Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  QUEST  MAGAZINES 

Tập sách số 19, Tủ sách Adyar

 

HUYỀN BÍ HỌC, BÁN HUYỀN BÍ HỌC

 và NGỤY HUYỀN BÍ HỌC

(Occultism, Semi-Occultism, and Pseudo-Occultism)

Tác giả Annie Besant

Bản dịch Chơn Như

2012

 

 

Một bài diễn thuyết được tŕnh bày ở Chi bộ Blavatsky, Luân Đôn,

vào ngày 30 tháng 6 năm 1898.

 

Lúc lần đầu tiên ngỏ lời với Chi bộ sau khi từ Ấn Độ trở về, tôi thiết tưởng các bạn dường như cũng chẳng lấy làm lạ hoặc cho là không thích đáng trước sự việc tôi chọn đề tài là một điều mà phần lớn rút ra từ lịch sử Ấn Độ. Đây không phải là lịch sử của quốc gia theo ngoại môn công truyền, mà là lịch sử theo cái đường lối nội môn bí truyền vốn đáng cho các học viên và Thông Thiên Học giả chúng ta quan tâm sâu sắc nhất. Và xét v́ lịch sử không ngừng được lập lại cho nên ngay cả thời nay, việc học hỏi như thế vẫn có thể giáo huấn cho ta một số điều nào đấy. Đó là v́ tôi sắp yêu cầu các bạn hăy cứu xét điều mà tôi có thể định nghĩa – mặc dù hơi khó định nghĩa một chút – một là huyền bí học, rồi hai là điều có thể gọi là bán huyền bí học và ba là những hệ lụy nối tiếp và bủa vây những thứ này vốn đặc biệt có tác dụng đáng kể vào bất cứ lúc nào huyền bí học chân chính đang hoạt động trên thế gian.

Nhiều người thường nhầm lẫn khi giả định rằng bản thân các lực tâm linh có một điều ǵ đó mà họ đắc ư gọi là thiếu thực tiễn. Và chúng tôi không ngớt nhận ra một giả thiết được coi là đương nhiên không cần lư luận theo đó chẳng hạn như nếu một quốc gia định hướng theo một lư tưởng tâm linh hoặc nếu các cá nhân tận hiến cho sinh hoạt tâm linh th́ quốc gia ấy rất có thể trở nên vô danh tiểu tốt theo những đường lối hiển nhiên và rành rành hơn, và một cá nhân như thế rất có thể mất mát nhiều thứ được gọi là giá trị thực tiễn trên thế gian. Một nhân sinh quan như thế thật là nhầm lẫn và là một loại nhầm lẫn rốt ráo nhất. Sự giải phóng các thần lực tâm linh, việc phóng thích các năng lượng trên cơi tâm linh có tác dụng đối với cả cá nhân lẫn quốc gia lớn hơn hẳn so với bất kỳ lực nào được phát động trên các cơi sinh hoạt thấp hơn. Khi một năng lượng tâm linh được phóng thích, nó giáng xuống qua các cơi hiện tồn khác, gây ra một sự giải phóng năng lượng trên mỗi cơi và tạo ra những kết quả lớn lao tỷ lệ với bản chất của lực tâm linh. Điều này khiến cho khi nghiên cứu lịch sử, ta quả thật thấy rằng khi các lực tâm linh được phóng thích th́ sinh hoạt trí thức của quốc gia cũng sẽ nhảy vọt với năng lượng ghê gớm, sinh hoạt xúc động của quốc gia sẽ bộc lộ sự phát triển mới mẻ và ngay cả trên cơi thấp hơn hết – cơi hồng trần – ta cũng tạo ra được những kết quả hoàn toàn vượt ngoài tầm bất cứ thứ ǵ có thể thành tựu được nhờ vào các năng lượng thuộc cơi hồng trần được phát động và tạo ra các kết quả biểu kiến này. Đó là một nguyên lư, một qui luật mà tôi yêu cầu các bạn hăy nhớ kỹ xuyên suốt mọi điều mà tôi phải nói với các bạn theo đó mọi thần lực được phát khởi trên các cơi cao khi chuyển xuống cơi thấp, đều tạo ra những kết quả tỷ lệ với bản thân. Điều này khiến cho người ta quả thật có một quan điểm thiển cận về đời người và hoạt động nhân gian khi tưởng tượng rằng sự tận hiến cho sinh hoạt tâm linh, sự tiến hóa của cá nhân trong thế giới tâm linh, là một điều ǵ khác nữa chứ không phải là một sự tăng trưởng bao la cho mọi thần lực tiến bộ đang tác động trên thế giới, là một điều ǵ khác nữa chứ không phải là việc nâng thế gian lên nấc thang vĩ đại mà nó đang leo lên đó.

Nhưng khi học hỏi, ta cũng cần phải nhớ kỹ một nguyên tắc nữa, đó là: khi lực được phóng thích trên bất kỳ cơi nào th́ những kết quả do lực này gây ra ắt có tính cách biến thiên tùy theo những kẻ sử dụng các năng lượng này sau khi chúng được giải phóng. Chúng tôi thường nêu rơ cho các bạn ở đây thấy là năng lượng trên các cơi khác nhau của thiên nhiên là tự thân chúng chẳng hề tốt hoặc xấu theo như ta gọi. Lực là lực, năng lượng là một năng lượng. Khi ta du nhập ư niệm thiện và ác, đúng và sai, đạo đức và vô đạo đức th́ những ư niệm này có liên quan tới những kết quả mà các cá nhân đă gây ra khi họ sử dụng các lực này. Thế th́ một thời đại năng lượng tâm linh ghê gớm, phóng thích nhiều thần lực từ cơi tâm linh, ắt được đánh dấu trên qui mô lớn bằng những hoạt động có tính cách đối lập trên các cơi hiện tồn thấp hơn,  và các cá nhân có thể tiếp quản và sử dụng những năng lượng được phóng thích trên mỗi cơi cho cái mà ta gọi là điều thiện hay điều ác. Xét theo quan điểm này th́ thiện hay ác phân biệt với nhau qua việc cá nhân sử dụng lực này như thế nào hoặc có thể kiểm soát bộ phận nào của chúng. Liệu y có đang sử dụng chúng để cứu độ nhân loại hay chăng, liệu y có coi chúng là năng lượng Thượng Đế mà ḿnh có thể dùng để xúc tiến Thiên ư hay chăng, hay là liệu y chỉ đang ra sức chụp giựt v́ những cứu cánh riêng rẽ của chính ḿnh, phấn đấu ứng dụng chúng vào những ǵ mà y muốn chụp giựt nắm giữ, phục vụ cho các mục đích của riêng ḿnh, không đếm xỉa ǵ tới cơ cấu tổ chức của Thượng Đế. Thế th́ như tôi có nói, ta sẽ nhớ kỹ điều này như sau đây. Thứ nhất đó là một bài học, một điều ǵ đấy trong quá khứ Ấn Độ, thế rồi khi ứng dụng bài học ấy mà ta học được vào cái phong trào mà nội bộ ta biết hiện nay th́ có một phong trào tâm linh lớn đang biểu lộ ra trên thế gian mà Hội Thông Thiên Học là một trong những biểu hiện mạnh mẽ.

Để bắt đầu ta hăy tự hỏi huyền bí học là ǵ? Từ ngữ này được sử dụng và bị lạm dụng một cách dị thường nhất. H. P. Blavatsky đă từng có lần định nghĩa nó là việc nghiên cứu trí tuệ trong thiên nhiên; về vấn đề này từ ngữ trí tuệ ngụ ư là việc nghiên cứu Trí tuệ Vũ trụ, trí tuệ Thượng Đế, nghiên cứu những tác động của Thượng Đế trong Vũ trụ, do đó nghiên cứu mọi năng lượng vốn xuất phát từ trung tâm tinh thần rồi thể hiện ra trong thế giới xung quanh ta. Đó là việc nghiên cứu khía cạnh sự sống của Vũ trụ, khía cạnh mà vạn vật thoát thai từ đấy và được định h́nh theo đấy, phải nh́n xuyên qua cái h́nh tướng hăo huyền tới tận thực tại làm linh hoạt h́nh tướng. Đó là việc nghiên cứu làm nền tảng cho mọi hiện tượng, đó là ngưng không c̣n bị mù quáng hoàn toàn do những ngoại h́nh mà ta liên tục vận động trong ấy và v́ thế không ngừng bị chúng làm cho si mê, đó là việc xuyên thủng qua bức màn maya để nhận thức được thực tại, Tự Ngă nhất như, Sự Sống nhất như; Thần Lực nhất như vốn ở trong vạn vật và vạn hữu đều ở nơi nó. Như vậy, thật ra theo ư nghĩa chân chính của từ ngữ này th́ huyền bí học có thể được coi như đồng nhất với cái tầm nh́n mà bạn từng biết qua phát biểu trong Chí Tôn Ca khi đấng Shri Krishna tuyên cáo rằng: “Kẻ nào nh́n thấy Ta (nghĩa là nh́n thấy Tự Ngă nhất như) nơi vạn hữu và thấy vạn vật ở nơi Ta th́ kẻ ấy mới thật sự nh́n thấy”. Nếu bạn đă từng hiểu ít nhiều điều được hàm ư trong đó th́ bạn thấy việc nghiên cứu như thế tất yếu ngụ ư là người nh́n thấy phải phát triển được những quan năng tinh thần cao siêu nhất, bởi v́ chỉ có Tinh thần mới biết được Tinh thần. Ta không ngừng nói rằng ḿnh chứng minh được điều này điều kia hoặc một sự vật tinh thần nào khác. Đối với Tinh thần th́ không có sự chứng minh nào khác hơn ngoại trừ chứng minh qua Tinh thần; khi ta đạt tới mức xét đến thực tại Tinh thần th́ không có bằng chứng nào của trí năng, của xúc động, của các giác quan mà xứng đáng gọi là bằng chứng. Không một điều ǵ có bản chất bằng chứng theo những đường lối ấy cho dù thuộc về giác quan, thuộc về xúc động hoặc trí năng mà lại có thể khác hơn mức chỉ là một gợi ư, một phản ánh của sự thật, một ví dụ tương tự có thể dắt dẫn ta đi trên con đường đúng đắn nhưng nó chẳng bao giờ có thể là bằng chứng theo đúng nghĩa của từ ngữ này. Và quả thật ở một trong những kinh điển Ấn Độ, rồi được lập đi lập lại trong những kinh điển khác trên thế giới, người ta có viết là theo đúng ư nghĩa của từ ngữ ấy th́ không có bằng chứng nào về Thượng Đế ngoại trừ niềm tin vào Tinh thần bởi v́ chỉ có Tinh thần mới tương cận được với Ngài và chính là Ngài, nó mới có thể biết được, tiếp xúc được với Ngài.

Bây giờ ta hăy xét huyền bí học chân thực theo đúng định nghĩa nêu trên để ngộ ra được rằng theo đúng nghĩa của từ ngữ ấy th́ không ai có thể là huyền bí gia trừ phi người ấy đă phát triển cho bản chất tinh thần của ḿnh hoạt động; đến bước tiếp theo th́ ta mới có thể tách rời khỏi huyền bí học chân thực này mà rất nhiều điều ăn theo tên tuổi của nó cả trong quá khứ lẫn hiện tại, trong số các bậc tiền bối cũng như trong chính chúng ta ngày nay. Nhưng để tách rời được mọi dạng của cái gọi là huyền bí học, ta cần phải phân biệt những điều theo một nghĩa nào đấy có thể coi là bàn đạp dẫn tới sự thực mà những người tŕnh bày chúng cho thế gian cũng ngụ ư đó là bàn đạp có thể được sử dụng để tiến lên, phân biệt chúng với những h́nh thức khác không thật sự được bao gồm xứng danh huyền bí học theo bất kỳ ư nghĩa chân chính nào của thuật ngữ này; đó là những điều mà H. P. Blavatsky đă từng có lần gọi là huyền bí thuật và đối với nhiều người dường như bao hàm mọi thứ mà họ coi là huyền bí học: đây là những thuật sử dụng một vài lực trong thiên nhiên và phát triển những quan năng trên nhiều cơi khác nhau của thiên nhiên bên dưới cơi tinh thần; đó là v́ bên trên cái gọi là cơi hồng trần có những cơi vẫn c̣n thấp hơn các cơi tinh thần mà sự phát triển một vài quan năng ắt đưa con người tới mức tiếp xúc khiến cho y có thể kiểm soát và sử dụng được các lực của ḿnh. Hầu như có hằng hà sa số thuật và đường lối nghiên cứu thuộc loại này mà bất cứ học viên chân chính nào, bất cứ ai đang mưu t́m sự thật cao siêu ắt chẳng bao giờ được phép nghĩ tới chúng khi tư tưởng y đang hướng về huyền bí học. Và một số các bạn có thể được minh giải khỏi suy tư lẫn lộn về đề tài này nếu các bạn tham chiếu bài viết của H. P. Blavatsky về Huyền bí học tương phản với Huyền bí thuật, trong đó bà vạch ra một đường phân chia cực kỳ minh bạch chứng tỏ lập trường mà huyền bí thuật đang đeo đuổi hoặc được coi là đang đeo đuổi khi ta bàn tới cơ tiến hóa của nhân loại.

Thế th́ huyền bí học chân chính là điều mà tôi yêu cầu các bạn trước hết phải nghĩ đến nó và như tôi đă nói việc theo đuổi nó hàm ư việc phát triển bản chất tinh thần. Thế mà khi bây giờ ta nói tới việc phát triển bản chất tinh thần th́ ngay tức khắc ta ắt nhận ra được rằng đối với đa số chúng ta th́ sự phát triển ấy ắt phải ở nơi tương lai, nhưng ta có thể bắt đầu làm việc hướng về nó ngay bây giờ; sự tiến bộ của ta ắt có tầm quan trọng lớn lao nếu ta nhận ra được điều ấy và là việc hướng về nó, chứ không hiểu lầm bản chất của sự phát triển này mà phí phạm thời gian, có thể phí phạm mất nhiều kiếp qua việc đi theo những lối ṃn vào ngơ cụt và những đường lối sai lầm. Sự phát triển bản chất tinh thần phải nối tiếp – và đây là một trong những điều quan trọng nhất mà ta có thể nhận ra được – sự tẩy trược những bộ phận thấp hèn trong bản chất của ta. Ta phải thanh khiết về mặt xúc động và trí năng, ít ra ta cũng phải đạt tới một giai đoạn nào đấy, loại trừ phàm ngă trước khi có bất cứ điều ǵ đáng gọi là sự phát triển tinh thần trong tầm với của ḿnh. Không một số lượng chỉ phát triển trí thức nào – và tôi sẽ trở lại vấn đề này v́ tôi tuyệt nhiên không muốn đánh giá thấp cái đường lối cần thiết nhất cho sự tăng trưởng của con người – thế nhưng không một số lượng chỉ phát triển trí thức nào tự thân nó có thể tạo ra được sự tăng trưởng bản chất tinh thần. Với một lư do căn bản là trong một bài thuyết tŕnh tương lai tôi sẽ bàn đầy đủ hơn, nhưng nhân tiện ở đây tôi xin nói rằng sự phát triển bản chất tinh thần và bản chất trí thức trực tiếp đối lập với nhau ở một điều mấu chốt sống c̣n. Cái nguyên khí mà ta gọi là trí năng vốn là nguyên khí phân tích, phân chia, chia rẽ. Chính mục đích tiến hóa của nó là xây dựng cá thể, gốc rễ của nó vốn ở ahankara tức ngă chấp; chính điều đó đă hạn chế, xác định, chia rẽ, ngăn cách người này với người khác, chính nó tạo ra cái mà ta có thể gọi là lớp vỏ ích kỷ vốn hoàn toàn cần thiết trong một giai đoạn tiến hóa, chỉ là một phần trong sự tăng trưởng của ta nơi thế gian. Đó là một giai đoạn mà toàn thể nhân loại phải bước qua, nhưng tự thân nó gây ra mọi điều hăo huyền mà Tinh thần phải siêu việt, nó mang lại cái nét chấm phá thực tại biểu kiến cho một bản ngă biệt lập, bản ngă đối lập, bản ngă chỉ biết thèm thuồng, vơ vét, chụp giựt và đương đầu với mọi bản ngă khác. Đến nỗi mà cái  ta có thể gọi là chính nguyên khí hăo huyền ắt được biểu diễn qua quan năng trí thức này.         

Cho dù sự tiến hóa của nó là cần thiết, song le xét về mặt này th́ nó lại đối lập với sự tiến hóa của tinh thần; bởi v́ sự tiến hóa của tinh thần ngụ ư sự công nhận và tăng trưởng của Tự ngă Nhất như thành ra hoạt động biểu lộ, trước hết trong nội bộ cái lớp vỏ do trí năng tạo ra thế rồi bằng cách siêu việt nó để tạo ra việc thực chứng cái tính đơn nhất vốn là mục tiêu tiến hóa của loài người. Chính v́ thế mà ta đặt tính đơn nhất của loài người vào cơi tinh thần, chính v́ thế mà ta tuyên cáo t́nh huynh đệ của con người là một thực tại tinh thần, bởi v́ Tinh thần chỉ có một và chỉ khi ta công nhận tính đơn nhất ấy, ta biết được nó một cách hữu thức – không chỉ là hiểu theo trí năng mà là thực chứng theo một cách hữu thức – chỉ khi đó th́ bản chất tinh thần mới được thể hiện qua lộ tŕnh tiến hóa. V́ trí năng vốn chia rẽ c̣n Tinh thần vốn thống nhất, v́ một đằng sinh ra hăo huyền c̣n một đằng siêu việt được hăo huyền, v́ một đằng là cội nguồn của cả biệt ngă và phàm ngă, c̣n một đằng là cội nguồn của Tính Nhất Như mà ta mưu cầu và sẽ thực chứng, cho nên các bạn dễ dàng hiểu được làm thế nào mà trong lộ tŕnh tiến hóa hai bộ phận này trong bản chất của ta không thể được coi là có liên hệ nhân quả với nhau theo nghĩa nghiêm xác của thuật ngữ này, và ta không thể bảo rằng khi bản chất trí thức tiến hóa th́ bản chất tinh thần tất yếu sẽ phát triển. Ngược lại, ta phải học để biết được rằng ḿnh không phải là trí năng mà phải sử dụng trí năng làm một công cụ; ta không phải là bản ngă biệt lập mà là Tự ngă Nhất như sinh hoạt trong tất cả. Đó là mục tiêu tiến hóa của ta, mục đích cuộc hành hương của ta; v́ vậy huyền bí học vốn ngụ ư là nghiên cứu và phát triển bản chất tinh thần, ắt phải hoàn toàn siêu việt được cơ tiến hóa trí thức. Thậm chí trong nhiều giai đoạn ban đầu nó có thể ắt thấy và phải thấy kẻ đối lập cay đắng nhất, kẻ thù nguy hiểm nhất của chính ḿnh là cái kẻ đang gieo rắc hăo huyền mà các bạn có thể nhớ là quyển Tiếng Nói Vô Thinh đă cảnh báo chúng ta về nó, đó là quyển sách mang tính tinh thần nhiều nhất mà biết bao nhiêu người trong chúng ta thấy rằng nó đă mở ra con đường cho chúng ta đến với sinh hoạt tinh thần. Khi nhận thức được điều ấy tự nhiên ta sẽ nh́n ra phía trước ngưỡng vọng coi cơ tiến hóa tinh thần là một điều phải được triển khai hơn là phải được hoàn tất từ chính cái giai đoạn mà hiện nay ta đang ở mức đó. Ta cũng phải chuẩn bị để ngộ ra được sự khó khăn ghê gớm của một thành tựu như thế, ta ắt phải tu tâm dưỡng tính biết dường nào, những yêu cầu mà ta phải đáp ứng ắt ghê gớm biết dường nào trước khi ta có thể với tới bất cứ điều ǵ đáng gọi là huyền bí học theo ư nghĩa nghiêm xác của thuật ngữ này.

Trong lịch sử quá khứ khi huyền bí học chân chính là nguồn sống của thế gian, khi cái suối nguồn cao cả của sự sống tinh thần tuôn đổ ra từ những Đấng đă phát triển hoàn toàn được bản chất tinh thần, khi thế gian rút tỉa được ánh sáng và sự sống từ những Đấng như thế th́ rơ ràng là tri thức, quyền năng, công tŕnh của các ngài không thể chia xẻ phần lớn bởi nhân loại chưa phát triển hoặc thậm chí bởi nhân loại tiên tiến xung quanh họ. C̣n ít hơn nữa khi có bất kỳ phần lớn giáo huấn hoặc sự hiểu biết chân thực công tŕnh và phương pháp của các ngài có thể được quần chúng biết tới; thế nhưng những mối liên hệ này cần phải được thực hiện; có thể nói là cần phải tạo ra những bước tiến như thế. Kết quả của tính tất yếu này là những người tiên tiến – mặc dù bản chất tinh thần nơi họ chưa hoàn toàn tiến hóa – những người có quyền năng lớn lao vốn nổi bật lên trong lịch sử là những vĩ nhân của loài người, họ đă phấn đấu để giúp cho hàng ngũ đang tiến lên của loài người có thể hiểu được phần nào về con đường tiến lên mà người ta phải bước đi trên đó, ngộ ra được phần nào những phương pháp mà người ta có thể chọn theo để có thể tiến gần tới các cơi tinh thần.

Như tôi có nói, những người này cho dù là vĩ nhân vẫn chưa phải là những người mà bản chất tinh thần đă hoàn toàn phát triển đến mức cao tột và hoàn tất. Trong nhiều trường hợp – và tôi xin kính cẩn nói tới những đấng cao cả hơn chúng ta rất nhiều – sự tiến hóa của các ngài thậm chí có thể nói đă đi theo một đường lối vượt trội hơn những đường lối tăng trưởng khác; điều này khiến cho một người có thể đă phát triển trí năng ghê gớm nhưng có lẽ kém hoàn hảo hơn về tính cách đạo đức; một người khác có thể đă tiến bộ rất nhiều về ḷng sùng tín và có thể chưa phát triển được bao nhiêu về lực trí thức; một người khác có thể linh hoạt sắc xảo về những nhu cầu tôn giáo của con người nhưng lại không quan tâm bao nhiêu tới sự tiến hóa triết lư của y; một người nữa lại có thể hướng chú tâm về sự phát triển một vài khía cạnh trong bản chất con người vốn tiếp xúc với cơi tồn tại là cơi hồng trần và thậm chí cưỡng chế những quan năng nơi con người mà khi bốc lên từ bên dưới ắt đưa y tiếp xúc với những bộ phận của cơi trung giới hoặc cơi hạ trí, và có thể cưỡng chế những quan năng và bộ phận trong bản chất của ḿnh liên quan tới quan năng ấy tiến xa hơn cơ tiến hóa đạo đức và tâm trí. Các bạn ắt dễ dàng hiểu được rằng những cá thể như thế có lẽ đă tiến bộ theo đủ thứ đường lối và mỗi người ắt đặc trưng qua suy tư và nỗ lực phụng sự nhân loại của ḿnh bởi những phẩm tính riêng, những thuộc tính mà ḿnh  đặc biệt tiến hóa được. Điều này khiến cho khi nh́n ngược lại lịch sử xa xưa của Ấn Độ ta ắt thấy các bậc đại đạo sư thường được gọi là Rishis thuộc nhiều loại h́nh khác nhau, mỗi đấng dâng hiến cho quốc gia một năng khiếu vĩ đại nào đấy do tư tưởng, tri thức của ḿnh với mục đích giúp cho các linh hồn tiên tiến hơn của quốc gia hướng về sự tiến bộ mà tận cùng là cơ tiến hóa tinh thần. V́ thế cho nên ta hăy xét một đường lối tăng trưởng là một hệ thống triết học vĩ đại mà ta thấy được tư tưởng Ấn Độ, chẳng hạn như hệ thống Vedanta. Khi được coi là một hệ thống tri thức triết học thuần túy th́ nó tŕnh bày dưới một dạng trí thức hoành tráng quan điểm về Vũ trụ, về Tự ngă Nhất như, về Sự sống Nhất như và những biểu lộ của nó vốn hăo huyền theo ư nghĩa triết học thâm sâu nhất, nó đóng vai tṛ là một sự rèn luyện trí thức, là một bước mà con người phải dấn thân để học hỏi được một điều ǵ đấy về những điều bí nhiệm trong Vũ trụ. Khi được nghiên cứu tách rời khoa Yoga mà chỉ có khoa này mới khiến nó trở nên thực tiễn th́ hệ thống ấy có thể được xếp loại dưới đề mục bán huyền bí học. Đó là một hệ thống chân chính trong nội bộ phạm vi của ḿnh, một hệ thống có mục đích trợ giúp cho sự tiến bộ của loài người mà chỉ những linh hồn tiến hóa cao về mặt trí thức mới có thể lĩnh hội, theo đuổi, nghiên cứu nó được; tuy nhiên nó không phải là chân lư tinh thần; nó chỉ là một sự tŕnh bày của trí năng về một khía cạnh chân lư tinh thần, một sự biểu diễn của trí năng về một phương diện của chân lư tinh thần.

Có một điều mà ta phải luôn luôn ghi nhớ đó là Tinh thần không bao giờ có thể diễn đạt được theo kiểu trí năng. Nhất bổn chẳng bao giờ lĩnh hội được theo kiểu vạn thù và bất cứ sự tŕnh bày nào của trí năng về chân lư tinh thần tất yếu phải mang tính riêng phần, tất yếu phải bất toàn và như người ta thường nói tất yếu phải là một lớp kính màu mà ta nh́n ánh sáng trắng xuyên qua đó. Một tia đi xuyên qua lăng kính trí năng làm tán sắc ánh sáng trắng Tinh thần, phô bày ánh sáng trắng dưới nhiều màu sắc khác nhau dưới dạng những chùm tia phân kỳ, tự thân mỗi chùm tia này đều bất toàn. Thế th́ một trong những tặng phẩm lớn mà Ấn Độ thời xưa đi theo đường lối này do kết quả của huyền bí học chân chính, thành quả của sinh hoạt tinh thần dũng mănh, đó là triết lư Vedanta cùng với mọi hệ thống trí thức được dự tính để rèn luyện con người, để tŕnh bày một quan niệm về thực tại tinh thần trong chừng mực mà trí năng có thể tŕnh bày được. Nhưng chúng ta nên nhớ điều khoản bảo lưu: “trong chừng mực mà trí năng có thể tŕnh bày được”. Quan điểm của trí năng chỉ là một quan điểm riêng phần và cho dù một quan điểm như thế có thể giúp cho con người dùng trí năng để hiểu một điều ǵ đó về những khả năng của những sinh hoạt cao siêu, song le một quan điểm như thế chẳng bao giờ có thể giúp y ngộ ra được nó trong tâm thức hoặc mang lại tri thức chân chính mà chỉ có nó mới đạt được do sự tiến hóa của chính bản chất tinh thần.

Có nhiều trường phái Yoga theo một đường lối hoạt động khác nữa. Các bạn thừa biết rằng những trường phái này có bản chất cực kỳ đa tạp. Một số trường phái được thiết kế để phát triển tâm thức trí năng cao siêu của con người nhờ vào sự định trí và tham thiền, do đó khiến cho y tiếp xúc với các cơi cao trong bản thể; chúng có mục đích đưa y từng giai đoạn một giải thoát khỏi thể xác để chuyển lên các cơi cao một cách hữu thức sao cho tâm thức của y có thể hoạt động trong các địa hạt tự tại mở rộng hơn. Và ta thấy nhiều giáo huấn của khoa Yoga – các bạn có thể tùy ư t́m đọc nhiều hệ thống này lúc rảnh rỗi, những hệ thống thuộc sự phân loại lớn là Raja Yoga – đă được thích nghi kỹ lưỡng để giúp cho sự tăng trưởng của cái trí, sự tiến hóa của những quan năng tâm trí cao siêu hơn, vươn lên tới cơi thượng trí, chuyển sang các trạng thái tâm thức vượt xa tầm với của nhân loại phàm phu. Chúng lại là một bàn đạp được đưa ra nhưng vẫn thuộc về cái đề mục mà tôi gọi là bán huyền bí học. C̣n có những trường phái khác được thành lập để bàn tới con người theo những cách khác, phấn đấu cưỡng chế các quan năng của y từ bên dưới, cưỡng chế sự tiến hóa và rèn luyện các quan năng của thể vía, trước hết khiến y tiếp xúc với cơi trung giới, khiến y làm quen với một bộ phận của thế giới hiện tượng liên kết mật thiết với thế giới vật chất. Những trường phái này thường được xếp loại là trường phái Hatha Yoga, trong đó người ta sử dụng đủ thứ phương pháp đối trị với các hạ thể của con người. Người ta dùng những phương pháp này để rèn luyện thể xác, tẩy trược nó một phần lớn và biến nó thành một công cụ ngoan ngoăn. Quyền năng của ư chí cũng được phát triển ghê gớm, con người được dạy cách làm chủ bản chất thấp hèn của ḿnh và như vậy trong rất nhiều trường hợp đă thật sự đạt được một bước tiến hướng thượng mặc dù ta không thể bao gồm nó trong đề mục huyền bí học chân chính theo bất cứ ư nghĩa nào của thuật ngữ này.

Khi bàn tới mọi trường phái này, khi xem xét chúng và phấn đấu t́m hiểu công dụng cũng như sự lạm dụng chúng, ta phải nhớ rằng thật là một điều cao cả khi con người làm chủ được những đam mê của ḿnh, thật là một điều cao cả khi chế ngự được bản chất thú tính của ḿnh để có thể đứng vững vàng không dao động, bất chấp mọi cám dỗ có thể tiến công phàm nhân. Và có rất nhiều trường phái mà Tây phương theo thời thượng thường khinh thường và chê bai, thế nhưng chúng lại có cái yếu tố này, ít ra chúng cũng công nhận rằng bản chất trí thức của con người nên làm chủ bản chất tham dục và y nên học cách kiểm soát được hoàn toàn thể xác, kiểm soát hoàn toàn được những đam mê. Và ngay cả theo nhiều đường lối tiến hóa hắc ám hơn, ngay cả trong những trường phái đi theo con đường mà mọi người muốn đạt tới đỉnh cao nhất nên hết sức cẩn thận tránh né, thế mà quả thật là những trường phái ấy cũng khăng khăng nghiêm xác đ̣i hỏi phải chế ngự được bản chất thấp hèn. Chỉ có kẻ vô minh mới giả định rằng những trường phái hắc ám hơn đều miệt mài thực hành sự tham dục. Nhiều tín đồ thuộc trường phái này sống cuộc đời mà xét về khía cạnh bản chất hữu quan th́ có thể được coi là gương mẫu đối với đại đa số người thuộc thế giới Tây phương.

Thế mà toàn bộ những trường phái khác nhau này đều vươn lên và nở rộ ở Ấn Độ thời xưa do kết quả của việc các cơi tinh thần ào ào tuôn xuống các cơi thấp và tự nhiên là chúng được sử dụng cả cho mục đích ích kỷ lẫn mục đích vị tha. Nhưng khi bàn tới mọi trường phái Yoga vốn rèn luyện trí năng và phát triển các dạng tâm thức trí tuệ cao siêu th́ ta cần nhớ rằng đó thật sự là những bàn đạp hướng lên tâm thức cao siêu hơn và ta cần trải qua một giai đoạn tiến bộ bằng cách thực hành định trí, dùng việc tham thiền để có thể làm quen với việc lặng ngắm bằng trí thức và xúc động những lư tưởng hiệu triệu ta qua tính cao cả và cao thượng của chúng. Đây là những giai đoạn trên con đường hướng thượng và những giai đoạn mà rất nhiều người trong chúng ta có thể sử dụng ngay bây giờ ngỏ hầu đạt được sự tăng trưởng cao hơn, minh triết thâm thúy hơn của tương lai. Những người đi theo đủ thứ đường lối tiến hóa này cơ bản là được kích động bởi sự thôi thúc của Sự Sống Thượng Đế bên trong ḿnh, bao giờ cũng t́m cách nâng họ lên và t́m cách cho họ thăng lên; trong mức độ bản thân họ ư thức được th́ động cơ thúc đẩy của họ là ḷng ham muốn tự nhiên đúng đắn có sự tiến hóa cao siêu hơn, tiến bộ thêm nữa, tăng trưởng trong sinh hoạt. Đó là v́ ta thường thấy rằng khi ta nghiên cứu về sự tiến bộ th́ ta không thể nhảy vọt lên tới những đỉnh cao của sinh hoạt tinh thần; ta phải leo lên từng bước một, ta phải sử dụng những tư tưởng cao siêu nơi bản thân để chế ngự điều thấp hèn, thế rồi đến lượt ta phải qua cái điều cao siêu ấy khi một đỉnh cao hơn nữa lại xuất hiện trong tầm nh́n của ta nhưng ở bên ngoài tầm với của ta. Khi nghiên cứu ta thừa biết rằng ḿnh có  thể thường xuyên loại bỏ những tham vọng thấp hèn bằng cách nuôi dưỡng một tham vọng cao siêu hơn và mặc dù tham vọng cao siêu ấy vẫn c̣n gắn liền với phàm ngă hoặc thậm chí siêu việt được phàm ngă nhưng vẫn c̣n gắn liền với cá tính; song le nó là một bàn đạp, một trong những đường lối giúp ta leo lên. Ta nên không ngừng dẹp điều thấp hèn bằng những ham muốn cao siêu, mặc dù ngay cả những ham muốn cao siêu này đến lượt chúng cũng dường như thấp thỏi khi ta vươn lên vượt qua chúng và một sự toàn bích lớn lao hơn dần dần lọt vào trong tầm ngắm của ta. Điều này khiến cho ta mong cầu một cuộc sống cao thượng hơn, ham muốn phát triển, khao khát tiến bộ và có được vị trí đúng mức trong cơ tiến hóa; những người có khả năng tiến hóa thêm nữa được chọn ra từ hàng ngũ của những người cảm thấy những điều nêu trên, từ hàng ngũ những người sử dụng phương pháp khiến cho ta tiến bộ được. Họ dần dần học cách vượt qua hi vọng tiến bộ cá nhân và cũng học biết theo đúng nghĩa nhất của thuật ngữ này th́ sự tiến bộ cá nhân chỉ là ảo tưởng và không thể tồn tại v́ sự sống được thực hiện là một bộ phận của Sự Sống Thượng Đế tuôn đổ ra v́ những người khác; và không một sự sống nào là chân thực, không một sự sống nào là có thật, không sự sống nào mang tính tâm linh nếu người ta không hoàn toàn siêu việt được chính cái ư niệm về sự sống riêng rẽ và mọi tư tưởng về bản thể, mọi năng lượng của sự sống đều được tuôn đổ ra thành một bộ phận của Sự Sống Nhất Như và người ta không công nhận bất cứ một sự phân biệt nào. Lúc bấy giờ, phụng sự là biểu hiện tự nhiên của sự sống, giúp đỡ là điều mà người ta cảm nhận được trong đó có sự tồn tại chân thực. Nhưng trước khi ta có thể đạt lư tưởng này ngay cả chỉ nhận thức được về mặt trí năng thôi thí ít ra cũng phải đạt sự tiến bộ nào đấy nhằm siêu việt được điều mà ta nhận ra là phàm ngă; và để có thể thực hiện được điều ấy khi mọi người đều đắm ch́m trong hăo huyền – tất cả mọi người đều đă và đang bị như vậy – th́ có nhiều phương pháp khác nhau được gợi ra bởi những kẻ nào vui ḷng giúp đồng loại ḿnh tiến lên, tiến bước trên con đường hướng thượng.

Những người khác khi hiểu được bản năng tôn giáo nơi con người – cái khía cạnh trong bản chất của y vốn liên kết với những xúc động mà ḷng sùng tín bắt nguồn từ ấy cùng với những khả năng tăng trưởng của ḿnh – khi hiểu được rằng trên con đường tiến hóa thăng thượng dễ dàng nhất th́ họ đang ban ra cho thế giới đủ thứ dạng tôn giáo với đủ mọi biến thể thích ứng với nhu cầu của con người, như vậy khiến cho con đường thăng thượng thích hợp những người nào có cấu tạo thu hút họ chủ yếu theo hướng t́nh thương và phụng sự. Thế th́ khi hiểu được rằng mọi phương pháp tăng trường này đều hoạt động nhiều nhất vào lúc mà sự sống chân thực đang tác động ở tâm vạn vật th́ ắt chẳng có ǵ khó hiểu bằng cách nào mà khi sự sống ấy càng t́m được ít kênh dẫn hơn để biểu lộ ra thế gian th́ càng ít người sẵn sàng siêu việt được những hạn chế của chính ḿnh và hoàn toàn hiến thân làm kênh dẫn cho Thượng Đế, tất cả những phương pháp này đều mất đi sức sống của nó và một phần lớn sự hữu dụng của chúng. Thế là khi nh́n ra xung quanh nước Ấn Độ thời nay, ta thấy rằng có nhiều sự việc trước kia đă từng sống động th́ giờ đây lại chết cứng, nhiều hệ  thống xưa kia đă từng sống c̣n th́ bây giờ chỉ là lớp vỏ, chỉ làm đề tài cho giới trí thức tranh căi hoặc để cho cá nhân vênh váo chứ không c̣n là bàn đạp đưa tới sự sống cao thượng hơn. Đó đây vẫn c̣n sống sót một số tia le lói nào đấy của sự sống chân thực, một số công dụng có thật đă được vận dụng từ những bàn đạp tiến lên trước này; nhưng xét về đại khối quần chúng chỉ c̣n lại những lớp vỏ h́nh thức vốn là bằng chứng của những điều đă tồn tại trong quá khứ, ta có thể dám hi vọng rằng đây cũng là những bằng chứng về điều khả hữu trong tương lai.

Cũng chẳng mất công ǵ khi nhắc các bạn nhớ cho rằng trong khi bán huyền bí học có thể được coi là một bàn đạp dẫn tới huyền bí học chân chính th́ ngụy huyền bí học thường là một chướng ngại vật cản trở rơ rệt. Ta có thể xếp loại vào đề mục này gồm các “huyền bí thuật” mà khi nghiên cứu chúng nhiều kẻ sơ cơ đầy triển vọng đă lạc đường và uổng phí kiếp sống của ḿnh. Thuật phong thủy, coi chỉ tay, bói bài tarot v.v. . . tất cả những thứ này cũng quá đủ cho những kẻ nào muốn bước trên con đường dẫn vào lănh vực ít ai biết đến trong thiên nhiên và thu thập được kiến thức về cách vận hành huyền bí của chúng. Những bí thuật này có thể vô hại, thú vị, thậm chí hữu ích trong một chừng mực nhỏ nhưng chúng không phải là huyền bí học và những người giảng dạy chúng không phải là huyền bí gia. Sự thành công chút ít trong việc theo đuổi chúng – và sự thành công ấy không đ̣i hỏi phải có phẩm chất cao về trí hoặc tâm – thường sinh ra ḷng hiếu danh phi lư nhất và tính tự phụ dường như thể sự ve vản được cô vũ công trong vương quốc huyền bí học đă biến một kẻ phàm phu thành một pháp sư cai trị thế giới ấy. Một người có thể là bậc thầy về đủ mọi bí thuật này thế nhưng vẫn c̣n cách xa huyền bí học hơn một người phụ nữ thanh khiết và vô ngă chỉ mưu cầu yêu thương và phụng sự, hoặc một thiện nam rộng lượng, có tâm hồn trong sạch tận tụy giúp đỡ đồng loại. Và nếu những bí thuật này chuyển sang các mục đích ích kỷ hoặc nếu chúng nuôi dưỡng tính hiếu danh th́ những người giảng dạy các bí thuật ấy có thể tự ḿnh tiến gần một cách nguy hiểm hơn tới ngưỡng cửa bàn môn tả đạo.

Khi ta t́m cách ứng dụng điều này vào phong trào hiện nay của ta th́ có một bài học dễ dàng nảy sinh ra đủ để cho ta xem xét kỹ. Lại nữa, ngày nay đă có một luồng lưu xuất lớn sự sống chân thực, lại có thêm một nỗ lực của những Đấng canh giữ, bảo tŕ sự sống này cho nhân loại, các ngài tuôn đổ ra những năng lượng tinh thần chân chính để trợ giúp và nâng cao con người trong mọi lănh vực bản thể để cho y lại có thể biểu lộ được sự sống chân thực. Ta đă ghi nhận điều này qua một vài phát biểu xác định thỉnh thoảng đă được nêu lên qua những lời nói bóng gió, thỉnh thoảng được thốt ra bởi người đă từng là sứ giả đặc biệt thời nay để mở ra cho giống dân của chính chúng ta khả năng ấy. Và có một đoạn trong tài liệu mà tôi đă đề cập ngay từ đầu cung ứng cho ta chỉ trong một câu có được thực tại về sự sống: ta được cho biết rằng khi một người trở thành một huyền bí gia chân chính th́ y chỉ c̣n là một lực v́ ích lợi của thế gian. Đây là môt câu mà người ta đọc nhưng không ngộ ra được ư nghĩa của nó, một câu xen vào giữa những phát biểu khác cho nên không đánh động hết sức ḿnh lên tâm trí và tâm hồn của kẻ chưa chuẩn bị. Đó là v́ có nhiều điều được nói ra mà chẳng ai để ư v́ không có khả năng tiếp thu, có nhiều sự thật được tuyên cáo mà vẫn c̣n mơ hồ và chẳng nói lên được điều ǵ ngoại trừ đối với những người đă bắt đầu mở mắt ra để nh́n sự thật và vểnh tai lên để nghe sự thật. Và cái phát biểu ấy vốn thật sự tŕnh bày đời sống huyền bí qua một vài lời là phát biểu mà hầu hết bạn đọc lướt qua nhưng không ngộ ra ư nghĩa của nó. Không có sự sống tinh thần chân chính, không có huyền bí học chân thực chừng nào con người ít ra chưa nhận thức được mục tiêu trong sinh hoạt của ḿnh là phải trở thành một lực về điều thiện và chỉ v́ điều ấy thôi trong thế gian. Y không c̣n mưu cầu sự tiến bộ của riêng ḿnh, không c̣n mưu cầu sự sống của riêng ḿnh, không c̣n mưu cầu sự phát triển của riêng ḿnh, không c̣n yêu sách bất cứ điều ǵ mà trên trời dưới đất hoặc bất cứ thế giới nào khác cũng không thể ban cho y để hưởng cho riêng ḿnh. Bên trong y chỉ c̣n lại một điều duy nhất là ḷng mong ước phụng sự: chỉ có một điều duy nhất là động cơ thúc đẩy cho bản thể cuộc đời y, là kênh dẫn cho sự sống cao cả của Thượng Đế, giúp cho sự sống ấy được rải rác một cách hữu hiệu hơn trên khắp thế giới của con người và trên khắp mọi thế giới nơi mà sự sống ấy tồn tại.

Khi người ta đă nhận ra được điều ấy cho dẫu c̣n cảm thấy xa vời, khi cái ư tưởng ấy thoạt đầu lờ mờ lóe lên trong tâm hồn con người – do trí năng đă lĩnh hội được tính cao thượng của nó, hoặc do ḷng sùng tín đă nhận ra được sự thật về nó – th́ lúc bấy giờ lần đầu sự sống tinh thần mới xao xuyến bên trong con người, mầm mống đầu tiên của bản chất tinh thần mới bắt đầu rộn ră bước vào cuộc sống. Và thế là ta bắt đầu ngộ ra được rằng nếu bất kỳ ai trong chúng ta muốn hiểu được và đạt được huyền bí học th́ ta phải bắt đầu chuẩn bị cho nó bằng cách làm việc theo tính cách và đường lối mà mọi tôn giáo đều giảng dạy. Biết bao nhiêu lần chúng tôi đă nghe trong nội bộ kháo nhau rằng:

“Chúng tôi biết hết mọi sự thật đạo đức này, Thông Thiên Học đâu có ǵ mới khi lập lại đạo đức xưa cũ. Khi người ta dạy chúng tôi phải vị tha, t́m cách giúp cho người khác thăng tiến, loại trừ phàm ngă, dẹp bỏ những khiếm khuyết của ḿnh, th́ đó là chuyện xưa cũ rích mà chúng tôi đă nghe đến mức nhàm chán. Chúng tôi muốn có một điều ǵ đó mới mẻ, chúng tôi muốn có một tri thức mới lạ nào đấy, một số sự kiện về cơi trung giới, một số chuyện kỳ lạ về cơi trí tuệ: đó là những điều chúng tôi yêu cầu Thông Thiên Học cung cấp, là những điều chúng tôi đang mưu t́m chứ chúng tôi không muốn bị áp đặt những câu châm ngôn luân lư, những lời lập lại không ngừng, những câu chuyện xưa như trái đất mà mọi tôn giáo đều giúp ta làm quen và chúng tôi có thể nghe giảng từ bất kỳ bục giảng nào.”

Thế nhưng sự thật trong vấn đề này là chỉ có đi theo con đường ấy th́ con người mới đă và đang có được sự sống tinh thần; các bậc Đạo sư Thiêng liêng ban ra cho thế gian những tôn giáo mà cứ triền miên nhấn mạnh tới đạo đức th́ các ngài đều biết rằng chỉ có sự sống tinh thần và chỉ có đi theo đường lối ấy th́ con người mới có thể thật sự tiến bộ để hiệp nhất với Thượng Đế. Và khi đấng Ki tô lại thốt nên lời là chỉ kẻ nào dám mất mạng th́ mới có thể được sự sống đời đời, kẻ nào muốn được toàn bích th́ phải hi sinh hết mọi điều ḿnh đă có, khi ngài lập lại giáo huấn cổ truyền cho rằng đường đạo thật là hẹp và cánh cổng dẫn vào huyền môn vốn đi thẳng th́ ngài chỉ lập lại điều mà mọi huyền bí gia chân chính đă dạy dỗ về nhu cầu rèn luyện cho sự sống tinh thần.

Khi người ta tiến bộ th́ mọi phương pháp Yoga vốn có khuynh hướng giúp cho cá nhân thăng tiến, vốn được noi theo để đạt tiến bộ, vốn được thực hành để triển khai những năng lực và vốn được vận dụng để cho cá nhân có thể thăng tiến nhanh hơn th́ tất cả những điều ấy đều phải bị bỏ đi hết. Yoga không được coi là phương tiện tiến hóa cá nhân như ta quen xem xét nó dưới đây, mà Yoga được coi là vận dụng những thần lực vĩ đại để cứu chuộc và trợ giúp loài người, hoàn toàn không đếm xỉa ǵ tới sự thăng tiến của người vận dụng khoa Yoga và người nào sử dụng chúng để giúp đỡ người khác cũng không nghĩ ǵ tới sự tiến bộ bản thân. Đó là v́ thật ra mọi sự kiểm soát những lực cao siêu, mọi việc sử dụng những năng lực lớn lao đều chỉ xảy ra trong phạm vi lĩnh hội của con người khi y đă siêu việt được phàm ngă và đă học cách sử dụng chúng chỉ để trợ giúp cho mọi người. Chúng tôi sẵn ḷng công nhận điều này nơi những sự vật thông thường trong cuộc sống và chúng ta nhận ra được sự khác nhau giữa việc học cách sử dụng một dụng cụ và việc chỉ biết ôm khư khư lấy dụng cụ ấy mà không biết cách sử dụng nó. Chẳng hạn như một bút là một dụng cụ hữu ích nhất, nhưng tính hữu ích của nó c̣n tùy thuộc vào cái trí và cái tâm ẩn đằng sau nó, tùy thuộc vào kiến thức và tài năng sử dụng cây bút; một cây bút trong tay một đứa trẻ con cũng chẳng hữu ích ǵ hơn bất cứ mảnh gỗ nào mà chính đứa trẻ ấy nhặt lên để dùng làm đồ chơi. Cũng rất giống như vậy, khi có những kẻ chưa chế ngự được bản chất thấp hèn, chưa loại bỏ được ham muốn cá nhân và chưa tận hiến cho việc phụng sự Thượng Đế mà đă nắm bắt được các lực thuộc thế giới siêu vật lư. Họ quả thật đang nhặt ra được một dụng cụ có thể được dùng cho những cứu cánh cao siêu và cao thượng nhất; họ đang quả thật đặt tay lên một dụng cụ mà khi lọt vào tay những người nào biết cách sử dụng nó có thể được dùng để cứu rỗi nhân loại; nhưng nếu bản chất tinh thần chưa được phát triển th́ dụng cụ ấy không đạt được mục đích cao siêu nhất và khí cụ ấy không đạt được mọi khả năng cao thượng nhất. Và lại c̣n có một đặc điểm nữa là khi cây bút tôi dùng làm biểu tượng có thể tương đối vô hại khi lọt vào tay đứa trẻ th́ việc một kẻ chưa loại trừ được phàm ngă mà nắm bắt được những lực nêu trên ắt có thể trở thành nguồn gây ra nguy hiểm cho cả bản thân lẫn cho người khác và có khuynh hướng làm chậm trễ sự tiến bộ của loài người thay v́ nâng cao loài người lên. Chính v́ thế mà một số người trong chúng tôi vốn chỉ học được phần vỡ ḷng của những sự thật vĩ đại này, ắt nhấn mạnh xiết bao – nhấn mạnh đến mức nhàm chán mà theo như tôi biết một số các bạn thầm nghĩ như vậy khi tôi đang ngỏ lời với các bạn – nhấn mạnh tới việc phải rèn luyện đạo đức trước khi muốn nghiên cứu huyền bí học. H. P. Blavatsky cũng dạy chúng tôi bài học ấy khi chính bà bảo rằng ḿnh đă sai lầm khi giảng dạy một phần lớp vỡ ḷng của kiến thức huyền bí mà không nhấn mạnh tới điều giáo huấn cổ truyền cho rằng cần phải tăng trưởng về đạo đức trước khi rèn luyện huyền bí học và phải tu tâm dưỡng tính trước khi người ta dám đặt tay mở chốt cửa dẫn vào huyền bí học. V́ thế cho nên chúng tôi rất thường nghiên cứu những tiêu chuẩn được dùng cho việc điểm đạo; v́ thế cho nên mới có yêu cầu chỉ những kẻ thanh khiết mới nhập lưu, chỉ những kẻ vị tha mới vào cửa đạo.

Nếu tôi đă từng nói tới quá khứ cho các bạn vào tối nay, nếu tôi có nhắc nhở các bạn là trong đám chúng ta ngày nay chính sự bùng nổ sinh hoạt tinh thần mới mẻ ắt gây ra hoạt động trên mọi cơi thấp th́ đó là v́ tôi muốn đưa kinh nghiệm trong quá khứ ra để củng cố cho một bài học rất hay được tŕnh bày trong bục giảng này, đó là v́ tôi muốn cảnh báo các bạn về những nguy cơ bao vây quanh ta mọi phía: những nguy cơ mà một số người trong chúng ta đang bắt đầu nhận ra một cách sâu sắc và nhận ra được chỉ là v́ những nguy cơ ấy đă tấn công chúng ta trong một chừng mực nào đấy và do đó khiến cho ta khó tiến bộ hơn. Điều này khiến cho với tính cách là nhà Thông Thiên Học, trên cương vị là học viên khoa học về linh hồn, chúng ta có bổn phận phải cẩn thận về đủ mọi chuyện tu tâm dưỡng tính trước khi có bất cứ toan tính nào nhằm thu đạt quyền năng; trước hết ta phải có sự thanh khiết, vô ngă, sùng tín, hoàn toàn xả thân, nhiên hậu ta mới chạm tới được cái Rương huyền bí học; v́ nếu không có những đức tính này th́ thành công nào cũng là thất bại, nếu không có những đức tính ấy th́ có mưu toan cho lắm cũng chỉ tổ hoài công. Chắc chắn ta nên học hỏi từ kinh nghiệm trong quá khứ hơn là qua sự đau khổ cay đắng vốn bộc lộ trong  kinh nghiệm cá nhân ta ngày nay, ta nên học theo thẩm quyền của các bậc Đại Đạo sư đă từng tuyên cáo lập đi lập lại bài học này hơn là ta phải học bài học qua đau khổ do hậu quả của việc nắm bắt quyền năng trước khi ta sẵn sàng sử dụng được chúng, hái trái cây tri thức trước khi nó chín muồi cho ta tiêu dùng, bon chen làm chủ trước khi ta đă học cách làm công và nỗ lực nắm bắt những mănh lực của cơi tinh thần khi ta chưa học được bài học lớn về Tinh thần, theo đó Tinh thần chỉ bộc lộ khi ta cho ra; ta chỉ ngộ được sự sống chân thật khi hoàn toàn xả thân; bởi v́ chính sự sống của Thượng Đế đang biểu lộ là một sự sống ban ra tất cả mà không đ̣i hỏi ǵ trở lại, cho nên những kẻ nào muốn hiệp nhất với Ngài để ngộ ra được sự sống tinh thần có nghĩa là ǵ th́ những kẻ ấy phải học cách ban ra chứ không chụp giựt, phải trợ giúp chứ không khư khư ôm giữ, phải tuôn đổ ra mà không mưu cầu được đáp lại ǵ. Chỉ khi ta học được điều ấy th́ ta mới trở thành những ứng viên thích đáng cho tri thức cao siêu hơn, chỉ khi tâm hồn ta đă được hoàn toàn thanh khiết như thế th́ ta mới dám diện kiến Chơn sư, hi vọng rằng khi “Ngài nh́n vào tâm hồn ta th́ ngài không thấy có t́ vết ǵ trong đó”.

 

------------------

 

 

 

HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  QUEST  MAGAZINES