|
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES
|
GIÁP MẶT SỰ CHẾT COI ĐÓ LÀ MỘT NGƯỜI
BẠN
(MEETING DEATH AS A FRIEND)
Tác giả N. Sri Ram
|
|
GIÁP MẶT SỰ CHẾT COI ĐÓ LÀ MỘT NGƯỜI BẠN
[Theo phép thực hành thời nay th́ ngôn ngữ đă biến đổi một phần để khiến cho
nó trung tính. Bộ Giáo Dục, tháng 2 năm 2006]
Bài này đă được in lại từ tác phẩm
Mưu cầu Minh triết
của N. Sri Ram.
Bản quyền năm 1969 của nhà Xuất bản Thông Thiên Học Adyar.
Ông xem sự thật hơn sự sống và sự chết như người bạn (LND)
Một trong những cuộc Đối thoại nổi tiếng nhất của Plato vốn đă thu hút nhiều
chú tâm hơn bất kỳ cuộc đàm thoại nào khác, ấy là bài đàm thoại trong đó ông
mô tả cái chết của Socrate. Vào ngày mà buổi chiều hôm ấy Socrate qua đời,
có vài người bạn hiện diện cho nên cuộc Đàm thoại này có dạng một buổi đàm
đạo diễn ra lúc cuối cùng. Nó bắt đầu bằng những lập luận về sự tồn tại
trước đó của linh hồn; trong quá tŕnh Đàm thoại, người ta đưa ra những ư
tưởng khác nhau liên quan tới bản chất của nó. Bộ phận này trong phần đàm
đạo kết thúc bằng việc khẳng định linh hồn bất tử. Những điều bàn luận theo
tôi thấy dường như rất đáng được chúng ta xem xét ngay cả đến tận ngày nay.
Khi
nhóm bạn của ông bước vào nhà tù th́ họ th́ thấy Socrate đang xoa chân vốn
vừa rút ra khỏi gông cùm. Khi ông gặp bạn bè th́ điều đáng kể về cách ứng xử
của ông là ông không phàn nàn ǵ cả; không một chút than thân trách phận của
ḿnh; ông chỉ nhận xét về mối liên hệ và sự luân phiên phi thường giữa khoái
lạc và đau khổ trong cuộc sống. Cho đến lúc bấy giờ vẫn không có một trải
nghiệm nào về sự đau khổ, nhưng giờ đây khi ông thoát khỏi gông cùm th́ ngay
tức khắc có sự khoái lạc. Nếu bất cứ ai trong chúng ta lâm vào tính huống ấy
th́ tôi thắc mắc chẳng biết vào dịp đó chúng ta sẽ ấp ủ cái loại xúc cảm
hoặc tư tưởng nào.
Dĩ nhiên Socrate đă tiên liệu được cái chết của ḿnh. Thế rồi cuộc đàm đạo
tiếp diễn với sự trao đổi nhiều ư kiến khác nhau và đến lúc chiều tối ông đă
đón nhận cái tách thuốc độc mà ḿnh phải uống một cách sẵn sàng và b́nh
tĩnh; nghe đâu với một phong thái ung dung và thoải mái nhất. Khi thuốc độc
ngấm th́ ông b́nh tĩnh mô tả thần chết tiến lên qua cơ thể của ḿnh từ dưới
chân ḅ lên qua từng giai đoạn một. Đây hoàn toàn là một cảnh tượng phi
thường mà không có bài tường thuật về bất kỳ diễn biến nào lại hoàn toàn
giống như thế.
Xét theo biểu kiến th́ cuộc đàm đạo tiếp diễn nhiều tiếng đồng hồ. Sau khi
bàn luận về bản chất của linh hồn, Socrate giải thích đâu là cứu cánh mà một
triết gia chân chính mưu t́m và tại sao ông lại hoan nghênh sự chết. Sự phát
biểu được nêu ra không phải với tính cách khẳng định mà chỉ là một tham luận
về những ư niệm, khả năng và điều suy diễn rút ra từ đấy. Một trong những
người bạn đề xuất gợi ư là linh hồn có thể được quan niệm mang bản chất hài
ḥa của một ḥa âm. Nếu ta có thể so sánh thể xác với một đàn lyre hoặc luưt
th́ linh hồn có thể là âm nhạc mà dây đàn ấy tạo ra. Mặc dù quan niệm này
mang lại cho linh hồn một tư cách và bản chất vừa có tính thâm thúy lại vừa
mỹ lệ nhưng nó không ban cho linh hốn một một địa vị độc lập. Quan điểm nêu
trên dường như xiển dương cái mà người ta có thể gọi là thuyết phiếm hiện
tượng luận, nghĩa là thể xác mang tính thực tại với nhiều hoạt động diễn ra
trong đó, nhất là những hoạt động trong bộ óc; c̣n linh hồn mặc dù có bản
chất là ḥa âm vẫn chỉ là một sản phẩm của những hoạt động ấy, có lẽ sao cho
những hoạt động như thế có thể mang lại kết quả như vậy. Nhưng khi đàn đă
đứt dây vỡ tan tành th́ chẳng c̣n âm nhạc nữa. Đường lối lư luận này bị phản
đối.
Người ta c̣n đưa ra một ư kiến khác có bản chất tương tự, gợi ra tính tương
tự máy móc của lửa. Người ta có thể nghĩ lửa là tâm thức nơi con người, làm
cho thể xác linh động; khi thể xác tan ră th́ lửa tắt ngúm. Ư kiến này cũng
giống như suy nghĩ của phái
Những lập luận này chẳng phải là không đáng chú ư. Khi ta xét tới chuyện sự
việc có thể như thế nào, liệu một quan niệm đặc thù có cơ sở hay chăng, ta
có thể chấp nhận một quan niệm một cách hợp lư chăng th́ việc lướt qua những
lập luận như thế không nhất thiết là không có ích lợi và giá trị về mặt giáo
huấn.
Trong Thiên nhiên có biết bao nhiêu điều xảy ra theo một cách thức trái
ngược với những sự kiện có thực, chẳng hạn như việc mặt trời mọc và lặn. Lập
luận cho rằng linh hồn hoặc tâm trí – ta tạm thời ghép hai thứ lại với nhau
– chỉ là một loại h́nh ảnh được phản chiếu từ những hoạt động trong môi
trường vật chất của bộ óc, lập luận ấy mặc dù có vẻ đúng nhưng vẫn có thể
ngược lại với sự thật. Điều thấy vậy mà không phải vậy, có thể không phải là
một sự thật căn bản hoặc cơ bản.
Socrate khắc phục những điều chống đối ư tưởng linh hồn bất tử. Sự thật là
trong một bài Đàm đạo khác, Plato có nêu bật những lời chống đối coi đó là
nguồn gốc của mọi “sự triết lư hóa vô tôn giáo” mặc dù ông tỏ vẻ hợp lư đến
nỗi ông cũng không thể giả định được rằng điều dường như mang tính tôn giáo
có thực hay chăng. Điều chân thực có thể coi là mang tính tôn giáo, thế
nhưng điều thuận theo tôn giáo biểu kiến chưa chắc là đúng.
Những lập luận nêu ra sự tồn tại trước của linh hồn vốn là những ư kiến từ
lâu rồi đă nổi tiếng là một bộ phận trong triết học Plato. Người ta có nhắc
tới niềm tin xưa cũ cho rằng một linh hồn sinh ra trong thế giới này đă trở
lại từ một thế giới khác, cái thế giới mà lúc chết đi ta lại đến nó. Cố
nhiên đó là một khái niệm mà người ta đă chấp nhận rộng răi ở Ấn Độ, nhưng
nó cũng tồn tại trong tư tưởng cổ nhân thuộc các dân tộc khác. Người ta gợi
ư rằng người chết do người sống mà ra, c̣n người sống là do người chết tái
sinh. Đó là một hiện tượng diễn ra theo chu kỳ tuần hoàn giống như việc ngủ
rồi thức và ngủ trở lại, phù hợp với sự thật hoặc qui tắc trong Thiên nhiên
theo đó những cặp đối lập sinh ra lẫn nhau. Sinh và tử là một cặp đối đăi.
Nhưng chúng liên hệ với nhau ra sao để cho diễn biến này kéo theo diễn biến
kia th́ xét theo biểu kiến không được đào sâu thêm nữa. Plato có một phương
thức thỉnh thoảng lại ch́a ra một ư tưởng mang tính gợi ư sâu sắc khiến ta
phải khựng lại suy nghĩ, thế rồi bỏ mặc nó cho những người khác tự thân đeo
đuổi.
C̣n một lập luận khác nữa đề cập tới một ư tưởng mà Socrate trước kia đă nêu
rơ, theo đó mọi tri thức chân thực chỉ là sự nhớ lại, một sự hồi niệm trong
óc phàm. Linh hồn ắt đă phải tồn tại và có tri thức của một loại đặc thù nào
đấy trước khi nó kết hợp với thể xác, bằng chứng là chúng ta hiểu được những
điều như công bằng, mỹ lệ, b́nh đẳng tính khí v.v. . ., ư niệm này không rút
ra được từ các tri thức theo giác quan. V́ thế chúng ắt phải tồn tại rồi
trong phạm vi hiểu biết của linh hồn. Những nhận thức qua giác quan – việc
nghe thấy âm thanh, việc nh́n thấy một điều ǵ đó màu đỏ hoặc đen, một điều
ǵ đó nữa cao hoặc thấp đều chỉ là những ư niệm tương đối. Nếu chỉ dựa vào
những nhận thức này không thôi th́ người ta không thể phát triển được những
ư niệm về vẻ đẹp, sự công bằng, đạo đức v.v. . . V́ vậy ta ắt phải có một
nguồn khác mang lại những ư niệm và tri thức như thế. Vả lại, nếu linh hồn
đă tồn tại trước khi thể xác sinh ra và độc lập với thể xác th́ nó không thể
chết theo thể xác.
Socrate cũng phát biểu quan niệm cho rằng linh hồn không thể có bản chất hợp
thành bởi nhiều yếu tố v́ lúc bấy giờ thân phận của nó đă thay đổi. Nó ắt đă
phải có một bản chất không biến đổi. Cho dẫu linh hồn này có thể phát triển
hơn linh hồn kia, thế nhưng bản chất cốt lơi của chúng đều giống nhau. Một
tập hợp phức tạp khác các yếu tố biến động có thể biến thiên trong khi cái
đơn lập của Chơn thần nhất như ắt luôn luôn có bản thể như như ra đấy.
Người ta c̣n nêu thêm phát biểu là bất chấp những thuộc tính khác, linh hồn
ắt phải có bản chất là sự sống. Nó không thể là một sự trừu xuất, một sự
phóng chiếu của tâm trí. Việc nối liền sự sống với linh hồn rơ rệt là quan
trọng qua hàng loạt những ư niệm được trưng ra, lại đạt tột đỉnh qua phát
biểu linh hồn ắt phải có bản chất giống như Thượng Đế th́ mới đảm bảo là nó
đáng tin với tính bất tử. Chỉ có Đấng thiêng liêng mới có thể bất tử, cho
nên cái ǵ không mang tính Thiêng liêng ắt phải hữu hoại.
Sau đó Socrate khích lệ bạn hữu hăy có được đức hạnh và minh triết trong
kiếp này. Giờ phút lâm chung của ông đă gần kề nhưng ông vẫn tiếp tục thuyết
tŕnh thoải mái và ung dung dường như thể ông c̣n sống một ngày nữa. Ông bảo
rằng “triết gia chân chính là kẻ mà tâm trí đă định hướng về sự thật và đức
hạnh”. Từ ngữ triết gia cũng như
từ ngữ triết học đă có ư nghĩa
thay đổi khá nhiều so với thời xưa. Ngày nay ta nghĩ rằng một triết gia là
kẻ chuyên phân tích và lập luận căi lư lằng nhằng, đôi khi bất tận về một
hợp đề đặc thù của ḿnh; cuộc sống mà y đang theo đuổi chẳng dính dáng ǵ
tới hoạt động và kỹ năng trí xảo của y; nhưng đây không phải là quan niệm
của thời xưa. Theo nghĩa đen của từ ngữ này th́ triết học là
yêu chân lư mà t́nh yêu bao giờ
cũng hàm ư hành động. Nếu sự thật có bản chất sao cho khơi dậy được t́nh yêu
th́ cái sự thật ấy phải tạo ra một sự biến đổi quan trọng trong bản thân,
xoay chuyển chủ tâm của người ta từ những sự vật đối tượng của giác quan vốn
phù du chỉ để hưởng thụ khoái lạc chuyển sang những vật cao thượng và chân
thực. Đó mới chính là quan niệm cổ truyền về triết gia. Socarte bảo rằng bởi
v́ tâm trí triết gia đă định hướng theo sự thật và minh triết cho nên là “kẻ
sẵn ḷng và sẵn sàng chết”. V́ vậy ông hoan nghênh sự chết. Chính v́ thế ông
đă giải thích được, ông hoan hỉ xiết bao trước viễn cảnh chia tay thế giới
này, nhưng ông cũng lại bảo rằng tự tử lại không đúng. Ông lập luận chống
lại việc tự tử một cách khá kỳ lạ. Tại thế giới này ta sống trong một loại
nhà tù, chịu nhiều hạn chế ghê gớm. Đó là một thế giới trong ấy sự vô minh
lấn lướt minh triết. Nhưng ta không được trốn tránh điều ấy trước khi ta
được phép làm như vậy. Việc ra khỏi nhà tù có thể rất đáng hoan nghênh nhưng
ta không nên tự ḿnh vượt ngục. Người ta cũng phát biểu cho rằng con người
không có quyền sở hữu đối với thân xác của ḿnh. Đây có thể không phải là
quan niệm phổ quát của đa số mọi người. Nhưng chúng ta có trách nhiệm phải
sử dụng thể xác một cách đúng đắn, duy tu, bảo dưỡng nó cho hoàn hảo, đây
chính là quan niệm được phát biểu trong quyển
Dưới Chơn Thầy.
V́ sự chết được hoan nghênh và tâm trí của triết gia được định hướng về sự
thật và đức hạnh cho nên đối với một người như thế triết học thật sự trở
thành việc chuẩn bị chết – đây là một ư niệm nổi bật. Một số học giả đă
thuyết giải cụm từ tiếng Hi Lạp với ư nghĩa: “Triết học thật ra là suy niệm
về sự chết”; điều này tôi thấy dường như không phù hợp với phương thức ung
dung của Socrate quan niệm về nó. Có một cách khác dễ hiểu hơn nhiều nghĩa
là khi ta đă sống đúng mức, định hướng về những cứu cánh vốn là cứu cánh của
linh hồn (chứ không phải ham muốn của thể xác) th́ triết học hoặc “cuộc sống
của một triết gia chẳng qua chỉ là một cuộc diễn tập lâu dài về việc chết”.
Người ta có thể sống một cuộc đời hạnh phúc nhưng đó cũng có thể là một qui
tŕnh chết, điều này cần được giải thích.
Socrate giải thích rằng đại chúng, quần chúng đều không biết được ư nghĩa
của việc triết gia hoan nghênh sự chết. Điều này không có nghĩa là triết gia
muốn vứt bỏ thể xác mà có nghĩa là y có một cảm xúc thân hữu đối với sự
chết. Y có được cảm xúc ấy bởi v́ y không đặt nặng việc thỏa măn những ham
muốn của thể xác. Hầu hết mọi người đều định giá trị sự vật theo khoái lạc
mà chúng mang lại cho ta, nhưng mục tiêu của triết gia là giải thoát ḿnh
càng nhiều càng tốt ra khỏi sự đô hộ của thể xác. Y dấn thân vào việc nuôi
dưỡng linh hồn, quan tâm tới những vấn đề có ích lợi thân thiết cho linh hồn
chẳng hạn như sự thật, đức hạnh v.v. . . Khi làm như thế, triết gia đă tách
rời ḿnh khỏi thể xác. Chính v́ y đă từ bỏ mọi sự bám víu vào những khoái
lạc do thể xác cung cấp cho người ta, cho nên sự chết chẳng qua chỉ là việc
thoát ra qua một cánh cửa mở rộng. Những sự việc nuôi dưỡng linh hồn đó là
điều phải, điều chân thật, điều thiện, điều mỹ lệ v.v. . . Socrate dạy rằng
“kẻ nào gần đất xa trời vốn chẳng màng những khoái lạc do thể xác mang lại”.
Người ta có thể hưởng thụ những khoái lạc đến với ḿnh một cách như nhiên,
nhưng không cần phải khao khát chúng. Bằng cách đẩy chúng ra khỏi phạm vi
quan tâm và chú ư của ḿnh, hầu như người ta đă gần kề cái chết. Chính theo
ư nghĩa này mà triết gia muốn chết ngay cả khi vẫn c̣n đang sống. Điều này
cũng tương tự như giáo huấn của J. Krishnamurti, mặc dù ông không bảo sự
chết là một lối thoát được hoan nghênh nhưng ông bảo ngay bây giờ và ngay ở
đây ta phải chết đi với quá khứ của ḿnh và mọi trải nghiệm đang tiếp diễn.
Triết gia tập trung vào đức hạnh và minh triết cho nên mới tẩy trược được
trí tuệ của ḿnh sao cho nó thoát khỏi mọi t́ vết của mọi yếu tố ngoại lai.
Chính việc tẩy trược được toàn bộ bản thể của ḿnh mới mang lại sự độc lập
tâm linh cho ḿnh, đó chính là sự tự do chân thực tức
Mukti. Mukti tức giải thoát,
không phải là ḥa nhập vào Thượng Đế theo nghĩa đen; trước khi tinh thần con
người ḥa nhập được vào Thượng Đế th́ con người phải giải thoát ḿnh khỏi
những xiềng xích hoặc ràng buộc.
Diễn tả chân lư ấy theo một cách khác th́ quả thật chỉ khi ta vứt bỏ quá khứ
của ḿnh, vứt bỏ mọi mê đắm xuất phát từ đấy th́ người ta mới chuyển hóa
thành một Thực tại mới. Thực thể đang hoạt động hiện nay là một tạo vật của
quá khứ, y đă trượt dài theo một đường liên tục và y chất chứa trong bản
chất cũng như cấu tạo của ḿnh nhiều điều bắt nguồn từ quá khứ và trải
nghiệm. Chuyển hóa thành một thực tại mới là rũ bỏ quá khứ sao cho nó không
c̣n khống chế, che khuất hoặc chỉ đạo hiện tại.
Chính cái sự chết này mới khiến cho sự sống thật sự linh động hơn, ít bế tắt
hơn và ít nặng trĩu hơn sao cho mọi nhận thức đều bén nhạy hơn, c̣n trí tuệ
đâm ra cực lực tập trung giống như ngọn lửa. Chính trong cái trạng thái
thuần khiết nội tâm này th́ người ta mới đạt được phẩm chất cao quí nhất để
cho Bản thể của ḿnh vận dụng qua đủ mọi khía cạnh. Mọi thực chất dưới dạng
thuần khiết đều phô bày tiềm năng viên măn nhất.
Người ta có phát biểu bâng quơ cho rằng triết học là âm nhạc cao siêu nhất.
Socrate có nói rằng ông cứ triền miên nằm mơ, theo đó ông được dạy cho biết
rằng phải chú tâm tới âm nhạc và khi ông hiểu ra được triết lư là âm nhạc
cao siêu nhất th́ ông đă hiến ḿnh cho triết học. Khái niệm triết học là
loại âm nhạc cao siêu nhất trở nên sáng tỏ hơn qua sự minh giải của phát
biểu trước kia liên quan tới bản chất của linh hồn là một dạng ḥa âm. Trước
kia người ta thường phản đối là khi nhạc cụ bị đứt găy th́ không c̣n có thể
có loại âm nhạc nào nữa; Socrate đối đáp lại bằng cách nhận xét rằng linh
hồn có thể tồn tại cho dẫu nó có thể có hoặc không có một nhạc cụ. Thật là
khá thú vị khi vào thời buổi c̣n theo thuyết vô thần th́ Tiến sĩ Annie
Besant cũng dùng chính cái ví dụ tương tự ấy trong một bài thuyết tŕnh của
ḿnh. Bà bảo rằng mặc dù cây đàn lyre đă đứt vỡ nhưng âm nhạc vẫn c̣n có thể
tồn tại.
Socrate đưa ra một lư do để sẵn ḷng chết đó là chúng ta biết rơ ḿnh sẽ đi
về đâu với thầy tốt bạn hiền. Thiên hạ bao giờ cũng thích có được thuận cảnh
thuận duyên. Nếu người ta thật sự tận hiến đời ḿnh cho triết học th́ chắc
chắn họ sẽ được an vị đúng theo sở nguyện. Họ sẽ được hạnh phúc tỉ lệ với sự
thuần khiết trong tâm trí của ḿnh, đó cũng là sự thật quan trọng.
Ta không nên lẫn lộn hạnh phúc với khoái lạc, hạnh phúc bắt nguồn từ thân
tâm an lạc và xuất lộ một cách như nhiên, ta tuyệt nhiên chẳng cần mưu t́m
nó. V́ thế Socrate mới dạy rằng nếu người ta đă tận hiến đời ḿnh cho đức
hạnh và minh triết th́ họ có thể giữ vững niềm hi vọng là điều thiện lành
tốt nhất sẽ chào đón ḿnh bên kia cửa tử, điều này phù hợp với giáo huấn
trong sách vở Thông Thiên Học.
C̣n một điều nữa rất đáng chú ư. Nếu ta lúc nào cũng biết được bản chất của
bất cứ thứ ǵ xét theo bản thể của nó, biết được chính sự thật về nó chứ
không phải chỉ là h́nh tướng bề ngoài, cái ngoại h́nh bao bọc xung quanh,
muốn được vậy th́ ta phải tách ḿnh ra khỏi thể xác và chỉ lặng ngắm chính
sự vật qua linh hồn thôi. Chỉ có linh ảnh ấy của linh hồn, tri thức ấy của
linh hồn mới có thể mang lại cốt lơi của sự thật liên quan đến bất cứ thứ ǵ
đang tồn tại.
Chí Tôn Ca
có nhắc tới “Chủ thể tri thức về tinh hoa của sự vật”. Tinh hoa cốt lơi của
sự vật là điều nó khác với mọi thứ nữa. Ta chỉ có thể biết được tinh hoa cốt
lơi, bản thể của sự vật nhờ vào linh hồn chứ chẳng bao giờ nhờ vào các giác
quan. Trong khi c̣n sống ta tiếp cận gần nhất với tri thức về tinh hoa cốt
lơi ấy khi ta tuyệt nhiên không giao tiếp hoặc liên lạc ǵ hết với thể xác
ngoại trừ những ǵ tuyệt đối cần thiết nghĩa là khi ta không c̣n lệ thuộc
vào thể xác, không c̣n bị ảnh hưởng bởi những khao khát, thôi thúc và đam mê
của thể xác. Nói cách khác, toàn thể mục tiêu của việc nghiên cứu triết học
theo nghĩa cổ điển của từ này đó là việc giải thoát và tách rời linh hồn ra
khỏi thể xác; người ta có thể thử làm và thành tựu được điều này ngay cả khi
vẫn c̣n đang sống trong thế gian. Chẳng có điều chi xảy ra theo một qui
tŕnh của Thiên nhiên mà lại như vậy, nhưng với trí tuệ đă sáng suốt của
chính ḿnh, ta có thể tiến hành điều ấy.
Khi đă tự do không c̣n lệ thuộc vào thể xác nữa, khi sự thay đổi này đạt đến
mức hoàn chỉnh th́ đối với Chơn nhơn sống và chết cũng thế thôi, mà Chơn
nhơn chính là linh hồn cho nên dù ḿnh sống hay ḿnh chết th́ cũng chẳng có
ǵ khác nhau. Điều này cũng nhắc ta nhớ tới một trong các câu thuộc
Chí Tôn Ca: “Người minh triết
không phiền năo cho kẻ c̣n sống mà cũng chẳng khóc thương người đă chết”.
Điều này có nghĩa là có khả năng đạt tới một t́nh huống nội tâm tức một tâm
trạng trong đó cho dù ta sinh hoạt trong thể xác – vốn đă bị gọi là nhà tù –
hoặc sinh hoạt bên ngoài nhà tù ấy th́ cũng thế thôi. Linh hồn dùng thể xác
làm một dụng cụ mà không cần bám víu vào đấy.
Cuộc Đàm thoại đặc thù này chứa đầy những ư niệm soi sáng cho mọi người đang
ra sức t́m hiểu những vấn đề: bản chất của linh hồn, sự sống trên thế giới
này, cứu cánh đáng được phấn đấu theo nhất, ư nghĩa mới mẻ mà sự chết có thể
đạt được và khả năng đối diện với diễn biến này một cách b́nh thản thậm chí
c̣n hoan nghênh nó nữa chứ.
Bài này đă được in lại từ tác phẩm
Mưu cầu Minh triết
của N. Sri Ram.
Bản quyền năm 1969 của nhà Xuất bản Thông Thiên Học Adyar.
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES