn hơn về Đấng Thiêng Liêng mà ta thấy được tŕnh bày trong những tác phẩm tiên tri. Những tác phẩm này bao gồm một số đoạn cao cả nhất nói về bản chất của Thượng Đế cũng như về tính công chính mà Thượng Đế đ̣i hỏi nơi con người. Bây giờ tôi đề cập tới những thứ này một cách chi tiết hơn, nhưng trước hết sẽ kết thúc vấn đề về những thẩm quyền. Trong kinh Cựu Ước, ta có những Thánh vịnh vốn là những thánh ca có bản chất khá giống những thánh ca mà ta thấy trong các tôn giáo khác, giống như thánh ca trong kinh Phệ đà hoặc Gāthās trong Bái hỏa giáo. Một số thánh ca được đánh dấu bởi tinh thần cao cả nhất và cao siêu nhất, một số thánh ca thuộc về giai đoạn sơ khai hơn, có tính cách cực kỳ hiếu chiến và tuyệt nhiên không luôn luôn rất tốt hoặc rất cao siêu về mặt đạo đức. Thế rồi ta xét tới những tài liệu bao gồm bên dưới tựa đề Tân Ước. Kinh này gồm bốn Phúc âm, bao hàm cuộc đời của người sáng lập ra tôn giáo ấy, tường tŕnh về Giáo hội sơ khai, một số thánh thư mà các tín đồ viết cho các giáo phái khác thuộc Giáo hội ấu thơ và một quyển sách tiên tri. Trong bản thân các Phúc âm có tương đối ít giáo lư; ta có thể suy diễn ra một vài giáo lư từ đó nhưng có ít phát biểu có thẩm quyền; đúng hơn là ta thấy có một số lớn các huấn điều về luân lư, một số lớn các giáo huấn của Đấng Ki Tô mang tính cách luân lư nhiều hơn triết học; thế rồi trong các thánh thư có chứa đựng hầu hết các phát biểu giáo điều phác họa các giáo lư về đức tin. Bên ngoài các giáo luật này được tuyển lựa ra từ một đống tài liệu xét về mặt kinh Tân Ước, ta có cái gọi là các Kinh điển ngụy tác. Kinh điển ngụy tác của tín đồ Do Thái giáo là những tác phẩm đặc biệt đáng chú ư, một trong những sách đó là Sách Minh Triết, là một tài liệu cực kỳ hay ho và bộc lộ rất nhiều tính linh. Những sách này thường được tín đồ Công giáo La Mă chấp nhận hoàn toàn hơn là các Giáo hội Tin Lành. Trong các thánh kinh Công giáo La Mă, chúng thường bị ràng buộc giữa kinh Cựu Ước và Tân Ước, trong khi đại đa số các kinh thánh của Tin Lành th́ chúng bị loại bỏ, coi là không phải giáo luật. Kế đó chúng ta có một khối kinh ngụy tác liên quan tới Giáo hội thời sơ khai, các Phúc âm của Mary, của Peter, của James v. v. . . – những câu chuyện về thời Thơ ấu của Chúa Giê su, câu chuyện về sinh hoạt sau này của Ngài, câu chuyện Ngài giáng xuống địa ngục, làm việc trong thế giới vô h́nh – một khối những tài liệu, rất nhiều tài liệu cực kỳ thú vị cho thấy tài liệu của Ki Tô giáo nguyên thủy thú vị và mang đầy tính giáo huấn đối với học viên, cần được nghiên cứu nếu y muốn biết điều mà tôi có thể gọi là môi trường xung quanh trí thức của Giáo hội thời sơ khai. Những thứ này không bao giờ được xếp chung với tác phẩm được gọi là Kinh thánh; chúng tạo thành một kho tài liệu văn chương lớn, một số rất lớn tài liệu mà môn sinh phải đọc được nếu y muốn biết chút ít về Ki Tô giáo thời sơ khai. Cuối cùng th́ chúng ta có một kho tài liệu bao la của các Đức Cha, của các Giám mục, của các bậc đạo sư trong Giáo hội thời sơ khai; đặc biệt lướt qua phần cuối cùng từ thế kỷ thứ 2 sang thế kỷ thứ 3, thứ 4 và thứ 5 – một lần nữa đây là một khối lượng tài liệu đồ sộ, nếu ai không biết tới chúng th́ y không đủ thẩm quyền để nêu ra ư kiến về giáo lư Ki Tô, y cũng chẳng thể tự cho ḿnh là một bậc đạo sư hoặc người xiển dương Ki Tô giáo. Kho tài liệu này được những người có học thức nhất viết ra, những người mà Giáo hội sau này đă từng phong thánh cho nhiều vị, chẳng hạn như thánh Clement ở Alexandria, thánh Irenaeus và nhiều thánh khác. Đây là những tài liệu có giá trị đồ sộ nhằm t́m hiểu sự tăng trưởng của Ki Tô giáo, và nó phần lớn là do sự cẩu thả cực độ của Giáo hội Tin Lành đối với chúng. Do sự vô minh dày đặc trong nội dung của chúng mà theo thông lệ ta thấy trong đám giáo sĩ Tin Lành ít học; đến nỗi Ki Tô giáo thường được tŕnh bày theo một khía cạnh thô thiển, hẹp ḥi và phản triết học, đến nỗi nhiều người có học thức bác bỏ nó v́ nó dường như phi lư đối với họ. Nếu các Giáo hội Tin Lành nghiên cứu kho tài liệu này (tín đồ Công giáo La Mă chắc chắn là như vậy) th́ họ ắt có nhiều ảnh hưởng hơn hiện nay đối với tầng lớp trí thức có văn hóa ở Âu Tây, v́ trong tài liệu này ta có cơ sở triết học và siêu h́nh học của Ki Tô giáo. Thế nhưng bạn vượt ra ngoài phạm vi Giáo hội Anh quốc th́ bạn liệu biết t́m đâu ra nhiều giáo sĩ Tin Lành có học hoàn toàn thông thạo về những tài liệu này? Nếu bạn xâm nhập vào các Giáo hội ly khai th́ bạn rất hiếm khi gặp được một tu sĩ nghiên cứu chúng theo bất cứ cách nào; thế là bạn gặp một lớp người đặc biệt cứ nhắc lại phát biểu cho rằng “Thánh kinh và chỉ Thánh kinh thôi mới là tôn giáo của Tin Lành”. Kết quả của điều này là một dạng phản triết học nhất trong Ki Tô giáo, làm cho tâm trí của một số ít người biết suy tư mang tính trí thức và triết học hoàn toàn không tin cậy vào nó. Đối với truyền thuyết truyền khẩu – v́ trong bốn Phúc âm bạn thấy phần lớn là truyền thuyết truyền khẩu bao hàm cuộc đời của nhà Sáng lập – những truyền thuyết này được chọn lựa khá trễ vào thế kỷ thứ 2, được tập hợp lại dưới tên gọi của bốn trong số các đại Tông đồ của Giáo hội. Ta thấy rơ chúng được tuyển lựa từ nhiều tài liệu khác qua lời nói đầu của Phúc âm thứ ba, trong đó tác giả bắt đầu bằng cách nói rằng: “Đó là v́ người ta đă đảm nhiệm việc tŕnh bày có trật tự lời tuyên bố về những điều mà chắc chắn là chúng ta tin nhất, ngay cả khi chúng được trao truyền cho chúng ta, thoạt kỳ thủy là những người chứng kiến tận mắt và những tu sĩ đối với linh từ; tôi dường như cũng thấy hạnh phúc khi hoàn toàn thấu hiểu được mọi chuyện ngay từ đầu để viết cho bạn một cách mạch lạc” [“Thê-ô-phi-lơ quí nhơn ơi v́ chưng đă có nhiều người cầm bút chép chuyện về những việc đă hoàn toàn thành tựu giữa chúng ta, theo như những kẻ từ ban đầu đă làm người chứng kiến và thừa sai của đạo từng truyền lại cho chúng ta; nên sau khi ḍ xét đúng đắn từ đầu mọi sự, th́ tôi cũng tưởng lấy làm tốt mà theo thứ tự viết cho ông đây, để ông biết những điều ông thọ giáo là xác thực.]; tác giả đă viết như vậy trong Phúc âm. Thế mà đây là một điều quan trọng, nó chỉ đường cho bạn những bài tường thuật này được viết ra sao. Trước hết câu chuyện được truyền khẩu. Trong Ki Tô giáo, cũng như trong mọi tôn giáo khác, có một khối lớn truyền thuyết truyền khẩu, được truyền từ miệng này sang miệng kia chứ không được viết ra. Nhiều giáo huấn thiêng liêng chưa bao giờ được viết ra như ta sẽ thấy theo sự chứng nhận của một số Đức Cha trong Giáo hội; tín điều mà mọi Ki Tô hữu được dạy bảo phải được nhắc lại chứ không được viết ra, chỉ được dạy dỗ qua truyền khẩu, được dùng làm một dấu hiệu để nhận ra một địa vị nào đó trong Giáo hội. Thời kỳ giáo huấn truyền khẩu này vô cùng quan trọng và sự tồn tại của nó được chứng minh thêm nữa do trích dẫn của những phát biểu của Chúa Giê su được tŕnh bày qua các Đức Cha thời sơ khai nhất thông qua những người như Justin, Martyr, Ignatius, là Người chăn chiên ở Hermas và những người khác, họ trích dẫn lời nói của Chúa, gồm những câu mà ta không t́m thấy trong Phúc âm giáo luật nhưng lại t́m thấy trong cái gọi là kinh ngụy tác. Phần giáo luật là những tuyển lựa từ một truyền thuyết rộng lớn hơn được kết tập lại vào một thời kỳ sau này. Ta ắt phải xét tới Clement ở Alexandria, một trong những vị cha vĩ đại nhất của Giáo hội, xét tới Tertullian, tới Origen, họ đă để lại những tác phẩm đồ sộ giúp cho ta thấy tỉ mỉ t́nh trạng của Giáo hội vào lúc đương thời và chúng ta sẽ tùy thuộc vào những thứ này để xác lập một vài lập trường căn bản, nếu không có chúng bạn sẽ đối xử bất công với Ki Tô giáo giống như ngày nay biết bao tín đồ của nó lại đối xử bất công với nó.
Trước hết trong những lập trường sơ bộ này có việc phân
chia giáo huấn Ki Tô giáo ra thành hai phần: phần được khải huyền và phần
không được khải huyền; giáo lư công truyền và giáo lư bí truyền. Cách phân
chia này tồn tại trong đám dân Hebrew. Họ ảnh hưởng rất nhiều tới truyền
thuyềt sơ khai của Ki Tô giáo, và họ có một hệ thống bí mật mà ta biết với
tên gọi là Kinh Kabalah. Giờ đây tôi sẽ không nói tới nó mặc dù nó cũng được
biết bởi môn sinh Ki Tô giáo tha thiết nhất. Nhưng tôi muốn bạn chú ư tới
một vài phát biểu của Đấng Ki Tô với các Tông đồ và những bậc đạo sư thời sơ
khai; chúng chứng tỏ một cách hoàn toàn không thể chối căi được sự tồn tại
của giáo huấn ẩn tàng tức bí truyền; sự thất truyền của giáo huấn này trong
một vài bộ phận của Giáo hội giải thích phần lớn được những phát biểu thô
thiển mà giờ đây ta nghe nói tới về Đức Thượng Đế và linh hồn con người.
Trước hết ta hăy xét một hoặc hai phát biểu của chính Đấng Ki Tô về cách
thức giáo huấn của chính Ngài. Ta thấy nổi bật lên trên đó lời tuyên bố của
Ngài đối với các thánh Tông đồ: “Ta ban cho con biết được điều bí nhiệm của
thiên giới: nhưng đối với họ th́ nó ở bên ngoài, c̣n tất cả những điều này
đều được thực hiện trong các dụ ngôn”
[1] [Đă ban cho
các ngươi sự mầu nhiệm của nước Đức Chúa Trời, c̣n đối với người ngoài th́
dạy mọi sự bằng thí dụ, hầu cho họ xem th́ thấy mà không nhận biết, lắng th́
nghe mà không hiểu]. Origen b́nh luận về lời tuyên bố này của Đấng Ki
Tô như sau: “Tôi chưa nói tới việc tuân thủ tất cả những ǵ được viết ra
trong Phúc âm; mỗi một Phúc âm đều bao hàm nhiều giáo lư khó hiểu chẳng
những đối với đại chúng mà c̣n ngay cả đối với một vài người thông minh hơn,
bao gồm một lời giải thích rất sâu xa về những dụ ngôn mà Chúa Giê su dành
cho “những người bên ngoài”, trong khi Ngài dành việc tŕnh bày trọn vẹn ư
nghĩa của chúng cho những người đă vượt quá giai đoạn giáo huấn công truyền
và họ đến với Ngài một cách riêng tư trong nhà. Và khi đạt đến mức hiểu được
nó th́ y mới chịu thần phục cái lư do tại sao một số người nghe nói là ở
“bên ngoài” c̣n những người khác “ở trong nhà”
[2]. Thế là Origen đă vạch ra một sự phân
biệt giữa những người ở bên ngoài, những người không có học, không biết chữ,
quần chúng; họ chỉ được dạy phần căn bản sự thật dựa vào các dụ ngôn; c̣n
những người ở trong nhà, các tông đồ và đệ tử mà Ngôi Lời của Thượng Đế đă
được khải huyền trọn vẹn, người ta không tŕnh bày các điều bí nhiệm của
thiên giới cho thế giới bên ngoài. Thế rồi ta lại thấy Chúa Giê su nói với
các môn đồ những lời lẽ khiến cho ta không thể hiểu lầm: “Đừng quẳng điều ǵ
linh thiêng cho lũ chó, đừng ném chuỗi ngọc trai cho lũ heo kẻo chúng dùng
chân dẫm đạp lên chuỗi ngọc trai ấy”
[3][Đừng bỏ vật
thánh cho chó, cũng đừng quăng ngọc châu ḿnh cho heo, kẻo nó giày đạp, rồi
quay lại cắn xé các ngươi]. Ta biết ư nghĩa của từ ngữ “chó” chẳng
những do việc các sử gia Do Thái sử dụng mà do chính Chúa Giê su thốt ra
nữa. Từ ngữ này được dùng để miêu tả mọi quốc gia không có mầm mống của
Abraham. Và ta thấy rằng khi một phụ nữ Syro-Phoenicia đến với Chúa Giê su
khẩn cầu Ngài vận dụng quyền năng phép lạ, th́ câu trả lời đầu tiên của Ngài
là: “Điều này không có nghĩa là lấy bánh ḿ của con trẻ để quẳng nó cho lũ
chó”. Bà ngoan ngoăn chấp nhận danh hiệu này và trả lời: “Thế nhưng lũ chó
lại ăn mẩu vụn của bánh ḿ rơi rớt từ bên bàn ăn của chủ”
[4] [Không lẽ
lấy bánh của con cái mà quăng cho chó nhỏ] [Dầu vậy chó nhỏ cũng được ăn
những miếng vụn trên bàn chủ rơi xuống]. Điều này khiến cho ư nghĩa
của từ ngữ “chó” tuyệt nhiên không đáng tranh căi, nó có nghĩa là những
người không ở trong giới hạn của Thiên giới. Vậy là các Đức Cha thời sơ khai
hiểu được ư nghĩa và tuân theo nó. Họ cũng dùng chính cái chính sách ấy.
Clement ở
Ít ra th́ một phần trong giáo huấn này có liên quan tới ư nghĩa chân thực của các Thánh kinh vốn tuyệt nhiên được chấp nhận chỉ là những tài liệu lịch sử và luân lư giống như ngày nay. Origen giải thích – và phát biểu của ông đặc biệt có giá trị, v́ chính Socrate cũng khẳng định rằng ông là “người xiển dương truyền thống thần bí của Giáo hội” [19]. Ông khẳng định rằng Thánh kinh có ba ư nghĩa: “ư nghĩa “xác thịt” cho người phàm, ư nghĩa “phần hồn” cho người có giáo dục hơn, ư nghĩa “tinh thần” cho kẻ hoàn hảo và ông đă trích dẫn những lời của Thánh Paul mà ta có nhắc tới về “minh triết của Đức Chúa Trời trong một điều bí nhiệm”. Các câu chuyện là dành cho “xác thịt” và rất hữu ích cho kẻ đơn giản và dốt nát, nhưng người ta thường du nhập những điều phi lư để chứng tỏ rằng có một ư nghĩa ẩn tàng và các phúc âm “không bao hàm suốt cả một lịch sử thuần túy các diễn biến quả thật đan bện vào nhau, theo bức thư này – nhưng không thực sự xảy ra”. “Bản thân các phúc âm đầy dẫy cùng một loại câu chuyện nghĩa là ma quỉ đưa Giê su lên tới núi cao . . . và bạn đọc chú ư có thể nhận thấy trong phúc âm vô số những đoạn khác giống như vậy, sao cho y ắt tin chắc rằng trong những câu chuyện được ghi lại theo sát nghĩa th́ người ta đă xen vào những hoàn cảnh không đáng xảy ra” [20]. Đủ thứ các Đức Cha đă nêu ra một số những lời bóng gió về phương pháp thuyết giải thánh kinh của ḿnh, hiển nhiên là một hệ thống rất hoàn chỉnh vẫn hiện hữu, ít ra th́ một trong những bí quyết là con số. Nhưng chúng tôi không có đủ thời giờ để đi theo cái lối ṃn hấp dẫn này.
Xét theo mục đích của ḿnh, ta chỉ cần chứng tỏ rằng cũng giống như các tôn giáo lớn khác, Ki Tô giáo có giáo huấn bí mật hạn chế cho thiểu số. Giáo lư này phần lớn đă bị thất truyền trong trận lụt vô minh quét qua Âu châu sau khi đế quốc La Mă suy sụp và sự thuyết giải thô thiển tức giáo huấn dành cho đại chúng bèn thay thế cho những sự thật tâm linh mà chỉ một số ít người biết tới. Một vài mảnh vụn vẫn sống c̣n trong tầm kiểm soát của các Giáo hội Hi Lạp và La Tinh; những biểu tượng và nghi thức vẫn c̣n nói tới sự hiện diện nguyên thủy của chúng, nhưng với vai tṛ là một giáo huấn theo hệ thống th́ chúng đă biến mất bỏ lại Ki Tô giáo bị cắt xén hết sức mạnh của ḿnh. Giờ đây người Tin Lành rất thường ưa kết án giáo huấn trừ phi đó là loại giáo huấn mà kẻ dốt nát nhất, thất học nhất và ấu trĩ nhất có thể hiểu được; và kết quả của chính sách này nơi các xứ Tin Lành chính là trong khi các Giáo hội kiểm soát được người dốt nát th́ họ không kiểm soát được những người có học hơn; đó là v́ sự tŕnh bày về Thượng Đế và Thiên nhiên thỏa măn được tâm trí của đứa trẻ, thỏa măn được đầu óc của người hoàn toàn thiếu văn hóa và thiếu triết lư, bao giờ ắt cũng là một sự biểu diễn làm cho tâm trí triết gia phải dội lại, những năng lực rộng lớn và sâu sắc hơn đ̣i hỏi một điều ǵ đó nhiều hơn mức thỏa măn được những năng lực đang lố dạng của điều khác nữa. Bằng cách này Ki Tô giáo trở nên suy yếu đí, bằng cách này sự đa nghi đă phát triển rộng răi và ta thấy con người vứt bỏ trọn cả Ki Tô giáo bởi v́ việc tŕnh bày chúng hoàn toàn không đáng cho giới trí thức lĩnh hội và bởi v́ nó mâu thuẫn với những sự kiện rành rành nhất của khoa học.
Giờ đây ta hăy vội vă truy nguyên sự tiến hóa tôn giáo
của quốc gia Hebrew để cho ta có thể hiểu được địa vị của Đấng khai sáng ra
Ki Tô giáo, quan niệm về Đức Chúa Trời thịnh hành trong thời của Ngài cũng
như những sự thay đổi mà quan niệm ấy đă trải qua. Trong những quyển sách
xưa cũ nhất của Thánh kinh Hebrew, chúng ta có một quan niệm rất hạn hẹp về
Thượng Đế và cho dù chúng có thể là sự thật đối với chư Thần linh hạ đẳng,
tương đối hẹp ḥi về cá tính và hạn chế về quyền năng (mọi vị thần linh hạ
đẳng đều tất nhiên phải như thế) th́ một số ư tưởng này lại cực kỳ mang tính
cách mạng khi chúng được áp dụng cho Đấng Thiêng liêng Tối cao và được tŕnh
bày là những sự mô tả về Thượng Đế duy nhất, Ngôi Lời Tối Cao, Ngài chủ tŕ
vũ trụ, mang lại sự sống và cấp dưỡng cho muôn loài. Nhân tiện tôi chỉ cần
nhắc lại cho bạn nhớ tới nhiều phát biểu chẳng hạn như cách thức mà vị đại
biểu hạn hẹp này của đấng thiêng liêng có thể giáng xuống để dạo chơi trong
vườn Địa đàng, giáng xuống để làm đảo lộn những kẻ xây tháp Babel v. v . . .
v́ bạn ắt nhận ra ngay tức khắc rằng ḿnh đang giáp mặt với những thực thể
thiêng liêng hạ đẳng chứ không phải với Ngôi Lời. Nhưng ta hăy chuyển sang
từ ngữ những thực thể này với mọi sự hiến tế đẫm máu bao quanh chúng và xét
tới những quan niệm cao cả hơn của các nhà tiên tri vốn uốn nắn những quan
điểm sau này được chọn theo trong Giáo hội Ki Tô. Ở đây ta thấy một ư tưởng
về Thượng Đế vốn có tính cách cao cả và thanh khiết. Ngài cốt yếu là thánh
thiện, là Đấng thiêng liêng của
Những ư tưởng của họ trước và sau khi trở thành tù nhân vốn khác hẳn nhau. Cũng có một đ̣i hỏi đúng đắn để có được sự thanh khiết, khinh thường những nghi thức bên ngoài khi chúng không liên quan tới sự cao cả bên trong của tính t́nh, sự khinh thường đôi khi thậm chí biểu hiện khốc liệt hơn dường như thể có sự công phẩn áp đảo trước ư tưởng cho rằng bất cứ ai cũng dám hiến cho một vị Thượng Đế thánh thiện chỉ là những nghi thức bên ngoài, thay v́ là một cuộc đời công chính và cao thượng. Chẳng hạn như hăy xét tới một đoạn văn rất quả quyết mà ta thấy nơi bậc đạo sư Amos: “Tôi ghét, tôi coi thường những ngày lễ của bạn và tôi sẽ không ngửi mùi trong những buổi họp trang trọng của bạn. Mặc dù bạn hiến cho tôi những phẩm vật hiến tế đă được thiêu đốt và những phần hiến tế thịt, th́ tôi sẽ không chấp nhận chúng, tôi cũng chẳng coi trọng sự hiến tế an b́nh những con thú mỡ màng của bạn. Bạn hăy lấy đi tiếng động trong những bài hát của bạn v́ tôi sẽ không nghe tiếng du dương của đàn viols. Nhưng mong sao sự phán đoán sẽ xuôi chiều như nước và sự công chính sẽ là ḍng suối cuồn cuộn”[24][Ta ghét, ta khinh để những lễ kư của các ngươi; ta không đẹp ḷng về những hội trọng thể của các ngươi. Dầu các ngươi dâng những của lễ thiêu và của lễ chay cho ta, ta sẽ không nhận lấy, ta chẳng đoái xem những con thú mập về của lễ thú ăn các ngươi. Hăy làm cho tiếng của bài hát các ngươi xa khỏi ta. Ta không khứng nghe tiếng đờn cầm của các ngươi. Thà hăy làm cho sự chính trực chảy xuống như nước và sự công b́nh như sông lớn cuồn cuộn] . Đó là tinh thần của các bậc đạo sư sau này. Bạn có thể xét một ví dụ khác của Isaiah nơi mà người ta đang phàn nàn rằng mặc dù họ ăn chay th́ Thượng Đế vẫn không lắng nghe họ, họ đă làm cho thể xác và linh hồn ḿnh đau khổ mà Ngài vẫn chẳng đoái hoài tới; thế rồi câu trả lời như sét từ trời rớt xuống trên núi Sinai: “Đâu phải việc bạn ăn chay như ngày nay mới khiến cho nguyện vọng của bạn được lắng nghe ở trên cao. Phải chăng đó là một sự ăn chay mà tôi đă lựa chọn, một ngày dành cho một người làm cho tâm hồn ḿnh đau khổ, phải chăng việc cúi đầu như một cây hương bồ và trải ra vải bố cùng với tro than bên dưới y, liệu bạn có gọi đây là một cuộc trai giới và một ngày có thể chấp nhận được đối với Đấng Chúa Tể? Phải chăng đây là trai giới mà tôi đă chọn: buông lỏng bàn tay làm chuyện độc ác, tháo gỡ đi những gánh nặng và để cho kẻ bị áp bức được giải thoát th́ bạn sẽ phá vỡ được mọi gông cùm. Chẳng lẽ lại không ban cấp bánh ḿ cho người đói và lại không mang tới cho người nghèo những thứ thừa thải trong nhà ḿnh? Khi bạn thấy người ta trần trụi th́ hăy cấp quần áo cho thiên hạ để cho bạn không dùng nó để che giấu xác thịt của chính ḿnh. Thế rồi khi ánh sáng bừng lên vào buổi ban mai th́ sức khỏe của bạn bộc phát mau lẹ, sự công chính của bạn sẽ đi trước bạn; sự vinh diệu của Chúa sẽ là phần thưởng của bạn” [25] [Thật, các ngươi kiêng ăn để t́m sự căi cọ tranh cạnh, đến nỗi nắm tay đánh nhau cộc cằn; các ngươi kiêng ăn trong ngày như vậy, th́ tiếng các ngươi chẳng được nghe thấu nơi cao. Đó há phải là sự kiêng ăn mà ta chọn lựa, há phải là ngày người ta dằn ḷng ḿnh đâu? Cúi đầu như cây sậy, nằm trên bao gai và trên tro, đó há phải đều ngươi gọi là kiêng ăn, là ngày đẹp ḷng Đức Giê hô va sao? Sự kiêng ăn mà ta chọn lựa, há chẳng phải là bẻ những xiềng hung ác, mở những trói của ách, thả cho kẻ bị ức hiếp được tự do, bẻ găy mọi ách hay sao? Há chẳng phải là chia bánh cho kẻ đói, đem những kẻ nghèo khổ đă bị đuổi đi về nhà ḿnh, khi thấy kẻ trần truồng th́ mặc cho, và chớ hề trớ trinh những kẻ cốt nhục ḿnh hay sao? Bấy giờ sự sáng ngươi sẽ hừng lên như sự sáng ban mai, ngươi sẽ được chữa lành lập tức; sự công b́nh ngươi đi trước mặt ngươi, sự vinh hiển của Đức Giê hô va sẽ ǵn giữ sau ngươi]. Có một khía cạnh đạo đức xuất lộ v́ nó xuất lộ đi xuất lộ lại nơi các bậc đạo sư này. Tôi sẽ chỉ cung cấp cho bạn một điều trích dẫn khác nữa, có thể nói là cho thấy môi trường tâm trí mà Chúa Giê su được giáng sinh trong đó, đây là một lời lẽ của bậc đạo sư Micah vốn tổng kết được bổn phận của con người. Bậc đạo sư tự hỏi ḿnh làm thế nào để vui ḷng Thượng Đế: “Liệu tôi sẽ đi tới trước Đấng Chúa Trời và phủ phục trước Đấng Thượng Đế? Phải chăng tôi sẽ mang tới trước mặt Ngài những đồ hiến tế đă được sử dụng với những con bê đă được một tuổi? Phải chăng Chúa sẽ bằng ḷng với hàng ngàn con cừu đực hoặc với cả chục ngàn ḍng sông dầu mỡ? Liệu tôi sẽ đưa ra đứa con trưởng của ḿnh để cho tôi được xâm phạm vào thành quả của thân thể tôi v́ tội lỗi của linh hồn tôi? Hỡi con người, Ngài đă chỉ cho ngươi thấy được điều tốt đẹp, và Chúa có đ̣i hỏi ǵ ngươi đâu ngoại trừ việc thực hiện một cách đúng đắn và yêu thương với ḷng từ bi, bước đi khiêm tốn với Đức Chúa Trời của ḿnh” [26]. Đó là cái đạo đức mạnh mẽ và lành mạnh mà bạn thấy xuất lộ nơi các bậc đạo sư Do Thái giáo sau này, nó ở nơi một quốc gia mà trong một chừng mực nào đó ít ra lại chịu ảnh hưởng của cái giáo huấn khiến Chúa Giê su giáng sinh.
Bây giờ ta hăy xem xét trong một lúc cái nhân vật đă làm
say mê biết bao nhiêu tâm hồn, t́nh yêu và ḷng ngưỡng mộ của biết bao thế
hệ này tới thế hệ khác thuộc thế giới phương Tây đă xoắn bện xung quanh
Ngài; ta hăy cố gắng nhận ra được công tŕnh của Ngài phải thực hiện, sứ
mệnh mà Ngài dự tính làm tṛn. Một nền văn minh mới được chào đời, một bộc
phát mới trong sinh hoạt của thế gian; những quốc gia non trẻ đầy sức sống,
đầy nghị lực với trí năng siêu h́nh kém phát triển hơn khía cạnh thực tiễn
của tâm trí, đang tiến lên hàng đầu và dần dần điều khiển vận mệnh của thế
giới. Một dân tộc mạnh mẽ và sung sức, tràn đầy nhựa sống, tràn đầy sức
mạnh, tràn đầy năng lực thực tiễn, đây là loại h́nh mà các quốc gia Âu Mỹ
phải được khai sinh từ đó; đây là quốc gia (nói cho đúng hơn là giống dân)
mà sự rèn luyện tôn giáo là vấn đề đặt ra trước Đại Đoàn Huynh Đệ trông coi
sự tiến hóa tâm linh của con người. Người ta cần một tuyên ngôn sự thật xưa
cũ khác nữa để rèn luyện như thế; một sứ giả của Hội Đoàn Huynh Đệ hùng mạnh
ấy phải được nói tới những sự thật xưa cũ để có được sự rèn luyện và uốn nắn
cái nền văn minh mới lố dạng ấy. Nó phải được rèn luyện như mọi sự rèn luyện
khác và với một sự rèn luyện thích ứng những đặc trưng ấy. V́ thế cho nên
bạn thấy trong Ki Tô giáo tương đối có ít lời tuyên bố của Đấng Ki Tô về
siêu h́nh học tinh tế mà nói nhiều tới luân lư, đạo đức cao cả, giáo huấn
tâm linh thuộc một loại thực tiễn, ít (quả thực là hầu như không có) điều về
khoa học linh hồn. Điều này được dành cho giáo huấn bí truyền hạn chế trong
những môn đồ ngay trước mắt của Ngài. Ta có thể nói là hăy bao quát địa hạt
bắt đầu tôn giáo này th́ mới t́m ra được một công cụ và sứ giả thích hợp của
Đại Đoàn Huynh Đệ; họ đă chọn được một người thanh niên nổi bật lên do sự
trong sạch, mầu nhiệm và do ḷng sùng tín sâu sắc, Chúa Giê su mà sau này ta
gọi là Đấng Ki Tô. Sứ mệnh của Ngài bắt đầu vào cái thời điểm cuộc đời Ngài
được mô tả trong những Phúc âm là sự rửa tội, khi Ngài vào khoảng 30 tuổi.
Vào thời kỳ đó, theo bạn đọc thấy trong Phúc âm th́ Thần khí của Thượng Đế
giáng xuống Ngài và một giọng nói từ trên trời tuyên cáo Ngài là Con của
Chúa Trời và thiên hạ phải lắng nghe Ngài
[27] [Khi chịu
báp têm rồi, Jêsus liền lên khỏi nước, ḱa các từng trời mở ra. Ngài thấy
Thánh Linh của Đức Chúa Trời ngự xuống như bồ câu, đậu trên vai Ngài, và
nầy, có tiếng từ trời phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của ta, đẹp ḷng ta mọi
đường”]. Tôi sẽ nói trong một lúc về cụm từ “Con của Chúa Trời”, lúc
tới mức bàn về sự thách đố của người Do Thái giáo khi Ngài đ̣i hỏi địa vị
ấy. Ta chỉ cần nhận thức rằng theo quan điểm được nêu ra trong câu chuyện về
đời sinh hoạt của Ngài, nhiệm kỳ tu của Ngài bắt đầu khi Ngài được 30 tuổi,
khi sự biểu lộ đặc biệt này xảy ra, xét theo quan điểm huyền bí th́ đó là
cách thức ẩn dụ khi người ta chọn thanh niên này là sứ giả cho giáo huấn
thiêng liêng mà ta cần miêu tả và biểu diễn việc mang lại sự giác ngộ cho
Ngài khiến Ngài thích hợp là một bậc Đạo sư thiêng liêng đối với loài người.
Chỉ nội trong ba năm, Ngài sống cuộc đời của một bậc đạo sư, một cuộc đời
đẹp đẽ thanh khiết, rực rỡ với t́nh thương, ḷng từ bi và mọi phẩm tính âu
yếm nhất trong tâm hồn con người. Ta thấy Ngài đi lang thang trên vùng đất
Theo như tôi có nói, cuộc đời của Chúa Giê su là một cuộc đời đẹp đẽ. Hăy lắng nghe giáo huấn của Ngài, thế là bạn sẽ lĩnh hội được cái Thần của nó; tiếc thay nó khác hẳn cái Thần của các Ki Tô hữu thường tŕnh bày. Những giáo huấn này đúng là đồng nhất với các huấn điều của những bậc Đạo sư tâm linh vĩ đại trước Ngài. “Kẻ có tâm hồn thanh khiết được ban phúc v́ họ sẽ thấy Đức Chúa Trời” [30] [Phước cho kẻ có ḷng trong sạch v́ sẽ thấy được Đức Chúa Trời]. Có một sự thật huyền linh mà Ngài lại tuyên cáo theo đó chỉ nhờ trong sạch người ta mới thấy được Đấng trong sạch, chỉ có kẻ đă được tẩy rửa mới có thể biết được Thượng Đế. Ta hăy xem Ngài nhấn mạnh xiết bao giáo huấn quen thuộc với bạn theo đó tư tưởng quan trọng hơn hành động; khi tư tưởng được h́nh thành th́ hành động thực tế đă được thực hiện rồi. Ngài dạy rằng “Bất cứ kẻ nào nh́n đàn bà mà với ḷng dâm dục th́ đă phạm phải tội ngoại t́nh đối với người đàn bà trong tư tưởng” [31][Song ta nói cùng các ngươi, hễ ai ngó đàn bà mà động t́nh ham muốn, th́ trong ḷng đă phạm tội gian dâm cùng người rồi]. Ta lại xét tới cái giáo huấn quen thuộc như thế trong giáo huấn của Đức Bàn Cổ, Zoroaster và Đức Phật: “Hăy yêu thương kẻ thù của ḿnh, hăy ban phúc cho những kẻ nguyền rủa con, hăy đối xử tốt với những kẻ thù ghét con, hăy cầu nguyện cho những kẻ lợi dụng con và khinh thường con; hành hạ con để cho con có thể là con trẻ của Đấng Từ phụ vốn ở trên trời: đó là v́ Ngài khiến cho mặt trời của ḿnh vượt cao trên điều ác và điều thiện; gửi trận mưa xuống cho kẻ công chính và kẻ không công chính” [32] [Nhưng ta nói cùng các ngươi, hăy yêu kẻ thù nghịch các ngươi và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các ngươi, hầu cho các ngươi được làm cho của Cha các ngươi ở trên trời; bởi v́ Ngài khiến cho mặt trời soi trên kẻ ác cùng người thiện, mưa cho người công nghĩa cùng kẻ bất nghĩa]. Ta hăy xem phát biểu huyền bí mà có lẽ ít ai (ngoại trừ các huyền bí gia) hiểu được: “Ánh sáng của cơ thể là đôi mắt: do đó nếu mắt của bạn là chất phác th́ toàn bộ cơ thể của bạn sẽ đầy ánh sáng. Nhưng nếu mắt bạn ác độc th́ toàn bộ cơ thể của bạn sẽ đầy bóng tối. Do đó nếu ánh sáng ở nơi bạn là bóng tối, th́ bóng tối ấy lớn lao biết dường nào” [33] [Đèn của cơ thể là con mắt. Nếu mắt ngươi tốt th́ cả thân thể ngươi đều sáng sủa; nhưng nếu mắt ngươi xấu th́ cả thân thể ngươi đều tối tăm. Vậy nếu sự sáng trong ngươi là tối tăm, th́ sự tối tăm ấy lớn biết bao]
Ta hăy lắng nghe lời tuyên cáo của Ngài một lần nữa về cái con đường xưa cũ chật hẹp – con đường mà bạn biết là mỏng như lưỡi dao cạo. “Cánh cổng thẳng ngay trước mắt và con đường chật hẹp dẫn vào sự sống, thế mà ít ai t́m được nó”[34] [Song ngơ hẹp và đường chật dẫn đến sự sống, kẻ t́m được th́ ít]. Ta hăy lắng nghe lời lẽ của Ngài với đa số, toát ra cái ḷng từ bi thiêng liêng vốn chính là cái vết bớt của mọi người nào giáng lâm từ Đại đoàn Huynh đệ, Quần Tiên Hội: “Hỡi tất cả những người đang lao động vất vả và c̣ng lưng gánh nặng, hăy đến với ta và ta sẽ ban cho con sự ngơi nghỉ. Hăy rước lấy gông xiềng của ta lên trên con và hăy học biết về ta, v́ ta vốn nhu ḿ và khiêm hạ trong tâm hồn: con sẽ t́m được sự an b́nh trong tâm hồn. Đó là v́ gông xiềng của ta cũng dễ tháo gỡ và gánh nặng của ta cũng nhẹ nhàng thôi” [35] [Hỡi hết thảy những kẻ đương lao khổ và gánh nặng, hăy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được nghỉ ngơi. V́ ta có ḷng nhu ḿ, khiêm ti, nên hăy mang lấy ách của ta, học theo ta, th́ linh hồn các ngươi sẽ được nghỉ ngơi. V́ ách ta dễ chịu, và gánh ta nhẹ nhàng] . Ta hăy xem Ngài kiểm soát các môn đồ khi họ cố gắng xua đuổi những bà mẹ nào mang con tới cho Ngài mà Ngài có thể ban phúc cho họ: “Hỡi những đứa trẻ đau khổ, không được cấm chúng đến với ta; v́ thiên giới vốn dành cho chúng” [36] (Hăy để con trẻ đến cùng ta, đừng cấm chúng nó, v́ nước trời thụôc về những kẻ giống như chúng nó”. Và có một lần Ngài chọn một đứa trẻ con, đặt nó giữa đám đông để nêu gương cho các môn đồ về ḷng khiêm hạ và tuân phục. Ta hăy xét tới cái giáo huấn nghiêm khắc này cũng lại chính xác dựa theo đường lối về giáo huấn huyền bí cổ truyền, nó bảo rằng sự gắn bó với những sự vật trần thế gây thiệt hại chết người cho sự tiến bộ trong đời sống tinh thần. Khi một thanh niên đến với Ngài để hỏi xem làm sao đạt được sự sống đời đời th́ câu trả lời đầu tiên của Ngài là theo công truyền: “Con hăy tuân thủ những điều răn cấm”. Người thanh niên trả lời rằng: “Con đă tuân theo những giới răn này từ tấm bé, vậy con c̣n thiếu điều ǵ nữa?”. Rồi tới một yêu cầu nghiêm khắc hơn: “Nếu con đă hoàn hảo rồi th́ con hăy đi bán hết những ǵ con sở hữu, bố thí cho người nghèo để con có được kho báu trên trời; rồi hăy đến đây theo ta”. Người thanh niên “buồn rầu bỏ đi: v́ y có nhiều tài sản sở hữu”. Thế rồi bậc đạo sư huyền bí nhấn mạnh tới giáo huấn này với các môn đồ: “Một người giàu khó ḷng bước vào thiên giới . . . Con lạc đà chui qua lỗ kim c̣n dễ hơn một người giàu nhập vào thiên giới” [37] [Nếu ngươi muốn được trọn vẹn , hăy đi bán hết của cải ngươi mà cho kẻ nghèo, th́ ngươi sẽ có của báu ở trên trời; rồi hăy đến theo ta] [Ta lại nói cùng các ngươi, lạc đà chui qua lỗ kim c̣n dễ hơn người giàu vào nước Đức Chúa Trời].
Vậy là bằng cách này Ngài đă giảng dạy cùng một đạo đức thời xưa về giáo huấn quen thuộc xiết bao cho tất cả chúng ta, giáo huấn của các bậc Sáng lập ra mọi tôn giáo thời xưa. Chúng ta truy nguyên được Ngài cũng như các bậc tiền bối của Ngài qua việc giảng dạy bằng dụ ngôn; Ngài luôn luôn nhắc tới dụ ngôn khi ngỏ lời trước đại chúng. Ngài nói hết dụ ngôn này tới dụ ngôn khác, mỗi dụ ngôn bao hàm một viên ngọc quí nào đó về sự thật tâm linh. Có lẽ dụ ngôn làm xao động tâm hồn của Giáo hội Ki Tô, chinh phục được ḷng người măi măi v́ nó thật đẹp đẽ và âu yếm, đó là dụ ngôn về con cừu bị thất lạc trong hoang mạc mà người chăn chiên cần mẫn đi t́m măi cho tới khi t́m thấy nó “và khi đă t́m ra rồi th́ y vui mừng vác nó trên vai. Và khi về nhà th́ y tụ tập bạn bè láng diềng lại nói với họ hăy góp vui với tôi, v́ tôi đă t́m ra con cừu bị thất lạc. Tôi xin nói với các bạn cũng vậy, niềm vui trên cơi trời sẽ đến với kẻ tội lỗi biết ăn năn c̣n hơn là đến với 99 người đúng đắn không cần tới sự ăn năn” [38] [Trong ṿng các ngươi, người nào có một trăm con chiên mà mất một con, th́ há chẳng để chín mươi chín con lại nơi đồng vắng, rồi đi t́m con đă mất cho kỳ được sao?]. “Đấng Chủ Chăn Phước Lành” là một trong những hồng danh được ưa dùng để chỉ Đấng Ki Tô trong khắp Giáo hội Ki Tô, bạn có thể thấy Ngài trong những bức tranh, bạn có thể thấy Ngài trong những cánh cửa sổ vẽ của các nhà thờ và nhà thờ chính; người ta vẽ “Đấng Chủ Chăn Phước Lành” khoác trên vai con chiên bị thất lạc mà Ngài đă t́m thấy, mang về nhà đem lại niềm vui cho băi rào thành cái chuồng chăn những con cừu khác. Giáo lư của Ngài về “Thiên giới” đă bị xuyên tạc rất nhiều, nhưng người ta hiểu rơ nó trong thời Giáo hội sơ khai. Đó là một cơi giới mà con người được mời gọi vào và người ta đă vạch rơ những giai đoạn trong đó. Con người phải trong sạch trước khi được phép nhập vào thiên giới; họ phải có đức tin; đó là một điều thiết yếu trước khi họ có thể đến với thiên giới; họ phải thêm tri thức vào cho đức tin bằng không th́ họ sẽ chẳng thể đạt tới cấp cao; minh triết phải nối tiếp tri thức bằng không th́ chúng vẫn chưa hoàn hảo; người ta hứa hẹn sự bất tử như thế cho mọi người, tức là việc chinh phục được sự chết, không c̣n đi ra ngoài nữa. Đó là v́ như ta thấy hiện nay, Ki Tô giáo thời sơ khai có dạy giáo lư cổ truyền Luân Hồi; v́ thế cho nên có một lúc người ta khắc phục được sự chết và con người không đi ra khỏi Đền Thờ của Thượng Đế nữa. Khi họ đă trở nên hoàn hảo, làm chủ được các điều bí mật của thiên giới. Như vậy là Chúa Giê su đă trải qua ba năm ngắn ngủi nhằm dạy dỗ, chữa bệnh và giúp đỡ cho mọi người nào đang cần tới. Thánh Peter tổng kết cuộc đời của Ngài như sau: “Ngài đi lang thang để làm phúc” [39]. [Thể nào Đức Chúa Trời lấy Thánh Linh và quyền năng xức dầu cho Jêsu ở Na xa rét, rồi Ngài trải khắp nơi làm lành và chữa mọi kẻ bị ma quỉ áp chế, v́ Đức Chúa Trời ở cùng Ngài] Cuộc đời Ngài rất ngắn ngủi, tại sao vậy?
Bởi v́ các dân tộc mà Ngài đến với họ để mang lại thông điệp về T́nh Huynh Đệ: Đi tới một dân tộc như thế, khốc liệt, cuồng tín, hà khắc và ngu tín về tôn giáo của chính ḿnh th́ ắt chỉ có thể có một kết quả duy nhất – luật phạm thượng khắc khe của họ được đưa vào tác động và Ngài bị hạ sát bởi sự oán thù và ác ư. Đôi khi ngày nay người ta thắc mắc: Tại sao các Chơn sư lại vẫn c̣n ẩn tàng, tại sao các Ngài lại đứng đằng sau bức màn và từ chối xuất hiện ở chốn văng lai của con người. Bởi v́ chừng nào con người c̣n chưa học trở lại được sự tôn kính thời xưa vốn tôn một bậc sứ giả của chư Thần linh lên thành một nhân vật thánh thiện, và vây quanh Ngài bằng t́nh thương, sự kính cẩn và sự tôn thờ, th́ các Chơn sư Minh triết không thể xuất hiện để kích động những cơn đam mê giận dữ của con người v́ ganh ghét với sự trong sạch của các Ngài, v́ thù địch với sinh hoạt tâm linh của các Ngài. Đấng Christ là đấng cuối cùng trong các sứ giả vĩ đại được biệt phái tới cho thế gian và những người được Ngài giáng lâm lại sát hại Ngài khi mới trải qua ba năm sinh hoạt giữa công chúng; họ ghét Ngài về một sự trong sạch, dường như đối với họ là một sự sỉ nhục cho sự không trong sạch của chính ḿnh, và họ ghét Ngài v́ một sự cao cả vốn là lời quở trách đối với sự nhỏ nhen của họ.
Giờ đây ta xét tới sự phấn đấu của Giáo hội thời sơ khai. Phúc âm của t́nh thương và ḷng từ bi nhanh chóng lan tỏa trong số người nghèo được truyền bá chậm hơn trong đám người có giáo dục cao nhờ vào giáo huấn bí truyền; và ta thấy Hội đoàn Huynh đệ đă nỗ lực lớn lao trong ba thế kỷ đầu tiên sau Công nguyên. Có một sự phấn đấu giữa học thức và sự dốt nát, một sự đấu tranh giữa tri thức và mê tín dị đoan. Nó diễn ra khốc liệt và cường bạo với trung tâm điểm chính là Alexandria, v́ các chiến sĩ của nó một đằng là môn đồ phái Ngộ đạo, một đằng là đại khối Ki Tô hữu. Khi bạn truy nguyên câu chuyện này th́ bạn ắt thấy các bậc đạo sư phái Ngộ đạo vĩ đại, cố gắng du nhập Minh triết của phương Đông bên dưới những tên gọi mới để đưa vào tôn giáo mới gần đây nhất này, dự tính mượn phương tiện hiện đại của nó. Valentinus vĩ đại đă viết sách khải huyền về minh triết tức Pistis Sophia, kho báu vĩ đại nhất về huyền bí học cổ truyền của Ki Tô giáo; giờ đây được phổ biến cho thế giới nói tiếng Anh qua bản dịch của ông G. R. S. Mead, thư kư của Chi bộ Âu châu thuộc Hội Thông Thiên Học. Trong phần dẫn nhập ông Mead có viết như sau: “Thế rồi ta hăy xét tới phong trào vào năm 150 sau Công nguyên. Vào thời đó Logia nguyên thủy tức Urevangelium của Ki Tô giáo đă biến mất, và Phúc âm yếu lược đều được đưa vào trong khuôn khổ của sinh hoạt truyền thống của bậc Thầy vĩ đại về Đức tin. Đợt sóng triều b́nh dân của tôn giáo mới đă độc quyền xuất phát từ đại dương truyền thống Do Thái giáo và đang nhấn ch́m một quan niệm phổ quát về Ki Tô giáo trong cùng một trận lụt không khoan dung và độc quyền vốn đă đặc trưng cho quốc gia Hebrew trong suốt cả lịch sử trước kia của nó. Hiện tượng đáng ngạc nhiên này giờ đây đang thu hút sự chú ư của những tâm trí chẳng những tài khéo về triết lư của các trường phái mà c̣n thấm nhuần tinh thần chiết trung của một Thông Thiên Học phổ biến toàn cầu và một tri thức về các giáo lư nội môn của các tôn giáo thời xưa. Những người như thế nghĩ rằng họ thấy trong Phúc âm Ki Tô giáo có một sự tương tự về giáo lư và tính phổ biến đại đồng vũ trụ vốn cùng huyết thống với giáo huấn nội môn của các tín ngưỡng thời xưa; họ khởi công ra sức kiểm soát những khuynh hướng độc quyền và hẹp ḥi mà họ thấy phát triển nhanh chóng xiết bao trong nhóm người ít có học thức hơn, họ khiến cho đức tin cao siêu hơn tri thức, thậm chí đạt tới mức công khai kết án mọi h́nh thức tôn giáo khác, nói móc mỉa mọi triết lư và nền giáo dục” [40].
Cuộc đấu tranh nổ ra giữa những người này và đại chúng, thật ra đại chúng được dẫn dắt bởi một số người có học thức và minh triết; nó chấm dứt qua sự thành công của đại chúng thất học khiến cho trục xuất ra khỏi Giáo hội các môn đồ Ngộ đạo có học hơn và đầy triết lư hơn; từ đó trở đi họ c̣n bị ngăn cấm theo dạng tà thuyết. Giáo hội xuất lộ từ cuộc đấu tranh ấy vẫn có đủ tôn giáo chân chính bị bỏ lại để rèn luyện và nâng cao tâm hồn, nhưng không đủ để biện minh cho minh triết của thời đại v. v. . . Nó làm xuất hiện trong cuộc đấu tranh ấy ḷng sùng tín đối với Đấng Chrit cá nhân, con người – Thượng Đế vốn là đối tượng của sự thờ cúng nhiệt thành nhất và đam mê nhất. Như tôi có nói, trong cái sự khải huyền Đấng Thiêng liêng ấy có một điều mà con tim đang khao khát; tiếc thay nó không có đủ để chế ngự trí năng, để trui rèn được tâm trí triết học. Kết quả là Thời đại Hắc ám giáng xuống Âu châu, Thời đại Hắc ám đă được gọi đúng đắn và thích hợp như vậy trong lịch sử, c̣n tri thức bí truyền của Giáo hội sơ khai đă biến mất, các đức cha thậm chí đă bị quên lăng hết ngoại trừ trong các tu viện nơi mà người ta vẫn c̣n nghiên cứu các ngài và từ đó trở đi thỉnh thoảng Giáo hội Công giáo La Mă lại cung cấp cho thế gian các vị Tiến sĩ thần học và siêu h́nh học.
Ta có thể thấy bằng cách nào mà trong thời kỳ hắc ám này các giáo lư đă bị bẻ quặc và xuyên tạc, làm thế nào mà một số giáo lư lại đâm ra nổi loạn chống lại lư trí và lương tâm dưới dạng được tŕnh bày. Ta lại xét tới thời kỳ Cải cách Tin Lành khi các quan niệm khủng khiếp của Calvin và các quan niệm ít nhiều phóng khoáng hơn của Luther đă chiếm lấy ưu thế của phái cải cách và giáo phái Tin Lành hiện đại đă thoát thai từ đó, dưới dạng ít thô thiển nhất là Giáo hội Anh quốc vốn phần lớn là chịu ảnh hưởng của giáo lư Công giáo La Mă. Thế mà trong ḷng chính Giáo hội này th́ một trường phái cao cả hơn đang tăng trưởng, có suy tư phóng khoáng hơn, có những quan niệm nhân từ hơn về các giáo phái khác và ta có thể hi vọng rằng điều này sẽ cứu chuộc trở lại Ki Tô giáo về sau này và ban cho nó địa vị đúng đắn trong đám các tôn giáo trên thế giới.
Ta phải chuyển vấn đề này sang giáo lư của Ki Tô giáo và xem xét chúng đầy đủ đến mức như thời đại ta công nhận. Tam vị nhất thể kỳ lạ thay ít được nhắc tới trong Kinh thánh. Trong Cựu Ước tuyệt nhiên không có, mặc dù tín đồ Do Thái giáo có giáo lư này trong phần giáo lư bí nhiệm của ḿnh tức kinh Kabalah; trong kinh Tân Ước người ta cũng ít nhắc tới nó và phát biểu chính xác nhất bị thách đố - hoặc nói cho đúng hơn là bị bỏ lơ bởi những người mới sau này hiệu đính Kinh thánh. Phát biểu này rất chính xác: “Có ba Ngôi được ghi khắc trên Trời; Ngôi Cha, Ngôi Lời và Ngôi Thánh Thần và ba Ngôi này chỉ là Một” [41][Ấy là Thánh Linh làm chứng, v́ Thánh Linh là lẽ thật. Bởi có ba làm chứng: Thánh Linh, nước và huyết, cả ba đều chăm về một] . Những người hiệu đính coi đây là một lời chú giải của tu sĩ đă len lỏi vào quyển sách sau này trong lịch sử của Giáo hội Ki Tô và đă bỏ sót nó. Đó là bản văn duy nhất mà giáo lư có thể hoàn toàn trông cậy vào nó. Có một câu ở cuối Phúc âm của thánh Matthew bàn về sự rửa tội: “Nhân danh Cha, Con và Thánh Thần” nhưng điều đó cũng bị chỉ trích thách đố mặc dù không bị các nhà hiệu đính bác bỏ. Trong Giáo hội thời sơ khai có một sự đấu tranh về giáo lư này trở nên phức tạp do sự thần thánh hóa Chúa Giê su thành ra Ngôi Hai, nhưng cuối cùng nó xuất lộ từ cuộc đấu tranh ấy dưới một dạng mà ta có thể nhận ra là giáo lư cổ truyền: Ngôi Cha, tồn tại, cội nguồn của mọi sự sống; Ngôi Con được sinh ra và là phân thân của Ngài, có bản chất lưỡng bội của cả Thượng Đế lẫn con người – đặc tánh lưỡng bội ấy bao giờ cũng là đặc trưng của Thượng Đế Ngôi Hai, tức Ngôi thứ Nh́ trong Tam vị nhất thể - các thế giới đều do Ngôi Hai tạo ra, nếu không có Ngôi Hai th́ trong vũ trụ biểu lộ chẳng thể tạo ra được điều ǵ; Ngôi Ba vốn kém xác định hơn, đó là Ngôi Thánh Thần, Trí tuệ Vũ trụ, tức Minh triết Vũ trụ. Như tôi có nói, trong Giáo hội có một sự đấu tranh. Một số người tranh căi về học thuyết một thể ba Ngôi; những người khác lại bênh vực nó và cuối cùng th́ giáo lư cổ truyền xuất lộ chiến thắng trong cuộc tranh đấu ấy và trở thành học thuyết chính thống của Giáo hội. Thế rồi nó được tuyên bố đầy thẩm quyền trong “Tín điều Athanasian” và mặc dù có một số điều khoản của nó đáng bị phản đối, tín điều ấy vẫn tŕnh bày một trong những cách xiển dương hay ho nhất về siêu h́nh học của giáo lư hiện hữu trong Ki Tô giáo. Tôi nhắc lại nó v́ trong đó có gợi ra một cách mơ hồ và không rơ ràng một điều ǵ đó ẩn sau Tam vị nhất thể, cũng được nói bóng gió ở đây đó trong lộ tŕnh của các thánh kinh Ki Tô giáo. Người ta bảo rằng Bản thể Thiêng liêng vốn chỉ có một. Người ta cảnh báo tín đồ rằng họ không được lẫn lộn Ba Ngôi trong Tam vị nhất thể, nhưng họ cũng không được phân chia Bản thể, tính đơn nhất vốn làm nền tảng cho Ba Ngôi. Ba Ngôi chỉ là sự biểu lộ của Nhất nguyên. Một nhà thần học Công giáo La Mă nêu rơ rằng từ ngữ Ngôi có từ nguyên là persona, tức “cái mặt nạ”, và điều này ắt phải hàm ư rằng đằng sau cái mặt nạ có Thực tại chưa được hiển lộ, Thượng Đế ẩn tàng, mà chẳng ai biết. Có một sự gợi ư về điều Chưa ai biết này trong câu kinh thuộc thánh thư Job: “Liệu bạn có t́m ra được Thượng Đế bằng cách lùng sục hay chăng” [42][Nếu ông ḍ xét, há có thể hiểu biết được sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời và thấu rơ Đấng Toàn năng sao?]. Hơn một lần trong thánh thư Job người ta thấy gợi ta thắc mắc này về Đấng không ai biết được, về Thượng Đế chưa được khải huyền xét theo bản chất và bản thể. Thế rồi từ Tam nguyên giáng xuống ta có bảy Chơn linh trước ngai Thượng Đế [43][Cũng có bảy ngọn đèn bằng lửa cháy trước ngai, tức là bảy Linh của Đức Chúa Trời]. Đây là bảy vị Thần linh vĩ đại của thất đại (bảy Nguyên tố) quen thuộc với chúng ta trong Ấn Độ giáo xét về mặt ngũ đại – năm vị Thần linh của năm Hành đă biểu lộ; ở đây người ta nhắc tới trọn cả thất đại. Thế rồi ta có các vị thần linh thấp hơn, các Tổng Thiên thần và Thiên thần, những đấng mà thánh Paul gọi là thiên sứ, các ông hoàng thiên thần và các quyền năng thiên thần [44] [Bởi v́ tôi tin chắc rằng bất cứ hoặc sự chết, hoặc sự sống, hoặc thiên sứ, hoặc chấp chánh, hoặc việc bây giờ, hoặc việc hầu đến, hoặc quyền năng], có chín cấp bậc thiên thần: Seraphim, Cherubim, Thiên thần ngai vua, Thiên sứ Đặc mệnh Toàn quyền, Thiên sứ Đức hạnh, Thiên sứ Quyền năng, Thiên sứ Hoàng gia, Tổng Thiên thần và Thiên thần. Về vấn đề này có một phát biểu rất thú vị của thánh Ignatius, một bậc giám mục của Giáo hội Tông đồ, theo đó Ngài “chưa hiểu nổi những việc trên trời; vị trí của các thiên thần và nhiều đội thiên binh bên dưới các Thiên sứ Hoàng gia” [45]. Trong Giáo hội Công giáo La Mă hoàn toàn đúng là có sự tôn thờ các Thiên thần nghĩa là thờ cúng các vị thần linh hạ đẳng, họ có liên quan trực tiếp tới con người và mọi sự biểu lộ của Thiên nhiên.
Kế tới là vấn đề quan trọng về bản chất của con người và
mối quan hệ của y với Thượng Đế, ta hăy coi nó là được giảng dạy trong chính
Thánh kinh, tiếc thay ta không phải bao giờ cũng t́m thấy nó trong giáo huấn
của Giáo hội thời nay. Thánh Paul mô tả con người là có bản chất tam bội:
tinh thần, phần hồn và phần xác
[46] [Nguyện tâm
linh, tâm hồn và thân thể của anh em đều được giữ ǵn], người ta có
phân biệt giữa tinh thần và phần hồn (điều này bị tước bỏ hoàn toàn trong
giáo huấn b́nh dân, trong đó tinh thần được đồng nhất với phần hồn, thế là
trọn cả sự tiến hóa của con người bị lẫn lộn. Tinh thần vốn thiêng liêng;
thánh Paul có dạy rằng: “Chẳng lẽ mi lại không biết rằng mi là đền thờ của
Đức Thượng Đế hay sao và thần khí của Thiên Chúa ngự nơi mi”
[47] [Anh em há
chẳng biết ḿnh là đền thờ của Đức Chúa Trời và Thánh Linh của Đức Chúa Trời
ở trong anh em sao?]. Cũng chính cái dạng ngôn ngữ ấy được dùng ở đây
mà ta đă quen thuộc trong kho tài liệu Ấn Độ giáo, trong đó ta thấy cơ thể
của con người được gọi là Visnupura, Brahmapura, là thị trấn tức đô thị của
Brahma hoặc Vishnu. Ở đây thánh Paul, bản thân là một điểm đạo đồ, có nói
tới cơ thể của con người là đền thờ của Thượng Đế, thần khí của Thiên Chúa
ngự trong đó. Thế rồi – đây là đoạn văn mà tôi nhớ lại khi tôi có nói ḿnh
muốn ám chỉ Ngôi Con của Đấng Ki Tô mà Ngài tuyên cáo vào lúc rửa tội – tôi
thấy tín đồ Do Thái kính Chúa Giê su v́ Ngài tự xưng là Con của Chúa Trời;
sự tự vệ của Ngài là một điều đáng lưu ư, Ngài không nói giống như Ki Tô hữu
thời nay nói về Ngài: “Đúng vậy, ta là Con của Thiên Chúa và không một người
nào khác có thể là Con của Thiên Chúa”, ngược lại lời khẳng định của Ngài
đặt căn cứ trên Ngôi Con thiêng liêng của thiên tính vốn cố hữu nơi bản chất
của chính con người. Ta hăy lắng nghe lời của Ngài để xem chúng rơ ràng, xác
định xiết bao. Ngài nhắc tín đồ Do Thái hăy tham chiếu Kinh điển của chính
ḿnh: “Ta xin nói rằng chẳng lẽ trong luật lệ các con không viết rằng các
con là Thần linh ư? Nếu Ngài gọi họ là thần linh và Ngôi Lời của Thiên Chúa
sẽ giáng xuống đó th́ Kinh điển đâu có bị phế bỏ; các con hăy nhắc tới Ngài,
đấng mà Ngôi Cha đă phong thánh và biệt phái xuống trần gian để rồi bị các
con báng bổ; bởi v́ ta xin nói rằng ta là Con của Thiên Chúa”
[48][Jêsu đáp
rằng: “Trong luật pháp của các ngươi há chẳng chép rằng: “Ta đă nói các
ngươi là thần hay sao? Nếu Chúa gọi những kẻ được nghe đạo Đức Chúa Trời
phán là thần (mà Kinh thánh không thể băi bỏ được) th́ ta đây là Đấng Cha đă
biệt ra thánh và sai xuống thế gian, nói rằng: Ta là Con Đức Chúa Trời, cớ
sao các ngươi lại cáo ta là nói lộng ngôn?]. Đấng Ki Tô cũng bảo vệ
Ngôi Con của ḿnh: “Theo Kinh điển th́ mọi người đều là Thiên Chúa và Kinh
điển không thể bị phế bỏ; do đó trong lời khẳng định của ta không có sự phạm
thượng khi ta cũng tự xưng là Con của Thiên Chúa”. Rồi tới cái lời cầu
nguyện hay ho ngay trước khi Ngài đi chịu đóng đinh trên thập tự giá. Ngài
đang cầu nguyện với Cha về tương lai của Giáo hội. Ngài nói tới Thượng Đế về
tính đơn nhất của họ, Ngài vốn hiệp nhất với Thiên Chúa và tiếp tục cầu
nguyện rằng “tất cả đều có thể hiệp nhất cũng giống như Cha ở nơi Con và Con
ở nơi Cha, họ cũng có thể hiệp nhất nơi chúng ta. . . Con ở nơi họ và họ ở
nơi con sao cho họ có thể trở nên toàn bích hiệp nhất”
[49] [Để họ thảy
đều hiệp làm một, như Cha ở trong Con và con ở trong Cha; lại để cho họ cũng
ở trong chúng ta hầu thế gian tin rằng Cha đă sai Con]. Có sự tuyên
bố tính đơn nhất của con người với Thượng Đế. Trong tôn giáo này cũng có lời
tuyên cáo về bản chất thiêng liêng của con người, về việc Ngài tái hiệp nhất
với Ngôi Cha mà Ngài nhất thời dường như bị cách ly khi ở trong thể xác. Nếu
ta xét thêm nữa về giáo huấn mà ta thấy trong các tác phẩm của thánh Paul
th́ khi ta tiếp tục điều này càng trở nên rơ ràng hơn; v́ ta thấy Ngài dùng
thuật ngữ “Ki Tô” là một tên gọi thần bí để chỉ nguyên khí linh hồn phát
triển nơi con người, Con của Cha (tinh thần): “Các con nhỏ của ta ơi, ta lại
đau đẻ sinh ra các con cho tới khi Đấng Ki Tô được h́nh thành nơi các con”
[50][Các con bé
mọn của ta ơi, ta lại v́ cớ các con mà chịu cơn quặn thắt cho đến chừng nào
Christ thành h́nh trong các con].
Đấng Ki Tô đâu chỉ là một con người ở bên ngoài các tín đồ. Ngài phải được
h́nh thành là anh nhi bên trong tử cung nơi tâm hồn của mỗi một tín đồ. Và
cái Đấng Ki Tô này phải được sinh ra nơi môn đồ ắt tăng trưởng phát triển
bên trong y măi cho đến khi cuối cùng con người đạt tới mức “đo lường được
tầm cỡ viên măn của Ki Tô”
[51][Cho đến
chừng chúng ta thảy đều đạt đến sự hiệp một của đức tin và của sự thông biết
Con Đức Chúa Trời mà nên bậc thành nhơn, được tầm thước, vóc giạc theo sự
đầy đủ của Đấng Christ]. Họ phải trở thành Thiên Chúa biểu lộ, họ
phải trở thành Thiên Chúa biểu hiện bằng xương bằng thịt. Đó là giáo huấn
của Ki Tô giáo tông đồ mà các tác giả thời nay đă cắt xén một cách đáng buồn
khi tŕnh bày nó ra. Và người ta có dạy rằng vạn vật cuối cùng phải ḥa lẫn
vào Thượng Đế. Liệu bạn có giả định rằng giáo huấn về sự hiệp nhất hoặc ḥa
lẫn với Brahman là một giáo huấn mà Ki Tô giáo không có? Thế rồi ta hăy quay
sang Chương 15 trong Thánh thư gửi tín hữu
Kế tới ta hăy quay sang sự luân hồi; chính cái câu thơ vừa được trích dẫn theo đó “kẻ thù cuối cùng đáng bị hủy diệt chính là sự chết”; bản thân nó nói bóng gió về giáo huấn của Giáo hội sơ khai, v́ nghe nói sự chết không bị tiêu diệt măi cho tới “hồi cuối”. Cũng vậy những lời sau đây có nói bóng gió rằng: “Kẻ đắc thắng, ta sẽ khiến làm rường cột trong đền thờ Đức Chúa Trời ta, và người không c̣n ra khỏi đó nữa” [53] [Kẻ đắc thắng, ta sẽ khiến làm rường cột trong đền thờ Đức Chúa Trời ta, và người không c̣n ra khỏi đó nữa], việc đi ra ngoài nghĩa là tái sinh, bị lưu đày khỏi các cơi trời. Nhưng có ba trường hợp đánh dấu giáo lư sâu sắc hơn xét về Đấng Ki Tô. Ta phải nhớ rằng niềm tin vào luân hồi vốn thực hành trong nhóm tín đồ Do Thái đương thời sao cho tự nhiên là việc nhắc tới nó khiến mọi người xung quanh Ngài đều hiểu được. Nhưng sự kiện này không đủ để chứng tỏ rằng Ngài chấp nhận giáo lư. Ta phải xét lời nói của Ngài như vậy khi một số môn đồ được thánh John Tiền hô phái tới hỏi Ngài xem liệu Ngài có phải là Đấng Ki Tô chăng. Khi các sứ giả đă tiếp thu câu trả lời của Ngài dành cho bậc thầy của họ, th́ Chúa Giê su có nói tới đặc trưng của nhà thuyết pháp vĩ đại và tuyên bố rằng: “Nếu các ngươi muốn nhận thấy, th́ đây chính là Elias, tức là người phải đến”[54] [Nếu các ngươi chịu nhận lấy, th́ ấy là Ê li, tức là người phải đến] – đây là một phát biểu rất minh bạch cho thấy bậc đạo sư Do Thái giáo đă luân hồi nơi thánh John Tiền hô. Lại nữa, khi các môn đồ hỏi tại sao lại bảo rằng Elijah ắt giáng lâm trước Đấng Cứu Thế th́ Ngài trả lời rằng: “Elias quả thật sẽ đến trước và phục hưng mọi chuyện, nhưng ta nói với các ngươi rằng Elias đă đến rồi mà họ không nhận biết. . . Bấy giờ các môn đồ hiểu rằng Ngài nói với họ về thánh John Tiền hô”[55]. [Thật Ê li phải đến, phục hưng mọi việc. Nhưng ta nói cùng các ngươi, Ê li đă đến rồi, mà họ không nhận biết, lại c̣n dụng ư đăi người. Con người cũng sắp chịu khổ như thế. Môn đồ bèn hiểu rằng Ngài nói với họ đó là chỉ về Giăng Báp tít.]
Lại nữa, các môn đồ của Ngài hỏi Ngài về một người mù: “Ai gây tội, người này hay cha mẹ người gây tội mà người sinh ra đă mù ḷa? Thế mà một Ki Tô hữu thời này ắt trả lời rằng: “Làm thế nào mà một người lại phạm tội trước khi y sinh ra để rồi chuốc lấy h́nh phạt này?” Nhưng Chúa Giê su không trả lời một cách vô minh như thế. Ngài trả lời rằng: “Con người này không phạm tội, cha mẹ người cũng chẳng phạm tội nhưng để cho công việc của Thiên Chúa được tỏ ra trong người” [56] [Người này không phạm tội, cha mẹ người cũng không, nhưng ấy để cho công việc Đức Chúa Trời được tỏ ra trong người]. Ngài chấp nhận phần hồn tồn tại trước và có khả năng phạm tội trước khi sinh ra lần này, nhưng Ngài không đưa ra một lư do khác giải thích sự mù ḷa.
Quay sang các cha, ta thấy Tertullian nói rất rành mạch trong Lời Tạ Lỗi của ḿnh: “Nếu một Ki Tô hữu hứa một người sẽ trở lại từ một người, và quả thật Gaius trở lại từ Gaius th́ thiên hạ sẽ la ó ném đá y; thậm chí họ sẽ không cho y phát biểu để người khác nghe. Nếu có một vùng đất nào để có thể di chuyển đi di chuyển lại các hồn người vào những cơ thể khác nhau [của con thú] th́ tại sao họ lại không thể trở về chính cái chất liệu mà họ đă rời bỏ, nêu rơ điều đáng tin cậy hơn theo đó một người sẽ trở lại từ một người, bất cứ người cho sẵn nào đều trở lại từ bất cứ người cho sẵn nào khác, thế mà vẫn c̣n giữ lại nhân tính của ḿnh; đó là v́ phần hồn với những phẩm tính không thay đổi có thể phục hồi lại cùng một t́nh huống mặc dù không cùng một khuôn khổ . . . Bạn ắt hỏi liệu chúng ta sẽ luôn luôn chết đi rồi lại phục sinh từ sự chết ấy? Nếu chúa tể của muôn loài đă chỉ định như vậy th́ bạn ắt phải phục tùng . . . [Nhưng thiên niên kỷ đă xuất hiện là giới hạn và] sau đó th́ chẳng có sự chết, cũng chẳng có sự phục sinh lập đi lập lại”. Origen tin vào sự tồn tại trước của phần hồn và việc nó được sinh vào trong một cơ thể phù hợp với những hành vi trước kia. Ông dạy rằng: “Không phải là phù hợp với lư trí nữa khi mọi phần hồn v́ một số lư do bí nhiệm (Ở đây tôi nói theo ư kiến của Pythagore và Platon cũng như Empedocles, mà Celsus thường gọi tên) được du nhập vào trong một phần xác tùy theo công trạng và những hành động trước kia của nó? [57] Ta có thể trích dẫn nhiều đoạn, tất cả đều cho thấy niềm tin vào sự tồn tại trước của phần hồn và việc nó “giáng xuống” để sinh ra ở đây; và không có nghi ngờ là niềm tin này phổ biến rất rộng răi trong Giáo hội sơ khai v́ tại một Công đồng nó đă bị chính thức kết án và đóng dấu ô nhục là dị giáo – Công đồng này đă được cử hành sau khi sự u minh bắt đầu chiếm ưu thế. Hơn bất cứ thứ nào khác, quyết định này đă khiến cho Ki Tô giáo ly khai với mọi tôn giáo khác trên thế giới và đưa tới những hậu quả tai hại nhất. Đó là v́ có giáo lư về Luân Hồi th́ mới có giáo lư về Nhân Quả, cả hai tùy thuộc lẫn nhau và khi người ta không c̣n tin vào Luân Hồi nữa th́ người ta không c̣n có thể dạy dỗ về Nhân Quả. Trong những bức thư đầu tiên, Nhân Quả được dạy dỗ không kém phần rành mạch: “Chớ hề dối ḿnh, Đức Chúa Trời không chịu khinh nhạo đâu, v́ ai gieo giống chi th́ gặt giống ấy” [58] [Chớ hề dối ḿnh; Đức Chúa Trời không chịu khinh ngạo đâu, v́ ai gieo giống chi th́ gặt giống ấy]. Khi không c̣n sự Luân Hồi nữa th́ những lời lẽ này chẳng ai hiểu nổi, bấy giờ mọi loại lược đồ đều được phát minh ra, lược đồ về sự chịu tội thay cũng như không phải như vậy để cho con người không phải gặt hái kết quả của những hành động của chính ḿnh. Nhưng khi bất kỳ lược đồ nào được một Ki Tô hữu tŕnh bày với bạn, cho bạn biết rằng bằng cách đó bạn có thể thoát khỏi những hậu quả của các hành động của ḿnh th́ hăy trả lời y bằng những lời lẽ trong chính Thánh kinh: “Chớ hề dối ḿnh, Đức Chúa Trời không chịu khinh nhạo đâu, v́ ai gieo giống chi th́ gặt giống ấy”.
Một giáo lư cao cả (giáo lư về luật Hi sinh) ẩn bên dưới ư tưởng về sự chuộc tội thay nhưng nó bị ngụy trang theo một cách thức đưa tới sự phạm thượng khủng khiếp nhất. Luật Hi sinh khiến cho con người hiệp nhất với Thượng Đế, luật Hi sinh khiến cho các thế giới được h́nh thành, nhờ đó các thế giới mới đang sống c̣n, và giáo lư cao cả ấy của thời xưa được biểu lộ nơi Ki Tô giáo sơ khai qua việc Đấng Ki Tô hoàn toàn hiến ḿnh cho ư chí của Thượng Đế. Nhưng trong Ki Tô giáo thời trung cổ có xuất hiện những lược đồ có thể nói là khiến cho Ngôi Cha và Ngôi Con chống đối lẫn nhau, điều này chấn động cho mọi sự kính ngưỡng cũng như xúc phạm mọi lư trí bằng cách đưa đủ thứ lư sự cùn hợp lệ vào trong mối tương quan giữa Thần khí Thượng Đế và con người.
Khi mất đi thuyết Luân Hồi th́ lại xuất hiện một giáo lư khác vốn độc nhất vô nhị nơi Ki Tô giáo – giáo lư về địa ngục đời đời. Thiên đường và địa ngục đều đời đời giống như nhau, trở thành hậu quả của một kiếp sống ngắn ngủi dưới đây. Một con người sinh ra trên thế giới với tính t́nh đă được ghi sẵn rồi, với những khuynh hướng tật xấu hoặc tính tốt (có thể là như vậy) mà y mang theo từ khi lọt ḷng và được ghi khắc lên y từ khi c̣n nằm trong nôi; khi sống được 20, 30, 40, 60 hoặc 100 tuổi, con người ấy phải qui định trọn cả số phận đời đời của ḿnh và hoặc là lên thiên đường hoặc là xuống địa ngục đời đời. Cái giáo lư khủng khiếp ấy triển khai ra làm suy đồi tâm trí con người, khiến cho y trở nên ích kỷ, tôi chỉ xin trích dẫn một câu thơ để cho thấy như vậy – câu thơ này được viết ra bởi một trong những người hiền lành nhất, cao quí nhất và trong sạch nhất của Ki Tô giáo thời nay John Keble, tác giả của Năm Ki Tô giáo, ông đă bị xuống tinh thần do cái giáo lư về địa ngục đời đời này, do ư tưởng cho rằng thiên đường và địa ngục hoặc là cùng tồn tại hoặc là cùng sụp đổ với nhau; trong tác phẩm Năm Ki Tô giáo, ông lên tiếng thố lộ một t́nh cảm dường như gây xúc động mạnh cho tôi về tính ích kỷ và vô luân. Ông biện hộ cho giáo lư về sự hành hạ đời đời này v́ nếu không có nó th́ ư tưởng về thiên đường đời đời ắt mất đi một trong những hậu thuẫn của ḿnh. Nếu một số người không bị hành hạ măi măi th́ không có bằng chứng nào là những người khác sẽ có được địa vị đời đời trên thiên đường. Ông nói – tôi chỉ trích dẫn theo trí nhớ nhưng ghi lại chính xác cốt lơi của nó:
“Nhưng thế th́ đâu là chỗ đứng của những tâm
hồn thống hối?
Xưa kia họ đă dựa dẫm vào lời nói đời đời
của Ngài;
Những niềm hi vọng của họ đă biến mất theo
nỗi sợ sệt của kẻ phạm tội,
Gắn chặt giống như hồng danh của Ngài với
chính Ngài, hỡi Đức Chúa,
Theo đó chúng ta sẽ vui vẻ hoặc phiền năo vô
tận,
Nhưng nếu kho tàng giận dữ của Ngài mà bị
phung phí,
Th́ những người yêu thương của Ngài ắt cũng
phải từ bỏ thiên đường được hứa hẹn”.
Nhưng nếu quả thật là cuộc sống trên thiên đường tùy thuộc vào sự hành hạ của người khác dưới địa ngục th́ tôi ắt hỏi bạn liệu bất cứ người nào có thần khí Ki Tô nơi bản thân lại không chịu chấp nhận sự hủy diệt cho bản thân; chẳng thà như vậy c̣n hơn là mua lấy sự bất tử của ḿnh bằng sự khốn khổ của vô vàn triệu người trong địa ngục không hề biết tới kết thúc? May mắn thay đây là một giáo lư hầu như đă thuộc về quá khứ; hết Ki Tô hữu này tới Ki Tô hữu khác đang từ bỏ nó; hết bậc đạo sư này tới bậc đạo sư khác đang tuyên cáo ngược lại; Canon Farrar thuyết pháp trên bục giảng của Tu viện Westminster, tuyên cáo giáo lư về “niềm hi vọng đời đời” chống lại giáo lư về địa ngục đời đời, và chỉ những tâm trí nào hẹp ḥi thiếu văn hóa do thiếu óc tưởng tượng mới không thể nhận ra được sự khủng khiếp của địa ngục; chỉ những kẻ đó mới tiếp tục giảng về nó và biến nó thành một phần của Ki Tô giáo.
Tôi phải lướt nhanh qua vấn đề liệu Ki Tô giáo có dạy về khoa học linh hồn hay chăng. Trong Giáo hội Công giáo La Mă, người ta có dạy nó một phần lớn nhưng trong Giáo hội Tin Lành th́ không. Tôi không thể nói với bạn về Giáo hội Chính thống Hi Lạp v́ tôi không quen thuộc trực tiếp với nó. Do vậy tôi phải hạn chế vào phát biểu theo đó, trong Giáo hội Công giáo La Mă, huyền bí học đă được bảo tồn đến một chừng mực nào đó và trong ấy người ta vẫn c̣n t́m thấy một kiến thức huyền bí học nào đó và một số quyền năng huyền bí nào đó. Chẳng hạn như trong các ḍng tu thuộc tu viện, người ta có dạy tham thiền một cách đặc biệt kỹ lưỡng, trong số tu sĩ nam nữ thuộc ḍng tu nguyện ngắm, có một hệ thống tham thiền d́u dắt linh hồn từng bước một, từ nỗ lực tưởng tượng đầu tiên cho đến khi chuyển tâm thức vào phong cảnh được miêu tả; đây là một tàn tích của khoa học về linh hồn, dựa trên sự hiểu biết về các sự kiện. Có những di tích huyền bí khác trong Giáo hội Công giáo La Mă, việc dùng các ảnh tượng hoặc ngẫu tượng (theo như người Tin Lành gọi), việc dùng nước thánh, dùng một ngôn ngữ xưa cũ – trong đó những người có hiểu biết cầu nguyện th́ công dụng của lời cầu nguyện phần lớn tùy thuộc vào âm thanh được tạo ra. Trong những sự việc đó có bộc lộ những dấu vết của giáo huấn xưa cũ, dựa trên sự hiểu biết về thế giới vô h́nh. Thế rồi có việc sử dụng các di tích và lời cầu nguyện cho người chết – mọi dấu hiệu của tri thức huyền bí cho dù có manh mún, bất toàn đến đâu đi nữa. Và rồi kết quả ra sao? Chúng đă tạo ra các thần bí gia, các vị thánh, những người làm nên “phép lạ” trong một chừng mực mà những phân bộ khác của Giáo hội không thể tiếp cận được; thế là bạn thấy trong số các thần bí gia Công giáo La Mă có những người nói tới sự hiệp nhất ấy dựa trên những đường lối tương ứng với tín đồ Ấn giáo. Ở đây tôi lại không thể trích dẫn được nhiều v́ thời gian thật ngắn ngủi và đề tài này thật dài; nhưng tôi có thể nhắc bạn nhớ tới tác phẩm tuyệt vời Noi Gương Chúa của Thomas ở Kempis, một trong những tác phẩm kỳ diệu nhất mà một Ki Tô hữu đă sáng tác, một tác phẩm mà những người thuộc đủ mọi tín ngưỡng đều có thể đọc một cách thuận lợi. Thánh Thomas ở Kempis đưa ra những giáo huần về việc một người phải làm ǵ nếu y muốn t́m thấy Đấng Ki Tô và giáo huấn thường được gán cho chính Đức Christ. Ta hăy xét giáo huấn về Bản ngă: “Nếu con người muốn t́m thấy Thượng Đế th́ y phải học hỏi” sau khi đă “thoát ly mọi cái rồi c̣n phải thoát ly chính ḿnh, phải ra ngoài bản ngă, giũ sạch mọi cái ǵ là tự ái” [59] [Cái ǵ đó? – Thoát ly mọi cái rồi c̣n phải thoát ly chính ḿnh, phải ra ngoài bản ngă, giũ sạch mọi cái ǵ gọi là tự ái]. Một người phải “hoàn toàn quên ḿnh” [60][Mà nếu không thoát ly hẳn những vật thụ tạo, không tài nào được thư thả mà chuyên lo về Chúa]; “Hỡi con ơi hăy từ bỏ bản thân th́ con mới t́m thấy Ta . . . Thưa Chúa, con đă xả thân thường xuyên xiết bao và trong những chuyện như thế chẳng phải là con đă từ bỏ bản thân ư? Luôn luôn và bất cứ lúc nào, trong điều nhỏ cũng như điều lớn, con chẳng hề có một ngoại lệ nào mà luôn luôn t́m thấy Ngài trong mọi sự vật bị người ta tước bỏ Ngài đi bằng không làm sao Ngài có thể là con và con có thể là Ngài trừ phi Ngài ở cả bên trong lẫn bên ngoài đều giải thoát khỏi mọi ư chí phàm ngă? Con chỉ nhắm tới điều này, chỉ cầu nguyện nó, chỉ mong muốn nó sao cho con có thể mất đi sự tự tư tự lợi, và có bị lột trần trụi như thế th́ con mới đi theo Chúa Giê su trần trụi được” [61][Tất cả cố gắng, tất cả kinh nghiệm, tất cả ước muốn con hăy nhằm một đối tượng duy nhất: từ khước mọi sở hữu và ở trần để theo Chúa Giê su trần truồng, chết cho ḿnh và sống muôn đời với Cha]. “Sự tiến bộ chân chính của con người cốt ở việc từ bỏ bản thân; và con người nào đă xả thân th́ sẽ được tự do và an toàn rất nhiều” [62] [Tự thoát:tất cả tiến bộ của con người hệ tại chỗ đó, người tự thoát được hưởng tự do đặc biệt và được bảo đảm vững chắc]. Một môn đồ Vedānta có thể đă viết: “Bất cứ ai không phải là Thượng Đế đều chẳng phải là cái ǵ hết và phải được coi là chẳng ra chi” [63]. Một người không bị nao núng bởi những xúc động, nỗi niềm hân hoan trong ḷng sùng tín không tỏ ra là có tiến bộ mà đúng hơn ta thấy nó nơi “việc hiến thân với trọn cả tấm ḷng dâng lên cho ư chí của Thượng Đế . . . để cho với cùng một sự b́nh thản an nhiên ấy, con có thể tiếp tục đưa ra một lời cám ơn cả trong thuận cảnh lẫn trong nghịch cảnh, cân nhắc mọi điều trong sự thăng bằng thung dung” [64]. Một sự minh triết xúc tích ắt cũng được phát hiện ra nhắc nhở ta nhớ tới tính trực tiếp của Đức Phật. “Liệu chúng ta có t́m đâu ra được một người sẵn ḷng phụng sự không công cho Thượng Đế?” [65][Dễ t́m đâu được một người mến Chúa Giêsu một cách vô vị lợi]. Điều mà một người không thể cải thiện được nơi bản thân và nơi những người khác th́ y phải chịu đựng một cách kiên nhẫn . . . y phải nỗ lực kiên nhẫn để chịu đựng những khiếm khuyết và khuyết tật của người khác thuộc bất cứ loại h́nh nào; bởi v́ vả chăng bạn cũng có nhiều điều mà người khác phải chịu đựng. Nếu bạn không thể biến ḿnh thành một người như bạn muốn th́ làm sao bạn có thể trông mong được việc khiến cho người khác chiều theo ư thích của ḿnh?” [66][Chính bạn, bạn cũng không thể trở nên như ḿnh muốn, thế sao bạn lại có thể bắt người khác phải trở nên như bạn muốn]. Tôi có thể đề cập tới nhiều điều khác nhưng tôi không có thời giờ. Tôi đă đi quá mức thời giờ hợp lệ của ḿnh v́ muốn giúp cho bạn hiểu được một điều ǵ đó về tôn giáo rất thường bị ngụy trang trong tâm trí của bạn bởi những thuyết giải hẹp ḥi mà nó liên tục khoác lấy.
Và tôi xin hiệu triệu các Ki Tô hữu cũng như những người thuộc các tôn giáo khác, đó là lời hiệu triệu đoàn kết để phá vỡ những điều ngăn cách; tại sao họ lại không cùng nhau đến với một diễn đàn chung cùng với mọi tôn giáo lớn khác trên thế giới? Tại sao cái tôn giáo non trẻ này mới có 18 thế kỷ tuổi đời lại không đến ḥa nhập với Phật giáo đă tồn tại được 2400 năm; ḥa nhập với Bái hỏa giáo và Ấn Độ giáo với cả chục ngàn và hai chục ngàn năm trong quá khứ? Chẳng lẽ họ không thấy ḿnh báng bổ Thượng Đế xiết bao khi tuyên bố rằng Ngài chỉ giữ ḿnh dành cho một tôn giáo duy nhất trong số mọi tôn giáo và điều đó hầu như là tôn giáo trẻ nhất trong mọi tôn giáo? Chẳng lẽ họ không thấy làm thế nào mà họ xúc phạm tới Đấng Tối Cao khi họ đ̣i hỏi độc quyền trên diễn đàn, xua đuổi mọi đứa con khác của Ngài vào trong bóng tối, không được công nhận bởi Đấng Cha Lành của mọi linh hồn? Chẳng phải Thượng Đế đă tự xưng là Đấng Cha Lành của mọi linh hồn chứ đâu phải chỉ là Cha của các linh hồn nhập thế trong thể xác của các Ki Tô hữu. Nếu ta có thể đạt được sự đoàn kết này th́ mọi sự cải đạo ắt dừng lại, không ai cố gắng cải đạo người khác theo đức tin của ḿnh, mà đúng hơn là cố gắng học điều người khác có thể dạy được cho ḿnh, điều mà người khác quan niệm về Thượng Đế. Đó là v́ ta có thể học được tất cả đối với nhau, tín đồ Ấn giáo học được từ Ki Tô hữu, và Ki Tô hữu học được từ tín đồ Ấn giáo, tín đồ Bái hỏa giáo học được từ Phật tử và Phật tử học được từ tín đồ Bái hỏa giáo. Mọi tôn giáo đều chẳng qua chỉ là một tia sáng màu của Thượng Đế và khi thống nhất mọi tôn giáo lại th́ ta ắt thấy ánh sáng trắng chân chính. Chừng nào mà ta c̣n chia rẽ th́ ta c̣n nhuốm màu một tia đặc biệt. Ta hăy nghiên cứu mọi tôn giáo và yêu thương tất cả mọi tôn giáo, nhiên hậu ta sẽ tiến gần hơn tới Suối Nguồn mà tất cả chúng ta đều thoát thai và tận cùng nơi đó.
Bạn thừa biết tôi đâu có thuộc về cái tôn giáo mà tôi đang phác họa ở đây; bạn thừa biết mặc dù sinh trưởng trong Công giáo nhưng tôi đă bị nó trục xuất do sự tŕnh bày hẹp ḥi và không biết tới những quan điểm chân thực và sâu sắc hơn của những tín ngưỡng ấy. Nhưng tôi có nói với bạn rằng mọi tôn giáo này đều xuất phát từ cùng một cội nguồn. Các con cháu của chúng nên sống như những người anh em chứ không phải như những kẻ thù và chẳng ai nên cố gắng cải đạo người khác, tất cả nên được đối xử một cách trân trọng. Ḷng thù ghét là điều ác cho dù ta có thể thấy nó nơi bất cứ tôn giáo nào. Mong sao mỗi người hăy dạy dỗ tín ngưỡng của chính ḿnh cho những người khác muốn tuân theo; mong sao mọi người đều được tự do nói lên quan điểm của ḿnh về Thượng Đế đối với mọi người nào sẵn ḷng lắng nghe ḿnh. Chúng ta chẳng qua chỉ là những phiến diện của Đấng Vĩnh Hằng; trí năng của ta là những kênh dẫn hẹp ḥi mà sự sống và t́nh thương của Thượng Đế tuôn đổ qua đó. Ta hăy là kênh dẫn nơi bản thân ḿnh nhưng ta đừng chối bỏ việc những người khác cũng là kênh dẫn giống như chính ta; sự sống và t́nh thương thiêng liêng tuôn chảy qua họ cũng như tuôn chảy qua chúng ta. Bấy giờ ḥa b́nh mới có được, bấy giờ mới không c̣n có sự chia rẽ nữa; bấy giờ mới có sự thống nhất, sự hài ḥa vốn c̣n lớn lao hơn cả sự đồng nhất nữa. Khi các con của Ngài sống trong t́nh yêu thương nhau, th́ họ mới có thể hi vọng biết được một điều nào đó về t́nh thương của Thượng Đế, v́ một bậc đạo sư của Ki Tô giáo quả thật có nói: “Kẻ nào không yêu thương người huynh đệ mà ḿnh đang nh́n thấy, th́ làm sao y có thể yêu thương được Thượng Đế mà ḿnh không nh́n thấy” [67][V́ kẻ nào chẳng thương yêu anh em ḿnh là người ḿnh đă thấy, th́ thể nào thương yêu Đức Chúa Trời là Đấng ḿnh chẳng từng thấy được ư?] .
H Ế T
[1] Thánh thư Mark, IV, 11.
[2] Contra Selsum, XXI. V́ không có tài liệu trực tiếp của các Đức Cha cho nên tôi sử dụng những điều trích dẫn của các Đức Cha trong loạt bài tuyệt vời của ông A. M. Glass đăng trong Tạp chí Lucifer “Bàn về Ki Tô giáo và các Giáo huấn của nó”.
[3] Phúc âm Matthew, VII. 6.
[4] Phúc âm Matthew, XV. 26, 27.
[5] Stromata, I, 12.
[6] Thánh thư John, XVI, 12.
[7] Stromata, VI, 15.
[8] Công vụ các Tông đồ, I, 3.
[9] Contra Celsum, VI, 6.
[10] Thư thứ nhất gửi tín hữu xứ
[11] Như trên, II, 7.
[12] Như trên, II, 6.
[13] Stromata, I, 1.
[14] Stromata, VI, 9.
[15] Contra Celsum, I, 7.
[16] Như trên, III, 60.
[17] Stromata
[18] Bàn về qui định cho kẻ ngoại đạo, XLI.
[19] Lịch sử Giáo hội, III, 5.
[20] Bàn về các Nguyên lư, IV, 1.
[21] Thánh thư Isaiah, LVII, 15.
[22] Như trên, XLII, 5.
[23] Như trên, XLIII, 10, 19.
[24] Thánh thư Amos, V, 21-24.
[25] Thánh thư Isaiah, LVIII, 4-8.
[26] Thánh thư Micah, VI, 6-8.
[27] Thánh thư Matthew, III, 16, 17.
[28] Thánh thư John, XIV, 12.
[29] Thánh thư Mark, XVI, 17, 18.
[30] Thánh thư Matthew, V, 8.
[31] Như trên, 28.
[32] Như trên, V, 44-45.
[33] Như trên, VI, 22-23.
[34] Thánh thư Matthew, VII, 14.
[35] Như trên, XI, 28-30
[36] Như trên, XIX, 14.
[37] Thánh thư Matthew. XIX, 16-24.
[38] Thánh thư Luke, XV, 3-7.
[39] Công vụ các Tông đồ, X, 38.
[40] Pistis Sophia, trang XXIII.
[41] Bức thư thứ nhất của Thánh John, V, 7, phiên bản cũ.
[42] Thánh thư Job, XI, 7.
[43] Thánh thư Khải huyền, IV, 5.
[44] Thánh thư La mă, VIII, 38.
[45] Thánh thư Trallians, 5.
[46] Thánh thư thứ nhất gửi tín hữu Thessalonia, V, 23.
[47] Thánh thư thứ nhất gửi tín
hữu
[48] Thánh thư John, X, 34-36.
[49] Như trên, XVII, 21-23.
[50] Thánh thư Galatians, IV, 19.
[51] Thánh thư Ephesians, IV, 13.
[52] Thư thứ nhất gửi tín hữu
[53] Thánh thư Khải huyền, III, 12.
[54] Thánh thư Matthew, XI, 14.
[55] Thánh thư Matthew, XVII, 10-13.
[56] Thánh thư John, IX, 2-3.
[57]
Contra Celsum, 1.
[58] Thư gửi tín hữu Galatians, VI, 7.
[59] Sách đă dẫn II, 11.
[60] Như trên, III, 31.
[61] Như trên, 37.
[62] Sách đă dẫn, 39.
[63] Như trên, 31.
[64] Như trên, 26.
[65] Như trên, II, 11.
[66] Như trên, I, 16.
[67] Thư thứ nhất của Thánh John, IV, 20.
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES