|
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES
|
trích Nữ thần
của H. P. BLAVATSKY
|
|
GIÁO
LƯ BÍ TRUYỀN CỦA PHẬT GIÁO
Trong tôn giáo của Đức Thích Ca Mâu Ni, mà những nhà phê
b́nh bác học mới gần đây đă vui mừng xiết bao khi xếp nó vào phái hoàn toàn
Hư vô chủ nghĩa, giáo lư về tính
bất tử được nêu rơ ràng bất chấp các ư tưởng của Âu Tây hoặc đúng hơn của
Thiên Chúa giáo bàn về Niết Bàn. Trong sách thánh của đạo Kỳ Na của Patuna,
trích lấy đoạn Thái tử, tức Đức Phật Cồ Đàm sắp tịch diệt được ngỏ lời như
sau: “Hỡi Đấng hóa thân linh thánh, xin ngài hăy thăng lên nhập Niết Bàn từ
cái cơ thể lăo suy mà ngài đă được biệt phái vào đó. Xin ngài hăy thăng lên
vào chỗ ở trước kia của ḿnh”.
Đối với tôi điều này dường như ngược hẳn với thuyết Hư vô. Nếu người ta mời
Đức Thích Ca thăng lên vào “nơi chốn trước kia của ngài” và nơi này là Niết
Bàn th́ ta không thể chối căi được rằng triết lư Phật giáo
không dạy sự hủy diệt tối hậu. Cũng như Chúa Giê su được gán cho là đă
xuất hiện trước các môn đồ sau khi tử nạn; cũng vậy măi cho tới ngày nay
người ta vẫn tin rằng Đức Phật từ cơi Niết Bàn giáng xuống. Và nếu ngài có
một sự hiện hữu ở đó th́ trạng thái này không thể là đồng nghĩa với
sự hủy diệt.
Cũng giống như mọi nhà cải cách lớn khác, Đức Phật có một giáo lư dành cho nhóm người “ưu tuyển” và một giáo lư khác dành cho quần chúng bên ngoài mặc dù mục đích chính trong việc cải cách của ngài cốt ở việc khai tâm cho tất cả, chừng nào ta được phép thận trọng làm như thế mà không phân biệt các giai cấp hoặc giàu nghèo, những chơn lư vĩ đại cho đến nay đă bị giai cấp Bà la môn ích kỷ giữ kín. Chính Đức Phật Thích Ca là đấng mà ta thấy lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, xúc động với một t́nh cảm độ lượng ôm trọn toàn thể loài người vào trong ṿng tay ḿnh, mời gọi “kẻ nghèo”, “kẻ què quặt” và “kẻ mù ḷa” tới tận bàn tiệc của quốc vương, từ đó ngài loại trừ những kẻ cho đến lúc bấy giờ vẫn ngồi một ḿnh, ẩn dật cao ngạo. Chính ngài lần đầu tiên đă mạnh tay mở cửa thánh điện cho giới cùng khổ và tất cả “những kẻ bị loài người gây đau khổ” khoác áo cà sa, thường th́ giá trị kém hơn cả giai cấp tiện dân mà họ xỉ tay khinh bỉ. Sau khi làm như thế, Thái tử Tất đạt đa, 6 thế kỷ trước nhà cải cách khác, cũng thuộc ḍng quí tộc và cũng yêu thương loài người, mặc dù có cơ hội ít thuận lợi hơn sinh ra nơi một xứ khác. Nếu cả hai đấng đều biết được nguy cơ cung ứng cho giới b́nh dân thiếu văn hóa con dao hai lưỡi là tri thức mang lại quyền lực bị bỏ mặc ở cái góc sâu kín nhất trong thánh điện, nơi u tối thâm sâu nhất th́ ai đă từng quen thuộc với bản chất con người lại có thể chê trách con người v́ việc ấy? Nhưng trong khi một đấng thực hiện công việc thận trọng th́ đấng kia bắt buộc phải đi theo lộ tŕnh ấy. Đức Phật Thích Ca không đả động tới phần “tri thức bí truyền” và nguy hiểm nhất, ngài hưởng thọ tới 80 tuổi và chắc chắn là đă giảng dạy được những sự thật cốt yếu, đă căi giáo được một phần ba dân số thế giới; Chúa Giê su hứa hẹn cho các môn đồ ḿnh tri thức ban cho con người quyền năng tạo ra những phép lạ lớn hơn chính ḿnh đă từng làm, ngài đă tử nạn, bỏ lại một số ít người trung thành chỉ biết được nửa vời, đấu tranh với thế gian mà ḿnh cũng chỉ truyền thụ được cái tri thức nửa vời ấy cho thế gian. Về sau, môn đồ của Chúa c̣n xuyên tạc sự thật nhiều hơn cả chính ḿnh hiểu biết nữa.
Thật sai lầm khi cho rằng Đức Phật chưa bao giờ dạy điều ǵ liên quan tới một kiếp sống vị lai và ngài chối bỏ tính bất tử của linh hồn. Nếu hỏi bất cứ Phật tử thông minh nào xem ư kiến của y về Niết Bàn ra sao, th́ y chắc chắn sẽ ngỏ lời giống như nhà biện thuyết nổi tiếng Wong Ching Fu của Trung Hoa, hiện nay đang du hành ở xứ sở này. Trong một cuộc đàm đạo mới đây với chúng tôi bàn về Niết Bàn. Ông nhận xét rằng: “Tất cả chúng ta đều hiểu rằng t́nh trạng này nghĩa là cuối cùng hiệp nhất với Thượng Đế, đồng nhất hóa với tinh thần con người toàn bích v́ tinh thần rốt cuộc không c̣n vướng mắc vào vật chất nữa. Đó chính là điều đối lập với sự tiêu diệt cá thể”.
Niết Bàn có nghĩa là tin chắc vào tính bất tử cá biệt nơi Tinh thần chứ không phải nơi phần Hồn; với vai tṛ là một phân thân hữu hạn, phần hồn nhất định phải tan ră các hạt hợp thành cảm giác đam mê và ḷng khao khát của con người về một loại tồn tại nào đó nơi ngoại giới, trước khi tinh thần bất tử của Bản ngă được hoàn toàn giải thoát và v́ thế cho nên đă an toàn trong khi chuyển kiếp thêm nữa qua bất cứ h́nh tướng nào. Và làm thế nào con người đạt tới trạng thái ấy chừng nào mà Thủ - Upadana - (cái trạng thái khao khát sống, sống nhiều hơn nữa) không biến mất ra khỏi cái bản thể hữu t́nh cho dù ngă chấp Ahankara khoác lấy một cơ thể tinh vi? Chính “Thủ” tức ham muốn mănh liệt mới tạo ra Ư CHÍ, và chính Ư Chí mới phát triển sức mạnh và chính sức mạnh mới sinh ra vật chất tức một vật thể có h́nh tướng. Thế là Bản ngă đă thoát xác thông qua cái yếu tố ham muốn duy nhất bất tử này nơi bản thân vô h́nh trung cung ứng t́nh thái để cho y liên tiếp sinh sôi nảy nở qua đủ thứ h́nh tướng tùy thuộc vào tâm trạng và Nghiệp Quả của ḿnh, những hành vi tốt và xấu trong kiếp trước thường được gọi là “công và tội”. Chính v́ thế mà “Đấng Tôn Sư” mới khuyến cáo khất sĩ hay trau dồi bốn bậc Thiền, Tứ diệu đế, nghĩa là từ từ đạt được sự thanh thản điềm nhiên đối với cả sống lẫn chết, cái trạng thái nội thiền tâm linh trong đó con người hoàn toàn quên mất cá thể vật chất và lưỡng tính của ḿnh bao gồm phần hồn và phần xác; y chỉ hiệp nhất với phần thứ ba tức Chơn ngă bất tử, có thể nói là Chơn nhơn thiên giới ḥa lẫn vào Bản thể thiêng liêng mà Tinh thần của nó xuất phát từ đó giống như một tia lửa bắn ra từ một ḷ lửa chung. Như vậy, vị La Hán, bậc thánh khất sĩ có thể đạt được Niết Bàn trong khi c̣n tại thế và tinh thần của ngài hoàn toàn thoát khỏi những g̣ bó của minh triết thông linh mang tính trần tục và “ma quái” (theo cách gọi của James), v́ bản thân nó vốn toàn tri và toàn năng cho nên chỉ nhờ vào quyền năng của tư tưởng thôi nó cũng có thể tạo ra hiện tượng lạ lớn nhất trên trần thế.
* * * * *
* *
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES