|
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES
|
KHẢI HUYỀN, LINH HỨNG, QUAN SÁT Một bài thuyết tŕnh đọc tại Đại hội Thông Thiên Học Anh quốc,
ngày
mùng 4 tháng 7 năm 1909.
|
|
Những người nghiêm
túc tiến hành việc nghiên cứu Thông Thiên Học ắt không thỏa măn với việc chỉ
đọc kho tài liệu Thông Thiên Học đồ sộ được trút vào thế giới qua hàng thế
kỷ trong quá khứ và tiếp tục tuôn đổ vào đó thời nay. Thêm nữa, nếu họ có
bất kỳ năng lực bẩm sinh nào để khảo cứu như vậy, th́ họ nên chuẩn bị phát
triển năng lực giúp ḿnh có thể tự thân kiểm chứng điều mà những người khác
bảo cho ḿnh biết. Nhưng trong mọi trường hợp, th́ ta nên nghiên cứu lư
thuyết nhiều trước khi chuyển sang thực hành, và trong hầu hết mọi trường
hợp th́ ta không thể phát triển những giác quan tinh vi trong giới hạn của
kiếp lâm phàm hiện nay, mặc dù ta có thể đặt nền móng vững chắc cho sự phát
triển như thế trong kiếp tới. V́ thế cho nên, việc nghiên cứu lư thuyết phải
tạo thành một bộ phận lớn trong việc rèn luyện mọi học viên Thông Thiên Học,
và thái độ của y đối với việc nghiên cứu như thế là một vấn đề có tầm quan
trọng ghê gớm. Y cần phân biệt giữa những quyển sách mà ḿnh đọc để cho thái
độ của ḿnh thích hợp với loại h́nh sách ấy; y phải t́m hiểu xem
Khải huyền có nghĩa là ǵ,
Linh hứng có nghĩa ra sao, phải
phân biệt kho tài liệu Khải huyền với kho tài liệu Linh hứng và cả hai phải
được ghi nhận qua sự Quan sát.
Một số kinh điển
được coi là có thẩm quyền ẩn đằng sau mọi tôn giáo lớn. V́ thể cho nên Ấn
giáo có kinh Phệ đà. Từ ngữ này có nghĩa là tri thức và tri thức này vốn
chân thực đời đời. Đó là tri thức của Thượng Đế Ngôi Lời, tri thức của Đấng
Chúa tể một vũ trụ, tri thức về điều hằng hữu chứ không phải về điều
tŕnh hiện, tri thức về các thực
tại chứ không phải về các hiện tượng. Điều này hằng hữu nơi Thượng Đế Ngôi
Lời, nó là một bộ phận của Ngài. Dưới dạng biểu lộ được Khải huyền để trợ
giúp con người, nó trở thành kinh Phệ đà và dưới dạng đó, nó trải qua nhiều
giai đoạn, cho đến khi cuối cùng phần nguyên bản c̣n lại chẳng được bao
nhiêu. Mọi trường phái triết học Ấn độ đều công nhận thẩm quyền tối cao của
kinh Phệ đà, nhưng sau khi công nhận về mặt H́nh thức ấy th́ trí năng được
phép tự do tùy ư để điều tra, phán đoán. Mặc dù Ấn độ giáo cứng ngắc về
chính sách cai quản xă hội, song nó luôn luôn để cho trí năng con người được
tự do; trong triết học, siêu h́nh học, nó luôn luôn ngộ ra được rằng nên mưu
t́m chân lư và không trừng phạt sự sai lầm; sự sai lầm đă bị trừng phạt đúng
mức rồi qua sự kiện đó là sai lầm, theo định luật thiên nhiên nó gây ra bất
hạnh. Ngay cả ngày nay sự tự do cổ truyền ấy vẫn được duy tŕ, và người ta
có thể suy nghĩ, viết lách tùy ư miễn là y tuân theo việc thực hành những
tập tục xă hội của giai cấp ḿnh. Người Ấn độ chia toàn thể tri thức ra
thành hai loại h́nh - loại tối cao và loại thấp. Y xếp mọi thánh kinh vào
loại thấp – tiếp theo đó là huấn lệnh của một
Áo nghĩa thư [[1]]
cùng với mọi kho tài liệu khác, mọi khoa học, mọi giáo huấn; y chỉ
xếp vào loại tối cao tri thức về “Đấng mà nhờ có Ngài ta biết được mọi điều
khác”. Thế là ta có được phần tổng kết
của Ấn giáo. Một khi ta đă đạt được tri thức tối cao và đă trải
nghiệm sự giác ngộ th́ mọi thánh kinh đều trở nên vô ích. Điều này được
khẳng định rành mạch và táo bạo trong một đoạn văn nơi
Chí Tôn Ca: “Mọi kinh Phệ đà đều
hữu ích cho một người Bà la môn giác ngộ, giống như một cái b́nh ở nơi có
nước phủ lên trên” [[2]]
. Người ta có cần cái b́nh chứa chăng khi nước có ở khắp mọi nơi? Con
người có cần kinh điển chăng khi y đă giác ngộ? Sự khải huyền vô ích đối với
người nào mà Chơn ngă đă được khai thị.
Vào thời kỳ đầu
của Phật giáo, kinh Phệ đà đă được trọng vọng bởi v́ như Tiến sĩ Rhys Davids
có nói: “Đức Phật sinh đời được nuôi dưỡng, sinh hoạt rồi từ trần trên cương
vị là tín đồ Ấn giáo” [[3]].
Nhưng tính cách tự do trí thức đối với Phật tử bao hàm trong lời khuyên minh
triết của bậc Đạo sư: “Con đừng tin
vào một điều ǵ được nói ra chỉ v́ người ta đă nói ra nó, đừng tin vào
truyền thuyết v́ chúng đă được truyền thừa từ thời xưa; đừng tin vào lời đồn
đại như thế, đừng tin vào các tác phẩm do các thánh hiền viết ra chỉ v́ các
thánh hiền đă viết ra chúng . . . Cũng đừng tin vào thẩm quyền chỉ v́ của
các bậc đạo sư hoặc sư phụ của chính con. Nhưng ta phải tin khi lư trí và
lương tâm của chính ta đă chứng thực cho điều được viết ra, được nói ra hoặc
giáo lư. Đó là v́ ta đă dạy con: đừng tin chỉ v́ các con đă nghe thấy nó,
nhưng khi con tin bằng chính ư thức của ḿnh th́ hăy mạnh dạn hành động theo
đó” [[4]]
. Đối với Phật tử th́ ngay cả sự Khải huyền cũng phải được thử thách
bằng lư trí và ư thức; ắt phải có một sự đáp ứng với nó từ bên trong, nhân
chứng bên trong là Chơn ngă, trước khi ta có thể chấp nhận nó là thẩm quyền.
Trong các tín
ngưỡng Ki Tô giáo và Hồi giáo – cả hai chủ yếu chịu ảnh hưởng của Do Thái
giáo – bản chất thẩm quyền của sự Khải huyền được đẩy mạnh hơn mức bất kỳ
tín ngưỡng nào trước kia. Thời nay, cái ách thánh kinh được Khải huyền đă bị
giảm nhẹ rất nhiều đối với Ki Tô giáo do sự tăng trưởng của óc phê phán và
do sự khảo cứu của các học giả. Học viên Ki Tô giáo hiện đại cũng chẳng bị
ngăn cản bởi sự Khài huyền của ḿnh nhiều hơn bao nhiêu so với tín đồ Ấn
giáo. Người ta chỉ cần ngă nón tỏ vẻ tôn kính theo qui ước, thế rồi học viên
được tự do đi theo đường lối của ḿnh.
SỰ KHẢI HUYỀN
Đâu là sự Khải
huyền? Đó là truyền thông của một Đấng cao hơn nhân loại truyền lại sự kiện
chính Ngài biết cho những kẻ chưa biết mà Ngài thực hiện sự Khải huyền –
những sự kiện này th́ họ không thể đạt tới được bằng việc vận dụng những
quan năng mà họ đă tiến hóa đến mức đó. Bất cứ lúc nào sự kiện này cũng có
thể được kiểm nghiệm bởi người nào đấy leo lên tới mức của Đấng khải huyền,
đó có thể là một Hóa thân, một Thánh hiền, một Giáo chủ. Các ngài “tuyên cáo
bằng thẩm quyền”, thẩm quyền tri thức, thẩm quyền duy nhất mà mọi người lành
mạnh đều cúi đầu tuân theo. Chúng ta không thấy các Đấng cao cả này tự ḿnh
viết ra các giáo huấn; các Ngài dạy đỗ nhưng không ghi chép lại. Có thể là
sau một quăng thời gian nhiều năm, thậm chí nhiều thế kỷ mới có vài tín đồ
nào đấy, một vài đệ tử nào đấy viết ra điều mà ḿnh hoặc tổ phụ nghe thấy;
v́ thế cho nên sự khải huyền – và có lẽ chẳng có ngoại lệ nào đối với qui
tắc này – trong một chừng mực nào đó tất yếu bị người ghi chép lại tô điểm
thêm, làm hẹp ḥi đi, hoặc bóp méo xuyên tạc. Điều nguyên thủy được những
người thân cận bậc Đạo sư nghe thấy, quả thật tồn tại trong tiên thiên kư
ảnh, và luôn luôn có thể phục hồi từ đó bởi những ai đă phát triển những
quan năng nội tại để đọc được kư ảnh ấy. Tuy nhiều trường hợp có những người
tố chất rất cao đương thời đă ghi chép lại đúng mức, nhưng những quyển sách
quí ấy đều được giữ cẩn mật giao cho những người đă được tuyển lựa trông coi
trong các thánh điện bí mật, trong các thư viện ở hang đá, chỉ có sẵn để cho
các Cao đồ Huyền bí học nghiên cứu chứ người khác th́ không được.
Tín đồ Hồi giáo ắt
khẳng định rằng trong trường hợp thánh thư của ḿnh th́ chắc chắn hơn khi
chính những lời lẽ của bậc Đạo sư được bảo tồn, và chắc chắn điều này là do
thẩm quyền áp đảo của kinh Al Quran trong tâm trí tín đồ Hồi giáo.
Đâu là thái độ của
hội viên Thông Thiên Học đối với sự Khải huyền? Y nên coi các thánh kinh
trên thế giới là đáng tôn kính, nhớ rơ nguồn gốc của chúng nhưng không tuân
theo bất cứ thánh kinh nào v́ nhớ rằng đủ thứ kênh truyền thông đă truyền
thánh kinh xuống cho ḿnh. Y nên cầu viện tới khả năng học giả cao siêu
nhất, nên có được sự minh giải khả hữu từ những công tŕnh nghiên cứu lịch
sử và khảo cổ học, nên dùng sự phán đoán phê phán tốt nhất của ḿnh để tách
chân lư cốt lơi được khải huyền ra khỏi điều thêm thắt vốn đă được tô đắp
vào xung quanh nó. Nếu y đă phát triển được những quan năng thần thông cao
cấp th́ y nên cố gắng truy nguyên và tháo gỡ điều cổ truyền từ điều hiện đại
và t́m ṭi trong tiên thiên kư ảnh để so sánh, xác nhận hoặc phủ nhận điều
khải huyền mà y có trong tầm tay. Việc phụng sự của những môn sinh Thông
Thiên Học như thế có thể bao la xiết bao khi đội ngũ của họ trở nên đông đảo
và được trang bị tốt hơn cho nhiệm vụ khổng lồ này? Mà nếu không có trang cụ
bên ngoài th́ y vẫn có thể làm được nhiều bằng sự phát triển bên trong; khi
tham thiền sâu lắng y có thể mưu t́m sự thật vốn chói sáng qua sự khải huyền
ẩn bên dưới nhiều bức màn vô minh được kiến tạo lệch lạc, y có thể thanh tẩy
hóa cuộc đời của ḿnh đến nỗi những hạ thể của y ắt trở nên trong suốt đối
với ánh sáng tinh thần bên trong, nó soi sáng cho những chữ nghĩa được viết
ra: “Những sự việc của Thượng Đế chẳng biết tới con người mà chỉ biết tới
Tinh thần Thượng Đế”. Nhưng tinh thần ấy ngự trong mọi người và khi ánh sáng
của Ngài tỏa chiếu ra th́ những sự việc thiêng liêng được khải huyền cho kẻ
có tâm hồn trong sạch. Chừng nào Tinh thần bên trong c̣n chưa đáp ứng được
như vậy với những phát biểu và giáo huấn được khải huyền th́ học viên Thông
Thiên Học phải tạm ngưng phán đoán trước những lời rêu rao của bất cứ sự
khải huyền nào. Nó không đúng đối với
y chừng nào y chưa thể làm cho nó vang vọng trở lại qua tiếng nói Tinh
thần của chính ḿnh, tức Tự ngă sâu sắc nhất. Cho dù nó có thể hữu ích và
đẹp đẽ, đáng được nghiên cứu sâu sắc nhất và đáng được khảo cứu tôn kính,
th́ đó là các Thánh kinh trên thế giới. Như chừng nào chúng chưa được Tinh
thần bên trong xác nhận th́ ta chưa thể tuân phục, kẻo những sai lầm của con
người có thể được đổ vấy cho Tinh thần thiêng liêng.
SỰ LINH HỨNG
Linh hứng là ǵ?
Đó là việc nâng các năng lực b́nh thường của con người lên mức cao hơn nhờ
vào ảnh hưởng ngoại lai nào đấy qua từng bậc trí năng, năng lực đạo đức và
năng lực tinh thần măi cho tới mức mà ảnh hưởng ngoại lai thậm chí có thể
trục xuất con người ra khỏi thể xác y và dùng thể xác ấy cho một cá thể khác
biểu hiện. Khi chủ nhân ông mới là một Đấng ở một độ cao hoàn toàn siêu việt
được con người, th́ sự linh hứng có thể chuyển thành khải huyền. Một số
người có thể nghĩ rằng từ ngữ này nên được hạn chế vào việc nâng cao năng
lực của chủ thể từ mức năng lực b́nh thường lên tới mức cao nhất khả hữu mà
không cần phải trục xuất chủ nhân ông cũ để thay thế y bằng một cá thể khác
cao cả hơn chính y.
Các cấp linh hứng
khác ở trong tầm trải nghiệm của rất nhiều người. Khi lắng nghe một diễn giả
có tri thức và năng lực vượt xa chính bạn, có bao giờ bạn cảm thấy rằng trí
năng của ḿnh được nâng cao lên một mức cao hơn mức mà ḿnh có thể vươn tới
khi không được trợ giúp? Vào những dịp ấy ta lĩnh hội được những vấn đề cho
đến nay ta chưa hiểu, ta thấy rơ mồn một, trong khi trước kia chỉ thấy lờ
mờ; trường tư tưởng được soi sáng và ta thấy sự vật trong những mối quan hệ
cho đến nay ta chưa hề mơ tới. Ta cảm thấy ḿnh biết rồi. Đến ngày hôm sau
ta muốn chia xẻ với một người bạn những kho báu mà ta có được, th́ ta bắt
đầu giở ra lại cái tŕnh bày sáng sủa nhằm miêu tả những chân trời rộng mở
trước mắt ta. Ta thất bại: ánh sáng đâu mất rồi, c̣n đâu những viễn cảnh mà
mắt ta đă từng lướt qua? Tâm trí ta lại ch́m xuống mức b́nh thường, sự linh
cảm đă qua rồi. Đối với năng lực trí thức là bao nhiêu th́ năng lực đạo đức
cũng bấy nhiêu. Ta đă thấy một vẻ đẹp chưa từng biết, đă cảm nhận một sự hâm
mộ áp đảo đối với điều cao thượng và trong sạch. Điều ǵ đă biến thành sự
nhiệt t́nh hăng hái? Phải chăng lớp tro lạnh của sự ủng hộ trí thức vẫn c̣n
lại trong trái tim thoi thóp, niềm hân hoan đam mê với lư tưởng đạo đức. Tại
sao bây giờ nó có vẻ lạnh lẻo, ảm đạm không hấp dẫn đến như thế? Bạn đă được
nâng lên tới một mức cao hơn so với mức ḿnh có thể đạt được mà không được
trợ giúp; tuy nhiên cái lư tưởng đạo đức và quyền năng ấy của nó đă được
tŕnh hiện cho bạn “trên đỉnh Núi”, và sự kiện bạn đă từng một lần trải
nghiệm quyền năng thúc đẩy tất cả của nó ắt khiến cho bạn nhạy cảm hơn với
nó trong tương lai và sẽ có ngày điều mà bạn cảm nhận được nhờ một người
khác linh hứng sẽ trở thành sự vận dụng thông thường các quan năng đạo đức
của chính bạn.
Bạn có thể biết
một số chúng tôi đă lên tới những mức linh hứng cao cấp hơn khi đứng trước
mặt các Chơn sư và cảm nhận được sự hiện diện của các Ngài có khả năng nâng
cao chúng tôi một cách mầu nhiệm đến đâu. Các Ngài không cần nói, không cần
giảng dạy, chỉ cần có mặt cũng đủ rồi. Từ sự hiện diện ấy chúng tôi lại đi
ra ngoài ḥa trộn vào thế giới b́nh thường, cảm nhận được sự khác nhau trong
bầu hào quang của nó với bầu hào quang của Đấng cao cả. Nhưng
chúng tôi đă biết và kư ức ấy vẫn
ở măi với chúng tôi.
Những người đă
viết lách hoặc nói năng nhờ vào sự linh hứng đă được nâng cao như thế đấy.
Quan năng trí tuệ và đạo đức của họ đă được kích thích như vậy và nâng cao
lên vượt xa mức b́nh thường, họ vẫn c̣n nói hoặc viết, tính t́nh và tính khí
của chính họ vẫn tô điểm cho điều họ nói ra, để lại dấu ấn của riêng ḿnh
lên điều họ viết ra. Nhưng họ viết và nói cao thượng hơn hẳn, có sức mạnh
hơn hẳn so với mức họ có thể làm mà không được trợ giúp.
Vậy là ta có thể
được nâng cấp linh hứng từ mức này lên mức khác cho đến khi ta đạt tới tŕnh
độ mà tâm trí và xúc động của con người không c̣n chi phối thể xác của y
nữa, như thế thể xác ấy hoàn toàn bị chiếm hữu và sử dụng bởi Đấng cao cả
hơn chính y. Lúc bấy giờ phàm nhơn con người không c̣n nói nữa mà chính
“Tinh thần của Cha nói” qua y, những hạn chế của y bị mất đi, những tính khi
đặc dị của y cũng biến mất và những lời cảm ứng đạo giao ấy tuôn đổ ra mà
không bị ô nhiễm. Lúc bấy giờ linh hứng có thể được xếp vào loại khải huyền.
Qui
tŕnh Linh hứng
Qui tŕnh của mọi
điều này rất đơn giản. Ta biết rằng do sự tương quan giữa những biến đổi về
tâm thức và những rung động của chất liệu, mỗi sự biến đổi của tâm thức đều
được kèm theo bởi một rung động của chất liệu mà tâm thức chiếm lấy để h́nh
thành hiện thể; mỗi rung động trong chất liệu của hiện thể cũng được kèm
theo bởi một sự biến đổi trong tâm thức được thể hiện ra. Khi một trong cặp
này phát động th́ phần kia của cặp ấy ắt hưởng ứng. Khi hai hoặc nhiều người
tụ họp lại th́ có một người tiến hóa hơn những người khác; người tiến hóa
hơn suy nghĩ, ham muốn hành động bèn dựng nên trong các hiện thể hạ trí, vía
và xác của một loạt rung động tương ứng với những biến đổi trong tâm thức
của y; những rung động này gây ra những rung động tương tự trong chất liệu
hạ trí, vía và xác ngăn cách giữa chính y với những người kém tiến hóa hơn
đang có mặt. Đến lượt, những rung động trong chất liệu trung gian gây ra
những rung động tương tự trong các hiện thể ở lân cận. Những rung động ấy
ngay tức khắc được đáp ứng bởi những biến
đổi tương ứng trong các tâm thức được thể hiện ra và những người hữu
quan được giao tiếp với người tiến hóa hơn ḿnh ắt có thể suy nghĩ, ham
muốn, hành động ở một mức độ cao hơn so với mức họ có thể đạt được khi tự
lực cánh sinh. Họ có thể hiểu được sâu sắc hơn, cảm nhận được nồng ấm hơn,
hành động được cao thượng hơn so với mức không được trợ giúp. Khi sự kích
thích này bị mất đi th́ họ dần dần ch́m xuống trở lại mức b́nh thường, nhưng
kư ức vẫn c̣n đó và họ nhớ rằng ḿnh “đă biết”. Hơn nữa họ cũng dễ dàng hơn
trong việc đáp ứng lần thứ nh́ và cứ thế măi cho đến khi họ được xác lập
thường trực trên một mức cao hơn. V́ thế cho nên mới có giá trị của việc
đồng hành với những người cao cấp hơn chúng ta, sinh hoạt “trong hào quang
của những người ấy”. Chẳng cần nói năng ǵ, chỉ nói một chút thôi cũng được,
nhưng hiện thể tinh vi được chỉnh hợp với một ch́a khóa cao hơn mà người ta
không cảm nhận được, và có lẽ khi sự đồng hành ấy đă bị cắt ngang th́ người
trẻ tuổi hơn mới ư thức được sự thay đổi vốn đă được tạo ra như vậy do tiếp
xúc với bậc trưởng thượng hơn.
Ta cũng có thể đạt
được kết quả tương tự bằng cách đọc những tác phẩm của những
người tiến hóa hơn ta. Một loạt sự thay đổi giống như vậy được dựng
nên, mặc dù nó có sức mạnh kém hơn so với sự hiện diện linh hoạt của người
ấy. Vả lại, ư định và việc nghiên cứu kính cẩn có thể thu hút sự chú ư của
người viết, cho dù người này đang nhập thể hay thoát xác; điều này có thể
thu hút người viết tới với người học và như vậy khiến cho người học được bao
trùm hoàn toàn trong hào quang của người viết cũng mạnh mẽ như người viết
đang có mặt bằng xương bằng thịt. V́ vậy cho nên mới có giá trị của việc đọc
kho tài liệu cao thượng, chúng ta nhất thời được nâng lên tới mức đó và khi
kiên tŕ đều đặn đọc như vậy, ta ắt được nâng cao lên tới một mức cao hơn và
được xác lập ở đó. V́ thế cho nên mới có giá trị của việc đọc một đoạn ngắn
trước khi tham thiền, nó nâng ta lên một mức thuận lợi hơn cho công việc
tham thiền so với khi ta khởi sự mà không được trợ giúp. Cũng v́ thế nên mới
có giá trị của “những chỗ linh thánh” dành cho việc tham thiền khi bầu hào
quang theo sát nghĩa đang rung động ở một mức cao hơn so với mức của chính
ta. Cũng v́ thế cho nên mới có lời khuyên thường ban ra cho kẻ được giáo
huấn là nếu có thể được th́ hăy dành riêng một pḥng hoặc buồng kín để tham
thiền, chẳng bao lâu th́ nơi ấy ắt có được một bầu hào quang trong sạch và
tinh vi hơn so với thế giới xung quanh. Học viên Thông Thiên Học ắt chẳng
được ích lợi bao nhiêu khi làm quen với những định luật này nếu y không sử
dụng chúng để tự giúp ḿnh và giúp những người xung quanh.
Thái
độ đối với Linh hứng
Học viên Thông
Thiên Học nên có thái độ nào đối với người được linh hứng hoặc tác phẩm được
linh hứng? Y nên tiếp thu, làm yên mọi rung động b́nh thường của ḿnh đến
mức tối đa và mở rộng toàn bộ bản chất của ḿnh để tiếp thu sự tác động và
lưu nhập của những làn sóng rung động tuôn đổ vào ḿnh. Nhưng thái độ của y
nên vượt hơn mức tiếp thu, y nên từ tốn nỗ lực chỉnh hợp ḿnh và cộng tác
với những làn sóng lưu nhập. Y nên cố gắng tăng cường những rung động đồng
cảm sao cho những biến đổi kèm theo trong tâm thức có thể hoàn chỉnh đến mức
tối đa. Để được như vậy y phải tuôn đổ t́nh thương, sự tin cậy, tin tưởng và
quên ḿnh trọn vẹn hiến dâng lên Đối tượng đang linh hứng. Y phải nhất thời
trút bỏ được ư niệm, xúc cảm, hoạt động của chính ḿnh, hiến ḿnh để mô
phỏng chứ không phát khởi. Giống như cái hồ nước không bị xao động có thể
phản chiếu mặt trăng và ngôi sao, nhưng cũng cái hồ ấy bị cơn gió hiu hiu
thoáng qua làm mặt nước gợn sóng lăn tăn th́ chỉ có thể có những phản chiếu
vỡ vụn; con người hạ đẳng khi ổn định tâm trí ḿnh, làm cho những ham muốn
được yên lặng và áp đặt sự êm ả lên những hoạt động của ḿnh, ắt mô phỏng
bên trong ḿnh h́nh ảnh của phần cao thượng hơn, do đó người đệ tử có thể
phản chiếu trí của Chơn sư. Cũng v́ thể, nếu tư tưởng của chính y nổi dậy,
ham muốn của chính y nổi lên th́ y chỉ có những sự phản chiếu vỡ vụn, những
ánh sáng nhảy múa chẳng cho y biết được điều ǵ.
Nếu bạn sắp đọc
một trong những tác phẩm được linh hứng của thế gian:
Noi Gương Chúa, Những Kim Thi của
Pythagore, Ánh Sáng Trên Đường Đạo, Tiếng Nói Vô Thinh th́ trước khi đọc
bạn hăy cầu nguyện, nếu bạn có thói quen nâng tâm thức lên
tới tâm trạng cao nhất hoặc tŕ niệm một
mantra hay là ngâm lên dịu dàng
một bài ngâm vịnh quen thuộc và thân thương để đưa bản thân ḿnh vào t́nh
huống đồng cảm. Thế rồi bạn hăy đọc một câu, đọc đi đọc lại, suy gẫm câu ấy,
thưởng thức nó bằng cái trí, rút tỉa ra tinh hoa, sức sống của nó.
Vậy là thể tinh vi
của bạn ít ra là trong một chừng mực nào đấy cũng chỉnh hợp được với thể
tinh vi của người viết được linh hứng và lập lại rung động của người ấy để
lập nên trong tâm thức bạn những sự biến đổi tương ứng. Những tác phẩm được
linh hứng thật là vô giá: đó là những nấc thang trên một cái thang được bắc
từ dưới đất lên trời, một cái thang Jacob thật sự mà các vị thiên sứ của
Thiên Chúa có thể leo lên tụt xuống bằng cái thang ấy.
SỰ QUAN SÁT
C̣n có một loại
sách vở thứ ba đáng để cho học viên Thông Thiên Học chú ư, nhưng thái độ của
y đối với chúng nên khác hẳn so với thái độ y chọn theo đối với những tác
phẩm được khải huyền và linh hứng.
Đây là những tác
phẩm bao hàm những điều quan sát của các học viên tiên tiến hơn y, điều quan
sát của những học viên đang tiến hóa về tri thức và quyền năng trên nhiều
cơi nhưng chưa đạt tới tŕnh độ Con người Toàn bích. Có những sách chẳng hạn
như Giáo Lư Bí Truyền và
Phật giáo Bí truyền do các đệ tử
viết ra, tuy không ghi lại những quan sát trực tiếp của học viên, mà đúng
hơn là chép lại những giáo huấn của Chơn sư, th́ trong đó vẫn có lẫn lộn
những điều sai lầm do hiểu lầm các giáo huấn. Chính H. P. B. cũng bảo chúng
tôi rằng trong Giáo Lư Bí Truyền
tất yếu có những sai lầm và khi trong tác phẩm tuyệt vời ấy ta thấy có việc
bà miêu tả những bức tranh do Sư phụ bà chỉ cho bà thấy, th́ điều này cũng
mở ra khả năng sai lầm khi quan sát: có lẽ sai lầm ấy không nghiêm trọng v́
trong khi viết lách bà vẫn được giám sát và trợ giúp kỹ lưỡng. Hai tác phẩm
nêu trên tách riêng với đại khối kho tài liệu của chúng ta, bởi v́ các Chơn
sư có dính dáng tới việc viết những sách ấy. C̣n những sách mà tôi đang đề
cập tới là do các đệ tử viết ra khi sử dụng những quan năng thông thường của
chính ḿnh, các quan năng vẫn c̣n đang tiến hóa. Đó là những sách chủ yếu
liên quan tới cơi trung giới, trí tuệ và bồ đề, liên quan tới cấu tạo của
con người, liên quan tới quá khứ của những cá thể, quốc gia, chủng tộc và
thế giới. Chúng ta đang dần dần tích lũy được một số lớn kho tài liệu thuộc
loại này, kho tài liệu quan sát của các học viên dùng những quan năng siêu
vật lư. Đối với điều này th́ ta cần nhớ kỹ một vài qui tắc:
Một là:
Các học viên hữu quan đang tiến hóa cho nên những quan năng mà họ sử dụng
ngày nay đă trở thành các quan năng thông thường của họ và tiến bộ hơn, đạt
được những cơi cao hơn so với các quan năng mà họ đă sử dụng cách đây 10
hoặc 15 năm. V́ thế cho nên giờ đây họ nh́n thấy nhiều hơn so với mức họ
nh́n thấy vào lúc đó, xét cả về mặt số lượng lẫn chất lượng và tầm nh́n rộng
mở này tất yếu phải đưa tới những tường tŕnh có mức độ viên măn hơn so với
tầm nh́n trước kia hạn hẹp hơn.
Hai là:
Sự trọn vẹn lớn hơn này ắt thay đổi tùy theo tỉ lệ và phối cảnh. Một sự vật
có vẻ uy nghi và độc lập khi ta thấy nó có một ḿnh, nhưng sự vật ấy có thể
trở nên phụ thuộc và tương đối không quan trọng khi ta thấy nó là một bộ
phận của một tổng thể lớn hơn. Nó có thể thay đổi h́nh dáng và màu sắc, được
nh́n thấy với những bối cảnh xung quanh mà người ta chỉ nh́n thấy được khi
quan sát nó bằng một tầm nh́n cao hơn. Chẳng hạn như một quả cầu mà mắt phàm
thấy trôi giạt qua không gian lại trở thành cái đầu mút cuối tự do của một
thể liên tục gắn liền bằng chất liệu với mặt trời khi ta nh́n thấy nó bằng
tầm nh́n siêu vật lư. Liệu việc mô tả nó là một quả cầu là sai hay đúng? Vừa
đúng vừa sai. Nó đă và đang là một quả cầu trên cơi trần, đáp ứng với mọi
ngụ ư về quả cầu mà ta ngầm hiểu dưới đây. Thế mà ở các cơi tinh vi hơn nó
không c̣n là một quả cầu nữa mà là một thể, đầu mút của thể ấy chỉ là quả
cầu đốí với mắt phàm, mắt phàm này không thấy được sự nối tiếp nó vốn vô
h́nh.
Ba là:
Tầm nh́n sâu sắc hơn ḍ ra những giai đoạn trung gian trước kia chưa ai thấy
và cho thấy một loạt những biến đổi giữa hai giai đoạn mà đối với tầm nh́n
kém sắc sảo hơn th́ đó là một chuỗi ngay trước mắt. Vậy th́ trong những quan
sát trước kia, người ta bảo rằng cực vi tử hồng trần vỡ ra thành chất trung
giới. Mười hai năm sau khi người ta nghiên cứu một hiện tượng tương tự th́
thấy rằng nguyên tử hồng trần ấy vỡ ra thành ra vô số hạt nhỏ li ti không
tưởng tượng nổi và ngay tức khắc các hạt này lại tụ tập thành 49 nguyên tử
trung giới, chúng có thể hoặc không thể tổ hợp thành các phân tử trung giới.
Lại nữa người ta có đề cập tới một bức vách xoay ṿng, khi nh́n kỹ hơn th́
chẳng thấy bức vách nữa mà đó là một hàng rào hăo huyền do chuyển động nhanh
gây ra giống như một ṿng tṛn lửa được vạch ra bởi một cái que có đầu mút
châm lửa đang quay tít. Cũng giống như vậy, dưới ánh sáng liên tục của chất
hơi hoặc điện th́ một cái đĩa quay tít gồm các tia màu trắng và màu đen
tŕnh hiện thành màu xám; ta tắt đi rồi cắt ngang bóng tối bằng ánh sáng
chớp lóe th́ cái đĩa ấy coi như bất động và mọi tia trắng đen đều rơ ràng
phân biệt. Đâu là sự quan sát đích thực? Trong mỗi trường hợp th́ mắt đều
thực sự chứng kiến điều mà nó nh́n thấy. Các ngoại duyên khác nhau áp đặt
lên nó những tầm nh́n khác nhau.
Cũng có những sự
dị biệt khác nữa, nhưng ta có thể coi những điều trên là tiêu biểu. Vậy th́
chẳng lẽ những sách vở liên quan tới sự quan sát ấy là vô ích hay sao? Chúng
chỉ trở nên vô ích thậm chí là tai hại, khi học viên Thông Thiên Học coi
chúng là những điều khải huyền hoặc linh hứng, thay v́ là điều quan sát.
Quan sát là cơ sở của kiến thức khoa học; điều kiện để cho khoa học tiến bộ
là những quan sát sau này phải sửa sai được những quan sát trước kia. Khi
giáp mặt với cái đĩa có tia trắng và đen, cái đĩa tŕnh hiện thành màu xám;
cái đĩa quay tít nhưng có vẻ bất động th́ học viên quang học ắt không kết
luận rằng những quan sát mâu thuẫn với nhau như vậy khiến cho nó trở nên vô
dụng. Y t́m ṭi và t́m ra ngoại duyên của ánh sáng, cấu tạo của mắt, để giải
thích được những phúc tŕnh ấy đều đúng hết, mặc dù mâu thuẫn với nhau. Y để
cho những quan sát ấy phải chịu một thí nghiệm mới và phải chịu sự khảo sát
kỹ lưỡng của lư trí cho đến khi sự thật nhiều mặt xuất lộ từ những điều mâu
thuẫn ấy.
Thái
độ Khoa học
Học viên Thông
Thiên Học nên có thái độ ra sao đối với những sách vở quan sát? Đối với
những sách như thế, ta phải có thái độ của một học viên khoa học chứ không
phải thái độ của một tín đồ. Ta phải vận dụng một trí thông minh lỗi lạc,
một cái trí sắc sảo, một trí năng đầy tâm huyết, một lư trí biết phê phán và
suy tư để ứng phó với những quyển sách ấy. Ta không được chấp nhận những
quan sát của các học viên khác là chung thẩm cho dẫu những học viên này đang
sử dụng những quan năng mà chính ta c̣n chưa phát triển được. Ta chỉ chấp
nhận những quan sát ấy như là: những quan sát này có thể bị biến đổi, sửa
sai, duyệt lại. Ta nên coi nhẹ chúng chỉ là những giả thuyết nhất thời được
chấp nhận cho đến khi những quan sát thêm nữa (kể cả quan sát của chính ta)
xác nhận hoặc phủ nhận chúng. Nếu chúng soi sáng cho những điều tối tăm, nếu
chúng đưa tới đạo đức lành mạnh th́ ta hăy tiếp nhận chúng và sử dụng chúng;
nhưng đừng bao giờ để cho chúng trở thành xiềng xích đối với tâm trí ta, trở
thành nhà tù đối với tư tưởng ta. Ta hăy nghiên cứu những sách vở này nhưng
đừng có nuốt chửng nó; hăy t́m hiểu nó và tạm gác lại sự phán đoán: những
sách vở ấy là những đầy tớ hữu ích đắc lực nhưng là những ông chủ nguy hiểm;
ta phải nghiên cứu chúng chứ không sùng bái chúng. Hăy tự ḿnh có ư kiến chứ
đừng vay mượn ư kiến của người khác, đừng hấp tấp, nên biết rằng ḿnh chấp
nhận những ư kiến của người khác chỉ là những ư kiến đă có sẵn giống như
quần áo may sẵn th́ chưa chắc ǵ ta đă mặc vừa chứ đừng nói tới khi ta thay
đổi vóc dáng.
Trong Hội Thông
Thiên Học có một khuynh hướng nguy hiểm khi biến những sách vở quan sát
thành những thẩm quyền, thay v́ chỉ dùng chúng làm tài liệu nghiên cứu. Ta
không được làm gia tăng thêm số tín đồ mù quáng đă tồn tại rồi, mà phải làm
tăng thêm số học viên lành mạnh và mực thước vốn kiên nhẫn có ư kiến của
riêng ḿnh và rèn luyện năng lực của riêng ḿnh. Hăy sử dụng sự phán đoán
của chính ḿnh đối với mọi điều quan sát mà ta cần phê chuẩn; hăy khảo sát
nó càng kỹ lưỡng càng tốt; hăy phê phán nó tới mức tối đa. Các bạn đă phục
vụ tồi tệ cho chúng tôi khi các bạn biến các học viên thành những vị giáo
hoàng và lập lại như con két những phát biểu mà bạn chẳng biết có đúng hay
không, nhưng cứ cho đó là thẩm quyền. Hơn nữa, tin tưởng mù quáng là con
đường dẫn tới đa nghi mù quáng: bạn đặt học viên lên cái bệ rồi lớn tiếng
rêu rao rằng người ấy là một đạo sư, bất chấp lời phản đối của người ta; thế
rồi khi bạn thấy người ấy phạm phải một số sai lầm nào đấy – th́ chính y đă
cảnh báo bạn là chuyện đó rất có thể xảy ra – th́ bạn lại quay ngoắc đi, hạ
bệ y và chà đạp lên y. Bạn đánh y nhừ tử trong khi lẽ ra bạn phải đập cho
mềm xương cái sự mù quáng của chính bạn, sự ngu dốt của chính bạn và sự háo
hức tin theo của chính bạn.
Chẳng lẽ không
phải là lúc ta nên ngưng đóng vai trẻ con để bắt đầu là những người nam nữ
trưởng thành hay sao, khi ta ngộ ra được cơ hội của ḿnh lớn lao biết dường
nào, c̣n thành tựu của ḿnh th́ nhỏ bé xiết bao? Chẳng lẽ đây không phải là
lúc để dâng lên Chân lư việc tôn vinh nghiên cứu thay v́ sùng bái sự cả tin
mù quáng hay sao? Ta hăy sẵn sàng sửa sai một ấn tượng sai lầm hoặc một quan
sát chưa hoàn hảo, hiên ngang bước đi với đôi mắt mở to và đầu óc tỉnh táo,
nên nhớ rằng khảo sát là việc phụng sự tốt nhất cho Chân lư. Chân lư là mặt
trời, tự soi sáng bằng ánh sáng của ḿnh, một khi ta đă nh́n thấy nó th́ ta
không thể bác bỏ nó được. “Mong sao Chân và Giả đánh xáp lá cà với nhau;
trong cuộc đụng độ công minh ấy, ai biết đâu được Chân lư lại tồi tệ hơn hay
sao”.
----------------------------
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES