|
HOME NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES
|
DƯỚI CHƠN THẦY NGUYÊN TÁC CỦA: ANNIE BESANT và C. W. LEADBEATER
Dịch giả : CAO
NGÂN HÀ và BẠCH LIÊN |
|
mục lục đầu sách cuối sách lời nói đầu phần 1 2 3 4 5
Trong quyển sách này sưu
tập những bài bình giảng của Ông C. W. Leadbeater - hiện giờ là
Giám Mục - và của tôi về ba tác phẩm nổi tiếng, khuôn khổ tuy nhỏ
bé, nhưng nội dung thật quan trọng. Cả hai chúng tôi ước mong nó sẽ
hữu ích cho những người chí nguyện và ngay cả những người đã
vượt qua giai đoạn đó, vì người diễn giảng cao niên hơn thính giả
và do kinh nghiệm, hiểu biết
nhiều hơn về đời sống của
người đệ tử.
Những cuộc đàm luận này
chẳng phải chỉ diễn ra ở tại một chỗ mà thôi. Chúng tôi đã nói
chuyện với các bạn chúng tôi trong nhiều lúc, và nhiều nơi khác
nhau, nhất là ở Adyar, Luân Đôn (London) và Sydney. Rất nhiều chú
thích đã được thính giả ghi lại. Tất cả những lời ghi chú có
giá trị đều được sưu tập, và sắp xếp có thứ tự rồi tập trung
lại sau khi loại bỏ những phần trùng hợp với nhau.
Rủi thay, vì chỉ còn có
một số rất ít những chú giải thuộc phần I của quyển
Tiếng Nói Vô Thinh, cho nên chúng tôi lấy những chú giải của
một vị Thân hữu, bạn đồng nghiệp của chúng tôi, là Ông Ernest Wood
đã dùng trong một khóa học ở Sydney. Những chú giải này nhập với
những lời bình giảng của Giám Mục Leadbeater về đoạn đó. Không
tìm lại được một ghi chú nào về những lời bình giảng của tôi,
mặc dù tôi đã nói nhiều về quyển
Tiếng Nói Vô Thinh song những
lời diễn giảng đó không còn lưu lại.
Tất cả những lời diễn
giảng này đều chưa xuất bản, chỉ trừ vài bài diễn văn ngắn của
Giám Mục Leadbeater nói với các sinh viên đã được chọn lựa về
quyển Dưới Chơn Thầy. Một tác
phẩm nhan đề Những lời bình
giảng Dưới Chơn Thầy đã được xuất bản vài năm qua. Trong đó
những lời chú thích của ông không được đúng như lời ông đã nói.
Quyển ấy sẽ không in lại. Phần cốt yếu của quyển đó vẫn có trong
quyển này, tất cả đều thu gọn lại rồi đem in.
Cầu xin những trang sách
đây giúp cho vài huynh đệ trẻ tuổi của chúng ta hiểu biết rành rẽ
những bài học vô giá này. Càng nghiên cứu, càng thực hành chúng
nó thì càng nhận thức được nhiều hơn.
ANNIE BESAN
GIẢNG LÝ DƯỚI CHƠN THẦY
Chương :
I . Đường Đạo và những quyền lợi
ở thế gian
II
. Sự Điểm Đạo và khi sắp được Điểm Đạo
III. Quyển sách được viết ra cách nào
IV
. Lời cầu nguyện đầu tiên
V.
Thái độ của người đệ tử
VII. Bốn đức tánh cần thiết
PHẦN THỨ HAI: TÁNH PHÂN BIỆN
VIII. Những mục đích thật
và những mục đích không phải là thật
XI
.Phải tuyệt đối ngay thật
XII. Tình bác ái và sự sống thiêng liêng
PHẦN THỨ BA: TÁNH ĐOẠN TUYỆT
XIII. Diệt trừ sự ham muốn
XIV. Duy có một điều ham
muốn tốt hơn hết
XVI. Những sự ham muốn nhỏ nhen
XVII. Hãy lo lắng những việc
nào có can hệ với mình
PHẦN
THỨ TƯ: HẠNH KIỂM TỐT
XVIII. Tự chủ trong lúc tư
tưởng
XIX. Tự chủ trong lúc hành động
XXII.Đi
thẳng đến mục đích duy nhất - Hay là chú định
XXIV .
Sự giải thoát cõi Niết Bàn và sự giải thoát
khỏi vòng sinh tử
XXV .
Lòng từ ái trong đời sống hằng ngày
DẪN NHẬP
CHƯƠNG THỨ NHỨT
�
Y
�
ĐƯỜNG ĐẠO VÀ NHỮNG QUYỀN LỢI Ở
THẾ GIAN
C. W. L.
–
Quyển Dưới Chơn Thầy là một
trong ba quyển (hai quyển kia là
Tiếng Nói Vô Thinh và Ánh
Sáng Trên Đường Đạo) đặc biệt giúp cho việc bước vào đường
Đạo dễ dàng. Hiện thời, giá trị của quyển
Dưới Chơn Thầy đối với chúng
ta thật là to tát vì lẽ nó cực kỳ giản dị và đã được Đức
Chưởng Giáo sắp lâm phàm đặc biệt thừa nhận. Nó chứa đựng những
bài của Đức Chơn Sư dạy người đệ tử ấu thơ của Ngài là J.
Krishnamurti, mới 13 tuổi, năm 1909 (Krishnamurti có tên Alcyone trong
quyển Những Tiền Kiếp của Alcyone
mới xuất bản đây, vào năm 1924).[1]
Vì lúc đó Krishnamurti chưa thật giỏi tiếng Anh, mà bài học lại
bằng Anh Ngữ, cho nên lời dạy và văn từ phải đặc biệt rõ ràng.
Đức Chơn Sư Kouthoumi với tài năng thích ứng phi thường của Ngài,
đã trình bày mọi điều kiện để được Điểm Đạo lần thứ nhứt, bằng
một ngữ pháp đơn giản tuyệt diệu. Đó là sự hấp
dẫn của quyển sách này.
Quyển
Ánh Sáng Trên Đường Đạo xuất bản
năm 1885, và quyển Tiếng Nói Vô Thinh năm 1889. Mỗi tác phẩm đạo đức này đều
có những đặc tính riêng. Chúng ra đời lâu hơn và có tính
cách thi vị hơn quyển Dưới Chơn Thầy, dù quyển này cũng có vài câu tuyệt đẹp :
điều ấy phải như vậy, vì tác giả là Đức Thầy Kouthoumi. Ông Swami
T. Subba Rao có nói với chúng tôi rằng quyển
Ánh Sáng Trên Đường Đạo có nhiều nghĩa chồng chất lên nhau
mà ý nghĩa thâm sâu nhất liên hệ đến bậc Điểm Đạo của Đức Văn
Minh Đại Đế (Mahachohan) trình độ cao hơn Đức Chơn Sư của chúng ta
hiện nay một bậc. Quyển Tiếng
Nói Vô Thinh dẫn chúng ta đến bậc Điểm Đạo của vị La hán
(Arhat). Quyển Dưới Chơn Thầy đặc biệt nói về sự Điểm Đạo lần thứ nhứt.
Vậy chúng ta bắt đầu giảng lý quyển này.
Tất cả chúng ta thường
nghe kể những điều cần thiết để được
thâu nhận vào đường Đạo, nhưng người ta sẽ nhắc nhở chúng ta
những điều kiện cho tới ngày nào chúng ta thực hiện được tất cả
những gì đã dạy trong những kinh sách như quyển này. Không khó gì
mà biết thật đúng những điều phải làm; trên con đường chúng ta đi,
chướng ngại nào mà chẳng do chúng ta tạo ra? Tuy nhiên những người
tuân theo các huấn lệnh ấy tương đối ít lắm, vì họ thường bị bản
ngã của họ cản đường. Điều gì đã viết trong những quyển sách
này, chính mỗi độc giả phải đem ra áp dụng riêng cho một mình
mình. Vị Huấn Sư có thể giảng giải, chỉ dẫn nhiều cách thức
khác nhau những điều phải thực hiện, nhưng mỗi người phải tự đi
theo con đường riêng của mình. Cũng giống như sự thao luyện đặng dự
vào một cuộc chạy đua hay là biểu diễn thể dục, Huấn luyện viên
có thể chỉ dạy kỹ lưỡng; thí sinh phải vận động bắp thịt mình,
ngoài y ra, trong đời này không có ai làm thế cho y điều đó.
Có hàng triệu người ở
chung quanh chúng ta tự cho rằng mình sống đúng theo những huấn
giới của Tôn giáo mình, nhưng thật ra rất ít người tuân theo cho
đúng. Ngay cả những người có đức hạnh và đời sống thánh thiện
thường cũng không triệt để tuân theo tất cả những huấn giới đưa ra
cho họ. Trong vài trường hợp, những giáo lý Công truyền có tính
cách hoặc không trọng yếu, hoặc không thích hợp, nhưng trong Huyền
Bí Học không có huấn giới nào vô ích cả. Phải tuân theo thật đúng
đắn tất cả những lời dạy. Điều này không có nghĩa là phải đạt
tới mức hoàn hảo tuyệt đối mọi đức tánh trước khi được Chơn Sư
thâu nhận. Phải là một vị Siêu Phàm mới đi đến trình độ toàn
thiện đó, những kẻ chí nguyện phải có những đức tánh ấy ở một
mức độ hợp lý mới được, vả lại chúng phải xác thực chớ không
được là những giả tưởng quí mến. Khi một giáo sư
Hóa Học nói với chúng ta rằng khi phối hợp vài chất Hóa
Học theo cách nào đó, chúng ta sẽ có vài hiệu quả. Chúng ta biết
rằng những hiệu quả này sẽ sinh ra. Nếu chúng ta thay đổi
tỷ lệ, chúng ta sẽ không có cái chúng ta chờ đợi, mà là cái
khác. Trong lãnh vực Đạo Đức hình như người ta cho rằng tuân theo
huấn thị một cách mơ hồ và qua loa đã đủ lắm rồi. Trong Khoa
Huyền Bí Học, thật khác hẳn : ấy là một Khoa Học, phải xem nó
như thế. Dù rằng những điều kiện này đã kể cho chúng ta nghe
nhiều lần rồi, phải mong sao cho nhiều người trước kia chưa thành
công sẽ có thể bước vào Đường Đạo, sau khi đã học hỏi kỹ lưỡng
những điều kiện này, tìm hiểu và tuân hành một cách hết sức
đúng đắn những yêu sách. Cái lãnh vực nội tâm này không phải xa
vời, không phải mập mờ, không chắc chắn. Vài năm trước đây, dường
như nó xa cách hơn, vì những người mà chúng ta quen biết, được giao
thiệp trực tiếp với các Đấng Chơn Sư rất ít. Một sinh viên có thể
tự nói : "Phải rồi, chỉ có vài ba người có thiên tài đặc biệt,
hoặc có diễm phúc lạ thường mới gặp được Chơn Sư, ngoài trường
hợp đó, dường như cái đặc ân ấy không phải dành cho những người
thường". Nhưng hiện giờ có nhiều người được giao thiệp trực tiếp
với các Ngài, và cũng không phải vô lý mà tự nói: "Nếu những
người khác thành công, tại sao tôi không làm được như họ?". Nếu ta
thất bại, thì chắc chắn lý do ở nơi ta. Đừng tìm nguyên nhân nào
khác ở ngoài, vô ích. Nhất định không phải là lỗi tại Đức Thầy:
Ngài luôn luôn hiện diện khi đệ tử sẵn sàng. Có vài người chí
nguyện thất bại là tại một khuyết điểm nào đó ngăn cản; ở những
người khác có lẽ vì chưa mở mang đầy đủ các đức tánh. Nếu không
có mấy khuyết điểm đó tất cả chúng ta sẽ thành công. Công việc
thật đáng làm là hết sức bền lòng cố gắng tìm xem coi ta thiếu
sót cái chi rồi bồi bổ chỗ khuyết điểm.
Có một thế giới bên trong
xác thực và quan trọng hơn thế giới bên ngoài mà chúng ta không
ngớt chịu áp lực của nó. Ở đâu người ta cũng gặp những người tự
cho rằng mình rất bận rộn và họ biết rất rõ rằng họ đang theo
đuổi công kia việc nọ. Tuy nhiên, sự thật là những người này đang
làm việc trong hư ảo và bề ngoài. Ít ai hiểu biết sự hiện diện
của một thế giới bên trong, thế giới tinh thần vô cùng quan trọng
hơn thế giới bên ngoài không biết bao nhiêu lần.
Trên Đường Đạo, ta phải
đóng vai trò của ta ở ngoài đời nhưng nếu ta làm bổn phận đó,
cũng chỉ vì mục đích phục vụ đời sống chân thật bên trong mà
thôi. Một diễn viên đóng trò trên sân khấu vì y có đời sống khác
phải sống, một đời sống liên tục và kết hợp nhau. Có thể y thay
đổi vai trò trong nhiều lúc khác nhau; ta cũng giống như y, ta đầu
thai nhiều lần và lấy nhiều xác thể khác nhau. Người diễn viên
không ngớt sống đời sống chân thật của con người và nghệ sĩ; và
chính vì đời sống chân thật này mà y quyết đóng trò thật khéo
trong đời sống tạm thời trên sân khấu. Ta cũng thế, ta muốn thành
công trong kiếp sống vật chất tạm thời dưới Thế gian, chính vì Sự
Thật vĩ đại bên trong mà đời sống hiện thời chỉ là một phần nhỏ
nhít. Hiểu điều đó rồi, chúng ta mới nhận thức được sự trọng
yếu tương đối của đời sống bên ngoài: giá trị duy nhất của nó là
giúp ta đóng vai trò thật hay, dù nó là thế nào chăng nữa. Bản
chất của vai trò cùng tất cả những gì xảy ra cho chúng ta trên sân
khấu trần gian này đều không mấy quan trọng. Người diễn viên có
thể đóng mọi vai trò buồn thảm hoặc những sự khó khăn giả tạo,
nhưng y không màng đến chúng nó. Chẳng hạn mỗi buổi tối, y có thể
đóng vai bị giết trong cuộc đấu gươm, đấu súng. Sự chết giả này
có thể làm thiệt hại y chăng? Điều quan hệ duy nhất làm cho y
thích ý là: đóng trò cho thật xuất sắc.
Chúng ta phải hiểu một
cách dễ dàng rằng thế giới bao quanh chúng ta là một thế giới
giả hình, giả tạo và bản tánh những sự kinh nghiệm cho chúng ta
không có chi là quan trọng. Mọi việc bên ngoài xảy đến cho chúng ta
là nghiệp quả của chúng ta, nguyên nhân phát sinh vốn thuộc về mấy
kiếp trước và hiện giờ không thế sửa đổi được. Vậy thì bận
tâm với những biến cố thật vô ích; chúng đến do sự qui định
của nghiệp báo quá khứ, nên chúng ta phải nhận lãnh một cách kiên
nhẫn. Nhiều người không làm như vậy được, họ để cho quả báo gây ra
cho họ những sự đau khổ, buồn thảm và lo âu quá độ. Điều phải
làm là luôn luôn cố gắng nhận lãnh bài học do Luật Nhân Quả mang
đến rồi xua đuổi nó ra khỏi Cái Trí, được bao nhiêu hay bấy nhiêu.
Cũng như "Con Ong và Đóa Hoa" theo cách nói của người Ấn Độ, người
anh em của chúng ta. Cách trả quả của mỗi người tạo thành tánh
khí của y trong tương lai: chỉ có điều này mới là quan hệ thôi. Ta
nên dùng quả báo để khai mở tánh can đảm, kiên nhẫn và những đức
tánh khác nữa, rồi xua đuổi
nó ra khỏi Cái Trí.
Thật không phải dễ dàng
mà thấy được như thế, vì chung quanh chúng ta cả ngàn người đều
cho cái bi kịch này là hệ trọng
và xem nó như đời sống chân thật duy nhất. Những điều họ
nói về chúng ta và họ làm cho chúng ta, khiến chúng ta có phần
khó chịu, nhưng trên đường chúng ta đi có một chướng ngại hết sức
nghiêm trọng hơn (mà ta không nghĩ đến): đó là cái áp lực liên tục
không ngừng và vô cùng rộng lớn của dư luận quần chúng. Nó thật
là ghê gớm dễ sợ, bởi vì chỉ có một người biết chân lý sống
giữa hàng triệu người vô minh. Họ tự nói rằng: "Chúng ta hãy mau
mau thu góp của cải, tiền bạc và lưu tâm đến dư luận quần chúng
đối với chúng ta, đó là điều cốt yếu của đời sống". Biết bao tư
tưởng rải ra vì ý nghĩ của những kẻ khao khát danh vọng Trần
gian, những kẻ khẩn khoản cầu cạnh được mời dự vào những tiệc
tùng, những cuộc khiêu vũ, những kẻ tìm cách biên tên Hầu Tước
này, Bá Tước nọ trên bản danh sách của những cuộc viếng thăm của
họ. Trong những vấn đề đạo đức chúng ta cũng bị một biển cả bao
vây, vì những người quảng đại thì rất ít, mà những người khác
thì rất đông đảo. Những ảo tưởng của xã hội cũng dẫy đầy, chẳng
hạn tánh "quá đoan trang của người Anh", họ cho là khiếm nhã, không
lịch sự trong khi chỉ nghe nói qua loa về tình dục. Do đó trẻ
em thiếu sự hiểu biết
sơ đẳng, chúng trưởng thành trong sự nguy hiểm và đôi khi vướng
phải tai họa bất ngờ, vì tật xấu là con sông tuôn chảy không ngừng
và kẻ dốt dễ bị sẩy chân. Phong tục thời cổ Hy Lạp và La Mã
được xem như là không được đoan chính, tuy nhiên ký ức thuở ấy vẫn
còn trong trí nhớ tôi khiến tôi phải nói rằng tư tưởng của thời
kỳ cổ điển đó ít bợn nhơ
hơn hiện thời tại Âu Châu.
Chúng ta là người biết
chút ít hơn kẻ khác về trạng thái bên trong của sự vật, chúng ta
phải chống lại trở lực thật sự đáng sợ này và tự nhủ: "Không!
Không có gì hết. Tất cả mấy điều đó không có thật và chúng ta
nguyện cầu xin được dắt từ cõi giả đến cõi chân". Sự Chân thật
là sự sống ẩn tàng, đời sống trường cửu, đời sống mà theo danh
từ trong Thánh Kinh gọi là đời sống ẩn khuất "Với Đấng Christ
trong lòng Đức Chúa Trời". Luôn luôn, đừng bao giờ quên ý tưởng ấy
và chỉ cho ngoại giới như là điều quan trọng phụ thuộc thôi. Điều
này không phải dễ làm, nhưng đó chính là điều chúng ta phải thực
hiện. Một trong các Đức Thầy của chúng ta có nói rằng: "Người
nào muốn theo Chúng Ta thì phải bỏ thế giới của y để sang qua thế
giới của Chúng Ta". Điều đó có nghĩa là phải bỏ đời sống thường
nhật ở Thế gian để sống cuộc đời ẩn dật của người tu sĩ, nhưng
mà phải hoàn thành mọi nhiệm vụ giao phó cho ta một cách nhiệt
thành hơn trước trong tấn kịch kỳ lạ của cuộc sống; nhưng mà
người chí nguyện cần phải từ bỏ tư cách
tầm thường của y
để tập lấy tư cách
của Đức Thầy.
Những ai đã thành công
trong sự cố gắng đó, một ngày kia, sẽ
được một Chơn Sư thâu
nhận làm đệ tử. Khi tư
tưởng của đệ tử đã thành một phần tư tưởng của Đức Thầy, thì
trò có thể lấy tư tưởng của Thầy mà kiểm soát lại chính tư
tưởng của mình. Tư tưởng
của Đức Thầy không bao giờ chịu ảnh hưởng của quần chúng. Như thế
đệ tử có thể biết chính xác ý nghĩ của Đức Thầy về một vấn
đề nào đó. Chẳng bao lâu thói quen ấy làm cho y hiểu được quan
điểm mới đó, mặc dầu y sẽ luôn luôn không ngớt kinh ngạc. Vài điều
trước kia người đệ tử cho là chánh yếu nay đã mất tính
cách quan trọng của chúng nó, và trở nên tầm thường; còn những
điều mà trước kia y nghĩ rằng không đáng kể nay lại vô cùng quan
trọng, bởi vì dù lớn lao hay bé nhỏ, tất cả đều ảnh hưởng đến
đời sống hữu dụng của chúng ta. Tất cả những gì ảnh hưởng đến
sự hữu dụng ấy đều quan trọng: đó là lúc chúng ta chạm trán với
Thực tế.
Áp lực của hoàn cảnh gây
ra cho cái Trí, trên cõi Trung Giới và cõi Thượng Giới (Trí Tuệ)
không có gì là cao thượng. Ta hãy để nó ngoài tai và chỉ lắng
nghe những âm thanh từ cõi cao, nghe tiếng nói và tư tưởng của Đức
Thầy. Chúng ta không có gì ngạc nhiên tại sao ngày xưa bên Ấn Độ
và các nước khác những người quyết tâm sống đời sống tinh thần,
luôn luôn bắt đầu từ bỏ cuộc sống thường nhật, đi trú ẩn trong
hang động hay rừng già cô tịch. Như thế họ được lợi trong việc
tránh khỏi luồng áp lực của dư luận vô minh và được tự do theo
đuổi chí nguyện của mình. Nhiều vị Thánh Thiên Chúa Giáo cũng từ
bỏ những hoạt động ở Thế gian để sống ẩn dật hay làm những vị
tu sĩ, hoặc kết hợp những người cùng chí hướng với mình. Sự lợi
ích của việc lánh Trần còn lớn lao hơn đối với ai được diễm phúc
sống trong hào quang của Đức Thầy hoặc một đệ tử cao cấp của
Ngài. Những làn rung động của vừng hào quang này luôn luôn tác
động trên các thể của người đệ tử,
điều chỉnh chúng, làm rơi những thành phần vật chất bất
hảo và nuôi dưỡng chúng với những yếu tố mà chúng cần dùng.
Người đệ tử phải không ngớt chăm lo việc khai mở một đức tánh
nhất định, như đức Bác ái chẳng hạn. Nếu để y luyện tập một
mình, y chỉ thực hiện một cách gián đoạn vì cứ mãi quên; nhưng
hào quang của Bề Trên giữ y lại trước sự hiện diện của những tư
tưởng và tình cảm khuôn mẫu mà y muốn tạo nên trong tâm y mãi mãi.
Kết quả đạt được giống như sự điều chỉnh chi thể xiêu vẹo của
đứa trẻ: người ta để chi thể đó trong một khí cụ cho đến lúc nó
nở nang và lấy lại hình dạng bình thường. Ở trong hào quang của
Đức Thầy, người đệ tử không thể phát sinh
một tư tưởng xấu, dù
y muốn nghĩ đến nó, điều đó cũng không thể xảy ra được. Trong vị
thế đó, chúng ta mỉm cười khi xem xét tư tưởng chúng ta ngày hôm
qua và chúng ta tự nói rằng: "Không bao giờ tôi có sự cảm xúc
này; nó đã tan như giấc mộng". Nhưng ngày mai, khi xa Đức Thầy, có
thể chúng ta phải tự phấn đấu quyết liệt mới giữ được tư cách
cao thượng mà chúng ta nhận thấy quá dễ dàng trước sự hiện diện
của Chơn Sư.
Trong thời đại hiện tại,
những người chí nguyện bước vào Đường Đạo phải cố gắng luyện
tập trong đời sống hoạt động của họ để đạt được tư cách cần
thiết đó, bởi vì họ được kêu gọi để giúp đỡ nhân loại không phải
bằng sự tham thiền hoặc chỉ bằng tư tưởng mà thôi, như một vị ẩn
sĩ hay tu sĩ, mà họ phải nhận nhiều công việc khác nhau. Đó là
một ý tưởng cực đẹp, một đặc ân lớn lao, nhưng mà khó, khó lắm
vậy. Hậu quả của sự khó khăn này: ấy là sự thành công rất hiếm.
Thường thường người ta bằng lòng xem giáo lý Thông Thiên Học giống
như một người Công Giáo bậc trung giữ
Đạo của họ, nghĩa là xem nó như một đề tài tuyệt diệu để
đàm thoại trong ngày chúa nhật, chớ không phải một ý tưởng phải
tuân theo mỗi ngày, từ sáng đến tối. Người sinh viên tự hiến mình
một cách nghiêm chỉnh cho đời sống nội tâm không thể ở trong hư ảo;
y phải suy luận hợp lý và phải thực tế, y phải không ngớt áp
dụng lý tưởng của y vào
đời sống hằng ngày. Sự kiên tâm này khó đạt được. Không phải
người ta ít sẵn sàng cố gắng phụng sự lý tưởng Thông Thiên Học :
nếu họ có thể giúp đỡ Đức Thầy
hoàn thành một công
việc nhất định cho Ngài, họ sẽ làm, dù phải hy sinh tánh mạng.
Hãy nhớ lời của Thánh Augustin: "Lắm kẻ muốn chết vì Chúa, chớ
ít ai chịu sống cho Ngài". Chịu
khổ nhục, tuẫn tiết
là ý tưởng trọng đại, anh hùng, là hành vi cao thượng. Nhưng người
chấp nhận điều đó biết mình thực hiện được một sự cố gắng phi
thường và sự tin chắc này nâng đỡ y, giúp y chịu được sự đau đớn
khổ sở; trong chốc lát y làm tròn nhiệm vụ hy sinh cao cả ấy.
Hiện nay bổn phận phải thi hành nặng nề hơn nhiều. Chúng ta không
thể duy trì mức độ anh dũng này khi những sự lo lắng
nhỏ nhặt cứ mãi hiện đến và bao vây chúng ta. Thật khó giữ
được tánh tình một mực trong khi ngày này qua ngày kia ta phải
trông nom những người nản
chí, họ không muốn làm những gì mà chúng ta thấy đó là bổn phận
của họ. Sống vì Chúa trong mọi chuyện nhỏ mọn là điều phiền
phức khó khăn. Và đúng thế, bởi những chuyện dường như nhỏ mọn
cho nên mới khó theo con Đường Đạo.
Ta hãy đọc ba quyển sách này; hãy theo dõi từng lời giáo huấn và xem coi ta có thể thực hiện chúng tới mức độ nào. Nhiều người đã làm điều đó rồi và đã bước vào Đường Đạo. Tại sao chúng ta không thành công như họ? Sự thành công bắt buộc phải thắng phục bản ngã; nó bắt buộc chúng ta phải tự điều khiển mình, nghĩ suy đến những sự việc và nơi nào có cỏ xấu mọc lên, chúng ta hãy nhổ nó. Bề sâu của rễ và sự khổ đau mà chúng ta phải chịu đựng không có gì đáng kể. Phải làm cho nó sạch đi. Công việc này thật khó khăn! Nhưng những người đã lên được vài bậc cao trên Đường Đạo quả quyết với chúng ta rằng làm như thế đáng công lắm, đáng công vô cùng, đáng làm một sự cố gắng, nhiều hay ít, hoặc một lần một, hoặc dù phải lập đi lập lại một trăm lần đi chăng nữa.
CHƯƠNG THỨ HAI
�
Y
�
SỰ ĐIỂM ĐẠO VÀ KHI SẮP ĐƯỢC ĐIỂM ĐẠO
C. W. L.
–
Tên quyển sách này đã được Bà Chánh Hội Trưởng (Annie Besant) của
chúng ta chọn trong ba, bốn mươi tên khác được đề nghị. Lời đề
tặng này cũng vốn của Bà viết cho chúng ta:
Xin hiến dâng cho những người đến gõ cửa.
Lời tượng trưng này thật
rõ ràng: "Anh hãy gõ cửa, người ta sẽ mở cho anh; anh hãy đi tìm
rồi anh sẽ gặp". Trong bài tựa Tiến Sĩ
Annie Besant có nói rằng:
Tôi được cái đặc quyền như một người chị cả, viết vài lời giới
thiệu quyển sách nhỏ này, tác phẩm đầu tiên của một đứa em
còn thơ, kỳ thật xác phàm em nhỏ, chớ không phải linh hồn em nhỏ
đâu.
Đó là điểm rất quan
trọng. Trong đời sống hằng ngày, ta còn nghĩ
đến cõi Trần và kiếp sống hiện tại nên ta xét đoán tuổi
theo thể xác, nhưng về mặt tiến hóa huyền bí, chúng ta xem xét
tuổi theo Chơn Ngã, của Linh hồn chúng ta. Phải tránh sự xét đoán
dựa theo bề ngoài, dù hầu hết mọi người trên Thế gian đều làm như
vậy. Linh hồn trưởng thành một cách liên tục và khi nó tiến cao,
nó thường bắt đầu biểu lộ sự tiến hóa của nó qua trí thông minh,
sự cảm xúc và năng lực thần bí, dù cho xác thân hãy còn trẻ.
Alcyone chắc chắn đã chứng tỏ điều đó qua sự tiến triển mau chóng
của em. Em tuân hành đúng y những lời huấn thị, cho đến đỗi em
thực hiện trong vài tháng những điều gì mà người thường cần phải
để nhiều năm mới hoàn thành, vì đối với hầu hết những người chí
nguyện, sự tiến hóa này bao hàm sự thay đổi toàn thể tánh tình.
Từ đây, những trường hợp
như thế sẽ gia tăng vì Đức Chưởng Giáo sắp lâm phàm. Những vị đệ
tử chính của Ngài phải là những người trẻ tuổi và cường tráng,
chắc chắn có vài vị không lớn tuổi hơn Ngài. Vì bởi chẳng bao lâu
nữa Ngài sẽ đến, cho nên những người được chỉ định vào công việc
đó hiện nay phải trẻ tuổi. Chắc chắn trong những đứa trẻ hiện nay
sống với chúng ta, có những em sẽ giữ vai trò tiên phong, bởi vì
trong số các em được diễm phúc đó có những em sẽ sinh vào một
hoàn cảnh thuận tiện cho sự học hỏi của chúng, nghĩa là trong
những gia đình Thông Thiên Học.
Chuẩn bị cho sự bất ngờ
như thế, chúng ta phải giữ sao cho bất cứ đứa trẻ nào chịu ảnh
hưởng của chúng ta phải nghe nói việc Đức Chưởng Giáo sẽ lâm phàm
hầu nó biết cái khả năng mở ra trước mặt nó; nó sẽ nắm lấy cơ
hội hay không, nhưng nó phải được báo tin trước. Thật đáng buồn cho
bậc cha mẹ nào phải nghe đứa con trai hay đứa con gái của mình
trách móc như sau: "Nếu cha mẹ nói cho con biết mấy việc này lúc
con còn bé thơ thì con có thể nắm lấy cơ hội; nhưng cha mẹ đã để
con trưởng thành mà không mảy may hiểu biết gì về điều đó; cha mẹ
để cho con sống theo thế tục, nên khi cơ hội đến con đã bỏ qua".
Chúng ta phải đưa cơ hội, như vậy chúng ta đã làm xong bổn phận,
vì chúng ta không được ép buộc ai hết, ngay cả việc hoạch định
một chương trình cho tương lai để chờ linh hồn khác, có thể là cao
cả, tuân hành.
Những lời giáo huấn trong sách vốn của Sư Phụ em truyền dạy, khi
Ngài chuẩn bị cho em được Điểm Đạo.
Danh từ Điểm Đạo thường
được dùng với một ý nghĩa tổng quát, nhưng ở đây nó là một danh
từ chính xác và chuyên môn. Trong những lúc đầu tiên chính là Bà
Blavatsky cũng dùng nó một cách sơ xuất. Vì thuật ngữ
của chúng ta ngày nay được xác định rõ hơn, nên danh từ Điểm
Đạo phải dành riêng cho những cuộc Đại Điểm Đạo, cho Năm Cấp Bậc
trên Đường Đạo Chánh thức theo nghĩa cổ kính. Trong mấy tác phẩm
đầu tiên của chúng ta, chúng ta nói về Con Đường Nhập Môn, Con
Đường Đạo Thật Sự và Thời Kỳ chính thức như là ba cấp bậc biểu
thị sự tiến hóa của con người. Con Đường Nhập Môn là Thời Kỳ
Chuẩn Bị, nó đến trước một cuộc Điểm Đạo (là lúc con người
"Nhập Lưu") và nó sẽ chấm dứt khi vị đệ tử đắc quả Chơn Tiên.
Bốn chục năm qua chúng ta đã nói về sự Điểm Đạo trong Hội Thông
Thiên Học; vả lại danh từ này đã dùng cho những nghi lễ của Hội
Tam Điểm (Masonie) và trong những nghi lễ khác. Ta phải cẩn
thận, đừng nhầm lẫn các cuộc Điểm Đạo trên với những cuộc
Đại Điểm Đạo của con đường Huyền Bí Học.
Như người ta đã nói lúc
đầu, thời kỳ chuẩn bị để được Điểm Đạo chia ra làm nhiều giai
đoạn tập sự liên hệ đến bốn đức tánh cần thiết được kể trong
sách này là: Phân Biện, Đoạn Tuyệt, Hạnh Kiểm Tốt và Lòng Từ
Ái.
Gọi các đức tánh này là
cấp bậc thì không đúng cũng như nói về các cuộc Điểm Đạo đem từ
cấp bậc này qua cấp bậc kia kế tiếp nhau. Bốn đức tánh cần thiết
đó không cần phải mở mang theo thứ tự chỉ định, thứ tự đã được
kể ra trong các bản văn Đông phương cổ kính, mà bổn phận chúng ta
chắc chắn là phải hoạch đắc chúng một lượt. Đối với người này
một đức tánh nào đó có thể dễ dàng hơn đối với người kia.
Đức tánh Phân Biện được
kể ra đầu tiên, vì nói tóm lại sự bước vào
Đường Đạo của con
người tùy thuộc vào nó. Các
Phật tử gọi đức tánh
Phân Biện là
Manodvaravajjana hay là "Sự mở
cửa Cái Trí." Nói cách khác, lần đầu tiên Cái Trí con người mở
ra đặng biết rằng chỉ có sự kiện tinh thần mới là chơn thật, còn
đời sống theo thế tục thường tình chỉ làm mất thì giờ thôi.
Người Ấn Độ gọi đức tánh này là
Viveka có nghĩa là Phân Biện. Người Công Giáo gọi nó là sự
Hoán Cải (Conversion),
một danh từ khác rất có ý vị, bởi vì nó nhập lại ý nghĩa của
sự trở về và sự gặp gỡ.
Hai danh từ này do chữ La Tinh Verto là tôi quay lại và
Cum là với.
Nó có nghĩa là con người
từ trước đến nay đi theo con đường riêng của mình, không hề nghĩ
đến Thiên ý; bây giờ biết được phương hướng của Thiên ý đã qui
định cho dòng tiến hóa nên tự quay lại để tuân theo. Trong nhiều
dòng Thiên Chúa Giáo, ý nghĩa của danh từ Hoán Cải bị biến tính
: nó chỉ là trạng thái của chứng giựt gân hay loạn thần kinh; tuy
nhiên, người ta còn tìm thấy ở danh từ đó ý niệm quay về và tuân
theo Thiên ý. Ấy cũng là tư tưởng của vị Sứ Đồ Thiên Chúa Giáo
khi Ngài nói rằng: "Các ngươi hãy thương mến những việc ở trên
trời, chớ đừng quyến luyến
những việc dưới Thế gian".
Nếu Đường Đạo có nhiều
cấp bậc kế tiếp thì trong sự giao tiếp riêng tư giữa đệ tử và
Đức Thầy chuẩn bị cho y được Điểm Đạo cũng có nhiều mức độ khác
nhau được xác định. Chỉ có Quần Tiên Hội thừa lệnh Đấng Duy Nhất
Chí Tôn Cầm Quyền Điểm Đạo là Đấng Chúa Tể, và nhân danh Ngài,
mới được phép Điểm Đạo. Nhưng sự liên hệ giữa đệ tử và Sư Phụ
của y vẫn có tính cách cá nhân. Ban đầu, người ta có thể chấp
nhận làm Đệ Tử Nhập Môn, kế đó làm Đệ Tử Thiệt Thọ rồi bậc
thứ ba làm Con Đức Thầy. Đó là những sự liên lạc riêng tư, ta không
được lầm lộn nó với những cuộc Điểm Đạo do Quần Tiên Hội tấn
phong.
Sự Điểm Đạo lần thứ Nhứt
là một cấp bậc chấp nhận con người làm một nhân viên của Quần
Tiên Hội. Từ trước đến giờ người chí nguyện chưa thật sự đặt chân
trên con Đường Đạo, nhưng y chuẩn bị cho công việc
đó. Sự Điểm Đạo này không phải là một sự
tấn phong độc đoán; nó là sự chứng nhận một giai đoạn tiến
hóa đã đạt được, giai đoạn mà ngày xưa người ta gọi là hợp nhất
Bản Ngã Cao Siêu với Bản Ngã thấp hèn, sự liên hiệp giữa Chơn Nhơn
và Phàm Nhơn. Ai muốn làm thí sinh để được Điểm Đạo lần thứ Nhứt
thì phải hoạch đắc những đức tánh cần thiết đã kể ra trong quyển
này và y phải làm cho Phàm Nhơn thành ra sự biểu hiện của Chơn
Nhơn. Không còn một Phàm Nhơn nào có thể bắt buộc Chơn Nhơn phải
kính nể và có những ý muốn chống đối với những ý muốn của Chơn
Nhơn còn mắc vào vòng luân hồi từ
kiếp này qua kiếp kia.
Sự thay đổi xảy ra lúc bây
giờ được trình bày trong những đồ hình của quyển
Con người hữu hình và vô hình. Thể Vía của người dã man
hiện ra những màu sắc biểu lộ tất cả những tình dục thấp hèn;
chu vi nó không đều đặn vì con người không kiểm soát được nó. Nhân
Thể (hay Thượng Trí) và Hạ Trí không liên lạc nhau. Thượng Trí
dường như trống rỗng, không màu sắc; còn Hạ Trí thì mở mang chút
ít, nhưng chỉ mới bắt đầu liên lạc với Cái Vía. Thể Vía của
người dã man dẫy đầy những cảm xúc và những dục tình
phức tạp không liên hệ gì với trí khôn. Chúng không khiến y
suy nghĩ; y không biết suy nghĩ là gì. Những sự đam mê hiện diện
và lôi cuốn y.
Trái lại, trong người tiến
hóa, tất cả những thể này đều phối hợp chặt chẽ với nhau. Nhân
Thể đầy đủ chớ không trống rỗng; tất cả những màu sắc khác nhau
biểu lộ những đức tánh cao thượng đã được khai mở trong Thể này
và Nhân Thể bắt đầu chiếu hào quang ra tứ phía để giúp đỡ kẻ
khác. Hạ Trí cũng biểu lộ những màu sắc như thế, ít dày đặc hơn
một chút nhưng vẫn đẹp; nó tiêu biểu cho Nhân Thể ở cõi thấp. Đến
lượt Thể Vía, nó phản ảnh Hạ Trí song có hơi đậm và dày hơn, vì
cảnh giới của Cái Vía thấp hơn.
Phàm Ngã của người dã man
tự biểu lộ đủ thứ cảm xúc và dục tình mà Chơn Nhơn chắc chắn
không tán đồng; nhưng ở người tiến hóa, chỉ có những cảm xúc mà
Chơn Nhơn muốn có mà thôi. Y chọn lựa những cảm xúc thay vì chịu
làm trò chơi cho chúng. Y nói: "Tình thương là một điều rất đẹp;
tôi muốn lòng tôi rạt rào mến thương. Lòng Sùng Đạo là một điều
rất đẹp, tôi khao khát được lòng Sùng Tín. Lòng Thiện Cảm đẹp
biết bao! Tôi muốn lòng mình đầy Thiện Cảm." Và y thực hiện điều
ấy với tầm mắt mở rộng và có ý thức. Như thế những cảm xúc
được đặt dưới sự kiểm soát của Hạ Trí là sự biểu hiện của Nhân
Thể; như vậy chúng ta gần đạt đến chỗ hiệp nhất hoàn toàn Chơn
Nhơn và Phàm Nhơn.
Không nên tưởng có sự hiện
diện của hai nhân vật trong con người. Không hề có một Phàm Nhơn
nào hiện ra như một người độc lập, nhưng Chơn Nhơn cho tách rời một
phần nhỏ nhít của Ngài để vào Phàm Nhơn đặng kinh nghiệm những
làn rung động của những cõi thấp. Rồi Phàm Nhơn trở nên linh động
hơn Chơn Nhơn nhiều vì nó ở trong giai đoạn mà nó có thể đáp ứng
với những sự rung động đó; cho nên, nó quên rằng nó thuộc về Chơn
Nhơn; nó dấn thân vào cuộc đời vì việc riêng của nó và hành động
theo ý nó hơn là dưới sự điều khiển của Chơn Nhơn. Tuy nhiên, trải
qua nhiều kiếp luân hồi, Chơn Nhơn trở nên mạnh mẽ. Thế rồi con
người mới nhận ra Phàm Nhơn chỉ là sự biểu hiện của chính mình
và mình là Chơn Nhơn còn phải luân hồi. Và mỗi lần Ngài muốn chỉ
huy, thay vì vâng lời thì Phàm Nhơn vơ vẫn đi lạc đường và cần
được kiềm chế. Ta có bổn phận phải đào luyện Phàm Nhơn thế nào
để cho nó thành ra sự biểu
hiện của Chơn Nhơn và chỉ của Chơn Nhơn thôi. Đó chính là
điều mà Ông Sinnett gọi là "Thề nguyền trung thành với Chơn Nhơn."
Trong quyển Tiếng Nói Vô Thinh
có khuyên ta rằng: Người đệ tử phải hủy diệt Thể Nguyệt Tinh: tức
là Thể Vía. Điều này không có nghĩa là sát hại Thể Vía, nhưng
Cái Vía của chúng ta chỉ hiện hữu như là một sự biểu hiện của
cái gì ở trên cao hơn
nó và thay vì có những dục tình và những
cảm xúc riêng biệt, nó sẽ chỉ phản chiếu những hình ảnh do
Chơn Nhơn chọn lựa mà thôi.
Điều kiện này phải đạt
được trước khi được phép trình diện để được Điểm Đạo lần thứ
Nhứt. Con người phải có sự kiểm soát Xác Thân, Cái Vía và Cái
Trí của mình; chúng phải là tôi tớ của Chơn Nhơn. Cái kỹ luật
này đòi hỏi ở người thường một sự cố gắng lớn lao. Nhiều người
nói: "Tôi không làm nổi điều đó đâu. Đừng nói với tôi điều đó, vô
ích". Như vậy là đem trình bày cho y một lý tưởng quá cao
siêu một lần một. Trái lại, điều đó không phải là một sự cố
gắng quá sức đối với những người đã nhiều năm tham thiền và suy
gẫm về những vấn đề ấy. Thật ra, không phải dễ mà tiêu diệt lần
hồi từ cái này đến cái kia không biết bao nhiêu dục tình và sự
ham muốn, để khắc phục Cái Vía và Cái Trí. Đó là công việc khó
nhọc nhưng hết sức đáng cho con người ra công làm. Kết quả đạt
được so với sự cố gắng sẽ vô cùng lớn lao hơn, dù đã cố gắng
mãnh liệt đến đâu. Tự dọn mình đặng có thể phụng sự một cách
thật hữu hiệu Đức Chưởng Giáo là một sự khích lệ, một sự kích
thích phụ vào công việc khó nhọc này. Những người được Điểm Đạo
không phải vì sự ích
lợi riêng cho cá nhân họ, hoặc để tránh sự mệt nhọc và đau
khổ ở Thế gian, mà để họ có khả năng cộng tác với Thiên Cơ cao
cả.
Trong đời sống con người,
có vài sự thay đổi vô cùng quan trọng hơn tất cả những cái khác.
Điều thứ nhất xảy ra lúc con người có cá tính, thoát kiếp thú
và chuyển kiếp làm người để bắt đầu thực hiện Chơn Nhơn. Điều
quan trọng thứ hai là được nhận vào hàng Chơn Tiên; khi được Điểm
Đạo lần thứ Năm, con người mới rời bỏ hàng ngũ nhân loại để bước
vào giai đoạn siêu nhân. Đó là mục đích dự định cho tất cả mọi
người; đó là mục tiêu mà chúng ta phải cố gắng đạt được trong
dãy địa cầu hiện nay. Khi thời kỳ này chấm dứt, người nào đã
hoàn tất điều gì mà Trời đã muốn cho nhân loại, đã tuyệt đối
tuân theo Thiên Ý về những điều kiện liên hệ với y thì sẽ được
thoát kiếp làm người. Nhiều người trong chúng ta có thể đạt được
mục tiêu đó trước thời gian kết thúc rất lâu.
Trong khoảng thời gian giữa
hai sự thay đổi này, có một việc thứ ba rất quan trọng, đó là:
"Sự Nhập Lưu," khi được Điểm đạo lần thứ Nhứt. Thể thức được đọc
khi thu nhận thí sinh vào Quần Tiên Hội có mấy lời này: "Bây giờ
đây, luôn luôn con vẫn được an toàn; con đã nhập lưu; cầu chúc cho
con, không bao lâu đây, sẽ qua tới bờ bên
kia". Người Thiên Chúa Giáo gọi người Tân Đạo Đồ là người
được "Cứu Rỗi" hay được an toàn. Điều đó có nghĩa là, trong triều
lưu tiến hóa hiện tại, chắc chắn y không bị ở lại đàng sau; chắc
chắn y không bị mất hàng ngũ trong ngày "Phán Xét" của cuộc Tuần
Hoàn sau, như một cậu học trò bê trễ quá nên không theo kịp chúng
bạn trong lớp.
Người được Điểm Đạo lần
thứ Nhứt, phải qua cuộc Điểm Đạo lần thứ Nhì, lần thứ Ba và lần
thứ Tư trước khi đến trình độ Chơn Tiên, tức là được Điểm Đạo lần
thứ Năm, và khi đạt được quả vị này Ngài hiệp nhất được Chơn
Thần với Chơn Nhơn, cũng như trước đây Ngài hiệp nhất Chơn Nhơn với
Phàm Nhơn. Khi con người hoàn toàn hiệp nhất Chơn Nhơn với Phàm Nhơn
rồi thì Phàm Nhơn không còn nữa, trừ phi nó là sự biểu hiện của
Chơn Nhơn; bây giờ còn một việc tương tự như thế chờ đợi người Đạo
Đồ một lần nữa, đó là làm cho Chơn Nhơn thành ra sự biểu hiện
của Chơn Thần. Còn một giai đoạn khác giống như thế đang mở rộng
ở phương trời xa thẳm chăng? Chúng ta không biết điều đó. Tuy nhiên
chắc chắn khi đạt đến quả vị Chơn Tiên chúng ta sẽ thấy mở ra
trước mắt một viễn ảnh hướng thượng vinh
diệu hơn nhiều.
Người ta thường hỏi sự
cuối cùng của cuộc tiến hóa đang mở ra trước mắt chúng ta sẽ ra
sao? Riêng tôi, tôi không biết nó sẽ chấm dứt hay không. Một hôm, một
Đại Triết Gia có nói: "Không thể nào quan niệm được sự tiến hóa
có mức cuối cùng, mà cũng không thể nào quan niệm được sự tiến
không có mức cuối cùng; nhưng trong hai lẽ đó phải có một cái
đúng". Có người nói về nhập vào Đấng Tối Cao: Chúng ta không biết
gì về điều này. Chúng ta chỉ biết rằng Tâm Thức của chúng ta
tiếp tục mở rộng; và phía trước nó, có nhiều mức độ mới lạ
nối tiếp nhau, cao hơn trình độ chúng ta. Chúng ta biết rằng có
thể tiếp xúc với cõi Bồ Đề và Tâm Thức chúng ta mở ra rộng lớn
vô cùng, chúng ta vẫn chính là chúng ta, đồng thời chúng ta thành
ra những người khác và cao
cả hơn.
Kinh nghiệm này không hề
cho chúng ta cái cảm giác rằng chúng ta đã mất cá tính rồi. Nhưng
chúng ta có cảm giác đã mở rộng nó đến mức có thể gia thêm vào
năng lực cảm xúc của chúng ta sự cảm xúc của những kẻ khác. Ai
có thể đạt đến mức đó trong lúc tham thiền thì nên tiếp tục việc
ấy. Nhờ sự khai triển không ngừng, Tâm Thức không ngớt mở rộng ra
cho đến lúc bao trùm chẳng những nhân vật cực kỳ cao thượng mà cho
tới những nhân vật thấp thỏi hơn nó; tuy nhiên, những nhân vật cực
kỳ cao thượng vì dũng mãnh hơn và sử dụng được một năng lực ghê
gớm, nên cảm biết trước hơn mấy người kia. Một sự khai triển Tâm
Thức như thế vẫn tăng dần; người ta phải mở một con đường xuyên qua
tất cả những cảnh thấp của cõi Bồ Đề. Rồi chẳng bao lâu, người
ta tập mở Kim Thân là Thể Bồ Đề. Ấy là một thể mà con người có
thể tùy ý sử dụng trên cao độ phi thường này, nơi đó các bầu Thế
giới chỉ là một, nơi đó con người có thể vượt qua không gian mà
không phải đi qua theo nghĩa thông thường như ta hiểu chữ này.
Vì nhiều người trong chúng
ta đã kinh nghiệm sự kiện ấy, nên chúng ta có quyền cho rằng trong
tương lai Tâm Thức này cũng khai mở như thế. Chúng ta đã đạt được
sự hiệp nhất mà không có cảm giác mất cá tính, cũng không bị
chìm đắm trong biển cả sáng ngời, như lời của thi sĩ diễn tả.
Trái lại, dường như cái biển cả sáng ngời nó tuôn tràn vào giọt
nước.
Đúng thật là một quả
quyết mâu thuẩn, nhưng cái đó là cảm giác đã nhận thức của người
đã mở Bồ Đề Tâm; cái Tâm Thức của giọt nước mở rộng ra và thành
Tâm Thức của biển cả. Đó là sự kiện đối với chúng ta như thế.
Tại sao không giả sử rằng ngay bây giờ không có cái gì thay đổi
trong phương thức đó? Ta không thể quan niệm được sự nhập vào một
sự sống khác làm cho chúng ta mất Tâm Thức mà chúng ta phải dày
công lắm mới hoạch đắc được. Tôi tin rằng Tâm Thức này sẽ mở mang
cho đến ngày chúng ta hiệp nhất với Đức Thượng Đế, nhưng chỉ trong
ý nghĩa mà Đấng Christ đã nói: "Các con là những vị Thượng Đế;
tất cả các con là con của Đấng Tối Cao."
Chúng ta có thể nhìn lại
cái quá khứ xa xăm của sự tiến hóa và chúng ta cũng có thể thấy
được tương lai xa thăm thẳm ở phía trước. Do đó chúng ta có thể tin
chắc vào tương lai, nó tiêu biểu hàng triệu năm hoạt động hữu hiệu
trên những mức độ tuyệt diệu, nơi đó sự quang vinh, uy lực và tình
bác ái không thể quan niệm nổi ở
dưới Thế gian này.
Chúng ta hãy xem xét vấn đề trên quan điểm chánh lý. Chúng ta hy
vọng hiểu biết cách nào? Nếu hiện nay chúng ta có thể hiểu biết
được mức cuối cùng của mấy điều đó thì nó quả là tầm thường
lắm, không cân xứng với tất cả những giai đoạn xảy ra trước nó.
Trí tuệ của chúng ta còn
hạn hẹp, chúng ta không biết được giới hạn của nó ở đâu; phải
thấy sự phát triển cao siêu, người ta mới bắt đầu hiểu rằng cái
trí khôn mà con người rất hãnh diện thật chẳng ra gì cả, nó chỉ
là một khởi điểm, là hạt giống của cái cây tương lai. Đem so sánh
với trí khôn mai sau thì hiện nay con người chỉ có Cái Trí của
đứa trẻ con; quả thật là trí khôn của đứa trẻ con đầy hứa hẹn,
vì nó đã hoàn thành nhiều công việc và có hy vọng nó sẽ hoàn
thành nhiều hơn nữa. Nhưng, so sánh với Cái Trí của những Đấng Cao
Cả thì nó chỉ là Cái Trí của một đứa bé thơ thôi; như vậy nó
không thể vươn lên đến chỗ thật cao mà cũng không thể xuống sâu đến
chỗ thật thâm diệu, nên chúng ta không thể bảo nó hiểu được chỗ
khởi thủy và chỗ cuối cùng. Về phần tôi, tôi thú nhận ngay với
tất cả sự thành thật rằng tôi không biết được mục đích của Đấng
Tối Cao. Tôi chỉ biết một điều là Ngài có thật.
Nhà Siêu Hình Học và
Triết gia đã suy nghiệm thuần lý về vấn đề này, sự cố gắng làm
phát triển rất nhiều Hạ Trí và Thượng Trí của họ. Những người
nào thích tưởng tượng cứ suy tưởng, không có hại chi cả; nhưng tôi
tưởng, họ phải hiểu rõ rằng đó chỉ là những điều tưởng tượng.
Các nhà Triết học không nên biến đổi những lý thuyết của họ
thành ra hệ thống và mong mỏi chúng ta chấp nhận vì có lẽ đúng
là họ đã bỏ qua nhiều yếu tố căn bản. Riêng tôi, tôi không suy luận
thuần lý, khi cảm thấy rằng sự huy hoàng và sự vinh quang đang chờ
chúng ta đã đủ, để thỏa mãn những khát vọng của chúng ta rồi.
"Những điều gì mà mắt không thấy được, tai chẳng nghe được và
cũng không sắp đặt sẵn trong lòng người, đó là những điều mà
trời đã chuẩn bị cho những người mà Ngài Thương".[2]
Đó là chính sự thật hôm
nay mà cũng là sự thật hồi hai ngàn năm trước.
CHƯƠNG
THỨ BA
�
Y
�
QUYỂN SÁCH ĐƯỢC VIẾT RA BẰNG CÁCH NÀO ?
C. W. L.
–
Lời tựa của Tiến sĩ Besant (hồi tháng 12 năm 1910), giải thích
kế đó, cách Alcyone
đã viết quyển sách.
Và em viết thuộc lòng lại mấy lời này một cách chậm chạp và
khó khăn, vì năm trước em chưa giỏi tiếng Anh
như bây giờ.
Một phần lớn cuốn sách vốn lập lại y nguyên lời của Chơn Sư, còn
câu nào không phải lời của Ngài thì cũng là tư tưởng của Ngài do
em diễn tả lại. Có hai câu bỏ sót, Ngài chữa lại. Trong hai chỗ
khác, em quên một chữ, Ngài thêm vô. Trừ ra mấy điều đó, tác phẩm
này hoàn toàn của Alcyone, ấy là món quà đầu tiên của em hiến cho
đời.
Riêng tôi, tôi có thuật lại
câu chuyện xảy ra như thế nào trong
quyển Chơn Sư
và Thánh Đạo.
Cũng khá dễ mà thuật lại
quyển sách nhỏ ấy được viết trong trường hợp nào. Mỗi đêm tôi có
bổn phận phải dắt đứa trẻ này ở trong Cái Vía của nó đến nhà
Đức Thầy, để Ngài giáo huấn nó. Mỗi lần, Ngài để ra trong khoảng
mười lăm phút đặng giảng dạy nó rồi khi mỗi bài chấm dứt Ngài
tóm tắt những điểm quan trọng mà Ngài đã giảng, hoặc bằng một
câu, hoặc bằng nhiều câu. Như thế Ngài làm ra một toát yếu rất dễ
để em học thuộc lòng. Sáng mai, em phải nhớ lại rồi chép ra.
Quyển Dưới Chơn Thầy gồm những câu tóm tắt lời giảng dạy của
Đức Thầy bằng những từ ngữ riêng của Ngài dùng. Krishnamurti chép
lại hơi khó khăn những lời này, vì hồi đó em chưa giỏi tiếng Anh.
Em thuộc lòng tất cả những bài này nên không lo ngại về số phần
của những chú thích mà em đã ghi chép. Nhưng sau đó ít lâu,
Krishnamurti đi Bénarès với bà Hội Trưởng của chúng ta, ở đó, em
viết thơ về Adyar cho tôi, yêu cầu tôi thu thập và gởi cho em tất cả
những câu ghi chú những lời Đức Thầy đã dạy em. Tôi cố gắng xếp
đặt lại thật rõ ràng những lời ghi chú này và đánh máy ra.
Đối với tôi, dường như một
phần lớn những lời ghi chú đó chính là lời của Đức Thầy. Tôi
muốn thật chắc chắn không có sự sai lạc trong khi chép nên tôi đã
đem dâng lên Đức Thầy Kouthoumi những bản đánh máy và cầu xin Ngài
vui lòng đọc lại tất cả. Ngài đọc và đổi một hoặc hai chữ ở
chỗ này, chỗ kia, thêm vài chữ để liên kết và giải thích, và vài
câu khác mà tôi nhớ có nghe Ngài đã nói. Rồi Ngài nói: "Phải, như
vậy đúng; cái này được"; nhưng Ngài nói thêm: "Chúng ta hãy đem
mấy tờ này trình lên Đức Di Lạc". Và Đức Thầy với tôi cùng đi,
Ngài cầm bản thảo và trình lên Đức Chưởng Giáo. Đức Chưởng Giáo
đọc và tán thành. Chính Ngài nói: "Huynh phải làm cho nó thành
một quyển sách nhỏ xinh đẹp đặng giới thiệu Alcyone cho đời".
Chúng tôi không hề có ý nghĩ giới thiệu Alcyone với Thế gian; và
chúng tôi tưởng không đáng cho nhiều luồng tư tưởng tập trung vào
một đứa bé mới mười ba tuổi đầu còn cần sự học hỏi và sự giáo
hóa. Nhưng trong giới huyền bí, chúng tôi phải làm những gì người
ta nói với chúng tôi, vì vậy quyển sách này được giao cho nhà in
ngay buổi sáng hôm sau.
Tất cả những sự phiền
phức mà chúng tôi đã tiên kiến khi quyển sách nhỏ này được xuất
bản sớm, đã xảy ra. Tuy nhiên Đức Chưởng Giáo hữu lý và chúng tôi
đã lầm, vì cái tốt đẹp do quyển sách đó mang lại đã vượt xa vô
hạn những nỗi ưu phiền do nó đã gây ra cho chúng tôi. Thật thế, có
hàng ngàn người viết thư cho chúng tôi biết rằng đời sống của họ
đã thay đổi hoàn toàn và họ thấy mọi vật đều khác hẳn, chỉ vì
đã đọc quyển sách ấy. Quyển
Dưới Chơn Thầy đã được dịch ra hai mươi bảy thứ tiếng, xuất
bản khoảng bốn mươi lần, hoặc hơn nữa và có trên một trăm ngàn
quyển đã in ra. Qua trung gian
của quyển sách này một công trình tuyệt diệu đã hoàn thành. Và
trên tất cả, nó được Đức Chưởng Giáo sắp lâm phàm đặc biệt cho
phép ấn hành. Điều này đã tăng thêm giá trị của nó, bởi vì qua
nội dung của quyển sách nhỏ này người ta có thể suy diễn được
phần nào giáo lý của Đức Chưởng Giáo.
CHƯƠNG THỨ TƯ
�
Y
�
C. W. L.
–
Bà Tiến sĩ A. Besant đã kết thúc lời nói đầu của
quyển sách này bằng
những lời cầu nguyện cho chúng ta như sau:
Cầu xin tác phẩm này giúp ích cho kẻ khác, cũng như lời khẩu
truyền đã giúp ích cho Alcyone. Chính vì cũng mong mỏi như thế, nên
Alcyone mới đem truyền lại cho chúng ta. Nhưng mà những lời giáo
huấn này chỉ có hiệu quả là khi nào người ta thật sự sống đúng
theo nó, cũng như chính Alcyone từ khi được Thầy dạy đến giờ vẫn
tuân theo luôn luôn. Nếu noi theo gương này, cũng như giữ vẹn lời
giới răn thì độc giả sẽ bắt đầu bước vào Đường Đạo cũng như tác
giả vậy.
Trong khi duyệt lại quyển
sách, Tiến sĩ Besant nói rằng: "Thật ít khi thấy những lời lẽ
tương tự, lời giáo huấn trực tiếp có tính cách triết lý như thế,
và được diễn tả một cách tuyệt diệu lại đem giảng dạy cho đời".
Vì vậy, thật đáng cho chúng ta phải cân nhắc kỹ lưỡng từng lời.
Chỗ khởi đầu quyển sách,
trước lời tựa của Alcyone, chúng ta gặp lời cầu nguyện xưa, do từ
tiếng Phạn dịch ra.
[3]
Xin dắt tôi từ cõi giả đến cõi chơn.
Xin dắt tôi từ chỗ tối tăm đến nơi sáng suốt.
Xin dắt tôi từ sự chết đến sự trường sinh bất tử.
Trong trường hợp hiện tại,
chữ "Chơn" có thể bị hiểu lầm. Khi dùng chữ "Chơn" và chữ "Giả"
chúng ta muốn nói rằng cái này có một sự hiện tồn xác thực,
còn cái kia thì không có. Đối với chúng ta chữ "Giả" chỉ có
nghĩa hư ảo, tưởng tượng. Nhưng người Ấn Độ không bao giờ hiểu
nghĩa chữ này như thế. Có thể chúng ta hiểu theo một ý nghĩa gần
đúng ý nghĩa họ quan niệm, khi chúng ta nói rằng: "Xin dắt tôi từ
cõi vô thường đến cõi Trường Tồn bất diệt."
Nói rằng các cõi thấp như cõi Hồng Trần, cõi Trung Giới và cõi
Thượng Giới là giả, thường sẽ gây ra nhiều sự lầm lẫn lớn lao.
Chúng nó không phải là giả khi mà chúng nó còn tồn tại ở mức
độ của chúng nó. Những vật hữu hình dường như quả có thật, khi
chúng ta ở cõi Hồng Trần, nhưng khi chúng ta ngủ, chúng ta dùng tâm
thức của Cái Vía thay vì tâm thức của Xác Thân, chúng ta không thể
thấy đồ vật này nữa, bởi vì chúng ta đã đi qua cõi cao hơn. Vì
lẽ đó, đôi khi người ta gọi chúng nó là giả, nhưng người ta cũng
có thể gọi cõi Trung Giới là giả vì khi ở cõi Trần, chúng ta
không thấy đồ vật ở cõi
Trung Giới. Đồ vật ở hai cõi luôn luôn vẫn hiện diện và thấy được
đối với người mà tâm thức đã hoạt động trong cả hai cõi ấy.
Theo sự hiểu biết của
chúng ta, mọi sự biểu hiện đều vô thường; chỉ có cái "Không Biểu
Hiện" là tuyệt đối và thường hằng
[4]
mà thôi. Một ngày kia, mọi sự biểu hiện, ngay cả những sự biểu
hiện ở những cõi cao, sẽ trở về với cõi vô thủy vô chung. Như thế
sự khác biệt giữa cái mà chúng ta gọi là vô thường với những
cõi cao siêu này chỉ là vấn đề thời gian thôi, và thời gian đó so
với Trường Tồn Bất Diệt thì nó không có nghĩa gì hết. Vậy cõi
Hồng Trần cũng vẫn thật như cõi Niết Bàn và cũng như cõi Niết
Bàn nó vẫn là sự biểu hiện của Thượng Đế. Do đó, chúng ta không
nên tưởng rằng trong hai cõi ấy, có một cõi thật, còn cõi kia chỉ
là ảo mộng hay là huyễn tưởng thôi.
Còn một lý thuyết khác
vẫn thường cho rằng vật chất là xấu. Không phải xấu đâu. Vật chất
cũng như Tinh thần, cả hai đều là biểu hiện của Đức Thượng Đế;
cả hai đều thuộc về Ngài; chúng nó chính là hai trạng thái của
Ngài mang. Vật chất thường gây chướng ngại trên đường tiến hóa của
chúng ta, nhưng khi nào sử dụng nó làm chậm trễ bước tiến hóa
của chúng ta. Cũng như việc người ta bị dao cắt mà cho rằng tất
cả những dao đều xấu. Theo sự uyển chuyển của tiếng Phạn, chúng
ta có thể dịch lời cầu nguyện thứ nhất như sau: "Xin dắt tôi từ
cái giả đến cái Thật"."Chơn," "Thường","Thật" cái nghĩa dường như
gồm cả mấy điều đó. Vậy thì lời cầu nguyện của chúng ta có
nghĩa rõ hơn như
thế này: Xin dắt tôi từ ngoại giới, là nơi ảo ảnh lớn lao
hơn hết đến nội tâm, là nơi gần kề chân lý tuyệt đối.
Lời cầu nguyện thứ nhì
là: "Xin dắt tôi từ chỗ tối tăm đến nơi
Sáng Suốt." Dĩ nhiên, đây là từ chỗ tối tăm của sự dốt nát
đến ánh sáng của sự hiểu biết. Lời cầu nguyện này dâng lên Đức
Thầy. Chúng ta cầu xin Đức Minh Triết của Ngài soi sáng chúng ta.
Bên Ấn Độ, câu này còn có nghĩa thứ hai thêm vô nghĩa thứ nhất.
Thiết tưởng chúng ta cầu xin Đức Thầy dắt chúng ta đến sự hiểu
biết các cõi cao siêu. Chúng ta cũng tìm thấy ở đó tư tưởng thật
đẹp được diễn đạt trong vài quyển sách xưa rằng: Ánh sáng của
cõi dưới là sự tối tăm của cõi cao kế đó. Đó là một Chân lý
tuyệt diệu. Cái mà chúng ta gọi là ánh sáng dưới Trần thế thì
đục và mờ so với ánh sáng của cõi Trung Giới và đến lượt ánh
sáng của cõi này lại yếu hơn ánh sáng của cõi Thượng Giới. Thật
rất khó mà tìm những lời lẽ diễn tả sự dị biệt này, vì mỗi
lần trong tâm thức quí bạn vượt lên một cõi cao, quí bạn lại cảm
giác nhận thức được một cái gì cao siêu phi thường hơn tất cả
những gì mà trước kia quí bạn chưa từng biết, quí bạn thấy uy
lực tăng gia, ánh sáng tăng gia, phúc lạc tăng gia.
Một người tâm thức thật
mở mang tự nhủ: "Hôm nay, lần đầu tiên, tôi mới hiểu Sự Sống thật
sự là gì, và sự huy hoàng của mấy
điều đó". Vậy mỗi cõi đều cao hơn cõi dưới kế nó, điều
này không thể so sánh được cho đến đổi từ cõi Trung Giới trở về
cõi Trần thì dường như người ta đi từ ngoài ánh sáng mặt trời
vào ngục tối vậy. Khi một người có thể hoạt động một cách có ý
thức trên cõi Thượng Giới, y sẽ có thể phát triển trong nhiều
phương hướng vô cùng cao hơn những điều y đã biết tại cõi Trung
Giới. Khi y tiếp xúc Tâm Thức Bồ Đề, lần đầu tiên y mới vừa cảm
biết cách Thượng Đế xem coi vạn vật. Đó chính là sự tiếp xúc
đầu tiên với Thượng Đế, một ý niệm đầu tiên về cách thế của
"Đấng Vô Sở Bất Tại" cảm biết vũ trụ của Ngài tạo ra. Người ta
nói về Ngài như vầy: "Sự sống của chúng ta, sự hoạt động của
chúng ta, bản thể của chúng ta vốn ở trong lòng
Ngài"
[5]
và một câu nữa: "Vạn vật
đều do Ngài sinh ra và thuộc về Ngài".
[6]
Đây không phải chỉ là một lời nói đẹp đẽ và có thi vị mà chính
là sự biểu hiện của một sự việc. Có một Đơn vị cực kỳ vinh
quang, không phải chỉ là một nhóm Huynh Đệ mà thật sự là một Đơn
vị; khi chạm phớt qua nó, người ta bắt đầu hiểu một cách mơ hồ
điều mà Thượng Đế cảm thấy khi Ngài nhìn xem Vũ Trụ của Ngài và
nói: "Cái đó thật tốt". Như thế chúng ta cầu xin được dắt từ
chốn tối tăm ngự trị ở các cõi thấp đến ánh sáng của Tâm Thức
cao siêu là ánh sáng tương phản với sự tối tăm. Không có danh từ
nào thích hợp hơn, không có tiếng nào đủ khả năng diễn đạt cảm
nghĩ của chúng ta đúng hơn. Sau hết chúng ta lại nguyện rằng: "Xin
dắt tôi từ sự chết đến sự Trường
Sinh Bất Tử ". Câu này không có nghĩa như người mới mộ Đạo
hiểu, vì người Thông Thiên Học không xem sự tử vong như một người
chưa khảo cứu vấn đề này: thái độ của y phải thật trái hẳn. Sự
chết không có gì đáng sợ; nó không phải là Bạo Chúa của những
sự khiếp đãm, nhưng đúng hơn nó là một vị Thiên Thần mang chìa
khóa vàng đến mở cửa vào
một đời sống cao cả hơn và nhiệt liệt hơn. Đành rằng chúng ta luôn
luôn luyến tiếc những người quá vãng, nhưng sự luyến tiếc này chỉ
nhắm vào việc: "Nắm một bàn tay tan ra mây khói, nghe âm thanh của
một tiếng nín lặng". Khi chúng ta cầu xin được dắt từ sự chết
đến sự Trường Sinh Bất Tử, ý tưởng của chúng ta không phải như ý
tưởng của một người Thiên Chúa Giáo sống mãi trong sự Trường Tồn
với bản ngã hiện hữu của y, dưới hình thức này hay dưới hình
thức khác. Tuy nhiên, chúng ta cầu mong thoát khỏi sự chết và
người bạn keo sơn của nó là sự tái sinh. Cái điều chờ đợi con
người, ấy là chu kỳ của sự tiến hóa, những người Phật Tử gọi
là Sansâra, có nghĩa là Bánh xe của sự sống. Lời cầu nguyện ở
đây có nghĩa là: "Xin dắt tôi từ vòng sinh tử đến sự Trường Sinh
Bất Tử - đến đời sống vượt lên trên sự sinh và sự tử, nó không
cần phải xuống những cõi thấp nữa, vì sự tiến hóa của nó trong
con người đã chấm dứt và nó đã học hết
những gì mà vật chất đã dạy nó.
Thường thường người ta
không ngờ đến điều này là ý niệm đó cũng chiếm một địa vị quan
trọng trong những Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo. Thiên Chúa Giáo hiện
đại phải chịu vài ám ảnh (tôi không nghĩ rằng người ta có thể
gọi chúng bằng danh từ nào khác
hơn), mà một trong những ám ảnh đó là tư tưởng ghê tởm về
một địa ngục đời đời kiếp
kiếp. Tín ngưỡng này đã rải một đám mây mù vô lý, vô nghĩa trên
một loạt giáo lý khác. Trong toàn thể của nó, thuyết Cứu rỗi
Linh Hồn xuất hiện có nghĩa là nhằm cứu vớt Linh Hồn ra khỏi cái
địa ngục hão huyền đời đời đó. Ý nghĩa thật khác lắm. Thiết
tưởng tất cả những đoạn sách nói về địa ngục đời đời kiếp kiếp
dường như không thể hiểu được đã trở thành sáng tỏ và minh bạch,
khi mà người ta hiểu được rằng thật ra con người
được cứu rỗi vì Đức
Chúa sinh ra trong lòng nó.
Đấng Christ thường nói về
con đường rộng rãi đưa đến sự chết chóc hay là sự tàn phá mà
nhiều người đã đi theo nó. Một hôm, người đệ tử của Ngài đến hỏi
Ngài: "Bạch Chúa, phải chăng chỉ có một số ít người được cứu
rỗi mà thôi"? Ngài đáp rằng: "Cánh cửa vẫn chật hẹp và con đường
dắt đến sự sống vẫn eo hẹp, rất ít người tìm được nó". Những
lời tuyệt diệu và hoàn toàn đúng này, người ta thường giải thích
rằng nó có nghĩa là đa số nhân loại sẽ bị ném vào một địa ngục
đời đời kiếp kiếp, còn một thiểu số sẽ được lên Trời. Thật là
hết sức kỳ cục
mà gán cho Chúa ý
tưởng này. Ý của Chúa hoàn toàn minh bạch. Các
đệ tử hỏi Ngài có bao nhiêu người theo con đường dẫn đến sự
Điểm Đạo? Ngài trả lời: "Ít lắm", lời Ngài vẫn đúng đối với
ngày nay cũng như đối với thuở xa xưa đó. Khi Ngài nói rằng: "Con
đường dắt đến cõi chết thì rộng rãi và nhiều người theo nó", là
Ngài đã nói đến con đường dắt đến sự sinh tử luân hồi. Dĩ nhiên,
quả thật đó là con đường
rộng rãi và dễ đi biết bao! Cách tiến hóa ấy không mệt nhọc chút
nào và những người đi theo đường đó sẽ đạt được mục đích khá dễ
dàng . . . có lẽ hết cuộc
Tuần Hoàn thứ bảy.
Nhưng cánh cửa chật hẹp và con đường eo hẹp, lại dẫn đến sự Điểm Đạo và cõi Trời. Khi Đấng Christ nói về Cõi này, Ngài không hề muốn nói đó là cõi Thiên Đàng hay trạng thái sau khi chết hay dévakhane, mà luôn luôn Ngài đề cập đến một nhóm người đã được cứu rỗi hay một đoàn thể được tuyển chọn, tức Quần Tiên Hội vậy. Khi Ngài nói về điều kiện của kiếp sống giữa sự chết và sự tái sinh, chúng ta thấy Ngài dùng những từ ngữ khác. Quí bạn hãy nhớ lại một đoạn văn của Thánh Jean như sau: "Và đây này, một đám đông người, không ai đếm được, thuộc mọi quốc gia, mọi bộ lạc, mọi chủng tộc, mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước Ngôi Chúa và trước con chiên con, mặc áo dài trắng và cầm trong tay những vòng chiến thắng". Khi tác giả đề cập đến bên kia cửa tử, Ngài nói với chúng ta về một đám người đông đảo, vô số, chớ không phải một nhóm ít người chịu khó khăn lắm mới tìm được con đường của họ.
CHƯƠNG THỨ NĂM
C. W. L.
–
Bây giờ chúng ta đi đến lời tựa của chính Alcyone.
Mấy lời này chẳng phải của tôi, ấy là lời của Sư Phụ tôi đã dạy
tôi. Không có Ngài, tôi chẳng làm gì được, nhưng nhờ Ngài giúp, tôi
mới bước vào Đường Đạo.
Alcyone cho rằng sự tiến
hóa của em hoàn toàn nhờ ảnh hưởng và sự giúp đỡ của Sư Phụ em.
Chúng ta cũng dự vào một phần lớn sự giúp đỡ mà em đã nhận
được, vì chúng ta có những lời trong sách, nghĩa là lời của Đức
Thầy. Nhưng sự giúp đỡ lớn lao bằng sự hiện diện và sự dìu dắt
của Ngài cũng sẵn sàng chờ đợi mỗi người trong chúng ta. Sự thật
này phải khắc sâu trong tâm trí chúng
ta; chúng ta phải tin tưởng vào nó như
tin tưởng vào một sự kiện tuyệt đối chắc chắn: Tất cả
những ai muốn chuẩn bị như Alcyone đều sẽ được giúp đỡ.
Anh cũng vậy, anh muốn bước vào Đường Đạo này thì những lời của
Sư Phụ tôi sẽ hữu ích cho anh. Nếu anh tuân theo. Nói rằng mấy lời
đó chơn chánh và tốt đẹp chưa phải là đủ. Người nào muốn thành
công thì phải thực hành đúng theo lời chỉ giáo. Một người đang
đói xếp ve nhìn một món đồ ăn rồi nói "ngon quá" thật vô ích với
y. Y phải đưa tay lấy và ăn. Cũng thế, nghe những lời dạy của Đức
Thầy chưa phải là đủ; phải thực hành những điều Ngài nói, chăm
chỉ theo từng tiếng, từng dấu.
Nói rằng: " Tôi sẽ làm
theo tất cả những lời dạy trong sách" cũng chưa đủ. Lời giáo huấn
phải thấm nhuần trọn vẹn đời sống của chúng ta. Phải canh chừng
những cơ hội thuận tiện. Mấy câu thơ ở đàng sau chót quyển sách
diễn tả thật rõ rệt ý muốn đó:
Chờ đợi tiếng nói Chơn Sư,
Rình xem ánh sáng ẩn tàng,
Lắng nghe hầu biết được mệnh lệnh của Ngài,
Dầu ở giữa chiến trận.
Chú ý từng nét dấu nhỏ nhít của Ngài,
Trên đám đông quần chúng,
Nghe tiếng thì thầm của Ngài,
Xuyên qua tiếng ca hát vang rền của quả đất.
Ai ước nguyện làm đệ tử
Chơn Sư thì phải luôn luôn lắng nghe
lời Thầy ở giữa những tiếng ồn ào, hỗn loạn và cuồng
nhiệt của cuộc tranh đấu sinh sống. Phải nỗ lực tìm cơ hội để
thực hành bất cứ lời dạy nào của Ngài. Chung qui không phải thật
là khó khăn đâu; một phần lớn chính là vấn đề thói quen.
Chỉ có bước đầu là đáng kể.
Khi bước thứ nhất xong rồi thì thói quen đã có; rất dễ cho chúng
ta giữ chừng không bỏ cuộc, chẳng khác nào một người kia trong
việc kinh doanh tìm cơ hội để kiếm lợi. Người đó có lý mà giữ
một thái độ chờ đợi; vì nếu y lo lắng công việc làm ăn thì y
phải giữ cho trọn vẹn bổn phận của y, nhưng nếu y ra sức giải
quyết những việc tạm thời thì chính chúng ta cũng rất có thể áp
dụng một sự cố gắng như vậy đối với những vấn đề của đời sống
cao siêu.
Ai muốn được quỳ dưới chân
Đức Thầy thì rất cần phải được hiểu rõ ý muốn củaNgài. Thái
độ đó là kết quả của sự đọc sách Thông Thiên Học. Chỉ có thái
độ đó mới là mục đích thật, vì Thông Thiên Học là một lối sống
thật sự phải noi theo, chớ không
phải là một hệ thống giáo lý chỉ để cho chúng ta học hỏi
mà thôi. Vậy chúng ta phải cố gắng sao cho quan điểm của chúng ta
phù hợp với quan điểm của Đức Thầy, mà không hề có sự cưỡng bức
nào cả. Không ai trong chúng ta hành động thật khôn ngoan khi thừa
nhận quan điểm nào đó chỉ vì nó là quan điểm của Đức Thầy mà
không hiểu vì sao mà Ngài đạt được quan điểm đó. Chúng ta thừa
nhận quan điểm của Chơn Sư mà không có sự nguy hiểm nào cả, vì sự
hiểu biết của Ngài vượt xa vô cùng kiến
thức của chúng ta.
Nhưng Ngài không muốn điều đó. Tư tưởng của Ngài phải thuyết phục
được trí khôn của chúng ta, chớ không phải chỉ ảnh hưởng đến tình
cảm mà thôi.
Điều cần thiết trước nhất
là phải tin chắc rằng những điều ấy quả có thật, trường tồn và
tối quan trọng. Người Thiên Chúa Giáo bậc trung nói rằng quả thật
những điều vô hình quan trọng hơn hết, còn những việc hữu hình là
giả tạm. Y tin như vậy nhưng không hề làm in như điều y đã tin
tưởng. Tại sao vậy? Bởi vì y không chắc chắn
những điều đó có thật. Tại cõi trần, y chắc chắn rằng
tiền bạc có những lợi ích và càng kiếm được tiền, càng tốt cho
y. Y ít tin rằng những chuyện tinh thần có thật, chúng thuộc về
loại đề mục mà y gọi là "Tôn Giáo". Theo y dường như không chắc
chắn, không có tính cách thực dụng và hiển nhiên, thích hợp với
công việc của đời sống thường ngày. Chúng ta đang tìm cách tiến
tới trong địa hạt tinh thần, chính chúng ta phải đưa tính cách
thực dụng này, sự chính xác tuyệt đối và minh bạch này vào giới
vô hình. Ông Sinnett đã nói trong tác phẩm Thông Thiên Học đầu tiên
của ông như sau: "Đối với quí vị, những điều này phải thật như
Thập Tự Giá". Điều này rất đúng, chúng phải quen thuộc với chúng
ta như những điều chúng ta thấy hàng ngày.
Chúng có thể trở nên như
thế, hoặc do sự suy luận, hoặc do trực giác, nhất là do kinh
nghiệm trực tiếp. Khi trong trí ta tin chắc rằng việc nào đó phải
có thì nó trở thành một sự xảy ra có thật đối với chúng ta.
Chắc chắn đó là một ưu điểm mà sinh viên kỳ cựu hơn một sinh viên
còn trẻ tuổi. Dù những người mới có nhiệt tâm đến đâu đi nữa,
những người kỳ cựu cũng vẫn có đủ thì giờ làm cho ý niệm này
thành ra một phần cốt yếu của đời sống họ và đồng hóa nó lần
hồi, từ chút này đến chút kia. Như một thi sĩ đã nói: "Sự
hiểu biết vượt lên cao, từ sự tiến bộ này đến sự tiến bộ
khác". Có vài người trong chúng ta vừa nghe nói đến những sự kiện
cao siêu thì liền hoàn toàn tin chắc rằng chúng nó quả có thật;
cái trực giác tốt đẹp đó vốn do nghiệp quả lành của họ đã gây
ra từ những tiền kiếp. Tuy nhiên đối với phần đông số phần ít may
mắn, thì rất cần sự phát triển liên tục lâu dài. Thật ra một
người có thể gia nhập Hội Thông Thiên Học đã ba mươi năm rồi mà
không hiểu biết gì hơn lúc y mới vào. Thật đáng buồn vậy, vì mọi
cơ hội tốt đều trôi qua rồi. Trái lại, đối với người không ngớt
suy nghĩ về Thông Thiên Học và sống theo nó đều cảm thấy lần lần
có một sự tin chắc. Những kinh nghiệm của đời sống và những tư
tưởng về những vấn đề đó lần lượt đem đến cho chúng
ta nhiều bằng chứng để cho chúng ta thấy rằng những việc ấy
vốn hiển nhiên.
Trong nhiều trường hợp,
những tư tưởng Thông Thiên Học ban đầu dường như phức tạp và khó
hiểu, nhưng về sau chúng trở nên giản dị và dễ dàng; chúng biến
thành một thành phần của chúng ta. Một đứa trẻ tập viết một
trương, nó rất hãnh diện nếu nó không phạm một lỗi nào, nhưng về
sau, nó cũng chép một trương như vậy mà không cần để ý đến nữa,
nó đã có thói quen rồi. Trong thời gian mà chúng ta còn cần phải
cố gắng để hiểu biết thì chúng ta chưa thật hiểu được giá trị
của những tư tưởng Thông Thiên Học. Một ngày kia, chúng sẽ trở
thành một sức mạnh trong đời sống của chúng ta.
Kinh nghiệm cá nhân đem lại
chắc chắn những sự tiến bộ dễ dàng hơn và nhanh chóng hơn; trong
chúng ta, rất ít khi chúng ta không có sự kinh nghiệm nào cả. Về
phương diện này, một ít hiểu
biết trực tiếp cũng chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng không
phải tất cả cái còn lại là thật cả, nhưng mà nó rất có thể
đúng. Riêng về phần chúng ta, chúng ta nhận thấy một phần giáo lý
chúng ta đã học phù hợp với Chân lý, nên chúng ta chấp nhận phần
còn lại cũng có thể đúng. Khi toàn thể triết lý kết hợp với
nhau, thì có lẽ đúng đó sẽ chắc chắn cho đến nỗi nó trở
thành sự thật.
Nếu không chú ý đến một dấu và bỏ qua một tiếng, thì dấu đó và
tiếng đó mất biệt vì Chơn Sư không nói đến hai lần.
A. B.
–
Nhiều người không thể hiểu rằng những kẻ không ngớt nghe lập đi
lập lại những chân lý là những người không hiểu biết gì hơn những
người còn ở ngoài đời. Và Chân lý Thông Thiên học không cảm họ
được, nếu họ không cố tâm tuân hành. Nên chú ý, tôi không nói: nếu
họ không tuân hành - mà tôi nói: nếu họ không cố tâm tuân hành.
Chính là sự cố gắng bền bỉ vốn cần thiết mà nhiều người trong
chúng ta lại thường hay quên. Thật thế, Chơn Sư không nói hai lần.
Ngài đưa ra một tư tưởng, nếu nó không được tiếp nhận thì Ngài
không nhấn mạnh nó. Ngài không lập lại điều Ngài đã nói. Chỉ có
những đệ tử của Ngài, vì phải kể đến những điều kiện của Thế
gian nên cứ lập đi lập lại cả trăm lần những điều họ đã nói cho
đến khi chúng sinh ra được một cảm tưởng. Nếu bạn được nhận làm
Đệ Tử chánh thức, Đức Thầy sẽ không bảo bạn thực hành việc gì
mà bạn không thể làm được. Nếu bạn bỏ qua một huấn lệnh của
Ngài đưa ra cho bạn, Ngài sẽ không đưa ra cho bạn một huấn lệnh nào
nữa đâu. Điều đó không phải vì Ngài không nhân từ, nhưng bởi Ngài
không có thì giờ để lãng phí. Ngài có không biết bao nhiêu công
việc phải làm. Tất cả giáo lý này đem truyền cho Alcyone vì em đã
làm việc nhiều và không ngớt.[7]
Chỉ có những ai ý chí cứng cỏi, không sờn lòng mới đến gần Đức
Thầy được. Tôi biết điều đó. Chính là sự cố gắng bền bỉ và
không bỏ cuộc này mà nhiều người trong chúng ta cho là khó khăn,
nhưng đó là điều cần thiết và nếu không làm nổi, bạn không thể
nào bước vào Đường Đạo được.
C. W. L.
–
Chúng ta là những người đi theo Đức Thầy và cố gắng hoàn thành
một phần công việc của Ngài ở ngoài đời, chúng ta luôn luôn phải
nói hai lần; chúng ta luôn luôn lập lại những thông điệp khác nhau
đã được giao phó cho chúng ta, vì những người nghe vốn vô tư lự hay
lơ đãng. Chỉ khi nào một người được giao thiệp với Chơn Sư mới xem
như là không thờ ơ nữa; vậy một lời nói khéo léo, bóng bẩy cũng
đã đủ cho y rồi và chắc chắn nó không được lập lại, nếu nó không
được tiếp nhận; không phải Chơn Sư kiêu hãnh, tự phụ, nhưng vì đệ
tử chưa sẵn sàng.
Phải hiểu cách thức Chơn
Sư đào tạo đệ tử. Một mạng lệnh trực tiếp của các Ngài đưa ra
rất hiếm có. Cách đây đã lâu, khi tôi được vào hàng Đệ Tử nhập
Môn, câu hỏi đầu tiên của tôi là: "Bạch Sư Phụ! Con phải làm gì"?
Đức Thầy đáp: "Con hãy tự kiếm lấy điều đó"; rồi Ngài giải
thích: "Thầy biết chắc chắn rằng nếu Thầy ra cho con một mệnh
lệnh thì con sẽ vâng lời ngay, nhưng trong trường hợp đó con chỉ
nhận được quả của một sự vâng lời mau lẹ và tức khắc, nhưng
nghiệp quả của việc làm sẽ về
phần Thầy.Thầy muốn nó thuộc về phần con. Thầy muốn con
làm những việc lành và tạo nghiệp lành. Ý kiến phải phát sinh
từ nơi con chớ không phải từ nơi Thầy".
Rất ít khi các Đấng Cao
Cả cho những mệnh lệnh trực tiếp; nhưng thường thường do một lời
nói của Đức Thầy hoặc một cái nhìn của Ngài cũng đủ cho người
ta đoán được Ngài bằng lòng cách hành động nào đó hay không.
Những người ở chung quanh Ngài (đặc biệt nhất là trường hợp của
Đức Thầy Kouthoumi) tập lưu ý đến sự nhận xét ấy, họ luôn luôn
chú ý.
Đức Thầy Morya là vị Vua
trong giai đoạn đầu của kiếp hiện tại, nên thường Ngài nói với
một giọng oai quyền của một vị Hoàng Đế. Ngài thường ra lệnh
trực tiếp và Ngài tỏ ý không bằng lòng với những lời lẽ rõ
rệt. Đức Thầy Kouthoumi hầu như không bao giờ tỏ ý không bằng lòng;
các đệ tử của Ngài tập đoán ý Ngài bằng cách nhìn của Ngài,
bởi vì ít khi Ngài khiển trách. Đó là lý do tại sao các đệ tử
ở trong tình trạng chờ đợi đặng nghe lời Ngài dạy dỗ họ. Khi
nhận được chỉ thị của Đức Thầy, họ cố gắng tuân theo, bởi vì họ
biết rằng nếu họ xao lãng, thờ ơ thì chỉ thị đó sẽ không được
lập lại. Sự không tiếp nhận chỉ thị này không hề bị khiển trách,
chỉ có người đệ tử bị thiệt thòi, vì y không nhận được chỉ thị
mới trong một dịp khác.
Trong quyển
Chơn Sư và Thánh Đạo, chúng tôi có trình bày rằng các Đấng
Chơn Sư đào tạo đệ tử các Ngài bằng nhiều cách khác nhau tùy theo
Cung của họ và loại công việc họ phải đảm đương. Trên con đường
của Đức Bàn Cổ và Đức Morya thì có những người Kshattriya
(Sái-đế-lỵ), tức là hạng người có uy quyền như Thẩm phán, Luật
gia, Quân nhân, Chính khách. Trên con đường của Đức Bồ Tát và Đức
Thầy Kouthoumi thì có những người thuộc về hạng Brahmana
(Bà-la-môn), tức là các Huấn luyện viên, các nhà Truyền giáo, các
nhà Cải cách. Ngoài
ra còn năm Cung lớn khác mà
mỗi Cung đều có đặc tính
riêng biệt. Một vị Đế Quân ít nhất Sáu lần Điểm Đạo cai quản mỗi
Cung, dưới Ngài có nhiều Đức Thầy khác. Như thế, chẳng hạn như
Cung thứ hai, một vị đệ tử không cần thiết phải làm đệ tử Đức
Thầy Kouthoumi; y có thể
trực thuộc
Đức Thầy Djwal Koul.
CHƯƠNG THỨ SÁU
�
Y
�
C. W. L.
–
Những tác phẩm Đông phương nói với chúng ta rằng có đến bốn nẻo
chánh có thể dắt con người đến Con Đường Nhập Môn. Các sách ấy
nói thêm rằng sự thay đổi mục tiêu là thường do nhóm người đã
bước vào Đường Đạo rồi. Các vị ấy khai sáng cho người đời thấy
sự vinh quang và sự huy hoàng của Con Đường Đạo cũng như sự cần
thiết phải theo đuổi nó.
1)–
Ảnh hưởng của một vị Cao Đồ không bị giới hạn trong lời nói của
người thốt ra, cái gây ra một ảnh hưởng mạnh mẽ như thế, chính là
sự rung động của sự sống chiếu tỏa ra chung quanh Người. Sự kiện
này được hoàn toàn công nhận ở Ấn Độ là nơi có nhiều vị Đạo Sư
khác nhau, từ hạng cao đến hạng thấp, có quyền năng nhiều hay ít;
người ta gọi họ là Gu-ru (Gourous):
Tôn Sư. Mỗi vị Đạo Sư đều có những đệ tử riêng. Họ dạy đệ tử Họ
những quan niệm Triết Học riêng của Họ, đôi khi Họ cho đệ tử những
câu Thần chú để niệm, tức là những cách tham thiền và dạy đệ tử
thực hành Pháp môn Yoga. Nhưng không phải do bài vở mà Họ giúp đỡ
đệ tử của Họ nhiều hơn hết. Điểm chính là đệ tử sống gần Tôn
Sư. Nếu Đạo Sư là một vị thuộc phái Tiêu dao[8],
đi ta bà từ nơi này sang nơi khác, các đệ tử cũng đi theo Thầy.
Cũng thế đó, các đệ tử của Đức Jésus đã đi theo Ngài ở
Palestine. Nếu vị Đạo Sư thường trụ, không di chuyển thì các đệ tử
ở chung quanh Thầy, ngồi dưới chân Thầy, sẵn sàng tiếp nhận những
lời vàng ngọc của Thầy thốt ra, nhưng họ thụ hưởng những sự lợi
ích của bài dạy của Thầy ít hơn ảnh hưởng do sự hiện diện của
Ngài ban ra cho họ.
Không có gì đúng theo khoa
học hơn nữa. Những thể cao siêu của vị Đạo Sư
rung động với một tốc độ mau hơn nhiều so với tốc độ rung
động của những thể của đệ tử vừa mới từ giả đời sống thế tục
là nơi phát xuất những sự rung động ở mức độ thấp kém. Các đệ
tử chưa cởi bỏ trọn vẹn yếu tố cá nhân như Thầy. Họ phải tự
khắc kỷ, giữ gìn giới luật, nhận thấy những tánh xấu của mình,
quyết định sửa chữa chúng nó và hoạch đắc vài đức tánh; tóm
lại, họ phải thay đổi tánh tình. Thường thường đó là một công
trình dài lâu và buồn tẻ,
nhưng mà có thể thành ra hết sức dễ dàng nhờ được thường trực
sống gần vị Đạo Sư là người đã khai mở được những đức tánh này
và dứt bỏ được tật xấu kia. Những làn rung động thanh cao gây ra
một áp lực thường xuyên, vị đệ tử trong giấc ngủ cũng như trong
lúc thức, thu hút chúng nó và không ngớt hòa nhịp với chúng nó.
Đó là nguyên tắc rất phổ thông trong Vật Lý: hai cái đồng hồ để
gần nhau mà hai quả lắc không đồng bộ với nhau, quả lắc mạnh hơn
từ từ kéo quả lắc yếu hòa hợp với sự chuyển động của nó hoặc
làm cho quả lắc yếu ngưng lại.
2)–
Cách thứ hai để đi đến con Đường Nhập Môn là đọc hoặc nghe những
lời giáo huấn về vấn đề đó. Một người thấy vấn đề Nhập Môn rất
thú vị, những dịp tốt đem đến cho y vài sự hiểu biết đó, nhờ
trực giác, y nắm lấy chúng nó và tức khắc tìm cách thỏa mãn sự
ham muốn hiểu biết thêm về vấn đề ấy. Đó chính là trường hợp
của tôi. Quyển Thế Giới Huyền Bí
lọt vào tay tôi, tôi liền nhất
định: "Nếu quả đúng như thế - nếu điều đó hiển nhiên - nếu
các Đấng Cao Cả có thật, và nếu
các Ngài bằng lòng nhận công việc phụng sự của chúng ta và
ban cho chúng ta một ít sự hiểu biết vô giá của các Ngài để bù
lại, thì tôi sẽ là một trong những người phụng sự các Ngài. Tôi
sẽ lượm lặt trong bất cứ mảnh vụn hiểu
biết nào mà tôi có thể làm được. Kể từ ngày đó, mục đích
duy nhất xứng đáng với sự nỗ lực của tôi là hội đủ những điều
kiện cần thiết". Thật ra, hàng ngàn người đã nghe nói hoặc đọc
trong sách toàn thể giáo lý nhưng họ không có một phấn khởi nào
cả. Đó chính là vấn đề kinh nghiệm đã thu thập được trong những
tiền kiếp. Phải có tiếp xúc với chân lý trong một kiếp trước và
tin chắc nó tốt đẹp và xác thực thì mới nhận biết nó ngay khi
nó hiện đến cho chúng ta trong kiếp này.
Nhiều người trong chúng ta
lấy làm ngạc nhiên khi thấy một người kia đọc một tác phẩm Thông
Thiên Học mà không sửa đổi tâm tánh, không hoán cải. Thông Thiên Học
là một giáo lý cao siêu, nó giải quyết được nhiều vấn đề. Tuy
nhiên, như các bạn đã biết
rõ, nếu bạn thử đem sách Thông Thiên Học cho vài người bạn thân
mượn, thì phân nửa số người này đem trả lại bạn và nói: "Phải,
thật hay lắm, nhưng họ không hiểu biết gì trong đó". Chính là
nghiệp quả lành tạo ra thuở xưa, khi học hỏi những ý niệm này,
ngày nay đã giúp chúng ta hiểu được chúng nó. Càng nghiên cứu sâu
xa một vấn đề trong quá khứ thì hiện nay nó càng hấp dẫn chúng
ta. Đó chính là kinh nghiệm của chúng ta về một tác phẩm có giá
trị mà chúng ta đã đọc hai chục năm trước chẳng hạn. Bây giờ bạn
hãy đọc lại tác phẩm đó, bạn sẽ thấy nó hay biết bao so với khi
xưa; bạn có thể đánh giá nó tùy theo năng lực của bạn hiểu biết
nó.
3)–
Đôi khi cách thứ ba cũng dắt con người vào con Đường Nhập Môn,
những tác phẩm Ấn Độ gọi cách đó là "Sự suy tư sáng suốt". Nói
một cách khác, bằng sự cố gắng ngày đêm suy nghĩ không ngớt, một
người kia có thể đi đến kết luận rằng phải có một Cơ Tiến Hóa,
những Đấng toàn năng, toàn thiện phải biết rõ Cơ đó; sau cùng,
phải có một con đường dẫn đến các Ngài. Người nào nhờ một sự
cố gắng suy luận như thế, đi đến kết luận ấy ắt y lo tìm đường
Đạo. Tuy nhiên, trên con đường này thật ra ít gặp những khách lữ
hành.
4)–
Đối với vài phương diện, phương pháp thứ tư là hay hơn hết, ấy là
sự mở mang đức hạnh. Đó là ý niệm dành cho người Thiên Chúa Giáo
bậc trung vì y thường tin rằng chỉ có đức hạnh là cần thiết.
Trái lại, người Thông Thiên Học nhớ lại rằng vào thời buổi của
Thiên Chúa Giáo nguyên thủy thì sự tinh luyện tánh tình hay là
thánh đức mà ngày nay họ cho là mục tiêu chỉ một bước đầu tiên
mà thôi. Thánh Clément nói thẳng rằng sự Trong sạch (Tinh khiết)
chỉ là một đức tánh tiêu cực, nó có ích lợi là giúp cho sự
hiểu biết được dễ dàng. Người đã luyện được mình Trong sạch rồi
thì xứng đáng được học hỏi và chuẩn bị để được giác ngộ là
thời kỳ thứ nhì rồi sang qua thời kỳ thứ ba hay là sự hoàn
thiện. Bạn hãy nhớ lại lời của Thánh Phao Lồ: "Có một Minh Triết
mà chúng ta giảng giải cho những người đã trọn lành, nhưng không
hề truyền cho kẻ khác".
[9]
Đức hạnh dắt con người
vào cửa Đạo; một người hạnh kiểm tốt trong nhiều kiếp luân hồi,
cũng không phải vì đó mà trở nên thông minh hơn. Rốt cuộc y hoạch
đắc một trực giác khá đủ để thân cận với những người hiểu biết,
như đến với một vị đệ tử
Chơn Sư. Tuy nhiên người ta cho rằng theo phương pháp đó phải mất
hàng ngàn năm và nhiều kiếp Luân Hồi. Người mở mang đức hạnh mà
không mở trí khôn, một ngày kia cũng sẽ bước vào Đường Đạo được
vậy, nhưng ấy là một sự tiến bộ chậm chạp. Sẽ tiết kiệm được
biết bao nhiêu thì giờ, nếu y theo lời dạy của Thánh Pierre
và lo mở mang trí
tuệ.
CHƯƠNG THỨ BẢY
� Y �
Có bốn đức tánh cần thiết để bước vào Đường Đạo, ấy là
* PHÂN BIỆN.
* ĐOẠN TUYỆT.
* HẠNH KIỂM TỐT.
* LÒNG TỪ ÁI.
C. W. L.
–
Mấy đức tánh cần thiết này luôn luôn được chỉ dẫn trong các Tôn
giáo, nhưng sự phiên dịch ở đây có khác hơn chút ít với những sự
phiên dịch trước.
a)–
Về đức tánh thứ nhứt sự thay đổi rất ít. Tôi đã giải thích
những danh từ của người Ấn Độ và những người Phật giáo dùng: nó
đồng nghĩa với chữ Hoán Cải của người Thiên Chúa giáo; người đệ
tử phải hiệp nhất Chơn Nhơn với Phàm Nhơn. Trên Đường Đạo chính
thức một sự hiệp nhất in như thế sẽ kết hợp lại Chơn Nhơn với
Chơn Thần. Chơn Nhơn là một phần tử của Chơn Thần tách ra và ngự
ở phía dưới Chơn Thần, tại phần trên cao của cõi Thượng Giới. Chơn
Nhơn cũng xuống để thu thập những kinh nghiệm, để tập tiếp nhận
và lập lại vài thứ rung động không cảm được Chơn Thần ở cảnh
giới của Ngài. Đến lượt Chơn Nhơn phải hiểu rằng nó là một phần
tử của Chơn Thần, nó có ra đây chỉ vì Chơn Thần và khi đã đạt
được mục đích, con người sẵn sàng được Điểm Đạo lần thứ Năm và
thành một vị Siêu Phàm.
Cái khả năng phải có để
được hai lần điểm đạo được xác định
như sau đây: trong cuộc Điểm Đạo lần thứ Nhứt, Chơn Nhơn hiệp
với Phàm Nhơn, đến đỗi trong Phàm Nhơn chỉ có sự hoạt động của
Chơn Nhơn thôi; trong cuộc Điểm Đạo lần thứ Năm, thì những gì trong
Chơn Nhơn mà không do Chơn Thần linh cảm hay tán thành đều biến mất.
Mỗi khi Chơn Thần ảnh hưởng đến những kiếp sống dưới Trần gian
thì Ngài xuống như một vị Thượng Đế từ trên trời giáng thế vậy.
Trong mỗi kỳ Điểm Đạo, Chơn Thần xuống như một tia chớp nhoáng và
trong phút chốc Ngài hiệp nhất với Chơn Nhơn, cũng như sự hiệp
nhất này sẽ vĩnh viễn khi con người đắc quả Chơn Tiên. Trong vài
trường hợp khác, Chơn Thần cũng xuống vậy, chẳng hạn như trường
hợp đã được đề cập trong quyển
Những kiếp sống của Alcyone, khi em phát nguyện với Đức Thế Tôn
(Đức Phật).
[10]
Trong những phương pháp đã
kể ra, do phương pháp này hay
phương pháp kia, con người đã
biết phân biện hay nhận thức được công việc này đáng tìm kiếm,
còn công việc kia thì không
đáng.
b)–
Kế đó con người thấy rằng nó phải hoạch đắc đức tánh thứ nhì,
mà ở đây Đức Thầy gọi là Dứt Bỏ hay Đoạn Tuyệt. Bà Tiến
Sĩ A. Besant
đã dịch là "Không có
Dục tình hay Lãnh đạm", nó chính là
Vairagya của người Ấn Độ, có
nghĩa là Lãnh đạm đối với kết quả của những hành vi của chúng
ta. Đức Thế Tôn diễn tả bằng những danh từ đó, Ngài dùng chữ Nam
Phạn - Pâli - Parikamma . Karma
hay kamma luôn luôn có nghĩa là
làm hay hành động và Parikamma có nghĩa là chuẩn bị hành
động; ấy là hành động theo đó một điều quan trọng đặc biệt chỉ
định bổn phận làm lành là vì chưng yêu mến sự lành chớ không vì
lợi lộc nào khác có thể đem đến cho chúng ta. Phải hiểu rõ điều
này. Thường người ta hiểu rằng Lãnh đạm đối với kết quả của
hành động có nghĩa là phải thi hành bổn phận không cần bận tâm
đến sự phản ứng của nó đối với kẻ khác. Như trong quyển này có
nói với chúng ta ở phía đàng sau như
vầy: "Con phải làm
điều lành; con không được
làm điều ác", dù những hiệu quả xảy ra như thế nào cũng vậy; như
thế không có nghĩa là phải làm theo ý muốn chúng ta mà không cần
lo nghĩ coi hành vi của mình
cảm đến kẻ khác cách nào. Thật ra, chính là cái kết quả đã tạo
ra xác định một hành vi thiện hay ác. Đệ tử Chơn Sư không nghĩ đến
hậu quả đối với chính mình, nhưng y hết sức quan tâm đến hậu quả
gây ra cho kẻ khác.
c)–
Đức tánh cần thiết thứ ba gọi là Hạnh Kiểm Tốt, liên quan đến
sáu qui tắc mà người Ấn Độ gọi là
Shatsampatti. Theo danh từ Nam
Phạn - Pâli - của Đức Phật dùng, đức tánh này được gọi là
Upachâro, nó có nghĩa là "Chủ ý” hơn là “Hạnh Kiểm." Phải
giữ gìn Hạnh Kiểm theo đường lối của sáu thứ bửu châu này đã qui
định, như người ta đã gọi như thế. Trong khi tiếp tục nghiên cứu
sách này, chúng ta sẽ gặp ở phía sau những danh từ của Đức Thầy
Kouthoumi dùng. Đức Phật gọi những danh từ ấy là:
Samo, "Yên tịnh," nghĩa là kỷ
luật của Trí tuệ; Damo, "Khắc
phục," nghĩa là kỷ luật của Xác thân; kế đó là
Uparati,
Titikkha, Samadhana và
Saddha, theo nghĩa chữ là:
"Đình chỉ, Chịu
đựng, Chuyên cần và
Đức tin". Tôi đã ra công tìm kiếm ý nghĩa của những danh từ này
trong những quyển Tự điển chính và cũng nhờ Đại Đức Hòa Thượng
Hikkaduwe Sumangala Thero, Tăng Thống phái Phật giáo Nam Tông dịch
giúp tôi. Những từ ngữ này cũng tiêu biểu đức tin đặc biệt của
phái đó.
Chúng hơi khác chút ít
với lối dịch trong quyển Dưới
Chơn Thầy. Đức tánh ở đây gọi là "Đình chỉ" trong
Dưới Chơn Thầy dịch là "Khoan dung" vì đây là vấn
đề từ bỏ tư tưởng
cạn hẹp của Tôn giáo, và thói Dị đoan mà cũng hoàn toàn cởi bỏ
tất cả mọi ý tưởng cho rằng phương pháp của bạn hay hơn
tất cả những phương pháp khác, cũng như thấy rằng không có
một nghi thức hoặc lễ bái nào là cần thiết. Sự chịu đựng, nhẫn
nhục đó chỉ là một hình thức của sự yên tịnh. Sự chuyên tâm phát
xuất từ sự định trí và sự thăng bằng, nó bắt ta phải tập trung
trọn đời ta vào tiêu điểm của sự cố gắng và như thế nó cũng gồm
sự cương quyết. Sau hết đức tin là sự tin cậy Đức Thầy và cũng
là sự tự tín nữa. Trong hai trường hợp, mấy đức tánh này không
khác nhau, nhưng đức Phật nói đến chúng trên một quan điểm đặc
biệt - sự cần thiết của đức Minh Triết. Còn Đức Di Lạc và Đức
Thầy Kouthoumi thì nhấn mạnh sự cần thiết của tình thương hơn. Khi
dạy Alcyone, Đức Thầy cũng nhắm vào ý nghĩa thực tiễn hơn là
dịch những danh từ xưa.
d)–
Đức tánh cần thiết sau cùng là Lòng Từ Ái, tiếng Phạn là
Mumukshatva, nghĩa là
"Sự nhiệt thành mong muốn được giải thoát ra khỏi vòng sinh tử
luân hồi và hợp nhất với Đấng Tối Cao". Đó là điều Đức Phật đã
gọi trong danh mục của Ngài là Anuloma, nghĩa là "Thứ tự trực tiếp" hay " Sự
liên tục". Điều này có nghĩa là sau khi khai mở các đức
tánh khác con người phải ước mong được thoát khỏi những sự hạn
chế của Thế gian và được hợp nhất với Đấng Tối Cao
để trở thành Cộng sự
viên của Ngài.
Rồi Alcyone nói tiếp:
Tôi cố gắng nói cho bạn nghe những lời của Sư Phụ tôi dạy tôi về
mỗi đức tánh ấy.
Đến đây mới bắt đầu phần
chính của tác phẩm Dưới Chơn
Thầy.
TÁNH PHÂN BIỆN
CHƯƠNG THỨ TÁM
�
Y
�
NHỮNG MỤC ĐÍCH THẬT VÀ NHỮNG MỤC ĐÍCH KHÔNG PHẢI LÀ THẬT
C. W. L.
–
Đây là phần I của chính quyển
Dưới Chơn Thầy.
Đứng đầu mấy đức tánh này là tánh phân biện. Thường thường,
người ta hiểu tánh phân biện này là phân biện sự chơn và sự giả,
nó dắt con người vào Đường Đạo. Hiểu như thế thật đúng vậy, nhưng
còn nhiều hơn nữa, và phải thực hành đức tánh này không những khi
mới bước vào Đường Đạo, mà phải phân biện mỗi ngày, mỗi bước cho
đến khi đi mút con đường đạo.
Mấy lời sau chót này chỉ
rõ những nỗi khó khăn phải vượt qua của đa số người mắt đã thấy
được vẻ vinh quang và sự tốt đẹp của con Đường Đạo và muốn dấn
thân vào Con Đường đó để đến quỳ dưới chân Đức Thầy. Tất cả
những người ấy đều là những người tốt, đúng đắn và cần mẫn,
nhưng Phàm Nhơn của họ bất tuân kỷ luật và họ chịu áp lực của dư
luận quần chúng rất nặng nề, như tôi đã giảng trước đây. Chúng ta
cũng không quên rằng nhân loại vừa mới vượt qua phân nửa cuộc Tuần
Hoàn thứ tư và những gì mà người ta cố gắng hoàn thành trong
cuộc Tuần Hoàn này sẽ trở nên dễ dàng trong cuộc Tuần Hoàn thứ
bảy. Những người đợi tới thời kỳ đó thì sẽ có trong ba thể:
Thân, Vía, Trí của họ chất khí phát triển hơn chất khí cấu tạo
các thể của chúng ta hiện nay rất nhiều. Tất cả những vòng xoắn
ốc của nó đều hoạt động chớ không phải chỉ có hơn phân nửa số
vòng xoắn ốc
[11]
như hiện nay. Sau hết, tất
cả những thần lực ở chung quanh đều phò trợ họ, thay vì nghịch
với họ như bây giờ.
Các Đấng Chơn Sư đều ở
một bên với chúng ta và thần lực của các Ngài giúp đỡ chúng ta.
Lực tiến hóa, dù chậm chạp nhưng vẫn liên minh với chúng ta và
tương lai cũng thuộc về chúng ta. Nhưng trong thời đại này, mọi
hoạt động như thế đều vô cùng khó khăn. Vào khoảng giữa cuộc tuần
hoàn thứ năm tất cả những người gây ảnh hưởng mạnh mẽ cho chúng
ta và theo một chiều hướng nghịch đều bị loại ra và chỉ
còn lại những người cùng đi theo một đường lối với chúng ta. Như
vậy, trong cuộc Tuần Hoàn thứ bảy mọi việc đều trở nên rất dễ
dàng. Ở vào thời kỳ đó người ta có thể tìm được ở ngoài đời
mọi sự thuận lợi mà hiện nay chỉ thấy điều đó trong một Đạo
Viện dưới sự điều khiển của một vị đã tiến hóa cao về tinh
thần. Vài độc giả đã thầm nói rằng: "Nếu thế, tại sao không đợi
đến cuộc Tuần Hoàn thứ bảy"? Nhiều người trong chúng ta đã bị
trào lưu lôi cuốn theo sự sung sướng, sự thú vị của Trần gian từ
hai hoặc ba mươi ngàn năm rồi, và những ai không có nhiệt vọng tiến
hóa hay giúp đỡ nhân loại có thể còn tiếp tục sống như thế cả
triệu năm nữa và chắc chắn cuối cùng mọi sự sẽ trở nên dễ dàng
hơn. Nhưng những người hiện nay đương đầu với những nỗi khó khăn sẽ
được đặc ân vô cùng lớn lao và tiến hóa mau lẹ, sẽ nhận được
vòng chiến thắng.
Các bạn hãy nhớ lại bài
Thánh ca xưa của Thiên Chúa giáo, nói về một người kia lên tới
trời và nhìn chung quanh, y lấy làm lạ mình có hơi khác với mấy
người đó. Sau cùng y gặp Đức Christ và hỏi Ngài vì lẽ gì? Đấng
Christ trả lời rằng:
"Ta biết con tin ở Ta - và giao mạng sống của con cho Ta -nhưng tất
cả những ngôi sao sáng rỡ này đâu rồi? - Chúng phản chiếu lóng
lánh trên vương miện của con - hãy xem đám đông vui vẻ đàng kia; -
tất cả đều mang trên trán những hòn ngọc; mỗi linh hồn mà họ dắt
đến Ta là mỗi viên ngọc họ mang trên trán hôm nay đó".
Thánh Kinh Thiên Chúa giáo
nói rằng những nhà Hiền Triết sáng rỡ như bầu trời, như ánh sáng
trên bầu trời quang đãng. Nhưng mà những ai dắt được nhiều người
đến với sự công bằng chính trực sẽ giống như những ngôi sao chói
sáng mãi trên không gian vô tận, những ngôi mặt trời vĩ đại rực rỡ
ban rải hơi nóng và thần lực cho hàng ngàn sinh vật khác nhau. Đó
là sự khác biệt giữa hoàn thành tức khắc bổn phận của chúng ta
với sự chờ đợi cho trào lưu mang đến đích trong cuộc tuần hoàn
thứ bảy.
Con bước vào Đường Đạo vì con biết rằng chỉ trong đó mới tìm
được những việc đáng thâu lãnh mà thôi. Những người không hiểu
biết làm lụng để được giàu sang và có quyền thế; nhưng hai cái
tước lộc đó, bất quá chỉ dùng được có một đời mà thôi, thế nên
chúng nó là mộng ảo. Có nhiều việc lớn lao đáng tìm lấy hơn sự
giàu sang và có quyền thế; những việc đó chân thật và trường
tồn, một phen người ta thấy chúng rồi thì không còn muốn gì khác
nữa.
A. B.
–
Vấn đề chơn giả thuộc về Siêu Hình Học thâm sâu, nhưng thật ra nó
không phải thuộc về vấn đề ở đây, vì Alcyone là đứa học trò còn
nhỏ lắm của Đức Thầy. Hơn nữa những bài học
này dạy trên cõi Trung giới. Trong những trường hợp như thế,
Đức Thầy giảng cho Hạ Trí lẫn Chơn Nhơn, nhưng trong dịp này Ngài
giữ sao cho lời dạy của
Ngài thích hợp với Hạ Trí của một đứa trẻ chưa phát triển đến
mức trọn vẹn. Dù Chơn Nhơn đã đến tuổi nào đi nữa, ba thể vẫn
còn trẻ trung, cho nên bài dạy được ban ra bằng những ngôn từ thật
giản dị để khi nhập xác, đệ tử có thể hiểu được trong lúc nó
thức.
Chữ giả ở đây tiêu biểu
tất cả những gì không có tính cách thiêng liêng, tất cả những gì
nhất thời trong thế giới hiện tượng, tất cả những gì thuộc về
Bản Ngã cá nhân, luôn tất cả những hành vi cao thượng mà con người
theo đuổi với mục tiêu vật chất. Chúng ta diễn tả tư tưởng của
Đức Thầy khi nói rằng tất cả đều giả, chỉ trừ những gì thuộc
về Thiên Ý thôi. Những người đã đạt được tánh phân biện đều biết
được những điều thật; họ làm việc như những nhân viên của Thượng
Đế và thực hiện Thiên Ý. Sự hành động thật sự vốn là của Ngài.
Điều ấy không có nghĩa là họ xao lãng hoạt động của phần vật
chất, mà họ phải làm việc giỏi hơn chớ không phải tệ
hơn, vì họ là nhân viên của Thượng Đế và là công cụ cho
những hoạt động của Ngài dưới thế gian. Kinh
Gita nói rằng: "Yoga là sự
hành động khéo léo, lão luyện" hay là sự hiệp nhất với
Thượng Đế. Người nào đạt được sự hiệp nhất đó, hành động của y
phải khéo léo, vì không
phải y hành động mà chính là Trời.
Khi Arjuna hỏi Đức Shri Krishna về bổn phận phải chiến đấu,
Ngài trả lời rằng chính Ngài đã giết kẻ nghịch rồi, và Ngài
nói thêm rằng: "Này Arjuna, hãy chiến đấu".
Đức Thầy nói rằng khi đã
thấy những điều cao thượng rồi thì người ta không còn ham muốn
điều gì khác nữa, đó là ý niệm quen thuộc đối với học giả đã
nghiên cứu Kinh Gita. Trong ấy
có nói rằng:
"Khi thấy được Đấng Chí Tôn rồi thì các đối tượng của giác quan,
chớ không phải sự ham muốn chúng nó, sẽ rút lui ra khỏi người giữ
giới ở trong xác thân, sự ham muốn còn sót lại cũng rời bỏ y
luôn.
[12]
Khi một người đã thấy được Đấng Duy Nhất, thì sự ham muốn
những đối tượng của giác quan cũng tiêu tan trong lòng y".
C. W. L.
–
Thật ra, khi được mục kích những điều cao thượng rồi, người ta
không còn ham muốn những điều thấp hèn nữa, nhưng điều tối cần là
sự tiết chế dục vọng phải là hiệu quả của sự thấy này. Thường
lắm, ta thấy con người lầm lẫn nguyên nhân với hậu quả khi y có kỳ
vọng tưởng rằng sự không quan tâm đến những điều thấp hèn nữa sẽ
tức khắc nâng con người lên một bậc cao hơn trước (những điều thấp
hèn vẫn tốt đẹp đứng về
phương diện riêng của nó, nhưng sở dĩ gọi nó là thấp hèn khi phải
đối chiếu với những điều cao thượng và thuộc về tinh thần). Chắc
chắn là không phải thế đâu. Đó là một hình thức của ảo ảnh rất
lan tràn thuộc về sự tu khổ hạnh. Một số đông thực hành điều mà
họ gọi là chủ nghĩa ép xác, khổ hạnh, và coi điều đó là tôn
chỉ của sự tu hành. Họ lầm tưởng rằng xa lánh các sự vui vẻ tầm
thường của đời sống và tìm cách làm cho mình thiếu thốn mọi
tiện nghi về nhiều phương diện là việc làm rất có giá trị. Đó
là di tích của ý niệm khắc khổ Thanh giáo (Puritanisme) đã có một
thời cường thịnh ở Anh Quốc và trong một số lớn những nước Âu
Châu. Nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Thanh giáo đó là muốn trở
nên tốt lành thì phải chịu thiếu thốn đủ thứ. Khi một người cảm
thấy mãn nguyện về bất cứ điều gì, chắc chắn y đã vi phạm vài
Luật Trời nào đó, vì không hề có hạnh phúc dành cho con người
dưới Thế gian này. Xác thân con người là vật đáng khinh bỉ và cần
phải khắc phục nó bằng muôn ngàn cách. Nếu ai thích một sự hoạt
động nào đó, chắc chắn y đã phạm tội lỗi. Tất cả những điều
này thật phi lý, ấy là sự đảo lộn Chân lý. Thật ra, những điều
được Thế gian ưa thích và người ta xem chúng như những sự vui thú
lớn lao, thì đối với người đã tiến hóa cao đã mất hết ý nghĩa
vì họ khao khát những niềm vui thanh nhã hơn có thể đền bù lại
gấp bội những thú vui kia.
Trên
đời này người ta rất ưa đủ thứ chuyện không có ích lợi gì
đối với những người mong muốn những thú vui cao cả hơn;
chẳng hạn như đua ngựa, uống rượu và cờ bạc; cùng những thú vui
khác như khiêu vũ và đánh bài: những cuộc vui này không đáng trách
lắm. Chúng giống như những trò chơi của trẻ con. Lớn lên, trẻ con
bỏ đồ chơi của chúng hồi còn bé. Khi nó lên ba hay lên bốn thì nó
thích chơi những cục gạch
và những búp bế. Lớn lên
một chút, nó chơi những hình chiến sĩ, những diều giấy, những
bông vụ và những cục đạn. Sau cùng, lớn hơn chút nữa, nó bỏ hết
những thứ ấy để chơi đá banh hay đánh cầu, hoặc các trò chơi đồng
loại khác cần phải vận động nhiều ở ngoài trời. Đứa trẻ dần
dần trải qua nhiều giai đoạn rất tự nhiên. Càng lớn con người càng
bỏ những trò vui ở trước kia, không phải vì tinh thần nghĩa vụ,
nhưng vì những trò chơi đó
không còn gây thích thú đối với y nữa. Y đã tìm được những mục
tiêu thích hợp hơn với giai đoạn tiến hóa của y. Người ta thấy ngay
rằng một đứa trẻ lên ba không thể trở nên một chàng thanh niên khi
nó quyết không biết đến những đồ chơi của thời ấu
trĩ và muốn chơi đánh cầu
hay đá banh.
Người tiến hóa cao không
còn thấy một sự hấp dẫn nào đối với nhiều việc mà thế nhân cho
là cần thiết, và người bậc trung chắc chắn sẽ thấy đời sống của
vị đệ tử buồn tẻ và khó chịu, nếu y cố gắng sống như chúng ta,
không còn nhắm vào lợi lộc khác mà chỉ lo cho Thông Thiên Học và
những vấn đề cốt yếu của
sự sinh tồn. Người đời bậc trung sẽ nói rằng: "Những người ấy
chỉ làm mãi một việc, dường như họ chỉ biết và thích chuyện đó
thôi". Thật ra điều đó rất đúng, vì
tất cả vấn đề khác đều gồm trong đó, nhưng người đời sẽ
không trở thành một kẻ tiến hóa chỉ vì họ tự phụ không quan tâm
đến những thú vui của họ khi mà trong thâm tâm họ, họ vẫn
không ngớt thèm thuồng những điều đó.
Trên khắp thế gian chỉ có hai hạng người: những người hiểu biết
và những người không hiểu biết, và chỉ có sự hiểu biết đó mới
là quan trọng.
Đạo của một người kia giữ hay dòng giống của y là những việc
không quan trọng.
A. B.
–
Ở đây Đức Thầy phân biệt rất rõ ràng: Ngài chia người đời ra làm
hai hạng: những người hiểu biết và những người không hiểu biết.
Đó là sự phân biệt lớn lao trên phương diện huyền bí; mỗi người
nên biết mình thuộc về hạng người nào. Hai hạng này gồm nhiều
dòng giống và giai cấp khác nhau mà sự dị biệt bên ngoài không
đáng kể. Những người không hiểu biết tìm kiếm những gì chỉ tồn
tại trong một đời mà thôi. Nhưng những người đã thấy sự chân thật
một lần rồi thì chỉ có
một ý muốn duy nhất là làm việc cho Đức Thượng Đế, tuân theo Cơ
tiến hóa vĩ đại của Ngài để góp phần vào sự thực hiện công
nghiệp đó, dù trong một phạm vi hết sức nhỏ bé. Chúng ta có thể
xác định trình độ hiểu biết của mình bằng cách nhận xét coi nó
có thích hợp với công việc này hay không. Chẳng hạn như sự hiểu
biết thuộc về trí óc thuần túy dùng để đàm thoại một cách thông
minh hay để chỉ dạy kẻ khác thì không phải là sự hiểu biết chân
thật. Chỉ có sự hiểu biết được đồng hóa với sự sống mới là sự
hiểu biết chân thật mà thôi. Nhiều người có thói quen mỗi buổi
tối ngồi tịnh một lát trước khi đi ngủ, để kiểm soát những hành
vi của mình trong ngày. Sự thực hành công việc đó rất hữu ích;
nhưng nếu bạn theo đuổi nó, bạn nên tự hỏi chẳng những điều gì
bạn đã làm, đã cảm và đã nghĩ, mà bạn còn phải xét xem thái
độ của bạn ra sao nữa. Nếu bạn làm việc bù đầu bù
cổ, thì bạn đã bị mất gần hết thì giờ. Trái lại, nếu
bạn xem những công việc đó thuộc về công việc của Đức Thượng Đế,
như là những hành động hy sinh, chẳng những chúng không gây trở
ngại cho bạn mà lại còn tạo cơ
hội giúp bạn tiến bộ nữa.
Điều thật quan trọng là sự hiểu biết này, sự hiểu biết cơ trời
đối với con người. Bởi vì trời có một cái cơ mà cơ đó là sự
tiến hóa. Ngay khi con người hiểu được thiên cơ và thật sự biết
rồi, thì y chỉ lo hiệp tác
với thiên cơ, giúp thiên cơ thực hiện và đồng hóa với nó. Đó là
vinh diệu và sự tốt đẹp của con người.
C. W. L.
–
Trí tuệ của những người tham gia vào những đoàn thể chính trị hay
đoàn thể giới tửu
[13]
mà họ nói là hữu ích cho
nhân loại, sẽ tăng cường cực độ khi con người thật sự nhận thức
được Thiên Cơ do Đức Thượng Đế đã sắp đặt sẵn cho vũ trụ của
Ngài; họ nghĩ rằng một ngày kia nó sẽ hoàn tất; thời giờ đó lâu
hay mau tùy ở số người sẵn sàng lo lắng cho nó. Nếu trong vài
tuần hay vài năm toàn thế giới có thể được dẫn dắt để hiểu biết
và cộng tác với Thiên Cơ, thì tất cả những gì Đức Thượng Đế
muốn cho các con của Ngài hưởng sẽ được hoàn thành nhanh chóng.
Thiên hạ chưa mở mang khá đầy đủ để hiểu biết Cơ Trời, đó là lý
do vì sao những cố gắng của chúng ta chưa đủ vào đâu và mặt trời
còn soi sáng nhiều nơi buồn thảm, bất công và đồi bại.
Nhiều sinh viên Thông Thiên
Học đã biết Đại cương của Cơ Trời. Tôi không muốn nói rằng họ đã
thấy, nhưng họ đã giao thiệp với những người đã thấy, do đó họ
biết và hiểu được chiều hướng đặng cộng tác với Thiên Cơ. Nhưng,
khi đến ngày giờ thấy được trực tiếp Thiên Cơ, người ta mới nhận
ra chân lý của tất cả những lời nói ở đây về sự nhiệt thành.
Trên đời này, người ta hy sinh một cách hăng say và nồng nhiệt cho
những nguyên do, cho những công cuộc cải cách hữu ích, nhưng họ dễ
lầm lạc ngoại trừ họ có vài ý niệm về Cơ tiến hóa, và thấy
được việc làm của họ liên quan đến Cơ này như thế nào. Họ quan tâm
đến vài nguyên nhân vì tính cách khẩn cấp và cần thiết của chúng
nó. Chẳng hạn như lý do của sự tiết độ. Họ nhận thấy những tai
hại ghê gớm của việc uống
rượu và biết khi tật xấu này mất hẳn thì sẽ có lợi vô cùng cho
nhân loại trên nhiều phương diện. Do đó, họ cố gắng ngăn chận nó,
chẳng phải họ chỉ cho bợm rượu biết tật nghiện rượu là một sự
điên cuồng và một tội lỗi, mà họ cấm bán rượu, và như thế họ
bắt buộc con người phải có tiết độ. Cách này không thể diệt được
sự ghiền rượu, nhưng chỉ làm cho người ta không được toại ý thôi.
Tôi không có ý phê phán, chỉ trích luật cấm bán rượu này; nó có
nhiều ưu thế đáng kể. Nếu chúng ta cho hạn chế sự bán thạch tín
và thanh toan (acide prussique) là khôn ngoan, hữu lý thì tại sao
không làm như vậy đối với một thứ
thuốc độc gây ra nhiều tai hại hơn cả hai thứ kia nhập chung
lại? Tôi chỉ nói rằng phương sách đó không tiêu diệt được tận gốc
rễ sự xấu; nó kiếm cách cải thiện con người bằng sự cưỡng bách,
chớ không phải bằng cách thuyết phục.
Cũng đúng như thế, những
người đã từng thấy rõ sự đau khổ ghê rợn của "kẻ bị trầm luân
thứ mười"
[14]
thì họ lo tìm khắp nơi một phương thuốc chữa trị bịnh xấu hổ lớn
lao và hiển nhiên đó. Nhưng
rủi thay, có người tìm thấy phương thuốc trong một căn bản tuyệt
đối hoặc ngay trong sự hỗn loạn. Chúng ta không thể phiền
trách những người chủ trương những phương cách bất vụ lợi
mà họ mong rằng sẽ làm dịu bớt sự đau khổ cho những người đồng
loại của họ. Trong những trường hợp như thế, chính là đầu óc
nhầm lẫn chớ không phải con tim. Trái tim thúc đẩy họ chịu những
sự tổn thất và hy sinh lớn lao của cá nhân để xoa dịu những nỗi
đau khổ của đồng bào như họ mong muốn. Mà họ còn phải hiểu rằng
sự tiến hóa của nhân loại tùy thuộc một cái Cơ, họ phải cố gắng
học hỏi Cơ đó để sự hành động của họ trở nên khôn ngoan cũng như
vị tha. Chính con người thiếu sự phân biện. Bởi họ chỉ thấy một
khía cạnh của vấn đề, cho nên họ đi sâu vào một hệ thống mà kết
quả còn tệ hại hơn những nỗi đau khổ họ mong xoa dịu.
Vậy, bởi y hiểu biết rồi nên mới thuận theo lẽ trời, khăng khăng
một lòng làm lành và chống
chỏi với sự ác, làm việc cho sự tiến hóa chứ không phải vì tư
lợi của mình.
C. W. L.
–
Đó là đá thử vàng để giúp
chúng ta nhận ra những người hiểu biết; vấn đề không hề liên hệ
gì đến Tôn giáo hay chủng tộc của con người, nhưng chỉ xét về sự
kiện duy nhất mà họ phấn đấu cho sự lành, chống lại sự ác. Mỗi
khi chúng ta thấy một người trung thành với điều chi mà y biết là
cao cả, và đang phấn đấu cho những điều đối với y hình như là tốt
đẹp và chống lại những điều đối với y dường như là xấu xa, thì
chúng ta phải xem y như là một huynh đệ làm việc theo Thiên Ý, dù
cho sự hành động của y luôn luôn không phải là những điều mà chúng
ta tán thành hay là những điều mà chúng ta tưởng được đẹp lòng
Trời, như họ nói.
Tuy nhiên, họ có những
ý tưởng hết sức nhỏ nhen và hẹp hòi, cố chấp. Trong vài
trường hợp, họ chứng tỏ một tinh thần chống đối kịch liệt rất
giống như sự thù hằn đối với những người mà sự tin tưởng khác
hơn họ.
Một trong những đặc tính
nổi bật về việc làm của Quần Tiên Hội là, trong mỗi trường hợp
như thế, các Ngài thu lấy điều tốt và dẹp qua một bên điều xấu.
Các Ngài lấy mãnh lực phát sinh do sự tận tụy và lòng chân thành
đó rồi tận dụng nó, đồng thời gạt bỏ điều xấu chúng ngăn cản
điều lành biểu lộ, ít ra cũng tại cõi Trần này. Trong nhiều cộng
đồng Thiên Chúa giáo thói mê tín mạnh hơn lòng nhân từ đáng mến
khiến cho kẻ bàng quan chỉ nhận thấy sự chua cay trong đó mà thôi.
Các Đấng trong Quần Tiên Hội lấy làm thương hại cho sự mê tín đó
và các Ngài nhận thấy rõ rằng nó gây ra sự di hại còn hơn những
tật xấu khác. Tuy nhiên, các Ngài biết rút lấy trong đó tất cả
những mãnh lực của sự nhân từ đáng
mến của lòng sùng tín và ý muốn tốt đẹp để sử dụng và
ban thưởng những người đã sinh ra nó. Và mỗi người trong nhóm
người đó cũng nhận được quả lành của lòng từ thiện của y, mặc
dù, đồng thời y cũng phải đền tội đúng theo Luật Nhân Quả do sự
mê tín và nóng giận của y gây ra.
Vậy chúng ta phải nhân từ
trong khi giao thiệp với những người này, và trong mọi trường hợp,
nên chú tâm đến những điều lành, như Đức Thầy đã nói: "Chúng ta
phải lấy những viên ngọc", chớ đừng tìm những cọng rơm như người
ta thường làm.
Người mà thuận theo lẽ trời tức là một phe với chúng ta, dù y
nói y là người Bà la môn, người Phật giáo, người Công giáo hay Hồi
giáo, hoặc giả y là người Ấn, người Anh, người Trung Hoa hay người
Nga cũng không hề chi cả.
A. B.
–
Đây là một tư tưởng mà những thí sinh trên Đường Đạo không bao giờ
được quên vì nếu nó không biểu hiện trong đời sống của bạn, thì
bạn còn rất xa cửa Đạo. Ở đó không ai hỏi bạn thuộc về giống dân
nào, tôn giáo nào mà chỉ cần biết những đức tánh mà bạn cố
gắng tăng thêm cho tánh tình của bạn. Tất cả chúng ta đều lần
lượt đầu thai qua nhiều giống dân khác nhau. Ngày nay chúng ta sinh
ra trong một giống dân phụ, thuộc về giống dân chánh nào đó, vì
chúng ta cần hoạch đắc những tánh tốt đặc biệt do giống dân ấy
có thể cho chúng ta. Trái lại, cũng đồng thời nhiều người lo mở
mang những nhược điểm của chính giống dân phụ ấy. Chắc chắn người
ta có thể nói một cách hữu lý rằng: "Hiện giờ, không có một
giống dân tộc nào có khả năng loại bỏ tật xấu của tôi và mở mang
tánh tình của tôi được". Nhưng chúng ta không có phận sự chấp
nhận, chẳng hạn như những phương pháp của người Anh và đem chúng
nó lên cao đến tận mây xanh rồi loại bỏ tất cả những phương pháp
khác, vì tin chắc rằng chúng nó vốn tuyệt đối, không có phương
pháp nào bằng. Mỗi giống dân đều có vai trò của nó phải đóng
trong sự điều hòa chung; mỗi giống dân đều góp phần vào sự tổng
hợp rộng lớn vô cùng. Dù bạn thuộc về giống dân nào hiện giờ,
một phần sự điều hòa do giống dân đó biểu hiện cũng hiến cho bạn
việc làm dễ dàng và tự nhiên hơn hết. Khi bạn đã học xong kinh
nghiệm trong giống dân đó rồi thì về sau bạn sẽ học cách thủ vai
tuồng khác trong một giống dân khác. Nếu con người hiểu được điều
này thì họ sẽ bớt được thói quen tự đắc một cách khờ khạo về
nòi giống của mình và bớt việc chỉ trích những dân tộc khác.
Khi tôi nghe ai phàn nàn
một người nào đó nếu y lỗi lầm là bởi y
là người Anh hay người Ấn, tôi liền thấy cái hư ảo còn án
mắt kẻ phàn nàn đó, cũng như khi một người kia bàu chữa sự bất
tài của mình bằng cách nói rằng những sự bất toàn đó vốn thuộc
về nòi giống của y. Phải cố gắng hoạch đắc những đức tánh hết
sức tốt đẹp của giống dân chánh và giống dân phụ của bạn chớ
không phải những nhược điểm của chúng. Chẳng hạn như người Ấn Độ
phải tìm cách phát triển tâm linh, tánh không làm hại, đức khoan
dung, khả năng hành động mà không quan tâm đến cái kết quả của sự
hành động, bởi vì đó là những đức tánh mà gia tộc đầu tiên của
giống Aryen phải biểu hiện.
Tuy nhiên, đôi khi chúng ta
thấy tánh Đoạn Tuyệt có kèm theo sự bê trễ, buông trôi, do ý nghĩ
sai lầm này: "Nếu phải lãnh đạm đối với kết quả của sự hành
động, chính vì sự hành động không quan trọng". Thật ra, điều cần
thiết là sự hành động hoàn thiện lẫn sự lãnh đạm với kết quả,
cả hai việc một lượt. Đối với người Anh, lắm khi trái ngược lại.
Thường thường họ có tài làm việc kỹ lưỡng, nhưng họ sẵn sàng
tìm kết quả của hành vi mình một cách quá hăng hái, họ thường
không có tánh lãnh đạm. Vậy mỗi người phải tìm lấy những điều
mình thiếu sót mà làm mục tiêu. Người Ấn Độ phải cố gắng hoạt
động và người Anh phải cố gắng lãnh đạm; cả hai không mất những
đức tánh của mình đã có. Nếu mọi người đều làm như thế thì
những sự dị biệt giữa các dân tộc sẽ góp phần vào sự phong phú
của tất cả, vì mỗi giống dân này mượn ở những giống dân kia
những điều mình thiếu sót.
C. W. L.
–
Yêu Tổ quốc, tôn sùng giống nòi, cảm thấy bạn còn mắc nợ tổ
quốc, sẵn sàng phục vụ tổ quốc, tất cả những điều này đều
tuyệt đẹp. Nhưng bạn hãy khá coi chừng, đừng biểu lộ sự ca ngợi
của bạn bằng cách chê bai những dân tộc khác. Sự tương quan
giữa chúng ta với toàn thể nhân loại, đó là điều chúng ta
đừng bao giờ quên. Chúng ta là công dân của Quả Địa Cầu chớ không
phải riêng của một giống dân tộc mà thôi. Tuy nhiên tình yêu tổ
quốc là điều tốt, cũng như tình yêu gia đình vẫn tốt vậy. Trong
cả hai trường hợp, chúng ta không cần phải phóng đại quá đáng đức
tánh của chúng ta đến nỗi đem cái xấu thay thế cái tốt. Tình
thương gia đình là một tình cảm tuyệt đẹp, nhưng đừng để nó đi
quá lố trở thành tật xấu như
những vị Nam Tước
cướp bóc thời Trung Cổ, họ giết người để làm giàu cho gia tộc
mình. Cũng thế, tình yêu tổ quốc cũng đáng ca ngợi; trái lại nếu
nó đưa đến sự tấn công các dân tộc khác, nó thành ra đáng chê
trách vậy. Nhưng nếu bằng cách nào đó, bạn có thể làm việc cho
dân tộc của bạn mà không làm hại những dân tộc khác, bạn tỏ ra
xứng đáng thuộc về giống nòi của bạn, sự hiện diện của bạn làm
cho nó trở nên tốt đẹp hết sức, bạn có quyền được toại chí. Trên
phương diện Tôn giáo, cũng đúng như thế. Tất cả chúng ta đã từng
là tín đồ của nhiều Tôn giáo lớn rồi, mỗi Tôn giáo nhấn mạnh về
vài đức tánh, nhưng tất cả những đức tánh đều cần thiết cho sự
tiến hóa của nhân loại.
Những người nào thuận theo
lẽ trời thì biết rằng tại sao họ thuận theo. Họ biết họ phải
làm cái chi và họ cố gắng để hoàn thành nó. Còn những người
khác không biết họ phải làm điều chi, thế nên họ thường hành động
như những kẻ ngông cuồng.
C. W. L.
–
Điều này nhắc lại lời dạy của Đức Phật Cồ Đàm khi Ngài cho rằng
mọi tội lỗi đều do vô minh gây ra. Nhưng người chưa hiểu biết thường
hành động một cách ít đúng đắn, do đó kẻ ác luôn luôn đáng
được chúng ta thương hại, chớ không nên căm thù hay hờn ghét
họ. Thường thường người ta cảm thấy y hành động vì tánh ích kỷ,
vì y muốn có những sự lợi ích cho cá nhân y, như y đã tưởng vậy;
cho nên người ta cũng có hơi
sẵn lòng quên đi sự thiếu hiểu biết của y về những việc làm do y
gây ra. Chẳng hạn như thí dụ này. Vài nhà tỷ phú đạt được một
sự thịnh vượng tạm thời bằng cách bóp nghẹt và tiêu diệt một số
xí nghiệp kém quan trọng. Như thế họ sẽ gây ra ảnh hưởng khiến cho
nhiều người mất chén cơm và mấy nạn nhân này thù ghét, nguyền
rủa họ về sự ích kỷ và
tàn nhẫn của họ.
Phải, họ hành động như
thế chính vì sự vô minh. Họ theo đuổi ngay những mục tiêu của họ
để đè bẹp địch thủ vì họ tin rằng những kẻ ấy có thể làm việc
hay hơn họ. Có thể họ đạt được những kết quả rất tốt và đồng
thời làm giàu, nhưng họ sẽ không bao giờ định kinh doanh như thế
nếu họ biết rằng họ sẽ đau khổ nhiều hơn tất cả những người
cạnh tranh với họ, và như thế họ tự tạo cho họ trong tương lai một
quả báo vô cùng tệ hại hơn cái số phận dành cho những địch thủ
bị họ loại trừ. Thay vì oán ghét những người ích kỷ như thế,
tốt hơn là hãy thương xót họ vì còn vô minh.
Và họ tìm cho họ con đường nào mà họ tưởng chúng làm cho họ
được vui vẻ chớ không biết rằng tất cả là một (vạn vật nhất
thể), do đó chỉ có điều chi Trời muốn, thì điều đó mới thật làm
cho mọi người đều được đẹp lòng.
C. W. L.
–
Những nhà thực dụng chủ nghĩa có một câu cách ngôn quan trọng như
sau: "Phải tìm điều lợi lớn hơn hết của số người đông hơn hết".
Câu cách ngôn này làm ra một sự tiến bộ thật sự cao hơn ý tưởng
mà trước kia có ưu thế là: "Chỉ có sự lợi cho vài người là điều
quan trọng, còn những kẻ khác tiêu biểu một số lượng không đáng
kể". Tuy nhiên không nên bỏ quên thiểu số. Mỗi người đều đáng kể
vì tất cả chỉ là Một. Khi mà Tâm Thức Bồ Đề chưa phát triển với
một mức độ nào đó, thì con người chưa hiểu được điều này, nhưng
còn phải trải qua một thời gian mới hiểu được tới một điểm nào
"tất cả những người trên thế gian chỉ là một". Đối với chúng ta,
tin vào Chân lý này là một thứ nghĩa vụ
đạo đức, hoặc một thứ khát vọng thành kính về cái Đơn vị
cuối cùng. Chúng ta nói rằng: "Tất cả chúng ta đều sinh
ra từ một Đấng Từ Phụ chung, vậy tất cả chúng ta đều là
anh em với nhau, tất cả chúng ta đều là một". Nhưng ngày nào chúng
ta chưa có kinh nghiệm trong Tâm Thức Bồ Đề về vấn đề đó thì sự
thật và chỗ thâm sâu của nó vượt khỏi tầm hiểu biết của chúng
ta.
Tuy nhiên, chúng ta có thể
đưa ra một ý niệm về vấn đề đó khi nói rằng: "Tất cả tâm thức
chỉ là một, toàn thể thế giới là một, tất cả tình thương được
biểu hiện trên đời là tình Bác Ái duy nhất và thiêng liêng. Tại
cõi Trần này tất cả vẻ đẹp được biểu hiện là sự Mỹ lệ duy
nhất và thiêng liêng. Tại
cõi Trần này tất cả thánh thiện được biểu hiện là sự Thánh
Thiện của Đức Thượng Đế". Đấng Christ đã diễn tả tư tưởng này
với một người đến gọi Ngài là "Ông Thầy rất tốt". Ngài bèn đáp:
"Tại sao gọi Ta là tốt? Chỉ có Trời mới Tốt thôi"[15].
Lòng từ thiện của mỗi người là lòng từ thiện của Trời biểu
hiện nơi y thôi. Tất cả vẻ đẹp, tất cả sự vinh quang dưới Trần
Thế này mà chúng ta đã chiêm ngưỡng tại quả Địa Cầu, ngoài biển
rộng, trên trời cao, chỉ là một phần của sự Mỹ Lệ Duy Nhất và
Thiêng Liêng. Nếu chúng ta đi từ cảnh dưới lên cảnh trên, từ bậc
này đến bậc khác thì chúng ta càng ngày càng thấy sự mỹ lệ dần
dần trải ra trước mắt. Và sau cùng chúng ta tập thấy trong sự mỹ
lệ của mỗi vật "Toàn diện Mỹ Lệ" của Trời. "Tất cả là một"
vậy.
Khi học xong bài học này
rồi thì nhận thức được sự vinh quang
của Trời biểu lộ trong mọi vật và qua trung gian của vạn
vật; tất cả những sự vinh quang khác của Ngài đều ở trong mỗi
người. Như một phong cảnh
đẹp trải ra trước mắt chúng ta, chúng ta trầm trồ khen ngợi chẳng
những cảnh vật không thôi, mà còn tất cả những gì nó khêu gợi
trong trí ta; ấy là Vũ Trụ vô tận vô biên mà phong cảnh này chỉ
là một phần nhỏ nhít. Lúc bấy giờ đời sống của chúng ta hữu
phước vô cùng và tràn ngập tình thương; hạnh phúc này cho chúng ta
một ý niệm về cái Toàn Phúc Vĩnh Cửu; và tình thương đó làm cho
chúng ta hiểu được tình Bác Ái Trường Tồn
Bất Diệt. Cách duy nhất để thực hiện những sự tiến bộ lớn
lao là phải tin chắc rằng chúng ta chỉ là một điểm trong cái
"Toàn thể". Lúc đó Tâm Thức của chúng ta mới có thể nhập vô Tâm
Thức của Thượng Đế, ngõ hầu do con mắt của chúng ta, Ngài có thể
thấy được tất cả vẻ mỹ lệ đó, và chúng ta là phần tử của
Ngài, chúng ta cũng đồng thời thấy và hiểu vẻ mỹ lệ đó vậy.
Họ theo đuổi sự mộng ảo, thay vì sự chân thật. Và ngày nào họ
chưa học hỏi cách phân biệt hai điều này, thì ngày đó họ chưa
thuận theo lẽ Trời. Và chính vì thế mà sự phân biện là bước đầu
tiên phải thực hiện.
Tuy nhiên, dù khi chọn lựa đã xong rồi đi nữa, con cũng phải nhớ
rằng có rất nhiều hạng trong sự chơn và sự giả và con còn phải
biết phân biệt điều lành với điều dữ, cái quan trọng với cái
không quan trọng, cái hữu ích với cái vô ích, cái thực với cái
hư, cái ích kỷ với cái vô tư lợi.
C. W. L.
–
Đó là sự phân tách nhỏ của sự phân chia lớn lao giữa điều chơn và
điều giả. Sự liệt kê này chỉ cho chúng ta biết nếu chúng ta muốn
theo con Đường Đạo thì phải thực hành sự phân biện từ những chi
tiết cho đến những trường hợp nhỏ nhặt nhất của đời sống. Luôn
luôn có những vấn đề ít quan trọng xảy đến mà chúng ta phải giải
quyết bằng cách này hay cách khác; vậy thì bao giờ chúng ta cũng
phải nhớ đến tánh phân biện và luôn luôn đề phòng. Lúc nào cũng
phải suy nghĩ, quả thật là mệt nhọc. Nhiều người ưu
tú đã cố gắng như
thế đều mệt nhọc; sự cố
gắng bền bỉ, lâu dài thật là quá sức đối với họ. Đó là lẽ tự
nhiên, nhưng mọi sự ngã lòng
sẽ ngăn cản việc thành công
không cho chúng ta đạt được
mục đích. Thế nên mặc dù phải thắng phục sự mệt nhọc, chúng ta
đừng bao giờ quên điều đó trong đời sống chúng ta.
Một bên lành, một bên dữ, không khó chi trong sự lựa chọn, bởi vì
những người muốn theo Chơn Sư thì đã nhất định làm lành dù bất
cứ với giá nào.
A. B.
–
Nếu một người nào đó còn do dự trước điều lành và điều dữ, tức
là y chưa thực sự muốn theo Đức Thầy. Những ai quyết tâm rồi thì
phải nhất định chọn điều lành trong mọi trường hợp, dù quan trọng
hay không, mà không màng đến những hậu quả. Trong
Yoga Sutras có nói về năm đức
tánh căn bản gọi là Yama, gồm có: tánh không làm hại, không độc hiểm, tánh chân
thật, tánh chánh trực cùng những đức tánh khác đã được qui
định ngay ở đoạn khởi đầu của Đường
Đạo: "Đó là những đại nguyện đã được phổ biến". Nói một
cách khác, như thế có nghĩa là phải triệt để tuân theo chúng nó
trong mọi trường hợp. Không có một mối lợi nào, dù đem đến cho
mình hay cho kẻ khác, cho phép người đệ tử được vi phạm bất cứ
một giới luật nào. Ai đã tiến đến trình độ ấy, thì trong lời
nói hoặc trong sự hành động, không hề làm sai sự thật bao giờ, dù
thấy mình sẽ được lợi, chẳng những trong vấn đề tiền bạc, mà
trong tất cả trường hợp khác. Chẳng hạn y không vượt qua uy tín
của y. Bạn hãy tự hỏi coi bạn có luôn luôn lựa chọn sự chân thật
một cách tự nhiên không. Ngày nào bạn chưa làm được như thế, ngày
đó bạn còn xa Cửa Đạo thứ nhứt. Đối với trường hợp đó, Đức
Thầy cho rằng nói thêm nữa vô ích. Đã rõ rệt lắm rồi, đã hiển
nhiên rồi vậy.
C. W. L.
–
Ý kiến này chẳng những liên hệ đến hạnh kiểm mà còn có liên quan
đến việc có một lượt những tánh tốt và những tánh xấu để tiến
hành một công việc. Nếu không tuân theo qui luật này một cách nghiêm
nhặt thì chứng tỏ rằng trong thâm tâm chúng ta không thật sự muốn
thành công. Đôi khi người ta nói rằng: "Tôi muốn có Thần Nhãn; tôi
muốn thấy cõi Trung Giới! Phải khởi sự làm cái gì? Đâu là bước
đầu?". Bước đầu là phải thanh lọc
[16]
các thể. Bạn hãy cẩn thận cung cấp cho xác thân những thức ăn nào
thích hợp với nó nhất. Nhiều người muốn có Thần Nhãn thấy được
cõi Trung Giới, nhưng khi phải lựa chọn, họ thích cái mà họ gọi
là bữa ăn tối thật ngon. Họ có cảm tưởng rằng bữa ăn như thế cần
thiết đối với họ, vì họ có thói quen và trong lúc đó họ quên
mất việc muốn có Thần Nhãn. Thế là chỉ có thói quen tạo ra ý
tưởng đó thôi. Khi biết được đặc tính này thuộc về loại vật chất
rồi thì chúng ta có thể cố tâm ra công khó nhọc để loại trừ
những thói quen cũ kỹ, tệ hại hoặc có thể vô ích đặng tập lấy
những thói quen mới. Chúng ta phải thấy một sự khích lệ trong
việc thói quen có thể trở thành một người bạn liên minh với chúng
ta rất có thế lực, mặc dù nó có gây trở ngại cho chúng ta lúc
đầu tiên. Một khi những thói quen tốt đã tạo được rồi thì chúng
sẽ hành động một cách tự động. Chúng ta có thể lãng quên chúng
để chú ý đến những việc khác.
Trên phương diện hạnh kiểm,
không có vấn đề lựa chọn giữa thiện và ác nữa. Độc giả nào xem
quyển này mà thấy có thú vị hoặc ai khao khát đến quì dưới chân
Đức Thầy, thì sẽ không do dự chọn điều lành khi thấy nó. Mong
rằng không có ai trong chúng ta thử làm việc gian trá - chúng ta đã
vượt qua điều đó rồi - mà chúng ta cũng không hề làm sai lạc chân
lý, dù cho thấy được sự
ích lợi ngay trước mắt. Chắc chắn chúng ta không lựa chọn một
nghề nghiệp đáng trách như sát hại thú vật. Chúng ta cũng không
phải là những người mặc những y phục hay là trang điểm với những
món đồ nếu không giết thú vật thì không làm được chúng nó - đôi
khi trong những tình trạng thật đau lòng là tàn sát chim non còn
nằm trong ổ. Tất cả những người tiếp tục
ăn mặc như
thế quả thật không muốn theo Đức Thầy; họ thích theo thời
trang hơn.
CHƯƠNG
THỨ CHÍN
Nhưng con người và xác phàm là hai cái khác nhau. Ýchí của con
người luôn luôn không phù hợp với những sự ham muốn của xác thân.
Khi xác thân con muốn điều chi thì con hãy ngừng lại, và suy nghĩ
xem có phải thật là con muốn điều đó chăng?
A. B.
–
Ở đây Đức Thầy ra lịnh rất
rõ ràng cho đệ tử Ngài, khi
xác thân muốn điều chi, đệ
tử phải ngừng lại và tự
hỏi: "Có phải thật là tôi muốn điều đó hay không"? Nhiều người
thấy rằng ngừng lại và suy nghĩ mỗi ngày, từ sáng tới chiều như
thế rất khó khăn buồn chán. Nhưng phải thực hiện mấy điều đó vì
chúng nó đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ chuẩn bị. Tôi biết
làm như vậy rất khó, do đó nhiều người chí nguyện đâm ra chán nản
vì việc cố gắng như thế.
Những người bỏ cuộc vì
mệt mỏi thì không đạt được mục đích. Chỉ có bao nhiêu đó thôi. Sự
cố gắng phải quyết liệt và bền bỉ. Điều này đòi hỏi một đời
sống hoàn toàn có qui củ (có mực thước): không hề vội vã trong
hành động, lời nói, ngay cả tư tưởng. Mọi sinh hoạt của người đệ
tử, từ vật chất, tình cảm cho đến trí tuệ phải hoàn toàn tuân
theo kỷ luật.
C. W. L.
–
Nếu trong vấn đề tiến bộ, con người muốn thật sự làm hết sức
mình; thì phải ra công học hỏi kỹ lưỡng những thể khác nhau của
chúng ta và biết chắc chắn chúng là thế nào. Ở đây nói rất rõ
ràng rằng thể xác có những sự ham muốn không phải là của con
người, đối với Thể Vía và Thể Trí cũng đúng như thế. Khi hiểu
rõ sự cấu tạo của ba thể này người ta thấy rằng những sự ham
muốn tự nhiên của chúng không hạp với con
người. Chúng ta nói về chúng cũng gần như nói về những
người khác biệt với chúng ta, điều này vẫn đúng theo một ý nghĩa
nào đó; mỗi thể đều được cấu tạo bằng vật chất sống; sự sống
của chúng nó tập trung lại và có một ý thức tập thể. Trong Cái
Vía nó tạo ra một sinh vật mà đôi khi chúng ta gọi
là Tinh chất ham muốn,
nói tóm lại sinh vật này do sự sống tập thể của các tế bào của
Cái Vía tạo ra. Đứng riêng một mình, mỗi tế bào chỉ là một sự
sống nhỏ bé, có một bán ý thức, đang tranh đấu để đi xuống hơn
là đi lên, bởi vì đối với nó, sự tiến hóa là đi xuống vô trong
loài kim thạch. Khi tất cả những sự sống này nhập chung lại với
nhau trong Cái Vía thì chúng liên kết với nhau tới một điểm nào
đó, chúng tạo được một sự hợp nhất và cho ta cái cảm giác rằng
Cái Vía có những bản năng mạnh mẽ và riêng tư, mạnh mẽ cho đến
nỗi người ta có thể cho rằng nó có một ý chí riêng của nó. Muốn
tiến hóa nó cần những sự rung động mạnh mẽ và thô kệch thuộc về
những tình cảm và xúc động mà chúng ta không muốn mở mang, chẳng
hạn như: tánh ganh tị, ghen ghét và ích kỷ. Đó là lý do tại sao
những quyền lợi của nó trái ngược với những quyền lợi của chúng
ta. Những sự rung động của tình thương, tánh thiện cảm và sự sùng
tín vốn vô cùng tế nhị, mau lẹ và mạnh mẽ hơn nhiều. Chúng thuộc
về thành phần cao siêu của Thể Vía. Vì vậy chúng vốn là một
loại mà xác thân cũng như chúng ta không cần dùng đến.
Những người mà đời sống
không có qui củ, họ muốn được tự do nói năng, tự do hành động như
họ thường tuyên bố, thật ra họ là những kẻ nô lệ cho Cái Vía của
họ. Chúng ta chẳng nên vì thế mà trách Cái Vía và đừng cho nó
là một con quỉ như những người tín đồ Thiên Chúa giáo thời Trung
Cổ vậy. Cái Vía không biết gì đến chúng ta và đời sống của
chúng ta; nó không hề cám dỗ chúng ta điều gì, nhưng nó chỉ tìm
cách tự biểu lộ và tiến hóa theo cách thức riêng của nó cũng như
mọi sinh vật khác.
Đôi khi người ta hỏi: "Ta
có nên
cho Tinh chất ấy một cơ hội để tiến hóa và cho nó thực
hiện những rung động thô kệch không"? Không! Đó là lòng nhân ái bị
ngộ nhận và trong mọi trường hợp chúng ta không thể áp dụng đến
mức triệt để được. Cách cư xử tuyệt hảo hơn mà chúng ta có thể
dành cho chất thô trược, là trục xuất nó (nó tồn tại trong Thể
Vía của chúng ta, vì trong những kiếp quá khứ, chúng ta đã để cho
những cảm xúc thấp hèn nổi dậy trong lòng chúng ta); nó sẽ đeo
theo một người dã man, hoặc một con
chó hay một con bò mà sự rung động của chúng không làm hại
được ai.
Tùy theo cách thế riêng
của nó, Tinh chất ham muốn cũng khá
quỉ quyệt. Đặt mình vào vị trí của nó và hiểu được Tâm
Thức ở một mức độ thấp kém thế nào thật là điều khó khăn đối
với chúng ta. Nhưng lẽ tự
nhiên, Tinh chất ham muốn cảm thấy chung quanh nó có cái gì tế nhị
hơn nó, đó là chất Trí Tuệ, và dường như kinh nghiệm dạy nó rằng
nếu nó làm cho chất Trí Tuệ rung động một lượt với nó, thì nó
sẽ có những sự rung động mạnh mẽ và thô kệch hơn và nó chỉ có
cách đó thôi, không làm khác hơn nữa được. Nếu nó thuyết phục
được con người tin rằng ý muốn của chúng nó giống như ý muốn của
con người, thì có nhiều may mắn để thỏa mãn ước vọng, do đó nó
cố gắng làm lay chuyển chất tế nhị này. Chẳng hạn, nếu nó xúi
giục được Cái Trí sinh ra một tư tưởng bẩn thỉu thì nó liền được
những cảm xúc bẩn thỉu mà nó ưa thích. Hoặc nếu nó làm cho một
tư tưởng ghen ghét phát hiện, thì liền đó một tình cảm ghen ghét
nổi lên. Đó chính là điều nó muốn. Không phải nó muốn làm ác,
vì đối với nó chỉ có những rung động mãnh liệt và thô kệch mới
thỏa thích nó được. Như thế Tinh chất ham muốn thường tỏ ra mạnh
hơn con người, mặc dù nó còn ở trong giai đoạn tiến hóa hết sức
thấp thỏi. Nghĩ đến điều đó, chúng ta cảm thấy có hơi nhục
nhã khi biết rằng mình đã chịu thua nó và bị một vật chưa phải
là kim thạch sử dụng như một khí cụ. Phải đương đầu với Thể Vía
và tinh lọc nó bằng cách thay thế tất cả thói quen xấu xa được
lưu lại từ quá khứ bằng
những cảm xúc tốt lành, chúng sẽ hữu ích cho chúng ta trong tương
lai.
Tinh chất Trí Tuệ và Tinh
chất Xác Thân cùng vẫn có thật. Tinh chất xác thân có bổn phận
cấu tạo các mô và giữ gìn
toàn thể Xác Thân. Nếu chúng ta bị xước trầy da, bị đứt hoặc bị
thương, Tinh chất Xác Thân liền vội vã mang đến chỗ vết tích những
bạch huyết cầu và cố gắng tạo ra những tế bào mới. Trên nhiều
phương diện, công việc của Tinh chất này tỏ ra rất có ích lợi cho
Xác Thân; vài hoạt động của nó vô cùng hữu ích cho chúng ta; đồng
thời nó cũng thích biểu lộ những sự khích động không xứng đáng
cho chúng ta chút nào cả.
Bởi vì con là Thượng Đế và con chỉ muốn điều gì Thượng Đế muốn
mà thôi. Nhưng con phải tiến vào tận đáy lòng của con để gặp Đức
Thượng Đế ở trong người con và nghe lời của Ngài, mà lời của
Ngài cũng là lời của con
vậy.
C. W. L.
–
Sự hợp nhất của chúng ta với Đấng Duy Nhất khó mà hiểu được. Đây
là cách tôi thành công đầu tiên: nó không phải là một phương pháp
mà tôi có thể khuyên người ta làm theo. Lúc bấy giờ, tôi cố gắng
tập trung tất cả năng lực của tôi lên cảnh thứ nhất của cõi Trí
Tuệ hầu xác định coi con người có thể lợi dụng đến điểm nào
những con đường vắn tắt nối liền những cảnh thứ nhất của các
cõi khác nhau. Muốn đi lên từ cõi này qua cõi kia, con người có
thể lên khỏi cõi Trần bằng cách đi từ cảnh này đến cảnh khác,
cho tới cảnh thứ nhất. Kế đó mới qua cảnh chót là cảnh thứ bảy
của cõi Trung Giới, và dần dần từ bậc lên cảnh thứ nhất của cõi
Trung giới, rồi mới tới cõi Hạ Thiên, và cứ tiếp tục lên như thế
đó. Người ta còn có thể theo đường tắt từ cảnh thứ nhất của cõi
Hồng Trần đến cảnh thứ nhất của cõi Trung Giới, rồi từ đó lên
cảnh thứ nhất của cõi Thượng Giới hay là cõi Trí Tuệ.
Tôi có nghe những vị đệ
tử cao cấp đề cập đến một cách rút ngắn
khác, cách này thẳng góc với cách trước. Họ nói rằng sự
tập trung các năng lực vào một trong những cảnh thứ nhất của
chúng ta thì có thể thông đồng với cõi Hư Không đối chiếu (Plan
cosmique correspondant) với nó và do đó khi tập trung các năng lực
vào cảnh thứ nhất của cõi Trí Tuệ (Cõi Thượng Giới) thì có thể
liên lạc với cõi
Thượng giới hay là cõi Trí Tuệ Hư
Không (Plan mental
cosmique), cao hơn những điều
mà chúng ta biết rất nhiều.
Thật vậy, tôi không có hy
vọng gì lên đó được, nhưng còn có thể thông đồng với nó. Trong khi
cố gắng, tôi nhận biết rằng tôi có thể thấy (nhưng không thể mô tả
được) cảnh đối chiếu trong cõi Trí Tuệ
Hư Không; tôi thấy trọn vẹn hai loại cảnh giới cao hơn giai
đoạn của chúng ta hiện nay. Tôi không tiếp xúc với cảnh đó được
dù bằng bất cứ cách nào - Tôi nghĩ rằng dù một vị Chơn Tiên cũng
không thực hiện được điều đó - nhưng tôi thấy được nó, dường như ở
dưới tận đáy giếng nhìn một ngôi sao trên trời, cái Tâm Thức cao
vút này, tôi có thể thấy được nó. Bây giờ trong tâm tôi phát sinh
một sự tin chắc mạnh mẽ không thể tả được rằng nếu từ trước đến
nay tôi tin là mình có một ý chí, một trí khôn, những cảm xúc,
thì những cái đó không phải là của tôi, mà chính là của Ngài:
chính là ý chí của Ngài, là tình cảm của Ngài vậy. Không có
cái gì thuộc về của tôi cả. Tôi không bao giờ quên được kinh nghiệm
này; nhờ nó mà tôi biết chắc được một sự kiện không thể mô tả.
Cũng như tôi đã giải trước
đây chúng ta có thể nhờ Tâm Thức Bồ Đề mà biết được chắc chắn
sự hiện diện của Thượng Đế trong lòng ta. Khi chúng ta đến mức
đó, cái Tâm Thức như biển cả liền mở rộng ra chung quanh chúng ta.
Chúng ta biết rằng mình là một phần tử của nó và những kẻ khác
cũng là những phần tử của nó như chúng ta. Nó là vật sở hữu
chung của chúng ta. Chẳng bao lâu, lại sinh ra một cảm giác mới,
chúng ta hiểu rằng tất cả mấy cái đó chỉ là một Tâm Thức duy
nhất, nó thâm nhập vào chúng ta và tất cả những kẻ khác, để
cuối cùng chúng ta hiểu rằng chúng ta là Trời vậy. Sự hiểu biết
này kích thích và thúc đẩy một cách dữ dội phi thường không thể
nào quan niệm được, nhưng con người cảm thấy được an toàn và có
một niềm tin tuyệt đối. Tôi hoàn toàn chấp nhận rằng điều đó có
thể khiến cho vài người kinh
hãi vì họ tưởng rằng họ bị tiêu mất. Thật vậy, điều này không
thể xảy ra được. Nhưng bạn hãy nhớ lời của Đấng Christ nói: "Kẻ
nào chết vì Ta, thì sẽ cứu mạng nó được"
[17].
Đấng Christ, biểu hiện cho
nguyên lý Bồ Đề, nói với chúng ta:
"Kẻ nào vì Ta - vì sự mở mang Tâm Thức Bồ Đề trong lòng
y - sẽ bỏ lại Nhân Thể là cái thể mà trong đó y sống rất
lâu; y sẽ tìm được chính
mình và tìm thấy một sự
sống vô cùng rộng lớn hơn và cao cả hơn". Muốn được như thế, phải
có một sự can đảm chắc chắn; ở trọn vẹn trong Thể Bồ Đề (Kim
Thân) lần đầu tiên và nhận thấy Nhân Thể mà ta đã nương tựa nhiều
ngàn năm đã biến mất là
một sự kinh nghiệm thật phi thường. Một trong hai thứ kinh nghiệm
được mô tả đã đủ cho ta biết một cách tuyệt đối chắc chắn rằng
Chơn Ngã vốn duy nhất. Ý niệm đó không thể truyền đạt, nhưng sự
kinh nghiệm giúp chúng ta hiểu được nó và không có điều chi có
thể lay chuyển được sự chắc chắn này.
Đừng lầm lộn các thể của con với con. Xác thân của con, cái vía
của con, cái trí của con không phải thật là con đâu. Nhưng mỗi thể
nó đều xưng là Bản ngã đặng hoạch đắc cho được những điều nó
muốn. Con phải biết tất cả chúng nó và phải tự biết rằng con là
chủ chúng nó.
C. W. L.
–
Đức Thầy nói về các thể này một cách tuyệt đối như Ngài đã nói
đến những cá nhân riêng biệt. Đó là những tinh chất đã được đề
cập trước đây. Chúng tự do áp chế được một số đông người; họ
chẳng những không cố gắng chút nào đặng thoát ra thế lực của
chúng nó, mà cũng không biết mình mang một cái ách cần phải cổi
bỏ và họ cũng không tự tách ra khỏi những thân mình họ nữa. Cái
giáo lý khốc hại dạy rằng con người có một Linh Hồn đã gây
ra tai hại rất nhiều do chủ trương đó. Nếu người ta chỉ hiểu được
rằng con người là một Linh Hồn và có những Thể, thì
người ta bắt đầu thấy rõ ràng hơn và rất mau chóng. Ngày nào mà
một người kia còn tưởng tượng rằng Linh Hồn là một cái gì mơ hồ
bay qua bay lại trên người y, thì y rất
ít có hy vọng được cải thiện. Khi chúng ta cảm thấy những
Tinh chất nổi dậy trong lòng chúng ta, chúng ta phải nói rằng: "Sự
cảm xúc này là một sự rung động trong Thể Vía của tôi; vậy tôi
chỉ rung động theo cái nào hạp với tôi, hiện giờ tôi là trung tâm
điểm của một nhóm thể xác này và tôi sử dụng chúng nó theo ý
tôi".
Khi có việc phải làm thì xác thân viện lẽ nó cần phải nghỉ ngơi,
đi dạo chơi, ăn uống, và người chưa hiểu biết thì nói trong lòng
rằng: "Tôi cần làm mấy việc đó, và tôi phải làm mới được". Nhưng
mà người hiểu biết thì nói: "Ấy là xác thân của tôi muốn mấy
việc đó chớ không phải là tôi đâu, nó phải chờ đợi ".
C. W. L.
–
Đối với trẻ con, điều này thật rõ rệt. Nếu một đứa trẻ muốn
làm một việc gì, thì đối với nó việc đó là trời, là đất vậy;
công việc phải thực hành xong tức khắc, và nếu nó thất vọng, nó
tưởng như vũ trụ sụp đổ chung quanh nó. Những người dã man cũng
giống như thế, họ dễ bị kích động cho đến đổi vì một lý tưởng
nhỏ mọn không ra gì, họ có
thể giết người. Người văn minh sẽ tự hỏi: "Ta hãy chờ một chút
để xem cái gì xảy ra". Đứa trẻ chạy theo mấy cuộc chơi của nó,
còn chúng ta, đàn anh của nó, lắm khi lại quở trách, la rầy nó,
vì không hiểu được bản tánh
trẻ con. Đứa trẻ nói: "Tôi đã quên", thật hoàn toàn đúng thế,
nhưng chúng ta nghi ngờ điều đó, vì chúng ta biết rõ
rằng chính chúng ta phải nhớ. Vậy chúng ta đã quên lúc
chúng ta còn nhỏ bé và đồng thời quên cả thời kỳ ấu trĩ của
giống dân tộc chúng ta. Chúng ta phải nói rằng: "Ta biết rõ em
muốn cái gì, nhưng thật ra bây giờ không nên làm việc ấy, vì nó
làm quấy rầy nhiều người;
em sẽ thi hành việc đó vào một dịp khác". Đó là cách giáo dục
hữu hiệu. Người ta cũng hành động như thế đối với kẻ dã man.
Chung qui y sẽ hiểu rằng y
không nên chiều theo vài sự
xúc động. Về điều đó, y phải trải qua nhiều kiếp và thường
thường y bị giết trước khi học xong bài học, nhưng dần dần y bớt
dã man một chút và văn minh hơn. Còn người đã tiến hóa, y xem Xác
Thân như một sinh vật biệt lập, như một khí cụ để y điều khiển.
Thường thường khi có dịp giúp đỡ ai thì xác thân nói: "Việc ấy
làm cho tôi buồn bực quá! Vậy, ai đó hãy làm thế cho tôi đi ".
Nhưng con người trả lời với xác thân như vầy: "Ngươi ngăn cản ta
không cho làm một việc phải sao được".
C. W. L.
–
Như Bà Tiến sĩ Annie Besant đã khuyên nên lưu ý
điều này; thường lắm, khi có một cơ hội rất tốt hiện đến,
nhiều người xem xét nó rồi nói: À, đó là chuyện phải làm. Một
ngày kia, ai đó sẽ lãnh lấy; tôi không thấy tại sao tôi phải làm
điều đó". Trái lại một người thật sốt sắng nói: "Đây là một công
việc cần thiết, tại sao chính tôi không đảm đang việc đó"? Và
người ấy liền bắt tay vào việc, y
hoàn thành nó.
Thân con vốn là con thú của con, con ngựa của con cỡi. Bởi thế,
phải đối đãi với nó cho tử tế và phải săn sóc nó cho kỹ lưỡng.
Đừng bắt nó làm việc quá sức; phải nuôi nó cho đúng phép với đồ
ăn uống tinh khiết và giữ gìn cho nó thật sạch sẽ luôn luôn, đừng
dung dưỡng một mảy bợn nhơ.
C. W. L.
–
Xác Thân là một con thú, ý niệm này quả thật rất hữu
ích và hình như hiển nhiên vậy. Nhưng nếu chúng ta càng đi
sát theo sự so sánh này thì
ta càng hoàn thành được việc cần thiết. Giả sử bạn có một con
ngựa. Dĩ nhiên bạn là người tốt và biết điều; nếu bạn muốn phục
vụ tử tế, thì bạn cũng muốn cho con ngựa của bạn được sung
sướng, có đủ tiện nghi và tráng kiện. Bước đầu, bạn tìm cách
hòa thuận với nó, để tìm hiểu nó, để nó biết ý bạn. Nó sẽ
cảm thấy bạn sẵn sàng tử tế với nó. Rồi bạn tìm đồ ăn thích
hợp với nó nhất và bạn cho nó ăn. Bạn coi chừng đồ ăn cho được
đầy đủ, nhưng đừng thêm chút gì có hại cho nó. Đồng thời, bạn
bắt nó làm việc, vì bạn nuôi nó nhằm mục đích đó, nhưng không nên
bắt nó làm quá sức. Bạn biết nó làm được cái gì thì bạn bắt
nó làm việc đó. Bạn đã dạy nó tin cậy
bạn; vậy nó sẽ vâng lời bạn và nếu bạn gọi tới nó thì
nó sẽ tỏ ra có thiện chí, vì nó biết rằng nó sẽ được an lành.
Sau cùng, dù cho sự sợ sệt cũng không lay chuyển
nổi lòng tin cậy của nó. Theo cách đó, bạn sẽ được giúp
đỡ nhiều nhất với sự cực nhọc tối thiểu. Cách luyện tập thú
xoàng, đôi khi làm cho con ngựa khiếp sợ. Kết cuộc không bao giờ con
ngựa làm việc thật đắc
lực. Mục tiêu của bạn thì khác hẳn: bạn muốn giữa bạn và con
ngựa bạn có một sự hòa thuận thâm tình.
Xác Thân hoàn toàn giống
con ngựa đó. Chúng ta phải biết phương pháp tốt nhất để áp dụng
cho nó. Áp dụng những phép luyện
tập dữ dội của Hatha Yoga là một sự lầm lạc to. Bạn hãy
tỏ ra tử tế, bạn sẽ thấy
Xác Thân nỗ lực giúp đỡ bạn tùy sức nó và nó không vì
đó mà chịu đau khổ, nhưng đừng bao giờ bắt nó làm việc quá
sức. Nội trong một giờ, bạn có thể gây ra tai hại mà cần phải
nhiều năm mới bù lại được. Trong công việc làm ăn người ta
luôn luôn nói: "Phải cố gắng thêm chút nữa mới được", nhưng thường
lắm, khi sự cố gắng thêm chút ít đó làm mệt nhọc cơ thể khiến
từ đó, nó không trở lại trạng thái bình thường được. Rất dễ gây
ra sự tổn hại như thế, bởi vì cơ thể là một cái guồng máy hết
sức mảnh mai, một guồng máy sống, khả năng phục hồi của cơ thể
thật vô hạn. Trong nhiều trường hợp chúng ta gọi là "một Xác Thân
tốt", có thể chịu đựng với những sự đối xử
hà khắc. Nhưng sự kiện chịu đựng được và con người còn
sống như thế không có nghĩa là vô hại. Trái lại, một chút cố
gắng quá sức lắm khi lưu lại một vết tích vĩnh viễn. Do đó, tôi
khuyên những ai dấn thân trên con đường phát triển huyền bí hãy khá
thận trọng, và tin chắc rằng theo lời vị Hội Trưởng của chúng ta:
công việc nào mà chúng ta không thể thi
hành vì không có ngày giờ, thì đó không phải là công việc
của chúng ta.
Rồi đến vấn đề ăn uống.
Lý thuyết chủ trương rằng một món ăn cũng đủ nuôi sống được bất
cứ ai không phải là lời khuyên tốt lành cho người hành giả có óc
thực tế. Khí chất và khả năng của con người phức tạp vô cùng.
Châm ngôn xưa có nói rằng: "Món nào tốt với người này, là thuốc
độc đối với người kia"; nói về giá trị của thực phẩm, điều đó
thật đúng. Tôi cũng biết rõ điều này: có một khuynh hướng cho
rằng những người bận tâm nhiều về thức ăn của mình sẽ tạo ra cho
mình những sự lo lắng vô ích về những thực chất hoàn toàn thuộc
về cõi trần. Dĩ nhiên, đừng phóng đại thái quá mà hãy giữ trung
dung và phải khôn ngoan. Bổn phận của mỗi người đối với Xác Thân
mình là phải tìm xem nó cần thức ăn loại nào và số lượng mà nó
đòi hỏi. Lẽ phải dạy chúng ta như sau: Hãy cho Xác Thân cái gì
hợp với nhu cầu và sở thích của nó, nhưng đừng bao giờ cho nó
dùng những thực phẩm có hại như rượu và thịt. Đừng cưỡng bách
điều gì cả. Hãy luôn luôn tìm cách thỏa mãn và đồng thời tìm
hiểu nó, như vậy bạn sẽ có sự cộng tác trí khôn của nó, dù cái
trí khôn đó như thế nào chăng nữa.
Thường thường bỏ thịt cá
để sang việc dùng rau trái rất khó. Bên Anh, những người mới ăn
chay, ban đầu không hiểu chi về vấn đề này. Vì từ
trước đến giờ họ ăn nhiều nhất là thịt với cải bắp
và khoai tây mà thuyết ăn chay đối với họ là bỏ thịt để ăn
cải bắp với khoai tây. Song khoai tây chỉ toàn là bột và cải bắp
thì chứa đựng nước. Người
ta không thể sống nhờ bột và nước; cần phải có những yếu tố
khác nữa; những vật thực tạo nên bắp thịt, xương, máu. Chúng rất
nhiều, cho nên chúng ta chịu khó thì sẽ tìm được những thực phẩm
thích hợp hơn hết với thể xác và lấy nó làm món ăn chính. Nếu
thức ăn không thích hợp có thể gây ra những sự
phiền nhiễu cho sự
tiêu hóa. Hãy thử dùng các món khác, trừ ra khi người ta mắc một
chứng bịnh nan y. Khi trẻ con giữ gìn sâu đặng
xem nó hóa bướm, chúng chịu khó tìm coi sâu sống bằng lá
cây nào, vì chúng biết rằng chỉ có một loại lá cây thích hợp
với nó. Chắc chắn chúng ta có thể chịu ra công khó nhọc như thế
đối với con thú được dành
riêng để phụng sự chúng ta trong nhiều năm và nuôi nó với
những đồ ăn uống tinh khiết thích hợp với nó.
Sự sạch sẽ có một tầm
quan trọng cốt yếu; những lý do về vấn
đề đó thật khác nhau: nó cần thiết chẳng những vì phép vệ
sinh, chẳng những vì nó là biểu hiện của sự tinh anh, tế nhị mà
cũng vì Đức Thầy đặc biệt dùng những người liên lạc chặt chẽ
với Ngài như những vận hà để truyền Thần lực của Ngài. Thường
thường công việc này dành cho những vị đệ tử sống gần kề bên
Ngài, nhưng mà những ai cố gắng sống thật đúng với những nguyên
tắc đã trình bày trong các quyển sách như quyển sách này đều sẽ
ở dưới mắt Ngài. Có thể một người như vậy sẽ được Đức Thầy xem
như là hữu ích và Ngài dùng y làm một vận hà để di chuyển thần
lực. Rất có thể ở một nơi nào đó, Ngài không tìm được một vị
đệ tử chỉ định để truyền
một Thần lực. Trái lại, có thể có một người khác ít tiến hóa
hơn, song có đủ những điều kiện cần thiết. Trong tường hợp này
Đức Thầy quyết dùng y.
Ngài ban rải nhiều thứ
Thần lực rất khác biệt vì nhiều lý do khác nhau; khi thì người
này làm một vận hà thích hợp, khi thì người khác. Khi quan sát
trường hợp của hai vị đệ tử ở gần nhau, người ta nhận thấy rằng
một người luôn luôn được dùng
để chuyển di một thứ Thần lực nào đó và một người kia thì
một thứ khác. Sự di chuyển Thần lực đó thuộc về cõi Trần cũng
như thuộc về cõi Trung Giới, cõi Thượng Giới và cõi Bồ Đề vậy.
Tại cõi Trần, Thần lực tuôn ra nhiều nhất là ở hai bàn tay và hai
bàn chân. Vậy nếu Xác Thân của người được chọn, trong lúc nào đó,
không đủ điều kiện trên phương diện cực kỳ quan trọng về sạch sẽ,
tinh khiết, Đức Thầy không thể dùng y, vì y là người không làm một
vận hà thích hợp được. Đó là đổ nước trong sạch vào một cái
ống dơ bẩn; khi chảy qua đó nước sẽ dơ. Do đó những người gần Đức
Thầy một cách mật thiết phải giữ gìn hết sức kỹ lưỡng những
nguyên tắc về sự hoàn toàn sạch sẽ của Xác Thân. Vậy về điều
này chúng ta hãy giữ sao cho được Ngài bằng lòng, không có chi
đáng trách cứ trong trường hợp mà sự giúp đỡ của chúng ta trở
nên cần thiết.
Còn một điểm nữa chúng ta
cần phải lưu ý; nếu chúng ta muốn làm người hữu dụng thì ta phải
tránh đừng làm cho cơ thể bị biến hình, biến dạng, nhất là ở
bàn chân. Tôi có vài tuần ở trong một đoàn thể kia, nơi đó người
ta có thói quen đi chân không, tôi rất cảm động mà thấy sự biến
dạng và hư vẹo một cách bất thường ở bàn chân của nhiều người
tân tín đồ. Tôi nhận thấy sự tàn tật này gây ra tai hại biết bao
cho năng lực của họ trong việc làm vận hà để Đức Thầy ban rải
Thần lực. Trong những điều kiện bình thường, Thần lực này choán
trọn vẹn thân mình của người đệ tử, rồi túa ra theo mười đầu
ngón tay và mười đầu ngón chân. Nhưng khi những đôi giày trái vệ
sinh làm cho bàn chân trọn đời hư vẹo, thì Đức
Thầy chỉ dùng phân nửa phía trên thân hình của người đệ tử.
Vậy Ngài phải thêm nhọc công vì mỗi lần phải truyền Thần lực,
Ngài phải dựng lên một thứ đê điều hay là một cái hàng rào để
ngăn chận tạm thời gần hoành cách mạc của người đệ tử. Vì lẽ
đó mà tự nhiên Đức Thầy buộc lòng phải dùng những người khác
không bị biến thể như thế.
Bởi vì không có một xác thân hoàn toàn tinh khiết và tráng kiện
thì không thể nào con đảm
đương nổi công việc khó khăn trong khi tập luyện để bước vào Đường
Đạo, con không thể chịu đựng nổi nổ lực cần thiết và tái diễn
mãi.
C. W. L.
–
Trong hoàn cảnh hiện tại sự tập luyện để bước vào Đường Đạo
thật rất gay go. Nếu việc ấy được thúc đẩy không ngừng, nó sẽ là
một căng thẳng liên tục, công việc này chỉ có thể chịu đựng nổi
nếu tất cả những thể của chúng ta, gồm cả Xác Thân, đều ở trong
tình trạng tốt đẹp. Như vậy một sức khoẻ hoàn toàn là điều cần
thiết để tiến bộ nhanh chóng; mọi sự suy nhược đều làm mất thì
giờ. Những vị chăm nom đến sự tiến bộ của một người đệ tử đều
luôn luôn coi chừng hết sức kỹ lưỡng, không cho anh này cố gắng quá
sức. Và các Ngài sẽ không bắt buộc một người nào dưới quyền
lãnh đạo của các Ngài làm một công việc phụ thuộc nào trước khi
biết rằng người ấy có đủ khả năng đảm đương nó với một phương
tiện thích đáng.
Vậy thì thân con phải vâng
theo mạng lịnh của con luôn luôn chớ không phải con ở dưới quyền sai
khiến của nó, Cái Vía của con có nhiều sự ham muốn, đếm tới cả
chục có đầu. Nó muốn thấy con giận dữ, nó muốn nghe con nói
những tiếng nặng nề, nó muốn thấy con ganh ghét, tham lam, thèm
muốn của cải thiên hạ và
ngã lòng rủn chí. Nó muốn
mấy điều đó và còn nhiều việc khác nữa . . ., chẳng phải nó có
ý hại con, song tại nó ưa những sự rung động dữ dội và thay đổi
không ngừng. Nhưng trong mấy việc đó con không muốn việc nào cả,
bởi vậy con phải phân biệt ý muốn của con với ý muốn của Cái
Vía.
A. B.
–
Tôi thấy dường như đa số những người hay suy tư
biết rõ rằng họ không phải là Xác Thân của họ, nhưng mà
những ví dụ của Đức Thầy đưa ra ở đây lại chứng tỏ rằng họ không
ngớt tự đồng hóa với Cái Vía. Đôi khi bạn cũng thốt ra những câu
như: "Tôi giận dữ; tôi nổi cáu". Ngay cả những người không muốn
tưởng mình là những cảm xúc thấp hèn thường cũng lầm lẫn chúng
với những tình cảm cao thượng; chắc chắn họ không nói rằng: "Tôi
ghen ghét" khi họ nhận thấy trong lòng nảy sinh ra tình cảm đó, vì
dù họ có thể tự đồng hóa hoàn toàn với tình cảm của họ, con
người cũng cố gắng che lấp những sự thấp hèn và trong trường hợp
này, họ tưởng rằng tình cảm của họ không phải là sự ghen ghét
mà là tình thương. Họ nghĩ: "Tôi đau khổ vì người nào đó thương
tôi, lại thương một người khác nhiều hơn thương tôi".
Tình thương là một đức
tánh có ảnh hưởng rất xa, thế lực của nó rộng lớn cho đến đổi,
con người sẵn sàng nhờ nó che chở và tìm cách gán cho nó tất cả
những điều hoàn toàn xa lạ
với nó.
Tốt hơn là nên thành thật
xem xét những tình cảm của ta, đừng xem thường những vấn đề quan
trọng ấy và cũng đừng để những lời dịu ngọt phỉnh lừa ta. Trong
trường hợp trên đây, nếu bạn đau khổ, thì đó hoàn toàn
không phải vì bạn thương yêu người bạn của mình, mà vì bạn
không muốn chia sớt vật chiếm hữu của bạn cho ai cả. Một khi nảy
sinh tình cảm đau khổ này, nó đều do tánh ích kỷ
gây nên, nó là "đối lập"
[18]
của tình thương. Về phần bạn, bạn là Chơn Nhơn, nên bạn không thể
cảm thấy mình ganh ghét. Bạn không thể phẫn nộ hay là nổi cáu,
các tánh đó đều là tánh khí thuộc về Cái Vía.
Đức Thầy còn đề cập đến
những thí dụ khác như tánh tham lam, sự ham muốn, ghen ghét và ngã
lòng rủn chí. Những người chí nguyện bước vào Đường Đạo ít nhân
nhượng hai tánh trước hơn là sự ngã lòng. Thường thường người ta
ít đề phòng sự ngã lòng hơn các tánh khác vì họ lầm tưởng chỉ
có một mình họ chịu hậu quả mà thôi. Họ nói rằng: "Nếu tôi cảm
thấy buồn rầu hay thất vọng, thì rốt cuộc đó chỉ là chuyện riêng
của tôi và chỉ quan hệ đến một mình tôi thôi". Nhưng nói như
thế không đúng: Mấy
kẻ khác cũng bị tai hại vậy. Các sinh viên Huyền Bí Học đều biết
rõ điều chi xảy ra. Những làn rung động của sự
ngã lòng truyền đi và cảm nhiễm không những Thể Vía mà còn
Thể Trí của nhiều người nữa. Hậu quả này thường trầm trọng hơn
người ta tưởng, bởi vì trong đám người có thể bị tư tưởng bạn
cảm nhiễm, đa số trình độ tiến hóa còn thấp kém hơn bạn, nhiều
người đang lâm vào tình trạng có thể gây trọng tội. Những độc giả
thường xem sử sách và những bản thống kê các bản án phạm tội
đại hình thì biết rằng nhiều vụ án mạng, nhất là sát nhơn và
tự tử, đều xảy ra sau một thời kỳ vô cùng chán nản. Trước tòa
án, tội nhân thường nói rằng: "Tôi nản chí quá, tôi không thể nào
cưỡng lại nổi". Ở trình độ tiến hóa còn thấp kém, nhiều người
có thể bị cảm nhiễm như thế. Có những người bị tội cấm cố, hay
tử hình nhưng thật ra họ không phải là thủ phạm hoặc họ chỉ tạo
có một phần tội ác do bàn tay của họ gây nên mà thôi. Chúng ta
sống trong một thế giới ít có người hiểu được những luật thầm
kín phi thường này và nếu tòa án chúng ta không xét xử được một
cách hoàn toàn công bằng, thì chính vì không biết khoa Tâm lý học
vỡ lòng vậy.
[19]
Chắc chắn tôi cảm thấy
tất cả những điều này rõ rệt hơn vì chính tôi đã bị đưa đẩy: Khi
thì phấn khởi, khi thì ngã lòng, theo sự dao động của quả lắc
đồng hồ. Ấy là tánh khí chung của nhiều người: hôm nay hạnh phúc
tràn ngập Thế gian, ánh dương quang chiếu rạng, tạo vật xinh tươi,
tất cả đều hân hoan, vui thú. Rồi phản ứng không thể tránh được
lại xảy đến. Một cảm xúc buồn bã mênh mang xâm chiếm tâm hồn bạn,
toàn thể thế giới dường như tối sầm lại. Nếu bạn bình tĩnh tìm
hiểu căn nguyên, thì bạn sẽ thấy những
lý do bên ngoài mà bạn đổ cho sự thay đổi tánh khí của bạn
không đủ để giải thích những hiệu quả quan trọng như thế. Tuy nhiên
tánh khí này cũng mang đến vài sự lợi ích. Thuật nói trước công
chúng của tôi chắc chắn
không có hiệu lực như thế này, nếu tôi không có khả năng bẩm sinh
đó. Tánh khí của nhà diễn giả gồm sự hiểu biết những tình cảm
hết sức đối chọi nhau, nhưng nó cũng giống với các tánh khí khác
là những cái lợi lại kèm theo những cái bất lợi. Chúng ta không
nên nhượng bộ trước những sự biến đổi luân phiên dữ dội của tình
cảm.
Tôi không chắc rằng muốn
thắng được tánh xấu ấy, chỉ cần tự nói rằng: "Tôi không nên cảm
biết mình ngã lòng", nhưng trong
những trường hợp cực đoan người ta cũng có thể thắng thế
khi nhớ rằng mình không được buông xuôi vì những hậu quả thảm khốc
sẽ di hại cho kẻ khác. Cố gắng xua đuổi một tình cảm như thế đó
chưa đủ; phải thay vào đó bằng một tư tưởng can đảm, an tịnh thật
mạnh mẽ và phụ vào đó một tình
cảm vị tha nồng nhiệt
của bạn.
Như Đức Thầy đã chỉ dạy,
Cái Vía không muốn hại ai. Nó hành động như thế, chỉ vì nó được
cấu tạo bằng Tinh chất đang đi xuống và đang tiến hóa nhờ những
sự rung động dữ dội và luôn luôn thay đổi. Sự ham muốn không ngừng
này chứng tỏ rằng Cái Vía có những sự thay đổi mãnh liệt, điều
đó phải giúp sinh viên không tự đồng hóa với Cái Vía và thấy
rằng nó đã tạo ra những tình cảm mà anh không biết lý do, những
tình cảm mà lý trí không tán đồng, những tình cảm tiêu biểu
những sự hoạt động độc lập, riêng
rẽ của Thể Vía. Người ta phải hiểu điều đó và đừng làm
trò chơi cho những tánh khí bất thường ấy. Bạn hãy nghiên cứu
chính bản tánh của Thể Vía bạn. Hãy khám phá cho được những
chuyện bất hảo mà nó đặc biệt ưa thích, rồi bạn từ chối, không
chấp nhận những điều tai hại đó. Quyết định xong, bạn đừng nghĩ
đến chúng nó nữa, đừng
nhấn mạnh chúng nó. Bạn hãy chọn lấy những thái độ đối nghịch
với nó và suy gẫm về những thái độ này suốt ngày. Cái Vía của
bạn muốn không kiên nhẫn ư ? Bạn hãy chú ý vào sự kiên nhẫn; bạn
hãy nghĩ đến đức tánh này trong thời gian tham thiền buổi sáng
của bạn và bạn thực hành nó từ giờ này sang giờ khác. Cái Vía
của bạn lại muốn cho bạn ghen ghét ư ? Bạn hãy nhận biết sự kiện
đó, rồi ngưng ngay ý nghĩ về sự ghen ghét, rồi tập trung tư tưởng
vào tánh vị tha. Bạn hãy áp dụng phương pháp này một cách liên
tục thì sự ghen ghét tự nó tiêu mất. Cái Trí của bạn không thể
dung nạp một lượt hai tình cảm trái
ngược nhau.
Bạn
hãy nhớ rằng mọi sự
khó khăn đều nhắm tạo nên cơ hội tiến bộ cho sinh viên Huyền Bí
Học. Người đệ tử tỏ lòng yêu mến có được công đức gì, khi mà
mọi người chung quanh y đều tử tế, hay tốt lành, khi mà ai nấy đều
ân cần niềm nở với y? Những người tầm thường nhất cũng làm được
như thế. Người chí nguyện
làm đệ tử phải biểu lộ những tình cảm tốt lành khi người ta tỏ
ra xấu xa đối với y, bằng không y có khác chi những người thường? Y
phải nhớ đến điều này trong những lúc khó khăn hay bị cám dỗ.
Người chí nguyên phải lướt tới đối đầu với chúng và xem chúng như
những cơ hội để trả quả. Đối với người đệ tử, phải coi bất cứ
ai hay bất cứ cơ hội thử thách nào đưa đến đều không phải là một
sự cám dỗ, mà đúng là một dịp may vậy. Khi đem những cảm xúc
tốt đẹp đáp ứng lại những tình cảm xấu xa thì người đệ tử
giống như Sư Phụ mình.
Như thế đã biểu lộ được nơi y những đức tánh của Đức Thầy.
Vậy buổi sáng khi tham
thiền bạn hãy suy gẫm những đức tánh mà bạn cần phải có. Chẳng
hạn, nếu bạn hay nóng nảy bạn hãy nghĩ đến đức kiên nhẫn. Rồi
trong ngày bạn gặp một người nóng nảy hoặc khó chịu, thì vì
thói quen, trước tiên bạn đáp lại bằng sự nóng nảy, nhưng khi vừa
phạm lỗi bạn liền nghĩ ngay đến đức kiên nhẫn. Lần sau bạn nghĩ
đến đức kiên nhẫn đúng lúc bạn phạm lỗi. Tập thêm một chút nữa
bạn sẽ nghĩ đến đức kiên nhẫn, trước đó một chút; rồi bạn cảm
thấy nóng giận nhưng bạn không biểu lộ ra; sau cùng bạn không còn
cảm thấy nóng giận nữa. Bước đầu của những giai đoạn ấy đã
chứng tỏ rằng sự tham thiền của bạn khởi sự có hiệu quả. Tôi
biết nhiều người muốn thí nghiệm điều này. Họ kiên nhẫn trong vài
ngày hay vài tuần rồi nói: "Tôi không tham thiền về vấn đề đó
nữa, tôi không thu gặt được một kết quả nào; việc tham thiền của
tôi không có ích lợi gì cho tôi; tôi không tiến bộ". Người này cũng
giống như một người khách bộ hành phải thực hiện một cuộc hành
trình bằng cách đi bộ ba ngày đường, nhưng mới đi được khoảng một
hoặc hai giờ, y ngồi xuống nói rằng: "Đi làm gì? Tôi có tiến bước
đâu". Dưới cõi trần, ai lại không thấy cái tư cách như thế lố bịch
biết bao, mà tư cách kia
cũng giống như vậy. Sự tham thiền tạo ra những kết quả, đó là
cưỡng bách, không khác nào sự đi bộ sẽ đưa bạn đến một quãng
đường, điều này chắc
chắn như thế. Những định luật Khoa học tác động một cách bất
biến, do đó mọi năng lực của bạn tạo ra phải mang lại kết quả.
Nếu bạn chưa thu thập được kết quả tức khắc theo ý muốn, chính
vì cái nguyên tắc đối lập chưa hoàn toàn bị hàng phục, năng lực
của bạn còn bám chắc lấy nó để trung hòa nó, để rồi chinh phục
nó một cách triệt để. Bạn chớ bận tâm đến kết quả. Hãy chú
định tư tưởng của bạn vào đức kiên nhẫn hoặc những đức tánh nào
mà bạn muốn mở mang. Rồi cái kết quả tự nó sẽ đến, khỏi cần ai
trợ giúp.
C. W. L.
–
Tóm lại, với sự luyện tập một ít lâu, không khó gì cho
chúng ta đặng biết rằng chúng ta không phải là Xác Thân, nó
chỉ là cái áo mặc ngoài thôi. Còn Thể Vía - những cảm xúc và
dục vọng của chúng ta - lại khó biết hơn vì dường như nó là
thành phần của bản ngã sâu kín
hơn hết của chúng ta. Mỗi ngày, ở đâu người ta cũng gặp những
người có cảm tưởng rằng họ là những tình cảm, dục vọng của họ.
Ở vài người bị tình cảm, dục vọng choán đầy cả tâm hồn họ cho
đến đổi nếu cố gắng dùng trí tưởng tượng
tách biệt chúng riêng ra, thì họ không còn cái chi cả: trọn
cả con người họ chỉ là dục vọng và cảm xúc thôi. Một người như
thế thật khó tách riêng y ra với Thể Vía của y; nhưng đó là điều
phải thực hiện. Cái Vía luôn luôn thay đổi tánh tình của nó và
sự kiện này giúp con người hiểu rằng nó (Cái Vía) không phải là
Chơn Ngã, cái Bản Ngã thật. Chính là Linh hồn không hề thay đổi;
ước vọng của nó vốn bất di bất dịch - nó muốn tiến hóa để giúp
đỡ Linh Hồn khác theo đuổi con Đường Đạo do các Chơn Sư của chúng
ta đã vạch ra. Vậy thật rõ ràng và chắc chắn rằng Thể Tình Cảm
này không phải là Chơn Ngã.
Sở dĩ Tinh chất Cái Vía
đạt được ít nhiều sự liên tục vì những
hạt nguyên tử trường
tồn thu hút những chất khí cùng một loại với chất khí mà chúng
ta đã có ở kiếp trước để bao bọc chúng nó; bởi thế thật khó mà
thình lình đương đầu với nó và quật ngã nó được. Tuy nhiên, không
phải điều đó không làm được và phương tiện hay
nhất là nhờ sự quan sát kỹ lưỡng để xác định những loại
hoạt động xấu xa nào mà Cái Vía muốn
theo đuổi. Mỗi người đều có những nỗi khó khăn riêng: người
thì tỏ ra nóng nảy, dễ cáu hoặc là ưa đố kỵ, ganh ghét; người
khác lại tham lam. Nhận biết như thế rồi ta phải chuyên tâm khắc
phục tật xấu ấy một cách cương quyết. Giả sử vấn đề ở đây là
tánh nóng giận, nó thường xảy ra bởi do những tình trạng
ghê gớm và những tiếng động là đặc tính của đời sống hiện
đại. Người muốn bỏ tánh nóng giận thì phải cương quyết không nổi
nóng nữa. Lấy nó làm một đề tài tham thiền rất tốt, nhưng đừng
chiến đấu với tật xấu bằng cách chống cự với nó. Điều hay hơn
hết là tham thiền về đức tánh đối lập với nó, nghĩa là đức
kiên nhẫn. Đừng nghĩ đến tánh xấu và việc cần phải đối
phó với nó, vì như thế sẽ tăng cường sức hoạt động của nó.
Nếu bạn cố gắng giúp kẻ
khác bằng tư tưởng của bạn cũng nên theo phương pháp đó. Khi bạn
giúp một người có tánh xấu nói trên đây, thay vì chú trọng đến
tánh nóng giận của y, tội nghiệp cho y - như
thế sẽ tăng cường tánh nóng giận đó - bạn hãy nói rằng:
"Tôi muốn thấy y bình tĩnh và kiên nhẫn". Như vậy tất cả năng lực
tinh thần của bạn giúp cho y được bình tĩnh và kiên nhẫn. Ban đầu,
khi gặp một người không nhẫn nại, chúng ta sẽ nổi nóng, nhưng sau
đó chúng ta nhớ lại rằng: "Chúng ta không muốn làm điều đó". Dù
nhớ muộn như thế cũng tạm được. Lần sau, hay lần thứ hai mươi,
chúng ta sẽ nhớ ngay chứ không phải khi vừa mới phạm lỗi. Trong
giai đoạn thứ ba, ta sẽ nhớ ngay trước khi thốt ra lời phẫn nộ; sự
nóng giận vẫn có, nhưng chúng ta không để nó bộc lộ ra. Tiến thêm
một bước nữa, chúng ta không
còn cảm thấy một sự nóng giận nào. Chúng ta đã hàng phục được
sự nóng giận và chúng ta sẽ không còn bận tâm vì nó nữa, trong
kiếp này, cũng như trong
những kiếp sắp tới.
Muốn chế ngự bản tánh
của Cái Vía, thì điều cần thiết là không có một tình cảm cá
nhân để phiền hà, để giận dỗi. Những tình cảm cao thượng như
thiện cảm và tình thương phải tràn ngập trong lòng chúng ta, chúng
ta không còn tức tối hay bất bình được. Người nào còn những tình
cảm này là còn nghĩ đến mình, chúng ta không có quyền làm thế,
nếu chúng ta đã tự hiến mình cho Đức Thầy. Có thể có những
người trì độn, họ bị mắng mà không biết; sự vô ý thức như thế
không tốt; nhưng khi bạn đã ghi ý muốn nhục mạ rồi thì hãy tỏ ra
khôn ngoan; đừng chú ý đến, cách đó luôn luôn hay nhất. Người ta
nói xấu bạn, điều này không quan trọng mấy. Việc nói xấu luôn đã
xảy ra từ thuở khai thiên lập địa, và ngày nào chúng ta chưa tiến
đến gần quả vị Chơn Tiên thì ngày đó sự nói hành cũng vẫn còn
mãi. Tóm lại, những điều kẻ khác nói không quan trọng; đó là
những làn rung động thoáng qua làm xao xuyến không khí và chỉ có
thế thôi, trừ ra khi nào chúng ta quyết định làm trái ngược lại.
Một người nào đó nói những điều không tốt cho bạn, nếu bạn không
hay thì chẳng có sao cả. Ví như bạn nghe được những lời đó, bạn
đùng đùng nổi giận, bạn
kinh hãi, bạn thất vọng và
còn nhiều phản ứng khác nữa, thì không phải lỗi của kẻ thủ phạm
đầu tiên, mà chính là bạn đã hại bạn. Hãy nhìn sự việc một
cách thật kiên nhẫn và nói rằng: "Tội nghiệp, y không biết chi hơn
cái đó". Bạn hãy giữ lấy thái độ dịu dàng và nhân hậu. Những
điều kẻ khác nói không quan trọng mấy, vì họ luôn luôn hành động
thiếu sự hiểu biết. Bạn hãy nhớ mấy lời này: "Tấm lòng tự biết
những nỗi buồn bực của nó"[20].
Một người kia luôn luôn có những lý lẽ để giải thích, để hành
động hoặc suy tư như họ đã làm. Từ bên ngoài không thể biết tất
cả những lý do của họ, vì bạn chỉ quan sát chúng một cách nông
cạn và thường thường thì sai lạc nhiều lắm. Do đó, ngày nào bạn
chưa lên tới cõi Bồ Đề thì ngày đó bạn nên làm lợi cho họ là
đặt ra nghi vấn hoặc hãy làm hay hơn nữa: đừng gán cho ai những lý
lẽ này hay những lý lẽ nọ. Nếu hành vi nào đó bạn cho là sái
quấy, sự phê phán nhân từ hơn hết là nói rằng: "Tôi sẽ không làm
điều này; theo ý tôi như thế là quấy. Có thể người ấy có những
lý lẽ riêng của y mặc dầu tôi không biết chúng như thế
nào".
Khi một người kia tỏ ra vô
lễ thì lắm khi có điều gì bất thường đã xảy đến cho y và bởi
vậy y không ở trong trạng thái tự nhiên của y nữa, y thấy điều đó
và người đầu tiên nói chuyện với y lại là chính bạn. Thật ra,
không phải y giận bạn; sự mất quân bình của y có lý do khác; có
thể bữa cơm tối của y bị mất ngon. Chúng ta hãy tập lấy đức khoan
dung đối với kẻ khác mà nói rằng: "Tội nghiệp cho bạn ấy, tôi
nghĩ là y luôn luôn không thế nào được hoàn toàn
khả ái và dễ mến như tôi". Chắc chắn sau đó người này sẽ
hối hận về những lời khiếm nhã của y, có lẽ y cũng không nhận
thấy điều gì khác thường do y đã thốt ra. Khi người ta cảm thấy
bị xúc phạm hay phật lòng vì chính họ đã tưởng đến bản ngã,
cái ta của họ. Chính tư tưởng cá nhân này cần phải bị nhổ tận
rễ và ném đi xa. Không bận rộn về bản ngã thì không còn tật đó.
Nếu người này chỉ nghĩ đến tất cả tình thương mà y dành cho
người kia thì tình thương của người kia đối với người thứ
ba có quan hệ gì đối với y đâu. Cái ảo ảnh về bản ngã chia
rẽ là căn nguyên của hầu hết mọi đau khổ.
Người ích kỷ hiện nay đã
lỗi thời, y theo đuổi những hoạt động
hữu ích và cần thiết cho y hồi hai chục ngàn năm trước,
nhưng bây giờ đây chúng không còn hữu ích và cần thiết nữa, người
ích kỷ là người chậm tiến, cổ hủ. Chúng ta có bổn phận phải
theo kịp thời thế. Đời sống của chúng ta, tư tưởng của chúng ta
có mục đích là phải hướng về tương lai mà Đức Chưởng Giáo đã
chuẩn bị cho chúng ta. Vậy ta phải quét sạch tất cả những tư
tưởng lỗi thời này.
Trong khi tìm kiếm những
lỗi lầm của bạn để chủ trị chúng, bạn
đừng để những tư tưởng sai lầm về sự
ăn năn và hối hận lưu
vết tích trong lòng bạn. Bạn hãy nhớ bà vợ của ông Lot
[21]
và đừng nhìn về phía sau; điều đó chẳng có ích lợi gì cả. Sau
khi phạm một lỗi nặng nào đó, bạn có thể nói thật bình tĩnh
rằng: "Dại quá, chẳng bao giờ tôi tái phạm nữa". Người ta nói
rằng ông Talleyrand nói những lời này: "Ai cũng có thể lầm lẫn -
tất cả chúng ta đều lầm lẫn - nhưng mà người phạm lỗi hai lần
một việc là kẻ khờ dại". Một này kia, một vị Chơn Sư có nói
rằng: "Sự hối hận chỉ có chút giá trị là khi nào quyết định
không tái phạm nữa". Bạn cũng nên nhớ câu này nữa: "Kẻ nào không
hề lầm lỗi là kẻ không làm gì cả". Bạn đừng lo lắng về những
gì mà bạn đã làm trong những kiếp trước; tại sao lại bận tâm đến
ngày hôm qua. Cả hai thuộc về qua khứ. Sự hối hận làm mất thì
giờ và năng lực; nó chính là một điều tệ hại, một hình thức
ích kỷ.
Thật dễ cho chúng ta tử
tế và dễ thương với những người cũng đối đãi với chúng ta như
thế đó, nhưng nếu chúng ta đã thực sự tiến hóa, thì chúng ta ban
rải tình thương ra chung quanh, dù cho những
kẻ khác không tỏ lòng thương mến chúng ta cũng vậy. Đấng
Christ đã nói: "Nếu con thương những kẻ yêu con, con đáng được ban
thưởng điều gì? Những kẻ thu thuế kia lại không hành động như thế
sao"[22]?
Ngài còn dạy rằng: "Con hãy thương yêu kẻ nghịch của con và cầu
nguyện cho những người hành hạ con.[23]
Đã đến lúc người đệ tử của Chơn Sư
chứng tỏ mình làm được điều gì, nơi mà y có thể hành động
như Ngài, nơi mà y đáp lại sự nói xấu và ngược đãi bằng những tư
tưởng nhân từ và tình thương, rồi y còn bàu chữa và khoan hồng
đối với sự rồ dại của kẻ nghịch. Thương yêu và tử tế đối với
những người thương yêu và tử
tế với ta vẫn chưa đủ, phải có khả năng ban rải tình thương của
chúng ta thật nhiều cho những kẻ còn ngờ vực, họ không hiểu điều
đó là gì? Người ta nói về Đấng Christ như vầy: "Khi bị nguyền
rủa, Ngài không hề nguyền rủa lại; khi bị hành hạ, Ngài không hề
hăm doạ, mà chỉ phó thác mọi việc cho Đấng xét đoán công bằng"[24].
Tất cả chúng ta cũng bị kẻ khác làm hại, bị đối xử bất công,
bị người ta không hiểu biết mình, không ai nhận
chân giá trị của mình. Nhưng không một ai cần phải bận tâm
về những điều đó, vì Luật Nhân Quả luôn luôn canh chừng để lập
lại trật tự. Đức Chúa Trời nói: "Hãy để cho Ta trả thù. Hãy để
cho Ta phân phát mọi việc, ân đền oán trả"[25].
Chúng ta hãy phó thác mọi việc cho Ngài. Luôn luôn công bằng trả
lại; những điều xấu xa một ngày kia sẽ được kiểu chính[26].
Những người nào ngày nay chưa biết lỗi mình, một ngày kia sẽ biết
và sẽ hối hận. Không có sự bất công nào tồn tại được. Tất cả
mọi sự đã an bài, sẽ được thực hiện
đúng như
đã dự định.
Chính Đức Thượng Đế luôn
luôn treo gương Bác Ái. Nhiều người nói xấu
Ngài; vì không hiểu biết Ngài nên họ đã nhạo báng Ngài.
Ngài không hề trả lời, nhưng tình Bác ái thiêng liêng cứ không ngớt
tuôn ra. Nếu chúng ta muốn biểu hiện sự sống thiêng liêng, chúng ta
phải có một đặc tánh giống như Ngài vậy.
Cái trí của con vui thích với tư tưởng kiêu căng chia rẽ. Nó kiếm
thế tự tôn tự đại và xem thường kẻ khác.
C. W. L.
–
Lại ở đây nữa, đừng lầm lộn ý muốn của Cái Trí với
ý muốn của chúng
ta và nên biết rằng chúng ta không phải là Cái Trí. Chúng ta
có thói quen hay nói: "Tôi nghĩ thế này hay thế khác", nhưng trong
mười lần hết chín lần không phải là chúng ta nghĩ mà chính là
Cái Trí vậy. Nhiều người trong chúng ta cố gắng chủ trị và uốn
nắn tư tưởng của họ theo kỷ luật, nhưng nếu kiểm điểm lại, chúng
ta nhận thấy những tư tưởng đáng gọi thuộc về của ta nghĩa là
của Chơn Nhơn thật hiếm hoi biết bao và những tư tưởng
thuộc về Hạ Trí thì không biết bao nhiêu nữa.
Hạ Trí bay từ vật này
sang vật kia, ghé phớt qua nhiều vấn đề khác nhau, nhưng thường
thường nó không chăm lo chu đáo cái nào cả. Thói quen của nó không
phải là không xem xét tường tận điều gì, mà nó chỉ lướt qua việc
này đến việc khác để có những rung động mới mẻ luôn luôn. Thoáng
nhìn lại phía sau, chắc chắn trong khoảng thời gian rất ngắn ngủi
ta sẽ thấy rằng Trí ta nhớ đến một dọc chuyện này rồi tới
chuyện kia, toàn là vô vị. Chẳng hạn khi đi đường bạn sẽ nhận
thấy nếu chính bạn đặc biệt không suy nghĩ gì cả, thì cái gì mà
tư tưởng không chịu dừng lại: đó chính là Cái Trí của bạn. Nếu
bạn không khép nó vào kỷ luật, nó sẽ duyệt lại hàng loạt ý
niệm vô ích đối với bạn, những ý niệm này vị tất
đã xấu xa, trừ khi chúng nó vốn riêng tư thuộc về cá nhân
ích kỷ. Sự liên tưởng là thói quen của Cái Trí; đôi khi nó chiếm
lấy một tư tưởng đẹp nhất của bạn rồi dẫn đến một việc khác xa
và rất thô tục. Chúng ta phải can thiệp và đổi hẳn tất cả. Tôi
biết rất khó mỗi lúc đều mỗi kiểm soát những sự hoạt động của
Cái Trí, nhưng chúng ta phải thực hiện điều đó, vì Cái Trí là
một sức mạnh vô cùng và hơn nữa nó là thần lực cao nhất ở gần
chúng ta: Nếu ý chí có thể bắt Cái Trí làm một vận hà thì ít
có việc gì mà Cái Trí chúng ta không hoàn thành nổi. Chúng ta có
thể hoạch đắc cái sức mạnh phi thường này, dù chúng ta giàu hay
nghèo, già hay trẻ, và chúng ta có thể làm cho nó thành một dụng
cụ quí báu để phụng sự Đức Thầy, với điều kiện là chúng ta luôn
luôn canh chừng nghiêm nhặt cho tới chừng nào Cái Trí tập được
những thói quen mới khác. Tư tưởng có thể hoàn thành được nhiều
việc, mà những phương tiện khác không thể thành công. Một tư tưởng
thương yêu gởi đến cho một người - mà chúng ta biết y cần được
giúp đỡ - có thể hữu ích cho y hơn là cho y một số tiền; trọn
đời y có thể nhờ ảnh hưởng tốt đẹp đó. Tại cõi Trần này, cái
kết quả có thể không nhìn thấy được, nhưng công việc làm của Đức
Thầy không phải vì thế mà không thành sự
thật.
Tư tưởng hướng về Chơn Sư
thường trực ở phía sau Cái Trí: Cái Trí có thể quay về tư tưởng
này mỗi khi Chơn Nhơn không thực sự suy nghĩ về điều gì bắt buộc
nó phải chú ý; tư tưởng đó phải hết sức rõ rệt. Đối với nhiều
người, tư tưởng về Đức Thầy chỉ là một thứ phúc lạc mơ hồ, một
sự xuất thần nửa vời, một trạng thái hôn mê về đạo giáo; trong
mấy lúc đó họ không thể suy nghĩ thật sự về điều gì cả. Thay vì
đắm mình một cách mơ hồ trong một tư tưởng thiếu chính xác,
chúng ta nên làm cho việc sùng mộ Đức Thầy của mình thành
một hình tư tưởng rõ rệt, chẳng hạn như "Tôi có thể làm gì để
phụng sự Ngài? Tôi dùng mãnh lực tư tưởng của tôi vào mục
đích gì "? Trong quyển
sách này luôn luôn bạn sẽ thấy tác giả nhấn mạnh rằng: Thật ra
chúng ta chỉ có một tư tưởng duy nhất, một ý chí duy nhất, một
phận sự duy nhất mà thôi. Tư tưởng duy nhất đó là phụng sự Đức
Thầy; ý chí duy nhất đó là làm việc cho Ngài; phận sự duy nhất
đó là tận tụy với Ngài và vì thương Ngài mà tận tâm với nhân
loại. Mặc dù những công việc có tính cách hết sức phức tạp đang
chờ đợi chúng ta đi nữa, chúng ta cũng phải đảm đương chúng nó để
phụng sự Ngài và nhân loại. Trong trí Đức Thầy chỉ có một tư
tưởng duy nhất là: phụng sự; nếu chúng ta muốn hiệp nhất với
Ngài, tư tưởng duy nhất đó cũng phải là tư
tưởng của chúng ta. Tư tưởng duy nhất ấy bắt buộc chúng ta
phải đạt cho được khả năng phụng sự, rồi do đó mới có thể tiến
hóa; chẳng phải chúng ta khao khát thành những bậc vĩ nhân, mà vì
chúng ta muốn thành khí cụ tốt.
Nhiều người đang mở trí.
Nhiều nhà bác học luyện trí để mở rộng sự hiểu biết của họ mà
thôi. Đôi khi họ cũng có thể có một ý tưởng phụ thuộc là muốn
được danh tiếng lẫy lừng,
nó là kết quả của một sự phát minh vĩ đại; nhưng tôi không tin
rằng đó là trường hợp của đa số những nhà Khoa học. Thường
thường trong thâm tâm họ đều có ý muốn đem những quan niệm đã
hoạch đắc để giúp ích cho đời, nhưng trong tinh thần Khoa học, lòng
nhiệt thành muốn hiểu biết đã chiếm hàng đầu. Đó là một môi
trường hoạt động tốt đẹp; nhiều tâm hồn cao quí làm việc trong
phạm vi này đã giúp cho nhân loại những công việc lớn lao.
Chúng ta cũng vậy, chúng
ta phải tinh luyện Cái Trí của mình để trở nên nhanh nhẹn, linh
hoạt và hữu ích. Tại sao thế ? Tại sao người thợ mộc mài cái
bào của y? Chẳng phải để cho y có một cái bào sắc bén hơn
cái bào của anh thợ mộc khác, nhưng để bào cây cho láng, để
làm một việc tốt. Đây mới thật đúng vì lý do nào chúng ta phải
tinh luyện Thể Trí. Nhưng hãy luôn luôn nhớ tư
tưởng này: "Tôi đang tạo một khí cụ cho công nghiệp của Đức
Thầy". Lý tưởng này sẽ ngừa được sự kiêu căng của trí thức, nó
giúp chúng ta tránh khỏi nhiều cạm bẫy, vì chắc chắn chúng ta
phải sa vào đó, nếu Cái Trí mở mang quá độ.
Khi con bắt buộc nó không quan tâm đến những việc trần được rồi
thì nó cũng còn cố gắng gom tất cả về cho bản ngã của con. Nó
giục con chú ý đến sự tiến hóa riêng của con, thay vì lo nghĩ đến
việc của Chơn Sư và giúp đỡ
kẻ khác.
A. B.
–
Trong những bài dạy của Đức Thầy, có lẽ điều làm cho tôi
chú ý hơn hết, đó là ý niệm chánh, không thay đổi và luôn luôn
được lập đi lập lại về cái ý tưởng duy nhất. Dường như cái ý
niệm chánh này chiếu ra sự thuần nhất một cách mạnh mẽ cho đến
đỗi người ta cảm thấy rằng Đức Thầy không thể có tư tưởng nào
khác nữa và Ngài nhập vào Đấng Duy Nhất đến độ tư tưởng của
Ngài không thể tách rời ra khỏi Đấng Duy Nhất hay có thể quên Đấng
Duy Nhất, dù Ngài phải lưu ý đến vấn đề gì. Đây cũng là tư tưởng
của người đệ tử. Luôn luôn
nghĩ đến công nghiệp của
Đức Thầy và luôn luôn làm việc cho kẻ khác : ý tưởng duy nhất này
phải vượt lên trên tất cả, bằng không thì chính Cái Trí của bạn
tưởng chớ không phải là bạn. Nhưng nếu tư tưởng đó là của
bạn, thì tất cả tư tưởng khác đều thuộc về bạn. Giả sử trong
lúc tham thiền bạn nghĩ đến một đức tánh nào đó. Bạn tự hỏi,
tại sao bạn muốn có nó? Có phải để được người ta khen ngợi hay
để tiến dần đến sự Điểm Đạo? Hay trái lại, bạn muốn có nó để
trở thành một khí cụ hảo hạng cho công việc của Đức Thầy? Đó là
đá thử vàng để giúp bạn biết có phải là Cái Trí suy nghĩ hay
là chính bạn suy nghĩ.
Có một phương tiện hữu
hiệu là bạn nên chịu một sự thử thách rõ rệt. Giả sử có
một chi tiết trong công việc phụng sự Đức Thầy đòi hỏi những đức
tánh thấp thỏi hơn trong đức tánh đã mở mang (tôi tin rằng trường
hợp này có thể xảy ra, dù theo thường lệ sự hữu dụng của một
người tùy thuộc vào sự tiến hóa của y). Vậy thay vì dùng tài cao
của bạn để hối thúc sự tiến hóa, bạn có bằng lòng gánh vác
việc nhỏ mọn đó và cố gắng hoàn thành nó không? Bạn có bằng
lòng hạ mình để được hữu dụng nhiều hơn không? Được. Nếu bạn
không quên mục đích duy nhất là trợ giúp công việc của Đức Thầy.
Công việc này sẽ đưa đến cho chúng ta tất cả những cơ hội có thể
tinh luyện các Thể Trí hầu làm sao cho chúng trở nên nhanh nhẹn,
linh hoạt và hữu ích. Tuân
theo những ý định này thì những sự tiến bộ của chúng ta sẽ không
có nguy cơ làm cho chúng ta rơi vào tà thuyết của sự chia rẽ. Dưới
thế gian này, chúng ta phải luôn luôn mở mắt ra hầu lợi dụng những
cơ hội mà kẻ khác xao lãng, xem thường. Người đệ tử luôn luôn tìm
những công việc mà kẻ khác không thực hiện để bổ túc những điều
thiếu sót. Một thái độ như thế chứng tỏ rằng sự kiểm soát Cái
Trí đã tiến bộ.
C. W. L.
–
Công nghiệp của Đức Thầy phải chiếm hàng đầu trong tư tưởng của
chúng ta. Nếu chúng ta nhận thấy một tư tưởng, một lý do hoạt
động khác xen vào, thì chính lý do này thuộc về Hạ Trí chớ không
phải thuộc về Chơn Nhơn. Sự khác biệt giữa hai thứ tư tưởng này
rất quan trọng. Thật ra Cái Trí có tính kiêu căng và chia rẽ. Nó
đã xoá bỏ được hết mọi thứ kiêu hãnh đặc biệt của Thế gian ư ?
Thì nó lại làm cho chúng ta kiêu hãnh về sự tiến hóa của chúng
ta, về sự liên lạc giữa chúng ta với Đấng Chơn Sư cao cả, hoặc sự
lợi ích khác tương tợ như thế. Khi chúng ta đã vượt qua được những
nhược điểm này, Cái Trí cố gắng khiến cho chúng ta kiêu căng vì
đã thắng được tánh kiêu căng. Đừng phiền trách tinh chất tế nhị
đó, nó không có ý nghĩ gì về bạn, nó chỉ tìm những thứ rung
động khác lạ cần thiết cho sự tiến hóa của nó mà thôi.
Khi con thiền định, nó cố gắng giục con nghĩ đến những chuyện
khác mà nó cần dùng, chớ không cho con nhớ đến chuyện duy nhất con
đang lo giải quyết. Con không phải là Cái Trí đó, nhưng nó vốn
thuộc về của con để con sử dụng, vậy ở đây sự phân biện rất cần
thiết; con phải giữ chừng luôn luôn, bằng
không con sẽ thất bại.
C. W. L.
–
Bên Ấn Độ, người ta cho rằng Cái Trí là Raja hay là chúa tể của
giác quan, và trong bản thân ta, chính Cái Trí khó trị hơn cả. Về
vấn đề này, chúng ta là người Tây phương, chúng ta ít đồng ý với
người Đông phương, vì chúng ta chuyên lo mở Hạ Trí nên sinh ra kiêu
hãnh về sự nhanh nhẹn của Cái Trí có thể chuyển
từ vấn đề này sang vấn đề khác.
Tuy nhiên nhờ sự cố gắng
bền bỉ, bạn có thể bắt buộc Tinh chất (Cái Trí) này phục tòng
sức mạnh vĩ đại của tập quán. Bạn có thể kềm nó vào trong ngõ
hẹp và làm cho nó hiểu rằng vì bạn là Chơn Nhơn nên bạn không
muốn thay đổi ý định; ý định đó gồm vô số nhánh nhóc, vì tất
cả đều tuyệt nhiên qui về công việc của Đức Thầy. Chẳng bao lâu
Tinh chất kỳ dị và bất kham đó sẽ thấy rằng nó có lợi khi cộng
tác với bạn hơn là chống lại, song nó vẫn không hiểu bạn. Sau
cùng bạn sẽ làm việc với nó trong sự điều hòa, thuận thảo.
CHƯƠNG
THỨ MƯỜI
Khoa pháp môn không hề công nhận sự thỏa thuận giữa việc lành và
việc dữ. Dù với bất cứ giá nào con cũng phải làm việc lành; con
không nên làm việc ác, để mặc tình kẻ dốt nói hoặc nghĩ thế nào
cũng được. Hãy học hỏi cho rộng sâu luật bí ẩn của thiên nhiên;
chừng con biết rồi con hãy tổ chức đời sống của con đúng theo
những luật đó và luôn luôn con phải sử dụng lý trí và lẽ phải.
A. B.
–
Nếu bạn quan sát một cách chân thành thì bạn sẽ thấy đời sống do
những thỏa hiệp mà ra. Con người luôn luôn tránh né điều mà họ
biết là việc lành, họ kinh sợ câu hỏi độc hại hơn hết là: "Người
ta nói thế nào về việc ấy ?" Trong trường hợp nào đó, họ biết
rõ cách giải quyết hay hơn hết, nhưng họ đổi nó ra khác hơn một
chút, họ làm cho nó mất ý nghĩa rồi lùi lại hầu tránh cho mình
những sự khó khăn, phiền phức. Sợ dư luận một phần do tánh yếu
đuối, nhưng thật ra tánh này cũng dễ mến, vì họ muốn làm vui
lòng kẻ khác. Bên Ấn Độ người ta thường có tánh này, nhưng nếu
bạn nhất quyết đi trên Đường Đạo thì bạn đừng bao giờ để cho bạn
chịu ảnh hưởng liên quan đến những nguyên tắc hay những vấn đề quan
trọng như những đại vấn đề Tôn Giáo và xã hội. Ta hãy lấy một
thí dụ về sự cưới gã trẻ con. Lắm khi những việc hôn nhân này
được thực hiện quá sớm. Biết bao lần tôi phản đối trước công
chúng về sự độc ác trong việc bắt một cô gái mới phát triển có
phân nửa, làm mẹ, tôi chống lại hành động này bởi nó nguy hại
đến sinh lực sống lâu của nòi giống. Nhiều người biết điều tai
hại này và công khai nói trắng ra, tuy nhiên họ vẫn phạm vào lỗi
đó, vì nếu họ không làm như vậy thì họ sẽ bị thiên hạ phê bình,
chỉ trích. Người ta không thể làm một nhà Huyền Bí Học với một
thái độ như thế.
Bây giờ chúng ta hãy dẹp
qua một bên những vấn đề căn bản hầu hết liên
quan đến tương lai của một dân tộc, chúng ta hãy xét đến
những vấn đề nhỏ nhặt xảy ra trong đời sống hằng ngày. Ở đây
cũng không nên có sự thỏa hiệp nữa, hãy nhất quyết làm điều nào
mà bạn tưởng là việc lành và giữ vững ý kiến đó. Tôi biết chắc
rằng bạn không thể đạt được lý tưởng ngay tức khắc cũng như người
ta không thể nào bước một bước từ chân núi mà lên tới đỉnh núi
được. Nhưng nếu bạn nhất
định leo lên núi thì phải đi từ bước, mỗi bước đưa bạn đến gần
chót núi. Đừng bao giờ hạ lý tưởng của bạn xuống thấp; không có
chi tai hại bằng điều này. Theo Kinh
Upanishad thì: "Điều thiện là
một việc; thú vui là một việc khác nữa; người minh triết chọn
điều thiện, bỏ thú vui".
Bạn hãy làm thử những
việc nhỏ mọn mà lương tâm của bạn cho là việc phải, việc lành.
Bạn không phải chịu trách nhiệm về điều gì mà lương tâm nói với
kẻ khác, hoặc là cách họ tuân theo nó, nhưng bạn phải chịu trách
nhiệm về cách của bạn tuân theo lương tâm với bất cứ giá nào. Cái
giá đó bạn nên hiểu rõ, nó chỉ bề ngoài. Bạn không thể mất mát
điều gì cả khi mà bạn thực hiện những điều mà bạn xét ra là
điều lành, điều phải. Lẽ tất nhiên, bạn phải cẩn thận để tránh
việc đồng hóa những tánh bất thường, những thành kiến, những thị
hiếu, những sở thích của bạn với điều thiện. Về phương diện này,
Đức Thầy có đưa ra ở đây những lời cảnh cáo như sau: "Con hãy học
hỏi cho rộng sâu những luật bí ẩn của thiên nhiên. Trước hết, con
hãy tìm kiếm điều thiện, rồi thì sống theo những sự
hiểu biết của con".
Cuối đoạn đó, Đức Thầy
còn thêm lời khuyên quan trọng này
". . . con phải luôn luôn sử dụng lý trí và lẽ phải". Luôn
luôn bạn nên quan tâm đến tình cảm của kẻ khác, nhưng đừng bao giờ
để cho nó xen vào giữa bạn và những gì bạn biết là tốt lành.
Nếu bạn phải chọn lựa giữa sự làm mếch lòng kẻ khác và việc
lừa dối lương tâm của mình, thì bạn hãy chọn việc thứ nhất. Trong
sự giao thiệp với người
đời, nhà Huyền Bí Học luôn luôn phân biệt con người thật (Chơn Nhơn)
với thành kiến của các thể khác với nó. Y không làm hại một
người nào, nhưng y thích đụng chạm với những thành kiến của
họ hơn là làm ác. Tuy nhiên y sẽ không đụng chạm đến những thành
kiến đó, nếu không cần thiết. Nhưng nếu bị bắt buộc, y cũng biết
rằng thật ra người đó được giúp đỡ, chớ chẳng bị thiệt hại gì
và chính y là khí cụ được dùng để phá vỡ một sự hạn chế; sự
hạn chế này là một chướng ngại cho người đó. Dù trong trường hợp
ấy, y vẫn hành động một cách êm ái, dịu dàng và vị nễ. Thường
thường người ta cho điều đó là gay go, bất tiện. Nhưng rất khó mà
hoàn thành một việc trong
sự yên tịnh và ánh sáng của lẽ phải; sự cảm xúc mạnh mẽ giúp
cho sự thành công được dễ dàng. Sự cảm xúc dù tốt hay xấu cũng
truyền đạt một sự kích thích lôi cuốn con người hoạt động mà
không cần cố gắng nữa. Nếu bạn muốn trở nên một nhà Huyền Bí
Học thì đừng để bị kích động như người thường. Bạn phải mở mang
lý trí lẫn sự phân biện và trong sự cố gắng đó, bạn
bắt đầu biểu hiện Bồ
Đề Tâm một cách vô ý thức.
C. W. L.
–
Con người thường có lắm thành kiến và họ lại đồng hóa chúng với
điều thiện. Mỗi người đều được đào luyện một cách riêng biệt, họ
không ngờ vực những điều họ đã học hỏi nên họ tưởng rằng những
người không theo phương pháp riêng của họ đều lầm lẫn, nhất là
phương pháp đó được đa số người noi theo. Thường thường những thành
kiến của quần chúng rất phi lý. Vậy chúng ta không nên để chúng
nó ảnh hưởng đến mình trong vấn đề thiện ác. Tôi không nói rằng
trong thành kiến của quần chúng thường không có vài yếu tố hữu
lý, nếu ta xét kỹ, nhưng chắc yếu tố đó không phải lý lẽ của
quần chúng trưng ra mà là một lý lẽ khác. Mảnh Chân lý đó thường
bị biến dạng, bị áp dụng sai vì bởi bị lớp màn dày đặc của sự
lầm lạc bao bọc nó.
Nhà Huyền Bí Học không bao
giờ để bị bắt buộc làm việc sai
quấy vì sợ đụng chạm với những thành kiến của kẻ khác;
trái lại, y cũng không hề công kích chúng nó một cách vô ích. Lý
trí và lẽ phải luôn luôn được sử dụng để xét đoán. Một công việc
yêu cầu bạn cố gắng, vì bạn biết rằng nó hữu ích và quan trọng.
Tốt lắm, nhưng đừng vào thẳng vấn đề như con bò lao mình vào hàng
rào. Có thể con bò chạy thoát ra khỏi, nhưng không phải là không
có sự thiệt hại cho nó và cho hàng rào. Trong mọi hành động của
chúng ta, chúng ta phải giữ thái độ bình tĩnh và hợp lý. Nếu
chúng ta xúc động và nóng giận, thì chúng ta sẽ làm cho một lượn
sóng cảm xúc nổi dậy, nó gây trở ngại cho chúng ta. Rất khó mà
hành động một cách dịu dàng và bình tĩnh, không tỏ ra thù địch
đối phương, song đó hiển nhiên là cách xử sự tốt đẹp.
Đừng để dễ bị kích thích
như nhiều người khác. Họ không chịu nổi điều này hay điều khác;
họ không chịu hiểu và không muốn nhọc công tìm hiểu; họ xông tới
và cũng không nghĩ rằng họ có thể lầm đường. Nhưng chúng ta phải
nghĩ đến kẻ khác, phải quan tâm đến tình cảm của họ và sau cùng
chúng ta có thể chấp nhận rằng trong một trường hợp đặc biệt, họ
có lý, còn chúng ta sai quấy, lỗi lầm.
Phải phân biệt việc trọng hệ với việc không trọng hệ. Đối với
việc lành và việc dữ thì lòng con phải cứng cỏi như sắt đá, còn
những việc ít trọng hệ thì khá nhân nhượng cho kẻ khác luôn luôn.
Bởi vì bao giờ con cũng phải ở cho tử tế, dễ thương, biết điều,
hòa nhã và để cho thiên hạ có quyền tự do bằng quyền tự do mà
con yêu cầu cho con vậy.
A. B.
–
Đây là đoạn văn rất dịu dàng và thật đẹp. Nó làm quân bình đoạn
văn trước, vì nếu tách biệt riêng ra, đoạn trên có hơi cứng rắn.
Vậy những điều mà người ta thường tha thiết nhất, chính là những
điều không quan trọng gì, nhà Huyền Bí Học thường
không làm nghịch với họ, không cản trở họ. Đối với y, điều
quan trọng là một công việc nào đó phải hoàn thành. Y chú định ý
chí của mình vào mục đích chính mà chỉ có nó mới được xem là
quan trọng, ngoài ra cái gì còn lại, y để cho mọi người được tự
do. vì y hòa nhã, dễ dãi với mấy điều đó, nên người ta cho rằng y
là người đệ tử khả ái. Dần dần y dắt họ đến chỗ trọng hệ dễ
dàng mà họ không mấy ngờ vực điều đó. Người đời cho đức tánh ấy
là sự khéo léo, lịch thiệp, còn nhà Huyền Bí Học gọi là Đức
Phân Biện.
Người cuồng tín không biết
đức tánh này nên y thất bại mãi,
trong khi nhà Huyền Bí Học lại luôn luôn thành công. Vì không
phân biệt được việc nào trong hệ với việc nào không trọng hệ nên
người cuồng tín không chịu nhân nhượng ngay cả những việc không ra
gì. Y làm cho những kẻ đối thoại với y bực tức nên họ không chịu
theo y tuy rằng y có lý và mặc dù mục tiêu chính của y thực sự
là quan trọng. Nếu bạn khéo léo, họ có thể ngoan ngoãn theo bạn
cũng như con mèo ngao ngao. Bữa kia tôi quan sát một sự kiện nhỏ
này. Một người đàn ông cố gắng kéo con bò đi tới, tự nhiên con
vật quị bốn chân xuống đất, giỏng đuôi lên và hết sức trì lại.
Nếu người này khôn ngoan, y thôi kéo; con vật cũng không còn trì
lại, rồi y vuốt ve nó và nói vài câu khích lệ nó, y sẽ làm cho
nó ngoan ngoãn theo y. Đây là một bài học quí báu cần phải lãnh
hội. Nếu những kẻ khác không chịu làm theo như ý bạn, thì bạn
hãy tìm nguyên nhân ở nơi bạn. Thường thường bạn sẽ nhận thấy
rằng chính thái độ của bạn làm cho kẻ khác nghịch với bạn. Cách
tôi hành động như vầy. Trong chỗ kia, những hành động của tôi đưa
đến những sự đụng chạm, những sự xích mích và những sự khó
khăn, tôi thong thả suy nghĩ về điều đó để khám phá ra vì đâu tôi
đã gây ra lý sự, rồi tôi cố gắng tìm một phương pháp khác. Phương
pháp này có hiệu quả hơn là bắt kẻ khác đi theo con đường của
bạn. Chắc là bạn có thể ép buộc họ đến một mức độ nào đó,
nhưng theo nguyên tắc thì làm như thế không tốt và trên thực tế sự
chống đối và khó khăn sẽ vì đó mà sinh ra. Điều này chứng tỏ
thiếu hẳn đức tính của nhà lãnh đạo, một năng lực, mà Đức Thầy
muốn chúng ta phải có trong tương lai. Các Ngài mong mỏi chúng
ta biết cách dìu dắt kẻ khác, chớ không phải dùng sức mạnh
lôi kéo họ.
C. W. L.
–
Trong khoảng bảy trăm năm nữa, nhiều người trong chúng ta sẽ có dịp
hoạt động cho sự phát triển của Giống Dân Chính Thứ Sáu. Trong khi
chờ đợi, chúng ta có nhiều việc phải làm để chuẩn bị cho nhân
loại đón tiếp Đức Chưởng Giáo lâm phàm. Khi Ngài đến, vài người
trong chúng ta còn sống và chúng ta sẽ làm việc dưới sự chỉ huy
của Ngài. Do đó, chúng ta
phải có những đức tánh của nhà lãnh đạo, mà trước hết thì nhà
lãnh đạo cần phải khéo léo.
Nhà Huyền Bí Học không hề
bỏ dở một nhiệm vụ quan trọng nào, luôn luôn chung cuộc y sẽ thành
công, mặc dù y có thể thất bại hay tạm thời rút lui. Cuộc cách
mạng Pháp cho chúng ta một
bằng chứng. Những người chủ trương giải phóng cho nước Pháp
không thể kiềm chế nổi cuồng vọng của nhân dân; sự tàn sát
và tội ác tràn lan. Ngôi sao lặn trong máu huyết một thời gian.
Bạn đừng tưởng rằng các
Đấng Cao Cả tán đồng những hành vi phi lý, sự hăng say tàn sát,
sự đê tiện và độc ác không thể tả, sự phản bội, sự
khủng bố, tóm lại là tất cả những sự ghê tởm cùng tột
trong một thời kỳ khủng khiếp này. Quyền hành lọt vào tay một
đám dân đen quá điên tiết bởi sự chuyên chế, áp bức đê tiện và họ
tỏ ra thấp kém hơn loài thú vật. Bạn đừng bao giờ tưởng tượng
rằng các Ngài đang làm việc cho nền văn minh lại tán thành sự tàn
ác lạ thường đó. Tuy nhiên, về sau, các Ngài thành công do một
phương sách khác. Ngày nay nước Pháp và nhiều nước khác đều có
được sự hoàn toàn tự do nhờ dân tộc của họ đã tranh đấu. Tất cả
những cuộc cải cách vĩ đại do các Ngài khởi xướng, tất cả những
công nghiệp khác do các Ngài đảm trách đều diễn tiến như thế. Dù
sự thắng lợi không luôn luôn
đến tức khắc, nhưng sau cùng tất cả đều hoàn thành.
Chính chúng ta phải thực
hiện điều này; đừng bao giờ tự cho mình đã thất bại và lúc nào
cũng cứ thi hành bổn phận. Nhưng
muốn có kết quả tốt, chúng ta phải đạt được nghệ thuật
giúp đỡ kẻ khác một cách khéo léo. Nhiều người thật ưu tú, muốn
sai khiến thiên hạ một cách nghiêm khắc, nhưng đó không phải là
phương sách hay. Phải chỉ cho kẻ khác biết hạnh phúc, sự vui vẻ,
sự vinh quang của tương lai của nhân loại và công nghiệp mà các Đức
Thầy thực hiện; như thế, họ sẽ theo
chúng ta. Nếu bạn
không thỏa thuận với vài người thì bạn hãy tìm kiếm lỗi của
bạn. Bạn đừng bận tâm về những khuyết điểm của họ, dù chúng có
nhiều đi nữa, mà bạn hãy tìm nơi bạn điều gì ngăn cản không cho
bạn phù hợp với họ. Xem xét khá kỹ lưỡng có lẽ bạn sẽ khám
phá ra vài điểm nào đó.
Hãy tìm kiếm coi việc nào đáng làm và con phải nhớ rằng không nên
xét đoán những sự việc theo giá trị bề ngoài của chúng. Thà làm
một việc nhỏ mọn mà hữu ích liền cho công việc của Chơn Sư còn
hay hơn làm một công việc lớn lao mà thế gian gọi là tốt. Chẳng
phải phân biệt cái nào hữu ích với cái nào vô ích là đủ, mà
còn phải biết điều nào hữu ích nhiều với điều nào hữu ích ít.
A. B.
–
Như tôi đã nói, những việc nào thực sự đáng làm thường ít ai lo.
Người ta lại chú ý đến những việc không ra gì. Vậy người đệ tử
có bổn phận tập phân biện để khỏi mất thì giờ khi muốn làm tất
cả những việc vô ích, chúng chiếm hết thì giờ của
người thế gian.
Bây giờ đến một điểm tế
nhị hơn: đừng xét đoán một việc theo tính cách
trọng đại của nó. Về phương diện nhân sinh, những hành vi
của nhà chính trị, có thể rất vĩ đại, nhưng theo quan điểm Đức
Thầy, chúng chẳng quan trọng gì, mà chỉ là hạt bụi trên bánh xe.
Một việc nhỏ mọn kia do một
kẻ vô danh thực hiện có thể vô cùng vĩ đại hơn, nếu nó hoàn
thành phù hợp với công việc của Đức Thầy.
Rồi đến sự
phân biệt còn tế nhị
hơn nữa: là mức độ hữu ích. Bạn không thể làm tất cả công việc,
bạn phải hoàn thành việc
nào mà theo ý bạn nó giúp ích Đức Thầy của bạn nhiều hơn hết.
Những gì giúp ích
nhân loại là phụng sự Đức Thầy, nhưng thì
giờ và năng lực của bạn có hạn, khi bạn có quyền lựa chọn
thì hãy chọn việc hữu ích nhiều hơn cả. Đức Thầy đã đưa ra một
gương kiểu mẫu khi Ngài nói về sự
nuôi dưỡng Linh Hồn
của con người hơn là nuôi dưỡng thân
xác. Giúp đỡ Linh Hồn tức là bạn diệt tận
gốc rễ của mọi đau
khổ ở Trần gian, vì nguồn gốc của chúng nó là sự vô minh và ích
kỷ.
Nuôi kẻ nghèo là một việc tốt đẹp, cao quí và hữu ích. Nhưng mà
nuôi linh hồn những người đó
lại còn cao quí và hữu ích hơn nữa. Người nào giàu cũng nuôi xác
thân được cả, duy có người hiểu biết mới nuôi được linh hồn mà
thôi.
C. W. L.
–
Đôi khi người ta trách Hội Thông Thiên Học không
lo những công việc phước thiện, nhân đạo, như việc phát thực
phẩm và quần áo cho người nghèo. Vài Chi Bộ của chúng ta đã hoạt
động nhiều về mặt này, nhưng đó không phải là công việc
chánh của họ. Người giàu có và nhân từ nào cũng có thể
bố thí, nhưng nhiều việc
chỉ có người hiểu biết mới làm được mà thôi. Có lẽ người ta sẽ
cho rằng chúng ta không được khiêm tốn khi tự cho mình là "những
người hiểu biết", nhưng thật ra chúng ta không hề tự hào về việc
đó. Người ta cũng dễ thấy một nhóm người trung hậu, nhân từ không
hề biết đến Thông Thiên Học, song trình độ trí thức của họ cao hơn
phần đông chúng ta rất xa. Sở dĩ chúng ta đã nghiên cứu những vấn
đề này vì nhân quả đặt để như thế; chúng ta biết nhiều hơn họ vì
họ không tham cứu chúng nó sâu xa. Nhiều
người rất thông minh, có linh tính sùng đạo, nếu họ biết
cách điều khiển tinh lực như
chúng ta, họ sẽ tiến bộ nhanh chóng. Rồi có lẽ họ sẽ tiến hơn
chúng ta; riêng về phần chúng ta, chúng ta sẽ hoan nghinh họ, chúng
ta vui mừng vì sự tiến bộ của họ, bởi vì trên Đường Đạo không hề
có sự ganh tị và mỗi người đều tán thưởng sự tiến bộ của bạn
mình.
Trong khi chờ đợi, những
sự hiểu biết về Thông Thiên Học là
một tài năng lớn
lao để cho chúng ta biểu dương. Nếu chúng ta không truyền bá
những kiến thức đó cho kẻ khác được hiểu biết, chúng ta giữ riêng
để thụ hưởng tất cả; như việc giải thoát những
nỗi lo lắng, khổ đau, hiểu biết
những vấn
đề khó khăn, thì chúng
ta lại bắt chước người đàn ông trong Thánh Kinh Cơ Đốc, y vùi
lấp tài năng y. Nhưng nếu chúng ta hết sức ban rải ánh sáng
mà chúng ra đã thụ lãnh và giúp đỡ mọi người bằng tất cả những
phương tiện, như thế ít ra
chúng ta mới chứng tỏ được tài năng của mình. "Người hiểu biết"
có thể lấy sự hiểu biết của y để nuôi
dưỡng Linh Hồn của
những kẻ nghèo cũng như những kẻ giàu: đó là công việc thực tế,
như việc nuôi dưỡng xác thân trên phương diện vật chất vậy. Đâu là
nguyên nhân của tất cả những sự khốn cùng, đau khổ trên Thế gian
này? Chính là sự vô minh và ích kỷ vậy. Nếu chúng ta chống lại
sự vô minh và tánh ích kỷ bằng cách
trình bày cho kẻ khác hiểu biết những luật của đời sống
và chỉ cho họ thấy tại sao
họ cần phải vị tha, thì
chúng ta đã làm nhiều lắm rồi, đặng bảo đảm sự tiện
nghi và hạnh phúc cho con người trên
cõi Thế gian này, dù cho trên phương diện vật chất, chúng ta
không thể làm được việc đó, bằng cách phân phát lương thực cho họ.
Không ai lại nghĩ rằng điều đó chẳng phải một việc tốt đẹp, cần
thiết và không nên làm. Những nhu cầu hiện nay đòi hỏi
những sự cố gắng của chúng ta, nhưng mà sự
tiêu hủy hết nguyên nhân của mọi sự đau khổ còn là một công
việc lớn lao hơn nữa. Chúng ta phải làm những gì mà những người
chỉ giúp đồng bào họ tại cõi Trần không thể làm được.
Ở mọi thời kỳ mà sự
minh triết và sự hiểu biết có những tiếng nói về vấn
đề này, thì những người hiểu biết được miễn làm những
nhiệm vụ khác để có thời giờ truyền giáo. Nếu bạn có đọc về
những Công Vụ của các sứ đồ Thiên Chúa giáo bạn sẽ thấy rằng
trong nhà thờ Thiên Chúa giáo thuở xưa, tài sản đều là cộng
đồng (của chung) và trong
lúc phân phối lương thực mà gặp điều khó khăn, thì các tín đồ
thường xin các nhà truyền giáo giải quyết những cuộc tranh
tụng và chia phần ăn cho họ. Những vị sứ đồ trả lời rằng:
"Chẳng lẽ chúng tôi bỏ lời Chúa để dọn bàn "[27],
rồi các Ngài nói với các vị Cơ Đốc
khác nên chỉ định trong nhóm những
kẻ đảm nhiệm công việc đó và sự quyết định của họ sẽ
là qui luật, chớ không nên mong chờ ở những nhà sứ đồ việc
lo lắng về phương diện hoàn toàn vật chất của đời sống vì sứ
mạng của các Ngài là trình
bày giáo lý. Lo lắng về mặt vật chất không phải là
điều nên xao lãng,
nhưng mà những kẻ hữu
trách có biệt tài phải
được chỉ định về công việc đó, vì họ không thể dạy dỗ được.
A. B.
–
Vì là Hội viên Thông Thiên Học, chúng ta có những sự hiểu biết mà
người ngoài đời không có. Vậy sự truyền bá Thông Thiên học là bổn
phận duy nhất của chúng ta. Những người trong chúng ta chưa sẵn
sàng làm nhiệm vụ đó như diễn thuyết, viết sách vở hoặc truyền
bá giáo lý bằng những cách nào khác, thì
trong khi chuẩn bị nên làm những công việc thuộc loại khác.
Đối với
những người không thể
truyền giáo, tôi có lập một ban Phụng Sự. Người tân Hội viên
nào cũng có thể hoạt động trong đó, chỉ có
một điều cấm kỵ đối với Hội viên là sự ăn không ngồi rồi.
Mọi người đều phải tích
cực tham gia vào công việc
của Đức Thầy.
C. W.
L.
–
Người ta không thể tưởng tượng được có bao nhiêu người đã đến hay
là đi đến gần tới mức mà họ có thể tiến bộ một cách nhanh
chóng, nếu có thể giải điều đó cho họ hiểu. Tôi để ý thấy điều
đó, trước hết là trong giới trẻ em, vì tôi đặc biệt chăm nom họ.
Tôi thấy hầu hết trong mọi
xứ nhiều bạn thanh niên nam
nữ có thể tiến bộ khả quan về Thông Thiên Học nếu người ta giảng
giải rành rẽ giáo lý cho họ hiểu. Nhưng vì không phải là trường
hợp đó, họ đem hết sức mình lo lắng cho những sự hoạt động ngoài
đời và trở thành những người thật nhân từ, dũng cảm thường tình.
Họ có thể tiếp tục như thế trong hai, ba mươi kiếp hoặc hơn nữa,
mặc dù họ
có thể học hỏi giáo lý Thông Thiên Học và có thiện cảm
với nó nếu giáo lý này được trình bày cho họ một cách rành rẽ.
Đó là sự biểu hiện cái trách nhiệm nặng nề của
những người đã hiểu biết giáo lý Thông Thiên Học. Vậy chúng
ta phải có khả năng và chuẩn bị để
truyền bá Thông Thiên Học, mỗi khi có cơ hội thuận tiện đưa
đến. Nhiều người có thể bắt đầu mở mang sự học hỏi Thông Thiên
Học ngay bây giờ cũng như trong hai mươi kiếp tới. Đành rằng, đó
cũng là vấn đề Nhân Quả của họ,
nhưng chính Nhân quả của chúng ta là tạo ra một cơ hội để
trình bày giáo lý Thông Thiên Học cho họ, còn họ có chấp nhận hay
không là việc riêng của họ. Ngày nào mà chúng ta chưa làm hết sức
mình thì ngày đó chúng ta không thể biết được Nhân Quả của họ có
cho phép họ được trợ giúp hay không.
Nếu con hiểu biết rồi, thì bổn phận của con là phải giúp kẻ
khác giác ngộ. Nhưng dù con có khôn ngoan thế mấy đi nữa, con cũng
còn nhiều điều phải học hỏi trên Đường Đạo. Ở đây cũng còn thiếu
chi điều con phải học hỏi. Vậy con hãy phân
biện và chọn lựa thật kỹ càng cái nào đáng ra công học
hỏi. Sự hiểu biết nào cũng
hữu ích và một ngày kia con sẽ hiểu biết tất cả. Mà khi nào con
biết được có một phần thì con phải giữ gìn sao cho phần đó hữu
ích hơn hết. Đức Thượng Đế vốn minh triết và Ngài cũng rất từ
bi; hễ con được minh triết nhiều chừng nào thì
do con, Ngài càng dễ biểu hiện nhiều chứng nấy. Vậy thì
con phải học hỏi, nhưng trước hết con nên học hỏi điều nào
giúp con hữu ích cho thiên hạ nhiều hơn hết.
C. W. L.
–
Ở đây Đức Thầy khuyên nên học hỏi, nhưng Ngài nói với đệ tử Ngài
phải biết chọn lựa điều nào giúp mình đặng mình giúp đỡ lại kẻ
khác. Tôi tưởng lời khuyên này có nghĩa là trước nhất phải cố
gắng hiểu Thông Thiên Học cho thấu đáo, ngoài ra còn phải có kiến
thức và giáo dục hiện đại của con người trí thức. Tôi biết trong
Hội Thông Thiên Học có nhiều Hội viên không có học thức vì nhiều
lý do khác nhau, nhưng họ rất đúng đắn và rất tận tâm. Họ nói
rằng: "Tại sao chúng ta phải chịu những sự phiền toái của giáo
dục? Chúng ta muốn đi đến chỗ thâm sâu của Chân lý này và trình
bày rành rẽ chúng nó ".
Đúng thế, nhưng mà những người thiếu giáo dục chắc chắn sẽ trình
bày giáo lý ấy dưới một hình thức không phù hợp với những người
có giáo dục và có kiến thức về văn hóa, nên làm cho họ dang ra xa
chúng ta và tránh xa chúng
ta. Tôi nghe nói rằng một người có trực giác đứng trước một vấn
đề trình bày vụng về, y sẽ vượt qua hình thức để nhận lấy Chân
lý ẩn tàng bên trong. Nhưng rủi thay! Không phải mọi người đều có
trực giác và chúng ta không
có quyền nhượng bộ tánh lười biếng của chúng ta để tạo
thêm một chướng ngại cho người nào có
thể ưa thích vấn đề đó: chúng ta có bổn
phận phải trình bày Chân lý hết sức rành mạch.
Con phải kiên tâm chăm chú vào sự học hỏi của con, không phải để
cho kẻ khác tưởng là con khôn ngoan, mà cũng không phải cốt để
hưởng hạnh phúc của sự khôn ngoan, nhưng chỉ vì người khôn ngoan
mới có thể giúp đời một cách khôn khéo. Dù con có chí lớn muốn
giúp đỡ thế mấy đi nữa, nếu con dốt nát thì chắc là con làm hại
đời nhiều hơn là làm lợi.
A. B.
–
Đó là lời khuyên bảo đặc biệt đối với các Hội viên còn
trẻ của chúng ta. Tôi thường gặp nhiều học sinh Trung Học
trẻ tuổi khi tiếp thu được tinh thần mới thì tỏ ra tha thiết muốn
giúp đời và lắm khi muốn thôi học. Họ hỏi: "Sự học này có ích
gì cho chúng tôi”? Trong những trường hợp như thế tôi luôn luôn cho
lời khuyên này: "Em nên tiếp tục học hành, và thành một người trí
thức. Có thể trong những môn học của em có nhiều thứ không quan
trọng mấy, nhưng sự đào luyện trí tuệ là công việc cực kỳ quan
trọng. Đó là điều lợi ích của việc học hành của em, nó sẽ làm
cho Cái Trí em biết suy luận hợp lý và xác đáng. Nếu em không tự
khép mình vào kỷ luật tinh thần đó, sau này công việc của em sẽ
bị trở ngại ".
Chỉ biết giáo lý Thông
Thiên Học thôi thì chưa đủ
đâu. Nếu bạn muốn giúp người khác hiểu biết, bạn phải rèn luyện
trí tuệ để có thể trình bày những Chân lý đó một cách đúng
đắn. Cách trình bày vấn đề của một người phản ảnh ngay sự thiếu
giáo dục của y. Trong những môn của tôi học hỏi trước kia, chỉ có
môn khoa học làm cho tôi đẹp ý hơn hết. Trước hết nó đã giúp tôi
trình bày mọi vấn đề một cách có mạch lạc và hợp lý khiến cho
những thính giả có học thức và có giáo dục chịu nghe tôi. Kế đó
nó đã cung cấp cho tôi nhiều tỷ dụ làm cho thính giả có cảm
tưởng tốt, bởi vì chúng được trích ra từ những đề tài rất dễ
tìm bằng chứng.
Những bậc niên trưởng trong
chúng ta có thể giúp rất nhiều các bạn trẻ tiếp xúc với Ngài;
tránh việc làm nguội lạnh
lòng nhiệt thành của họ, các Ngài giải thích một cách khôn khéo
và tử tế sự quan trọng của việc đạt cho được cái điều
Thế gian gọi là sự
giáo dục. Khi hoạch đắc được những Chân lý cao siêu thì người ta
có hơi xem thường những sự học hỏi ở bậc thấp này. Vì vậy cho
nên Đức Thầy mới nói với người đệ tử trẻ tuổi và việc mở mang
trí thức còn lâu lắm mới
được hoàn toàn như sau: "Con phải kiên tâm
chăm chú vào sự học hỏi của con ".
C.
W. L.
– Lịch sử đã chứng thật cả trăm lần rằng
lời khuyên này là đúng. Nhiều người tử tế, có rất nhiều hảo ý
lại phạm những lỗi lầm rất đau thương, khiến cho hành vi của họ,
dù cho lý do nào, cũng gây ra những tai hại nhiều hơn một sự tấn
công ở bên ngoài. Công việc của Thông Thiên
Học lắm khi bị tổn thương vì những sự trình bày sai lạc và
cẩu thả. Chúng ta không muốn cho thiên hạ nói xấu Thông Thiên Học
vì những lỗi lầm hoặc những khuyết điểm riêng của chúng ta. Nếu
người ta giao cho bạn một công việc nào của Hội mà bạn tỏ ra bất
tài, làm không xong thì hãy làm lại và cố gắng hoàn thành công
việc ấy. Người ta bảo bạn
đọc một bài chăng, nếu bạn tỏ ra bất lực, thì hãy tập đọc cho
suôn sẻ. Nếu bạn không biết
viết một bài diễn văn thì chẳng bao lâu bạn sẽ thành công khi bạn
có đầy đủ kiến thức và chịu khó sắp đặt
đề tài. Trong mọi trường hợp bạn cũng
nên chọn một công việc
và cố gắng làm cho xong xuôi. Vì
là nhà Thông Thiên Học, chúng ta
có bổn phận phải
biết văn phạm và biết cách
nói cho đúng mẹo luật, như vậy chúng ta mới có thể trình bày Chân
lý này một cách hấp dẫn cho những người mà chúng ta muốn giúp
đỡ. Tất cả những Chân lý dù là Chân lý cao siêu nhất, cũng có
thể bị lu mờ bởi một lối trình bày vụng về và sai lệch. Về
phương diện này, chúng ta có bổn phận phải làm hết sức mình. Sự
giáo dục rất cần thiết cho
chúng ta nếu chúng ta muốn trình bày những Chân lý này đúng với
bản tính của chúng.
CHƯƠNG THỨ MƯỜI MỘT
Phải biết phân biện điều chơn với điều giả, phải tập sao cho hết
sức đúng đắn trong tư tưởng, trong lời nói và trong việc làm.
A. B.
–
Chúng ta có thể tự hỏi, nếu chúng ta không noi theo tư
tưởng của Đức Thầy, cũng như lời nói của Ngài, thì tại sao
ở đây lại có lời khuyên bảo này. Sự phân biệt giữa điều chơn và
điều giả chẳng phải đến đầu tiên hay sao? Nếu Đức Thầy chỉ đề
cập đến điều đó ở đây mà thôi là chính vì việc đạt được sự ngay
thật hoàn toàn rất khó. Ngài nói phải tuyệt đối ngay thật và
rất khó mà ngay thật hoàn toàn trong tư tưởng, trong lời nói và
trong việc làm. Như bạn đã chú ý đến điều này, chính là tư tưởng
được kể trước nhất; theo thứ tự Huyền Bí Học, thì tư tưởng đứng
đầu, rồi mới đến lời nói và việc làm. Đức Thế Tôn, Đức Phật
của chúng ta cũng theo thứ tự đó, khi Ngài nói: Chánh tư duy,
chánh ngữ và chánh nghiệp.
Trước nhất là trong tư tưởng. Việc này không phải dễ, vì trong đời
có biết bao nhiêu tư tưởng lầm lạc, có biết bao nhiêu sự dị đoan
phi lý, hễ người nào để cho chúng chi phối thì không bao giờ tiến
bộ được.
C. W. L.
–
Chúng ta tưởng rằng trong Thông Thiên Học; chúng ta đã xóa bỏ hẳn
được sự dị đoan. Tôi không dám chắc là luôn luôn đúng như thế. Tôi
thấy hình như một sự dị đoan về Thông Thiên Học vẫn có thể phát
sinh. Ai tin một điều nào đó "bởi vì nó ở trong Thánh Kinh Cơ Đốc
(Bible)" chắc chắn là y mê tín, vì sự tin tưởng của y không có một
nền tảng thích đáng. Mà khi nói rằng: "Chính Bà Blavatsky đã nói
như thế" hoặc "Cái đó có
ghi trong Bộ Giáo Lý Bí Truyền",
thì cũng không thoát khỏi sự mê tín. Nhưng có một sự khác biệt,
bởi vì chúng ta có nhiều bằng cớ về sự hiểu biết của Bà
Blavatsky do Bà thốt ra hơn là sự hiểu biết của Thánh Paul hoặc
những tác giả xưa chẳng hạn. Nhưng đây không phải là vấn đề do Bà
Blavatsky nói hay do Ông Saint Jacque hoặc Ông Saint Pierre nói. Chúng
ta phải hiểu một tư tưởng, rồi tự đồng hóa với nó, vươn lên tới
nó và để cho nó nẩy nở trong lòng chúng ta. Ngày
nào chúng ta còn đọc suôn như con két, thì ngày đó những ý
niệm này là những sự dị đoan
vậy. Tin tưởng vào một Chân lý có thể là một sự dị đoan,
nếu sự tin tưởng đó không có một nền tảng đúng đắn cũng như căn
cứ vào lời quả quyết của tác giả này hay tác giả nọ. Khi ý
niệm đã thắm nhuần trong tâm trí của chúng ta rồi, chúng ta có
thể nói được rằng: "Nó là thành phần của tôi; nó thuộc về tôi;
tôi biết tại sao tôi tin; do đó sự tin tưởng của tôi sáng suốt chớ
không phải là điều dị đoan ". Tôi e rằng, có nhiều sự tin tưởng
không khôn ngoan về Chân lý trong nhiều trường hợp.
A. B.
–
Rất khó cho con người thoát hẳn sự dị đoan và không còn lấy sự
phụ thuộc làm điều chính yếu nữa (như thế cũng là sự
dị đoan). Trước khi được Điểm Đạo lần thứ Nhứt, con người
chưa ắt bỏ được hẳn thói dị đoan. Điều này chứng tỏ rằng sự dị
đoan là một ý kiến sâu xa
và tế nhị đã thắm nhuần trọn vẹn bản tánh con
người. Đức Thầy nói: "Ai để cho thói dị đoan chi phối thì
không thể tiến hoá được".
Lời tuyên bố thật rõ ràng, nhưng chúng ta hãy lưu ý đến chữ "chi
phối". Đức Thầy không nói một người dị đoan
ít hoặc nhiều không thể tiến hóa được, mà Ngài nói kẻ nào
bị sự dị đoan chi phối mới không thể tiến hóa được. Không có chi
lôi kéo con người lại đàng sau như thói dị đoan. Chúng ta biết có
lắm người tử tế, mộ đạo,
nhơn từ, sống một cuộc đời gương mẫu cho sự
tốt lành và đúng đắn thận trọng nhưng họ lại là những
người mê tín. Họ chỉ cho những lễ bái, những nghi thức cùng cách
hành động
của họ là quan trọng, trong khi tất cả các thứ này không có
gì là thiết yếu cả.
Ta hãy lấy việc làm nhằm
trợ giúp những người quá
vãng làm thí dụ. Những người Công Giáo La Mã làm lễ cầu hồn;
cũng ý nghĩa đó, người Ấn
Độ lại làm lễ Shraddha; mục đích của cả hai là muốn giúp người
quá vãng. Hai cách hành lễ đều công hiệu dù dưới hình thức rất
khác nhau. Tuy nhiên, người Ấn Độ cũng như người Công Giáo, nếu bị
lệ thuộc những hình thức
này thì họ sẽ là người mê tín dị đoan. Ý muốn tốt đẹp và sự
trang nghiêm cùng lòng thương mến người quá vãng mà cả hai biểu lộ
trong việc hành lễ, đó là điều qui định cái kết quả. Ý muốn tốt
đẹp là căn bản, nhưng tính
cách đặc biệt của hình thức bên ngoài là điều phụ thuộc, hình
thức phản ảnh ý muốn bên trong có tính cách địa phương và không
quan hệ gì. Hình thức bên
ngoài tùy thuộc sinh quán của bạn, bởi vì bạn sinh vào một Tôn
giáo nào, một chủng tộc nào hay một nơi đặc biệt nào đó. Bạn
phải thoát ra khỏi tất cả những sự mê tín trong các nghi thức,
trong các việc lễ bái, cũng như trong sự công hiệu của những hình
thức thuần túy bên ngoài. Trong một thời gian rất lâu, sự tín
ngưỡng đó đã tỏ ra rất quan trọng và có ích lợi thiết thực. Chỉ
có nó mới diệt trừ được sự uể oải, tính cẩu thả và lãnh đạm
ở con người thôi. Những hình thức bên ngoài này chỉ là những
chiếc nạng cần thiết cho những người còn chưa bước đi một mình
được. Khi bạn có thể không cần những nạng này nữa, thì bạn hãy
dẹp chúng nó qua một bên.
Bởi vậy con chớ cho một ý kiến nào là đúng đắn chỉ vì nhiều
người đã cho nó là dúng đắn hay là tại thiên hạ đã xét đoán nó
trong nhiều thế kỷ rồi, hoặc là thấy nó trong một cuốn sách mà
người ta gọi là sách thánh, con phải dùng sự xét đoán riêng của
con và con phải xem coi ý kiến đó có hữu lý hay không?
C. W. L.
–
Những lời này của Đức Thầy Kouthoumi. Cách đây hai ngàn năm trăm năm
chúng nó vốn lời của Đức Phật Cồ Đàm,
khi người ta hỏi Ngài: "Bạch Phật, có biết bao nhiêu vị Giáo
Chủ, biết bao nhiêu giáo lý đã trình bày cho chúng tôi! Tất cả
dường như tốt đẹp hết, làm
sao biết được cái nào hay nhất? Làm sao chọn lựa"? Kinh Kalama
Soutta de l'Angouttara Nikaya
có chép câu trả lời của Phật như sau:
Đức Phật nói: "Không nên
tin một điều nào chỉ vì nó được xác
nhận suông. Đừng tin những tập tục, vì lẽ chúng nó từ ngàn
xưa truyền lại cho chúng ta. Đừng tin những lời đồn đãi. Đừng tin
sách vở của các vị Thánh
Hiền bởi vì lẽ các Ngài là tác giả mấy quyển đó. Đừng tin
những sự tưởng tượng mà chúng ta cho rằng do một vị Thần minh đã
giác ngộ chúng ta (nghĩa là phỏng đoán một sự linh cảm). Cũng
đừng tin những kết luận do chúng ta bất ngờ giả định. Đừng tin
cái gì do một sự cần thiết tương tợ bề ngoài. Đừng tin chỉ vì
sự uy tín suông của các vị Huấn Sư hoặc Tôn Sư của chúng ta. Nhưng
chúng ta phải tin, khi sách vở, giáo lý hay châm ngôn được lý trí
và lương tâm của chúng ta xác nhận". Đức Phật kết luận : Bởi vì
chính đó là điều ta dạy các con . Các con chớ nên tin điều
chi chỉ vì các con đã nghe nói suông. Nhưng nếu đức tin của các con
căn cứ trên sự tin chắc riêng của các con thì các con hãy hành
động và hãy cố gắng hết sức "
[28].
Một trong những việc thực tập mà Đức Thầy bắt buộc các đệ tử
của Ngài phải làm là tìm xem điều gì họ thật biết và điều gì
mà họ chỉ tin theo thôi. Một việc làm rất tốt là ghi chú phần
kiến thức nào chúng ta được phép nói rằng nó thuộc về quyền sở
hữu thật sự của chúng ta, còn phần nào thuộc về chúng ta
chỉ vì chúng ta đã hoàn toàn thấu
hiểu và công nhận nó, cuối cùng phần nào mà chúng ta đã
thu lãnh của kẻ khác, gần như không kịp suy nghĩ. Con người luôn
luôn sinh ra trong một Tôn Giáo cũng như họ sinh ra trong một
xứ sở nào đó. Đối với nhiều phong tục thì qui tắc vẫn giống in
nhau. Chẳng hạn như muốn ăn cơm tối trong thành phố thì phải ăn mặc
một cách đặc biệt. Đó là một tập quán và không ai muốn vi phạm
đến một vấn đề không quan trọng gì, mà trong đó cũng không có
việc liên quan đến sự lành hay dữ.
A. B.
–
Đây là một việc thực tập rất hữu ích cho bạn, nếu thỉnh thoảng
bạn quan
sát nội dung Cái Trí và trước hết ghi chú coi tất cả những
điều mà bạn tin, vì lẽ nhiều người đã tin như vậy; hai là, tất
cả những điều bạn tin vì lẽ chúng là những tín ngưỡng thuở xưa;
ba là, tất cả những điều bạn tin, vì lẽ chúng được ghi chép trong
Thánh kinh. Sau khi loại trừ ba loại này ra rồi, bạn hãy ghi nhận
cái nào còn lại. Như thế bạn sẽ nhận thấy thật sự những tín
ngưỡng của bạn căn cứ trên nền tảng nào? Chính đây là một trong
những thắng lợi, đã trải qua trong giai đoạn tự do tư tưởng như tôi
đã thực hiện điều đó. Phải có kinh nghiệm rồi mới thật hiểu thế
nào là hy sinh tín ngưỡng đạo đức mà từ
trước đến giờ mình đã cho là chân thật; thế nào là sự đổ
vỡ cuối cùng, khi mà miếng đất dưới chân chúng ta sụp mất. Tôi
suýt chết vì việc đó; thân thể tôi đã rũ
liệt trong nhiều tuần. Nhưng sau khi đã kinh nghiệm triệt để
như thế rồi, thì không cần một kinh nghiệm nào khác nữa. Do đó,
khi tôi học
hỏi giáo lý Thông
Thiên Học, mặc dù trong thâm
tâm tôi, tôi tuyệt đối tin chắc đi nữa, tôi cũng phải bắt Cái Trí
tôi thí nghiệm lại tất cả những ý niệm mới mẻ này.
Con hãy nhớ rằng dù cho cả ngàn người đồng tán thành một vấn đề
nào đi nữa, nhưng nếu họ không biết chút gì trong đó cả, thì ý
kiến của họ vẫn vô giá trị.
C. W. L.
–
Đây là điều mà thế giới hiện tại khó lòng hiểu được. Hiện giờ
người ta tưởng rằng cứ tích lũy sự dốt nát thì cuối cùng sự
hiểu biết sẽ nảy sanh ra. Nghĩ như thế là sai lầm vậy. Những kẻ
dốt nát phải nhờ người hiểu biết dắt dẫn.
A. B.
–
Về vài phương diện, một số sách vở lớn lao của chúng ta là một
điều bất tiện, tệ hại. Nó khuyến khích chúng ta đọc không suy
nghĩ, khiến cho Cái Trí trở nên nông cạn và hay thay đổi. Do đó
luôn luôn tôi khuyên người ta nên đọc ít rồi mô phỏng lại đoạn đã
đọc, chẳng phải bằng trí nhớ, nhưng bằng sự hiểu biết hoàn toàn
vấn đề. Điều gì đã thuộc về bạn khi nào nó đã được Cái Trí
của bạn đồng hóa. Muốn được như thế, bạn phải suy nghĩ và hiểu
biết tường tận những gì bạn đã đọc hoặc nghe. Không vậy, bạn
càng đọc nhiều chừng nào
thì bạn càng trở nên dị đoan nhiều chừng nấy. Bạn cứ thêm những
tín ngưỡng mới vào những tín ngưỡng cũ của bạn mà không có cái
nào được căn cứ trên một nền
tảng vững chắc.
Tôi có một người giúp
việc rất dở về kế toán. Mỗi lần y tính lộn, y bắt đầu
làm lại một cuốn sổ mới với hy vọng sắp đặt lại cho có
thứ tự. Hiện nay cũng thế,
nhiều người luôn luôn đòi hỏi sự mới lạ vì những sự hiểu biết
nông cạn mà họ đã thu thập không làm cho họ thực sự thỏa mãn.
Những người trong nhóm hội viên chúng ta đi đâu cũng lấy những tác
phẩm của Đức Giám Mục Leadbeater hoặc của tôi làm dẫn chứng cũng
là những người mê tín dị đoan vậy. Những sự kiện họ kể ra có
thể rất đúng, nhưng chúng không đúng đối với họ, vì nếu họ thật
hiểu chúng, họ không cần
dựa vào uy tín của chúng tôi. Nếu họ muốn lấy chúng tôi làm dẫn
chứng, thì họ phải xem lời nói của chúng tôi như là những ý kiến
cá nhân và không nên tìm cách ép buộc ai nghe theo cả. Trên đời chỉ
có một uy quyền mà thôi : Đó
là sự Minh Triết.
Người nào muốn đi trên Đường Đạo thì phải tập tự mình tư tưởng,
vì thói dị đoan là một trong những tai hại lớn nhất trên thế gian.
Một trong những chướng ngại phải hoàn toàn diệt trừ mới được.
C. W. L.
–
Sự dị đoan là một sức mạnh
lớn lao và tế nhị. Nó hiển
nhiên là chướng ngại thứ ba trên Đường Đạo mà con người cần phải
dứt bỏ, sau khi đã được Điểm Đạo lần thứ Nhứt; tiếng Nam Phạn
(Pali) gọi nó là Silabbataparamasa,
nghĩa là: "Đức tin căn cứ vào sự công hiệu của nghi thức hay là
lễ bái bất cứ loại nào ".
Điều nào con tưởng cho thiên hạ cũng phải thật đúng. Con không nên
tưởng cho kẻ khác điều nào mà con không biết rằng
quả có thật như vậy.
C. W. L.
–
Nếu điều của chúng ta nghĩ về kẻ khác chỉ là giả tưởng (ức
đoán) thì chắc chắn tư tưởng của chúng ta bất cứ về phương diện
nào cũng là lý luận thuần túy. Thật ra, chúng ta biết rất
ít về những người ở gần mình nhất, và chúng ta còn biết
ít hơn về những người mà chúng ta gặp gỡ một cách ngẫu nhiên;
nhưng người ta không ngớt ngồi lê đôi mách, lắm chuyện lắm lời vô
ích về những
hành động, những lời nói và những tư tưởng của thiên hạ.
May thay, một phần lớn những điều này vẫn hoàn toàn sai lạc.
A. B.
–
Những dư luận về kẻ khác thường sai lầm. Chúng ta chỉ có thể
phán đoán chính xác về một người nào khi chúng ta thật biết y,
thấy và hiểu được tư tưởng của y. Phần đông người đời
chưa đạt được trình độ hiểu biết đó. Tuy nhiên, ý kiến của
họ về mấy kẻ khác đã
quyết định rồi. Luôn luôn họ xét đoán mấy người này và không biểu
lộ trong tư tưởng một chút
nhân từ nào cả.
Sau đó một chút, Đức Thầy
có nói rằng: "Con đừng bao giờ cho kẻ khác có ý muốn này hay ý
muốn nọ". Lời khuyên này hết
sức quan trọng, nếu nó được người đời tuân theo, thì phân
nửa sự thống khổ của Trần gian sẽ bị tiêu diệt. Nếu có ai làm
một việc mà bạn không hiểu
được, bạn hãy để cho y làm, đừng bịa ra những lý do. Lý do hành
động của y, tất nhiên bạn không hiểu được, nhưng bạn
lại tìm một lý do, thường thường thì không mấy tốt đẹp rồi
bạn kết nó vào sự hành động, và sau cùng bạn khiển trách kẻ
khác về cái điều mà chính
là bạn đã tưởng và đã làm ra. Khi qui
cho kẻ khác những lý do như thế, con người tăng cường mãnh
lực xấu có thể đang hoạt
động trong trí của kẻ bị chỉ trích, hoặc nếu kẻ ấy chưa có mầm
xấu thì họ lại làm cho nó nảy sinh. Đấng Christ có
nói: "Chớ khá đương đầu với kẻ hung ác "[29].
Lời này có thể đem áp dụng cho trường hợp kể ra đây. Không phải
bổn phận của chúng ta là tìm điều xấu trong Trí Thiên Hạ để diệt
trừ; hãy cô lập sự xấu. Nó sẽ tự tiêu hủy.
Con đừng tư tưởng rằng thiên hạ hằng nghĩ đến con luôn luôn.
C. W. L.
–
Điều này xảy ra mãi mãi: tất cả những gì của kẻ khác làm hay
nói, chúng ta cũng đều cho rằng liên hệ đến chúng
ta cả. Bởi chúng ta luôn luôn nghĩ đến mình nên chúng ta
tưởng tượng rằng kẻ khác cũng phải nghĩ đến chúng ta. Nếu chúng
ta luôn luôn nghĩ đến mình, thì muốn cho hợp lý, chúng ta phải
tưởng rằng kẻ khác cũng luôn luôn nghĩ đến chính mình họ vậy,
chớ không phải nghĩ đến chúng ta. Con người tự đặt mình vào trung
tâm của cái vòng tròn của họ, mọi tư tưởng, mọi cảm xúc của họ
đều quay cuồng theo vòng tròn và họ xét đoán mọi sự theo phản
ứng của chúng đối với họ. Họ cứ chạy theo vòng tròn chung quanh
họ. Nhưng không phải như thế đâu. Mỗi người tự nhốt mình trong vòng
tròn của mình - chắc chắn vòng tròn này cũng lẩn
quẩn như những vòng tròn khác. Trong chín phần mười những
trường hợp mà con người bất bình về hành vi và lời nói của kẻ
khác có lẽ đều phát sinh từ
ý niệm này.
Nếu một người kia làm điều
gì mà con tưởng là có hại
cho con, hay là nói một chuyện nào dường như có can hệ tới con,
thì con chớ vội nghi rằng: "Người đó có ý nhục mạ tôi ". Có lẽ
đúng hơn, là người đó không nghĩ đến con chút nào, vì mỗi linh
hồn đều có những việc lo lắng riêng, và thường thường chỉ lo cho
một mình mình thôi. Nếu có người nào nói với con giọng quạu quọ,
thì con chớ tự nói rằng: "Người đó ghét tôi và muốn nhục mạ tôi
". Có lẽ vì một người nào hay một việc chi đó làm cho y giận và
bởi y gặp con, nên y mắng con xối xả cho đã nư giận. Người đó làm
chuyện điên cuồng, vì sự giận hờn nào cũng là sự điên cuồng cả,
nhưng không phải vì lẽ đó mà con nghĩ quấy
cho y.
C. W. L.
–
Chính đó là lẽ phải, nhưng rất ít người thực hành! Khi tôi còn
là Mục Sư của Giáo Hội Anh Cát Lợi, có lần tôi thuyết về sự thử
lòng hay sự cám dỗ mà tôi nghĩ rằng có thể xảy ra cho những tín
đồ nông dân hay thợ thuyền, họ là những con chiên của tôi. Tôi trình
bày tại sao phương thức hành động nào có thể đem đến vài hậu quả
tai hại. Sau lời thuyết pháp, một người nông dân giận dữ đã xông
vào Thánh Đường và hỏi tôi vì cớ gì tôi đưa y ra làm đối tượng
cho bài thuyết giáo của tôi. Thật thế, kẻ bất hạnh tự bộc lộ tâm
trạng của y tức khắc. Tôi không bao giờ ngờ y có thể phạm phải
hành vi đặc biệt này, nhưng hiển nhiên, nó là một mối ưu tư mà sự
quan sát của tôi đã chạm vào đó. Đến nay tôi vẫn còn tin rằng
người ấy quả quyết rằng tôi nhận rõ y trong đám thính giả và đưa
y ra làm đề tài cho bài thuyết giảng của tôi.
Trong sự sống chung đông đúc
này, không thể tránh khỏi được những sự đụng chạm đến một mức
độ nào đó. Cho mấy điều này
là quan hệ hay là trọng đại, thật vô
ích. Khi đi đường trong một đô
thị lớn, chúng ta thấy hàng ngàn người đều bận rộn công
việc riêng của họ; họ đi đường họ, không nghĩ gì đến kẻ khác đang
qua lại. Đôi khi không thể tránh khỏi sự
xô lấn, nhưng không ai tưởng rằng mình bị xúc phạm nên nổi
nóng, vì thái độ đó thật buồn cười. Trên phương diện lý trí và
tình cảm cũng xảy ra những sự đụng chạm như thế. Trong những đám
đông đều luôn luôn có sự va chạm về mặt lý trí và tình
cảm. Chúng ta hãy xem những sự việc này giống như điều mới
nói ra đây, tức là hiểu rằng kẻ đã giẫm chân trên Thể Trí của
chúng ta không hề cố ý chút nào, và y chỉ đi theo con
đường của y chớ không nghĩ đến chúng ta.
Chúng ta đừng quan trọng
hóa những sự đụng chạm nhỏ nhen đó, cũng như những sự xô lấn
hằng ngày ngoài đường phố.
Khi chúng ta để ý đến
cách của kẻ khác chăm chú vào những quyền lợi của họ,
chúng ta cũng có bổn phận coi chừng, đừng cho chúng ta say mê những
quyền lợi của chúng ta cho đến đỗi chúng ta quên những cử chỉ lễ
độ, nhã nhặn để làm cho đời thêm tươi đẹp.
Người Thông
Thiên Học
phải khác
hơn người thường bởi sự lễ độ cũng như sự an tịnh và bình
thản luôn luôn. Các bạn hãy ở cho dễ thương, hãy kiên nhẫn. Người
ta rất vội vàng mà người ta cũng không thiếu thì giờ để tỏ ra
mình là người tử tế và có tình
huynh đệ. Chớ để cho những triều lưu nóng giận lôi cuốn
chúng ta do những dây thần kinh quá căng thẳng và thường xảy ra
trong thời buổi xáo trộn
của chúng ta.
A. B.
–
Lời khuyên của Đức Thầy ở đây thật rất sáng suốt, khôn khéo. Chớ
nên nghĩ rằng mọi người đều nhớ đến bạn vì lẽ
bạn vẫn nhớ đến họ. Mấy kẻ khác cũng nhớ đến
họ chớ không hề nhớ đến bạn đâu. Họ lo lắng công việc riêng
của họ cũng như bạn lo lắng công việc riêng của bạn. Nhiều nước
sẽ được hạnh phúc hơn nếu người ta chịu chấp nhận và đem thực
hành ý niệm này. Nếu một người kia chạm phải bạn trong
cuộc sống náo nhiệt và xáo trộn này, thì bạn chớ tưởng
rằng y tìm cách hại bạn, hoặc có tư
ý gì đối với bạn. Trừ ra khi nào bạn chắc chắn rằng người
ta muốn hại bạn, thì tốt hơn bạn nên nghĩ trái ngược lại là không
có điều đó.
Một người nói với bạn
giọng giận dữ, nếu lúc đó bạn nhớ đến điều cần thiết là đừng
gán cho y thái độ thù nghịch và đừng nổi nóng như y, thì bạn sẽ
tiến nhanh trong vấn đề tự chủ. Thường thường sau cơn giận người ta
mới nhớ. Một người đã tự chủ hoàn toàn, thì cho đến chút tình
cảm nóng giận cũng không nảy sinh ra nữa. Dầu thừa nhận rằng kẻ
đối thoại với bạn sai quấy, lỗi ấy chỉ do sự yếu đuối mà ra, kẻ
chí nguyện làm người Huyền Bí Học chớ nên quên bổn phận mình
phải nhân từ trước sự yếu đuối của kẻ khác. Ta nên nhớ
rằng cử chỉ giận dữ hay câu trả lời cộc cằn và gay gắt
của một người nào thường là dấu
hiệu bộ thần kinh của y bị căng thẳng quá độ bởi sự xao
xuyến, lo âu ; y quá yếu đuối nên không thể chịu nổi một sự
cố gắng mà không tỏ ra phản ứng gì. Thần kinh của y căng
thẳng cực độ; đó là lý do khiến y hành động như thế.
Theo lời Đức Thầy, người
ấy hành động điên cuồng. Quả đúng như thế, nhưng chúng ta hãy khoan
thứ cho y. Chính vì thế đa số những sự khó khăn nhỏ mọn nảy sinh.
Một sự căng thẳng khó chịu
khiến cho chúng ta nổi nóng trước hầu hết mọi việc. Bạn hãy nghĩ
đến bao nỗi bận tâm đang chi phối Thế gian, lo lắng về mọi
thứ quấy nhiễu và hành hạ con người. Đành rằng chúng ta không
biết được những nỗi khó nhọc của những kẻ sống chung quanh ta, vì
không người khôn ngoan nào lại thuật
cho bất cứ ai biết những nỗi khó khăn
của mình. Cái tư cách tầm thường cũng không cho phép người
ta làm như thế. Nhưng nếu chúng ta nhớ đến những nỗi khó khăn này
và quan tâm đến chúng thì chúng ta sẽ đạt được sự yên
tĩnh hoàn toàn, nó là mục tiêu của Đức Thầy trong những
bài này.
Chừng con làm đệ tử Chơn Sư rồi, con có thể thấy được tư tưởng
của con đúng đắn hay không, khi con so sánh nó với tư
tưởng của Ngài. Bởi vì Thầy với trò vốn là một và trò
chỉ cần đem tư tưởng của y kề với tư tưởng của Thầy, thì y sẽ
thấy hai tư tưởng có phù hợp với nhau hay không. Nếu như không thì
tư tưởng của trò đã sai lầm và y phải lập tức sửa đổi vì tư
tưởng của Chơn Sư vốn trọn lành, bởi
Ngài thông hiểu hết mọi việc.
A. B.
–
Một đệ tử chánh thức luôn
luôn có thể xác định giá trị của tư tưởng
của y, khi y đặt nó cạnh tư tưởng của Đức Thầy. Nếu y cảm
thấy một sự rung động không điều hòa, thì y biết rằng tư tưởng
của y chẳng có giá trị gì cả. Nếu lấy một sự tương tợ ở cõi
Trần mà nói, thì đó cũng như là một cung đàn lỗi nhịp. Người đệ
tử không cần làm cho Đức Thầy chú ý đến mình. Y chỉ để tư tưởng
của y bên cạnh tư tưởng của Ngài. Nếu y thấy có dấu hiệu sai lệch
thì y liền vứt bỏ tư tưởng
của y và tức khắc cố gắng lập lại sự hòa hợp giữa tư tưởng của
y với tư tưởng của Đức Thầy. Người đệ tử không lý luận, không tìm
cách cho rằng dù sao có lẽ tư tưởng của mình cũng đúng; vì nếu
nó sai quấy, thì sự sai lầm hiện ra tức khắc. Trước
khi được Đức Thầy thâu
nhận làm Đệ Tử Chánh Thức thì
không thể hành động
như thế được, và đối với
nhiều người chí nguyện thì điều này là một sự khó khăn. Bởi Tâm
Thức của đệ tử phải hòa hợp làm một với Tâm Thức của Đức Thầy,
cho nên Ngài không nhận một người nào mà tư tưởng của y buộc Ngài
phải làm một tấm vách để ngăn nó với tư tưởng của Ngài.
C. W. L.
–
Người ta nói rằng người đệ tử làm một với Đức Thầy. Điều này
đúng trong một ý nghĩa mà chỉ có Đức Thầy mới hiểu trọn vẹn.
Người đệ tử cũng hiểu như
thế, song y chỉ hiểu một cách bất toàn. Phải giao tiếp đặc biệt
với Đức Thầy, như thế mới hiểu
được sự hiệp nhất này mãnh liệt là dường nào. Người đệ
tử phải trở
thành một tiền đồn của Tâm Thức của Đức Thầy. Y liên
hệ với Ngài cũng gần giống như Phàm Nhơn thuộc về Chơn Nhơn.
Chơn Nhơn cho một phần nhỏ của mình (danh từ phân thân không đúng
lắm, nhưng nó còn đúng hơn chữ phản ảnh) xuống mấy cõi dưới,
sống theo những điều kiện đặc biệt ở đó, nơi mà ba thể: Xác,
Vía, Trí tốt hơn hết của con người chỉ biểu lộ được Chơn Nhơn một
cách thật hết sức bất toàn
. . Điều này sẽ phấn khích
chúng ta, mỗi khi chúng ta cảm thấy mình
nản chí trước tất cả những sự yếu
đuối của chúng ta tại cõi Trần. Người ta có thể
tự nói: "Dù trong
trường hợp nào, Chơn Nhơn cũng cao cả hơn mấy điều đó. Vậy tôi
không có lý do gì để thất vọng. Tôi chỉ cần tăng thêm một chút
sức mạnh của tôi trong sự hiểu biết thấp thỏi này để biểu lộ
bản tánh thật sự của tôi ở cõi trên một cách tinh túy hơn; thế
là những tật xấu của tôi sẽ giảm dần".
Cũng thế, người đệ tử
không những là đại diện của Đức Thầy, mà còn quả là Đức Thầy
thực sự; nhưng là Đức Thầy đang bị bao vây bởi những sự hạn chế
kinh hồn; nhưng hạn chế này chẳng những thuộc về những cõi thấp
mà còn thuộc về Phàm Ngã của người đệ tử chưa bị hoàn toàn chế
ngự. Nếu Chơn Nhơn của người đệ tử đã triệt để làm chủ được các
thể thấp, chúng trở thành những phản ảnh hay những biểu hiện của
các thể cao, thì nó có thể biểu lộ những đặc tính của Đức Thầy
hoàn toàn hơn. Nhưng vẫn còn một sự hạn chế mà người ta gọi là
"vóc vạc" của y, người đệ tử là một Chơn Nhơn nhỏ bé hơn Đức
Thầy; y nối gót theo Thầy, và do đó y chỉ có thể đại diện
cho Ngài một phần nào mà thôi. Tuy
nhiên dù người đệ tử có tư tưởng nào, thì chúng cũng đều
có ở trong Thể Vía và Thể
Trí của Đức Thầy.
Một phần cũng vì lẽ đó
mà các đệ tử phải chịu trải qua một thời gian Nhập Môn,
trong thời gian này hình ảnh
sống của người Đệ Tử Nhập
Môn luôn luôn ở dưới mắt Đức Thầy. Đức Thầy muốn biết chính xác
tư tưởng, tình
cảm của người đệ tử tạm thời đó; nếu không vậy, Ngài có
thể thấy Thể Vía và Thể Trí của Ngài luôn luôn bị tràn ngập bởi
những tư tưởng và tình cảm của người đệ tử, chúng bất hòa với
công việc của Ngài đang mãi bận lo . . . Chỉ sau khi quan sát một
thời gian khá lâu và nhận thấy rằng những tư
tưởng và những tình
cảm bất đồng của thí sinh còn
rất ít, Ngài mới thu nhận
y vào hàng
môn đồ, và làm cho y trở thành một phần tử của Ngài.
Tuy nhiên, Đức Thầy cũng
còn phòng hờ để tùy tiện tạo một bức màn chận ngang giữa Tâm
Thức của Ngài với Tâm Thức của đệ tử; vị này tha thiết muốn
không có sự phân cách nào làm gián đoạn sự hiệp nhất đó; nhưng ở
cõi Trần chúng ta hay lỗi lầm và thường
thường chúng ta có tiếp thu một tư tưởng hay một
tình cảm bất chánh nào đó, Đức Thầy không thể chấp nhận
cái đó được, Ngài điềm nhiên tự vệ, thật ra, về sau, đến một lúc
kia Đức Thầy hủy bỏ luôn luôn bức màn ngăn ngừa kia, đó là lúc
Ngài nhận người đệ tử vào
hàng "Con" của Ngài. Nhưng Ngài chỉ nhận như thế là khi nào
Ngài hoàn toàn chắc chắn không còn cái chi
phải loại ra nữa.
Nhờ sự kết hợp mật thiết
với Tâm Thức của Đức Thầy như thế, người đệ tử có thể đặt tư
tưởng của y kế bên tư tưởng của Ngài. Đệ tử không cần làm cho Đức
Thầy chú ý đến y, vì y không thỉnh cầu ý kiến
của Ngài trong vấn đề
đang lo lắng, y chỉ nhờ sự hiệp nhất này, mà biết được tư tưởng
của Ngài đối với vấn đề đặc biệt đó. Các bạn sẽ hỏi: Vị đệ
tử phải làm thế nào? Có nhiều cách, tùy theo mức độ của sự
hiệp nhất này: người đệ tử tạo ra trong trí mình hình ảnh rõ
rệt của Đức Thầy , rồi dùng tất cả sức mạnh
nâng tâm hồn mình lên đến tận hình ảnh này; y hiệp nhất với
nó, đoạn phát triển rõ ràng tư tưởng của mình, rồi xem coi nó có
bất hòa hoặc bất đồng chút
nào với tư tưởng của Thầy không, nếu có, y phải tức khắc sửa đổi
tư tưởng của y.
Ở đây, quan điểm Huyền Bí
Học khác với quan điểm của Thế gian rất xa. Trên
đời này, nếu bạn bất đồng ý kiến với một người khác, bạn
liền lập luận để binh vực ý kiến của bạn hoặc bạn cố gắng biện
chính cho ý kiến đó. Trên phạm vi Huyền Bí Học, chúng ta không bao
giờ tranh luận. Vì chúng ta biết rằng vị ở trên chúng ta biết
rõ sự việc đó hơn
chúng ta, nên chúng ta chấp nhận
ý kiến của Ngài.
Không bao giờ chúng ta có ý nghĩ đem lối nhìn của chúng ta mà
chống lại cách thấy của Ngài, vì chúng ta biết (không phải là
vấn đề suy luận nữa mà chính là sự hiểu biết trực tiếp) rằng
Ngài có cả ngàn cách nghe thấy mà chúng ta không có, nên Ngài
hiểu điều Ngài nói. Ý kiến của Ngài căn cứ trên nền tảng hiểu
biết sâu rộng hơn chúng ta rất xa. Về sau, chúng ta có thể tìm
hiểu lý do của sự kiện ấy, và đó là chuyện khác. Nhưng trong khi
chờ đợi, chúng ta không chống lại Ngài, và chúng ta cũng không
nghĩ đến việc đó. Khi người đệ tử đặt tư tưởng của y bên cạnh tư
tưởng của Đức Thầy, y không lý luận. Khi cây đàn của bạn cần phải
lên dây hòa điệu, bạn không tự hỏi tiếng đàn này sẽ không tốt
chăng, mà bạn cứ lên dây.
Trong thế giới Huyền Bí,
chúng ta không hề phê phán, chỉ trích. Chúng ta xem như đã chứng
minh rồi tất cả những gì mà
nhân viên của Quần Tiên Hội đã làm hết lòng. Trong trường
hợp này không phải là chúng
ta, mà chính Đức Thầy của nhân viên đó nhận xét sự thành công hay
thất bại của y. Dĩ nhiên, đôi khi có thể chúng ta thấy trước một
sự thất bại, chúng ta có thể khuyên nhủ với tất cả sự tinh tế,
thanh nhã của chúng ta như sau: "Nếu người ta
làm việc này hoặc việc kia, anh sẽ không nghĩ rằng điều đó
khá hơn một chút sao”? Những nhà Huyền
Bí Học hay là những người nhiệt thành muốn trở nên nhà
Huyền Bí Học đều tuyệt nhiên tránh
việc chỉ trích kẻ khác một cách khinh xuất mà không biết
gì đến những nỗi lo âu và
khó khăn của họ. Chúng ta hoàn toàn xa lánh
việc chỉ trích; đối
với chúng ta, nó là một
hành vi xấu xa.
Về phương diện này, những
ai quyết định bước vào Đường
Đạo nên thực hành đúng theo thói quen mà các vị đệ tử Chơn
Sư đã chấp nhận. Chúng ta
hãy từ bỏ thói chỉ trích những kẻ khác đang hoàn thành nhiệm vụ
của họ. Phần đông họ đều cố gắng đến mức tối đa theo quan điểm
riêng của họ. Có thể quan điểm chúng
ta cao hơn quan điểm của họ nhiều, nhưng không phải là không
đúng trong việc làm, họ chỉ theo ánh sáng riêng của họ, chớ
không phải ánh sáng riêng của chúng ta. Nếu
một người nào đó được Hội của chúng ta ủy thác nhiệm vụ
chăng, chúng ta nên để y có cơ hội hoàn thành nhiệm vụ của y một
cách tốt đẹp. Nếu y làm
công việc không được
chu đáo, thì sau một thời gian hợp lý, chúng ta có thể
giao nhiệm vụ đó cho một kẻ khác. Nhưng trong khi chờ đợi,
chúng ta chớ nên làm rộn y, phải để cho y có dịp trổ tài và thực
hành những ý niệm riêng của y. Luôn luôn can thiệp vào công
việc của kẻ khác là một điều sai quấy.
Thái độ chỉ trích thường
xuyên, luôn luôn tìm chỗ sơ hở, luôn luôn rình rập những nhược điểm
của kẻ khác là một bản tánh rất xấu xa tệ hại. Trong giới Huyền
Bí, người ta không làm như thế. Chúng
ta thường nghe nói rằng: "Tôi không thể
nào không chỉ trích được: đó là bản tánh của tôi ". Nếu đó
là bản tánh của bạn, thì thật đáng
thương cho bạn. Tốt hơn hết bạn hãy cố gắng vượt lên khỏi
nó. Bạn áp dụng danh từ "tự nhiên", "nhân tánh" theo cách
hành động
của người trung bình, nhưng khi một người đã khép mình vào
khuôn khổ của kỷ luật tu thân một cách nghiêm khắc thì y cố gắng
vượt khỏi mức độ trung bình. Chúng sinh ra đời để sửa đổi
tâm tánh của mình. Hãnh diện vì nó thật vô ích. Người chí nguyện
phải cố gắng vượt lên trên mức độ trung bình mới có thể làm cho
nó tiến tới được. Nếu y chỉ ở chỗ đồng bậc hay là ở mức thấp
hơn mức độ trung bình, y không thể làm cho bản tánh y trở nên
tốt đẹp. Chỉ
có quyết định mới trừ được tật xấu hay chỉ trích.
Đôi khi chúng ta muốn nói
với những kẻ khác rằng: "Các bạn đừng cản đường tiến hóa của
Chơn Nhơn cao cả của các bạn nữa
và hãy để cho Ngài có dịp tỏ ra hết sức cố gắng. Bạn để
cho Phàm Nhơn thấp hèn của bạn ngăn cản Chơn Nhơn, không cho Ngài
muốn làm và làm một cách dễ dàng". Mong sao không ai nói
rằng: "Tôi không làm được". Nếu bạn nói như thể thì bạn xét
đoán trước và tự cho mình
phải thất bại. Tốt hơn là bạn nên làm ra hình tư tưởng này: "Tôi
có thể làm được việc đó
và tôi sẽ làm", và như thế công việc đã hoàn thành được nửa rồi.
Thường thường sự cố gắng cũng không mang lại kết quả gì, đó là
lẽ tự nhiên. Nhưng nếu cố gắng mãi, sức mạnh sẽ gia tăng, chẳng
bao lâu chắc chắn sẽ thành
công. Nếu chưa thành công, chớ tưởng rằng bạn đã mất tất cả, sức
mạnh đã tạo được rồi, dù
nó chưa đủ để mang
đến một sự thành công tức khắc, nó cũng là một thắng lợi
trước tiên và nếu chúng ta
không ngừng gia tăng sức cố gắng, thì đến một lúc nào đó, sự
thành công sẽ đền đáp lại công lao khó nhọc của chúng ta.
Một hố thẳm ngăn cách hai
thái độ này: một bên cứ ngồi mà ngã lòng, thất vọng; còn một
bên thì đứng lên và hành động.
Người ta cũng nói rằng trong thiên hạ hai hạng người: hạng
thứ nhất đảm đương một trách nhiệm, còn hạng thứ hai cứ ngồi và
tự hỏi: "Tại sao người ta
không làm khác hơn"? Chúng ta nên gia nhập vào hạng thứ nhất và
đừng để ý đến lời chỉ
trích của kẻ khác, họ là những người không muốn động đến bàn tay
đặng làm việc.
Những người nào chưa được Ngài thâu nhận làm đệ tử chính thức
thì không thể làm vậy, song nếu họ thường tự hỏi như sau đây, thì
họ sẽ được giúp đỡ nhiều lắm: "Thầy sẽ nghĩ việc này ra sao?
Bởi vì không nên làm, không nên nói, hay không nên nghĩ điều nào mà
theo ý mình, Thầy không làm, không nói, hay không nghĩ như thế được
".
Phải chân thật trong lời nói của con; phải nói cho đúng đắn và
không quá lố.
C. W. L.
–
Nếu chúng ta luôn luôn nhớ rằng chúng ta không bao giờ được nghĩ hay
nói điều gì mà Đức Thầy không nghĩ, không
nói, thì trong đời sống chúng ta ít có cái chi cần phải
sửa đổi. Có thể chúng ta
phạm vài lầm lỗi trong việc
xét đoán những tư tưởng hay
những lời nói mà ta cho là của Ngài, nhưng về phương diện chung,
đời sống của chúng ta sẽ trong sạch phi thường và sẽ đến
gần Ngài. Chắc chắn có nhiều người tự nói rằng: "Nếu phải
mất thì giờ để nghĩ như thế, thì không bao giờ tôi nói điều gì
được cả ". Nếu họ im lặng, có lẽ thế gian không vì thế mà kém
tốt đẹp: vì thường thường lời nói của con người vẫn không ích
lợi gì cả. Nếu một người
kia mỗi khi sắp nói điều chi, y đắn đo kỹ lưỡng về lời nói của
mình và tự hỏi: "Đức Thầy sẽ nói những lời như tôi sắp
nói ra chăng"?, thì y
sẽ ít nói hơn. Ban đầu, việc nhớ đến tư tưởng của Đức Thầy đặng
đối chiếu có thể mất thì giờ, nhưng khi đã thành thói quen rồi
thì việc đó xảy ra mau như chớp.
Tư tưởng truyền đi nhanh như
ánh sáng và có thể còn nhanh hơn nữa, như các nhà Vật Lý Học cho
chúng ta biết, ánh sáng
truyền đi khoảng 186 dặm Anh
( milles ) trong một giây đồng hồ, còn tư tưởng chẳng hạn từ Anh
Quốc, cách đây 12.500 dặm, đến nhanh như tia chớp. Sự nhanh chóng
của ánh sáng trong phạm vi Vật Lý Huyền Bí Học là một trong
những vấn đề mà chúng ta
mới vừa biết chữ thứ nhất. Chúng ta không ngớt thu hoạch những ý
niệm mới trong Khoa Pháp môn và thí nghiệm một cách mò mẫm. Về
điều này chúng ta giống như những nhà luyện kim thuở xưa mà sức
cố gắng đã làm nảy sinh ra Khoa Hóa Học, khoa này đã dần dần trở
thành một khoa học bao la gồm muôn ngàn sự vật. Tôi tưởng những
thí nghiệm không chắc chắn của vài người ngày nay sẽ đem lại với
thời gian một Khoa Huyền Bí Học mà sự phát triển sẽ hữu ích cho
cõi đời rất nhiều.
Thường thường những tư
tưởng của chúng ta chuyển động ít nhanh chóng hơn điều nó làm
được, vì chúng ta không tập sử dụng
nó riêng biệt khác hơn lời nói và hành động của chúng ta.
Một trong những kết quả của sự tham thiền là tập cho chúng ta sử
dụng riêng biệt với lời nói và sự hành động. Sự thành công đem
lại những kết quả thật phi thường. Bà Tiến Sĩ Annie Besant có
nghiên cứu vấn đề này một cách đặc biệt. Bà có nói trước mặt
tôi rằng, trong những lúc diễn thuyết công cộng, khi Bà vừa thốt ra
câu nào, thì câu kế tiếp
hiện đến cho Bà dưới ba hay bốn hình thức khác nhau, Bà điềm tĩnh
chọn lựa câu nào
dường như có công hiệu hơn hết, trong khi Bà thốt ra câu trước. Rất
ít có người làm được như vậy. Đây là phải tách
rời cách dùng tư
tưởng ra khỏi sự hành động một cách nhanh chóng khó mà tính toán
trước được. Như vậy người ta mới thấy điều đó dẫn đến đâu. Thật
đáng cho chúng ta ra công khó nhọc tập sử dụng tư tưởng với tính
cách là tư tưởng mà thôi. Khi tập lấy thói quen hết sức tốt đẹp
này là suy nghĩ trước khi nói hoặc làm thì người đệ tử sẽ thấy
rằng thời gian này chẳng những làm cho đời sống của y hòa nhịp
với đời sống của Đức Thầy, mà tư tưởng của y còn hoạt động một
cách nhanh chóng và hữu ích nữa.
Chớ nên cho kẻ khác có ý muốn cái này, cái kia, duy chỉ một mình
Thầy nó biết được tư tưởng của nó mà thôi; và có thể y làm như
vậy là vì những lý do mà
con không hề biết.
C. W. L.
–
Mỗi người là một bí ngữ, dù cho đối với những người mà y thương
yêu nhất cũng vậy. Và đôi khi, sau một thời
gian khá lâu, bạn biết được những lý do hành động của y,
thì thường thường chúng
làm cho bạn rất ngạc
nhiên. Ảnh hưởng chỉ huy Cái Trí của y là một yếu tố mà bạn
không bao giờ nghĩ đến. Tôi quan sát điều này thường lắm có lẽ ở
Ấn Độ nhiều hơn những nơi khác, vì trí óc người Ấn Độ khác với
trí óc của chúng ta trên nhiều phương diện, và đa số các bạn Ấn
của chúng ta có những tư tưởng mà người Anh không hề có, họ lấy
chúng làm động lực. Trí óc
họ hết sức tế nhị và sinh hoạt của họ căn cứ trên những truyền
thống khác hẳn lối suy tư của chúng ta. Như thế, nếu trong dòng
giống của chúng ta, không một người nào được phép tìm hiểu nguyên
do của những lời nói hoặc hành động của bất cứ ai, thì
điều đó
quả là một điều bất cẩn quá đáng đối với ngoại quốc là
nơi chúng ta gặp phải một nền văn minh hoàn toàn khác lạ. Nhiều
sự hiểu lầm vô phương cứu chữa đã xảy ra cũng vì chúng ta
bịa đặt ra lý do những hành động của kẻ khác. Chúng ta đừng làm
như thế. Lý do của sự hành động nào đó không can hệ gì đến chúng
ta, bận tâm đến nó vô ích.
Khi con nghe một câu chuyện nào có hại cho kẻ khác, thì đừng lập
nó lại. Có lẽ câu chuyện đó không có thật, mà dù có thật đi
nữa, đừng nói đến mới là nhân từ hơn.
A. B.
–
Nếu sau khi đọc mấy hàng này, mà bạn còn nói hành ai, như thế là
bạn đã vi phạm mệnh lệnh trực tiếp của Đức Thầy đưa ra, vì mệnh
lệnh đó đã truyền đến bạn và nó liên quan đến bạn. Cũng khá dễ
làm thinh. Điều khiển Cái Trí có lẽ khó hơn, nhưng
chắc chắn là bạn có thể làm chủ được xác thân bạn. Có
thể câu chuyện phiếm của bạn không có giá trị lớn lao, nhưng nếu
nó không đúng mà bạn cứ lập đi lập lại mãi, tức bạn
nói dối và điều này rất nguy hại cho những người đang chuẩn
bị để được Điểm Đạo. Danh từ
nói dối quả là nặng nề, nhưng đó là một việc và
chúng ta phải đương đầu với nó.
Dĩ nhiên chúng ta không thể
dùng đời sống của mình để xem
xét coi những chuyện nhảm nhí đó có đúng hay không. Vậy
điều thận trọng hơn hết là đừng bao giờ lập lại những chuyện đó.
Chúng ta cũng đừng để ý đến việc nó có hại cho chúng ta, và cho
tương lai của chúng ta. Giả
sử chuyện đó có thật đi nữa, chúng ta cũng đừng nói gì hết, mới
thật là nhân từ hơn. Tại sao bạn muốn hại người? Tại sao muốn lập
lại những câu chuyện trình diện những kẻ khác dưới một phương
diện bất hảo.
Đành rằng, nếu chúng ta
biết được một người nào đó là tay gian xảo hay bịp bợm định lợi
dụng lòng tin cậy của kẻ thật thà,
thì chúng ta có bổn phận phải cho người ta biết điều đó,
hay là ít ra cũng phải báo cho những người đang bị đe doạ biết để
đề phòng. Nhưng đó là một vấn đề khác hẳn với việc nuôi dưỡng
câu chuyện ngồi lê đôi mách thường tình. Muốn làm tròn bổn phận
đó, chúng ta cần
phải hết sức lịch thiệp, kèm theo sự suy nghĩ chính chắn
và loại ra mọi thù hận và mọi phẫn nộ.
Trước khi nói, phải suy nghĩ cho kỹ lưỡng, vì
e không đúng với sự
thật.
C. W. L.
–
Điều này đã được truyền dạy từ nhiều năm nay, tuy nhiên các bạn
đồng song của chúng ta cứ khăn khăn nói những
điều không đúng với sự thật. Đôi khi người ta nói thật thái
quá:
"Một vật cách đây một trăm thước chăng, họ nói ngàn dặm". Khi trời
nóng hơn thường lệ, họ nói: "Trời nóng như thiêu như đốt".
Phải là những người không biết rành rẽ ngôn ngữ của mình
mới không tìm được những từ ngữ để mô tả mức độ dị biệt của tư
tưởng, và phải nhờ đến những tiếng điên rồ, quái gở và dư thừa
này để chứng tỏ mình còn
kém giáo dục và nói không chính xác. Tôi tưởng rằng về điểm đó,
chúng ta chớ tỏ ra bơ thờ, cẩu thả. Người ta có lý do cho rằng
Đấng Christ đã nói mấy lời này: "Đến ngày phán xét (cuối cùng),
con người sẽ biện giải về tất cả những lời nói vô ích
mà họ đã thốt ra"
[30].
Con phải thành thật trong việc làm, đừng bao giờ kiếm thế phô
trương cái mà con không thật có, vì sự giả trá ngăn cản cái tinh
quang thuần khiết của chân lý, tinh quang ấy phải xuyên qua lòng con
cũng như tia sáng mặt trời giọi ngang qua tấm kiếng trong trẻo vậy.
A. B.
–
Thực hiện sự chân chánh trong việc làm là điều rất khó khăn. Sự
chân chánh này có nghĩa là không bao giờ làm điều gì trước mặt
kẻ khác cốt để họ có một ý kiến tốt đẹp về mình. Khi bạn trơ
trọi một mình, chớ làm điều gì mà bạn phải hổ thẹn khi ở trước
mặt kẻ khác. Cuối cùng luôn luôn phải hết sức ngay thật. Hãy để
cho kẻ khác thấy bạn đúng như thực chất của bạn và đừng
tìm cách làm ra khác hơn vẻ thường ngày. Phần đông chúng ta
có một thứ lý tưởng là
muốn khoe mình cho thiên hạ thấy, bởi thế khi
chúng ta trơ trọi một mình, chúng ta làm mọi chuyẹn nhỏ
nhặt mà chúng ta không làm trước mặt kẻ khác, vì chúng ta có cảm
tưởng rõ rệt rằng họ sẽ có hơi ngạc nhiên mà thấy chúng ta hành
động như thế.
Mỗi khi bạn không sẵn lòng
làm một chuyện gì bởi vì bạn
không ở một mình, thì bạn hãy chống lại ý định đó. Nếu
hành động của bạn tốt đẹp, thì bạn đừng quan tâm đến dư luận của
bàng quan. Bằng trái lại, thì bạn đừng hành động. Có một lúc,
tôi tưởng tôi phải có trước công chúng cái thái độ mà người ta
mong mỏi thấy ở các tác giả hay ở một diễn giả v.v. . . Đôi khi ý
định này nảy sinh từ một lý do tầm thường. Đây là một thí dụ.
Trong khi vượt biển, tôi có thói quen đánh bài, theo ý tôi, đó là
sự tiêu khiển vô hại. Một ngày kia, nảy sinh ra ý tưởng khiến tôi
tự hỏi rằng những người
hành khách nghĩ gì về tôi khi họ thấy tôi đánh bài buổi chủ nhật
vì họ biết rằng tôi dạy Huyền Bí Học, việc đó có làm cho họ
khó chịu không? Rồi tôi thầm nói: "Người ta thấy tôi hay không thấy,
chẳng quan hệ gì. Nếu hành
động của tôi xấu, thì tôi phải
từ bỏ, bằng không dư
luận của kẻ khác chẳng thay đổi nó được chút nào". Về phương
diện này, Bà Blavatsky thật đáng phục , luôn luôn Bà làm theo ý
Bà, không chút kể đến dư luận quần chúng. Nếu người ta nói rằng
cử chỉ của Bà không phải
là cử chỉ của một nhà Huyền Bí Học, thì điều đó có quan trọng
gì? Dù sao những quan sát
viên cũng không hiểu về chuyện đó.
Nhà Huyền Bí Học không
làm ra bộ nghiêm trang và trọng thể, không cố làm mọi việc với vẻ
cao sang, mặc dù người ta tưởng
rằng họ phải có thái độ như thế. Những quan niệm thông
thường về điều đó hoàn
toàn sai lạc. Nhà Huyền Bí Học hết sức tự nhiên. Tôi thiết tưởng
một trong những lý do quan trọng trong thời đại này để
chúng ta sống một cuộc đời hoàn toàn chân thật và ngay
thẳng là chúng ta có bổn phận góp phần nhỏ nhặt trong công việc
dọn đường cho Đức Chưởng Giáo sắp lâm phàm trong một ngày gần đây,
hầu cho con đường này có lẽ được bằng thẳng một đôi chút. Vì các
Đấng Cao Cả không phải luôn luôn thích hợp với chân
dung do con người tạc ra cho các Ngài. Các Ngài không chấp
nhận khuôn khổ nào đã làm
sẵn cho các Ngài, mà các Ngài đến để cải cách thế gian và
thường thường các Ngài sửa đổi một cách triệt để những tư tưởng
đang thịnh hành. Các Ngài quan
tâm đến tánh tình con
người nhiều nhất, nhưng luôn luôn không để ý đến những thành kiến
của họ. Cuộc sống chân thật và ngay thẳng của chúng ta có thể
dùng để chuẩn bị cho sự sinh sản những ý kiến, như thế Đức Di
Lạc lâm phàm, con người bớt nô lệ những thành kiến của họ và họ
ít bị phẫn uất vì sao họ không được khác hơn. Vậy thì sự ngay
thật hoàn toàn phải là đặc
tính trong trạng thái của chúng ta, luôn luôn với điều kiện là
đừng bao giờ rơi xuống thấp hơn lý tưởng của chúng ta. Chúng ta
đừng lầm rằng cách chúng ta hành động
trước mặt kẻ khác không quan trọng, mà chúng ta phải thận
trọng và thành thật trong chỗ mật thiết cũng như
ở giữa công cộng.
C. W. L.
–
Thật hết sức đúng là đừng bao giờ giả bộ, và sự tự phụ nào
cũng có tính cách giả dối, nhưng trong khi chúng ta cố gắng tránh
khỏi tánh đó, chúng ta lại e rằng mình sẽ ngã vào sự quá độ
đối lập. Đôi khi nhiều người nói rằng: "Tôi là thế nào, tôi muốn
tỏ ra như thế đó", rồi họ để lộ ra phần xấu tệ, rất thô tục và
rất tầm thường nhất của họ. Lẽ tự
nhiên cái đó chẳng phải là chân tướng thực sự của họ mà
là sự mô phỏng rất thấp kém, rất xấu xa và đê tiện của con người
thật sự. Cái gì cao thượng nhất, tốt đẹp nhất và thanh cao nhất,
trong bản chất con người, chính là cái gần nhất với Chơn Ngã. Do
đó, muốn sống một cách tự
nhiên, chúng ta phải biểu lộ trạng thái tuyệt đẹp của mình.
Làm bộ sùng tín là một
hình thức láo xược. Một người kia
trước mặt bạn tỏ ra là một nhà Huyền Bí Học, nhưng đồng
thời y lại nói nhiều về địa vị cao sang của y và lòng khoan dung
của y; y cho biết rằng y có nhiều quyền năng phi thường và tìm
cách làm cho những người nhẹ dạ cả tin khâm phục y, cũng như những
nhà đạo đức giả thuở xưa: "Họ thích cầu nguyện trong Thánh Đường
và ngồi ở mấy góc đường để cho thiên hạ trông thấy". Họ cũng
giống như những nhà Luật học và Tu sĩ Do Thái, giả vờ cầu nguyện
rất lâu.[31]
Bạn nên tin chắc rằng họ không phải là nhà Huyền Bí Học Chân
chính. Nhà Huyền Bí Học chân chính không bao giờ giả bộ sùng Đạo,
mặc dù y đã quyết sống một cuộc đời đạo đức rất cao thượng hơn
kẻ tự xưng là "người tự nhiên".
Thường thường người ta
không biết Đức Thầy vì người ta
khăng khăng có một ý niệm Ngài phải như thế này hay như thế
nọ. Nhưng có thể Đức Thầy thực sự Ngài sống khác hẳn với những
điều họ tưởng tượng, Ngài không theo thành kiến và tư tưởng của
chúng ta. Ngài vẫn là Ngài, Ngài ngự trên cõi riêng của Ngài và
nếu chúng ta nô lệ những thành kiến của mình, thì khi Ngài đến,
có lẽ chúng ta không biết được Ngài. Vài người nhất định rằng
Đức Chưởng Giáo sẽ nói và sẽ làm điều gì và các Ngài xử sự ra
sao. Bạn không nên để cho thành kiến ngăn cách bạn với Ngài. Chúng
ta biết rằng Ngài sẽ dạy về thuyết Bác Ái, nhưng chỉ có Ngài
quyết định phương thức và những chi tiết mà thôi. Chúng ta phải
nhất định nhận ra cho được Ngài và sẵn sàng đi theo Ngài đến bất
cứ nơi nào mà Ngài dắt chúng ta đi tới.
CHƯƠNG THỨ MƯỜI HAI
TÌNH BÁC ÁI VÀ SỰ SỐNG
THIÊNG LIÊNG
Phải phân biện điều ích kỷ với điều không ích kỷ, bởi vì
ích kỷ có thiên hình vạn trạng. Khi con tưởng trừ được tật
ích kỷ trong một hình trạng nào rồi, thì nó lại tái sinh trong
một hình trạng khác cũng mạnh mẽ như trước vậy. Nhưng lần lần,
con mãi lo giúp đỡ kẻ khác cho đến đổi trong trí con không còn chỗ
nào và giờ phút nào nghĩ đến con nữa.
A. B.
–
Ở đây Đức Thầy mô tả các điều mà tôi tưởng là cách
duy nhất để đi đến tánh hoàn toàn vị tha. Chắc chắn là có
thể diệt được một hình thức đặc biệt của tánh ích kỷ khi chúng
ta đem tất cả sức cố gắng đặng trừ tận gốc rễ nó, nhưng theo lời
Đức Thầy nói, nó sẽ tái sinh dưới một hình thức khác. Như thế
bạn sẽ mất nhiều thì giờ để tiêu diệt một loại ích kỷ nào đó,
rồi bạn ở vào tình thế
của Hercule khi giết con rắn chín đầu (Hydre); hễ đầu này bị chặt
đứt thì đầu khác lại mọc lên. Nhưng phương thức dặn dò ở đây trừ
được tận gốc.
Một trong những kết quả
quý nhất mà lòng sùng tín hiến cho chúng ta ở đây, tôi tưởng nó
đẹp hơn hết, ấy là tư tưởng mà ta hiến cho một người khác để làm
mục đích của sự sùng đạo; tư tưởng này chiếm trọn cả trí óc
của chúng ta và chúng ta quên mình
mà không có sự cố gắng đặc biệt nào cả. Đó là cách phát
triển thật sự: . . . cũng như đóa hoa tăng trưởng một cách vô tâm
nhưng tha thiết muốn mở rộng tâm hồn dưới ánh dương quang"
[32].
Tất cả mọi
cố gắng là một
dấu hiệu của sự yếu
đuối, nếu bạn tìm
được những phương thức khéo léo để thuyết dụ được bạn bằng cách
nào đó, thì đó quả là một sự thắng lợi lớn lao. Bạn sửa đổi
dòng tư tưởng, bạn tập trung năng lực vào chiều hướng tốt lành
rồi tánh xấu sẽ chết lần mòn. Đó chính là cách hay hơn hết để
chế ngự các tánh xấu của mình, bởi vì nghĩ đến tánh xấu, dù
là hối hận, cũng gia tăng sức mạnh của nó.
Bạn chỉ nghĩ đến kẻ khác
thôi, rồi Đức Thầy đã nói, bạn sẽ không còn thì giờ cũng như
không còn chỗ trống nào trong tâm trí để nghĩ đến chính mình nữa.
Và điều này sẽ là hạnh phúc của bạn. Riêng tôi, tôi nhận thấy
quả đúng như vậy. Khi tôi muốn phiền
muộn và có hơi luyến tiếc một chuyện
riêng tư (Tôi tưởng hiện giờ không còn như
thế nữa, trước kia tôi đã bị điều đó rồi) thì tôi đem hết
tâm trí tôi lo giúp đỡ kẻ
khác và làm việc cho họ. Buồn bực về những trường hợp chỉ làm
cho một mình chúng ta xúc động là ích kỷ vậy. Điều đó chỉ đem
lại sự đau khổ cho chúng ta thôi. Tuy nhiên nhiều người vẫn làm như
thế. Họ ngồi xuống và nói: "Ôi buồn quá! Khổ quá! Thật đau đớn
cho tôi. Người ấy không cần đến tôi, không lo lắng gì đến tôi, không
thương yêu tôi". Rồi cứ than van mãi như thế không thôi.
Mấy điều đó là ích kỷ:
Phương thức chữa bệnh buồn bực lẫn bệnh ích kỷ là tức khắc làm
việc đặng giúp đỡ một người khác. Trong
khi làm việc, trí của bạn không thể chứa một lượt hai mục
tiêu và khi bạn không còn nghĩ đến bạn nữa thì bạn bắt đầu có
hạnh phúc. Bạn tìm hạnh phúc từ khi bạn có thể nói rằng: "Tôi
không đòi hỏi những ai ở chung quanh tôi một điều gì cả. Tôi yêu
thương họ và không cần cái chi cả để bù đắp
lại". Thường thường người ta gọi là tình thương, một mảnh
tình bị lớp màn
ích kỷ dày
đặc bao bọc. Tình
thương gây ra sự đau khổ ư; thì chính là sự
ích kỷ đã hiện diện trong đó.
Đây là một bài học rất
khó cho những kẻ thành tâm, và có tình thân ái, tôi vẫn biết như
thế. Tuy nhiên chúng ta phải học lấy bài này vì nó sẽ mang đến
hạnh phúc và sự bằng an cho chúng ta. Chính tôi đã kinh nghiệm
điều đó rồi. Bạn hãy tập trung thương yêu
tất cả mọi người và đừng đòi hỏi một điều gì
để đền đáp lại và khi bạn đạt được mục đích, nhiều người
sẽ thương yêu bạn, nhưng ngày
nào bạn còn tỏ ra thèm thuồng, thì bản năng tự nhiên của họ lại
dè dặt, thận trọng. Bài học thật khó khăn thay, nhưng khi đã hoàn
toàn lãnh hội được, thì nó sẽ mang lại một sự an tịnh không thể
nào lay chuyển nổi, dù cho người mà chúng ta hết dạ yêu thương trở
nên khó chịu với chúng ta
trong chốc lát. Không có gì đáng kể: bạn biết rằng một ngày kia
người ấy sẽ đổi thái độ và
trong khi chờ đợi, bạn vẫn thương yêu y như trước. Ban đầu khó
chăng? Hãy quyết định đừng lo đến điều đó. Bạn hãy thầm nói
rằng: "Dù cho sự đau khổ của bản ngã thấp hèn của tôi đến thế
nào chăng nữa, điều đó đối
với tôi không có nghĩa lý gì hết". Chúng ta là gì ? Hay ít ra bản
ngã thấp hèn của chúng ta là thế nào, mà chúng ta thương hại cho
những sự đau khổ của chúng ta hay là đòi quyền được kẻ khác
thương yêu ? Nếu bạn giữ thái độ đó với những nỗi khổ đau của
bạn thì bạn sẽ vượt lên trên nó được.
C. W. L.
–
Nghĩ đến một điều lầm lỗi là tăng thêm sức cho nó. Đó là điều
sai lầm mà hệ thống Cơ Đốc giáo thường vướng phải về việc truyền
lệnh cho con người phải ăn năn và hối hận những lỗi của mình. Khi
con người càng hối hận, y càng nhấn mạnh tư tưởng của y về những
tội lỗi của y đã làm thì chúng càng tăng thêm ảnh hưởng của
chúng. Trái lại, nếu người ta tiếp tục theo đuổi con
đường của mình và làm việc cho kẻ khác, thì hình tư tưởng
đó không được thêm sức, nên tự nhiên nó phải chết và tự tách rời
ra rồi rơi vào sự lãng quên. Tự xét mình một cách yếu đuối, bệnh
hoạn thường biến một lỗi nhẹ thành ra một lỗi nặng. Người ta
thường nghĩ đến những đứa trẻ luôn luôn nhổ gốc cây coi nó có mọc
không. Cũng như một người kia đầy nhiệt tâm đang làm một việc tốt
đẹp và cao quý, rồi y bắt đầu tự nghi ngờ mình và thầm nói: "Tôi
không chắc vì lý do của tôi
là trong sạch, tôi phải hành
động vì lòng kiêu hãnh của tôi", hoặc nếu người ấy làm giảm bớt
những nỗi khổ đau của kẻ
khác rồi y lại nghĩ: "Thật
ra trong đó có sự ích kỷ; vì không thể chịu được việc mục kích
những nỗi thống khổ này, tôi đã xoa dịu chúng". Trong Thánh Đường
Anh Quốc, người ta nói: "Lạy Chúa xin thương xót chúng tôi là kẻ
tội lỗi rất khốn khổ". Chúng ta là kẻ tội lỗi, có thể đúng như
vậy, nhưng làm cho tội lỗi chúng ta trầm trọng thêm do những sự đau
khổ của chúng ta và làm cho những kẻ khác cũng khốn khổ như mình
thì thật là vô ích. Đừng bao giờ nhấn mạnh về quá khứ mà hãy
quyết tâm làm cho tốt đẹp hơn trong tương lai. Rất vô ích mà cầu
mong lúc bây giờ đừng làm việc này hay việc nọ. Tốt hơn nên nói:
"Tôi đã làm việc ấy, đó là
điều đáng tiếc. Mặc kệ. Đây là hoàn cảnh hiện tại của công việc.
Tôi phải xem xét coi điều gì tôi có thể làm được để cho công việc
tốt đẹp hơn". Tôi không muốn nói rằng tới một mức độ cao siêu
chúng ta không thể sửa chữa
dĩ vãng được, nhưng điều đó kể ra đây là một việc
ít thực tế đối với
chúng ta vậy.
Trong Bát Chánh Đạo của
Đấng Thế Tôn, Đức Phật của chúng ta, con đường thứ bảy là Chánh
Niệm. Đức Phật nói với những người theo Ngài như sau: "Phải hết
sức đề phòng trong việc khêu gợi những ký ức của các con. Nếu
các con nói: không thể quên
được điều gì, tức là các
con chưa làm chủ được ký ức của các con, các con không chế ngự
được trí tuệ của các con, nó vốn là một thành phần của các con.
Cái đó cũng giống như khi các con đi
ngoài đường các con lượm tất cả những rác rến nhơ bẩn mà
các con gặp. Các con chất chứa bừa bãi trong ký ức của các con
tất cả những thứ vô ích và xấu xa. Các con
chỉ nên
nhớ những chuyện tốt
lành và đặc biệt, hãy quên phức những chuyện khác". Rồi Đức Phật
kể một cách tỉ mỉ và rõ ràng những điều nào mà phải quên, như
những lời xúc phạm làm phật ý, mếch lòng, sự khinh bỉ và những
sự nhục mạ tưởng tượng. Chúng thuộc về những điều chúng ta phải
triệt để quên mất đi. Trái lại, thuộc về những điều phải ghi nhớ
là những lời nhân từ của kẻ khác đã nói với chúng ta, tất cả
những ân nghĩa mà chúng ta đã thọ lãnh, tất cả những tánh tốt
mà chúng ta đã nhận thấy ở
kẻ khác.
Chúng ta phải tập thương
yêu những người mình gặp trong cuộc sống hằng ngày. Tôi không nói
rằng phải thương tất cả đồng
bậc với nhau. Người ta không đòi hỏi điều đó. Chính Đức
Phật cũng có một đệ tử mà Ngài thương hơn hết là Ananda (Ác-nan)
và Đấng Christ cũng có một đệ tử mà Ngài yêu nhất là Thánh Gioan
(Saint Jean). Trong buổi ăn cuối cùng trước ngày mà Ngài chịu
khổ nạn, Thánh Gioan
nép mình vào lòng Ngài. Chúng ta không
bị bắt buộc phải thương yêu mọi người giống như nhau, hoặc
phải thương yêu họ như thương cha, mẹ, vợ, con. Trái lại ta nên tỏ ra
rất tử tế và có
lòng thương yêu đối với tất cả mọi người, mà không hề oán ghét
một ai. Chúng ta phải có thái độ này và không hề trông mong kẻ
khác đền đáp lại. Mọi sự thỉnh cầu đều bao hàm một cao vọng;
yếu tố ham muốn lại dự vào. Rồi chúng ta lại nghĩ đến mình chớ
chẳng phải nhớ đến những người mà mình thương
yêu. Ban rải sự yêu
thương mà không có ý mong mỏi được đền đáp lại, chỉ như thế mới
đáng gọi là tình thương. Không có lòng thương người (vị tha), thì
con người sẽ nuôi tánh ghen ghét, tật đố cùng nhiều sự ham muốn
khác. Tình thương của họ không phản chiếu
một màu hồng đẹp đẽ
và trong trẻo mà lại nhuộm màu đỏ nâu, ấy là một sự biểu hiện
buồn bực mà hình dáng cũng xấu xa và thảm đạm; thay vì tỏa ra
như ánh sáng mặt trời, nó
lại cong xuống và giữ chặt
lại, nó truyền ra theo đường cong khép kín, thường chỉ ảnh hưởng
đến kẻ sinh ra nó mà thôi. Tình bác ái thiêng liêng triệt để làm
cho các cõi chuyển động. Nó túa ra những đường cong rộng lớn vô
cùng nhưng chúng không trở về trung tâm và cũng không muốn
quay lại con đường chúng đã đi. Tình bác ái đó ban rải ra
theo những thứ nguyên khác nhau và trên
những cõi khác nhau để hoàn thành cơ tạo theo Thiên Ý. Đó
là bài học mà chúng ta phải học cho thật thuộc. Nó rất
khó bởi vì muốn
thành công chúng ta
phải diệt trừ bản
ngã thấp hèn, nhưng đó chính là con đường dắt đến sự an
lạc vậy.
Con phải phân biện một cách khác nữa. Phải tập phân biện Đức
Thượng Đế trong mọi loài và trong mọi vật, dù chúng có thật xấu
xa hay dường như có vẻ xấu xa cũng vậy.
Con có thể giúp người huynh đệ của con luôn luôn là nhờ con với y
đồng chung có sự sống thiêng liêng trong mình. Hãy học hỏi cách kêu
gọi sự sống đó trong người
y. Như thế con mới ngăn ngừa nó khỏi bị tai hại.
A. B.
–
Đây là bài học cuối cùng về sự phân biệt điều chân với điều giả.
Dù chúng ta đứng trước sự xấu xa đến đâu đi nữa phải biết vẫn có
Đức Thượng Đế trong đó, bởi vì nó không thể hiện hữu, nếu không
có Ngài hiện diện bên trong. Trong những bản Kinh Thánh Ấn Độ không
ngớt lập lại chân lý này: "Ta là cách chơi của kẻ gian lận"
[33].
Đó là
lời nói của Đức Thượng Đế trong
quyển Thánh Ca - Bhagavad Gita - , câu cách ngôn này thường gây bực
tức rất nhiều cho độc giả. Tuy nhiên đó là chân lý, kẻ gian phải
học một bài học bằng cách ấy, vì không chịu học bằng
phương pháp tốt đẹp hơn. Người nào không thể tuân theo giới
luật; thì phải học theo cách kinh nghiệm những luật tự nhiên.
Những luật mà chúng ta gọi là luật tự nhiên như thế vốn là sự
biểu lộ cụ thể hữu hình
nhất của trí tuệ thiêng liêng.
Chúng nó vốn vững vàng
như đá, không lay chuyển được. Trong khi va chạm vào chúng nó mà bị
thương tích, con người nhờ sự đau đớn, mới học tập cách tránh xa
những sái quấy như thế trong tương lai. Người nào không chịu học
tập bằng những giới luật
hoặc bằng những gương mẫu (ở đời không thiếu chi gương mẫu) thì y
bắt buộc phải học tập bằng sự đau khổ là sự báo ứng của sự vi
phạm Luật Trời. Dù sao y cũng được đưa đi đến chỗ hiệp nhất, bởi
vì sự tiến hóa là sự biểu hiện của Thiên Ý và ý chí của
Thượng Đế. Tôi tin rằng chính đây là ý nghĩa của câu Thánh Kinh Do
Thái: "Nếu ta lên Trời, thì ngươi cũng lên đó với ta". Đến đây không
có chi là mờ ám khó hiểu. Tất cả chúng ta đều biết rằng Đức
Thượng Để ở trên Trời. Nhưng tác giả Thánh Kinh nói tiếp:
"Nếu ta ngủ dưới địa ngục,
thì ngươi cũng ở đó"
[34].
Vậy
bạn nên biết Trời ở
trong tất cả những gì chung quanh bạn; cái khác còn lại không liên
quan chi đến bạn. Đó là một cách và cũng là một cách duy nhất
để bạn giúp đỡ người huynh đệ của
bạn bởi vì cả hai đồng chung sự sống thiêng liêng. Ngoài
điều đó ra, thì tất cả cái còn lại đều dị biệt. Nhưng về sự
sống thiêng liêng thì cả hai chỉ là một. Ấy là một phương tiện,
một đòn bẫy có thể dùng để giúp đỡ bằng mọi cách. Bạn muốn
giúp đỡ một người nào để trừ khử một tật xấu của y chăng?
Bạn nên nhớ rằng ý muốn diệt trừ
tánh xấu của y cũng nhiệt thành như ý muốn của bạn. Y khổ
sở vì tật xấu của y và
nếu gặp được "con người thật" trong mình y thì bạn sẽ thấy y khao
khát được giải trừ tất xấu ấy là dường nào! Đó mới thật là
cách giúp đỡ. Con đường nội tâm không làm hại hoặc
sỉ nhục đến ai bao giờ.
C. W. L.
–
Tất cả những gì hiện hữu trong cõi này, cũng như ở những cõi
khác, đều là một biểu hiện của sự sống thiêng liêng; do đó, tất
cả, điều lành cũng như điều dữ, đều là sự biểu hiện của Thượng
Đế. Không một vật gì hiện hữu được nếu không có Thượng
Đế là trái tim và cội rễ của nó. Tất cả những bản Thánh
Kinh đều nhấn mạnh đến sự kiện này. Chẳng hạn như trong
Thánh Kinh Cơ Đốc: "Ta tạo ra ánh sáng và làm ra bóng
tối; Ta tạo ra sự bình an và gây ra tai hoạ; chính ta là
Yaweh, Đấng đã làm ra mấy điều
đó"
[35].
Người ta rất khó hiểu được tại sao những gì mà con người cho là
sự ác lại cũng là thiêng liêng, nhưng sự thật là như thế. Vẫn có
những anh Bàng Môn Tả Đạo và những kẻ đồi bại, bất chính đủ
hạng, nhưng trong mình của họ đều có sự sống thiêng liêng, bởi vì
ngoài nó ra không có sự sống nào khác.
Nếu một người kia vì vô
minh và vô lý làm ác thì chung qui điều lành cũng sẽ do đó
mà sinh ra. Người đó không thể tiến hóa bằng cách nào khác hơn
được. Kẻ gian
xảo sẽ lừa bịp, y đã quyết định như thế. Trong khi chờ đợi,
y không thoát khỏi Luật Trời. Y
đã phạm tội, nhưng từ cái quấy y thu thập được một sự lợi
ích là học được một bài học và sự thất bại sẽ dắt y vào con
đường chánh. Chính vì thế
mà phải nói rằng đó là một phương thuốc cuối cùng, nhưng cũng là
một phương thuốc vậy; chúng ta phải biết rằng nó
thuộc về Thiên Cơ.
Theo một ý nghĩ nào đó,
nhất định tất cả đều là Thượng Đế; nhưng nói như
thế không đúng với ý nghĩa trong mấy câu
này: ấy là tinh thần
của Thượng Đế trong mỗi cá nhân làm ra con người. Nếu bạn có thể
thấy xuyên qua Phàm Nhơn quá biến dạng, quá đồi trụy này để đi
đến sự sống thiêng liêng trong con người thì bạn mới có thể kêu
gọi nó. Đừng quên rằng kẻ dữ với tư cách là Linh Hồn vẫn khao
khát sự tiến bộ như chúng ta vậy. Y muốn được giải trừ khỏi sự
ác, nó đeo đuổi, nó ám ảnh và khuấy rối bản ngã y. Nếu ta đi
đến được tâm hồn của y bằng
cách soi thấu lớp vỏ bề ngoài do sự cứng rắn và sự hung ác của
y tạo thành, thì kẻ dữ sẽ vội vàng trợ lực chúng ta để giúp
Phàm Nhơn.
Một phần lớn trong đời
tôi, tôi làm Mục Sư và phụ tá ngoài Giáo Hội (người lương), tôi đã
làm việc trong những khu vực
tồi tệ nhất ở Anh Quốc. Tôi đã thấy nhiều người mà thiên hạ cho
là những kẻ sát nhân tàn nhẫn, đến đỗi tôi không mong gì cải hóa,
nhưng tôi không hề gặp một người nào mà không có trong tận
đáy lòng một điểm lành; thí dụ như tình thương của y đối với một
con chó, dường như chỉ có
điều này nhắc nhở chúng ta y là một con người mà thôi, nhược bằng
không có điều này, thì y quả là một
con thú, một con thú nguy hiểm. Tuy nhiên, trong người y có sự
sống duy nhất. Về phương diện chính xác này, nếu chúng ta giao
thiệp được với y thì chúng ta còn hy vọng kêu gọi sự sống duy
nhất đó, chúng ta có thể giúp y tiến lên.
A. B.
–
Đức Thầy chấm dứt bằng mấy lời này: "Như thế con
ngăn ngừa được người huynh đệ của con khỏi bị tai hại". Ở
đây lời kêu gọi của Ngài mạnh mẽ hơn
hết. Thật ra, đối với vị đệ tử, công
việc đó là lý do và
mục tiêu của đời sống, bởi vì vị này
chỉ có một ước vọng duy nhất là trở thành một Đấng Cứu
Thế. Không có lời kêu gọi nào đem lại sự ích lợi cho cá nhân của
người đệ tử có hiệu lực hơn là lời kêu gọi này. Đức Thầy chỉ
sống để giúp đời. Đời sống chúng ta càng biểu hiện tinh thần
phục vụ thì nó càng giống hệt đời sống của Ngài.
TÁNH
ĐOẠN
TUYỆT
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BA
A. B.
–
Bây giờ chúng ta đã đến đức tánh thứ hai mà tiếng Phạn gọi là vairagya và theo Đức Thầy gọi bằng Anh ngữ là Tánh Đoạn
Tuyệt. Phiên dịch như thế thật rất đúng. Trước kia tôi dùng danh từ
"không đắm mê", nhưng từ nay tôi sẽ đổi lại là Tánh Đoạn Tuyệt như
Đức Thầy đã chọn.
Đối với nhiều người thì tánh đoạn tuyệt là một đức tánh khó
tập được, vì họ tưởng rằng những điều ham muốn tạo ra con người
họ. Và nếu những điều ham muốn riêng tư, những thiện cảm và những
bất thiện cảm của họ bị diệt mất, thì họ không còn cái chi cả.
A. B.
–
Hầu hết những người thành tâm muốn đi trên con Đường Đạo đều nhận
biết Chân lý của câu đầu tiên, trong đó Đức
Thầy nói rằng Tánh Đoạn Tuyệt là một đức tánh được chỉ
định cần thiết và khó tập được. Bởi vì con người đồng hóa với
dục vọng của mình nên sự khó khăn mới do đó sinh ra. Ngày nào một
dục vọng chưa được thỏa mãn còn
làm cho bạn khổ sở, thì ngày đó bạn còn đồng hóa với nó.
Tốt hơn là biết và nhìn nhận điều đó, bởi vì rất dễ mà tưởng
rằng bạn đã thoát ra khỏi dục vọng, nhưng thật ra bạn chưa giải
trừ được chút nào. Một số đông người đời thích cho rằng họ đã
chủ trị được những dục vọng của họ, tuy nhiên trọn đời họ và
mỗi hành vi của họ đều chứng tỏ họ chưa thoát khỏi tay chúng nó.
Điều hay hơn hết là nhận ra sự thật ấy, nếu bạn chưa làm được
điều đó; rồi bạn mới sẵn sàng áp dụng phương thuốc.
Bước đầu tiên là chú
trọng đến ý niệm này: "Tôi không phải là dục vọng". Đến đây bạn
có thể nhờ sự giải thích
của tôi về vấn đề bẩm tính. Bẩm tính này cũng thay đổi như dục
vọng. Vậy cái gì thay đổi
đều không thể là Chơn Ngã
và tất cả mọi sự xao động thay đổi đều không liên hệ gì đến nó.
Chẳng hạn, tôi biết có nhiều người, một hôm nói như vầy: "Hữu
phước thay được ở bên Adyar và suy gẫm về những việc trọng đại
xảy ra bên ấy". Nhưng ngày
mai, họ lại thấy tinh thần suy nhược, họ ngã lòng, rủn chí. Họ
không phải là bẩm tính bất thường này, không phải là sự nhiệt
thành, mà cũng không phải sự ngã lòng thật là bạn đâu. Cả hai
chỉ là sự rung động tạm thời của Cái Vía, do sự đụng chạm bên
ngoài gây ra.
Do đó, người ta khuyên
bạn nên
tham thiền mỗi ngày, bởi vì khi dục vọng của bạn chưa nằm
yên, bạn không thể nào tham thiền cho có hiệu quả được. Nhờ tham
thiền đều đặn và tận tâm
dần dần bạn sẽ phân biệt được Chơn Ngã ẩn phía sau những sự ham
muốn của bạn. Hãy kiên tâm
tiếp tục tham thiền trọn ngày tập lấy thái độ cần thiết, thì
bạn sẽ bắt đầu phân biệt được Chơn Ngã một cách thường trực. Rồi
bạn sẽ không còn đồng hóa bạn
với dục vọng của bạn và không còn luôn luôn cảm thấy rằng:
"Tôi có ý định, tôi ước mong, tôi muốn" mà bạn sẽ nghĩ rằng:
"Không phải là Chơn Ngã của tôi đâu
mà ấy là bản
ngã thấp hèn của tôi đó".
Đây là bài học đầu tiên
và trọng
đại mà Đức Thầy dạy về các Đức tánh cần thiết thứ hai.
Trước khi được Điểm Đạo
[36],
chúng ta không bị bắt buộc
phải đoạn tuyệt hoàn toàn. Tuy nhiên, Đức
Thầy mong mỏi bạn
thực hiện được một phần lớn lao của sự
đoạn tuyệt, và đối với chúng ta, ý muốn của Ngài là một
định luật . . . . Trước khi bạn có thể được Điểm Đạo, thì tất cả
những sự dao động từ sự ngã lòng, rủn chí qua sự bồng bột, sôi
nổi, hai cực đó đều phải chấm dứt.
C. W. L.
–
Nhiều người không cố gắng
chút nào để phân biệt dục vọng với Chơn Ngã, mà họ nói rằng:
"Trời sinh tôi ra thế nào thì tôi thế ấy. Nếu tánh tình tôi không
tốt, ý chí tôi bạc nhược, thì cũng do Ngài tạo ra. Nếu tôi không
đủ nghị lực chống chõi lại sự cám dỗ, đó là tại tôi sinh ra như
thế". Họ không hiểu rằng trong những kiếp quá khứ, họ đã tự tạo
ra chính họ, nhưng có thói quen xem tính khí họ như vật bất biến
mà người ta tặng cho họ, cũng như một người có thể sinh ra đã đui
mù hay què quặt vậy. Họ không nhận rõ họ có bổn phận sửa đổi
tánh xấu của họ. Họ không
biết rằng họ có khả năng sửa đổi và họ không thấy tại sao họ
phải nhọc công như thế.
Thường thường người bậc
trung không thấy được lý do nào đủ sức thúc giục y đảm đương công
việc rất khó nhọc để sửa đổi tánh tình. Vài người nói với y
rằng: "Nếu bạn không sửa
đổi tánh tình thì bạn không được lên Thiên Đàng". Nhưng nhiều người
trả lời rằng đối với họ sự buồn bực ở trên Trời không thể diễn
tả được và họ hy vọng có một tương lai khác hơn. Thật ra, chắc
chắn lý thuyết về đời sống trên cõi Thiên Đàng dù được truyền bá
rộng rãi, nó cũng ít có ảnh hưởng thực tiễn đến đa số quần
chúng, chắc chắn bởi vì nó
ít đúng với sự thật. Trong
tất cả những lý thuyết mà tôi đã biết, chỉ có một lý thuyết
dường như có thể thúc đẩy con người cố gắng được mà thôi: đó là
giáo lý Thông Thiên Học. Thông Thiên Học chỉ cho chúng ta việc nào
đáng cho chúng ta phải cố gắng. Nó cũng chỉ cho chúng ta biết
rằng chúng ta có đủ cơ hội
và thì giờ để thành công một cách
trọn vẹn. Nếu con người hiểu được Thiên Cơ và tìm cách
phụng sự nó, thì y đã tìm được động lực mạnh mẽ nhất để góp
công vào sự tiến hóa và chuẩn bị cho nhiệm vụ đó. Rồi y nhận
biết rằng y có thể sửa đổi triệt để tính khí và bẩm chất của y
và y biết chắc chắn sẽ thành công.
Chơn Ngã quyết định tiến
hóa, lo phát triển Phàm Nhơn và làm cho
các thể thấp hòa
nhịp với Ngài đặng thành những khí cụ
để cho Ngài dùng. Mọi sự ham muốn thuộc về loại khác và
bản tính trái ngược chứng tỏ rằng nó không thuộc về Linh Hồn. Do
đó, chúng ta không nói: "Tôi muốn cái này",
mà lại nói : "Tinh
chất dục vọng của tôi lại hoạt động. Nó muốn cái này hoặc cái
kia, nhưng tôi là Chơn Ngã, tôi muốn tiến hóa. Tôi muốn
cộng tác với Thiên Cơ. Tính khí và những sự ham muốn bất
thường này đối với tôi không
có nghĩa gì hết". Khi
mà một sự ham muốn chưa được thỏa mãn còn có thể làm cho con
người đau khổ, thì chắc chắn y còn tự đồng hóa với tinh chất dục
vọng của y.
Nhưng mấy người đó chưa thấy được Chơn Sư, vì khi đứng trước Thánh
Dung, hào quang rực rỡ, thì sự ham muốn nào cũng tiêu tan hết, chỉ
trừ việc muốn sao cho được giống như Ngài vậy. Nhưng trước khi có
hạnh phúc được đối diện với Ngài, nếu con chí quyết thì con có
thể tập tánh đoạn tuyệt được.
A. B.
–
Điều này còn nhắc nhở chúng ta nhớ lại một đoạn Kinh
trong quyển Thánh Ca Bhagavad
Gita như sau : "Những đối tượng của giác quan, chớ không phải sự
ham muốn những đối tượng này, sẽ quay đi chỗ khác
tránh xa người tiết dục, và sự ham muốn còn
lại cũng bỏ y mà đi, khi người ấy thấy được Đấng Tối Cao "
[37].
Tất cả dục vong đều
tiêu tan, khi con người thấy thoáng qua một đối tượng duy nhất
đáng ước mong. Bởi đó khi bạn được
phép thấy Chơn Sư thì sự hiện diện của Ngài giúp bạn không
những thoát khỏi những điều ham muốn, mà còn giải trừ ngay tánh
ham muốn nữa. Tánh ham muốn là một cái rễ có nhiều nhánh nhóc;
người ta ra công chặt đứt những nhánh nhóc này, nhưng khi mà rễ
cái còn thì nó sẽ sinh
những nhánh nhóc mới khác mà sự hiệp nhất với Đức Thầy sẽ giải
thoát bạn khỏi cội rễ của
mọi sự ham muốn.
Tuy nhiên, Đức Thầy nói
với chúng ta rằng, trước đó, nếu con muốn, thì con sẽ đạt được
Tánh Đoạn Tuyệt. Ba chữ "Nếu con muốn" chứng tỏ một sự
quan trọng đặc biệt.
Chúng chỉ cho chúng ta thấy đâu là chỗ khó khăn. Không phải chỉ là
tài năng mà thôi, nhưng hầu hết luôn luôn không có ý chí hoạt động.
Nếu nghị lực của bạn
dùng để lo lắng cho công việc của bạn trên Đường Đạo
cũng bằng nghị lực của bạn sử dụng để điều khiển hoạt
động của bạn ở thế gian, thì sự tiến bộ của bạn sẽ nhanh chóng
hơn nhiều.
C. W. L.
–
Đây là một trong những câu châm ngôn đẹp nhất trong
quyển sách quí giá này. Thật thế, khi bạn thấy được Chơn
Sư và hiểu được Ngài là sao, thì mọi dục
vọng thấp hèn của bạn đều tiêu tan. Trọn cả con người bạn
đều thấm nhuần một thứ gì cao thượng hơn. Nhiều người mong muốn
có Tánh Đoạn Tuyệt, nhưng
họ luôn luôn bám víu vào những vật họ ham muốn và họ đau khổ
khi thiếu chúng nó. Thật sự họ không ước mong có Tánh Đoạn
Tuyệt đâu. Họ chỉ có tư tưởng cầu mong mà thôi. Đó chỉ là bề
ngoài, chớ không phải trong thâm tâm của Phàm Nhơn họ. Điều hay hơn
hết chúng ta nên tự vấn chúng ta trên phương diện này, chúng ta suy
xét kỹ lưỡng để xem coi chúng ta có quả thật thoát khỏi những
dục vọng thấp hèn này chưa. Người Thông Thiên
Học thường cho rằng mình đã đạt được Tánh Đoạn Tuyệt và
xem dục vọng như những vật vô hại, nhưng có nhiều vật nhỏ mọn
không đáng kể đó lại bám rễ rất sâu. Người ta tảo thanh chúng nó
trên mặt, nhưng chúng nó xuất hiện lại dưới những hình thức mới
và thật khó quả quyết là chúng nó mất hẳn. Phước
thay cho chúng ta, trong tình trạng hiện tại, không phải bắt
buộc tận diệt các dục vọng. Sau khi được
Điểm Đạo, những rễ của vài thứ dục vọng còn sống sót,
nhưng rồi phải nhổ tận gốc chúng. Tuy nhiên, tốt hơn hết nên nhổ
sạch chúng ngay bây giờ đây. Bước tiến hóa của chúng ta sẽ dễ
dàng và nhanh chóng hơn. Chúng ta thực hiện điều này được, vì Đức
Thầy không hề khêu gợi điều gì mà chúng ta không thể
làm được, dù Ngài có
đưa đến cho chúng ta những nhiệm vụ để thử thách sự bền chí hay
sức mạnh tinh thần của chúng ta; đó là những nhiệm vụ cần thiết
nếu chúng ta muốn tiến bộ nhanh chóng.
Tánh phân biện đã chỉ rõ rằng những vật mà phần đông người đời
khao khát như của cải, quyền thế, thì không đáng nhọc công chiếm
hữu chút nào. Song khi nào thật hiểu điều này, chớ không phải chỉ
nói ra mà thôi, thì sự ham muốn mấy điều đó mới tiêu tan.
A. B.
–
Những sự ham muốn về của cải và quyền thế đều mang nhiều hình
thức khác nhau, chúng không luôn luôn thuộc về tiền tài,
thế lực của xã hội hay chính trị. Thường thường tài sản
là vật mà người ta ước muốn đầu tiên, nhưng chính nó không phải
là một vật sở hữu có ích
lợi, vì nó khuyến khích sự ham muốn và không bảo đảm được hạnh
phúc, như người ta có thể nhận thấy ở những nhà giàu, họ không
làm ra một hạng người có phước. Đối
với quyền tước xã hội hay chính trị cũng thế. Tất cả là
bụi bậm, hào nhoáng, đồ giả chớ không phải vàng ròng. Kinh Gita
có nói rằng:
"Người khôn ngoan luôn luôn bằng
lòng, mặc dù có những gì xảy đến cho họ; hoặc nói cách khác,
người vui lòng và lợi dụng
những gì có thể giúp ích được mà không mất thì giờ và nhọc công
cầu xin điều gì khác".
Ít có người chiếm được
địa vị cao sang trong xã hội hay chính trị, nhưng dù không
chiếm được địa vị đó đi nữa sự cám dỗ của quyền tước cũng vẫn
thường có. Quyền tước bao gồm sự ham muốn bắt buộc
kẻ khác tuân theo mệnh lệnh
của mình, cùng là can thiệp vào những công chuyện của người
khác và điều khiển chúng thay vì phải lo liệu những công việc
riêng của mình. Sự ham muốn
quyền tước trong xã hội hay chính trị chắc là không lan rộng lắm,
nhưng thường thường người ta chú ý đến một điều ao ước
xấu xa là muốn thấy
kẻ khác hành động theo ý
tưởng của chúng ta. Phải trừ khử tánh này, nếu chúng ta
muốn tiến bộ. Những người đã quyết định đi đến mục đích, như
phần đông chúng ta, thì sẽ thấy ngay rằng bản ngã thấp hèn của
chúng ta cho chúng ta nhiều điều phải làm, nó không cố gắng xúi
giục chúng ta xen vào đời sống của thiên hạ. Chơn Ngã ở trong ta
cũng là một với Chơn Ngã ở trong những kẻ khác và cách Chơn Ngã
thích biểu hiện trong những
kẻ khác chỉ liên hệ đến họ, chớ không dính dấp gì đến chúng ta.
Thế nên, phải từ bỏ mọi
khuynh hướng can thiệp.
Bạn không có quyền can
thiệp, chỉ trừ khi nào bạn có bổn
phận, nghĩa là trong
trường hợp duy nhất mà bị hạn chế là bạn có quyền điều khiển
những người mà Tạo Hóa hay Nhân Quả đặt để dưới quyền bạn, chẳng
hạn như con cái, tôi tớ hay thợ thầy của bạn. Đối với trẻ con, sự
chỉ huy là sự bảo vệ nó
trong suốt thời kỳ nó còn yếu
đuối cần được chở che. Sự chỉ huy phải giảm dần dần
khi Chơn Nhơn của nó chiếm lấy những
thể của nó một cách trọn vẹn hơn. Đối với những người
đồng đẳng với bạn (tôi dùng chữ đồng đẳng với nghĩa rộng của
nó), thì lẽ tất nhiên là bạn không có quyền can thiệp.
C. W. L. - Những người
thường muốn lo lắng cho mấy kẻ khác, chỉ vì họ tưởng rằng họ có
khả năng điều khiển công việc của mấy người đó. Nhưng
rốt cuộc họ không
biết gì hết. Thiên lực đang
hoạt động trong mỗi người; chúng ta hãy để nó hành động theo cách
thế riêng của nó. Đấng Christ há chẳng nhắc nhở những người Do
Thái đoạn này trong Thánh Kinh của họ sao: "Các người là những vị
Thượng Đế, và vì việc họ là con cái của Đấng Tối Cao"
[38].
Có lẽ đồng bào của bạn hành động đúng; cũng có lẽ sai lầm,
nhưng khi mà y thành thật, đúng đắn và chăm chú làm hết sức mình
thì mọi sự sẽ tốt đẹp. Hãy để y thắng điểm, dù bạn là
tay đánh cầu giỏi hơn y. Đôi
khi, người ta có thể khuyên lơn kẻ khác thật khéo léo, có lễ độ
và thận trọng, nhưng thường lắm, khuyên như
thế cũng là vô lễ nữa. Dù bất cứ trường hợp nào cũng
đừng bao giờ bắt buộc ai nghe theo ý mình. Việc lo lắng đầu tiên
của chúng ta là phải sắp đặt công chuyện của chúng ta cho có trật
tự, bởi vì mỗi người phải
chịu trách nhiệm đối với
chính mình mình.
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BỐN
�
Y
�
DUY CÓ MỘT ĐIỀU HAM MUỐN TỐT HƠN HẾT
Tới đây tất cả đều dễ, miễn là hiểu thì đủ rồi. Nhưng có vài
người từ bỏ việc đeo đuổi mục đích trần tục hầu về thiên đàng
hay là để riêng mình thoát đọa luân hồi. Con đừng phạm lỗi đó.
C. W. L.
–
Ý muốn giải thoát cho riêng mình được biểu lộ nhất ở Ấn Độ, vì
tại đây việc tin tưởng vào sự Luân Hồi được phổ biến rất rộng
rãi. Đối với người Thiên Chúa Giáo bực trung thì Thiên Đàng cũng
là giải thoát chúng ta khỏi đời sống trần tục. Vì những bài học
này để dạy một bé trai Ấn Độ, nên trước nhất, nó được đem áp
dụng theo những tình thế đặc biệt của xứ Ấn Độ, mặc dù những ý
niệm ấy cũng có thể giúp ích rất nhiều cho thế giới Tây Phương
của chúng ta. Là người Thông Thiên Học, chúng ta không cố gắng quá
sức để được hưởng hạnh phúc trên cõi Thiên Đàng, nơi mà con người
phải trải qua nhiều trăm năm hoặc nhiều ngàn năm giữa hai kiếp luân
hồi. Nhiều người trong chúng ta thích từ khước trọn vẹn hạnh phúc
đó và trở lại tiếp tục liền công việc dưới thế gian. Hơn nữa,
đối với những người thành tâm từ khước thì nguyện ước có thể
được chấp thuận. Nhưng muốn thực hiện điều này, chúng ta phải có
một sức mạnh, vì chúng ta sẽ đem hai Thể Vía và Trí cũ vào trong
một Xác Thân mới.
Không phải Thể Vía và Thể
Trí bị mỏi mệt như cái óc xác thịt. Ở đây có một nguyên do khác
xen vào là trong kiếp này Thể Vía và Thể Trí chúng ta biểu thị
con người của chúng ta giống in như chúng ta lúc ở kiếp chót mới
rồi. Khi tiến tới trong cuộc đời, nếu chúng ta sửa chữa chúng rất
nhiều, song có lẽ chỉ đạt đến một mức độ nào đó thôi. Chúng ta
hãy lấy một thí dụ: có một giới hạn mà khi vượt qua khỏi nó
rồi, thì một chiếc xe hơi không thể sửa chữa được nữa hoặc sửa
cho tốt hơn. Thường thường thì mua một chiếc xe hơi mới còn hay hơn
là tìm cách tân trang cái cũ. Đối với Thể Vía và Thể Trí cũng
hơi giống như thế. Sự sửa đổi chúng triệt để đòi hỏi nhiều thì
giờ, và có lẽ sự sửa đổi đó rốt cuộc vẫn còn bất toàn. Nếu
trong kiếp này khả năng
con người đã phát triển nhiều, tốt hơn
vì sự tiến hóa của
y, y nên lấy những Vía, Trí mới khác để phát biểu, thay vì vá
víu và sửa chữa những thể cũ lại. Việc đầu thai nhanh chóng như
thế không phải bao giờ cũng có thể thực hiện được. Tuy nhiên,
trước tình thế hiện tại và đặc biệt cần có những người làm
việc và Đức Chưởng Giáo
sắp lâm phàm, cho nên thiết tưởng những ai sống một cuộc đời siêng
năng và tha thiết muốn đầu thai lại ngay để tiếp tục công việc
phụng sự, đều có thể thấy ước nguyện của mình được thành tựu.
Có một đời sống bình
thường ở bên kia cửa tử và những ai theo con đường đó thì không
cần có những sự chuẩn bị đặc biệt. Còn trái lại, người nào
không muốn ở cõi Trung Giới thì phải đệ đơn, hoặc có một vị làm
đơn thế cho y. Đơn này phải trình lên Đấng Cao Cả có thẩm quyền,
Ngài có thể chấp thuận, nếu Ngài xét thấy "được", nhưng Ngài có
thể từ chối, nếu Ngài nhận thấy Ngài hành
động như thế hữu ích cho đương sự. Thiết tưởng những người
lo lắng về vấn đề này có thể an tâm: những ai mới làm việc giỏi
chắc chắn sẽ có những cơ hội khác để theo đuổi con đường phụng
sự của mình. Ai mong mỏi được đi đầu thai lại liền phải tự làm
cho mình trở nên người cần
thiết và phải chứng tỏ mình là người sẽ giúp đời khi được
trở lại cõi Trần một cách nhanh chóng. Vả lại đây là cách
hay hơn hết để tạo Thể Trí và Thể Vía có đủ điều kiện cần
thiết.
Nếu con thật quên mình con trọn vẹn, thì con không còn nhớ tự hỏi
lấy con, chừng nào bản ngã con mới được giải thoát, hoặc nó về
ở cảnh trời nào. Con hãy nhớ rằng mỗi việc ham muốn ích kỷ, dù
mục đích cao thượng thế mấy
đi nữa cũng là một sợi
dây ràng buộc; và
ngày nào con không diệt hết những
điều ham muốn, thì ngày đó con chưa được rảnh rang đặng hiến
mình cho công việc
của Chơn Sư.
A. B.
–
Đừng quên rằng hai cõi Trung Giới và Thượng Giới vẫn
làm bằng vật chất,
mặc dù chúng được cấu tạo bằng chất khí thanh bai hơn chất Hồng
Trần. Chúng nó cũng là cõi hữu hình dẫy đầy những đồ vật kích
thích sự ham muốn. Sự ham muốn về Thiên Đàng ở cõi Hạ Thiên, cũng
như sự ham muốn của Phàm Nhơn ở cõi Trần: nhưng
cõi Thiên Đàng chỉ xa
xôi hơn và mịn màng hơn. Sự ham muốn thứ nhất hơn sự ham muốn thứ
nhì bởi nó chống lại bản chất của dục vọng vì bản chất này
không được thỏa mãn ngay tức khắc. Như
thế sự ham muốn về cõi Thiên Đàng thường giúp cho con người
thoát khỏi những sự ham muốn thường tình và đồng thời nó chuẩn
bị con người đi tìm kiếm những thú vui cao thượng hơn và trong lòng
nghĩ đến chúng nhiều hơn là nhớ đến thú vui thô tục. Dĩ nhiên,
đối với nhiều người rất vô ích mà nói với họ rằng : "Các anh
hãy diệt sự ham muốn đi". Bạn muốn giúp một người bỏ những thú
vui ăn uống và những thú vui xác thịt ư, bạn hãy thức tỉnh y đặng
y ham muốn về cõi Thiên Đàng, hầu giúp y không
còn nuôi dưỡng những sự ham muốn thấp hèn nữa. Vì vậy tất
cả các Tôn Giáo đều nhấn
mạnh về thuyết Thiên Đàng và Địa Ngục.
Chính Đức Phật cũng đề cập đến vấn đề này khi Ngài nói
với những người thường.
Những người chí nguyện
theo đuổi con Đường Đạo chẳng những phải dứt bỏ ý muốn lên Thiên
Đàng mà còn phải từ bỏ ý muốn riêng mình được giải thoát khỏi
vòng sinh tử, luân hồi, nghĩa là ý muốn "moksha"
[39].
Lý do rất giản dị và Đức Thầy đã giải ở đây. Nếu bạn hoàn toàn
quên mình, bạn không thể nghĩ đến việc này, chúng tiêm nhiễm vào
bản ngã của bạn. Bạn
không thể ham muốn chúng
nữa, nếu bạn có ý định hy sinh cho công việc của Đức Thầy.
Nhiều người mong mỏi có
dịp để phụng sự bằng cách này hoặc bằng cách khác, nhưng vị đệ
tử phải mong ước phụng sự Đức Thầy theo ý Ngài muốn và ở nơi
nào mà Ngài xét thấy sự phục vụ của y cần thiết. Không thể
phụng sự vô điều kiện khi mà tấm lòng chưa được rảnh rang. Một
trong những Kinh Upanishad có
nói rằng: "Khi mà những sợi
dây ràng buộc tấm lòng chưa bị chặt đứt, thì con người không
thể được Trường Sanh Bất Tử”. Câu châm ngôn này thật quá nghiêm
khắc, nếu chúng ta kể vào số những sợi dây ràng buộc những tình
thương mến mà chúng ta quí trọng vô cùng. Tuy nhiên, câu
ấy không nói rằng trái tim phải bị tan vỡ (cõi lòng tan
nát). Không; chính là những sợi dây ràng buộc phải được chặt đứt,
để cho tình thương trong lòng chúng ta chiếu
ra vô tận vô biên. Bạn nên hiểu thật rõ điều
tôi nói và đừng làm cho tôi nói rằng tình thương không phải
là một tình cảm tốt đẹp.
Không phải tình thương ràng buộc chúng ta, mà chính là những yếu
tố ích kỷ lắm khi trà trộn
vào. Theo bản chất của nó, tình
thương của Chơn Ngã
trong người này đối với Chơn Ngã trong người kia thì bất diệt, dù
chúng ta muốn biến đổi nó, cũng vô hiệu. Nhưng khi tình thương đối
với Chơn Ngã bị tình thương hình thức xen vào thì những dây ràng
buộc thắt chặt với nhau và do đó chính tình thương có thể trở
thành một sự nô lệ.
Cách thế duy nhất để
bạn đạt được tình trạng giải thoát hầu lo lắng cho công
việc của Đức Thầy là bạn phải không ngớt cố gắng chặt đứt hết
những sợi dây trói buộc. Nếu bạn thấy trong tình thương của bạn
có một yếu tố làm cho bạn đau khổ, thì chính vì nó dung dưỡng
tánh ích kỷ cần phải được loại trừ. Hãy xua đuổi tánh ích kỷ
đi, tình thương của bạn sẽ trở nên dũng mãnh hơn, cao thượng hơn và
tinh khiết hơn. Một tình thương như thế không bao giờ có thể phương
hại đến công việc của Đức Thầy. Giả sử bạn muốn đến một chỗ kia
để tìm một người mà bạn muốn gần gũi; bạn nên từ bỏ ý định
này. Đây là một thí dụ về cách chặt đứt có phương
pháp những sợi dây vì
ích kỷ đã ràng buộc bạn với những người và vật. Hãy chặt đứt
những sợi dây trói buộc đó.
Vấn đề này chỉ nói với
những người mà sự quyết định không
thể lay chuyển được, chớ không phải nói với những ai muốn đi
trên đường tiến hóa êm dịu và bình thản. Bạn nên nhớ kỹ, những
người đó không đáng trách chút nào, Mỗi người đều có quyền tự do
đi tới mau hay chậm, tùy ý. Lúc này đây tôi nói với người quả
quyết, và cho vấn đề này hết sức quan trọng. Chơn Sư
luôn luôn tìm kiếm
những tánh tình này, nhưng không thường gặp được.
Một
lần nữa, tôi nói đây là sự kinh nghiệm riêng của tôi, vì tôi
đã gặp những nỗi khó khăn ở
điểm đó. Lúc tôi bắt đầu luyện tập, khi tôi cảm thấy mình
tha thiết muốn ở gần một người nào, thì tôi lại cố gắng dang xa
ra. Nếu bạn khá khôn khéo và có nghị lực, thì bạn thường có thể
cởi bỏ được những sợi dây ràng buộc trong lòng bạn mà không để
cho những người chung quanh bạn hay biết điều đó. Bạn vẫn có tình
thương như trước và thái độ bên ngoài của bạn cũng không thay đổi,
nhưng trong lòng bạn, bạn tháo mở sợi dây ràng buộc cá nhân. Vì
thấy rõ điều phải làm, rồi hoàn thành điều đó có phương pháp mà
vài người đã tiến xa hơn phần đông chúng ta. Bạn sẽ thấy sự cố
gắng này không khó khăn vì nhờ bạn luôn luôn nhớ rằng bạn không
thể hiến thân trọn vẹn cho công việc của Chơn Sư, trước khi cắt đứt
tất cả những mối dây ràng buộc.
C. W. L.
–
Đoạn này chỉ cho chúng ta thấy sự ham muốn về cõi Thiên Đàng
thuộc về Phàm Nhơn. Nó hữu ích cho một giai
đoạn tiến hóa của con người trước khi được làm đệ tử. Nó
có một vị trí trong Cơ Tiến Hóa. Người cổ sơ chỉ nghĩ đến việc
ăn uống và những
lạc thú tương tợ khác. Giảng cho y về việc đoạn tuyệt với
sự ham muốn thật vô ích, vì
trước tiên y phải trải qua giai đoạn những ham muốn thanh cao và ít
thô tục hơn. Chúng ta chỉ có thể nói với y như vầy: "Bạn hãy cố
gắng thanh lọc những sự ham muốn của bạn. Có nhiều việc khác rất
cao thượng hơn những điều mà bạn đang suy nghĩ. Nếu bạn
muốn đi đến chỗ cao thượng đó trong tương lai thì bạn chớ nên
để những tình cảm của bạn được tự do phóng túng". Người đời chỉ
có thể tiến bộ từng bước một. Chỉ có những người dũng mãnh hơn
hết mới có thể vượt lên một cách
nhanh chóng đến những cao độ trên Đường Đạo. Còn đối với
độc giả của quyển sách này
muốn noi gương Alcyone, ngay từ bây giờ, thì hãy cương quyết dứt bỏ
mọi ham muốn ích kỷ, vì chúng chính là những sợi dây ràng buộc.
Như tôi đã nói trước đây: Tình thương bắt tấm lòng làm nô lệ nếu
nó chứa đựng một chút ích kỷ, nhưng khi không còn một tư tưởng
riêng tư nào lẫn lộn, thì nó trở thành một quyền lực của tâm
hồn. Trước khi cắt đứt những sợi dây ràng buộc, trước khi nhổ bật
rễ tánh ích kỷ, thì tình thương cũng có thể vừa là một chướng
ngại, vừa là một sự phù trợ.
Bên Ấn Độ và nhiều xứ
khác, vấn đề này thường bị hiểu lầm, vì sự
lầm lộn tình thương ( không ích kỷ) và sự ham muốn ( ích
kỷ) . Vài triết gia đã cố làm cho lòng mình chai ngắt để
trở nên lãnh đạm và thoát khỏi sự khổ đau bằng cách xa lánh tình
yêu. Họ đã làm vậy: phương pháp này tạo ra những người phát triển
có phân nửa, họ mở mang trí thức nhưng không biết cảm động. Chúng
ta phải có khả năng biểu lộ ngay cả những lượn sóng tình cảm vĩ
đại, nhưng những lượn sóng này phải là phản ảnh của những cảm
xúc cao thượng phát sinh từ Chơn Nhơn; chúng phải thuộc quyền kiểm
soát chặt chẽ của chúng ta, chớ không phải sự bồng bột của Cái
Vía, lôi cuốn chúng ta để làm trò chơi của Tinh chất ham muốn. Chế
ngự tình cảm bằng cách hủy diệt nó cũng phi lý như việc muốn
tránh quả báo xấu bằng cách không làm gì hết. Đức Thầy muốn cho
chúng ta càng ngày càng hữu ích cho nhân loại bằng những hành
động, bằng những tình cảm và bằng những tư tưởng của chúng ta.
Chúng ta càng hoạt động theo
ba đường lối tư tưởng đó
thì mỗi người càng cảm thấy được kết quả tốt lành.
Khi tất cả những sự ham muốn thuộc về phàm ngã đã tiêu tan, cũng
có thể còn lại một sự ham muốn là thấy kết quả công việc của
con làm. Nếu con giúp ai thì con muốn biết con giúp người đó tới
bực nào, có lẽ con cũng muốn cho y thấy điều đó và biết ơn con
nữa. Mà điều này cũng vẫn còn là một sự ham muốn . . . . .và
đồng thời là một sự không tin cậy.
A. B.
–
Đó là điều mà quyển
Thánh Ca Bhagavad Gita gọi là hành
động mà không vì cái kết quả. Nếu bạn thật tâm hành động,
thì bạn không có thì giờ để lo lắng đến
kết quả và cũng không có thì giờ để xem lại tác phẩm của
bạn đã hoàn tất. Hễ
việc này vừa xong,
việc khác lại đến với bạn. Bạn sẽ mất thì giờ, nếu bạn xem xét
những kết quả. Nếu bạn nghĩ đến công việc đã thực hiện, thì
làm thế nào bạn có thể hoàn thành nhiệm vụ mới. Trong vấn
đề giúp đỡ cá nhân - là vấn đề thú vị hơn hết vì nó căn cứ trên
tình thương riêng tư - bạn
chớ tìm hiểu người được giúp đỡ có biết ơn bạn hay không. Làm như
thế chẳng khác nào bạn chạy theo sau người mà bạn mới hiến một
món quà để xem coi y có biết ơn bạn không và đòi hỏi y những lời
cảm tạ. Hành động như thế không phải là cho, mà chính là buôn bán
vậy. Ở đây không có sự đổi chác! Chắc chắn bạn đã nhớ chuyện
Đấng Christ đã đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, dù họ
chỉ bán những lễ vật để cúng tế. Ngài nói
với họ
rằng: "Các ngươi chớ nên làm cho ngôi nhà của Cha ta thành ra
một tiệm buôn"
[40].
C. W. L.
–
Không ai ít rảnh rang hơn nhà Huyền Bí Học. Khi vừa làm xong việc
này, lại bắt tay vào việc khác, không dừng lại ngắm cái kết quả
của công việc vừa hoàn tất. Giả sử bạn làm phận sự của một
người điều dưỡng hay người phụ tá ngoài chiến trường. Đối với
người bị thương này bạn phải săn sóc với tất cả khả năng của
bạn, rồi bạn lại lo cho một
người khác tức khắc, không thể chờ
đợi trong nửa giờ để chắc ý hiệu quả đã đạt được, cũng
không thể xem xét coi người bệnh có cơ may mắn được bình phục
không. Công việc của Đức
Thầy cũng giống như thế. Chúng ta không có thì giờ hay là ngưng
lại để nghĩ đến những kết
quả cuối cùng và nhất là nghĩ đến những kết quả đó đối với
chúng ta. Mong ước những cố gắng của mình được kết quả tốt đẹp
và vui mừng về sự thành công khi nó đến là việc thường tình của
nhân loại, nhưng chúng ta phải vượt qua những nhược điểm này của
loài người bởi vì mục đích của chúng ta là sự tiến đến bực Siêu
Phàm. Khi một công việc của
chúng ta làm hoàn thành mỹ mãn, ta có thể vui mừng, mà ta cũng
phải vui mừng như vậy khi thấy kẻ khác thành công như ta.
Đoạn này đề cập đến ý
muốn cho người mà bạn giúp đỡ thấy việc làm của bạn và biết ơn
bạn. Mọi cảm nghĩ như thế không
mang tính chất một tặng vật, mà là một cuộc buôn bán vậy.
Khoa Pháp Môn chỉ nhìn nhận có một cách cho ra mà thôi: ấy là
cách Thượng Đế ban rải tình thương, như mặt trời bủa rải sự sống.
Khi con ra sức giúp đỡ, tất nhiên phải có kết quả, dù con thấy hay
không cũng vậy, nếu con thông hiểu luật trời, ắt con biết phải có
như thế luôn luôn.
A. B. Trong quyển
Theo gương Chúa Jésus Christ có đặt ra câu hỏi này: "Ai muốn
phụng sự mà không đòi hỏi chi cả"? Người đệ tử phải làm việc vì
thích làm việc, mục đích
của nó không phải là kết quả đạt được, cũng không phải vì nỗi
vui mừng và sự thỏa thích mà nghĩ rằng: "Tôi phụng sự". Vị đệ
tử phải
hy sinh cho nhân loại vì thương đời. Lẽ dĩ nhiên cái kết quả
vẫn chắc chắn, vì chúng ta sống trong một thế giới do định luật
cai quản. Vậy chúng ta không
cần phải
bận tâm
đến nó. Thường thường việc làm của chúng ta
không có tính cách sinh ra những kết quả tức khắc tại cõi
Trần, nhưng nó đem ta đến gần lúc thành công mỹ mãn. Rồi một
người khác sẽ đến để hoàn tất công việc, nhưng nếu trước đây không
có những người ra công khó nhọc mà không thấy kết quả đó thì công
nghiệp ấy không bao giờ
thành tựu.
Chúng ta không thể thực
hiện một công việc quan trọng nào được, nếu chúng ta không tin chắc
ở Luật Trời, vì tất cả những công nghiệp trọng yếu đều kéo dài
một thời gian
rất lâu. Chúng ta hãy xem
công việc của Đức Bàn
Cổ chẳng hạn. Từ hàng ngàn năm này đến hàng ngàn năm khác trôi
qua, trước khi có sự biểu hiện mà bạn gọi là
kết quả. Một định
luật tương tợ cũng áp dụng cho công việc xây cất một ngôi nhà lớn,
vì cần phải đào sâu nền móng. Một phần chính công việc của chúng
ta là phải xây những nền móng vô hình. Sau này một người thợ xây
cất khác đến đặt trên móng
một hàng gạch. Hàng gạch này được thấy ngay. Vậy thì về điều
này những nền móng có vô ích chăng ?
Kết quả thế nào cũng
đến. Hãy làm việc một cách bình tĩnh và có phương pháp, không bao
giờ bạn thất vọng. Mọi sự thất vọng đều do ý muốn thu gặt kết
quả việc làm. Có thể bạn theo đuổi công việc một cách
cương quyết và lâu ngày mà không thấy hiệu quả gì đáng kể.
Tuy nhiên một ngày kia, kết quả bỗng thình lình hiện ra. Một nhà
Hóa Học bỏ từ hạt muối trong một dung dịch đến độ bảo hòa
[41].
Một thời gian qua trong chất lỏng kia hình như không xảy ra tác dụng
gì, tuy nhiên chỉ một hạt muối sau cùng rơi vào, thì dung dịch ấy
bỗng đặc lại. Công việc của chúng ta cũng giống như thế: thình
lình người ta thấy nó hoàn tất. Chúng ta dọn đường cho sự lâm
phàm của Đức Chưởng Giáo. Chúng ta phải hết sức làm việc, chúng
ta bình tĩnh, tin tưởng và nhẫn nại, chúng ta hy sinh cho công việc
của chúng ta. Khi Đức Di Lạc lâm phàm, Ngài sẽ thâu lấy tất cả
những gì chúng ta đã làm;
rồi kết quả sẽ hiện ra trên thế gian.
C.W. L.
–
Thường thường phải có sự cố gắng liên tục của nhiều
người mới đạt được một kết quả quan trọng. Nếu cần phải
thực hiện một cuộc cải cách lớn lao trên Thế gian, thì
thường có một người hay nhiều người nhận thấy sự
cần thiết này và họ bắt
đầu đem truyền bá tư
tưởng ấy bằng những cuộc diễn thuyết hoặc bằng sách vở. Họ bị
thiên hạ cười chê và sự cố gắng của họ dường như vô ích, nhưng họ
đã thuyết phục được vài người và những người này theo đuổi công
việc cho đến khi xã hội công
nhận cuộc cải cách ấy. Công trình của những người gia nhập sau
này không thể thành tựu nếu không có sự cố gắng dường như vô ích
của những bực tiền phong.
Thường lắm khi chúng ta
theo đuổi một công việc cho tới khi nó sắp thành tựu. Một người
khác đến và hoàn tất nó. Công trình của người sau này được thừa
nhận và y sẽ được xem như là người đã thực hiện tất cả công
việc. Chúng ta đừng lo đến điều đó. Công lao của chúng ta được
biết đến hay không cũng không có gì quan trọng, nhưng chúng ta hãy
vui mừng vì được phép làm việc. Nghiệp quả của chúng
ta sẽ dành cho chúng ta kết quả của sự cố
gắng kia và hiện giờ người ta làm hoặc nói gì về việc ấy
cũng không quan hệ chi. Người nào làm việc một cách khoa học, hiểu
biết điều mình làm,
chỉ nhớ đến kết quả của một việc làm tốt đẹp trong một lúc
hoặc một phương diện nào đó, sẽ không bao giờ thất vọng.
Khi Đức Chưởng Giáo lâm
phàm, Ngài sẽ góp nhặt tất cả công việc
của chúng ta để Ngài tiếp tục công việc đó và làm cho nó
được hoàn bị; thế rồi tất cả công việc
này dường như vốn của Ngài làm. Trong một ý nghĩa nào đó,
điều này thật đúng, vì nguồn cảm hứng của chúng ta đều phát sinh
từ nơi Ngài. Tuy nhiên, một phần lớn công nghiệp có thể được
hoàn thành do công lao vô hình và
dường như không lợi ích chi cả của một số người khiêm tốn
đã đóng góp trước kia. Chúng ta có cơ hội ở trong hàng ngũ của
những người này là một đặc
ân lớn lao mà chúng ta có thể mong ước.
Nếu hiểu biết Luật Trời,
chúng ta có thể sử dụng nó trong mọi
trường hợp: điều này
không những đúng đối với những sự hoạt động không ngớt của chúng
ta trên những cảnh giới tinh thần, mà còn ở tại cõi Trần nữa.
Mỗi tư tưởng của chúng ta đều tạo ra một
hình dạng trên cõi Trung Giới hay là cõi Thượng Giới. Hình
tư tưởng này đi tìm người hay vật
mà ta nghĩ đến nó, nó bay lơ lửng chung quanh, hoặc truyền
sang tinh lực tốt hay xấu (tùy theo bản chất và đặc tính của nó)
qua người hay vật nào liên hệ đến nó. Vẫn không khó nhọc gì mà
tạo nên một hình tư tưởng
lành cũng như tạo nên một hình tư tưởng ác. Tất cả đều tùy thuộc
vào thái độ trí tuệ. Người ta sẽ
bảo: "Thái độ của tôi chỉ quan hệ đến
một mình tôi thôi, và chỉ quan hệ trong lúc này đây". Không
đâu, nó cũng quan hệ đến bạn trong ngày kế đó, trong tháng tới,
hoặc trong năm tới, vì nó
tạo ra những tư tưởng phản ứng lại bạn. Mỗi khi một tư tưởng được
lập lại thì nó được tăng thêm sức mạnh. Chúng ta có bổn
phận tạo ra những hình tư tưởng tốt đẹp về mọi phương diện,
mặc dù chúng nó vô hình, nhưng chúng sẽ đạt được mục đích không
hề sai lầm.
Vậy thì phải làm lành bởi chưng ưa thích việc lành, chớ chẳng
phải trông mong được ban thưởng. Phải làm việc vì ưa thích sự làm
việc, chớ chẳng phải trông mong được thấy kết quả. Con phải xả
thân giúp đời, vì con thương
đời và bởi tại con không còn
làm cách nào khác được nữa.
C. W. L.
–
Tình thương quả thật là một động cơ mạnh nhất. Từ đầu chí cuối
của quyển sách này, cũng như những tác phẩm gần
đây do nó linh cảm, người ta có thể chú ý đến việc lập đi
lập lại một cách
mãnh liệt và việc
nhấn mạnh về sự cần thiết của tình thương, như là một giải thích
tất cả mọi việc và cũng là một phương thuốc chữa mọi chứng
bệnh. Tình thương sẽ là điểm chính yếu trong giáo lý của Đức
Chưởng Giáo, khi Ngài lâm phàm, vì
vậy cho nên điểm ấy
được nêu lên thật rõ rệt trong giáo lý của những ai cố gắng
chuẩn bị cho cuộc lâm phàm này với khả năng tầm thường của mình.
Một việc khác nữa mà sinh
viên phải chủ ý là: trong
suốt quyển này Chơn Sư xem điều sau đây đã được chấp nhận là:
Chúng ta đều sốt sắng và
đối với chúng ta chỉ có sự làm việc là quan trọng duy nhất
thôi. Chắc chắn đó là cách hay hơn hết để
đem chúng ta đạt đến trạng thái trí tuệ này, nếu mà trong
bầu không khí của chúng ta còn lưu lại vài mảnh của ý tưởng
khác. Trong tâm trí của Đức Thầy, dĩ nhiên chỉ có Một tư tưởng mà
thôi: ấy là Phụng Sự. Không
có gì có thể khích lệ
chúng ta bằng ý Ngài muốn thấy chúng ta trở thành người phụng
sự.
Thường lắm, chúng ta tự
cản trở bước đường của mình. Chúng ta phải tự
nép qua một bên để
Chơn Ngã chúng ta có khả năng hoạt động, vì bao giờ chúng ta còn e
dè, bao giờ chúng ta còn giữ lại một món gì vì không bằng lòng
hy sinh nó cho công việc của Chơn Sư thì chúng ta tự cản trở bước
đường của mình. Thật ít khi gặp được một người không giữ lại
chút gì; y hiến thân trọn vẹn cho công việc của Chơn Sư, và không
ngần ngại mà cho tất cả. Điều đó ít khi thấy, nhưng ai có được
đức tánh này sẽ tiến xa và nhanh chóng vô cùng.
CHƯƠNG THỨ MƯỜI LĂM
�
Y
�
Con đừng ham những phép thần thông, con sẽ có, khi Chơn Sư xét thấy
đã đúng ngày giờ.
A. B.
–
Nên hiểu rằng danh từ "phép thần thông" là tất cả những năng lực
ý thức lấy vật chất tạo thành Xác Thân, Thể Vía, hay là Thể Trí
làm trung gian để biểu lộ ra. Vậy tất cả những
năng lực trí
tuệ đều là những
phép thần thông. Sự phân biệt giữa quan năng thường của trí tuệ
phát sanh do từ bộ óc và nhiều thứ Thần Nhãn
hoặc những quan năng
tương tợ, đều sai lầm. Nhiều người nổi lên phản đối việc hoạch
đắc những phép thần thông, trong khi hằng ngày họ sử dụng chúng do
xác thịt làm trung gian. Họ trách
cứ Thần Nhãn, mà họ dùng con mắt của xác thịt. Trách cứ
Thần Nhãn là vô lý, trừ phi họ theo quan điểm của những người Yogi
bên Ấn Độ; đối với mấy vị này những giác quan của xác thịt cũng
như giác quan tinh thần đều là một chướng ngại. Lập luận của mấy
người này thật đúng.
Họ không thừa nhận giá trị giác quan nào của chúng ta, vì theo ý
họ, thì chúng ta đưa họ tiếp xúc chặt chẽ với những thế giới
của ảo mộng mà họ muốn vượt khỏi. Tôi không
đồng ý với họ. Tôi thiết tưởng tốt hơn phải được tinh khiết
và sử dụng quan năng của chúng ta trên tất cả những cõi Trời,
nhưng trong khi chờ đợi cho
thái độ căn bản của những nhà Yogi này được nhìn nhận, chúng
ta thấy một phần lớn của những lời phản đối về phép thần
thông đều phi lý.
Thật ra, khi bắt
đầu dùng
những giác quan của
Cái Vía, luôn luôn có thể xảy ra sự sai lầm. Vả chăng những giác
quan của xác thịt cũng có thể gạt gẫm chúng ta. Chẳng hạn vài
ảo ảnh thị giác do sự tiêu hóa không được điều hòa và bệnh gan
sinh ra, tôi vẫn không kể vào loại này, như các y sĩ đã làm, nhiều
hiện tượng quả thật thuộc về thị giác của Cái Phách hay của Cái
Vía. Một thí dụ dễ nhớ về việc giác quan gạt gẫm chúng ta là
hiện tượng mặt trời mọc; bạn biết rằng mặt trời không mọc, nhưng
bạn vẫn thấy nó mọc như
thường.
Giác quan luôn luôn cần
phải được lý trí điều chỉnh, vì lý trí cao hơn tất cả mọi nhận
thức của giác quan. Thần Nhãn (sự thấy
của Cái Vía) luôn luôn lừa gạt bạn khi bạn bắt đầu sử dụng
nó. Vì vậy cho nên người nào được Đức Thầy chỉ dạy cũng phải
luyện tập một cách có phương pháp và đầy đủ. Người ta hỏi y về
những điều đã thấy thì ban đầu những câu trả lời đều sai. Sau đó
người ta chỉ cho y biết
những chỗ sai lầm và giải thích cho y hiểu. Giả sử một người
không được
Đức Thầy hướng dẫn, nhưng Thần Nhãn
của y lại hoạt động. Đó là trường hợp thường xảy ra. Sự
mở mang những quan năng của Cái Vía phù hợp với trào lưu
tiến hóa thường lệ, nên nhiều người đã bắt đầu có những giác
quan này. Người có Thần Nhãn lên cõi Trung Giới cũng giống như đứa
bé ở dưới cõi Trần. Bạn biết một đứa bé đưa tay lấy cây
đèn cầy đang cháy đặt
tận đầu phòng. Dĩ nhiên, sự lầm lạc của em được người lớn sửa
chữa. Khi em đến gần vật ấy
em sẽ thấy rằng vài vật hấp dẫn em vẫn ở xa em. Chúng ta có thể
gọi người mới sử dụng những giác quan của Cái Vía là một đứa
bé trên cõi Trung Giới, y bị lầm lạc nhiều lắm. Điều này không
quan hệ gì nếu em ở chung với những bậc đàn anh, và cũng không có
tai hại gì nếu chánh lý là một đức tánh phổ biến. Nhưng rủi
thay! Người nhận được một sự truyền
đạt từ cõi Trung Giới đưa xuống hay là có Thần Nhãn thường
tưởng rằng mình đã cao hơn nhân loại do sự
tiết lộ đặc biệt đã
ban cho
y. Về phương diện này y không học hỏi giáo lý như một đứa
bé sẵn sàng tuân theo những
lời chỉ dạy của các bậc đàn anh, cho nên do
đó mới sinh ra nhiều điều phiền muộn.
C. W. L.
–
Những vị đệ tử mới được Đức Thầy thâu nhận thì thường thường
phải chịu sự huấn luyện dài lâu về nhãn quan cao
siêu và những cảm giác thuộc về cõi trên. Chắc chắn nhiều
người nhận thấy công việc luyện tập này rất buồn chán. Một vị
đệ tử cao cấp lãnh phần chỉ bảo cho vị tân tín đồ, đưa cho vị
này xem một số đồ vật trước mắt và hỏi y thấy những gì. Ban
đầu, hầu như y trả lời sai hết, vì y không nhắm đúng tiêu điểm của
thị giác. Y không phân biệt được sự dị biệt của Cái Vía của một
người chết với Cái Vía của người còn sống, giữa Cái Vía của
người còn sống với hình tư
tưởng của một người bạn phóng ra. Trên các phương diện này và
nhiều phương diện khác, người quan sát thiếu kinh nghiệm không sao
tránh khỏi sự sai lầm. Với sự nhẫn nại, vị huấn luyện viên chỉ
cho y thấy nhiều lần những vật ấy và dạy y nhận biết chúng bằng
cách chú trọng đến những
điểm dị biệt nhỏ nhoi.
Một sự huấn luyện như thế
rất cần thiết, nhưng bạn chớ kết luận rằng những giác quan của
Cái Vía đặc biệt không chắc chắn,
không tin được. Người ta không thể tin được bất cứ một giác
quan nào khi nó không được
huấn luyện, mà trí khôn thuần túy không
được huấn luyện một lượt với nó. Mỗi ngày, nếu trời đẹp
chúng ta dậy sớm, chúng ta có thể xem cảnh mặt trời mọc. Chúng ta
biết rõ ràng rằng mặt trời không mọc, tuy nhiên, chúng ta lại thấy
nó mọc. Những người ít suy luận đôi khi nói về những điều hơi quá
mức kinh nghiệm bình thường như vầy: "Tôi không thể tin những điều
tôi không thấy, chừng nào tôi thấy, tôi mới tin". Vài người đi xa
hơn nữa nói: "Tôi tin
chắc, nếu tôi rờ mó được". Chúng ta hãy lấy ba cái chén, rồi đổ
vào đó ba thứ nước nhiệt độ khác nhau: nước thật nóng, nước đá
và nước lạnh. Hãy ngâm một bàn tay này vào nước nóng và một bàn
tay kia vào nước đá vài phút, rồi ngâm cả hai bàn tay vào nước
lạnh. Bàn tay lúc trước ngâm trong nước nóng sẽ làm cho bạn biết
rằng nước trong chén thứ ba thật lạnh, còn bàn tay kia lại cho
rằng nước đó nóng lắm. Sự kiện này chứng tỏ rằng người ta không
thể luôn luôn tin vào sự chứng tỏ của giác quan, mà cần phải kiểm
soát lại bằng lý trí. Đối với giác quan của Cái Vía và những
giác quan của Cái Trí, cần phải được kiểm soát cũng như đối với
giác quan của xác thịt.
Nếu một người kia ưa thích những phép thần thông, thì y phải chịu khó mở mang chúng, và thường thường phải trải qua nhiều năm luyện tập, mới có thể chắc chắn rằng quan sát của y rất đúng trong mọi trường hợp. Người ta khó tưởng tượng được trường hoạt động của nhãn quan này mở rộng đến đâu. Hãy lấy một thí dụ cũng đủ rõ. Trên cõi Trung Giới có 2401 loại Tinh Chất khác nhau và nếu muốn trở nên một chuyên viên thành thạo có thể làm việc giỏi và nhanh chóng, thì phải học cách phân biê