Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME  NHẬP MÔN  sách   TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  QUEST  MAGAZINES

 

Giảng  lư

  DƯỚI CHƠN THẦY

NGUYÊN TÁC CỦA:

ANNIE BESANT và C. W. LEADBEATER

Dịch giả :  CAO NGÂN HÀ và BẠCH LIÊN
  

 

mục lục  đầu sách  cuối sách  lời nói đầu  phần 1  2  3  4   5

LỜI NÓI ĐẦU

Trong quyển sách này sưu tập những bài bình giảng của Ông C. W. Leadbeater - hiện giờ là Giám Mục - và của tôi về ba tác phẩm nổi tiếng, khuôn khổ tuy nhỏ bé, nhưng nội dung thật quan trọng. Cả hai chúng tôi ước mong nó sẽ hữu ích cho những người chí nguyện và ngay cả những người đã vượt qua giai đoạn đó, vì người diễn giảng cao niên hơn thính giả và do kinh nghiệm, hiểu  biết nhiều  hơn về đời sống của người đệ tử.

Những cuộc đàm luận này chẳng phải chỉ diễn ra ở tại một chỗ mà thôi. Chúng tôi đã nói chuyện với các bạn chúng tôi trong nhiều lúc, và nhiều nơi khác nhau, nhất là ở Adyar, Luân Đôn (London) và Sydney. Rất nhiều chú thích đã được thính giả ghi lại. Tất cả những lời ghi chú có giá trị đều được sưu tập, và sắp xếp có thứ tự rồi tập trung lại sau khi loại bỏ những phần trùng hợp với nhau.

Rủi thay, vì chỉ còn có một số rất ít những chú giải thuộc phần I của quyển Tiếng Nói Vô Thinh, cho nên chúng tôi lấy những chú giải của một vị Thân hữu, bạn đồng nghiệp của chúng tôi, là Ông Ernest Wood đã dùng trong một khóa học ở Sydney. Những chú giải này nhập với những lời bình giảng của Giám Mục Leadbeater về đoạn đó. Không tìm lại được một ghi chú nào về những lời bình giảng của tôi, mặc dù tôi đã nói nhiều về quyển Tiếng Nói Vô Thinh song những lời diễn giảng đó không còn lưu lại.

Tất cả những lời diễn giảng này đều chưa xuất bản, chỉ trừ vài bài diễn văn ngắn của Giám Mục Leadbeater nói với các sinh viên đã được chọn lựa về quyển Dưới Chơn Thầy. Một tác phẩm nhan đề Những lời bình giảng Dưới Chơn Thầy đã được xuất bản vài năm qua. Trong đó những lời chú thích của ông không được đúng như lời ông đã nói. Quyển ấy sẽ không in lại. Phần cốt yếu của quyển đó vẫn có trong quyển này, tất cả đều thu gọn lại rồi đem in.

Cầu xin những trang sách đây giúp cho vài huynh đệ trẻ tuổi của chúng ta hiểu biết rành rẽ những bài học vô giá này. Càng nghiên cứu, càng thực hành chúng nó thì càng nhận thức được nhiều hơn.

ANNIE BESAN

GIẢNG LÝ DƯỚI CHƠN THẦY 

mục lục  đầu sách  cuối sách  lời nói đầu  phần 1  2  3  4   5

MỤC LỤC

PHẦN THỨ NHỨT: DẪN NHẬP

Chương :                                                                                    

I . Đường Đạo và những quyền lợi ở thế gian

II . Sự Điểm Đạo và khi sắp được Điểm Đạo

III. Quyển sách được viết ra cách nào

IV . Lời cầu nguyện đầu tiên

V. Thái độ của người đệ tử 

VI . Bốn con đường dự bị

VII. Bốn đức tánh cần thiết

 PHẦN THỨ HAI: TÁNH PHÂN BIỆN

VIII. Những mục đích  thật và những mục đích không phải là thật

IX  . Đời sống của ba thể 

X .  Điều lành và điều dữ 

XI  .Phải tuyệt đối ngay thật

XII. Tình bác ái và sự sống thiêng liêng                                               

 PHẦN THỨ BA: TÁNH ĐOẠN TUYỆT

XIII. Diệt trừ sự ham muốn

XIV.  Duy có một điều ham muốn tốt hơn hết

XV. Những phép thần thông

XVI. Những sự ham muốn nhỏ nhen

XVII.  Hãy lo lắng những việc nào có can hệ với mình

 PHẦN THỨ TƯ: HẠNH KIỂM TỐT

XVIII.  Tự chủ trong lúc tư tưởng

XIX. Tự chủ trong lúc hành động

XX.  Đức khoan dung 

XXI.  An phận

XXII.Đi thẳng đến mục đích duy nhất - Hay là chú định      

XXIII.  Lòng tin cậy

 PHẦN THỨ NĂM: LÒNG TỪ ÁI

XXIV .  Sự giải thoát cõi Niết Bàn và sự giải thoát  khỏi vòng sinh tử

XXV  .  Lòng từ ái trong đời sống hằng ngày

XXVI .  Sự nói hành

XXVII.  Sự hung ác 

XXVIII.  Thói dị đoan 

XXIX.  Phụng sự

 PHẦN THỨ NHỨT

mục lục  đầu sách  cuối sách  lời nói đầu  phần 1  2  3  4   5

DẪN NHẬP

CHƯƠNG THỨ NHỨT

Y

 ĐƯỜNG ĐẠO VÀ NHỮNG QUYỀN LỢI Ở THẾ GIAN

 

C. W. L. Quyển Dưới Chơn Thầy là một trong ba quyển (hai quyển kia là Tiếng Nói Vô Thinh và Ánh Sáng Trên Đường Đạo) đặc biệt giúp cho việc bước vào đường Đạo dễ dàng. Hiện thời, giá trị của quyển Dưới Chơn Thầy đối với chúng ta thật là to tát vì lẽ nó cực kỳ giản dị và đã được Đức Chưởng Giáo sắp lâm phàm đặc biệt thừa nhận. Nó chứa đựng những bài của Đức Chơn Sư dạy người đệ tử ấu thơ của Ngài là J. Krishnamurti, mới 13 tuổi, năm 1909 (Krishnamurti có tên Alcyone trong quyển Những Tiền Kiếp của Alcyone mới xuất bản đây, vào năm 1924).[1] Vì lúc đó Krish­namurti chưa thật giỏi tiếng Anh, mà bài học lại bằng Anh Ngữ, cho nên lời dạy và văn từ phải đặc biệt rõ ràng. Đức Chơn Sư Kouthoumi với tài năng thích ứng phi thường của Ngài, đã trình bày mọi điều kiện để được Điểm Đạo lần thứ nhứt, bằng một ngữ pháp đơn giản tuyệt diệu. Đó là sự hấp  dẫn của quyển sách này.

Quyển Ánh Sáng Trên Đường Đạo xuất bản  năm 1885, và quyển Tiếng Nói Vô Thinh năm 1889. Mỗi tác phẩm đạo đức này đều  có những đặc tính riêng. Chúng ra đời lâu hơn và có tính cách thi vị hơn quyển Dưới Chơn Thầy, dù quyển này cũng có vài câu tuyệt đẹp : điều ấy phải như vậy, vì tác giả là Đức Thầy Kouthou­mi. Ông Swami T. Subba Rao có nói với chúng tôi rằng quyển Ánh Sáng Trên Đường Đạo có nhiều nghĩa chồng chất lên nhau mà ý nghĩa thâm sâu nhất liên hệ đến bậc Điểm Đạo của Đức Văn Minh Đại Đế (Mahachohan) trình độ cao hơn Đức Chơn Sư của chúng ta hiện nay một bậc. Quyển Tiếng Nói Vô Thinh dẫn chúng ta đến bậc Điểm Đạo của vị La hán  (Arhat). Quyển Dưới Chơn Thầy đặc biệt nói về sự Điểm Đạo lần thứ nhứt. Vậy chúng ta bắt đầu giảng lý quyển này.

Tất cả chúng ta thường nghe kể những điều cần thiết để được  thâu nhận vào đường Đạo, nhưng người ta sẽ nhắc nhở chúng ta những điều kiện cho tới ngày nào chúng ta thực hiện được tất cả những gì đã dạy trong những kinh sách như quyển này. Không khó gì mà biết thật đúng những điều phải làm; trên con đường chúng ta đi, chướng ngại nào mà chẳng do chúng ta tạo ra? Tuy nhiên những người tuân theo các huấn lệnh ấy tương đối ít lắm, vì họ thường bị bản ngã của họ cản đường. Điều gì đã viết trong những quyển sách này, chính mỗi độc giả phải đem ra áp dụng riêng cho một mình mình. Vị Huấn Sư có thể giảng giải, chỉ dẫn nhiều cách thức khác nhau những điều phải thực hiện, nhưng mỗi người phải tự đi theo con đường riêng của mình. Cũng giống như sự thao luyện đặng dự vào một cuộc chạy đua hay là biểu diễn thể dục, Huấn luyện viên có thể chỉ dạy kỹ lưỡng; thí sinh phải vận động bắp thịt mình, ngoài y ra, trong đời này không có ai làm thế cho y điều đó.

Có hàng triệu người ở chung quanh chúng ta tự cho rằng mình sống đúng theo những huấn giới của Tôn giáo mình, nhưng thật ra rất ít người tuân theo cho đúng. Ngay cả những người có đức hạnh và đời sống thánh thiện thường cũng không triệt để tuân theo tất cả những huấn giới đưa ra cho họ. Trong vài trường hợp, những giáo lý Công truyền có tính cách hoặc không trọng yếu, hoặc không thích hợp, nhưng trong Huyền Bí Học không có huấn giới nào vô ích cả. Phải tuân theo thật đúng đắn tất cả những lời dạy. Điều này không có nghĩa là phải đạt tới mức hoàn hảo tuyệt đối mọi đức tánh trước khi được Chơn Sư thâu nhận. Phải là một vị Siêu Phàm mới đi đến trình độ toàn thiện đó, những kẻ chí nguyện phải có những đức tánh ấy ở một mức độ hợp lý mới được, vả lại chúng phải xác thực chớ không được là những giả tưởng quí mến. Khi một giáo sư  Hóa Học nói với chúng ta rằng khi phối hợp vài chất Hóa Học theo cách nào đó, chúng ta sẽ có vài hiệu quả. Chúng ta biết  rằng những hiệu quả này sẽ sinh ra. Nếu chúng ta thay đổi tỷ lệ, chúng ta sẽ không có cái chúng ta chờ đợi, mà là cái khác. Trong lãnh vực Đạo Đức hình như người ta cho rằng tuân theo huấn thị một cách mơ hồ và qua loa đã đủ lắm rồi. Trong Khoa Huyền Bí Học, thật khác hẳn : ấy là một Khoa Học, phải xem nó như thế. Dù rằng những điều kiện này đã kể cho chúng ta nghe nhiều lần rồi, phải mong sao cho nhiều người trước kia chưa thành công sẽ có thể bước vào Đường Đạo, sau khi đã học hỏi kỹ lưỡng những điều kiện này, tìm hiểu và tuân hành một cách hết sức đúng đắn những yêu sách. Cái lãnh vực nội tâm này không phải xa vời, không phải mập mờ, không chắc chắn. Vài năm trước đây, dường như nó xa cách hơn, vì những người mà chúng ta quen biết, được giao thiệp trực tiếp với các Đấng Chơn Sư rất ít. Một sinh viên có thể tự nói : "Phải rồi, chỉ có vài ba người có thiên tài đặc biệt, hoặc có diễm phúc lạ thường mới gặp được Chơn Sư, ngoài trường hợp đó, dường như cái đặc ân ấy không phải dành cho những người thường". Nhưng hiện giờ có nhiều người được giao thiệp trực tiếp với các Ngài, và cũng không phải vô lý mà tự nói: "Nếu những người khác thành công, tại sao tôi không làm được như họ?". Nếu ta thất bại, thì chắc chắn lý do ở nơi ta. Đừng tìm nguyên nhân nào khác ở ngoài, vô ích. Nhất định không phải là lỗi tại Đức Thầy: Ngài luôn luôn hiện diện khi đệ tử sẵn sàng. Có vài người chí nguyện thất bại là tại một khuyết điểm nào đó ngăn cản; ở những người khác có lẽ vì chưa mở mang đầy đủ các đức tánh. Nếu không có mấy khuyết điểm đó tất cả chúng ta sẽ thành công. Công việc thật đáng làm là hết sức bền lòng cố gắng tìm xem coi ta thiếu sót cái chi rồi bồi bổ chỗ khuyết điểm.

Có một thế giới bên trong xác thực và quan trọng hơn thế giới bên ngoài mà chúng ta không ngớt chịu áp lực của nó. Ở đâu người ta cũng gặp những người tự cho rằng mình rất bận rộn và họ biết rất rõ rằng họ đang theo đuổi công kia việc nọ. Tuy nhiên, sự thật là những người này đang làm việc trong hư ảo và bề ngoài. Ít ai hiểu biết sự hiện diện của một thế giới bên trong, thế giới tinh thần vô cùng quan trọng hơn thế giới bên ngoài không biết bao nhiêu lần.

Trên Đường Đạo, ta phải đóng vai trò của ta ở ngoài đời nhưng nếu ta làm bổn phận đó, cũng chỉ vì mục đích phục vụ đời sống chân thật bên trong mà thôi. Một diễn viên đóng trò trên sân khấu vì y có đời sống khác phải sống, một đời sống liên tục và kết hợp nhau. Có thể y thay đổi vai trò trong nhiều lúc khác nhau; ta cũng giống như y, ta đầu thai nhiều lần và lấy nhiều xác thể khác nhau. Người diễn viên không ngớt sống đời sống chân thật của con người và nghệ sĩ; và chính vì đời sống chân thật này mà y quyết đóng trò thật khéo trong đời sống tạm thời trên sân khấu. Ta cũng thế, ta muốn thành công trong kiếp sống vật chất tạm thời dưới Thế gian, chính vì Sự Thật vĩ đại bên trong mà đời sống hiện thời chỉ là một phần nhỏ nhít. Hiểu điều đó rồi, chúng ta mới nhận thức được sự trọng yếu tương đối của đời sống bên ngoài: giá trị duy nhất của nó là giúp ta đóng vai trò thật hay, dù nó là thế nào chăng nữa. Bản chất của vai trò cùng tất cả những gì xảy ra cho chúng ta trên sân khấu trần gian này đều không mấy quan trọng. Người diễn viên có thể đóng mọi vai trò buồn thảm hoặc những sự khó khăn giả tạo, nhưng y không màng đến chúng nó. Chẳng hạn mỗi buổi tối, y có thể đóng vai bị giết trong cuộc đấu gươm, đấu súng. Sự chết giả này có thể làm thiệt hại y chăng? Điều quan hệ duy nhất làm cho y thích ý là: đóng trò cho thật xuất sắc.

Chúng ta phải hiểu một cách dễ dàng rằng thế giới bao quanh chúng ta là một thế giới giả hình, giả tạo và bản tánh những sự kinh nghiệm cho chúng ta không có chi là quan trọng. Mọi việc bên ngoài xảy đến cho chúng ta là nghiệp quả của chúng ta, nguyên nhân phát sinh vốn thuộc về mấy kiếp trước và hiện giờ không thế sửa đổi được. Vậy thì bận  tâm với những biến cố thật vô ích; chúng đến do sự qui định của nghiệp báo quá khứ, nên chúng ta phải nhận lãnh một cách kiên nhẫn. Nhiều người không làm như vậy được, họ để cho quả báo gây ra cho họ những sự đau khổ, buồn thảm và lo âu quá độ. Điều phải làm là luôn luôn cố gắng nhận lãnh bài học do Luật Nhân Quả mang đến rồi xua đuổi nó ra khỏi Cái Trí, được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Cũng như "Con Ong và Đóa Hoa" theo cách nói của người Ấn Độ, người anh em của chúng ta. Cách trả quả của mỗi người tạo thành tánh khí của y trong tương lai: chỉ có điều này mới là quan hệ thôi. Ta nên dùng quả báo để khai mở tánh can đảm, kiên nhẫn và những đức tánh  khác nữa, rồi xua đuổi nó ra khỏi Cái Trí.

Thật không phải dễ dàng mà thấy được như thế, vì chung quanh chúng ta cả ngàn người đều cho cái bi kịch này là hệ trọng  và xem nó như đời sống chân thật duy nhất. Những điều họ nói về chúng ta và họ làm cho chúng ta, khiến chúng ta có phần khó chịu, nhưng trên đường chúng ta đi có một chướng ngại hết sức nghiêm trọng hơn (mà ta không nghĩ đến): đó là cái áp lực liên tục không ngừng và vô cùng rộng lớn của dư luận quần chúng. Nó thật là ghê gớm dễ sợ, bởi vì chỉ có một người biết chân lý sống giữa hàng triệu người vô minh. Họ tự nói rằng: "Chúng ta hãy mau mau thu góp của cải, tiền bạc và lưu tâm đến dư luận quần chúng đối với chúng ta, đó là điều cốt yếu của đời sống". Biết bao tư tưởng rải ra vì ý nghĩ của những kẻ khao khát danh vọng Trần gian, những kẻ khẩn khoản cầu cạnh được mời dự vào những tiệc tùng, những cuộc khiêu vũ, những kẻ tìm cách biên tên Hầu Tước này, Bá Tước nọ trên bản danh sách của những cuộc viếng thăm của họ. Trong những vấn đề đạo đức chúng ta cũng bị một biển cả bao vây, vì những người quảng đại thì rất ít, mà những người khác thì rất đông đảo. Những ảo tưởng của xã hội cũng dẫy đầy, chẳng hạn tánh "quá đoan trang của người Anh", họ cho là khiếm nhã, không lịch sự trong khi chỉ nghe nói qua loa về tình dục. Do đó trẻ  em thiếu  sự hiểu biết sơ đẳng, chúng trưởng thành trong sự nguy hiểm và đôi khi vướng phải tai họa bất ngờ, vì tật xấu là con sông tuôn chảy không ngừng và kẻ dốt dễ bị sẩy chân. Phong tục thời cổ Hy Lạp và La Mã được xem như là không được đoan chính, tuy nhiên ký ức thuở ấy vẫn còn trong trí nhớ tôi khiến tôi phải nói rằng tư tưởng của thời kỳ cổ điển  đó ít bợn nhơ hơn hiện thời tại Âu Châu.

Chúng ta là người biết chút ít hơn kẻ khác về trạng thái bên trong của sự vật, chúng ta phải chống lại trở lực thật sự đáng sợ này và tự nhủ: "Không! Không có gì hết. Tất cả mấy điều đó không có thật và chúng ta nguyện cầu xin được dắt từ cõi giả đến cõi chân". Sự Chân thật là sự sống ẩn tàng, đời sống trường cửu, đời sống mà theo danh từ trong Thánh Kinh gọi là đời sống ẩn khuất "Với Đấng Christ trong lòng Đức Chúa Trời". Luôn luôn, đừng bao giờ quên ý tưởng ấy và chỉ cho ngoại giới như là điều quan trọng phụ thuộc thôi. Điều này không phải dễ làm, nhưng đó chính là điều chúng ta phải thực hiện. Một trong các Đức Thầy của chúng ta có nói rằng: "Người nào muốn theo Chúng Ta thì phải bỏ thế giới của y để sang qua thế giới của Chúng Ta". Điều đó có nghĩa là phải bỏ đời sống thường nhật ở Thế gian để sống cuộc đời ẩn dật của người tu sĩ, nhưng mà phải hoàn thành mọi nhiệm vụ giao phó cho ta một cách nhiệt thành hơn trước trong tấn kịch kỳ lạ của cuộc sống; nhưng mà người chí nguyện cần phải từ bỏ tư cách  tầm thường  của y  để tập  lấy tư cách của Đức Thầy.

Những ai đã thành công trong sự cố gắng đó, một ngày kia, sẽ  được một Chơn  Sư thâu nhận làm đệ tử.  Khi tư tưởng của đệ tử đã thành một phần tư tưởng của Đức Thầy, thì trò có thể lấy tư tưởng của Thầy mà kiểm soát lại chính tư tưởng của mình. Tư  tưởng của Đức Thầy không bao giờ chịu ảnh hưởng của quần chúng. Như thế đệ tử có thể biết chính xác ý nghĩ của Đức Thầy về một vấn đề nào đó. Chẳng bao lâu thói quen ấy làm cho y hiểu được quan điểm mới đó, mặc dầu y sẽ luôn luôn không ngớt kinh ngạc. Vài điều  trước kia người đệ tử cho là chánh yếu nay đã mất tính cách quan trọng của chúng nó, và trở nên tầm thường; còn những điều mà trước kia y nghĩ rằng không đáng kể nay lại vô cùng quan trọng, bởi vì dù lớn lao hay bé nhỏ, tất cả đều ảnh hưởng đến đời sống hữu dụng của chúng ta. Tất cả những gì ảnh hưởng đến sự hữu dụng ấy đều quan trọng: đó là lúc chúng ta chạm trán với Thực tế.

Áp lực của hoàn cảnh gây ra cho cái Trí, trên cõi Trung Giới và cõi Thượng Giới (Trí Tuệ) không có gì là cao thượng. Ta hãy để nó ngoài tai và chỉ lắng nghe những âm thanh từ cõi cao, nghe tiếng nói và tư tưởng của Đức Thầy. Chúng ta không có gì ngạc nhiên tại sao ngày xưa bên Ấn Độ và các nước khác những người quyết tâm sống đời sống tinh thần, luôn luôn bắt đầu từ bỏ cuộc sống thường nhật, đi trú ẩn trong hang động hay rừng già cô tịch. Như thế họ được lợi trong việc tránh khỏi luồng áp lực của dư luận vô minh và được tự do theo đuổi chí nguyện của mình. Nhiều vị Thánh Thiên Chúa Giáo cũng từ bỏ những hoạt động ở Thế gian để sống ẩn dật hay làm những vị tu sĩ, hoặc kết hợp những người cùng chí hướng với mình. Sự lợi ích của việc lánh Trần còn lớn lao hơn đối với ai được diễm phúc sống trong hào quang của Đức Thầy hoặc một đệ tử cao cấp của Ngài. Những làn rung động của vừng hào quang này luôn luôn tác động trên các thể của người đệ tử,  điều chỉnh chúng, làm rơi những thành phần vật chất bất hảo và nuôi dưỡng chúng với những yếu tố mà chúng cần dùng. Người đệ tử phải không ngớt chăm lo việc khai mở một đức tánh nhất định, như đức Bác ái chẳng hạn. Nếu để y luyện tập một mình, y chỉ thực hiện một cách gián đoạn vì cứ mãi quên; nhưng hào quang của Bề Trên giữ y lại trước sự hiện diện của những tư tưởng và tình cảm khuôn mẫu mà y muốn tạo nên trong tâm y mãi mãi. Kết quả đạt được giống như sự điều chỉnh chi thể xiêu vẹo của đứa trẻ: người ta để chi thể đó trong một khí cụ cho đến lúc nó nở nang và lấy lại hình dạng bình thường. Ở trong hào quang của Đức Thầy, người đệ tử không thể phát sinh  một tư  tưởng xấu, dù y muốn nghĩ đến nó, điều đó cũng không thể xảy ra được. Trong vị thế đó, chúng ta mỉm cười khi xem xét tư tưởng chúng ta ngày hôm qua và chúng ta tự nói rằng: "Không bao giờ tôi có sự cảm xúc này; nó đã tan như giấc mộng". Nhưng ngày mai, khi xa Đức Thầy, có thể chúng ta phải tự phấn đấu quyết liệt mới giữ được tư cách cao thượng mà chúng ta nhận thấy quá dễ dàng trước sự hiện diện của Chơn Sư.

Trong thời đại hiện tại, những người chí nguyện bước vào Đường Đạo phải cố gắng luyện tập trong đời sống hoạt động của họ để đạt được tư cách cần thiết đó, bởi vì họ được kêu gọi để giúp đỡ nhân loại không phải bằng sự tham thiền hoặc chỉ bằng tư tưởng mà thôi, như một vị ẩn sĩ hay tu sĩ, mà họ phải nhận nhiều công việc khác nhau. Đó là một ý tưởng cực đẹp, một đặc ân lớn lao, nhưng mà khó, khó lắm vậy. Hậu quả của sự khó khăn này: ấy là sự thành công rất hiếm. Thường thường người ta bằng lòng xem giáo lý Thông Thiên Học giống như một người Công Giáo bậc trung giữ  Đạo của họ, nghĩa là xem nó như một đề tài tuyệt diệu để đàm thoại trong ngày chúa nhật, chớ không phải một ý tưởng phải tuân theo mỗi ngày, từ sáng đến tối. Người sinh viên tự hiến mình một cách nghiêm chỉnh cho đời sống nội tâm không thể ở trong hư ảo; y phải suy luận hợp lý và phải thực tế, y phải không ngớt áp dụng lý tưởng của y  vào đời sống hằng ngày. Sự kiên tâm này khó đạt được. Không phải người ta ít sẵn sàng cố gắng phụng sự lý tưởng Thông Thiên Học : nếu họ có thể giúp đỡ Đức Thầy  hoàn  thành một công việc nhất định cho Ngài, họ sẽ làm, dù phải hy sinh tánh mạng. Hãy nhớ lời của Thánh August­in: "Lắm kẻ muốn chết vì Chúa, chớ ít ai chịu sống cho Ngài". Chịu  khổ  nhục, tuẫn tiết là ý tưởng trọng đại, anh hùng, là hành vi cao thượng. Nhưng người chấp nhận điều đó biết mình thực hiện được một sự cố gắng phi thường và sự tin chắc này nâng đỡ y, giúp y chịu được sự đau đớn khổ sở; trong chốc lát y làm tròn nhiệm vụ hy sinh cao cả ấy. Hiện nay bổn phận phải thi hành nặng nề hơn nhiều. Chúng ta không thể duy trì mức độ anh dũng này khi những sự lo lắng  nhỏ nhặt cứ mãi hiện đến và bao vây chúng ta. Thật khó giữ được tánh tình một mực trong khi ngày này qua ngày kia ta phải trông  nom những người nản chí, họ không muốn làm những gì mà chúng ta thấy đó là bổn phận của họ. Sống vì Chúa trong mọi chuyện nhỏ mọn là điều phiền phức khó khăn. Và đúng thế, bởi những chuyện dường như nhỏ mọn cho nên mới khó theo con Đường Đạo.

Ta hãy đọc ba quyển sách này; hãy theo dõi từng lời giáo huấn và xem coi ta có thể thực hiện chúng tới mức độ nào. Nhiều người đã làm điều đó rồi và đã bước vào Đường Đạo. Tại sao chúng ta không thành công như họ? Sự thành công bắt buộc phải thắng phục bản ngã; nó bắt buộc chúng ta phải tự điều khiển mình, nghĩ suy đến những sự việc và nơi nào có cỏ xấu mọc lên, chúng ta hãy nhổ nó. Bề sâu của rễ và sự khổ đau mà chúng ta phải chịu đựng không có gì đáng kể. Phải làm cho nó sạch đi. Công việc này thật khó khăn! Nhưng những người đã lên được vài bậc cao trên Đường Đạo quả quyết với chúng ta rằng làm như thế đáng công lắm, đáng công vô cùng, đáng làm một sự cố gắng, nhiều hay ít, hoặc một lần một, hoặc dù phải lập đi lập lại một trăm lần  đi chăng nữa.

CHƯƠNG THỨ HAI

  Y

 SỰ ĐIỂM ĐẠO VÀ KHI  SẮP ĐƯỢC ĐIỂM ĐẠO

C. W. L. Tên quyển sách này đã được Bà Chánh Hội Trưởng (Annie Besant) của chúng ta chọn trong ba, bốn mươi tên khác được đề nghị. Lời đề tặng này cũng vốn của Bà viết cho chúng ta:

 

Xin hiến dâng cho những người đến gõ cửa.

 

Lời tượng trưng này thật rõ ràng: "Anh hãy gõ cửa, người ta sẽ mở cho anh; anh hãy đi tìm rồi anh sẽ gặp". Trong bài tựa Tiến Sĩ  Annie Besant có nói rằng:

 

Tôi được cái đặc quyền như một người chị cả, viết vài lời giới  thiệu quyển sách nhỏ này, tác phẩm đầu tiên của một đứa em còn thơ, kỳ thật xác phàm em nhỏ, chớ không phải linh hồn em nhỏ đâu.

 

Đó là điểm rất quan trọng. Trong đời sống hằng ngày, ta còn nghĩ  đến cõi Trần và kiếp sống hiện tại nên ta xét đoán tuổi theo thể xác, nhưng về mặt tiến hóa huyền bí, chúng ta xem xét tuổi theo Chơn Ngã, của Linh hồn chúng ta. Phải tránh sự xét đoán dựa theo bề ngoài, dù hầu hết mọi người trên Thế gian đều làm như vậy. Linh hồn trưởng thành một cách liên tục và khi nó tiến cao, nó thường bắt đầu biểu lộ sự tiến hóa của nó qua trí thông minh, sự cảm xúc và năng lực thần bí, dù cho xác thân hãy còn trẻ. Alcyone chắc chắn đã chứng tỏ điều đó qua sự tiến triển mau chóng của em. Em tuân hành đúng y những lời huấn thị, cho đến đỗi em thực hiện trong vài tháng những điều gì mà người thường cần phải để nhiều năm mới hoàn thành, vì đối với hầu hết những người chí nguyện, sự tiến hóa này bao hàm sự thay đổi toàn thể tánh tình.

Từ đây, những trường hợp như thế sẽ gia tăng vì Đức Chưởng Giáo sắp lâm phàm. Những vị đệ tử chính của Ngài phải là những người trẻ tuổi và cường tráng, chắc chắn có vài vị không lớn tuổi hơn Ngài. Vì bởi chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ đến, cho nên những người được chỉ định vào công việc đó hiện nay phải trẻ tuổi. Chắc chắn trong những đứa trẻ hiện nay sống với chúng ta, có những em sẽ giữ vai trò tiên phong, bởi vì trong số các em được diễm phúc đó có những em sẽ sinh vào một hoàn cảnh thuận tiện cho sự học hỏi của chúng, nghĩa là trong những gia đình Thông Thiên Học.

Chuẩn bị cho sự bất ngờ như thế, chúng ta phải giữ sao cho bất cứ đứa trẻ nào chịu ảnh hưởng của chúng ta phải nghe nói việc Đức Chưởng Giáo sẽ lâm phàm hầu nó biết cái khả năng mở ra trước mặt nó; nó sẽ nắm lấy cơ hội hay không, nhưng nó phải được báo tin trước. Thật đáng buồn cho bậc cha mẹ nào phải nghe đứa con trai hay đứa con gái của mình trách móc như sau: "Nếu cha mẹ nói cho con biết mấy việc này lúc con còn bé thơ thì con có thể nắm lấy cơ hội; nhưng cha mẹ đã để con trưởng thành mà không mảy may hiểu biết gì về điều đó; cha mẹ để cho con sống theo thế tục, nên khi cơ hội đến con đã bỏ qua". Chúng ta phải đưa cơ hội, như vậy chúng ta đã làm xong bổn phận, vì chúng ta không được ép buộc ai hết, ngay cả việc hoạch định một chương trình cho tương lai để chờ linh hồn khác, có thể là cao cả, tuân hành.

 

Những lời giáo huấn trong sách vốn của Sư Phụ em truyền dạy, khi Ngài chuẩn bị cho em được Điểm Đạo.

 

Danh từ Điểm Đạo thường được dùng với một ý nghĩa tổng quát, nhưng ở đây nó là một danh từ chính xác và chuyên môn. Trong những lúc đầu tiên chính là Bà Blavatsky cũng dùng nó một cách sơ xuất. Vì thuật ngữ  của chúng ta ngày nay được xác định rõ hơn, nên danh từ Điểm Đạo phải dành riêng cho những cuộc Đại Điểm Đạo, cho Năm Cấp Bậc trên Đường Đạo Chánh thức theo nghĩa cổ kính. Trong mấy tác phẩm đầu tiên của chúng ta, chúng ta nói về Con Đường Nhập Môn, Con Đường Đạo Thật Sự và Thời Kỳ chính thức như là ba cấp bậc biểu thị sự tiến hóa của con người. Con Đường Nhập Môn là Thời Kỳ Chuẩn Bị, nó đến trước một cuộc Điểm Đạo (là lúc con người "Nhập Lưu") và nó sẽ chấm dứt khi vị đệ tử đắc quả Chơn Tiên. Bốn chục năm qua chúng ta đã nói về sự Điểm Đạo trong Hội Thông Thiên Học; vả lại danh từ này đã dùng cho những nghi lễ của Hội Tam Điểm (Masonie) và trong những nghi lễ khác. Ta phải cẩn  thận, đừng nhầm lẫn các cuộc Điểm Đạo trên với những cuộc Đại Điểm Đạo của con đường Huyền Bí Học.

Như người ta đã nói lúc đầu, thời kỳ chuẩn bị để được Điểm Đạo chia ra làm nhiều giai đoạn tập sự liên hệ đến bốn đức tánh cần thiết được kể trong sách này là: Phân Biện, Đoạn Tuyệt, Hạnh Kiểm Tốt và Lòng Từ Ái.

Gọi các đức tánh này là cấp bậc thì không đúng cũng như nói về các cuộc Điểm Đạo đem từ cấp bậc này qua cấp bậc kia kế tiếp nhau. Bốn đức tánh cần thiết đó không cần phải mở mang theo thứ tự chỉ định, thứ tự đã được kể ra trong các bản văn Đông phương cổ kính, mà bổn phận chúng ta chắc chắn là phải hoạch đắc chúng một lượt. Đối với người này một đức tánh nào đó có thể dễ dàng hơn đối với người kia.

Đức tánh Phân Biện được kể ra đầu tiên, vì nói tóm lại sự bước vào  Đường  Đạo của con người tùy thuộc vào nó. Các  Phật tử  gọi đức tánh  Phân Biện  là Manodvaravajjana hay là "Sự mở cửa Cái Trí." Nói cách khác, lần đầu tiên Cái Trí con người mở ra đặng biết rằng chỉ có sự kiện tinh thần mới là chơn thật, còn đời sống theo thế tục thường tình chỉ làm mất thì giờ thôi. Người Ấn Độ gọi đức tánh này là Viveka có nghĩa là Phân Biện. Người Công Giáo gọi nó là sự  Hoán Cải (Conversi­on), một danh từ khác rất có ý vị, bởi vì nó nhập lại ý nghĩa của sự trở về và sự  gặp gỡ. Hai danh từ này do chữ La Tinh Verto là tôi quay lại và Cum là với.

Nó có nghĩa là con người từ trước đến nay đi theo con đường riêng của mình, không hề nghĩ đến Thiên ý; bây giờ biết được phương hướng của Thiên ý đã qui định cho dòng tiến hóa nên tự quay lại để tuân theo. Trong nhiều dòng Thiên Chúa Giáo, ý nghĩa của danh từ Hoán Cải bị biến tính : nó chỉ là trạng thái của chứng giựt gân hay loạn thần kinh; tuy nhiên, người ta còn tìm thấy ở danh từ đó ý niệm quay về và tuân theo Thiên ý. Ấy cũng là tư tưởng của vị Sứ Đồ Thiên Chúa Giáo khi Ngài nói rằng: "Các ngươi hãy thương mến những việc ở trên trời, chớ đừng quyến  luyến những việc dưới Thế gian".

Nếu Đường Đạo có nhiều cấp bậc kế tiếp thì trong sự giao tiếp riêng tư giữa đệ tử và Đức Thầy chuẩn bị cho y được Điểm Đạo cũng có nhiều mức độ khác nhau được xác định. Chỉ có Quần Tiên Hội thừa lệnh Đấng Duy Nhất Chí Tôn Cầm Quyền Điểm Đạo là Đấng Chúa Tể, và nhân danh Ngài, mới được phép Điểm Đạo. Nhưng sự liên hệ giữa đệ tử và Sư Phụ của y vẫn có tính cách cá nhân. Ban đầu, người ta có thể chấp nhận làm Đệ Tử Nhập Môn, kế đó làm Đệ Tử Thiệt Thọ rồi bậc thứ ba làm Con Đức Thầy. Đó là những sự liên lạc riêng tư, ta không được lầm lộn nó với những cuộc Điểm Đạo do Quần Tiên Hội tấn phong.

Sự Điểm Đạo lần thứ Nhứt là một cấp bậc chấp nhận con người làm một nhân viên của Quần Tiên Hội. Từ trước đến giờ người chí nguyện chưa thật sự đặt chân trên con Đường Đạo, nhưng y chuẩn bị cho công việc  đó. Sự Điểm Đạo này không phải là một sự  tấn phong độc đoán; nó là sự chứng nhận một giai đoạn tiến hóa đã đạt được, giai đoạn mà ngày xưa người ta gọi là hợp nhất Bản Ngã Cao Siêu với Bản Ngã thấp hèn, sự liên hiệp giữa Chơn Nhơn và Phàm Nhơn. Ai muốn làm thí sinh để được Điểm Đạo lần thứ Nhứt thì phải hoạch đắc những đức tánh cần thiết đã kể ra trong quyển này và y phải làm cho Phàm Nhơn thành ra sự biểu hiện của Chơn Nhơn. Không còn một Phàm Nhơn nào có thể bắt buộc Chơn Nhơn phải kính nể và có những ý muốn chống đối với những ý muốn của Chơn Nhơn còn mắc vào vòng luân hồi từ  kiếp này qua kiếp kia.

Sự thay đổi xảy ra lúc bây giờ được trình bày trong những đồ hình của quyển Con người hữu hình và vô hình. Thể Vía của người dã man hiện ra những màu sắc biểu lộ tất cả những tình dục thấp hèn; chu vi nó không đều đặn vì con người không kiểm soát được nó. Nhân Thể (hay Thượng Trí) và Hạ Trí không liên lạc nhau. Thượng Trí dường như trống rỗng, không màu sắc; còn Hạ Trí thì mở mang chút ít, nhưng chỉ mới bắt đầu liên lạc với Cái Vía. Thể Vía của người dã man dẫy đầy những cảm xúc và những dục tình  phức tạp không liên hệ gì với trí khôn. Chúng không khiến y suy nghĩ; y không biết suy nghĩ là gì. Những sự đam mê hiện diện và lôi cuốn y.

Trái lại, trong người tiến hóa, tất cả những thể này đều phối hợp chặt chẽ với nhau. Nhân Thể đầy đủ chớ không trống rỗng; tất cả những màu sắc khác nhau biểu lộ những đức tánh cao thượng đã được khai mở trong Thể này và Nhân Thể bắt đầu chiếu hào quang ra tứ phía để giúp đỡ kẻ khác. Hạ Trí cũng biểu lộ những màu sắc như thế, ít dày đặc hơn một chút nhưng vẫn đẹp; nó tiêu biểu cho Nhân Thể ở cõi thấp. Đến lượt Thể Vía, nó phản ảnh Hạ Trí song có hơi đậm và dày hơn, vì cảnh giới của Cái Vía thấp hơn.

Phàm Ngã của người dã man tự biểu lộ đủ thứ cảm xúc và dục tình mà Chơn Nhơn chắc chắn không tán đồng; nhưng ở người tiến hóa, chỉ có những cảm xúc mà Chơn Nhơn muốn có mà thôi. Y chọn lựa những cảm xúc thay vì chịu làm trò chơi cho chúng. Y nói: "Tình thương là một điều rất đẹp; tôi muốn lòng tôi rạt rào mến thương. Lòng Sùng Đạo là một điều rất đẹp, tôi khao khát được lòng Sùng Tín. Lòng Thiện Cảm đẹp biết bao! Tôi muốn lòng mình đầy Thiện Cảm." Và y thực hiện điều ấy với tầm mắt mở rộng và có ý thức. Như thế những cảm xúc được đặt dưới sự kiểm soát của Hạ Trí là sự biểu hiện của Nhân Thể; như vậy chúng ta gần đạt đến chỗ hiệp nhất hoàn toàn Chơn Nhơn và Phàm Nhơn.

Không nên tưởng có sự hiện diện của hai nhân vật trong con người. Không hề có một Phàm Nhơn nào hiện ra như một người độc lập, nhưng Chơn Nhơn cho tách rời một phần nhỏ nhít của Ngài để vào Phàm Nhơn đặng kinh nghiệm những làn rung động của những cõi thấp. Rồi Phàm Nhơn trở nên linh động hơn Chơn Nhơn nhiều vì nó ở trong giai đoạn mà nó có thể đáp ứng với những sự rung động đó; cho nên, nó quên rằng nó thuộc về Chơn Nhơn; nó dấn thân vào cuộc đời vì việc riêng của nó và hành động theo ý nó hơn là dưới sự điều khiển của Chơn Nhơn. Tuy nhiên, trải qua nhiều kiếp luân hồi, Chơn Nhơn trở nên mạnh mẽ. Thế rồi con người mới nhận ra Phàm Nhơn chỉ là sự biểu hiện của chính mình và mình là Chơn Nhơn còn phải luân hồi. Và mỗi lần Ngài muốn chỉ huy, thay vì vâng lời thì Phàm Nhơn vơ vẫn đi lạc đường và cần được kiềm chế. Ta có bổn phận phải đào luyện Phàm Nhơn thế nào để  cho nó thành ra sự biểu  hiện của Chơn Nhơn và chỉ của Chơn Nhơn thôi. Đó chính là điều mà Ông Sinnett gọi là "Thề nguyền trung thành với Chơn Nhơn." Trong quyển Tiếng Nói Vô Thinh có khuyên ta rằng: Người đệ tử phải hủy diệt Thể Nguyệt Tinh: tức là Thể Vía. Điều này không có nghĩa là sát hại Thể Vía, nhưng Cái Vía của chúng ta chỉ hiện hữu như là một sự biểu hiện của cái gì ở trên  cao hơn  nó và thay vì có những dục tình và những  cảm xúc riêng biệt, nó sẽ chỉ phản chiếu những hình ảnh do Chơn Nhơn chọn lựa mà thôi.

Điều kiện này phải đạt được trước khi được phép trình diện để được Điểm Đạo lần thứ Nhứt. Con người phải có sự kiểm soát Xác Thân, Cái Vía và Cái Trí của mình; chúng phải là tôi tớ của Chơn Nhơn. Cái kỹ luật này đòi hỏi ở người thường một sự cố gắng lớn lao. Nhiều người nói: "Tôi không làm nổi điều đó đâu. Đừng nói với tôi điều đó, vô  ích". Như vậy là đem trình bày cho y một lý tưởng quá cao siêu một lần một. Trái lại, điều đó không phải là một sự cố gắng quá sức đối với những người đã nhiều năm tham thiền và suy gẫm về những vấn đề ấy. Thật ra, không phải dễ mà tiêu diệt lần hồi từ cái này đến cái kia không biết bao nhiêu dục tình và sự ham muốn, để khắc phục Cái Vía và Cái Trí. Đó là công việc khó nhọc nhưng hết sức đáng cho con người ra công làm. Kết quả đạt được so với sự cố gắng sẽ vô cùng lớn lao hơn, dù đã cố gắng mãnh liệt đến đâu. Tự dọn mình đặng có thể phụng sự một cách thật hữu hiệu Đức Chưởng Giáo là một sự khích lệ, một sự kích thích phụ vào công việc khó nhọc này. Những người được Điểm Đạo không phải vì sự  ích  lợi riêng cho cá nhân họ, hoặc để tránh sự mệt nhọc và đau khổ ở Thế gian, mà để họ có khả năng cộng tác với Thiên Cơ cao cả.

Trong đời sống con người, có vài sự thay đổi vô cùng quan trọng hơn tất cả những cái khác. Điều thứ nhất xảy ra lúc con người có cá tính, thoát kiếp thú và chuyển kiếp làm người để bắt đầu thực hiện Chơn Nhơn. Điều quan trọng thứ hai là được nhận vào hàng Chơn Tiên; khi được Điểm Đạo lần thứ Năm, con người mới rời bỏ hàng ngũ nhân loại để bước vào giai đoạn siêu nhân. Đó là mục đích dự định cho tất cả mọi người; đó là mục tiêu mà chúng ta phải cố gắng đạt được trong dãy địa cầu hiện nay. Khi thời kỳ này chấm dứt, người nào đã hoàn tất điều gì mà Trời đã muốn cho nhân loại, đã tuyệt đối tuân theo Thiên Ý về những điều kiện liên hệ với y thì sẽ được thoát kiếp làm người. Nhiều người trong chúng ta có thể đạt được mục tiêu đó trước thời gian kết thúc rất lâu.

Trong khoảng thời gian giữa hai sự thay đổi này, có một việc thứ ba rất quan trọng, đó là: "Sự Nhập Lưu," khi được Điểm đạo lần thứ Nhứt. Thể thức được đọc khi thu nhận thí sinh vào Quần Tiên Hội có mấy lời này: "Bây giờ đây, luôn luôn con vẫn được an toàn; con đã nhập lưu; cầu chúc cho con, không bao lâu đây, sẽ qua tới bờ bên  kia". Người Thiên Chúa Giáo gọi người Tân Đạo Đồ là người được "Cứu Rỗi" hay được an toàn. Điều đó có nghĩa là, trong triều lưu tiến hóa hiện tại, chắc chắn y không bị ở lại đàng sau; chắc chắn y không bị mất hàng ngũ trong ngày "Phán Xét" của cuộc Tuần Hoàn sau, như một cậu học trò bê trễ quá nên không theo kịp chúng bạn trong lớp.

Người được Điểm Đạo lần thứ Nhứt, phải qua cuộc Điểm Đạo lần thứ Nhì, lần thứ Ba và lần thứ Tư trước khi đến trình độ Chơn Tiên, tức là được Điểm Đạo lần thứ Năm, và khi đạt được quả vị này Ngài hiệp nhất được Chơn Thần với Chơn Nhơn, cũng như trước đây Ngài hiệp nhất Chơn Nhơn với Phàm Nhơn. Khi con người hoàn toàn hiệp nhất Chơn Nhơn với Phàm Nhơn rồi thì Phàm Nhơn không còn nữa, trừ phi nó là sự biểu hiện của Chơn Nhơn; bây giờ còn một việc tương tự như thế chờ đợi người Đạo Đồ một lần nữa, đó là làm cho Chơn Nhơn thành ra sự biểu hiện của Chơn Thần. Còn một giai đoạn khác giống như thế đang mở rộng ở phương trời xa thẳm chăng? Chúng ta không biết điều đó. Tuy nhiên chắc chắn khi đạt đến quả vị Chơn Tiên chúng ta sẽ thấy mở ra trước mắt một viễn ảnh hướng thượng vinh  diệu hơn nhiều.

Người ta thường hỏi sự cuối cùng của cuộc tiến hóa đang mở ra trước mắt chúng ta sẽ ra sao? Riêng tôi, tôi không biết nó sẽ chấm dứt hay không. Một hôm, một Đại Triết Gia có nói: "Không thể nào quan niệm được sự tiến hóa có mức cuối cùng, mà cũng không thể nào quan niệm được sự tiến không có mức cuối cùng; nhưng trong hai lẽ đó phải có một cái đúng". Có người nói về nhập vào Đấng Tối Cao: Chúng ta không biết gì về điều này. Chúng ta chỉ biết rằng Tâm Thức của chúng ta tiếp tục mở rộng; và phía trước nó, có nhiều mức độ mới lạ nối tiếp nhau, cao hơn trình độ chúng ta. Chúng ta biết rằng có thể tiếp xúc với cõi Bồ Đề và Tâm Thức chúng ta mở ra rộng lớn vô cùng, chúng ta vẫn chính là chúng ta, đồng thời chúng ta thành ra những  người khác và cao cả hơn.

Kinh nghiệm này không hề cho chúng ta cái cảm giác rằng chúng ta đã mất cá tính rồi. Nhưng chúng ta có cảm giác đã mở rộng nó đến mức có thể gia thêm vào năng lực cảm xúc của chúng ta sự cảm xúc của những kẻ khác. Ai có thể đạt đến mức đó trong lúc tham thiền thì nên tiếp tục việc ấy. Nhờ sự khai triển không ngừng, Tâm Thức không ngớt mở rộng ra cho đến lúc bao trùm chẳng những nhân vật cực kỳ cao thượng mà cho tới những nhân vật thấp thỏi hơn nó; tuy nhiên, những nhân vật cực kỳ cao thượng vì dũng mãnh hơn và sử dụng được một năng lực ghê gớm, nên cảm biết trước hơn mấy người kia. Một sự khai triển Tâm Thức như thế vẫn tăng dần; người ta phải mở một con đường xuyên qua tất cả những cảnh thấp của cõi Bồ Đề. Rồi chẳng bao lâu, người ta tập mở Kim Thân là Thể Bồ Đề. Ấy là một thể mà con người có thể tùy ý sử dụng trên cao độ phi thường này, nơi đó các bầu Thế giới chỉ là một, nơi đó con người có thể vượt qua không gian mà không phải đi qua theo nghĩa thông thường như ta hiểu chữ này.

Vì nhiều người trong chúng ta đã kinh nghiệm sự kiện ấy, nên chúng ta có quyền cho rằng trong tương lai Tâm Thức này cũng khai mở như thế. Chúng ta đã đạt được sự hiệp nhất mà không có cảm giác mất cá tính, cũng không bị chìm đắm trong biển cả sáng ngời, như lời của thi sĩ diễn tả. Trái lại, dường như cái biển cả sáng ngời nó tuôn tràn vào giọt nước.

Đúng thật là một quả quyết mâu thuẩn, nhưng cái đó là cảm giác đã nhận thức của người đã mở Bồ Đề Tâm; cái Tâm Thức của giọt nước mở rộng ra và thành Tâm Thức của biển cả. Đó là sự kiện đối với chúng ta như thế. Tại sao không giả sử rằng ngay bây giờ không có cái gì thay đổi trong phương thức đó? Ta không thể quan niệm được sự nhập vào một sự sống khác làm cho chúng ta mất Tâm Thức mà chúng ta phải dày công lắm mới hoạch đắc được. Tôi tin rằng Tâm Thức này sẽ mở mang cho đến ngày chúng ta hiệp nhất với Đức Thượng Đế, nhưng chỉ trong ý nghĩa mà Đấng Christ đã nói: "Các con là những vị Thượng Đế; tất cả các con là con của Đấng Tối Cao."

Chúng ta có thể nhìn lại cái quá khứ xa xăm của sự tiến hóa và chúng ta cũng có thể thấy được tương lai xa thăm thẳm ở phía trước. Do đó chúng ta có thể tin chắc vào tương lai, nó tiêu biểu hàng triệu năm hoạt động hữu hiệu trên những mức độ tuyệt diệu, nơi đó sự quang vinh, uy lực và tình bác ái không thể quan niệm nổi ở  dưới Thế  gian này. Chúng ta hãy xem xét vấn đề trên quan điểm chánh lý. Chúng ta hy vọng hiểu biết cách nào? Nếu hiện nay chúng ta có thể hiểu biết được mức cuối cùng của mấy điều đó thì nó quả là tầm thường lắm, không cân xứng với tất cả những giai đoạn xảy ra trước nó.

Trí tuệ của chúng ta còn hạn hẹp, chúng ta không biết được giới hạn của nó ở đâu; phải thấy sự phát triển cao siêu, người ta mới bắt đầu hiểu rằng cái trí khôn mà con người rất hãnh diện thật chẳng ra gì cả, nó chỉ là một khởi điểm, là hạt giống của cái cây tương lai. Đem so sánh với trí khôn mai sau thì hiện nay con người chỉ có Cái Trí của đứa trẻ con; quả thật là trí khôn của đứa trẻ con đầy hứa hẹn, vì nó đã hoàn thành nhiều công việc và có hy vọng nó sẽ hoàn thành nhiều hơn nữa. Nhưng, so sánh với Cái Trí của những Đấng Cao Cả thì nó chỉ là Cái Trí của một đứa bé thơ thôi; như vậy nó không thể vươn lên đến chỗ thật cao mà cũng không thể xuống sâu đến chỗ thật thâm diệu, nên chúng ta không thể bảo nó hiểu được chỗ khởi thủy và chỗ cuối cùng. Về phần tôi, tôi thú nhận ngay với tất cả sự thành thật rằng tôi không biết được mục đích của Đấng Tối Cao. Tôi chỉ biết một điều là Ngài có thật.

Nhà Siêu Hình Học và Triết gia đã suy nghiệm thuần lý về vấn đề này, sự cố gắng làm phát triển rất nhiều Hạ Trí và Thượng Trí của họ. Những người nào thích tưởng tượng cứ suy tưởng, không có hại chi cả; nhưng tôi tưởng, họ phải hiểu rõ rằng đó chỉ là những điều tưởng tượng. Các nhà Triết học không nên biến đổi những lý thuyết của họ thành ra hệ thống và mong mỏi chúng ta chấp nhận vì có lẽ đúng là họ đã bỏ qua nhiều yếu tố căn bản. Riêng tôi, tôi không suy luận thuần lý, khi cảm thấy rằng sự huy hoàng và sự vinh quang đang chờ chúng ta đã đủ, để thỏa mãn những khát vọng của chúng ta rồi. "Những điều gì mà mắt không thấy được, tai chẳng nghe được và cũng không sắp đặt sẵn trong lòng người, đó là những điều mà trời đã chuẩn bị cho những người mà Ngài Thương".[2]

Đó là chính sự thật hôm nay mà cũng là sự thật hồi hai ngàn năm trước.

 

 CHƯƠNG THỨ BA

Y

        QUYỂN SÁCH ĐƯỢC VIẾT RA BẰNG CÁCH NÀO ?

 

C. W. L. Lời tựa của Tiến sĩ Besant (hồi tháng 12 năm 1910), giải thích  kế  đó, cách Alcyone đã viết quyển sách.

 

Và em viết thuộc lòng lại mấy lời này một cách chậm chạp và khó khăn, vì năm trước em chưa giỏi tiếng Anh  như bây giờ.

Một phần lớn cuốn sách vốn lập lại y nguyên lời của Chơn Sư, còn câu nào không phải lời của Ngài thì cũng là tư tưởng của Ngài do em diễn tả lại. Có hai câu bỏ sót, Ngài chữa lại. Trong hai chỗ khác, em quên một chữ, Ngài thêm vô. Trừ ra mấy điều đó, tác phẩm này hoàn toàn của Alcyone, ấy là món quà đầu tiên của em hiến cho đời.

 

Riêng tôi, tôi có thuật lại câu chuyện xảy ra như thế nào trong  quyển Chơn Sư  và Thánh Đạo.

Cũng khá dễ mà thuật lại quyển sách nhỏ ấy được viết trong trường hợp nào. Mỗi đêm tôi có bổn phận phải dắt đứa trẻ này ở trong Cái Vía của nó đến nhà Đức Thầy, để Ngài giáo huấn nó. Mỗi lần, Ngài để ra trong khoảng mười lăm phút đặng giảng dạy nó rồi khi mỗi bài chấm dứt Ngài tóm tắt những điểm quan trọng mà Ngài đã giảng, hoặc bằng một câu, hoặc bằng nhiều câu. Như thế Ngài làm ra một toát yếu rất dễ để em học thuộc lòng. Sáng mai, em phải nhớ lại rồi chép ra. Quyển Dưới Chơn Thầy gồm những câu tóm tắt lời giảng dạy của Đức Thầy bằng những từ ngữ riêng của Ngài dùng. Krishnamurti chép lại hơi khó khăn những lời này, vì hồi đó em chưa giỏi tiếng Anh. Em thuộc lòng tất cả những bài này nên không lo ngại về số phần của những chú thích mà em đã ghi chép. Nhưng sau đó ít lâu, Krishnamurti đi Bénarès với bà Hội Trưởng của chúng ta, ở đó, em viết thơ về Adyar cho tôi, yêu cầu tôi thu thập và gởi cho em tất cả những câu ghi chú những lời Đức Thầy đã dạy em. Tôi cố gắng xếp đặt lại thật rõ ràng những lời ghi chú này và đánh máy ra.

Đối với tôi, dường như một phần lớn những lời ghi chú đó chính là lời của Đức Thầy. Tôi muốn thật chắc chắn không có sự sai lạc trong khi chép nên tôi đã đem dâng lên Đức Thầy Kouthoumi những bản đánh máy và cầu xin Ngài vui lòng đọc lại tất cả. Ngài đọc và đổi một hoặc hai chữ ở chỗ này, chỗ kia, thêm vài chữ để liên kết và giải thích, và vài câu khác mà tôi nhớ có nghe Ngài đã nói. Rồi Ngài nói: "Phải, như vậy đúng; cái này được"; nhưng Ngài nói thêm: "Chúng ta hãy đem mấy tờ này trình lên Đức Di Lạc". Và Đức Thầy với tôi cùng đi, Ngài cầm bản thảo và trình lên Đức Chưởng Giáo. Đức Chưởng Giáo đọc và tán thành. Chính Ngài nói: "Huynh phải làm cho nó thành một quyển sách nhỏ xinh đẹp đặng giới thiệu Alcyone cho đời". Chúng tôi không hề có ý nghĩ giới thiệu Alcyone với Thế gian; và chúng tôi tưởng không đáng cho nhiều luồng tư tưởng tập trung vào một đứa bé mới mười ba tuổi đầu còn cần sự học hỏi và sự giáo hóa. Nhưng trong giới huyền bí, chúng tôi phải làm những gì người ta nói với chúng tôi, vì vậy quyển sách này được giao cho nhà in ngay buổi sáng hôm sau.

Tất cả những sự phiền phức mà chúng tôi đã tiên kiến khi quyển sách nhỏ này được xuất bản sớm, đã xảy ra. Tuy nhiên Đức Chưởng Giáo hữu lý và chúng tôi đã lầm, vì cái tốt đẹp do quyển sách đó mang lại đã vượt xa vô hạn những nỗi ưu phiền do nó đã gây ra cho chúng tôi. Thật thế, có hàng ngàn người viết thư cho chúng tôi biết rằng đời sống của họ đã thay đổi hoàn toàn và họ thấy mọi vật đều khác hẳn, chỉ vì đã đọc quyển sách ấy. Quyển Dưới Chơn Thầy đã được dịch ra hai mươi bảy thứ tiếng, xuất bản khoảng bốn mươi lần, hoặc hơn nữa và có trên một trăm ngàn quyển đã in ra. Qua trung  gian của quyển sách này một công trình tuyệt diệu đã hoàn thành. Và trên tất cả, nó được Đức Chưởng Giáo sắp lâm phàm đặc biệt cho phép ấn hành. Điều này đã tăng thêm giá trị của nó, bởi vì qua nội dung của quyển sách nhỏ này người ta có thể suy diễn được phần nào giáo lý của Đức Chưởng Giáo.

 

CHƯƠNG THỨ TƯ

  Y

LỜI CẦU NGUYỆN ĐẦU TIÊN

 

C. W. L. Bà Tiến sĩ A. Besant đã kết thúc lời nói đầu của  quyển sách  này bằng những lời cầu nguyện cho chúng ta như sau:

 

Cầu xin tác phẩm này giúp ích cho kẻ khác, cũng như lời khẩu truyền đã giúp ích cho Alcyone. Chính vì cũng mong mỏi như thế, nên Alcyone mới đem truyền lại cho chúng ta. Nhưng mà những lời giáo huấn này chỉ có hiệu quả là khi nào người ta thật sự sống đúng theo nó, cũng như chính Alcyone từ khi được Thầy dạy đến giờ vẫn tuân theo luôn luôn. Nếu noi theo gương này, cũng như giữ vẹn lời giới răn thì độc giả sẽ bắt đầu bước vào Đường Đạo cũng như tác giả vậy.

 

Trong khi duyệt lại quyển sách, Tiến sĩ Besant nói rằng: "Thật ít khi thấy những lời lẽ tương tự, lời giáo huấn trực tiếp có tính cách triết lý như thế, và được diễn tả một cách tuyệt diệu lại đem giảng dạy cho đời". Vì vậy, thật đáng cho chúng ta phải cân nhắc kỹ lưỡng từng lời.

Chỗ khởi đầu quyển sách, trước lời tựa của Alcyone, chúng ta gặp lời cầu nguyện xưa, do từ tiếng Phạn dịch ra. [3]

 

                    Xin dắt tôi từ cõi giả đến cõi chơn.

                    Xin dắt tôi từ chỗ tối tăm đến nơi sáng suốt.

                    Xin dắt tôi từ sự chết đến sự trường sinh bất tử.

 

Trong trường hợp hiện tại, chữ "Chơn" có thể bị hiểu lầm. Khi dùng chữ "Chơn" và chữ "Giả" chúng ta muốn nói rằng cái này có một sự hiện tồn xác thực, còn cái kia thì không có. Đối với chúng ta chữ "Giả" chỉ có nghĩa hư ảo, tưởng tượng. Nhưng người Ấn Độ không bao giờ hiểu nghĩa chữ này như thế. Có thể chúng ta hiểu theo một ý nghĩa gần đúng ý nghĩa họ quan niệm, khi chúng ta nói rằng: "Xin dắt tôi từ cõi vô thường đến cõi Trường Tồn bất diệt."

Nói rằng các cõi thấp như cõi Hồng Trần, cõi Trung Giới và cõi Thượng Giới là giả, thường sẽ gây ra nhiều sự lầm lẫn lớn lao. Chúng nó không phải là giả khi mà chúng nó còn tồn tại ở mức độ của chúng nó. Những vật hữu hình dường như quả có thật, khi chúng ta ở cõi Hồng Trần, nhưng khi chúng ta ngủ, chúng ta dùng tâm thức của Cái Vía thay vì tâm thức của Xác Thân, chúng ta không thể thấy đồ vật này nữa, bởi vì chúng ta đã đi qua cõi cao hơn. Vì lẽ đó, đôi khi người ta gọi chúng nó là giả, nhưng người ta cũng có thể gọi cõi Trung Giới là giả vì khi ở cõi Trần, chúng ta không thấy đồ vật ở  cõi Trung Giới. Đồ vật ở hai cõi luôn luôn vẫn hiện diện và thấy được đối với người mà tâm thức đã hoạt động trong cả hai cõi ấy.

Theo sự hiểu biết của chúng ta, mọi sự biểu hiện đều vô thường; chỉ có cái "Không Biểu Hiện" là tuyệt đối và thường hằng [4] mà thôi. Một ngày kia, mọi sự biểu hiện, ngay cả những sự biểu hiện ở những cõi cao, sẽ trở về với cõi vô thủy vô chung. Như thế sự khác biệt giữa cái mà chúng ta gọi là vô thường với những cõi cao siêu này chỉ là vấn đề thời gian thôi, và thời gian đó so với Trường Tồn Bất Diệt thì nó không có nghĩa gì hết. Vậy cõi Hồng Trần cũng vẫn thật như cõi Niết Bàn và cũng như cõi Niết Bàn nó vẫn là sự biểu hiện của Thượng Đế. Do đó, chúng ta không nên tưởng rằng trong hai cõi ấy, có một cõi thật, còn cõi kia chỉ là ảo mộng hay là huyễn tưởng thôi.

Còn một lý thuyết khác vẫn thường cho rằng vật chất là xấu. Không phải xấu đâu. Vật chất cũng như Tinh thần, cả hai đều là biểu hiện của Đức Thượng Đế; cả hai đều thuộc về Ngài; chúng nó chính là hai trạng thái của Ngài mang. Vật chất thường gây chướng ngại trên đường tiến hóa của chúng ta, nhưng khi nào sử dụng nó làm chậm trễ bước tiến hóa của chúng ta. Cũng như việc người ta bị dao cắt mà cho rằng tất cả những dao đều xấu. Theo sự uyển chuyển của tiếng Phạn, chúng ta có thể dịch lời cầu nguyện thứ nhất như sau: "Xin dắt tôi từ cái giả đến cái Thật"."Chơn," "Thường","Thật" cái nghĩa dường như gồm cả mấy điều đó. Vậy thì lời cầu nguyện của chúng ta có nghĩa rõ hơn  như  thế này: Xin dắt tôi từ ngoại giới, là nơi ảo ảnh lớn lao hơn hết đến nội tâm, là nơi gần kề chân lý tuyệt đối.

Lời cầu nguyện thứ nhì là: "Xin dắt tôi từ chỗ tối tăm đến nơi  Sáng Suốt." Dĩ nhiên, đây là từ chỗ tối tăm của sự dốt nát đến ánh sáng của sự hiểu biết. Lời cầu nguyện này dâng lên Đức Thầy. Chúng ta cầu xin Đức Minh Triết của Ngài soi sáng chúng ta. Bên Ấn Độ, câu này còn có nghĩa thứ hai thêm vô nghĩa thứ nhất. Thiết tưởng chúng ta cầu xin Đức Thầy dắt chúng ta đến sự hiểu biết các cõi cao siêu. Chúng ta cũng tìm thấy ở đó tư tưởng thật đẹp được diễn đạt trong vài quyển sách xưa rằng: Ánh sáng của cõi dưới là sự tối tăm của cõi cao kế đó. Đó là một Chân lý tuyệt diệu. Cái mà chúng ta gọi là ánh sáng dưới Trần thế thì đục và mờ so với ánh sáng của cõi Trung Giới và đến lượt ánh sáng của cõi này lại yếu hơn ánh sáng của cõi Thượng Giới. Thật rất khó mà tìm những lời lẽ diễn tả sự dị biệt này, vì mỗi lần trong tâm thức quí bạn vượt lên một cõi cao, quí bạn lại cảm giác nhận thức được một cái gì cao siêu phi thường hơn tất cả những gì mà trước kia quí bạn chưa từng biết, quí bạn thấy uy lực tăng gia, ánh sáng tăng gia, phúc lạc tăng gia.

Một người tâm thức thật mở mang tự nhủ: "Hôm nay, lần đầu tiên, tôi mới hiểu Sự Sống thật sự là gì, và sự huy hoàng của mấy  điều đó". Vậy mỗi cõi đều cao hơn cõi dưới kế nó, điều này không thể so sánh được cho đến đổi từ cõi Trung Giới trở về cõi Trần thì dường như người ta đi từ ngoài ánh sáng mặt trời vào ngục tối vậy. Khi một người có thể hoạt động một cách có ý thức trên cõi Thượng Giới, y sẽ có thể phát triển trong nhiều phương hướng vô cùng cao hơn những điều y đã biết tại cõi Trung Giới. Khi y tiếp xúc Tâm Thức Bồ Đề, lần đầu tiên y mới vừa cảm biết cách Thượng Đế xem coi vạn vật. Đó chính là sự tiếp xúc đầu tiên với Thượng Đế, một ý niệm đầu tiên về cách thế của "Đấng Vô Sở Bất Tại" cảm biết vũ trụ của Ngài tạo ra. Người ta nói về Ngài như vầy: "Sự sống của chúng ta, sự hoạt động của chúng ta, bản thể của chúng ta vốn ở trong lòng  Ngài" [5] và  một câu nữa: "Vạn vật đều do Ngài sinh ra và thuộc về Ngài". [6] Đây không phải chỉ là một lời nói đẹp đẽ và có thi vị mà chính là sự biểu hiện của một sự việc. Có một Đơn vị cực kỳ vinh quang, không phải chỉ là một nhóm Huynh Đệ mà thật sự là một Đơn vị; khi chạm phớt qua nó, người ta bắt đầu hiểu một cách mơ hồ điều mà Thượng Đế cảm thấy khi Ngài nhìn xem Vũ Trụ của Ngài và nói: "Cái đó thật tốt". Như thế chúng ta cầu xin được dắt từ chốn tối tăm ngự trị ở các cõi thấp đến ánh sáng của Tâm Thức cao siêu là ánh sáng tương phản với sự tối tăm. Không có danh từ nào thích hợp hơn, không có tiếng nào đủ khả năng diễn đạt cảm nghĩ của chúng ta đúng hơn. Sau hết chúng ta lại nguyện rằng: "Xin dắt tôi từ sự chết đến sự Trường  Sinh Bất Tử ". Câu này không có nghĩa như người mới mộ Đạo hiểu, vì người Thông Thiên Học không xem sự tử vong như một người chưa khảo cứu vấn đề này: thái độ của y phải thật trái hẳn. Sự chết không có gì đáng sợ; nó không phải là Bạo Chúa của những sự khiếp đãm, nhưng đúng hơn nó là một vị Thiên Thần mang chìa khóa vàng đến  mở cửa vào một đời sống cao cả hơn và nhiệt liệt hơn. Đành rằng chúng ta luôn luôn luyến tiếc những người quá vãng, nhưng sự luyến tiếc này chỉ nhắm vào việc: "Nắm một bàn tay tan ra mây khói, nghe âm thanh của một tiếng nín lặng". Khi chúng ta cầu xin được dắt từ sự chết đến sự Trường Sinh Bất Tử, ý tưởng của chúng ta không phải như ý tưởng của một người Thiên Chúa Giáo sống mãi trong sự Trường Tồn với bản ngã hiện hữu của y, dưới hình thức này hay dưới hình thức khác. Tuy nhiên, chúng ta cầu mong thoát khỏi sự chết và người bạn keo sơn của nó là sự tái sinh. Cái điều chờ đợi con người, ấy là chu kỳ của sự tiến hóa, những người Phật Tử gọi là Sansâra, có nghĩa là Bánh xe của sự sống. Lời cầu nguyện ở đây có nghĩa là: "Xin dắt tôi từ vòng sinh tử đến sự Trường Sinh Bất Tử - đến đời sống vượt lên trên sự sinh và sự tử, nó không cần phải xuống những cõi thấp nữa, vì sự tiến hóa của nó trong con người đã chấm dứt và nó đã học hết  những gì mà vật chất đã dạy nó.

Thường thường người ta không ngờ đến điều này là ý niệm đó cũng chiếm một địa vị quan trọng trong những Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo. Thiên Chúa Giáo hiện đại phải chịu vài ám ảnh (tôi không nghĩ rằng người ta có thể gọi chúng bằng danh từ nào khác  hơn), mà một trong những ám ảnh đó là tư tưởng ghê tởm về một địa ngục đời đời kiếp  kiếp. Tín ngưỡng này đã rải một đám mây mù vô lý, vô nghĩa trên một loạt giáo lý khác. Trong toàn thể của nó, thuyết Cứu rỗi Linh Hồn xuất hiện có nghĩa là nhằm cứu vớt Linh Hồn ra khỏi cái địa ngục hão huyền đời đời đó. Ý nghĩa thật khác lắm. Thiết tưởng tất cả những đoạn sách nói về địa ngục đời đời kiếp kiếp dường như không thể hiểu được đã trở thành sáng tỏ và minh bạch, khi mà người ta hiểu được rằng thật ra con người  được cứu  rỗi vì Đức Chúa sinh ra trong lòng nó.

Đấng Christ thường nói về con đường rộng rãi đưa đến sự chết chóc hay là sự tàn phá mà nhiều người đã đi theo nó. Một hôm, người đệ tử của Ngài đến hỏi Ngài: "Bạch Chúa, phải chăng chỉ có một số ít người được cứu rỗi mà thôi"? Ngài đáp rằng: "Cánh cửa vẫn chật hẹp và con đường dắt đến sự sống vẫn eo hẹp, rất ít người tìm được nó". Những lời tuyệt diệu và hoàn toàn đúng này, người ta thường giải thích rằng nó có nghĩa là đa số nhân loại sẽ bị ném vào một địa ngục đời đời kiếp kiếp, còn một thiểu số sẽ được lên Trời. Thật là hết sức  kỳ cục  mà gán  cho Chúa ý tưởng này. Ý của Chúa hoàn toàn minh bạch. Các  đệ tử hỏi Ngài có bao nhiêu người theo con đường dẫn đến sự Điểm Đạo? Ngài trả lời: "Ít lắm", lời Ngài vẫn đúng đối với ngày nay cũng như đối với thuở xa xưa đó. Khi Ngài nói rằng: "Con đường dắt đến cõi chết thì rộng rãi và nhiều người theo nó", là Ngài đã nói đến con đường dắt đến sự sinh tử luân hồi. Dĩ nhiên, quả thật đó là con  đường rộng rãi và dễ đi biết bao! Cách tiến hóa ấy không mệt nhọc chút nào và những người đi theo đường đó sẽ đạt được mục đích khá dễ dàng . . . có  lẽ hết cuộc Tuần Hoàn thứ bảy.

Nhưng cánh cửa chật hẹp và con đường eo hẹp, lại dẫn đến sự Điểm Đạo và cõi Trời. Khi Đấng Christ nói về Cõi này, Ngài không hề muốn nói đó là cõi Thiên Đàng hay trạng thái sau khi chết hay dévakhane, mà luôn luôn Ngài đề cập đến một nhóm người đã được cứu rỗi hay một đoàn thể được tuyển chọn, tức Quần Tiên Hội vậy. Khi Ngài nói về điều kiện của kiếp sống giữa sự chết và sự  tái sinh, chúng ta thấy Ngài dùng những từ ngữ khác. Quí bạn hãy nhớ lại một đoạn văn của Thánh Jean như sau: "Và đây này, một đám đông người, không ai đếm được, thuộc mọi quốc gia, mọi bộ lạc, mọi chủng tộc, mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước Ngôi Chúa và trước con chiên con, mặc áo dài trắng và cầm trong tay những vòng chiến thắng". Khi tác giả đề cập đến bên kia cửa tử, Ngài nói với chúng ta về một đám người đông đảo, vô số, chớ không phải một nhóm ít người chịu khó khăn lắm mới tìm được con đường của họ.

CHƯƠNG THỨ NĂM

  Y

 THÁI ĐỘ CỦA NGƯỜI ĐỆ TỬ

 

C. W. L. Bây giờ chúng ta đi đến lời tựa của chính Alcyone.

 

Mấy lời này chẳng phải của tôi, ấy là lời của Sư Phụ tôi đã dạy tôi. Không có Ngài, tôi chẳng làm gì được, nhưng nhờ Ngài giúp, tôi mới bước vào Đường Đạo.

 

Alcyone cho rằng sự tiến hóa của em hoàn toàn nhờ ảnh hưởng và sự giúp đỡ của Sư Phụ em. Chúng ta cũng dự vào một phần lớn sự giúp đỡ mà em đã nhận được, vì chúng ta có những lời trong sách, nghĩa là lời của Đức Thầy. Nhưng sự giúp đỡ lớn lao bằng sự hiện diện và sự dìu dắt của Ngài cũng sẵn sàng chờ đợi mỗi người trong chúng ta. Sự thật này phải khắc sâu trong tâm trí chúng  ta; chúng ta phải tin tưởng vào nó như  tin tưởng vào một sự kiện tuyệt đối chắc chắn: Tất cả những ai muốn chuẩn bị như Alcyone đều sẽ được giúp đỡ.

 

Anh cũng vậy, anh muốn bước vào Đường Đạo này thì những lời của Sư Phụ tôi sẽ hữu ích cho anh. Nếu anh tuân theo. Nói rằng mấy lời đó chơn chánh và tốt đẹp chưa phải là đủ. Người nào muốn thành công thì phải thực hành đúng theo lời chỉ giáo. Một người đang đói xếp ve nhìn một món đồ ăn rồi nói "ngon quá" thật vô ích với y. Y phải đưa tay lấy và ăn. Cũng thế, nghe những lời dạy của Đức Thầy chưa phải là đủ; phải thực hành những điều Ngài nói, chăm chỉ theo từng tiếng, từng dấu.

 

Nói rằng: " Tôi sẽ làm theo tất cả những lời dạy trong sách" cũng chưa đủ. Lời giáo huấn phải thấm nhuần trọn vẹn đời sống của chúng ta. Phải canh chừng những cơ hội thuận tiện. Mấy câu thơ ở đàng sau chót quyển sách diễn tả thật rõ rệt ý muốn đó:

 

Chờ đợi tiếng nói Chơn Sư,

Rình xem ánh sáng ẩn tàng,

Lắng nghe hầu biết được mệnh lệnh của Ngài,

Dầu ở giữa chiến trận.

Chú ý từng nét dấu nhỏ nhít của Ngài,

Trên đám đông quần chúng,

Nghe tiếng thì thầm của Ngài,

Xuyên qua tiếng ca hát vang rền của quả đất.

 

Ai ước nguyện làm đệ tử Chơn Sư thì phải luôn luôn lắng nghe  lời Thầy ở giữa những tiếng ồn ào, hỗn loạn và cuồng nhiệt của cuộc tranh đấu sinh sống. Phải nỗ lực tìm cơ hội để thực hành bất cứ lời dạy nào của Ngài. Chung qui không phải thật là khó khăn đâu; một phần lớn chính là vấn đề thói quen. Chỉ có bước đầu là đáng kể. Khi bước thứ nhất xong rồi thì thói quen đã có; rất dễ cho chúng ta giữ chừng không bỏ cuộc, chẳng khác nào một người kia trong việc kinh doanh tìm cơ hội để kiếm lợi. Người đó có lý mà giữ một thái độ chờ đợi; vì nếu y lo lắng công việc làm ăn thì y phải giữ cho trọn vẹn bổn phận của y, nhưng nếu y ra sức giải quyết những việc tạm thời thì chính chúng ta cũng rất có thể áp dụng một sự cố gắng như vậy đối với những vấn đề của đời sống cao siêu.

Ai muốn được quỳ dưới chân Đức Thầy thì rất cần phải được hiểu rõ ý muốn củaNgài. Thái độ đó là kết quả của sự đọc sách Thông Thiên Học. Chỉ có thái độ đó mới là mục đích thật, vì Thông Thiên Học là một lối sống thật sự phải noi theo, chớ không  phải là một hệ thống giáo lý chỉ để cho chúng ta học hỏi mà thôi. Vậy chúng ta phải cố gắng sao cho quan điểm của chúng ta phù hợp với quan điểm của Đức Thầy, mà không hề có sự cưỡng bức nào cả. Không ai trong chúng ta hành động thật khôn ngoan khi thừa nhận quan điểm nào đó chỉ vì nó là quan điểm của Đức Thầy mà không hiểu vì sao mà Ngài đạt được quan điểm đó. Chúng ta thừa nhận quan điểm của Chơn Sư mà không có sự nguy hiểm nào cả, vì sự hiểu biết của Ngài vượt xa vô cùng kiến  thức  của chúng ta. Nhưng Ngài không muốn điều đó. Tư tưởng của Ngài phải thuyết phục được trí khôn của chúng ta, chớ không phải chỉ ảnh hưởng đến tình cảm mà thôi.

Điều cần thiết trước nhất là phải tin chắc rằng những điều ấy quả có thật, trường tồn và tối quan trọng. Người Thiên Chúa Giáo bậc trung nói rằng quả thật những điều vô hình quan trọng hơn hết, còn những việc hữu hình là giả tạm. Y tin như vậy nhưng không hề làm in như điều y đã tin tưởng. Tại sao vậy? Bởi vì y không chắc chắn  những điều đó có thật. Tại cõi trần, y chắc chắn rằng tiền bạc có những lợi ích và càng kiếm được tiền, càng tốt cho y. Y ít tin rằng những chuyện tinh thần có thật, chúng thuộc về loại đề mục mà y gọi là "Tôn Giáo". Theo y dường như không chắc chắn, không có tính cách thực dụng và hiển nhiên, thích hợp với công việc của đời sống thường ngày. Chúng ta đang tìm cách tiến tới trong địa hạt tinh thần, chính chúng ta phải đưa tính cách thực dụng này, sự chính xác tuyệt đối và minh bạch này vào giới vô hình. Ông Sinnett đã nói trong tác phẩm Thông Thiên Học đầu tiên của ông như sau: "Đối với quí vị, những điều này phải thật như Thập Tự Giá". Điều này rất đúng, chúng phải quen thuộc với chúng ta như những điều chúng ta thấy hàng ngày.

Chúng có thể trở nên như thế, hoặc do sự suy luận, hoặc do trực giác, nhất là do kinh nghiệm trực tiếp. Khi trong trí ta tin chắc rằng việc nào đó phải có thì nó trở thành một sự xảy ra có thật đối với chúng ta. Chắc chắn đó là một ưu điểm mà sinh viên kỳ cựu hơn một sinh viên còn trẻ tuổi. Dù những người mới có nhiệt tâm đến đâu đi nữa, những người kỳ cựu cũng vẫn có đủ thì giờ làm cho ý niệm này thành ra một phần cốt yếu của đời sống họ và đồng hóa nó lần hồi, từ chút này đến chút kia. Như một thi sĩ đã nói: "Sự  hiểu biết vượt lên cao, từ sự tiến bộ này đến sự tiến bộ khác". Có vài người trong chúng ta vừa nghe nói đến những sự kiện cao siêu thì liền hoàn toàn tin chắc rằng chúng nó quả có thật; cái trực giác tốt đẹp đó vốn do nghiệp quả lành của họ đã gây ra từ những tiền kiếp. Tuy nhiên đối với phần đông số phần ít may mắn, thì rất cần sự phát triển liên tục lâu dài. Thật ra một người có thể gia nhập Hội Thông Thiên Học đã ba mươi năm rồi mà không hiểu biết gì hơn lúc y mới vào. Thật đáng buồn vậy, vì mọi cơ hội tốt đều trôi qua rồi. Trái lại, đối với người không ngớt suy nghĩ về Thông Thiên Học và sống theo nó đều cảm thấy lần lần có một sự tin chắc. Những kinh nghiệm của đời sống và những tư tưởng về những vấn đề đó lần lượt đem đến cho chúng  ta nhiều bằng chứng để cho chúng ta thấy rằng những việc ấy vốn hiển nhiên.

Trong nhiều trường hợp, những tư tưởng Thông Thiên Học ban đầu dường như phức tạp và khó hiểu, nhưng về sau chúng trở nên giản dị và dễ dàng; chúng biến thành một thành phần của chúng ta. Một đứa trẻ tập viết một trương, nó rất hãnh diện nếu nó không phạm một lỗi nào, nhưng về sau, nó cũng chép một trương như vậy mà không cần để ý đến nữa, nó đã có thói quen rồi. Trong thời gian mà chúng ta còn cần phải cố gắng để hiểu biết thì chúng ta chưa thật hiểu được giá trị của những tư tưởng Thông Thiên Học. Một ngày kia, chúng sẽ trở  thành một sức mạnh trong đời sống của chúng ta.

Kinh nghiệm cá nhân đem lại chắc chắn những sự tiến bộ dễ dàng hơn và nhanh chóng hơn; trong chúng ta, rất ít khi chúng ta không có sự kinh nghiệm nào cả. Về phương diện này, một ít hiểu  biết trực tiếp cũng chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng không phải tất cả cái còn lại là thật cả, nhưng mà nó rất có thể đúng. Riêng về phần chúng ta, chúng ta nhận thấy một phần giáo lý chúng ta đã học phù hợp với Chân lý, nên chúng ta chấp nhận phần còn lại cũng có thể đúng. Khi toàn thể triết lý kết hợp với nhau, thì có lẽ đúng đó sẽ chắc chắn cho đến nỗi nó trở  thành sự thật.

 

Nếu không chú ý đến một dấu và bỏ qua một tiếng, thì dấu đó và tiếng đó mất biệt vì Chơn Sư không nói đến hai lần.

 

A. B. Nhiều người không thể hiểu rằng những kẻ không ngớt nghe lập đi lập lại những chân lý là những người không hiểu biết gì hơn những người còn ở ngoài đời. Và Chân lý Thông Thiên học không cảm họ được, nếu họ không cố tâm tuân hành. Nên chú ý, tôi không nói: nếu họ không tuân hành - mà tôi nói: nếu họ không cố tâm tuân hành. Chính là sự cố gắng bền bỉ vốn cần thiết mà nhiều người trong chúng ta lại thường hay quên. Thật thế, Chơn Sư không nói hai lần. Ngài đưa ra một tư tưởng, nếu nó không được tiếp nhận thì Ngài không nhấn mạnh nó. Ngài không lập lại điều Ngài đã nói. Chỉ có những đệ tử của Ngài, vì phải kể đến những điều kiện của Thế gian nên cứ lập đi lập lại cả trăm lần những điều họ đã nói cho đến khi chúng sinh ra được một cảm tưởng. Nếu bạn được nhận làm Đệ Tử chánh thức, Đức Thầy sẽ không bảo bạn thực hành việc gì mà bạn không thể làm được. Nếu bạn bỏ qua một huấn lệnh của Ngài đưa ra cho bạn, Ngài sẽ không đưa ra cho bạn một huấn lệnh nào nữa đâu. Điều đó không phải vì Ngài không nhân từ, nhưng bởi Ngài không có thì giờ để lãng phí. Ngài có không biết bao nhiêu công việc phải làm. Tất cả giáo lý này đem truyền cho Alcyone vì em đã làm việc nhiều và không ngớt.[7] Chỉ có những ai ý chí cứng cỏi, không sờn lòng mới đến gần Đức Thầy được. Tôi biết điều đó. Chính là sự cố gắng bền bỉ và không bỏ cuộc này mà nhiều người trong chúng ta cho là khó khăn, nhưng đó là điều cần thiết và nếu không làm nổi, bạn không thể nào bước vào Đường Đạo được.

 

C. W. L. Chúng ta là những người đi theo Đức Thầy và cố gắng hoàn thành một phần công việc của Ngài ở ngoài đời, chúng ta luôn luôn phải nói hai lần; chúng ta luôn luôn lập lại những thông điệp khác nhau đã được giao phó cho chúng ta, vì những người nghe vốn vô tư lự hay lơ đãng. Chỉ khi nào một người được giao thiệp với Chơn Sư mới xem như là không thờ ơ nữa; vậy một lời nói khéo léo, bóng bẩy cũng đã đủ cho y rồi và chắc chắn nó không được lập lại, nếu nó không được tiếp nhận; không phải Chơn Sư kiêu hãnh, tự phụ, nhưng vì đệ tử chưa sẵn sàng.

Phải hiểu cách thức Chơn Sư đào tạo đệ tử. Một mạng lệnh trực tiếp của các Ngài đưa ra rất hiếm có. Cách đây đã lâu, khi tôi được vào hàng Đệ Tử nhập Môn, câu hỏi đầu tiên của tôi là: "Bạch Sư Phụ! Con phải làm gì"? Đức Thầy đáp: "Con hãy tự kiếm lấy điều đó"; rồi Ngài giải thích: "Thầy biết chắc chắn rằng nếu Thầy ra cho con một mệnh lệnh thì con sẽ vâng lời ngay, nhưng trong trường hợp đó con chỉ nhận được quả của một sự vâng lời mau lẹ và tức khắc, nhưng nghiệp quả của việc làm sẽ về  phần Thầy.Thầy muốn nó thuộc về phần con. Thầy muốn con làm những việc lành và tạo nghiệp lành. Ý kiến phải phát sinh từ nơi con chớ không phải từ nơi Thầy".

Rất ít khi các Đấng Cao Cả cho những mệnh lệnh trực tiếp; nhưng thường thường do một lời nói của Đức Thầy hoặc một cái nhìn của Ngài cũng đủ cho người ta đoán được Ngài bằng lòng cách hành động nào đó hay không. Những người ở chung quanh Ngài (đặc biệt nhất là trường hợp của Đức Thầy Kouthoumi) tập lưu ý đến sự nhận xét ấy, họ luôn luôn chú ý.

Đức Thầy Morya là vị Vua trong giai đoạn đầu của kiếp hiện tại, nên thường Ngài nói với một giọng oai quyền của một vị Hoàng Đế. Ngài thường ra lệnh trực tiếp và Ngài tỏ ý không bằng lòng với những lời lẽ rõ rệt. Đức Thầy Kouthoumi hầu như không bao giờ tỏ ý không bằng lòng; các đệ tử của Ngài tập đoán ý Ngài bằng cách nhìn của Ngài, bởi vì ít khi Ngài khiển trách. Đó là lý do tại sao các đệ tử ở trong tình trạng chờ đợi đặng nghe lời Ngài dạy dỗ họ. Khi nhận được chỉ thị của Đức Thầy, họ cố gắng tuân theo, bởi vì họ biết rằng nếu họ xao lãng, thờ ơ thì chỉ thị đó sẽ không được lập lại. Sự không tiếp nhận chỉ thị này không hề bị khiển trách, chỉ có người đệ tử bị thiệt thòi, vì y không nhận được chỉ thị mới trong một dịp khác.

Trong quyển Chơn Sư và Thánh Đạo, chúng tôi có trình bày rằng các Đấng Chơn Sư đào tạo đệ tử các Ngài bằng nhiều cách khác nhau tùy theo Cung của họ và loại công việc họ phải đảm đương. Trên con đường của Đức Bàn Cổ và Đức Morya thì có những người Kshattriya (Sái-đế-lỵ), tức là hạng người có uy quyền như Thẩm phán, Luật gia, Quân nhân, Chính khách. Trên con đường của Đức Bồ Tát và Đức Thầy Kouthoumi thì có những người thuộc về hạng Brahmana (Bà-la-môn), tức là các Huấn luyện viên, các nhà Truyền giáo, các  nhà Cải cách. Ngoài  ra còn  năm Cung lớn khác mà mỗi Cung đều có đặc tính  riêng biệt. Một vị Đế Quân ít nhất Sáu lần Điểm Đạo cai quản mỗi Cung, dưới Ngài có nhiều Đức Thầy khác. Như thế, chẳng hạn như Cung thứ hai, một vị đệ tử không cần thiết phải làm đệ tử Đức Thầy Kouthoumi; y có thể  trực  thuộc  Đức Thầy Djwal Koul.

CHƯƠNG THỨ SÁU

Y

BỐN CON ĐƯỜNG DỰ BỊ

 

C. W. L. Những tác phẩm Đông phương nói với chúng ta rằng có đến bốn nẻo chánh có thể dắt con người đến Con Đường Nhập Môn. Các sách ấy nói thêm rằng sự thay đổi mục tiêu là thường do nhóm người đã bước vào Đường Đạo rồi. Các vị ấy khai sáng cho người đời thấy sự vinh quang và sự huy hoàng của Con Đường Đạo cũng như sự cần thiết phải theo đuổi nó.

1) Ảnh hưởng của một vị Cao Đồ không bị giới hạn trong lời nói của người thốt ra, cái gây ra một ảnh hưởng mạnh mẽ như thế, chính là sự rung động của sự sống chiếu tỏa ra chung quanh Người. Sự kiện này được hoàn toàn công nhận ở Ấn Độ là nơi có nhiều vị Đạo Sư khác nhau, từ hạng cao đến hạng thấp, có quyền năng nhiều hay ít; người ta gọi họ là Gu-ru (Gourous): Tôn Sư. Mỗi vị Đạo Sư đều có những đệ tử riêng. Họ dạy đệ tử Họ những quan niệm Triết Học riêng của Họ, đôi khi Họ cho đệ tử những câu Thần chú để niệm, tức là những cách tham thiền và dạy đệ tử thực hành Pháp môn Yoga. Nhưng không phải do bài vở mà Họ giúp đỡ đệ tử của Họ nhiều hơn hết. Điểm chính là đệ tử sống gần Tôn Sư. Nếu Đạo Sư là một vị thuộc phái Tiêu dao[8], đi ta bà từ nơi này sang nơi khác, các đệ tử cũng đi theo Thầy. Cũng thế đó, các đệ tử của Đức Jésus đã đi theo Ngài ở Palestine. Nếu vị Đạo Sư thường trụ, không di chuyển thì các đệ tử ở chung quanh Thầy, ngồi dưới chân Thầy, sẵn sàng tiếp nhận những lời vàng ngọc của Thầy thốt ra, nhưng họ thụ hưởng những sự lợi ích của bài dạy của Thầy ít hơn ảnh hưởng do sự hiện diện của Ngài ban ra cho họ.

Không có gì đúng theo khoa học hơn nữa. Những thể cao siêu của vị Đạo Sư  rung động với một tốc độ mau hơn nhiều so với tốc độ rung động của những thể của đệ tử vừa mới từ giả đời sống thế tục là nơi phát xuất những sự rung động ở mức độ thấp kém. Các đệ tử chưa cởi bỏ trọn vẹn yếu tố cá nhân như Thầy. Họ phải tự khắc kỷ, giữ gìn giới luật, nhận thấy những tánh xấu của mình, quyết định sửa chữa chúng nó và hoạch đắc vài đức tánh; tóm lại, họ phải thay đổi tánh tình. Thường thường đó là một công trình  dài lâu và buồn tẻ, nhưng mà có thể thành ra hết sức dễ dàng nhờ được thường trực sống gần vị Đạo Sư là người đã khai mở được những đức tánh này và dứt bỏ được tật xấu kia. Những làn rung động thanh cao gây ra một áp lực thường xuyên, vị đệ tử trong giấc ngủ cũng như trong lúc thức, thu hút chúng nó và không ngớt hòa nhịp với chúng nó. Đó là nguyên tắc rất phổ thông trong Vật Lý: hai cái đồng hồ để gần nhau mà hai quả lắc không đồng bộ với nhau, quả lắc mạnh hơn từ từ kéo quả lắc yếu hòa hợp với sự chuyển động của nó hoặc làm cho quả lắc yếu ngưng lại.

2) Cách thứ hai để đi đến con Đường Nhập Môn là đọc hoặc nghe những lời giáo huấn về vấn đề đó. Một người thấy vấn đề Nhập Môn rất thú vị, những dịp tốt đem đến cho y vài sự hiểu biết đó, nhờ trực giác, y nắm lấy chúng nó và tức khắc tìm cách thỏa mãn sự ham muốn hiểu biết thêm về vấn đề ấy. Đó chính là trường hợp của tôi. Quyển Thế Giới Huyền Bí  lọt vào tay tôi, tôi liền nhất  định: "Nếu quả đúng như thế - nếu điều đó hiển nhiên - nếu các Đấng Cao Cả có thật, và nếu  các Ngài bằng lòng nhận công việc phụng sự của chúng ta và ban cho chúng ta một ít sự hiểu biết vô giá của các Ngài để bù lại, thì tôi sẽ là một trong những người phụng sự các Ngài. Tôi sẽ lượm lặt trong bất cứ mảnh vụn hiểu  biết nào mà tôi có thể làm được. Kể từ ngày đó, mục đích duy nhất xứng đáng với sự nỗ lực của tôi là hội đủ những điều kiện cần thiết". Thật ra, hàng ngàn người đã nghe nói hoặc đọc trong sách toàn thể giáo lý nhưng họ không có một phấn khởi nào cả. Đó chính là vấn đề kinh nghiệm đã thu thập được trong những tiền kiếp. Phải có tiếp xúc với chân lý trong một kiếp trước và tin chắc nó tốt đẹp và xác thực thì mới nhận biết nó ngay khi nó hiện đến cho chúng ta trong kiếp này.

Nhiều người trong chúng ta lấy làm ngạc nhiên khi thấy một người kia đọc một tác phẩm Thông Thiên Học mà không sửa đổi tâm tánh, không hoán cải. Thông Thiên Học là một giáo lý cao siêu, nó giải quyết được nhiều vấn đề. Tuy nhiên, như các bạn đã  biết rõ, nếu bạn thử đem sách Thông Thiên Học cho vài người bạn thân mượn, thì phân nửa số người này đem trả lại bạn và nói: "Phải, thật hay lắm, nhưng họ không hiểu biết gì trong đó". Chính là nghiệp quả lành tạo ra thuở xưa, khi học hỏi những ý niệm này, ngày nay đã giúp chúng ta hiểu được chúng nó. Càng nghiên cứu sâu xa một vấn đề trong quá khứ thì hiện nay nó càng hấp dẫn chúng ta. Đó chính là kinh nghiệm của chúng ta về một tác phẩm có giá trị mà chúng ta đã đọc hai chục năm trước chẳng hạn. Bây giờ bạn hãy đọc lại tác phẩm đó, bạn sẽ thấy nó hay biết bao so với khi xưa; bạn có thể đánh giá nó tùy theo năng lực của bạn hiểu biết nó.

3) Đôi khi cách thứ ba cũng dắt con người vào con Đường Nhập Môn, những tác phẩm Ấn Độ gọi cách đó là "Sự suy tư sáng suốt". Nói một cách khác, bằng sự cố gắng ngày đêm suy nghĩ không ngớt, một người kia có thể đi đến kết luận rằng phải có một Cơ Tiến Hóa, những Đấng toàn năng, toàn thiện phải biết rõ Cơ đó; sau cùng, phải có một con đường dẫn đến các Ngài. Người nào nhờ một sự cố gắng suy luận như thế, đi đến kết luận ấy ắt y lo tìm đường Đạo. Tuy nhiên, trên con đường này thật ra ít gặp những khách lữ hành.

4) Đối với vài phương diện, phương pháp thứ tư là hay hơn hết, ấy là sự mở mang đức hạnh. Đó là ý niệm dành cho người Thiên Chúa Giáo bậc trung vì y thường tin rằng chỉ có đức hạnh là cần thiết. Trái lại, người Thông Thiên Học nhớ lại rằng vào thời buổi của Thiên Chúa Giáo nguyên thủy thì sự tinh luyện tánh tình hay là thánh đức mà ngày nay họ cho là mục tiêu chỉ một bước đầu tiên mà thôi. Thánh Clément nói thẳng rằng sự Trong sạch (Tinh khiết) chỉ là một đức tánh tiêu cực, nó có ích lợi là giúp cho sự hiểu biết được dễ dàng. Người đã luyện được mình Trong sạch rồi thì xứng đáng được học hỏi và chuẩn bị để được giác ngộ là thời kỳ thứ nhì rồi sang qua thời kỳ thứ ba hay là sự hoàn thiện. Bạn hãy nhớ lại lời của Thánh Phao Lồ: "Có một Minh Triết mà chúng ta giảng giải cho những người đã trọn lành, nhưng không hề truyền cho kẻ khác". [9]

Đức hạnh dắt con người vào cửa Đạo; một người hạnh kiểm tốt trong nhiều kiếp luân hồi, cũng không phải vì đó mà trở nên thông minh hơn. Rốt cuộc y hoạch đắc một trực giác khá đủ để thân cận với những người hiểu biết, như đến với một vị đệ tử  Chơn Sư. Tuy nhiên người ta cho rằng theo phương pháp đó phải mất hàng ngàn năm và nhiều kiếp Luân Hồi. Người mở mang đức hạnh mà không mở trí khôn, một ngày kia cũng sẽ bước vào Đường Đạo được vậy, nhưng ấy là một sự tiến bộ chậm chạp. Sẽ tiết kiệm được biết bao nhiêu thì giờ, nếu y theo lời dạy của Thánh Pierre  và lo  mở mang trí tuệ.

 

CHƯƠNG THỨ BẢY

  Y   

BỐN ĐỨC TÁNH CẦN THIẾT

Có bốn đức tánh cần thiết để bước vào Đường Đạo, ấy là 

* PHÂN BIỆN.

* ĐOẠN TUYỆT.

* HẠNH KIỂM TỐT.

* LÒNG TỪ ÁI.

 

C. W. L. Mấy đức tánh cần thiết này luôn luôn được chỉ dẫn trong các Tôn giáo, nhưng sự phiên dịch ở đây có khác hơn chút ít với những sự phiên dịch trước.

a) Về đức tánh thứ nhứt sự thay đổi rất ít. Tôi đã giải thích những danh từ của người Ấn Độ và những người Phật giáo dùng: nó đồng nghĩa với chữ Hoán Cải của người Thiên Chúa giáo; người đệ tử phải hiệp nhất Chơn Nhơn với Phàm Nhơn. Trên Đường Đạo chính thức một sự hiệp nhất in như thế sẽ kết hợp lại Chơn Nhơn với Chơn Thần. Chơn Nhơn là một phần tử của Chơn Thần tách ra và ngự ở phía dưới Chơn Thần, tại phần trên cao của cõi Thượng Giới. Chơn Nhơn cũng xuống để thu thập những kinh nghiệm, để tập tiếp nhận và lập lại vài thứ rung động không cảm được Chơn Thần ở cảnh giới của Ngài. Đến lượt Chơn Nhơn phải hiểu rằng nó là một phần tử của Chơn Thần, nó có ra đây chỉ vì Chơn Thần và khi đã đạt được mục đích, con người sẵn sàng được Điểm Đạo lần thứ Năm và thành một vị Siêu Phàm.

Cái khả năng phải có để được hai lần điểm đạo được xác định  như sau đây: trong cuộc Điểm Đạo lần thứ Nhứt, Chơn Nhơn hiệp với Phàm Nhơn, đến đỗi trong Phàm Nhơn chỉ có sự hoạt động của Chơn Nhơn thôi; trong cuộc Điểm Đạo lần thứ Năm, thì những gì trong Chơn Nhơn mà không do Chơn Thần linh cảm hay tán thành đều biến mất. Mỗi khi Chơn Thần ảnh hưởng đến những kiếp sống dưới Trần gian thì Ngài xuống như một vị Thượng Đế từ trên trời giáng thế vậy. Trong mỗi kỳ Điểm Đạo, Chơn Thần xuống như một tia chớp nhoáng và trong phút chốc Ngài hiệp nhất với Chơn Nhơn, cũng như sự hiệp nhất này sẽ vĩnh viễn khi con người đắc quả Chơn Tiên. Trong vài trường hợp khác, Chơn Thần cũng xuống vậy, chẳng hạn như trường hợp đã được đề cập trong quyển Những kiếp sống của Alcyone, khi em phát nguyện với Đức Thế Tôn (Đức Phật). [10]

Trong những phương pháp đã kể ra, do phương pháp này hay  phương  pháp kia, con người đã biết phân biện hay nhận thức được công việc này đáng tìm kiếm, còn  công việc kia thì không đáng.

b) Kế đó con người thấy rằng nó phải hoạch đắc đức tánh thứ nhì, mà ở đây Đức Thầy gọi là Dứt Bỏ hay Đoạn Tuyệt. Bà Tiến  Sĩ  A. Besant  đã dịch  là "Không có Dục tình hay Lãnh đạm", nó chính là Vairagya của người Ấn Độ, có nghĩa là Lãnh đạm đối với kết quả của những hành vi của chúng ta. Đức Thế Tôn diễn tả bằng những danh từ đó, Ngài dùng chữ Nam Phạn - Pâli - Parikamma . Karma hay kamma luôn luôn có nghĩa là làm hay hành động và Parikamma có nghĩa là chuẩn bị hành động; ấy là hành động theo đó một điều quan trọng đặc biệt chỉ định bổn phận làm lành là vì chưng yêu mến sự lành chớ không vì lợi lộc nào khác có thể đem đến cho chúng ta. Phải hiểu rõ điều này. Thường người ta hiểu rằng Lãnh đạm đối với kết quả của hành động có nghĩa là phải thi hành bổn phận không cần bận tâm đến sự phản ứng của nó đối với kẻ khác. Như trong quyển này có nói với chúng ta ở phía đàng sau như  vầy: "Con  phải làm điều  lành; con không được làm điều ác", dù những hiệu quả xảy ra như thế nào cũng vậy; như thế không có nghĩa là phải làm theo ý muốn chúng ta mà không cần lo nghĩ coi hành  vi của mình cảm đến kẻ khác cách nào. Thật ra, chính là cái kết quả đã tạo ra xác định một hành vi thiện hay ác. Đệ tử Chơn Sư không nghĩ đến hậu quả đối với chính mình, nhưng y hết sức quan tâm đến hậu quả gây ra cho kẻ khác.

c) Đức tánh cần thiết thứ ba gọi là Hạnh Kiểm Tốt, liên quan đến sáu qui tắc mà người Ấn Độ gọi là Shatsampatti. Theo danh từ Nam Phạn - Pâli - của Đức Phật dùng, đức tánh này được gọi là  Upachâro, nó có nghĩa là "Chủ ý” hơn là “Hạnh Kiểm." Phải giữ gìn Hạnh Kiểm theo đường lối của sáu thứ bửu châu này đã qui định, như người ta đã gọi như thế. Trong khi tiếp tục nghiên cứu sách này, chúng ta sẽ gặp ở phía sau những danh từ của Đức Thầy Kouthoumi dùng. Đức Phật gọi những danh từ ấy là: Samo, "Yên tịnh," nghĩa là kỷ luật của Trí tuệ; Damo, "Khắc phục," nghĩa là kỷ luật của Xác thân; kế đó là Uparati, Titikkha, Samadhana và Saddha, theo nghĩa chữ là: "Đình  chỉ, Chịu  đựng, Chuyên cần  và Đức tin". Tôi đã ra công tìm kiếm ý nghĩa của những danh từ này trong những quyển Tự điển chính và cũng nhờ Đại Đức Hòa Thượng Hikkadu­we Sumangala Thero, Tăng Thống phái Phật giáo Nam Tông dịch giúp tôi. Những từ ngữ này cũng tiêu biểu đức tin đặc biệt của phái đó.

Chúng hơi khác chút ít với lối dịch trong quyển Dưới Chơn Thầy. Đức tánh ở đây gọi là "Đình chỉ" trong Dưới Chơn Thầy dịch là "Khoan dung" vì đây là vấn  đề từ  bỏ tư tưởng cạn hẹp của Tôn giáo, và thói Dị đoan mà cũng hoàn toàn cởi bỏ tất cả mọi ý tưởng cho rằng phương pháp của bạn hay hơn  tất cả những phương pháp khác, cũng như thấy rằng không có một nghi thức hoặc lễ bái nào là cần thiết. Sự chịu đựng, nhẫn nhục đó chỉ là một hình thức của sự yên tịnh. Sự chuyên tâm phát xuất từ sự định trí và sự thăng bằng, nó bắt ta phải tập trung trọn đời ta vào tiêu điểm của sự cố gắng và như thế nó cũng gồm sự cương quyết. Sau hết đức tin là sự tin cậy Đức Thầy và cũng là sự tự tín nữa. Trong hai trường hợp, mấy đức tánh này không khác nhau, nhưng đức Phật nói đến chúng trên một quan điểm đặc biệt - sự cần thiết của đức Minh Triết. Còn Đức Di Lạc và Đức Thầy Kouthoumi thì nhấn mạnh sự cần thiết của tình thương hơn. Khi dạy Alcyone, Đức Thầy cũng nhắm vào ý nghĩa thực tiễn hơn là dịch những danh từ xưa.

d) Đức tánh cần thiết sau cùng là Lòng Từ Ái, tiếng Phạn là  Mumukshatva, nghĩa là "Sự nhiệt thành mong muốn được giải thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi và hợp nhất với Đấng Tối Cao". Đó là điều Đức Phật đã gọi trong danh mục của Ngài là Anuloma, nghĩa là "Thứ tự trực tiếp" hay " Sự  liên tục". Điều này có nghĩa là sau khi khai mở các đức tánh khác con người phải ước mong được thoát khỏi những sự hạn chế của Thế gian và được hợp nhất với Đấng Tối Cao  để trở  thành Cộng sự viên của Ngài.

Rồi Alcyone nói tiếp:

Tôi cố gắng nói cho bạn nghe những lời của Sư Phụ tôi dạy tôi về mỗi đức tánh ấy.

Đến đây mới bắt đầu phần chính của tác phẩm Dưới Chơn Thầy.

 

PHẦN THỨ HAI

mục lục  đầu sách  cuối sách  lời nói đầu  phần 1  2  3  4   5

TÁNH PHÂN BIỆN

CHƯƠNG THỨ TÁM

  Y

NHỮNG MỤC ĐÍCH THẬT VÀ NHỮNG MỤC ĐÍCH KHÔNG PHẢI LÀ THẬT

 

C. W. L. Đây là phần I của chính quyển Dưới Chơn Thầy.

Đứng đầu mấy đức tánh này là tánh phân biện. Thường thường, người ta hiểu tánh phân biện này là phân biện sự chơn và sự giả, nó dắt con người vào Đường Đạo. Hiểu như thế thật đúng vậy, nhưng còn nhiều hơn nữa, và phải thực hành đức tánh này không những khi mới bước vào Đường Đạo, mà phải phân biện mỗi ngày, mỗi bước cho đến khi đi mút con đường đạo.

 

Mấy lời sau chót này chỉ rõ những nỗi khó khăn phải vượt qua của đa số người mắt đã thấy được vẻ vinh quang và sự tốt đẹp của con Đường Đạo và muốn dấn thân vào Con Đường đó để đến quỳ dưới chân Đức Thầy. Tất cả những người ấy đều là những người tốt, đúng đắn và cần mẫn, nhưng Phàm Nhơn của họ bất tuân kỷ luật và họ chịu áp lực của dư luận quần chúng rất nặng nề, như tôi đã giảng trước đây. Chúng ta cũng không quên rằng nhân loại vừa mới vượt qua phân nửa cuộc Tuần Hoàn thứ tư và những gì mà người ta cố gắng hoàn thành trong cuộc Tuần Hoàn này sẽ trở nên dễ dàng trong cuộc Tuần Hoàn thứ bảy. Những người đợi tới thời kỳ đó thì sẽ có trong ba thể: Thân, Vía, Trí của họ chất khí phát triển hơn chất khí cấu tạo các thể của chúng ta hiện nay rất nhiều. Tất cả những vòng xoắn ốc của nó đều hoạt động chớ không phải chỉ có hơn phân nửa số vòng xoắn ốc [11] như  hiện nay. Sau hết, tất cả những thần lực ở chung quanh đều phò trợ họ, thay vì nghịch với họ như bây giờ.

Các Đấng Chơn Sư đều ở một bên với chúng ta và thần lực của các Ngài giúp đỡ chúng ta. Lực tiến hóa, dù chậm chạp nhưng vẫn liên minh với chúng ta và tương lai cũng thuộc về chúng ta. Nhưng trong thời đại này, mọi hoạt động như thế đều vô cùng khó khăn. Vào khoảng giữa cuộc tuần hoàn thứ năm tất cả những người gây ảnh hưởng mạnh mẽ cho chúng  ta và theo một chiều hướng nghịch đều bị loại ra và chỉ còn lại những người cùng đi theo một đường lối với chúng ta. Như vậy, trong cuộc Tuần Hoàn thứ bảy mọi việc đều trở nên rất dễ dàng. Ở vào thời kỳ đó người ta có thể tìm được ở ngoài đời mọi sự thuận lợi mà hiện nay chỉ thấy điều đó trong một Đạo Viện dưới sự điều khiển của một vị đã tiến hóa cao về tinh thần. Vài độc giả đã thầm nói rằng: "Nếu thế, tại sao không đợi đến cuộc Tuần Hoàn thứ bảy"? Nhiều người trong chúng ta đã bị trào lưu lôi cuốn theo sự sung sướng, sự thú vị của Trần gian từ hai hoặc ba mươi ngàn năm rồi, và những ai không có nhiệt vọng tiến hóa hay giúp đỡ nhân loại có thể còn tiếp tục sống như thế cả triệu năm nữa và chắc chắn cuối cùng mọi sự sẽ trở nên dễ dàng hơn. Nhưng những người hiện nay đương đầu với những nỗi khó khăn sẽ được đặc ân vô cùng lớn lao và tiến hóa mau lẹ, sẽ nhận được vòng chiến thắng.

Các bạn hãy nhớ lại bài Thánh ca xưa của Thiên Chúa giáo, nói về một người kia lên tới trời và nhìn chung quanh, y lấy làm lạ mình có hơi khác với mấy người đó. Sau cùng y gặp Đức Christ và hỏi Ngài vì lẽ gì? Đấng Christ trả lời rằng:

"Ta biết con tin ở Ta - và giao mạng sống của con cho Ta -nhưng tất cả những ngôi sao sáng rỡ này đâu rồi? - Chúng phản chiếu lóng lánh trên vương miện của con - hãy xem đám đông vui vẻ đàng kia; - tất cả đều mang trên trán những hòn ngọc; mỗi linh hồn mà họ dắt đến Ta là mỗi viên ngọc họ mang trên trán hôm nay đó".

Thánh Kinh Thiên Chúa giáo nói rằng những nhà Hiền Triết sáng rỡ như bầu trời, như ánh sáng trên bầu trời quang đãng. Nhưng mà những ai dắt được nhiều người đến với sự công bằng chính trực sẽ giống như những ngôi sao chói sáng mãi trên không gian vô tận, những ngôi mặt trời vĩ đại rực rỡ ban rải hơi nóng và thần lực cho hàng ngàn sinh vật khác nhau. Đó là sự khác biệt giữa hoàn thành tức khắc bổn phận của chúng ta với sự chờ đợi cho trào lưu mang đến đích trong cuộc tuần hoàn thứ bảy.

 

Con bước vào Đường Đạo vì con biết rằng chỉ trong đó mới tìm được những việc đáng thâu lãnh mà thôi. Những người không hiểu biết làm lụng để được giàu sang và có quyền thế; nhưng hai cái tước lộc đó, bất quá chỉ dùng được có một đời mà thôi, thế nên chúng nó là mộng ảo. Có nhiều việc lớn lao đáng tìm lấy hơn sự giàu sang và có quyền thế; những việc đó chân thật và trường tồn, một phen người ta thấy chúng rồi thì không còn muốn gì khác nữa.

 

A. B. Vấn đề chơn giả thuộc về Siêu Hình Học thâm sâu, nhưng thật ra nó không phải thuộc về vấn đề ở đây, vì Alcyone là đứa học trò còn nhỏ lắm của Đức Thầy. Hơn nữa những bài học  này dạy trên cõi Trung giới. Trong những trường hợp như thế, Đức Thầy giảng cho Hạ Trí lẫn Chơn Nhơn, nhưng trong dịp này Ngài giữ  sao cho lời dạy của Ngài thích hợp với Hạ Trí của một đứa trẻ chưa phát triển đến mức trọn vẹn. Dù Chơn Nhơn đã đến tuổi nào đi nữa, ba thể vẫn còn trẻ trung, cho nên bài dạy được ban ra bằng những ngôn từ thật giản dị để khi nhập xác, đệ tử có thể hiểu được trong lúc nó thức.

Chữ giả ở đây tiêu biểu tất cả những gì không có tính cách thiêng liêng, tất cả những gì nhất thời trong thế giới hiện tượng, tất cả những gì thuộc về Bản Ngã cá nhân, luôn tất cả những hành vi cao thượng mà con người theo đuổi với mục tiêu vật chất. Chúng ta diễn tả tư tưởng của Đức Thầy khi nói rằng tất cả đều giả, chỉ trừ những gì thuộc về Thiên Ý thôi. Những người đã đạt được tánh phân biện đều biết được những điều thật; họ làm việc như những nhân viên của Thượng Đế và thực hiện Thiên Ý. Sự hành động thật sự vốn là của Ngài. Điều ấy không có nghĩa là họ xao lãng hoạt động của phần vật chất, mà họ phải làm việc giỏi hơn chớ không phải tệ  hơn, vì họ là nhân viên của Thượng Đế và là công cụ cho những hoạt động của Ngài dưới thế gian. Kinh Gita nói rằng: "Yoga là sự  hành động khéo léo, lão luyện" hay là sự hiệp nhất với Thượng Đế. Người nào đạt được sự hiệp nhất đó, hành động của y phải khéo léo, vì  không phải y hành động mà chính là Trời.  Khi Arjuna hỏi Đức Shri Krishna về bổn phận phải chiến đấu, Ngài trả lời rằng chính Ngài đã giết kẻ nghịch rồi, và Ngài nói thêm rằng: "Này Arjuna, hãy chiến đấu".

Đức Thầy nói rằng khi đã thấy những điều cao thượng rồi thì người ta không còn ham muốn điều gì khác nữa, đó là ý niệm quen thuộc đối với học giả đã nghiên cứu Kinh Gita. Trong ấy có nói rằng:

"Khi thấy được Đấng Chí Tôn rồi thì các đối tượng của giác quan, chớ không phải sự ham muốn chúng nó, sẽ rút lui ra khỏi người giữ giới ở trong xác thân, sự ham muốn còn sót lại cũng rời bỏ y luôn. [12]

Khi một người đã thấy được Đấng Duy Nhất, thì sự ham muốn  những đối tượng của giác quan cũng tiêu tan trong lòng y".

 

C. W. L. Thật ra, khi được mục kích những điều cao thượng rồi, người ta không còn ham muốn những điều thấp hèn nữa, nhưng điều tối cần là sự tiết chế dục vọng phải là hiệu quả của sự thấy này. Thường lắm, ta thấy con người lầm lẫn nguyên nhân với hậu quả khi y có kỳ vọng tưởng rằng sự không quan tâm đến những điều thấp hèn nữa sẽ tức khắc nâng con người lên một bậc cao hơn trước (những điều thấp hèn vẫn  tốt đẹp đứng về phương diện riêng của nó, nhưng sở dĩ gọi nó là thấp hèn khi phải đối chiếu với những điều cao thượng và thuộc về tinh thần). Chắc chắn là không phải thế đâu. Đó là một hình thức của ảo ảnh rất lan tràn thuộc về sự tu khổ hạnh. Một số đông thực hành điều mà họ gọi là chủ nghĩa ép xác, khổ hạnh, và coi điều đó là tôn chỉ của sự tu hành. Họ lầm tưởng rằng xa lánh các sự vui vẻ tầm thường của đời sống và tìm cách làm cho mình thiếu thốn mọi tiện nghi về nhiều phương diện là việc làm rất có giá trị. Đó là di tích của ý niệm khắc khổ Thanh giáo (Puritanisme) đã có một thời cường thịnh ở Anh Quốc và trong một số lớn những nước Âu Châu. Nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Thanh giáo đó là muốn trở nên tốt lành thì phải chịu thiếu thốn đủ thứ. Khi một người cảm thấy mãn nguyện về bất cứ điều gì, chắc chắn y đã vi phạm vài Luật Trời nào đó, vì không hề có hạnh phúc dành cho con người dưới Thế gian này. Xác thân con người là vật đáng khinh bỉ và cần phải khắc phục nó bằng muôn ngàn cách. Nếu ai thích một sự hoạt động nào đó, chắc chắn y đã phạm tội lỗi. Tất cả những điều này thật phi lý, ấy là sự đảo lộn Chân lý. Thật ra, những điều được Thế gian ưa thích và người ta xem chúng như những sự vui thú lớn lao, thì đối với người đã tiến hóa cao đã mất hết ý nghĩa vì họ khao khát những niềm vui thanh nhã hơn có thể đền bù lại gấp bội những thú vui kia.

Trên  đời này người ta rất ưa đủ thứ chuyện không có ích lợi gì  đối với những người mong muốn những thú vui cao cả hơn; chẳng hạn như đua ngựa, uống rượu và cờ bạc; cùng những thú vui khác như khiêu vũ và đánh bài: những cuộc vui này không đáng trách lắm. Chúng giống như những trò chơi của trẻ con. Lớn lên, trẻ con bỏ đồ chơi của chúng hồi còn bé. Khi nó lên ba hay lên bốn thì nó thích chơi những cục gạch  và những  búp bế. Lớn lên một chút, nó chơi những hình chiến sĩ, những diều giấy, những bông vụ và những cục đạn. Sau cùng, lớn hơn chút nữa, nó bỏ hết những thứ ấy để chơi đá banh hay đánh cầu, hoặc các trò chơi đồng loại khác cần phải vận động nhiều ở ngoài trời. Đứa trẻ dần dần trải qua nhiều giai đoạn rất tự nhiên. Càng lớn con người càng bỏ những trò vui ở trước kia, không phải vì tinh thần nghĩa vụ, nhưng vì những  trò chơi đó không còn gây thích thú đối với y nữa. Y đã tìm được những mục tiêu thích hợp hơn với giai đoạn tiến hóa của y. Người ta thấy ngay rằng một đứa trẻ lên ba không thể trở nên một chàng thanh niên khi nó quyết không biết đến những đồ chơi của thời ấu  trĩ và muốn chơi đánh cầu  hay đá banh.

Người tiến hóa cao không còn thấy một sự hấp dẫn nào đối với nhiều việc mà thế nhân cho là cần thiết, và người bậc trung chắc chắn sẽ thấy đời sống của vị đệ tử buồn tẻ và khó chịu, nếu y cố gắng sống như chúng ta, không còn nhắm vào lợi lộc khác mà chỉ lo cho Thông Thiên Học và những vấn  đề cốt yếu của sự sinh tồn. Người đời bậc trung sẽ nói rằng: "Những người ấy chỉ làm mãi một việc, dường như họ chỉ biết và thích chuyện đó thôi". Thật ra điều đó rất đúng, vì  tất cả vấn đề khác đều gồm trong đó, nhưng người đời sẽ không trở thành một kẻ tiến hóa chỉ vì họ tự phụ không quan tâm đến những thú vui của họ khi mà trong thâm tâm họ, họ vẫn  không ngớt thèm thuồng những điều đó.

 

Trên khắp thế gian chỉ có hai hạng người: những người hiểu biết và những người không hiểu biết, và chỉ có sự hiểu biết đó mới là quan trọng.

Đạo của một người kia giữ hay dòng giống của y là những việc không quan trọng.

 

A. B. Ở đây Đức Thầy phân biệt rất rõ ràng: Ngài chia người đời ra làm hai hạng: những người hiểu biết và những người không hiểu biết. Đó là sự phân biệt lớn lao trên phương diện huyền bí; mỗi người nên biết mình thuộc về hạng người nào. Hai hạng này gồm nhiều dòng giống và giai cấp khác nhau mà sự dị biệt bên ngoài không đáng kể. Những người không hiểu biết tìm kiếm những gì chỉ tồn tại trong một đời mà thôi. Nhưng những người đã thấy sự chân thật một lần  rồi thì chỉ có một ý muốn duy nhất là làm việc cho Đức Thượng Đế, tuân theo Cơ tiến hóa vĩ đại của Ngài để góp phần vào sự thực hiện công nghiệp đó, dù trong một phạm vi hết sức nhỏ bé. Chúng ta có thể xác định trình độ hiểu biết của mình bằng cách nhận xét coi nó có thích hợp với công việc này hay không. Chẳng hạn như sự hiểu biết thuộc về trí óc thuần túy dùng để đàm thoại một cách thông minh hay để chỉ dạy kẻ khác thì không phải là sự hiểu biết chân thật. Chỉ có sự hiểu biết được đồng hóa với sự sống mới là sự hiểu biết chân thật mà thôi. Nhiều người có thói quen mỗi buổi tối ngồi tịnh một lát trước khi đi ngủ, để kiểm soát những hành vi của mình trong ngày. Sự thực hành công việc đó rất hữu ích; nhưng nếu bạn theo đuổi nó, bạn nên tự hỏi chẳng những điều gì bạn đã làm, đã cảm và đã nghĩ, mà bạn còn phải xét xem thái độ của bạn ra sao nữa. Nếu bạn làm việc bù đầu bù  cổ, thì bạn đã bị mất gần hết thì giờ. Trái lại, nếu bạn xem những công việc đó thuộc về công việc của Đức Thượng Đế, như là những hành động hy sinh, chẳng những chúng không gây trở ngại cho bạn mà lại còn tạo cơ  hội giúp bạn tiến bộ nữa.

 

Điều thật quan trọng là sự hiểu biết này, sự hiểu biết cơ trời đối với con người. Bởi vì trời có một cái cơ mà cơ đó là sự tiến hóa. Ngay khi con người hiểu được thiên cơ và thật sự biết rồi, thì  y chỉ lo hiệp tác với thiên cơ, giúp thiên cơ thực hiện và đồng hóa với nó. Đó là vinh diệu và sự tốt đẹp của con người.

 

C. W. L. Trí tuệ của những người tham gia vào những đoàn thể chính trị hay đoàn thể giới tửu [13] mà họ nói là hữu  ích cho nhân loại, sẽ tăng cường cực độ khi con người thật sự nhận thức được Thiên Cơ do Đức Thượng Đế đã sắp đặt sẵn cho vũ trụ của Ngài; họ nghĩ rằng một ngày kia nó sẽ hoàn tất; thời giờ đó lâu hay mau tùy ở số người sẵn sàng lo lắng cho nó. Nếu trong vài tuần hay vài năm toàn thế giới có thể được dẫn dắt để hiểu biết và cộng tác với Thiên Cơ, thì tất cả những gì Đức Thượng Đế muốn cho các con của Ngài hưởng sẽ được hoàn thành nhanh chóng. Thiên hạ chưa mở mang khá đầy đủ để hiểu biết Cơ Trời, đó là lý do vì sao những cố gắng của chúng ta chưa đủ vào đâu và mặt trời còn soi sáng nhiều nơi buồn thảm, bất công và đồi bại.

Nhiều sinh viên Thông Thiên Học đã biết Đại cương của Cơ Trời. Tôi không muốn nói rằng họ đã thấy, nhưng họ đã giao thiệp với những người đã thấy, do đó họ biết và hiểu được chiều hướng đặng cộng tác với Thiên Cơ. Nhưng, khi đến ngày giờ thấy được trực tiếp Thiên Cơ, người ta mới nhận ra chân lý của tất cả những lời nói ở đây về sự nhiệt thành. Trên đời này, người ta hy sinh một cách hăng say và nồng nhiệt cho những nguyên do, cho những công cuộc cải cách hữu ích, nhưng họ dễ lầm lạc ngoại trừ họ có vài ý niệm về Cơ tiến hóa, và thấy được việc làm của họ liên quan đến Cơ này như thế nào. Họ quan tâm đến vài nguyên nhân vì tính cách khẩn cấp và cần thiết của chúng nó. Chẳng hạn như lý do của sự tiết độ. Họ nhận thấy những tai hại ghê gớm của việc uống  rượu và biết khi tật xấu này mất hẳn thì sẽ có lợi vô cùng cho nhân loại trên nhiều phương diện. Do đó, họ cố gắng ngăn chận nó, chẳng phải họ chỉ cho bợm rượu biết tật nghiện rượu là một sự điên cuồng và một tội lỗi, mà họ cấm bán rượu, và như thế họ bắt buộc con người phải có tiết độ. Cách này không thể diệt được sự ghiền rượu, nhưng chỉ làm cho người ta không được toại ý thôi. Tôi không có ý phê phán, chỉ trích luật cấm bán rượu này; nó có nhiều ưu thế đáng kể. Nếu chúng ta cho hạn chế sự bán thạch tín và thanh toan (acide prussique) là khôn ngoan, hữu lý thì tại sao không làm như vậy đối với một thứ  thuốc độc gây ra nhiều tai hại hơn cả hai thứ kia nhập chung lại? Tôi chỉ nói rằng phương sách đó không tiêu diệt được tận gốc rễ sự xấu; nó kiếm cách cải thiện con người bằng sự cưỡng bách, chớ không phải bằng cách thuyết phục.

Cũng đúng như thế, những người đã từng thấy rõ sự đau khổ ghê rợn của "kẻ bị trầm luân thứ mười" [14] thì họ lo tìm khắp nơi một phương thuốc chữa trị bịnh xấu hổ lớn lao và hiển nhiên đó.  Nhưng rủi thay, có người tìm thấy phương thuốc trong một căn bản tuyệt đối hoặc ngay trong sự hỗn loạn. Chúng ta không thể phiền  trách những người chủ trương những phương cách bất vụ lợi mà họ mong rằng sẽ làm dịu bớt sự đau khổ cho những người đồng loại của họ. Trong những trường hợp như thế, chính là đầu óc nhầm lẫn chớ không phải con tim. Trái tim thúc đẩy họ chịu những sự tổn thất và hy sinh lớn lao của cá nhân để xoa dịu những nỗi đau khổ của đồng bào như họ mong muốn. Mà họ còn phải hiểu rằng sự tiến hóa của nhân loại tùy thuộc một cái Cơ, họ phải cố gắng học hỏi Cơ đó để sự hành động của họ trở nên khôn ngoan cũng như vị tha. Chính con người thiếu sự phân biện. Bởi họ chỉ thấy một khía cạnh của vấn đề, cho nên họ đi sâu vào một hệ thống mà kết quả còn tệ hại hơn những nỗi đau khổ họ mong xoa dịu.

 

Vậy, bởi y hiểu biết rồi nên mới thuận theo lẽ trời, khăng khăng một lòng  làm lành và chống chỏi với sự ác, làm việc cho sự tiến hóa chứ không phải vì tư lợi của mình.

 

C. W. L. Đó là  đá thử vàng để giúp chúng ta nhận ra những người hiểu biết; vấn đề không hề liên hệ gì đến Tôn giáo hay chủng tộc của con người, nhưng chỉ xét về sự kiện duy nhất mà họ phấn đấu cho sự lành, chống lại sự ác. Mỗi khi chúng ta thấy một người trung thành với điều chi mà y biết là cao cả, và đang phấn đấu cho những điều đối với y hình như là tốt đẹp và chống lại những điều đối với y dường như là xấu xa, thì chúng ta phải xem y như là một huynh đệ làm việc theo Thiên Ý, dù cho sự hành động của y luôn luôn không phải là những điều mà chúng ta tán thành hay là những điều mà chúng ta tưởng được đẹp lòng Trời, như  họ nói.

Tuy nhiên, họ có những  ý tưởng hết sức nhỏ nhen và hẹp hòi, cố chấp. Trong vài trường hợp, họ chứng tỏ một tinh thần chống đối kịch liệt rất giống như sự thù hằn đối với những người mà sự tin tưởng khác hơn họ.

Một trong những đặc tính nổi bật về việc làm của Quần Tiên Hội là, trong mỗi trường hợp như thế, các Ngài thu lấy điều tốt và dẹp qua một bên điều xấu. Các Ngài lấy mãnh lực phát sinh do sự tận tụy và lòng chân thành đó rồi tận dụng nó, đồng thời gạt bỏ điều xấu chúng ngăn cản điều lành biểu lộ, ít ra cũng tại cõi Trần này. Trong nhiều cộng đồng Thiên Chúa giáo thói mê tín mạnh hơn lòng nhân từ đáng mến khiến cho kẻ bàng quan chỉ nhận thấy sự chua cay trong đó mà thôi. Các Đấng trong Quần Tiên Hội lấy làm thương hại cho sự mê tín đó và các Ngài nhận thấy rõ rằng nó gây ra sự di hại còn hơn những tật xấu khác. Tuy nhiên, các Ngài biết rút lấy trong đó tất cả những mãnh lực của sự nhân từ đáng  mến của lòng sùng tín và ý muốn tốt đẹp để sử dụng và ban thưởng những người đã sinh ra nó. Và mỗi người trong nhóm người đó cũng nhận được quả lành của lòng từ thiện của y, mặc dù, đồng thời y cũng phải đền tội đúng theo Luật Nhân Quả do sự mê tín và nóng giận của y gây ra.

Vậy chúng ta phải nhân từ trong khi giao thiệp với những người này, và trong mọi trường hợp, nên chú tâm đến những điều lành, như Đức Thầy đã nói: "Chúng ta phải lấy những viên ngọc", chớ đừng tìm những cọng rơm như người ta thường làm.

 

Người mà thuận theo lẽ trời tức là một phe với chúng ta, dù y nói y là người Bà la môn, người Phật giáo, người Công giáo hay Hồi giáo, hoặc giả y là người Ấn, người Anh, người Trung Hoa hay người Nga cũng không hề chi cả.

 

A. B. Đây là một tư tưởng mà những thí sinh trên Đường Đạo không bao giờ được quên vì nếu nó không biểu hiện trong đời sống của bạn, thì bạn còn rất xa cửa Đạo. Ở đó không ai hỏi bạn thuộc về giống dân nào, tôn giáo nào mà chỉ cần biết những đức tánh mà bạn cố gắng tăng thêm cho tánh tình của bạn. Tất cả chúng ta đều lần lượt đầu thai qua nhiều giống dân khác nhau. Ngày nay chúng ta sinh ra trong một giống dân phụ, thuộc về giống dân chánh nào đó, vì chúng ta cần hoạch đắc những tánh tốt đặc biệt do giống dân ấy có thể cho chúng ta. Trái lại, cũng đồng thời nhiều người lo mở mang những nhược điểm của chính giống dân phụ ấy. Chắc chắn người ta có thể nói một cách hữu lý rằng: "Hiện giờ, không có một giống dân tộc nào có khả năng loại bỏ tật xấu của tôi và mở mang tánh tình của tôi được". Nhưng chúng ta không có phận sự chấp nhận, chẳng hạn như những phương pháp của người Anh và đem chúng nó lên cao đến tận mây xanh rồi loại bỏ tất cả những phương pháp khác, vì tin chắc rằng chúng nó vốn tuyệt đối, không có phương pháp nào bằng. Mỗi giống dân đều có vai trò của nó phải đóng trong sự điều hòa chung; mỗi giống dân đều góp phần vào sự tổng hợp rộng lớn vô cùng. Dù bạn thuộc về giống dân nào hiện giờ, một phần sự điều hòa do giống dân đó biểu hiện cũng hiến cho bạn việc làm dễ dàng và tự nhiên hơn hết. Khi bạn đã học xong kinh nghiệm trong giống dân đó rồi thì về sau bạn sẽ học cách thủ vai tuồng khác trong một giống dân khác. Nếu con người hiểu được điều này thì họ sẽ bớt được thói quen tự đắc một cách khờ khạo về nòi giống của mình và bớt việc chỉ trích những dân tộc khác.

Khi tôi nghe ai phàn nàn một người nào đó nếu y lỗi lầm là bởi y  là người Anh hay người Ấn, tôi liền thấy cái hư ảo còn án mắt kẻ phàn nàn đó, cũng như khi một người kia bàu chữa sự bất tài của mình bằng cách nói rằng những sự bất toàn đó vốn thuộc về nòi giống của y. Phải cố gắng hoạch đắc những đức tánh hết sức tốt đẹp của giống dân chánh và giống dân phụ của bạn chớ không phải những nhược điểm của chúng. Chẳng hạn như người Ấn Độ phải tìm cách phát triển tâm linh, tánh không làm hại, đức khoan dung, khả năng hành động mà không quan tâm đến cái kết quả của sự hành động, bởi vì đó là những đức tánh mà gia tộc đầu tiên của giống Aryen phải biểu hiện.

Tuy nhiên, đôi khi chúng ta thấy tánh Đoạn Tuyệt có kèm theo sự bê trễ, buông trôi, do ý nghĩ sai lầm này: "Nếu phải lãnh đạm đối với kết quả của sự hành động, chính vì sự hành động không quan trọng". Thật ra, điều cần thiết là sự hành động hoàn thiện lẫn sự lãnh đạm với kết quả, cả hai việc một lượt. Đối với người Anh, lắm khi trái ngược lại. Thường thường họ có tài làm việc kỹ lưỡng, nhưng họ sẵn sàng tìm kết quả của hành vi mình một cách quá hăng hái, họ thường không có tánh lãnh đạm. Vậy mỗi người phải tìm lấy những điều mình thiếu sót mà làm mục tiêu. Người Ấn Độ phải cố gắng hoạt động và người Anh phải cố gắng lãnh đạm; cả hai không mất những đức tánh của mình đã có. Nếu mọi người đều làm như thế thì những sự dị biệt giữa các dân tộc sẽ góp phần vào sự phong phú của tất cả, vì mỗi giống dân này mượn ở những giống dân kia những điều mình thiếu sót.

 

C. W. L. Yêu Tổ quốc, tôn sùng giống nòi, cảm thấy bạn còn mắc nợ tổ quốc, sẵn sàng phục vụ tổ quốc, tất cả những điều này đều tuyệt đẹp. Nhưng bạn hãy khá coi chừng, đừng biểu lộ sự ca ngợi của bạn bằng cách chê bai những dân tộc khác. Sự tương quan  giữa chúng ta với toàn thể nhân loại, đó là điều chúng ta đừng bao giờ quên. Chúng ta là công dân của Quả Địa Cầu chớ không phải riêng của một giống dân tộc mà thôi. Tuy nhiên tình yêu tổ quốc là điều tốt, cũng như tình yêu gia đình vẫn tốt vậy. Trong cả hai trường hợp, chúng ta không cần phải phóng đại quá đáng đức tánh của chúng ta đến nỗi đem cái xấu thay thế cái tốt. Tình thương gia đình là một tình cảm tuyệt đẹp, nhưng đừng để nó đi quá lố trở thành tật xấu như  những vị  Nam Tước cướp bóc thời Trung Cổ, họ giết người để làm giàu cho gia tộc mình. Cũng thế, tình yêu tổ quốc cũng đáng ca ngợi; trái lại nếu nó đưa đến sự tấn công các dân tộc khác, nó thành ra đáng chê trách vậy. Nhưng nếu bằng cách nào đó, bạn có thể làm việc cho dân tộc của bạn mà không làm hại những dân tộc khác, bạn tỏ ra xứng đáng thuộc về giống nòi của bạn, sự hiện diện của bạn làm cho nó trở nên tốt đẹp hết sức, bạn có quyền được toại chí. Trên phương diện Tôn giáo, cũng đúng như thế. Tất cả chúng ta đã từng là tín đồ của nhiều Tôn giáo lớn rồi, mỗi Tôn giáo nhấn mạnh về vài đức tánh, nhưng tất cả những đức tánh đều cần thiết cho sự tiến hóa của nhân loại.

 

Những người nào thuận  theo lẽ trời thì biết rằng tại sao họ thuận theo. Họ biết họ phải làm cái chi và họ cố gắng để hoàn thành nó. Còn những người khác không biết họ phải làm điều chi, thế nên họ thường hành động như những kẻ ngông cuồng.

 

C. W. L. Điều này nhắc lại lời dạy của Đức Phật Cồ Đàm khi Ngài cho rằng mọi tội lỗi đều do vô minh gây ra. Nhưng người chưa hiểu biết thường hành động một cách ít đúng đắn, do đó kẻ ác luôn luôn đáng  được chúng ta thương hại, chớ không nên căm thù hay hờn ghét họ. Thường thường người ta cảm thấy y hành động vì tánh ích kỷ, vì y muốn có những sự lợi ích cho cá nhân y, như y đã tưởng vậy; cho nên người ta cũng  có hơi sẵn lòng quên đi sự thiếu hiểu biết của y về những việc làm do y gây ra. Chẳng hạn như thí dụ này. Vài nhà tỷ phú đạt được một sự thịnh vượng tạm thời bằng cách bóp nghẹt và tiêu diệt một số xí nghiệp kém quan trọng. Như thế họ sẽ gây ra ảnh hưởng khiến cho nhiều người mất chén cơm và mấy nạn nhân này thù ghét, nguyền rủa họ về sự  ích kỷ và tàn  nhẫn của họ.

Phải, họ hành động như thế chính vì sự vô minh. Họ theo đuổi ngay những mục tiêu của họ để đè bẹp địch thủ vì họ tin rằng những kẻ ấy có thể làm việc hay hơn họ. Có thể họ đạt được những kết quả rất tốt và đồng thời làm giàu, nhưng họ sẽ không bao giờ định kinh doanh như thế nếu họ biết rằng họ sẽ đau khổ nhiều hơn tất cả những người cạnh tranh với họ, và như thế họ tự tạo cho họ trong tương lai một quả báo vô cùng tệ hại hơn cái số phận dành cho những địch thủ bị họ loại trừ. Thay vì oán ghét những người ích kỷ như thế, tốt hơn là hãy thương xót họ vì còn vô minh.

 

Và họ tìm cho họ con đường nào mà họ tưởng chúng làm cho họ được vui vẻ chớ không biết rằng tất cả là một (vạn vật nhất thể), do đó chỉ có điều chi Trời muốn, thì điều đó mới thật làm cho mọi người đều được đẹp lòng.

 

C. W. L. Những nhà thực dụng chủ nghĩa có một câu cách ngôn quan trọng như sau: "Phải tìm điều lợi lớn hơn hết của số người đông hơn hết". Câu cách ngôn này làm ra một sự tiến bộ thật sự cao hơn ý tưởng mà trước kia có ưu thế là: "Chỉ có sự lợi cho vài người là điều quan trọng, còn những kẻ khác tiêu biểu một số lượng không đáng kể". Tuy nhiên không nên bỏ quên thiểu số. Mỗi người đều đáng kể vì tất cả chỉ là Một. Khi mà Tâm Thức Bồ Đề chưa phát triển với một mức độ nào đó, thì con người chưa hiểu được điều này, nhưng còn phải trải qua một thời gian mới hiểu được tới một điểm nào "tất cả những người trên thế gian chỉ là một". Đối với chúng ta, tin vào Chân lý này là một thứ nghĩa vụ  đạo đức, hoặc một thứ khát vọng thành kính về cái Đơn vị cuối cùng. Chúng ta nói rằng: "Tất cả chúng ta đều sinh  ra từ một Đấng Từ Phụ chung, vậy tất cả chúng ta đều là anh em với nhau, tất cả chúng ta đều là một". Nhưng ngày nào chúng ta chưa có kinh nghiệm trong Tâm Thức Bồ Đề về vấn đề đó thì sự thật và chỗ thâm sâu của nó vượt khỏi tầm hiểu biết của chúng ta.

Tuy nhiên, chúng ta có thể đưa ra một ý niệm về vấn đề đó khi nói rằng: "Tất cả tâm thức chỉ là một, toàn thể thế giới là một, tất cả tình thương được biểu hiện trên đời là tình Bác Ái duy nhất và thiêng liêng. Tại cõi Trần này tất cả vẻ đẹp được biểu hiện là sự Mỹ lệ duy nhất và thiêng liêng. Tại  cõi Trần này tất cả thánh thiện được biểu hiện là sự Thánh Thiện của Đức Thượng Đế". Đấng Christ đã diễn tả tư tưởng này với một người đến gọi Ngài là "Ông Thầy rất tốt". Ngài bèn đáp: "Tại sao gọi Ta là tốt? Chỉ có Trời mới Tốt thôi"[15]. Lòng từ thiện của mỗi người là lòng từ thiện của Trời biểu hiện nơi y thôi. Tất cả vẻ đẹp, tất cả sự vinh quang dưới Trần Thế này mà chúng ta đã chiêm ngưỡng tại quả Địa Cầu, ngoài biển rộng, trên trời cao, chỉ là một phần của sự Mỹ Lệ Duy Nhất và Thiêng Liêng. Nếu chúng ta đi từ cảnh dưới lên cảnh trên, từ bậc này đến bậc khác thì chúng ta càng ngày càng thấy sự mỹ lệ dần dần trải ra trước mắt. Và sau cùng chúng ta tập thấy trong sự mỹ lệ của mỗi vật "Toàn diện Mỹ Lệ" của Trời. "Tất cả là một" vậy.

Khi học xong bài học này rồi thì nhận thức được sự vinh quang  của Trời biểu lộ trong mọi vật và qua trung gian của vạn vật; tất cả những sự vinh quang khác của Ngài đều ở trong mỗi người. Như  một phong cảnh đẹp trải ra trước mắt chúng ta, chúng ta trầm trồ khen ngợi chẳng những cảnh vật không thôi, mà còn tất cả những gì nó khêu gợi trong trí ta; ấy là Vũ Trụ vô tận vô biên mà phong cảnh này chỉ là một phần nhỏ nhít. Lúc bấy giờ đời sống của chúng ta hữu phước vô cùng và tràn ngập tình thương; hạnh phúc này cho chúng ta một ý niệm về cái Toàn Phúc Vĩnh Cửu; và tình thương đó làm cho chúng ta hiểu được tình Bác Ái Trường Tồn  Bất Diệt. Cách duy nhất để thực hiện những sự tiến bộ lớn lao là phải tin chắc rằng chúng ta chỉ là một điểm trong cái "Toàn thể". Lúc đó Tâm Thức của chúng ta mới có thể nhập vô Tâm Thức của Thượng Đế, ngõ hầu do con mắt của chúng ta, Ngài có thể thấy được tất cả vẻ mỹ lệ đó, và chúng ta là phần tử của Ngài, chúng ta cũng đồng thời thấy và hiểu vẻ mỹ lệ đó vậy.

 

Họ theo đuổi sự mộng ảo, thay vì sự chân thật. Và ngày nào họ chưa học hỏi cách phân biệt hai điều này, thì ngày đó họ chưa thuận theo lẽ Trời. Và chính vì thế mà sự phân biện là bước đầu tiên phải thực hiện.

Tuy nhiên, dù khi chọn lựa đã xong rồi đi nữa, con cũng phải nhớ rằng có rất nhiều hạng trong sự chơn và sự giả và con còn phải biết phân biệt điều lành với điều dữ, cái quan trọng với cái không quan trọng, cái hữu ích với cái vô ích, cái thực với cái hư, cái ích kỷ với cái vô tư lợi.

 

C. W. L. Đó là sự phân tách nhỏ của sự phân chia lớn lao giữa điều chơn và điều giả. Sự liệt kê này chỉ cho chúng ta biết nếu chúng ta muốn theo con Đường Đạo thì phải thực hành sự phân biện từ những chi tiết cho đến những trường hợp nhỏ nhặt nhất của đời sống. Luôn luôn có những vấn đề ít quan trọng xảy đến mà chúng ta phải giải quyết bằng cách này hay cách khác; vậy thì bao giờ chúng ta cũng phải nhớ đến tánh phân biện và luôn luôn đề phòng. Lúc nào cũng phải suy nghĩ, quả thật là mệt nhọc. Nhiều người ưu  tú  đã cố gắng như thế đều mệt nhọc; sự  cố gắng bền bỉ, lâu dài thật là quá sức đối với họ. Đó là lẽ tự nhiên, nhưng mọi sự  ngã lòng sẽ ngăn cản việc thành  công không  cho chúng ta đạt được mục đích. Thế nên mặc dù phải thắng phục sự mệt nhọc, chúng ta đừng bao giờ quên điều đó trong đời sống chúng ta.

 

Một bên lành, một bên dữ, không khó chi trong sự lựa chọn, bởi vì những người muốn theo Chơn Sư thì đã nhất định làm lành dù bất cứ với giá nào.

 

A. B. Nếu một người nào đó còn do dự trước điều lành và điều dữ, tức là y chưa thực sự muốn theo Đức Thầy. Những ai quyết tâm rồi thì phải nhất định chọn điều lành trong mọi trường hợp, dù quan trọng hay không, mà không màng đến những hậu quả. Trong Yoga Sutras có nói về năm đức tánh căn bản gọi là Yama, gồm có: tánh không làm hại, không độc hiểm, tánh chân  thật, tánh chánh trực cùng những đức tánh khác đã được qui định ngay ở đoạn khởi đầu của Đường  Đạo: "Đó là những đại nguyện đã được phổ biến". Nói một cách khác, như thế có nghĩa là phải triệt để tuân theo chúng nó trong mọi trường hợp. Không có một mối lợi nào, dù đem đến cho mình hay cho kẻ khác, cho phép người đệ tử được vi phạm bất cứ một giới luật nào. Ai đã tiến đến trình độ ấy, thì trong lời nói hoặc trong sự hành động, không hề làm sai sự thật bao giờ, dù thấy mình sẽ được lợi, chẳng những trong vấn đề tiền bạc, mà trong tất cả trường hợp khác. Chẳng hạn y không vượt qua uy tín của y. Bạn hãy tự hỏi coi bạn có luôn luôn lựa chọn sự chân thật một cách tự nhiên không. Ngày nào bạn chưa làm được như thế, ngày đó bạn còn xa Cửa Đạo thứ nhứt. Đối với trường hợp đó, Đức Thầy cho rằng nói thêm nữa vô ích. Đã rõ rệt lắm rồi, đã hiển nhiên  rồi vậy.

 

C. W. L. Ý kiến này chẳng những liên hệ đến hạnh kiểm mà còn có liên quan đến việc có một lượt những tánh tốt và những tánh xấu để tiến hành một công việc. Nếu không tuân theo qui luật này một cách nghiêm nhặt thì chứng tỏ rằng trong thâm tâm chúng ta không thật sự muốn thành công. Đôi khi người ta nói rằng: "Tôi muốn có Thần Nhãn; tôi muốn thấy cõi Trung Giới! Phải khởi sự làm cái gì? Đâu là bước đầu?". Bước đầu là phải thanh lọc [16] các thể. Bạn hãy cẩn thận cung cấp cho xác thân những thức ăn nào thích hợp với nó nhất. Nhiều người muốn có Thần Nhãn thấy được cõi Trung Giới, nhưng khi phải lựa chọn, họ thích cái mà họ gọi là bữa ăn tối thật ngon. Họ có cảm tưởng rằng bữa ăn như thế cần thiết đối với họ, vì họ có thói quen và trong lúc đó họ quên mất việc muốn có Thần Nhãn. Thế là chỉ có thói quen tạo ra ý tưởng đó thôi. Khi biết được đặc tính này thuộc về loại vật chất rồi thì chúng ta có thể cố tâm ra công khó nhọc để loại trừ những thói quen cũ kỹ, tệ hại hoặc có thể vô ích đặng tập lấy những thói quen mới. Chúng ta phải thấy một sự khích lệ trong việc thói quen có thể trở thành một người bạn liên minh với chúng ta rất có thế lực, mặc dù nó có gây trở ngại cho chúng ta lúc đầu tiên. Một khi những thói quen tốt đã tạo được rồi thì chúng sẽ hành động một cách tự động. Chúng ta có thể lãng quên chúng để chú ý đến những việc khác.

Trên phương diện hạnh kiểm, không có vấn đề lựa chọn giữa thiện và ác nữa. Độc giả nào xem quyển này mà thấy có thú vị hoặc ai khao khát đến quì dưới chân Đức Thầy, thì sẽ không do dự chọn điều lành khi thấy nó. Mong rằng không có ai trong chúng ta thử làm việc gian trá - chúng ta đã vượt qua điều đó rồi - mà chúng ta cũng không hề làm sai lạc chân lý, dù cho thấy được sự  ích lợi ngay trước mắt. Chắc chắn chúng ta không lựa chọn một nghề nghiệp đáng trách như sát hại thú vật. Chúng ta cũng không phải là những người mặc những y phục hay là trang điểm với những món đồ nếu không giết thú vật thì không làm được chúng nó - đôi khi trong những tình trạng thật đau lòng là tàn sát chim non còn nằm trong ổ. Tất cả những người tiếp tục  ăn  mặc như  thế quả thật không muốn theo Đức Thầy; họ thích theo thời trang hơn.

  

 CHƯƠNG THỨ CHÍN

    Y

ĐỜI SỐNG CỦA BA THỂ

 

Nhưng con người và xác phàm là hai cái khác nhau. Ýchí của con người luôn luôn không phù hợp với những sự ham muốn của xác thân. Khi xác thân con muốn điều chi thì con hãy ngừng lại, và suy nghĩ xem có phải thật là con muốn điều đó chăng?

 

A. B. Ở đây  Đức Thầy ra lịnh rất rõ ràng cho đệ tử Ngài, khi  xác thân  muốn điều chi, đệ tử phải ngừng lại và tự  hỏi: "Có phải thật là tôi muốn điều đó hay không"? Nhiều người thấy rằng ngừng lại và suy nghĩ mỗi ngày, từ sáng tới chiều như thế rất khó khăn buồn chán. Nhưng phải thực hiện mấy điều đó vì chúng nó đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ chuẩn bị. Tôi biết làm như vậy rất khó, do đó nhiều người chí nguyện đâm ra chán nản vì việc cố gắng như thế.

Những người bỏ cuộc vì mệt mỏi thì không đạt được mục đích. Chỉ có bao nhiêu đó thôi. Sự cố gắng phải quyết liệt và bền bỉ. Điều này đòi hỏi một đời sống hoàn toàn có qui củ (có mực thước): không hề vội vã trong hành động, lời nói, ngay cả tư tưởng. Mọi sinh hoạt của người đệ tử, từ vật chất, tình cảm cho đến trí tuệ phải hoàn toàn tuân  theo kỷ luật.

 

C. W. L. Nếu trong vấn đề tiến bộ, con người muốn thật sự làm hết sức mình; thì phải ra công học hỏi kỹ lưỡng những thể khác nhau của chúng ta và biết chắc chắn chúng là thế nào. Ở đây nói rất rõ ràng rằng thể xác có những sự ham muốn không phải là của con người, đối với Thể Vía và Thể Trí cũng đúng như thế. Khi hiểu rõ sự cấu tạo của ba thể này người ta thấy rằng những sự ham muốn tự nhiên của chúng không hạp với con  người. Chúng ta nói về chúng cũng gần như nói về những người khác biệt với chúng ta, điều này vẫn đúng theo một ý nghĩa nào đó; mỗi thể đều được cấu tạo bằng vật chất sống; sự sống của chúng nó tập trung lại và có một ý thức tập thể. Trong Cái Vía nó tạo ra một sinh vật mà đôi khi chúng ta gọi  là Tinh  chất ham muốn, nói tóm lại sinh vật này do sự sống tập thể của các tế bào của Cái Vía tạo ra. Đứng riêng một mình, mỗi tế bào chỉ là một sự sống nhỏ bé, có một bán ý thức, đang tranh đấu để đi xuống hơn là đi lên, bởi vì đối với nó, sự tiến hóa là đi xuống vô trong loài kim thạch. Khi tất cả những sự sống này nhập chung lại với nhau trong Cái Vía thì chúng liên kết với nhau tới một điểm nào đó, chúng tạo được một sự hợp nhất và cho ta cái cảm giác rằng Cái Vía có những bản năng mạnh mẽ và riêng tư, mạnh mẽ cho đến nỗi người ta có thể cho rằng nó có một ý chí riêng của nó. Muốn tiến hóa nó cần những sự rung động mạnh mẽ và thô kệch thuộc về những tình cảm và xúc động mà chúng ta không muốn mở mang, chẳng hạn như: tánh ganh tị, ghen ghét và ích kỷ. Đó là lý do tại sao những quyền lợi của nó trái ngược với những quyền lợi của chúng ta. Những sự rung động của tình thương, tánh thiện cảm và sự sùng tín vốn vô cùng tế nhị, mau lẹ và mạnh mẽ hơn nhiều. Chúng thuộc về thành phần cao siêu của Thể Vía. Vì vậy chúng vốn là một loại mà xác thân cũng như chúng ta không cần dùng đến.

Những người mà đời sống không có qui củ, họ muốn được tự do nói năng, tự do hành động như họ thường tuyên bố, thật ra họ là những kẻ nô lệ cho Cái Vía của họ. Chúng ta chẳng nên vì thế mà trách Cái Vía và đừng cho nó là một con quỉ như những người tín đồ Thiên Chúa giáo thời Trung Cổ vậy. Cái Vía không biết gì đến chúng ta và đời sống của chúng ta; nó không hề cám dỗ chúng ta điều gì, nhưng nó chỉ tìm cách tự biểu lộ và tiến hóa theo cách thức riêng của nó cũng như mọi sinh vật khác.

Đôi khi người ta hỏi: "Ta có  nên  cho Tinh chất ấy một cơ hội để tiến hóa và cho nó thực hiện những rung động thô kệch không"? Không! Đó là lòng nhân ái bị ngộ nhận và trong mọi trường hợp chúng ta không thể áp dụng đến mức triệt để được. Cách cư xử tuyệt hảo hơn mà chúng ta có thể dành cho chất thô trược, là trục xuất nó (nó tồn tại trong Thể Vía của chúng ta, vì trong những kiếp quá khứ, chúng ta đã để cho những cảm xúc thấp hèn nổi dậy trong lòng chúng ta); nó sẽ đeo theo một người dã man, hoặc một con  chó hay một con bò mà sự rung động của chúng không làm hại được ai.

Tùy theo cách thế riêng của nó, Tinh chất ham muốn cũng khá  quỉ quyệt. Đặt mình vào vị trí của nó và hiểu được Tâm Thức ở một mức độ thấp kém thế nào thật là điều khó khăn đối với chúng ta. Nhưng lẽ tự  nhiên, Tinh chất ham muốn cảm thấy chung quanh nó có cái gì tế nhị hơn nó, đó là chất Trí Tuệ, và dường như kinh nghiệm dạy nó rằng nếu nó làm cho chất Trí Tuệ rung động một lượt với nó, thì nó sẽ có những sự rung động mạnh mẽ và thô kệch hơn và nó chỉ có cách đó thôi, không làm khác hơn nữa được. Nếu nó thuyết phục được con người tin rằng ý muốn của chúng nó giống như ý muốn của con người, thì có nhiều may mắn để thỏa mãn ước vọng, do đó nó cố gắng làm lay chuyển chất tế nhị này. Chẳng hạn, nếu nó xúi giục được Cái Trí sinh ra một tư tưởng bẩn thỉu thì nó liền được những cảm xúc bẩn thỉu mà nó ưa thích. Hoặc nếu nó làm cho một tư tưởng ghen ghét phát hiện, thì liền đó một tình cảm ghen ghét nổi lên. Đó chính là điều nó muốn. Không phải nó muốn làm ác, vì đối với nó chỉ có những rung động mãnh liệt và thô kệch mới thỏa thích nó được. Như thế Tinh chất ham muốn thường tỏ ra mạnh hơn con người, mặc dù nó còn ở trong giai đoạn tiến hóa hết sức  thấp thỏi. Nghĩ đến điều đó, chúng ta cảm thấy có hơi nhục nhã khi biết rằng mình đã chịu thua nó và bị một vật chưa phải là kim thạch sử dụng như một khí cụ. Phải đương đầu với Thể Vía và tinh lọc nó bằng cách thay thế tất cả thói quen xấu xa được lưu lại từ  quá khứ bằng những cảm xúc tốt lành, chúng sẽ hữu ích cho chúng ta trong tương lai.

Tinh chất Trí Tuệ và Tinh chất Xác Thân cùng vẫn có thật. Tinh chất xác thân có bổn phận cấu tạo các mô và giữ  gìn toàn thể Xác Thân. Nếu chúng ta bị xước trầy da, bị đứt hoặc bị thương, Tinh chất Xác Thân liền vội vã mang đến chỗ vết tích những bạch huyết cầu và cố gắng tạo ra những tế bào mới. Trên nhiều phương diện, công việc của Tinh chất này tỏ ra rất có ích lợi cho Xác Thân; vài hoạt động của nó vô cùng hữu ích cho chúng ta; đồng thời nó cũng thích biểu lộ những sự khích động không xứng đáng cho chúng ta chút nào cả.

 

Bởi vì con là Thượng Đế và con chỉ muốn điều gì Thượng Đế muốn mà thôi. Nhưng con phải tiến vào tận đáy lòng của con để gặp Đức Thượng Đế ở trong người con và nghe lời của Ngài, mà lời của Ngài cũng là lời  của con vậy.

 

C. W. L. Sự hợp nhất của chúng ta với Đấng Duy Nhất khó mà hiểu được. Đây là cách tôi thành công đầu tiên: nó không phải là một phương pháp mà tôi có thể khuyên người ta làm theo. Lúc bấy giờ, tôi cố gắng tập trung tất cả năng lực của tôi lên cảnh thứ nhất của cõi Trí Tuệ hầu xác định coi con người có thể lợi dụng đến điểm nào những con đường vắn tắt nối liền những cảnh thứ nhất của các cõi khác nhau. Muốn đi lên từ cõi này qua cõi kia, con người có thể lên khỏi cõi Trần bằng cách đi từ cảnh này đến cảnh khác, cho tới cảnh thứ nhất. Kế đó mới qua cảnh chót là cảnh thứ bảy của cõi Trung Giới, và dần dần từ bậc lên cảnh thứ nhất của cõi Trung giới, rồi mới tới cõi Hạ Thiên, và cứ tiếp tục lên như thế đó. Người ta còn có thể theo đường tắt từ cảnh thứ nhất của cõi Hồng Trần đến cảnh thứ nhất của cõi Trung Giới, rồi từ đó lên  cảnh thứ nhất của cõi Thượng Giới hay là cõi Trí Tuệ.

Tôi có nghe những vị đệ tử cao cấp đề cập đến một cách rút ngắn  khác, cách này thẳng góc với cách trước. Họ nói rằng sự tập trung các năng lực vào một trong những cảnh thứ nhất của chúng ta thì có thể thông đồng với cõi Hư Không đối chiếu (Plan cosmique correspondant) với nó và do đó khi tập trung các năng lực vào cảnh thứ nhất của cõi Trí Tuệ (Cõi Thượng Giới) thì có thể  liên lạc  với cõi Thượng giới hay là cõi Trí Tuệ Hư  Không   (Plan mental cosmique), cao  hơn những điều mà chúng ta biết rất nhiều.

Thật vậy, tôi không có hy vọng gì lên đó được, nhưng còn có thể thông đồng với nó. Trong khi cố gắng, tôi nhận biết rằng tôi có thể thấy (nhưng không thể mô tả được) cảnh đối chiếu trong cõi Trí Tuệ  Hư Không; tôi thấy trọn vẹn hai loại cảnh giới cao hơn giai đoạn của chúng ta hiện nay. Tôi không tiếp xúc với cảnh đó được dù bằng bất cứ cách nào - Tôi nghĩ rằng dù một vị Chơn Tiên cũng không thực hiện được điều đó - nhưng tôi thấy được nó, dường như ở dưới tận đáy giếng nhìn một ngôi sao trên trời, cái Tâm Thức cao vút này, tôi có thể thấy được nó. Bây giờ trong tâm tôi phát sinh một sự tin chắc mạnh mẽ không thể tả được rằng nếu từ trước đến nay tôi tin là mình có một ý chí, một trí khôn, những cảm xúc, thì những cái đó không phải là của tôi, mà chính là của Ngài: chính là ý chí của Ngài, là tình cảm của Ngài vậy. Không có cái gì thuộc về của tôi cả. Tôi không bao giờ quên được kinh nghiệm này; nhờ nó mà tôi biết chắc được một sự kiện không thể mô tả.

Cũng như tôi đã giải trước đây chúng ta có thể nhờ Tâm Thức Bồ Đề mà biết được chắc chắn sự hiện diện của Thượng Đế trong lòng ta. Khi chúng ta đến mức đó, cái Tâm Thức như biển cả liền mở rộng ra chung quanh chúng ta. Chúng ta biết rằng mình là một phần tử của nó và những kẻ khác cũng là những phần tử của nó như chúng ta. Nó là vật sở hữu chung của chúng ta. Chẳng bao lâu, lại sinh ra một cảm giác mới, chúng ta hiểu rằng tất cả mấy cái đó chỉ là một Tâm Thức duy nhất, nó thâm nhập vào chúng ta và tất cả những kẻ khác, để cuối cùng chúng ta hiểu rằng chúng ta là Trời vậy. Sự hiểu biết này kích thích và thúc đẩy một cách dữ dội phi thường không thể nào quan niệm được, nhưng con người cảm thấy được an toàn và có một niềm tin tuyệt đối. Tôi hoàn toàn chấp nhận rằng điều đó có thể  khiến cho vài người kinh hãi vì họ tưởng rằng họ bị tiêu mất. Thật vậy, điều này không thể xảy ra được. Nhưng bạn hãy nhớ lời của Đấng Christ nói: "Kẻ nào chết vì Ta, thì sẽ cứu mạng nó được" [17].

Đấng Christ, biểu hiện cho nguyên lý Bồ Đề, nói với chúng ta:  "Kẻ nào vì Ta - vì sự mở mang Tâm Thức Bồ Đề trong lòng  y - sẽ bỏ lại Nhân Thể là cái thể mà trong đó y sống rất lâu; y sẽ tìm được chính  mình  và tìm thấy một sự sống vô cùng rộng lớn hơn và cao cả hơn". Muốn được như thế, phải có một sự can đảm chắc chắn; ở trọn vẹn trong Thể Bồ Đề (Kim Thân) lần đầu tiên và nhận thấy Nhân Thể mà ta đã nương tựa nhiều ngàn năm đã biến  mất là một sự kinh nghiệm thật phi thường. Một trong hai thứ kinh nghiệm được mô tả đã đủ cho ta biết một cách tuyệt đối chắc chắn rằng Chơn Ngã vốn duy nhất. Ý niệm đó không thể truyền đạt, nhưng sự kinh nghiệm giúp chúng ta hiểu được nó và không có điều chi có thể lay chuyển được sự chắc chắn này.

 

Đừng lầm lộn các thể của con với con. Xác thân của con, cái vía của con, cái trí của con không phải thật là con đâu. Nhưng mỗi thể nó đều xưng là Bản ngã đặng hoạch đắc cho được những điều nó muốn. Con phải biết tất cả chúng nó và phải tự biết rằng con là chủ chúng nó.

 

C. W. L. Đức Thầy nói về các thể này một cách tuyệt đối như Ngài đã nói đến những cá nhân riêng biệt. Đó là những tinh chất đã được đề cập trước đây. Chúng tự do áp chế được một số đông người; họ chẳng những không cố gắng chút nào đặng thoát ra thế lực của chúng nó, mà cũng không biết mình mang một cái ách cần phải cổi bỏ và họ cũng không tự tách ra khỏi những thân mình họ nữa. Cái giáo lý khốc hại dạy rằng con người có một Linh Hồn đã gây ra tai hại rất nhiều do chủ trương đó. Nếu người ta chỉ hiểu được rằng con người là một Linh Hồn và có những Thể, thì người ta bắt đầu thấy rõ ràng hơn và rất mau chóng. Ngày nào mà một người kia còn tưởng tượng rằng Linh Hồn là một cái gì mơ hồ bay qua bay lại trên người y, thì y rất  ít có hy vọng được cải thiện. Khi chúng ta cảm thấy những Tinh chất nổi dậy trong lòng chúng ta, chúng ta phải nói rằng: "Sự cảm xúc này là một sự rung động trong Thể Vía của tôi; vậy tôi chỉ rung động theo cái nào hạp với tôi, hiện giờ tôi là trung tâm điểm của một nhóm thể xác này và tôi sử dụng chúng nó theo ý tôi".

 

Khi có việc phải làm thì xác thân viện lẽ nó cần phải nghỉ ngơi, đi dạo chơi, ăn uống, và người chưa hiểu biết thì nói trong lòng rằng: "Tôi cần làm mấy việc đó, và tôi phải làm mới được". Nhưng mà người hiểu biết thì nói: "Ấy là xác thân của tôi muốn mấy việc đó chớ không phải là tôi đâu, nó phải chờ đợi ".

 

C. W. L. Đối với trẻ con, điều này thật rõ rệt. Nếu một đứa trẻ muốn làm một việc gì, thì đối với nó việc đó là trời, là đất vậy; công việc phải thực hành xong tức khắc, và nếu nó thất vọng, nó tưởng như vũ trụ sụp đổ chung quanh nó. Những người dã man cũng giống như thế, họ dễ bị kích động cho đến đổi vì một lý tưởng nhỏ mọn không  ra gì, họ có thể giết người. Người văn minh sẽ tự hỏi: "Ta hãy chờ một chút để xem cái gì xảy ra". Đứa trẻ chạy theo mấy cuộc chơi của nó, còn chúng ta, đàn anh của nó, lắm khi lại quở trách, la rầy nó, vì  không hiểu được bản tánh trẻ con. Đứa trẻ nói: "Tôi đã quên", thật hoàn toàn đúng thế, nhưng chúng ta nghi ngờ điều đó, vì chúng ta biết rõ  rằng chính chúng ta phải nhớ. Vậy chúng ta đã quên lúc chúng ta còn nhỏ bé và đồng thời quên cả thời kỳ ấu trĩ của giống dân tộc chúng ta. Chúng ta phải nói rằng: "Ta biết rõ em muốn cái gì, nhưng thật ra bây giờ không nên làm việc ấy, vì nó làm quấy rầy nhiều  người; em sẽ thi hành việc đó vào một dịp khác". Đó là cách giáo dục hữu hiệu. Người ta cũng hành động như thế đối với kẻ dã man. Chung qui y sẽ hiểu rằng y  không nên  chiều theo vài sự xúc động. Về điều đó, y phải trải qua nhiều kiếp và thường thường y bị giết trước khi học xong bài học, nhưng dần dần y bớt dã man một chút và văn minh hơn. Còn người đã tiến hóa, y xem Xác Thân như một sinh vật biệt lập, như một khí cụ để y điều khiển.

 

Thường thường khi có dịp giúp đỡ ai thì xác thân nói: "Việc ấy làm cho tôi buồn bực quá! Vậy, ai đó hãy làm thế cho tôi đi ". Nhưng con người trả lời với xác thân như vầy: "Ngươi ngăn cản ta không cho làm một việc phải sao được".

 

C. W. L. Như Bà Tiến sĩ Annie Besant đã khuyên nên lưu ý  điều này; thường lắm, khi có một cơ hội rất tốt hiện đến, nhiều người xem xét nó rồi nói: À, đó là chuyện phải làm. Một ngày kia, ai đó sẽ lãnh lấy; tôi không thấy tại sao tôi phải làm điều đó". Trái lại một người thật sốt sắng nói: "Đây là một công việc cần thiết, tại sao chính tôi không đảm đang việc đó"? Và người ấy liền bắt tay vào việc, y  hoàn thành nó.

 

Thân con vốn là con thú của con, con ngựa của con cỡi. Bởi thế, phải đối đãi với nó cho tử tế và phải săn sóc nó cho kỹ lưỡng. Đừng bắt nó làm việc quá sức; phải nuôi nó cho đúng phép với đồ ăn uống tinh khiết và giữ gìn cho nó thật sạch sẽ luôn luôn, đừng dung dưỡng một mảy bợn nhơ.

 

C. W. L. Xác Thân là một con thú, ý niệm này quả thật rất hữu  ích và hình như hiển nhiên vậy. Nhưng nếu chúng ta càng đi sát theo sự so sánh này thì  ta càng hoàn thành được việc cần thiết. Giả sử bạn có một con ngựa. Dĩ nhiên bạn là người tốt và biết điều; nếu bạn muốn phục vụ tử tế, thì bạn cũng muốn cho con ngựa của bạn được sung sướng, có đủ tiện nghi và tráng kiện. Bước đầu, bạn tìm cách hòa thuận với nó, để tìm hiểu nó, để nó biết ý bạn. Nó sẽ cảm thấy bạn sẵn sàng tử tế với nó. Rồi bạn tìm đồ ăn thích hợp với nó nhất và bạn cho nó ăn. Bạn coi chừng đồ ăn cho được đầy đủ, nhưng đừng thêm chút gì có hại cho nó. Đồng thời, bạn bắt nó làm việc, vì bạn nuôi nó nhằm mục đích đó, nhưng không nên bắt nó làm quá sức. Bạn biết nó làm được cái gì thì bạn bắt nó làm việc đó. Bạn đã dạy nó tin cậy  bạn; vậy nó sẽ vâng lời bạn và nếu bạn gọi tới nó thì nó sẽ tỏ ra có thiện chí, vì nó biết rằng nó sẽ được an lành. Sau cùng, dù cho sự sợ sệt cũng không lay chuyển  nổi lòng tin cậy của nó. Theo cách đó, bạn sẽ được giúp đỡ nhiều nhất với sự cực nhọc tối thiểu. Cách luyện tập thú xoàng, đôi khi làm cho con ngựa khiếp sợ. Kết cuộc không bao giờ con ngựa làm việc thật  đắc lực. Mục tiêu của bạn thì khác hẳn: bạn muốn giữa bạn và con ngựa bạn có một sự hòa thuận thâm tình.

Xác Thân hoàn toàn giống con ngựa đó. Chúng ta phải biết phương pháp tốt nhất để áp dụng cho nó. Áp dụng những phép luyện  tập dữ dội của Hatha Yoga là một sự lầm lạc to. Bạn hãy tỏ ra tử  tế, bạn sẽ thấy Xác Thân nỗ lực giúp đỡ bạn tùy sức nó và nó không vì  đó mà chịu đau khổ, nhưng đừng bao giờ bắt nó làm việc quá sức. Nội trong một giờ, bạn có thể gây ra tai hại mà cần phải  nhiều năm mới bù lại được. Trong công việc làm ăn người ta luôn luôn nói: "Phải cố gắng thêm chút nữa mới được", nhưng thường lắm, khi sự cố gắng thêm chút ít đó làm mệt nhọc cơ thể khiến từ đó, nó không trở lại trạng thái bình thường được. Rất dễ gây ra sự tổn hại như thế, bởi vì cơ thể là một cái guồng máy hết sức mảnh mai, một guồng máy sống, khả năng phục hồi của cơ thể thật vô hạn. Trong nhiều trường hợp chúng ta gọi là "một Xác Thân tốt", có thể chịu đựng với những sự đối xử  hà khắc. Nhưng sự kiện chịu đựng được và con người còn sống như thế không có nghĩa là vô hại. Trái lại, một chút cố gắng quá sức lắm khi lưu lại một vết tích vĩnh viễn. Do đó, tôi khuyên những ai dấn thân trên con đường phát triển huyền bí hãy khá thận trọng, và tin chắc rằng theo lời vị Hội Trưởng của chúng ta: công việc nào mà chúng ta không thể thi  hành vì không có ngày giờ, thì đó không phải là công việc của chúng ta.

Rồi đến vấn đề ăn uống. Lý thuyết chủ trương rằng một món ăn cũng đủ nuôi sống được bất cứ ai không phải là lời khuyên tốt lành cho người hành giả có óc thực tế. Khí chất và khả năng của con người phức tạp vô cùng. Châm ngôn xưa có nói rằng: "Món nào tốt với người này, là thuốc độc đối với người kia"; nói về giá trị của thực phẩm, điều đó thật đúng. Tôi cũng biết rõ điều này: có một khuynh hướng cho rằng những người bận tâm nhiều về thức ăn của mình sẽ tạo ra cho mình những sự lo lắng vô ích về những thực chất hoàn toàn thuộc về cõi trần. Dĩ nhiên, đừng phóng đại thái quá mà hãy giữ trung dung và phải khôn ngoan. Bổn phận của mỗi người đối với Xác Thân mình là phải tìm xem nó cần thức ăn loại nào và số lượng mà nó đòi hỏi. Lẽ phải dạy chúng ta như sau: Hãy cho Xác Thân cái gì hợp với nhu cầu và sở thích của nó, nhưng đừng bao giờ cho nó dùng những thực phẩm có hại như rượu và thịt. Đừng cưỡng bách điều gì cả. Hãy luôn luôn tìm cách thỏa mãn và đồng thời tìm hiểu nó, như vậy bạn sẽ có sự cộng tác trí khôn của nó, dù cái trí khôn đó như thế nào chăng nữa.

Thường thường bỏ thịt cá để sang việc dùng rau trái rất khó. Bên Anh, những người mới ăn chay, ban đầu không hiểu chi về vấn đề này. Vì từ  trước đến giờ họ ăn nhiều nhất là thịt với cải bắp  và khoai tây mà thuyết ăn chay đối với họ là bỏ thịt để ăn cải bắp với khoai tây. Song khoai tây chỉ toàn là bột và cải bắp thì chứa đựng nước.  Người ta không thể sống nhờ bột và nước; cần phải có những yếu tố khác nữa; những vật thực tạo nên bắp thịt, xương, máu. Chúng rất nhiều, cho nên chúng ta chịu khó thì sẽ tìm được những thực phẩm thích hợp hơn hết với thể xác và lấy nó làm món ăn chính. Nếu thức ăn không thích hợp có thể gây ra những sự  phiền nhiễu  cho sự tiêu hóa. Hãy thử dùng các món khác, trừ ra khi người ta mắc một chứng bịnh nan y. Khi trẻ con giữ gìn sâu đặng  xem nó hóa bướm, chúng chịu khó tìm coi sâu sống bằng lá cây nào, vì chúng biết rằng chỉ có một loại lá cây thích hợp với nó. Chắc chắn chúng ta có thể chịu ra công khó nhọc như thế đối với con thú  được dành  riêng để phụng sự chúng ta trong nhiều năm và nuôi nó với những đồ ăn uống tinh khiết thích hợp với nó.

Sự sạch sẽ có một tầm quan trọng cốt yếu; những lý do về vấn  đề đó thật khác nhau: nó cần thiết chẳng những vì phép vệ sinh, chẳng những vì nó là biểu hiện của sự tinh anh, tế nhị mà cũng vì Đức Thầy đặc biệt dùng những người liên lạc chặt chẽ với Ngài như những vận hà để truyền Thần lực của Ngài. Thường thường công việc này dành cho những vị đệ tử sống gần kề bên Ngài, nhưng mà những ai cố gắng sống thật đúng với những nguyên tắc đã trình bày trong các quyển sách như quyển sách này đều sẽ ở dưới mắt Ngài. Có thể một người như vậy sẽ được Đức Thầy xem như là hữu ích và Ngài dùng y làm một vận hà để di chuyển thần lực. Rất có thể ở một nơi nào đó, Ngài không tìm được một vị đệ tử  chỉ định để truyền một Thần lực. Trái lại, có thể có một người khác ít tiến hóa hơn, song có đủ những điều kiện cần thiết. Trong tường hợp này Đức Thầy quyết dùng y.

Ngài ban rải nhiều thứ Thần lực rất khác biệt vì nhiều lý do khác nhau; khi thì người này làm một vận hà thích hợp, khi thì người khác. Khi quan sát trường hợp của hai vị đệ tử ở gần nhau, người ta nhận thấy rằng một người luôn luôn được dùng  để chuyển di một thứ Thần lực nào đó và một người kia thì một thứ khác. Sự di chuyển Thần lực đó thuộc về cõi Trần cũng như thuộc về cõi Trung Giới, cõi Thượng Giới và cõi Bồ Đề vậy. Tại cõi Trần, Thần lực tuôn ra nhiều nhất là ở hai bàn tay và hai bàn chân. Vậy nếu Xác Thân của người được chọn, trong lúc nào đó, không đủ điều kiện trên phương diện cực kỳ quan trọng về sạch sẽ, tinh khiết, Đức Thầy không thể dùng y, vì y là người không làm một vận hà thích hợp được. Đó là đổ nước trong sạch vào một cái ống dơ bẩn; khi chảy qua đó nước sẽ dơ. Do đó những người gần Đức Thầy một cách mật thiết phải giữ gìn hết sức kỹ lưỡng những nguyên tắc về sự hoàn toàn sạch sẽ của Xác Thân. Vậy về điều này chúng ta hãy giữ sao cho được Ngài bằng lòng, không có chi đáng trách cứ trong trường hợp mà sự giúp đỡ của chúng ta trở nên cần thiết.

Còn một điểm nữa chúng ta cần phải lưu ý; nếu chúng ta muốn làm người hữu dụng thì ta phải tránh đừng làm cho cơ thể bị biến hình, biến dạng, nhất là ở bàn chân. Tôi có vài tuần ở trong một đoàn thể kia, nơi đó người ta có thói quen đi chân không, tôi rất cảm động mà thấy sự biến dạng và hư vẹo một cách bất thường ở bàn chân của nhiều người tân tín đồ. Tôi nhận thấy sự tàn tật này gây ra tai hại biết bao cho năng lực của họ trong việc làm vận hà để Đức Thầy ban rải Thần lực. Trong những điều kiện bình thường, Thần lực này choán trọn vẹn thân mình của người đệ tử, rồi túa ra theo mười đầu ngón tay và mười đầu ngón chân. Nhưng khi những đôi giày trái vệ sinh làm cho bàn chân trọn đời hư vẹo, thì Đức  Thầy chỉ dùng phân nửa phía trên thân hình của người đệ tử. Vậy Ngài phải thêm nhọc công vì mỗi lần phải truyền Thần lực, Ngài phải dựng lên một thứ đê điều hay là một cái hàng rào để ngăn chận tạm thời gần hoành cách mạc của người đệ tử. Vì lẽ đó mà tự nhiên Đức Thầy buộc lòng phải dùng những người khác không bị biến thể như thế.

 

Bởi vì không có một xác thân hoàn toàn tinh khiết và tráng kiện thì  không thể nào con đảm đương nổi công việc khó khăn trong khi tập luyện để bước vào Đường Đạo, con không thể chịu đựng nổi nổ lực cần thiết và tái diễn mãi.

 

C. W. L. Trong hoàn cảnh hiện tại sự tập luyện để bước vào Đường Đạo thật rất gay go. Nếu việc ấy được thúc đẩy không ngừng, nó sẽ là một căng thẳng liên tục, công việc này chỉ có thể chịu đựng nổi nếu tất cả những thể của chúng ta, gồm cả Xác Thân, đều ở trong tình trạng tốt đẹp. Như vậy một sức khoẻ hoàn toàn là điều cần thiết để tiến bộ nhanh chóng; mọi sự suy nhược đều làm mất thì giờ. Những vị chăm nom đến sự tiến bộ của một người đệ tử đều luôn luôn coi chừng hết sức kỹ lưỡng, không cho anh này cố gắng quá sức. Và các Ngài sẽ không bắt buộc một người nào dưới quyền lãnh đạo của các Ngài làm một công việc phụ thuộc nào trước khi biết rằng người ấy có đủ khả năng đảm đương nó với một phương tiện thích đáng.

 

Vậy thì  thân con phải vâng theo mạng lịnh của con luôn luôn chớ không phải con ở dưới quyền sai khiến của nó, Cái Vía của con có nhiều sự ham muốn, đếm tới cả chục có đầu. Nó muốn thấy con giận dữ, nó muốn nghe con nói những tiếng nặng nề, nó muốn thấy con ganh ghét, tham lam, thèm muốn của cải  thiên hạ và ngã lòng  rủn chí. Nó muốn mấy điều đó và còn nhiều việc khác nữa . . ., chẳng phải nó có ý hại con, song tại nó ưa những sự rung động dữ dội và thay đổi không ngừng. Nhưng trong mấy việc đó con không muốn việc nào cả, bởi vậy con phải phân biệt ý muốn của con với ý muốn của Cái Vía.

 

A. B. Tôi thấy dường như đa số những người hay suy tư  biết rõ rằng họ không phải là Xác Thân của họ, nhưng mà những ví dụ của Đức Thầy đưa ra ở đây lại chứng tỏ rằng họ không ngớt tự đồng hóa với Cái Vía. Đôi khi bạn cũng thốt ra những câu như: "Tôi giận dữ; tôi nổi cáu". Ngay cả những người không muốn tưởng mình là những cảm xúc thấp hèn thường cũng lầm lẫn chúng với những tình cảm cao thượng; chắc chắn họ không nói rằng: "Tôi ghen ghét" khi họ nhận thấy trong lòng nảy sinh ra tình cảm đó, vì dù họ có thể tự đồng hóa hoàn toàn với tình cảm của họ, con người cũng cố gắng che lấp những sự thấp hèn và trong trường hợp này, họ tưởng rằng tình cảm của họ không phải là sự ghen ghét mà là tình thương. Họ nghĩ: "Tôi đau khổ vì người nào đó thương tôi, lại thương một người khác nhiều hơn thương tôi".

Tình thương là một đức tánh có ảnh hưởng rất xa, thế lực của nó rộng lớn cho đến đổi, con người sẵn sàng nhờ nó che chở và tìm cách gán cho nó tất cả những điều hoàn toàn  xa lạ với nó.

Tốt hơn là nên thành thật xem xét những tình cảm của ta, đừng xem thường những vấn đề quan trọng ấy và cũng đừng để những lời dịu ngọt phỉnh lừa ta. Trong trường hợp trên đây, nếu bạn đau khổ, thì đó hoàn toàn  không phải vì bạn thương yêu người bạn của mình, mà vì bạn không muốn chia sớt vật chiếm hữu của bạn cho ai cả. Một khi nảy sinh tình cảm đau khổ này, nó đều do tánh ích kỷ  gây nên, nó là "đối lập" [18] của tình thương. Về phần bạn, bạn là Chơn Nhơn, nên bạn không thể cảm thấy mình ganh ghét. Bạn không thể phẫn nộ hay là nổi cáu, các tánh đó đều là tánh khí thuộc về Cái Vía.

Đức Thầy còn đề cập đến những thí dụ khác như tánh tham lam, sự ham muốn, ghen ghét và ngã lòng rủn chí. Những người chí nguyện bước vào Đường Đạo ít nhân nhượng hai tánh trước hơn là sự ngã lòng. Thường thường người ta ít đề phòng sự ngã lòng hơn các tánh khác vì họ lầm tưởng chỉ có một mình họ chịu hậu quả mà thôi. Họ nói rằng: "Nếu tôi cảm thấy buồn rầu hay thất vọng, thì rốt cuộc đó chỉ là chuyện riêng của tôi và chỉ quan hệ đến một mình tôi thôi". Nhưng nói như  thế  không đúng: Mấy kẻ khác cũng bị tai hại vậy. Các sinh viên Huyền Bí Học đều biết rõ điều chi xảy ra. Những làn rung động của sự  ngã lòng truyền đi và cảm nhiễm không những Thể Vía mà còn Thể Trí của nhiều người nữa. Hậu quả này thường trầm trọng hơn người ta tưởng, bởi vì trong đám người có thể bị tư tưởng bạn cảm nhiễm, đa số trình độ tiến hóa còn thấp kém hơn bạn, nhiều người đang lâm vào tình trạng có thể gây trọng tội. Những độc giả thường xem sử sách và những bản thống kê các bản án phạm tội đại hình thì biết rằng nhiều vụ án mạng, nhất là sát nhơn và tự tử, đều xảy ra sau một thời kỳ vô cùng chán nản. Trước tòa án, tội nhân thường nói rằng: "Tôi nản chí quá, tôi không thể nào cưỡng lại nổi". Ở trình độ tiến hóa còn thấp kém, nhiều người có thể bị cảm nhiễm như thế. Có những người bị tội cấm cố, hay tử hình nhưng thật ra họ không phải là thủ phạm hoặc họ chỉ tạo có một phần tội ác do bàn tay của họ gây nên mà thôi. Chúng ta sống trong một thế giới ít có người hiểu được những luật thầm kín phi thường này và nếu tòa án chúng ta không xét xử được một cách hoàn toàn công bằng, thì chính vì không biết khoa Tâm lý học vỡ lòng vậy. [19]

Chắc chắn tôi cảm thấy tất cả những điều này rõ rệt hơn vì chính tôi đã bị đưa đẩy: Khi thì phấn khởi, khi thì ngã lòng, theo sự dao động của quả lắc đồng hồ. Ấy là tánh khí chung của nhiều người: hôm nay hạnh phúc tràn ngập Thế gian, ánh dương quang chiếu rạng, tạo vật xinh tươi, tất cả đều hân hoan, vui thú. Rồi phản ứng không thể tránh được lại xảy đến. Một cảm xúc buồn bã mênh mang xâm chiếm tâm hồn bạn, toàn thể thế giới dường như tối sầm lại. Nếu bạn bình tĩnh tìm hiểu căn nguyên, thì bạn sẽ thấy những  lý do bên ngoài mà bạn đổ cho sự thay đổi tánh khí của bạn không đủ để giải thích những hiệu quả quan trọng như thế. Tuy nhiên tánh khí này cũng mang đến vài sự lợi ích. Thuật nói trước công chúng của tôi chắc  chắn không có hiệu lực như thế này, nếu tôi không có khả năng bẩm sinh đó. Tánh khí của nhà diễn giả gồm sự hiểu biết những tình cảm hết sức đối chọi nhau, nhưng nó cũng giống với các tánh khí khác là những cái lợi lại kèm theo những cái bất lợi. Chúng ta không nên nhượng bộ trước những sự biến đổi luân phiên dữ dội của tình cảm.

Tôi không chắc rằng muốn thắng được tánh xấu ấy, chỉ cần tự nói rằng: "Tôi không nên cảm biết mình ngã lòng", nhưng trong  những trường hợp cực đoan người ta cũng có thể thắng thế khi nhớ rằng mình không được buông xuôi vì những hậu quả thảm khốc sẽ di hại cho kẻ khác. Cố gắng xua đuổi một tình cảm như thế đó chưa đủ; phải thay vào đó bằng một tư tưởng can đảm, an tịnh thật mạnh mẽ và phụ vào đó một tình  cảm vị tha nồng  nhiệt của bạn.

Như Đức Thầy đã chỉ dạy, Cái Vía không muốn hại ai. Nó hành động như thế, chỉ vì nó được cấu tạo bằng Tinh chất đang đi xuống và đang tiến hóa nhờ những sự rung động dữ dội và luôn luôn thay đổi. Sự ham muốn không ngừng này chứng tỏ rằng Cái Vía có những sự thay đổi mãnh liệt, điều đó phải giúp sinh viên không tự đồng hóa với Cái Vía và thấy rằng nó đã tạo ra những tình cảm mà anh không biết lý do, những tình cảm mà lý trí không tán đồng, những tình cảm tiêu biểu những sự hoạt động độc lập, riêng  rẽ của Thể Vía. Người ta phải hiểu điều đó và đừng làm trò chơi cho những tánh khí bất thường ấy. Bạn hãy nghiên cứu chính bản tánh của Thể Vía bạn. Hãy khám phá cho được những chuyện bất hảo mà nó đặc biệt ưa thích, rồi bạn từ chối, không chấp nhận những điều tai hại đó. Quyết định xong, bạn đừng nghĩ đến chúng  nó nữa, đừng nhấn mạnh chúng nó. Bạn hãy chọn lấy những thái độ đối nghịch với nó và suy gẫm về những thái độ này suốt ngày. Cái Vía của bạn muốn không kiên nhẫn ư ? Bạn hãy chú ý vào sự kiên nhẫn; bạn hãy nghĩ đến đức tánh này trong thời gian tham thiền buổi sáng của bạn và bạn thực hành nó từ giờ này sang giờ khác. Cái Vía của bạn lại muốn cho bạn ghen ghét ư ? Bạn hãy nhận biết sự kiện đó, rồi ngưng ngay ý nghĩ về sự ghen ghét, rồi tập trung tư tưởng vào tánh vị tha. Bạn hãy áp dụng phương pháp này một cách liên tục thì sự ghen ghét tự nó tiêu mất. Cái Trí của bạn không thể dung nạp một lượt hai tình cảm trái  ngược nhau.

Bạn  hãy nhớ  rằng mọi sự khó khăn đều nhắm tạo nên cơ hội tiến bộ cho sinh viên Huyền Bí Học. Người đệ tử tỏ lòng yêu mến có được công đức gì, khi mà mọi người chung quanh y đều tử tế, hay tốt lành, khi mà ai nấy đều ân cần niềm nở với y? Những người tầm thường nhất cũng làm được như  thế. Người chí nguyện làm đệ tử phải biểu lộ những tình cảm tốt lành khi người ta tỏ ra xấu xa đối với y, bằng không y có khác chi những người thường? Y phải nhớ đến điều này trong những lúc khó khăn hay bị cám dỗ. Người chí nguyên phải lướt tới đối đầu với chúng và xem chúng như những cơ hội để trả quả. Đối với người đệ tử, phải coi bất cứ ai hay bất cứ cơ hội thử thách nào đưa đến đều không phải là một sự cám dỗ, mà đúng là một dịp may vậy. Khi đem những cảm xúc tốt đẹp đáp ứng lại những tình cảm xấu xa thì người đệ tử  giống như  Sư Phụ mình. Như thế đã biểu lộ được nơi y những đức tánh của Đức Thầy.

Vậy buổi sáng khi tham thiền bạn hãy suy gẫm những đức tánh mà bạn cần phải có. Chẳng hạn, nếu bạn hay nóng nảy bạn hãy nghĩ đến đức kiên nhẫn. Rồi trong ngày bạn gặp một người nóng nảy hoặc khó chịu, thì vì thói quen, trước tiên bạn đáp lại bằng sự nóng nảy, nhưng khi vừa phạm lỗi bạn liền nghĩ ngay đến đức kiên nhẫn. Lần sau bạn nghĩ đến đức kiên nhẫn đúng lúc bạn phạm lỗi. Tập thêm một chút nữa bạn sẽ nghĩ đến đức kiên nhẫn, trước đó một chút; rồi bạn cảm thấy nóng giận nhưng bạn không biểu lộ ra; sau cùng bạn không còn cảm thấy nóng giận nữa. Bước đầu của những giai đoạn ấy đã chứng tỏ rằng sự tham thiền của bạn khởi sự có hiệu quả. Tôi biết nhiều người muốn thí nghiệm điều này. Họ kiên nhẫn trong vài ngày hay vài tuần rồi nói: "Tôi không tham thiền về vấn đề đó nữa, tôi không thu gặt được một kết quả nào; việc tham thiền của tôi không có ích lợi gì cho tôi; tôi không tiến bộ". Người này cũng giống như một người khách bộ hành phải thực hiện một cuộc hành trình bằng cách đi bộ ba ngày đường, nhưng mới đi được khoảng một hoặc hai giờ, y ngồi xuống nói rằng: "Đi làm gì? Tôi có tiến bước đâu". Dưới cõi trần, ai lại không thấy cái tư cách như thế lố bịch biết bao, mà tư cách  kia cũng giống như vậy. Sự tham thiền tạo ra những kết quả, đó là cưỡng bách, không khác nào sự đi bộ sẽ đưa bạn đến một quãng  đường, điều  này chắc chắn như thế. Những định luật Khoa học tác động một cách bất biến, do đó mọi năng lực của bạn tạo ra phải mang lại kết quả. Nếu bạn chưa thu thập được kết quả tức khắc theo ý muốn, chính vì cái nguyên tắc đối lập chưa hoàn toàn bị hàng phục, năng lực của bạn còn bám chắc lấy nó để trung hòa nó, để rồi chinh phục nó một cách triệt để. Bạn chớ bận tâm đến kết quả. Hãy chú định tư tưởng của bạn vào đức kiên nhẫn hoặc những đức tánh nào mà bạn muốn mở mang. Rồi cái kết quả tự nó sẽ đến, khỏi cần ai trợ giúp.

 

C. W. L. Tóm lại, với sự luyện tập một ít lâu, không khó gì cho  chúng ta đặng biết rằng chúng ta không phải là Xác Thân, nó chỉ là cái áo mặc ngoài thôi. Còn Thể Vía - những cảm xúc và dục vọng của chúng ta - lại khó biết hơn vì dường như nó là thành  phần của bản ngã sâu kín hơn hết của chúng ta. Mỗi ngày, ở đâu người ta cũng gặp những người có cảm tưởng rằng họ là những tình cảm, dục vọng của họ. Ở vài người bị tình cảm, dục vọng choán đầy cả tâm hồn họ cho đến đổi nếu cố gắng dùng trí tưởng tượng  tách biệt chúng riêng ra, thì họ không còn cái chi cả: trọn cả con người họ chỉ là dục vọng và cảm xúc thôi. Một người như thế thật khó tách riêng y ra với Thể Vía của y; nhưng đó là điều phải thực hiện. Cái Vía luôn luôn thay đổi tánh tình của nó và sự kiện này giúp con người hiểu rằng nó (Cái Vía) không phải là Chơn Ngã, cái Bản Ngã thật. Chính là Linh hồn không hề thay đổi; ước vọng của nó vốn bất di bất dịch - nó muốn tiến hóa để giúp đỡ Linh Hồn khác theo đuổi con Đường Đạo do các Chơn Sư của chúng ta đã vạch ra. Vậy thật rõ ràng và chắc chắn rằng Thể Tình Cảm này không phải là Chơn Ngã.

Sở dĩ Tinh chất Cái Vía đạt được ít nhiều sự liên tục vì những  hạt  nguyên tử trường tồn thu hút những chất khí cùng một loại với chất khí mà chúng ta đã có ở kiếp trước để bao bọc chúng nó; bởi thế thật khó mà thình lình đương đầu với nó và quật ngã nó được. Tuy nhiên, không phải điều đó không làm được và phương tiện hay  nhất là nhờ sự quan sát kỹ lưỡng để xác định những loại hoạt động xấu xa nào mà Cái Vía muốn  theo đuổi. Mỗi người đều có những nỗi khó khăn riêng: người thì tỏ ra nóng nảy, dễ cáu hoặc là ưa đố kỵ, ganh ghét; người khác lại tham lam. Nhận biết như thế rồi ta phải chuyên tâm khắc phục tật xấu ấy một cách cương quyết. Giả sử vấn đề ở đây là tánh nóng giận, nó thường xảy ra bởi do những tình trạng  ghê gớm và những tiếng động là đặc tính của đời sống hiện đại. Người muốn bỏ tánh nóng giận thì phải cương quyết không nổi nóng nữa. Lấy nó làm một đề tài tham thiền rất tốt, nhưng đừng chiến đấu với tật xấu bằng cách chống cự với nó. Điều hay hơn hết là tham thiền về đức tánh đối lập với nó, nghĩa là đức  kiên nhẫn. Đừng nghĩ đến tánh xấu và việc cần phải đối phó với nó, vì như thế sẽ tăng cường sức hoạt động của nó.

Nếu bạn cố gắng giúp kẻ khác bằng tư tưởng của bạn cũng nên theo phương pháp đó. Khi bạn giúp một người có tánh xấu nói trên đây, thay vì chú trọng đến tánh nóng giận của y, tội nghiệp cho y - như  thế sẽ tăng cường tánh nóng giận đó - bạn hãy nói rằng: "Tôi muốn thấy y bình tĩnh và kiên nhẫn". Như vậy tất cả năng lực tinh thần của bạn giúp cho y được bình tĩnh và kiên nhẫn. Ban đầu, khi gặp một người không nhẫn nại, chúng ta sẽ nổi nóng, nhưng sau đó chúng ta nhớ lại rằng: "Chúng ta không muốn làm điều đó". Dù nhớ muộn như thế cũng tạm được. Lần sau, hay lần thứ hai mươi, chúng ta sẽ nhớ ngay chứ không phải khi vừa mới phạm lỗi. Trong giai đoạn thứ ba, ta sẽ nhớ ngay trước khi thốt ra lời phẫn nộ; sự nóng giận vẫn có, nhưng chúng ta không để nó bộc lộ ra. Tiến thêm một  bước nữa, chúng ta không còn cảm thấy một sự nóng giận nào. Chúng ta đã hàng phục được sự nóng giận và chúng ta sẽ không còn bận tâm vì nó nữa, trong kiếp này, cũng  như trong những kiếp sắp tới.

Muốn chế ngự bản tánh của Cái Vía, thì điều cần thiết là không có một tình cảm cá nhân để phiền hà, để giận dỗi. Những tình cảm cao thượng như thiện cảm và tình thương phải tràn ngập trong lòng chúng ta, chúng ta không còn tức tối hay bất bình được. Người nào còn những tình cảm này là còn nghĩ đến mình, chúng ta không có quyền làm thế, nếu chúng ta đã tự hiến mình cho Đức Thầy. Có thể có những người trì độn, họ bị mắng mà không biết; sự vô ý thức như thế không tốt; nhưng khi bạn đã ghi ý muốn nhục mạ rồi thì hãy tỏ ra khôn ngoan; đừng chú ý đến, cách đó luôn luôn hay nhất. Người ta nói xấu bạn, điều này không quan trọng mấy. Việc nói xấu luôn đã xảy ra từ thuở khai thiên lập địa, và ngày nào chúng ta chưa tiến đến gần quả vị Chơn Tiên thì ngày đó sự nói hành cũng vẫn còn mãi. Tóm lại, những điều kẻ khác nói không quan trọng; đó là những làn rung động thoáng qua làm xao xuyến không khí và chỉ có thế thôi, trừ ra khi nào chúng ta quyết định làm trái ngược lại. Một người nào đó nói những điều không tốt cho bạn, nếu bạn không hay thì chẳng có sao cả. Ví như bạn nghe được những lời đó, bạn đùng đùng nổi giận, bạn  kinh  hãi, bạn thất vọng và còn nhiều phản ứng khác nữa, thì không phải lỗi của kẻ thủ phạm đầu tiên, mà chính là bạn đã hại bạn. Hãy nhìn sự việc một cách thật kiên nhẫn và nói rằng: "Tội nghiệp, y không biết chi hơn cái đó". Bạn hãy giữ lấy thái độ dịu dàng và nhân hậu. Những điều kẻ khác nói không quan trọng mấy, vì họ luôn luôn hành động thiếu sự hiểu biết. Bạn hãy nhớ mấy lời này: "Tấm lòng tự biết những nỗi buồn bực của nó"[20]. Một người kia luôn luôn có những lý lẽ để giải thích, để hành động hoặc suy tư như họ đã làm. Từ bên ngoài không thể biết tất cả những lý do của họ, vì bạn chỉ quan sát chúng một cách nông cạn và thường thường thì sai lạc nhiều lắm. Do đó, ngày nào bạn chưa lên tới cõi Bồ Đề thì ngày đó bạn nên làm lợi cho họ là đặt ra nghi vấn hoặc hãy làm hay hơn nữa: đừng gán cho ai những lý lẽ này hay những lý lẽ nọ. Nếu hành vi nào đó bạn cho là sái quấy, sự phê phán nhân từ hơn hết là nói rằng: "Tôi sẽ không làm điều này; theo ý tôi như thế là quấy. Có thể người ấy có những lý lẽ riêng của y mặc dầu tôi không biết chúng như thế  nào".

Khi một người kia tỏ ra vô lễ thì lắm khi có điều gì bất thường đã xảy đến cho y và bởi vậy y không ở trong trạng thái tự nhiên của y nữa, y thấy điều đó và người đầu tiên nói chuyện với y lại là chính bạn. Thật ra, không phải y giận bạn; sự mất quân bình của y có lý do khác; có thể bữa cơm tối của y bị mất ngon. Chúng ta hãy tập lấy đức khoan dung đối với kẻ khác mà nói rằng: "Tội nghiệp cho bạn ấy, tôi nghĩ là y luôn luôn không thế nào được hoàn toàn  khả ái và dễ mến như tôi". Chắc chắn sau đó người này sẽ hối hận về những lời khiếm nhã của y, có lẽ y cũng không nhận thấy điều gì khác thường do y đã thốt ra. Khi người ta cảm thấy bị xúc phạm hay phật lòng vì chính họ đã tưởng đến bản ngã, cái ta của họ. Chính tư tưởng cá nhân này cần phải bị nhổ tận rễ và ném đi xa. Không bận rộn về bản ngã thì không còn tật đó. Nếu người này chỉ nghĩ đến tất cả tình thương mà y dành cho người kia thì tình thương của người kia đối với người thứ  ba có quan hệ gì đối với y đâu. Cái ảo ảnh về bản ngã chia rẽ là căn nguyên của hầu hết mọi đau khổ.

Người ích kỷ hiện nay đã lỗi thời, y theo đuổi những hoạt động  hữu ích và cần thiết cho y hồi hai chục ngàn năm trước, nhưng bây giờ đây chúng không còn hữu ích và cần thiết nữa, người ích kỷ là người chậm tiến, cổ hủ. Chúng ta có bổn phận phải theo kịp thời thế. Đời sống của chúng ta, tư tưởng của chúng ta có mục đích là phải hướng về tương lai mà Đức Chưởng Giáo đã chuẩn bị cho chúng ta. Vậy ta phải quét sạch tất cả những tư tưởng lỗi thời này.

Trong khi tìm kiếm những lỗi lầm của bạn để chủ trị chúng, bạn  đừng để những tư tưởng sai lầm về sự  ăn năn  và hối hận lưu vết tích trong lòng bạn. Bạn hãy nhớ bà vợ của ông Lot [21] và đừng nhìn về phía sau; điều đó chẳng có ích lợi gì cả. Sau khi phạm một lỗi nặng nào đó, bạn có thể nói thật bình tĩnh rằng: "Dại quá, chẳng bao giờ tôi tái phạm nữa". Người ta nói rằng ông Talleyrand nói những lời này: "Ai cũng có thể lầm lẫn - tất cả chúng ta đều lầm lẫn - nhưng mà người phạm lỗi hai lần một việc là kẻ khờ dại". Một này kia, một vị Chơn Sư có nói rằng: "Sự hối hận chỉ có chút giá trị là khi nào quyết định không tái phạm nữa". Bạn cũng nên nhớ câu này nữa: "Kẻ nào không hề lầm lỗi là kẻ không làm gì cả". Bạn đừng lo lắng về những gì mà bạn đã làm trong những kiếp trước; tại sao lại bận tâm đến ngày hôm qua. Cả hai thuộc về qua khứ. Sự hối hận làm mất thì giờ và năng lực; nó chính là một điều tệ hại, một hình thức  ích  kỷ.

Thật dễ cho chúng ta tử tế và dễ thương với những người cũng đối đãi với chúng ta như thế đó, nhưng nếu chúng ta đã thực sự tiến hóa, thì chúng ta ban rải tình thương ra chung quanh, dù cho những  kẻ khác không tỏ lòng thương mến chúng ta cũng vậy. Đấng Christ đã nói: "Nếu con thương những kẻ yêu con, con đáng được ban thưởng điều gì? Những kẻ thu thuế kia lại không hành động như thế sao"[22]? Ngài còn dạy rằng: "Con hãy thương yêu kẻ nghịch của con và cầu nguyện cho những người hành hạ con.[23] Đã đến lúc người đệ tử của Chơn Sư  chứng tỏ mình làm được điều gì, nơi mà y có thể hành động như Ngài, nơi mà y đáp lại sự nói xấu và ngược đãi bằng những tư tưởng nhân từ và tình thương, rồi y còn bàu chữa và khoan hồng đối với sự rồ dại của kẻ nghịch. Thương yêu và tử tế đối với những người thương yêu và tử  tế với ta vẫn chưa đủ, phải có khả năng ban rải tình thương của chúng ta thật nhiều cho những kẻ còn ngờ vực, họ không hiểu điều đó là gì? Người ta nói về Đấng Christ như vầy: "Khi bị nguyền rủa, Ngài không hề nguyền rủa lại; khi bị hành hạ, Ngài không hề hăm doạ, mà chỉ phó thác mọi việc cho Đấng xét đoán công bằng"[24]. Tất cả chúng ta cũng bị kẻ khác làm hại, bị đối xử bất công, bị người ta không hiểu biết mình, không ai nhận  chân giá trị của mình. Nhưng không một ai cần phải bận tâm về những điều đó, vì Luật Nhân Quả luôn luôn canh chừng để lập lại trật tự. Đức Chúa Trời nói: "Hãy để cho Ta trả thù. Hãy để cho Ta phân phát mọi việc, ân đền oán trả"[25]. Chúng ta hãy phó thác mọi việc cho Ngài. Luôn luôn công bằng trả lại; những điều xấu xa một ngày kia sẽ được kiểu chính[26]. Những người nào ngày nay chưa biết lỗi mình, một ngày kia sẽ biết và sẽ hối hận. Không có sự bất công nào tồn tại được. Tất cả mọi sự đã an bài, sẽ được thực hiện  đúng  như  đã dự định.

Chính Đức Thượng Đế luôn luôn treo gương Bác Ái. Nhiều người nói xấu  Ngài; vì không hiểu biết Ngài nên họ đã nhạo báng Ngài. Ngài không hề trả lời, nhưng tình Bác ái thiêng liêng cứ không ngớt tuôn ra. Nếu chúng ta muốn biểu hiện sự sống thiêng liêng, chúng ta phải có một đặc tánh giống như Ngài vậy.

 

Cái trí của con vui thích với tư tưởng kiêu căng chia rẽ. Nó kiếm thế tự tôn tự đại và xem thường kẻ khác.

 

C. W. L. Lại ở đây nữa, đừng lầm lộn ý muốn của Cái Trí với  ý muốn  của chúng  ta và nên biết rằng chúng ta không phải là Cái Trí. Chúng ta có thói quen hay nói: "Tôi nghĩ thế này hay thế khác", nhưng trong mười lần hết chín lần không phải là chúng ta nghĩ mà chính là Cái Trí vậy. Nhiều người trong chúng ta cố gắng chủ trị và uốn nắn tư tưởng của họ theo kỷ luật, nhưng nếu kiểm điểm lại, chúng ta nhận thấy những tư tưởng đáng gọi thuộc về của ta nghĩa là của Chơn Nhơn thật hiếm hoi biết bao và những tư tưởng  thuộc về Hạ Trí thì không biết bao nhiêu nữa.

Hạ Trí bay từ vật này sang vật kia, ghé phớt qua nhiều vấn đề khác nhau, nhưng thường thường nó không chăm lo chu đáo cái nào cả. Thói quen của nó không phải là không xem xét tường tận điều gì, mà nó chỉ lướt qua việc này đến việc khác để có những rung động mới mẻ luôn luôn. Thoáng nhìn lại phía sau, chắc chắn trong khoảng thời gian rất ngắn ngủi ta sẽ thấy rằng Trí ta nhớ đến một dọc chuyện này rồi tới chuyện kia, toàn là vô vị. Chẳng hạn khi đi đường bạn sẽ nhận thấy nếu chính bạn đặc biệt không suy nghĩ gì cả, thì cái gì mà tư tưởng không chịu dừng lại: đó chính là Cái Trí của bạn. Nếu bạn không khép nó vào kỷ luật, nó sẽ duyệt lại hàng loạt ý niệm vô ích đối với bạn, những ý niệm này vị tất  đã xấu xa, trừ khi chúng nó vốn riêng tư thuộc về cá nhân ích kỷ. Sự liên tưởng là thói quen của Cái Trí; đôi khi nó chiếm lấy một tư tưởng đẹp nhất của bạn rồi dẫn đến một việc khác xa và rất thô tục. Chúng ta phải can thiệp và đổi hẳn tất cả. Tôi biết rất khó mỗi lúc đều mỗi kiểm soát những sự hoạt động của Cái Trí, nhưng chúng ta phải thực hiện điều đó, vì Cái Trí là một sức mạnh vô cùng và hơn nữa nó là thần lực cao nhất ở gần chúng ta: Nếu ý chí có thể bắt Cái Trí làm một vận hà thì ít có việc gì mà Cái Trí chúng ta không hoàn thành nổi. Chúng ta có thể hoạch đắc cái sức mạnh phi thường này, dù chúng ta giàu hay nghèo, già hay trẻ, và chúng ta có thể làm cho nó thành một dụng cụ quí báu để phụng sự Đức Thầy, với điều kiện là chúng ta luôn luôn canh chừng nghiêm nhặt cho tới chừng nào Cái Trí tập được những thói quen mới khác. Tư tưởng có thể hoàn thành được nhiều việc, mà những phương tiện khác không thể thành công. Một tư tưởng thương yêu gởi đến cho một người - mà chúng ta biết y cần được giúp đỡ - có thể hữu ích cho y hơn là cho y một số tiền; trọn đời y có thể nhờ ảnh hưởng tốt đẹp đó. Tại cõi Trần này, cái kết quả có thể không nhìn thấy được, nhưng công việc làm của Đức Thầy không phải vì thế mà không thành sự  thật.

Tư tưởng hướng về Chơn Sư thường trực ở phía sau Cái Trí: Cái Trí có thể quay về tư tưởng này mỗi khi Chơn Nhơn không thực sự suy nghĩ về điều gì bắt buộc nó phải chú ý; tư tưởng đó phải hết sức rõ rệt. Đối với nhiều người, tư tưởng về Đức Thầy chỉ là một thứ phúc lạc mơ hồ, một sự xuất thần nửa vời, một trạng thái hôn mê về đạo giáo; trong mấy lúc đó họ không thể suy nghĩ thật sự về điều gì cả. Thay vì đắm mình một cách mơ hồ trong một tư tưởng thiếu chính xác,  chúng ta nên làm cho việc sùng mộ Đức Thầy của mình thành một hình tư tưởng rõ rệt, chẳng hạn như "Tôi có thể làm gì để phụng sự Ngài? Tôi dùng mãnh lực tư tưởng của tôi vào mục  đích  gì "? Trong quyển sách này luôn luôn bạn sẽ thấy tác giả nhấn mạnh rằng: Thật ra chúng ta chỉ có một tư tưởng duy nhất, một ý chí duy nhất, một phận sự duy nhất mà thôi. Tư tưởng duy nhất đó là phụng sự Đức Thầy; ý chí duy nhất đó là làm việc cho Ngài; phận sự duy nhất đó là tận tụy với Ngài và vì thương Ngài mà tận tâm với nhân loại. Mặc dù những công việc có tính cách hết sức phức tạp đang chờ đợi chúng ta đi nữa, chúng ta cũng phải đảm đương chúng nó để phụng sự Ngài và nhân loại. Trong trí Đức Thầy chỉ có một tư tưởng duy nhất là: phụng sự; nếu chúng ta muốn hiệp nhất với Ngài, tư tưởng duy nhất đó cũng phải là tư  tưởng của chúng ta. Tư tưởng duy nhất ấy bắt buộc chúng ta phải đạt cho được khả năng phụng sự, rồi do đó mới có thể tiến hóa; chẳng phải chúng ta khao khát thành những bậc vĩ nhân, mà vì chúng ta muốn thành khí cụ tốt.

Nhiều người đang mở trí. Nhiều nhà bác học luyện trí để mở rộng sự hiểu biết của họ mà thôi. Đôi khi họ cũng có thể có một ý tưởng phụ thuộc là muốn được danh  tiếng lẫy lừng, nó là kết quả của một sự phát minh vĩ đại; nhưng tôi không tin rằng đó là trường hợp của đa số những nhà Khoa học. Thường thường trong thâm tâm họ đều có ý muốn đem những quan niệm đã hoạch đắc để giúp ích cho đời, nhưng trong tinh thần Khoa học, lòng nhiệt thành muốn hiểu biết đã chiếm hàng đầu. Đó là một môi trường hoạt động tốt đẹp; nhiều tâm hồn cao quí làm việc trong phạm vi này đã giúp cho nhân loại những công việc lớn lao.

Chúng ta cũng vậy, chúng ta phải tinh luyện Cái Trí của mình để trở nên nhanh nhẹn, linh hoạt và hữu ích. Tại sao thế ? Tại sao người thợ mộc mài cái bào của y? Chẳng phải để cho y có một cái bào sắc bén hơn  cái bào của anh thợ mộc khác, nhưng để bào cây cho láng, để làm một việc tốt. Đây mới thật đúng vì lý do nào chúng ta phải tinh luyện Thể Trí. Nhưng hãy luôn luôn nhớ tư  tưởng này: "Tôi đang tạo một khí cụ cho công nghiệp của Đức Thầy". Lý tưởng này sẽ ngừa được sự kiêu căng của trí thức, nó giúp chúng ta tránh khỏi nhiều cạm bẫy, vì chắc chắn chúng ta phải sa vào đó, nếu Cái Trí mở mang quá độ.

 

Khi con bắt buộc nó không quan tâm đến những việc trần được rồi thì nó cũng còn cố gắng gom tất cả về cho bản ngã của con. Nó giục con chú ý đến sự tiến hóa riêng của con, thay vì lo nghĩ đến việc của Chơn Sư  và giúp đỡ kẻ khác.

 

A. B.   Trong những bài dạy của Đức Thầy, có lẽ điều làm cho tôi chú ý hơn hết, đó là ý niệm chánh, không thay đổi và luôn luôn được lập đi lập lại về cái ý tưởng duy nhất. Dường như cái ý niệm chánh này chiếu ra sự thuần nhất một cách mạnh mẽ cho đến đỗi người ta cảm thấy rằng Đức Thầy không thể có tư tưởng nào khác nữa và Ngài nhập vào Đấng Duy Nhất đến độ tư tưởng của Ngài không thể tách rời ra khỏi Đấng Duy Nhất hay có thể quên Đấng Duy Nhất, dù Ngài phải lưu ý đến vấn đề gì. Đây cũng là tư tưởng của người đệ tử. Luôn luôn  nghĩ đến  công nghiệp của Đức Thầy và luôn luôn làm việc cho kẻ khác : ý tưởng duy nhất này phải vượt lên trên tất cả, bằng không thì chính Cái Trí của bạn  tưởng chớ không phải là bạn. Nhưng nếu tư tưởng đó là của bạn, thì tất cả tư tưởng khác đều thuộc về bạn. Giả sử trong lúc tham thiền bạn nghĩ đến một đức tánh nào đó. Bạn tự hỏi, tại sao bạn muốn có nó? Có phải để được người ta khen ngợi hay để tiến dần đến sự Điểm Đạo? Hay trái lại, bạn muốn có nó để trở thành một khí cụ hảo hạng cho công việc của Đức Thầy? Đó là đá thử vàng để giúp bạn biết có phải là Cái Trí suy nghĩ hay là chính bạn suy nghĩ.

Có một phương tiện hữu  hiệu là bạn nên chịu một sự thử thách rõ rệt. Giả sử có một chi tiết trong công việc phụng sự Đức Thầy đòi hỏi những đức tánh thấp thỏi hơn trong đức tánh đã mở mang (tôi tin rằng trường hợp này có thể xảy ra, dù theo thường lệ sự hữu dụng của một người tùy thuộc vào sự tiến hóa của y). Vậy thay vì dùng tài cao của bạn để hối thúc sự tiến hóa, bạn có bằng lòng gánh vác việc nhỏ mọn đó và cố gắng hoàn thành nó không? Bạn có bằng lòng hạ mình để được hữu dụng nhiều hơn không? Được. Nếu bạn không quên mục đích duy nhất là trợ giúp công việc của Đức Thầy. Công việc này sẽ đưa đến cho chúng ta tất cả những cơ hội có thể tinh luyện các Thể Trí hầu làm sao cho chúng trở nên nhanh nhẹn, linh  hoạt và hữu ích. Tuân theo những ý định này thì những sự tiến bộ của chúng ta sẽ không có nguy cơ làm cho chúng ta rơi vào tà thuyết của sự chia rẽ. Dưới thế gian này, chúng ta phải luôn luôn mở mắt ra hầu lợi dụng những cơ hội mà kẻ khác xao lãng, xem thường. Người đệ tử luôn luôn tìm những công việc mà kẻ khác không thực hiện để bổ túc những điều thiếu sót. Một thái độ như thế chứng tỏ rằng sự kiểm soát Cái Trí đã tiến bộ.

 

C. W. L. Công nghiệp của Đức Thầy phải chiếm hàng đầu trong tư tưởng của chúng ta. Nếu chúng ta nhận thấy một tư tưởng, một lý do hoạt động khác xen vào, thì chính lý do này thuộc về Hạ Trí chớ không phải thuộc về Chơn Nhơn. Sự khác biệt giữa hai thứ tư tưởng này rất quan trọng. Thật ra Cái Trí có tính kiêu căng và chia rẽ. Nó đã xoá bỏ được hết mọi thứ kiêu hãnh đặc biệt của Thế gian ư ? Thì nó lại làm cho chúng ta kiêu hãnh về sự tiến hóa của chúng ta, về sự liên lạc giữa chúng ta với Đấng Chơn Sư cao cả, hoặc sự lợi ích khác tương tợ như thế. Khi chúng ta đã vượt qua được những nhược điểm này, Cái Trí cố gắng khiến cho chúng ta kiêu căng vì đã thắng được tánh kiêu căng. Đừng phiền trách tinh chất tế nhị đó, nó không có ý nghĩ gì về bạn, nó chỉ tìm những thứ rung động khác lạ cần thiết cho sự tiến hóa của nó mà thôi.

 

Khi con thiền định, nó cố gắng giục con nghĩ đến những chuyện khác mà nó cần dùng, chớ không cho con nhớ đến chuyện duy nhất con đang lo giải quyết. Con không phải là Cái Trí đó, nhưng nó vốn thuộc về của con để con sử dụng, vậy ở đây sự phân biện rất cần thiết; con phải giữ chừng luôn luôn, bằng  không con sẽ thất bại.

 

C. W. L. Bên Ấn Độ, người ta cho rằng Cái Trí là Raja hay là chúa tể của giác quan, và trong bản thân ta, chính Cái Trí khó trị hơn cả. Về vấn đề này, chúng ta là người Tây phương, chúng ta ít đồng ý với người Đông phương, vì chúng ta chuyên lo mở Hạ Trí nên sinh ra kiêu hãnh về sự nhanh nhẹn của Cái Trí có thể chuyển  từ vấn đề này sang vấn đề khác.

Tuy nhiên nhờ sự cố gắng bền bỉ, bạn có thể bắt buộc Tinh chất (Cái Trí) này phục tòng sức mạnh vĩ đại của tập quán. Bạn có thể kềm nó vào trong ngõ hẹp và làm cho nó hiểu rằng vì bạn là Chơn Nhơn nên bạn không muốn thay đổi ý định; ý định đó gồm vô số nhánh nhóc, vì tất cả đều tuyệt nhiên qui về công việc của Đức Thầy. Chẳng bao lâu Tinh chất kỳ dị và bất kham đó sẽ thấy rằng nó có lợi khi cộng tác với bạn hơn là chống lại, song nó vẫn không hiểu bạn. Sau cùng bạn sẽ làm việc với nó trong sự điều hòa, thuận thảo.

 

 CHƯƠNG THỨ MƯỜI

  Y

 ĐIỀU LÀNH VÀ ĐIỀU DỮ

 

Khoa pháp môn không hề công nhận sự thỏa thuận giữa việc lành và việc dữ. Dù với bất cứ giá nào con cũng phải làm việc lành; con không nên làm việc ác, để mặc tình kẻ dốt nói hoặc nghĩ thế nào cũng được. Hãy học hỏi cho rộng sâu luật bí ẩn của thiên nhiên; chừng con biết rồi con hãy tổ chức đời sống của con đúng theo những luật đó và luôn luôn con phải sử dụng lý trí và lẽ phải.

 

A. B. Nếu bạn quan sát một cách chân thành thì bạn sẽ thấy đời sống do những thỏa hiệp mà ra. Con người luôn luôn tránh né điều mà họ biết là việc lành, họ kinh sợ câu hỏi độc hại hơn hết là: "Người ta nói thế nào về việc ấy ?" Trong trường hợp nào đó, họ biết rõ cách giải quyết hay hơn hết, nhưng họ đổi nó ra khác hơn một chút, họ làm cho nó mất ý nghĩa rồi lùi lại hầu tránh cho mình những sự khó khăn, phiền phức. Sợ dư luận một phần do tánh yếu đuối, nhưng thật ra tánh này cũng dễ mến, vì họ muốn làm vui lòng kẻ khác. Bên Ấn Độ người ta thường có tánh này, nhưng nếu bạn nhất quyết đi trên Đường Đạo thì bạn đừng bao giờ để cho bạn chịu ảnh hưởng liên quan đến những nguyên tắc hay những vấn đề quan trọng như những đại vấn đề Tôn Giáo và xã hội. Ta hãy lấy một thí dụ về sự cưới gã trẻ con. Lắm khi những việc hôn nhân này được thực hiện quá sớm. Biết bao lần tôi phản đối trước công chúng về sự độc ác trong việc bắt một cô gái mới phát triển có phân nửa, làm mẹ, tôi chống lại hành động này bởi nó nguy hại đến sinh lực sống lâu của nòi giống. Nhiều người biết điều tai hại này và công khai nói trắng ra, tuy nhiên họ vẫn phạm vào lỗi đó, vì nếu họ không làm như vậy thì họ sẽ bị thiên hạ phê bình, chỉ trích. Người ta không thể làm một nhà Huyền Bí Học với một thái độ như thế.

Bây giờ chúng ta hãy dẹp qua một bên những vấn đề căn bản hầu hết liên  quan đến tương lai của một dân tộc, chúng ta hãy xét đến những vấn đề nhỏ nhặt xảy ra trong đời sống hằng ngày. Ở đây cũng không nên có sự thỏa hiệp nữa, hãy nhất quyết làm điều nào mà bạn tưởng là việc lành và giữ vững ý kiến đó. Tôi biết chắc rằng bạn không thể đạt được lý tưởng ngay tức khắc cũng như người ta không thể nào bước một bước từ chân núi mà lên tới đỉnh núi được. Nhưng nếu  bạn nhất định leo lên núi thì phải đi từ bước, mỗi bước đưa bạn đến gần chót núi. Đừng bao giờ hạ lý tưởng của bạn xuống thấp; không có chi tai hại bằng điều này. Theo Kinh Upanishad thì: "Điều thiện là một việc; thú vui là một việc khác nữa; người minh triết chọn  điều thiện, bỏ thú vui".

Bạn hãy làm thử những việc nhỏ mọn mà lương tâm của bạn cho là việc phải, việc lành. Bạn không phải chịu trách nhiệm về điều gì mà lương tâm nói với kẻ khác, hoặc là cách họ tuân theo nó, nhưng bạn phải chịu trách nhiệm về cách của bạn tuân theo lương tâm với bất cứ giá nào. Cái giá đó bạn nên hiểu rõ, nó chỉ bề ngoài. Bạn không thể mất mát điều gì cả khi mà bạn thực hiện những điều mà bạn xét ra là điều lành, điều phải. Lẽ tất nhiên, bạn phải cẩn thận để tránh việc đồng hóa những tánh bất thường, những thành kiến, những thị hiếu, những sở thích của bạn với điều thiện. Về phương diện này, Đức Thầy có đưa ra ở đây những lời cảnh cáo như sau: "Con hãy học hỏi cho rộng sâu những luật bí ẩn của thiên nhiên. Trước hết, con hãy tìm kiếm điều thiện, rồi thì sống theo những sự  hiểu biết của  con".

Cuối đoạn đó, Đức Thầy còn thêm lời khuyên quan trọng này    ". . . con phải luôn luôn sử dụng lý trí và lẽ phải". Luôn luôn bạn nên quan tâm đến tình cảm của kẻ khác, nhưng đừng bao giờ để cho nó xen vào giữa bạn và những gì bạn biết là tốt lành. Nếu bạn phải chọn lựa giữa sự làm mếch lòng kẻ khác và việc lừa dối lương tâm của mình, thì bạn hãy chọn việc thứ nhất. Trong sự  giao thiệp với người đời, nhà Huyền Bí Học luôn luôn phân biệt con người thật (Chơn Nhơn) với thành kiến của các thể khác với nó. Y không làm hại một  người nào, nhưng y thích đụng chạm với những thành kiến của họ hơn là làm ác. Tuy nhiên y sẽ không đụng chạm đến những thành kiến đó, nếu không cần thiết. Nhưng nếu bị bắt buộc, y cũng biết rằng thật ra người đó được giúp đỡ, chớ chẳng bị thiệt hại gì và chính y là khí cụ được dùng để phá vỡ một sự hạn chế; sự hạn chế này là một chướng ngại cho người đó. Dù trong trường hợp ấy, y vẫn hành động một cách êm ái, dịu dàng và vị nễ. Thường thường người ta cho điều đó là gay go, bất tiện. Nhưng rất khó mà hoàn  thành một việc trong sự yên tịnh và ánh sáng của lẽ phải; sự cảm xúc mạnh mẽ giúp cho sự thành công được dễ dàng. Sự cảm xúc dù tốt hay xấu cũng truyền đạt một sự kích thích lôi cuốn con người hoạt động mà không cần cố gắng nữa. Nếu bạn muốn trở nên một nhà Huyền Bí Học thì đừng để bị kích động như người thường. Bạn phải mở mang lý trí lẫn sự phân biện và trong sự cố gắng đó, bạn  bắt đầu biểu hiện  Bồ Đề Tâm một cách vô ý thức.

 

C. W. L. Con người thường có lắm thành kiến và họ lại đồng hóa chúng với điều thiện. Mỗi người đều được đào luyện một cách riêng biệt, họ không ngờ vực những điều họ đã học hỏi nên họ tưởng rằng những người không theo phương pháp riêng của họ đều lầm lẫn, nhất là phương pháp đó được đa số người noi theo. Thường thường những thành kiến của quần chúng rất phi lý. Vậy chúng ta không nên để chúng nó ảnh hưởng đến mình trong vấn đề thiện ác. Tôi không nói rằng trong thành kiến của quần chúng thường không có vài yếu tố hữu lý, nếu ta xét kỹ, nhưng chắc yếu tố đó không phải lý lẽ của quần chúng trưng ra mà là một lý lẽ khác. Mảnh Chân lý đó thường bị biến dạng, bị áp dụng sai vì bởi bị lớp màn dày đặc của sự lầm lạc bao bọc nó.

Nhà Huyền Bí Học không bao giờ để bị bắt buộc làm việc sai  quấy vì sợ đụng chạm với những thành kiến của kẻ khác; trái lại, y cũng không hề công kích chúng nó một cách vô ích. Lý trí và lẽ phải luôn luôn được sử dụng để xét đoán. Một công việc yêu cầu bạn cố gắng, vì bạn biết rằng nó hữu ích và quan trọng. Tốt lắm, nhưng đừng vào thẳng vấn đề như con bò lao mình vào hàng rào. Có thể con bò chạy thoát ra khỏi, nhưng không phải là không có sự thiệt hại cho nó và cho hàng rào. Trong mọi hành động của chúng ta, chúng ta phải giữ thái độ bình tĩnh và hợp lý. Nếu chúng ta xúc động và nóng giận, thì chúng ta sẽ làm cho một lượn sóng cảm xúc nổi dậy, nó gây trở ngại cho chúng ta. Rất khó mà hành động một cách dịu dàng và bình tĩnh, không tỏ ra thù địch đối phương, song đó hiển nhiên là cách xử sự tốt đẹp.

Đừng để dễ bị kích thích như nhiều người khác. Họ không chịu nổi điều này hay điều khác; họ không chịu hiểu và không muốn nhọc công tìm hiểu; họ xông tới và cũng không nghĩ rằng họ có thể lầm đường. Nhưng chúng ta phải nghĩ đến kẻ khác, phải quan tâm đến tình cảm của họ và sau cùng chúng ta có thể chấp nhận rằng trong một trường hợp đặc biệt, họ có lý, còn chúng ta sai quấy, lỗi lầm.

 

Phải phân biệt việc trọng hệ với việc không trọng hệ. Đối với việc lành và việc dữ thì lòng con phải cứng cỏi như sắt đá, còn những việc ít trọng hệ thì khá nhân nhượng cho kẻ khác luôn luôn. Bởi vì bao giờ con cũng phải ở cho tử tế, dễ thương, biết điều, hòa nhã và để cho thiên hạ có quyền tự do bằng quyền tự do mà con yêu cầu cho con vậy.

 

A. B. Đây là đoạn văn rất dịu dàng và thật đẹp. Nó làm quân bình đoạn văn trước, vì nếu tách biệt riêng ra, đoạn trên có hơi cứng rắn. Vậy những điều mà người ta thường tha thiết nhất, chính là những điều không quan trọng gì, nhà Huyền Bí Học thường  không làm nghịch với họ, không cản trở họ. Đối với y, điều quan trọng là một công việc nào đó phải hoàn thành. Y chú định ý chí của mình vào mục đích chính mà chỉ có nó mới được xem là quan trọng, ngoài ra cái gì còn lại, y để cho mọi người được tự do. vì y hòa nhã, dễ dãi với mấy điều đó, nên người ta cho rằng y là người đệ tử khả ái. Dần dần y dắt họ đến chỗ trọng hệ dễ dàng mà họ không mấy ngờ vực điều đó. Người đời cho đức tánh ấy là sự khéo léo, lịch thiệp, còn nhà Huyền Bí Học gọi là Đức Phân Biện.

Người cuồng tín không biết đức tánh này nên y thất bại mãi,  trong khi nhà Huyền Bí Học lại luôn luôn thành công. Vì không phân biệt được việc nào trong hệ với việc nào không trọng hệ nên người cuồng tín không chịu nhân nhượng ngay cả những việc không ra gì. Y làm cho những kẻ đối thoại với y bực tức nên họ không chịu theo y tuy rằng y có lý và mặc dù mục tiêu chính của y thực sự là quan trọng. Nếu bạn khéo léo, họ có thể ngoan ngoãn theo bạn cũng như con mèo ngao ngao. Bữa kia tôi quan sát một sự kiện nhỏ này. Một người đàn ông cố gắng kéo con bò đi tới, tự nhiên con vật quị bốn chân xuống đất, giỏng đuôi lên và hết sức trì lại. Nếu người này khôn ngoan, y thôi kéo; con vật cũng không còn trì lại, rồi y vuốt ve nó và nói vài câu khích lệ nó, y sẽ làm cho nó ngoan ngoãn theo y. Đây là một bài học quí báu cần phải lãnh hội. Nếu những kẻ khác không chịu làm theo như ý bạn, thì bạn hãy tìm nguyên nhân ở nơi bạn. Thường thường bạn sẽ nhận thấy rằng chính thái độ của bạn làm cho kẻ khác nghịch với bạn. Cách tôi hành động như vầy. Trong chỗ kia, những hành động của tôi đưa đến những sự đụng chạm, những sự xích mích và những sự khó khăn, tôi thong thả suy nghĩ về điều đó để khám phá ra vì đâu tôi đã gây ra lý sự, rồi tôi cố gắng tìm một phương pháp khác. Phương pháp này có hiệu quả hơn là bắt kẻ khác đi theo con đường của bạn. Chắc là bạn có thể ép buộc họ đến một mức độ nào đó, nhưng theo nguyên tắc thì làm như thế không tốt và trên thực tế sự chống đối và khó khăn sẽ vì đó mà sinh ra. Điều này chứng tỏ thiếu hẳn đức tính của nhà lãnh đạo, một năng lực, mà Đức Thầy muốn chúng ta phải có trong tương lai. Các Ngài mong mỏi chúng  ta biết cách dìu dắt kẻ khác, chớ không phải dùng sức mạnh lôi kéo họ.

 

C. W. L. Trong khoảng bảy trăm năm nữa, nhiều người trong chúng ta sẽ có dịp hoạt động cho sự phát triển của Giống Dân Chính Thứ Sáu. Trong khi chờ đợi, chúng ta có nhiều việc phải làm để chuẩn bị cho nhân loại đón tiếp Đức Chưởng Giáo lâm phàm. Khi Ngài đến, vài người trong chúng ta còn sống và chúng ta sẽ làm việc dưới sự chỉ huy của Ngài.  Do đó, chúng ta phải có những đức tánh của nhà lãnh đạo, mà trước hết thì nhà lãnh đạo cần phải khéo léo.

Nhà Huyền Bí Học không hề bỏ dở một nhiệm vụ quan trọng nào, luôn luôn chung cuộc y sẽ thành công, mặc dù y có thể thất bại hay tạm thời rút lui. Cuộc cách mạng Pháp cho chúng ta một  bằng chứng. Những người chủ trương giải phóng cho nước Pháp  không thể kiềm chế nổi cuồng vọng của nhân dân; sự tàn sát và tội ác tràn lan. Ngôi sao lặn trong máu huyết một thời gian. Bạn đừng  tưởng rằng các Đấng Cao Cả tán đồng những hành vi phi lý, sự hăng say tàn sát, sự đê tiện và độc ác không thể tả, sự phản bội, sự  khủng bố, tóm lại là tất cả những sự ghê tởm cùng tột trong một thời kỳ khủng khiếp này. Quyền hành lọt vào tay một đám dân đen quá điên tiết bởi sự chuyên chế, áp bức đê tiện và họ tỏ ra thấp kém hơn loài thú vật. Bạn đừng bao giờ tưởng tượng rằng các Ngài đang làm việc cho nền văn minh lại tán thành sự tàn ác lạ thường đó. Tuy nhiên, về sau, các Ngài thành công do một phương sách khác. Ngày nay nước Pháp và nhiều nước khác đều có được sự hoàn toàn tự do nhờ dân tộc của họ đã tranh đấu. Tất cả những cuộc cải cách vĩ đại do các Ngài khởi xướng, tất cả những công nghiệp khác do các Ngài đảm trách đều diễn tiến như thế. Dù sự  thắng lợi không luôn luôn đến tức khắc, nhưng sau cùng tất cả đều hoàn thành.

Chính chúng ta phải thực hiện điều này; đừng bao giờ tự cho mình đã thất bại và lúc nào cũng cứ thi hành bổn phận. Nhưng  muốn có kết quả tốt, chúng ta phải đạt được nghệ thuật giúp đỡ kẻ khác một cách khéo léo. Nhiều người thật ưu tú, muốn sai khiến thiên hạ một cách nghiêm khắc, nhưng đó không phải là phương sách hay. Phải chỉ cho kẻ khác biết hạnh phúc, sự vui vẻ, sự vinh quang của tương lai của nhân loại và công nghiệp mà các Đức Thầy thực hiện; như thế, họ sẽ theo  chúng ta. Nếu bạn  không thỏa thuận với vài người thì bạn hãy tìm kiếm lỗi của bạn. Bạn đừng bận tâm về những khuyết điểm của họ, dù chúng có nhiều đi nữa, mà bạn hãy tìm nơi bạn điều gì ngăn cản không cho bạn phù hợp với họ. Xem xét khá kỹ lưỡng có lẽ bạn sẽ khám phá ra vài điểm nào đó.

 

Hãy tìm kiếm coi việc nào đáng làm và con phải nhớ rằng không nên xét đoán những sự việc theo giá trị bề ngoài của chúng. Thà làm một việc nhỏ mọn mà hữu ích liền cho công việc của Chơn Sư còn hay hơn làm một công việc lớn lao mà thế gian gọi là tốt. Chẳng phải phân biệt cái nào hữu ích với cái nào vô ích là đủ, mà còn phải biết điều nào hữu ích nhiều với điều nào hữu ích ít.

 

A. B. Như tôi đã nói, những việc nào thực sự đáng làm thường ít ai lo. Người ta lại chú ý đến những việc không ra gì. Vậy người đệ tử có bổn phận tập phân biện để khỏi mất thì giờ khi muốn làm tất cả những việc vô ích, chúng chiếm hết thì giờ của  người thế gian.

Bây giờ đến một điểm tế nhị hơn: đừng xét đoán một việc theo tính cách  trọng đại của nó. Về phương diện nhân sinh, những hành vi của nhà chính trị, có thể rất vĩ đại, nhưng theo quan điểm Đức Thầy, chúng chẳng quan trọng gì, mà chỉ là hạt bụi trên bánh xe. Một việc nhỏ mọn  kia do một kẻ vô danh thực hiện có thể vô cùng vĩ đại hơn, nếu nó hoàn thành phù hợp với công việc của Đức Thầy.

Rồi đến sự  phân biệt còn tế  nhị hơn nữa: là mức độ hữu ích. Bạn không thể làm tất cả công việc, bạn  phải hoàn thành việc nào mà theo ý bạn nó giúp ích Đức Thầy của bạn nhiều hơn hết.  Những gì giúp  ích nhân loại là phụng sự Đức Thầy, nhưng thì  giờ và năng lực của bạn có hạn, khi bạn có quyền lựa chọn thì hãy chọn việc hữu ích nhiều hơn cả. Đức Thầy đã đưa ra một gương kiểu mẫu khi Ngài nói về sự  nuôi dưỡng Linh Hồn  của con người hơn là nuôi dưỡng thân  xác. Giúp đỡ Linh Hồn tức là bạn diệt tận  gốc rễ  của mọi đau khổ ở Trần gian, vì nguồn gốc của chúng nó là sự vô minh và ích kỷ.

 

Nuôi kẻ nghèo là một việc tốt đẹp, cao quí và hữu ích. Nhưng mà nuôi linh  hồn những người đó lại còn cao quí và hữu ích hơn nữa. Người nào giàu cũng nuôi xác thân được cả, duy có người hiểu biết mới nuôi được linh hồn mà thôi.

 

C. W. L. Đôi khi người ta trách Hội Thông Thiên Học không  lo những công việc phước thiện, nhân đạo, như việc phát thực phẩm và quần áo cho người nghèo. Vài Chi Bộ của chúng ta đã hoạt động nhiều về mặt này, nhưng đó không phải là công việc  chánh của họ. Người giàu có và nhân từ nào cũng có thể bố thí, nhưng nhiều việc  chỉ có người hiểu biết mới làm được mà thôi. Có lẽ người ta sẽ cho rằng chúng ta không được khiêm tốn khi tự cho mình là "những người hiểu biết", nhưng thật ra chúng ta không hề tự hào về việc đó. Người ta cũng dễ thấy một nhóm người trung hậu, nhân từ không hề biết đến Thông Thiên Học, song trình độ trí thức của họ cao hơn phần đông chúng ta rất xa. Sở dĩ chúng ta đã nghiên cứu những vấn đề này vì nhân quả đặt để như thế; chúng ta biết nhiều hơn họ vì họ không tham cứu chúng nó sâu xa. Nhiều  người rất thông minh, có linh tính sùng đạo, nếu họ biết cách điều khiển tinh lực  như chúng ta, họ sẽ tiến bộ nhanh chóng. Rồi có lẽ họ sẽ tiến hơn chúng ta; riêng về phần chúng ta, chúng ta sẽ hoan nghinh họ, chúng ta vui mừng vì sự tiến bộ của họ, bởi vì trên Đường Đạo không hề có sự ganh tị và mỗi người đều tán thưởng sự tiến bộ của bạn mình.

Trong khi chờ đợi, những sự hiểu biết về Thông Thiên Học là  một tài năng lớn      lao để cho chúng ta biểu dương. Nếu chúng ta không truyền bá những kiến thức đó cho kẻ khác được hiểu biết, chúng ta giữ riêng để thụ hưởng tất cả; như việc giải thoát những  nỗi lo lắng, khổ đau, hiểu biết  những  vấn  đề khó khăn, thì chúng  ta lại bắt chước người đàn ông trong Thánh Kinh Cơ Đốc, y vùi  lấp tài năng y. Nhưng nếu chúng ta hết sức ban rải ánh sáng mà chúng ra đã thụ lãnh và giúp đỡ mọi người bằng tất cả những phương tiện,  như thế ít ra chúng ta mới chứng tỏ được tài năng của mình. "Người hiểu biết" có thể lấy sự hiểu biết của y để nuôi  dưỡng Linh  Hồn của những kẻ nghèo cũng như những kẻ giàu: đó là công việc thực tế, như việc nuôi dưỡng xác thân trên phương diện vật chất vậy. Đâu là nguyên nhân của tất cả những sự khốn cùng, đau khổ trên Thế gian này? Chính là sự vô minh và ích kỷ vậy. Nếu chúng ta chống lại sự vô minh và tánh ích kỷ bằng cách  trình bày cho kẻ khác hiểu biết những luật của đời sống và chỉ cho  họ thấy tại sao họ cần  phải vị tha, thì chúng ta đã làm nhiều lắm rồi, đặng bảo đảm sự tiện  nghi và hạnh phúc cho con người trên  cõi Thế gian này, dù cho trên phương diện vật chất, chúng ta không thể làm được việc đó, bằng cách phân phát lương thực cho họ. Không ai lại nghĩ rằng điều đó chẳng phải một việc tốt đẹp, cần thiết và không nên làm. Những nhu cầu hiện nay đòi hỏi  những sự cố gắng của chúng ta, nhưng mà sự  tiêu hủy hết nguyên nhân của mọi sự đau khổ còn là một công việc lớn lao hơn nữa. Chúng ta phải làm những gì mà những người chỉ giúp đồng bào họ tại cõi Trần không thể làm được.

Ở mọi thời kỳ mà sự  minh triết và sự hiểu biết có những tiếng nói về vấn  đề này, thì những người hiểu biết được miễn làm những nhiệm vụ khác để có thời giờ truyền giáo. Nếu bạn có đọc về những Công Vụ của các sứ đồ Thiên Chúa giáo bạn sẽ thấy rằng  trong nhà thờ Thiên Chúa giáo thuở xưa, tài sản đều là cộng đồng  (của chung) và trong lúc phân phối lương thực mà gặp điều khó khăn, thì các tín đồ thường xin các nhà truyền giáo giải quyết những cuộc tranh  tụng và chia phần ăn cho họ. Những vị sứ đồ trả lời rằng: "Chẳng lẽ chúng tôi bỏ lời Chúa để dọn bàn "[27], rồi các Ngài nói với các vị Cơ Đốc  khác nên chỉ định trong nhóm những  kẻ đảm nhiệm công việc đó và sự quyết định của họ sẽ  là qui luật, chớ không nên mong chờ ở những nhà sứ đồ việc lo lắng về phương diện hoàn toàn vật chất của đời sống vì sứ mạng của các  Ngài là trình bày giáo lý. Lo lắng về mặt vật chất không phải là  điều nên  xao lãng,  nhưng  mà những kẻ hữu trách có biệt tài phải  được chỉ định về công việc đó, vì họ không thể dạy dỗ được.

 

A. B. Vì là Hội viên Thông Thiên Học, chúng ta có những sự hiểu biết mà người ngoài đời không có. Vậy sự truyền bá Thông Thiên học là bổn phận duy nhất của chúng ta. Những người trong chúng ta chưa sẵn sàng làm nhiệm vụ đó như diễn thuyết, viết sách vở hoặc truyền bá giáo lý bằng những cách nào khác, thì  trong khi chuẩn bị nên làm những công việc thuộc loại khác. Đối  với  những  người không thể  truyền giáo, tôi có lập một ban Phụng Sự. Người tân Hội viên nào cũng có thể hoạt động trong đó, chỉ có  một điều cấm kỵ đối với Hội viên là sự ăn không ngồi rồi. Mọi người đều phải  tích cực  tham gia vào công việc của Đức Thầy.

 

C. W.  L. Người ta không thể tưởng tượng được có bao nhiêu người đã đến hay là đi đến gần tới mức mà họ có thể tiến bộ một cách nhanh chóng, nếu có thể giải điều đó cho họ hiểu. Tôi để ý thấy điều đó, trước hết là trong giới trẻ em, vì tôi đặc biệt chăm nom họ. Tôi thấy hầu hết trong  mọi xứ  nhiều bạn thanh niên nam nữ có thể tiến bộ khả quan về Thông Thiên Học nếu người ta giảng giải rành rẽ giáo lý cho họ hiểu. Nhưng vì không phải là trường hợp đó, họ đem hết sức mình lo lắng cho những sự hoạt động ngoài đời và trở thành những người thật nhân từ, dũng cảm thường tình. Họ có thể tiếp tục như thế trong hai, ba mươi kiếp hoặc hơn nữa, mặc  dù họ      có thể học hỏi giáo lý Thông Thiên Học và có thiện cảm với nó nếu giáo lý này được trình bày cho họ một cách rành rẽ. Đó là sự biểu hiện cái trách nhiệm nặng nề của  những người đã hiểu biết giáo lý Thông Thiên Học. Vậy chúng ta phải có khả năng và chuẩn bị để  truyền bá Thông Thiên Học, mỗi khi có cơ hội thuận tiện đưa đến. Nhiều người có thể bắt đầu mở mang sự học hỏi Thông Thiên Học ngay bây giờ cũng như trong hai mươi kiếp tới. Đành rằng, đó cũng là vấn đề Nhân Quả của họ,  nhưng chính Nhân quả của chúng ta là tạo ra một cơ hội để trình bày giáo lý Thông Thiên Học cho họ, còn họ có chấp nhận hay không là việc riêng của họ. Ngày nào mà chúng ta chưa làm hết sức mình thì ngày đó chúng ta không thể biết được Nhân Quả của họ có cho phép họ được trợ giúp hay không.

 

Nếu con hiểu biết rồi, thì bổn phận của con là phải giúp kẻ khác giác ngộ. Nhưng dù con có khôn ngoan thế mấy đi nữa, con cũng còn nhiều điều phải học hỏi trên Đường Đạo. Ở đây cũng còn thiếu chi điều con phải học hỏi. Vậy con hãy phân  biện và chọn lựa thật kỹ càng cái nào đáng ra công học hỏi. Sự  hiểu biết nào cũng hữu ích và một ngày kia con sẽ hiểu biết tất cả. Mà khi nào con biết được có một phần thì con phải giữ gìn sao cho phần đó hữu ích hơn hết. Đức Thượng Đế vốn minh triết và Ngài cũng rất từ bi; hễ con được minh triết nhiều chừng nào thì  do con, Ngài càng dễ biểu hiện nhiều chứng nấy. Vậy thì  con phải học hỏi, nhưng trước hết con nên học hỏi điều nào giúp con hữu ích cho thiên hạ nhiều hơn hết.

 

C. W. L. Ở đây Đức Thầy khuyên nên học hỏi, nhưng Ngài nói với đệ tử Ngài phải biết chọn lựa điều nào giúp mình đặng mình giúp đỡ lại kẻ khác. Tôi tưởng lời khuyên này có nghĩa là trước nhất phải cố gắng hiểu Thông Thiên Học cho thấu đáo, ngoài ra còn phải có kiến thức và giáo dục hiện đại của con người trí thức. Tôi biết trong Hội Thông Thiên Học có nhiều Hội viên không có học thức vì nhiều lý do khác nhau, nhưng họ rất đúng đắn và rất tận tâm. Họ nói rằng: "Tại sao chúng ta phải chịu những sự phiền toái của giáo dục? Chúng ta muốn đi đến chỗ thâm sâu của Chân lý này và trình bày rành rẽ chúng  nó ". Đúng thế, nhưng mà những người thiếu giáo dục chắc chắn sẽ trình bày giáo lý ấy dưới một hình thức không phù hợp với những người có giáo dục và có kiến thức về văn hóa, nên làm cho họ dang ra xa chúng ta và tránh xa  chúng ta. Tôi nghe nói rằng một người có trực giác đứng trước một vấn đề trình bày vụng về, y sẽ vượt qua hình thức để nhận lấy Chân lý ẩn tàng bên trong. Nhưng rủi thay! Không phải mọi người đều có trực giác và chúng  ta không  có quyền nhượng bộ tánh lười biếng của chúng ta để tạo thêm một chướng ngại cho người nào có  thể ưa thích vấn đề đó: chúng ta có bổn  phận phải trình bày Chân lý hết sức rành mạch.

 

Con phải kiên tâm chăm chú vào sự học hỏi của con, không phải để cho kẻ khác tưởng là con khôn ngoan, mà cũng không phải cốt để hưởng hạnh phúc của sự khôn ngoan, nhưng chỉ vì người khôn ngoan mới có thể giúp đời một cách khôn khéo. Dù con có chí lớn muốn giúp đỡ thế mấy đi nữa, nếu con dốt nát thì chắc là con làm hại đời nhiều hơn là làm lợi.

 

A. B. Đó là lời khuyên bảo đặc biệt đối với các Hội viên còn  trẻ của chúng ta. Tôi thường gặp nhiều học sinh Trung Học trẻ tuổi khi tiếp thu được tinh thần mới thì tỏ ra tha thiết muốn giúp đời và lắm khi muốn thôi học. Họ hỏi: "Sự học này có ích gì cho chúng tôi”? Trong những trường hợp như thế tôi luôn luôn cho lời khuyên này: "Em nên tiếp tục học hành, và thành một người trí thức. Có thể trong những môn học của em có nhiều thứ không quan trọng mấy, nhưng sự đào luyện trí tuệ là công việc cực kỳ quan trọng. Đó là điều lợi ích của việc học hành của em, nó sẽ làm cho Cái Trí em biết suy luận hợp lý và xác đáng. Nếu em không tự khép mình vào kỷ luật tinh thần đó, sau này công việc của em sẽ bị trở ngại ".

Chỉ biết giáo lý Thông Thiên  Học thôi thì chưa đủ đâu. Nếu bạn muốn giúp người khác hiểu biết, bạn phải rèn luyện trí tuệ để có thể trình bày những Chân lý đó một cách đúng đắn. Cách trình bày vấn đề của một người phản ảnh ngay sự thiếu giáo dục của y. Trong những môn của tôi học hỏi trước kia, chỉ có môn khoa học làm cho tôi đẹp ý hơn hết. Trước hết nó đã giúp tôi trình bày mọi vấn đề một cách có mạch lạc và hợp lý khiến cho những thính giả có học thức và có giáo dục chịu nghe tôi. Kế đó nó đã cung cấp cho tôi nhiều tỷ dụ làm cho thính giả có cảm tưởng tốt, bởi vì chúng được trích ra từ những đề tài rất dễ tìm bằng chứng.

Những bậc niên trưởng trong chúng ta có thể giúp rất nhiều các bạn trẻ tiếp xúc với Ngài; tránh việc làm nguội lạnh  lòng nhiệt thành của họ, các Ngài giải thích một cách khôn khéo và tử tế sự quan trọng của việc đạt cho được cái điều  Thế gian  gọi là sự giáo dục. Khi hoạch đắc được những Chân lý cao siêu thì người ta có hơi xem thường những sự học hỏi ở bậc thấp này. Vì vậy cho nên Đức Thầy mới nói với người đệ tử trẻ tuổi và việc mở mang trí thức  còn lâu lắm mới được hoàn toàn như sau: "Con phải kiên tâm  chăm chú vào sự học hỏi của con ".

 

C. W. L. Lịch sử đã chứng thật cả trăm lần rằng lời khuyên này là đúng. Nhiều người tử tế, có rất nhiều hảo ý lại phạm những lỗi lầm rất đau thương, khiến cho hành vi của họ, dù cho lý do nào, cũng gây ra những tai hại nhiều hơn một sự tấn công ở bên ngoài. Công việc của Thông Thiên  Học lắm khi bị tổn thương vì những sự trình bày sai lạc và cẩu thả. Chúng ta không muốn cho thiên hạ nói xấu Thông Thiên Học vì những lỗi lầm hoặc những khuyết điểm riêng của chúng ta. Nếu người ta giao cho bạn một công việc nào của Hội mà bạn tỏ ra bất tài, làm không xong thì hãy làm lại và cố gắng hoàn thành công việc ấy. Người  ta bảo bạn đọc một bài chăng, nếu bạn tỏ ra bất lực, thì hãy tập đọc cho suôn  sẻ. Nếu bạn không biết viết một bài diễn văn thì chẳng bao lâu bạn sẽ thành công khi bạn có đầy đủ kiến thức và chịu khó sắp đặt  đề tài. Trong mọi trường hợp bạn cũng  nên chọn  một công việc và cố gắng làm cho xong xuôi. Vì  là nhà Thông Thiên Học, chúng ta  có bổn  phận phải biết văn phạm và biết cách  nói cho đúng mẹo luật, như vậy chúng ta mới có thể trình bày Chân lý này một cách hấp dẫn cho những người mà chúng ta muốn giúp đỡ. Tất cả những Chân lý dù là Chân lý cao siêu nhất, cũng có thể bị lu mờ bởi một lối trình bày vụng về và sai lệch. Về phương diện này, chúng ta có bổn phận phải làm hết sức mình. Sự giáo dục rất cần  thiết cho chúng ta nếu chúng ta muốn trình bày những Chân lý này đúng với bản tính của chúng.

 

CHƯƠNG THỨ MƯỜI MỘT

    Y

 PHẢI TUYỆT ĐỐI CHÂN THẬT

 

Phải biết phân biện điều chơn với điều giả, phải tập sao cho hết sức đúng đắn trong tư tưởng, trong lời nói và trong việc làm.

 

A. B. Chúng ta có thể tự hỏi, nếu chúng ta không noi theo tư  tưởng của Đức Thầy, cũng như lời nói của Ngài, thì tại sao ở đây lại có lời khuyên bảo này. Sự phân biệt giữa điều chơn và điều giả chẳng phải đến đầu tiên hay sao? Nếu Đức Thầy chỉ đề cập đến điều đó ở đây mà thôi là chính vì việc đạt được sự ngay thật hoàn toàn rất khó. Ngài nói phải tuyệt đối ngay thật và rất khó mà ngay thật hoàn toàn trong tư tưởng, trong lời nói và trong việc làm. Như bạn đã chú ý đến điều này, chính là tư tưởng được kể trước nhất; theo thứ tự Huyền Bí Học, thì tư tưởng đứng đầu, rồi mới đến lời nói và việc làm. Đức Thế Tôn, Đức Phật của chúng ta cũng theo thứ tự đó, khi Ngài nói: Chánh tư duy, chánh ngữ và chánh nghiệp.

 

Trước nhất là trong tư tưởng. Việc này không phải dễ, vì trong đời có biết bao nhiêu tư tưởng lầm lạc, có biết bao nhiêu sự dị đoan phi lý, hễ người nào để cho chúng chi phối thì không bao giờ tiến bộ được.

 

C. W. L. Chúng ta tưởng rằng trong Thông Thiên Học; chúng ta đã xóa bỏ hẳn được sự dị đoan. Tôi không dám chắc là luôn luôn đúng như thế. Tôi thấy hình như một sự dị đoan về Thông Thiên Học vẫn có thể phát sinh. Ai tin một điều nào đó "bởi vì nó ở trong Thánh Kinh Cơ Đốc (Bible)" chắc chắn là y mê tín, vì sự tin tưởng của y không có một nền tảng thích đáng. Mà khi nói rằng: "Chính Bà Blavatsky đã nói như  thế" hoặc "Cái đó có ghi trong Bộ Giáo Lý Bí Truyền", thì cũng không thoát khỏi sự mê tín. Nhưng có một sự khác biệt, bởi vì chúng ta có nhiều bằng cớ về sự hiểu biết của Bà Blavatsky do Bà thốt ra hơn là sự hiểu biết của Thánh Paul hoặc những tác giả xưa chẳng hạn. Nhưng đây không phải là vấn đề do Bà Blavatsky nói hay do Ông Saint Jacque hoặc Ông Saint Pierre nói. Chúng ta phải hiểu một tư tưởng, rồi tự đồng hóa với nó, vươn lên tới nó và để cho nó nẩy nở trong lòng chúng ta. Ngày  nào chúng ta còn đọc suôn như con két, thì ngày đó những ý niệm này là những sự dị đoan  vậy. Tin tưởng vào một Chân lý có thể là một sự dị đoan, nếu sự tin tưởng đó không có một nền tảng đúng đắn cũng như căn cứ vào lời quả quyết của tác giả này hay tác giả nọ. Khi ý niệm đã thắm nhuần trong tâm trí của chúng ta rồi, chúng ta có thể nói được rằng: "Nó là thành phần của tôi; nó thuộc về tôi; tôi biết tại sao tôi tin; do đó sự tin tưởng của tôi sáng suốt chớ không phải là điều dị đoan ". Tôi e rằng, có nhiều sự tin tưởng không khôn ngoan về Chân lý trong nhiều trường hợp.

 

A. B. Rất khó cho con người thoát hẳn sự dị đoan và không còn lấy sự phụ thuộc làm điều chính yếu nữa (như thế cũng là sự  dị đoan). Trước khi được Điểm Đạo lần thứ Nhứt, con người chưa ắt bỏ được hẳn thói dị đoan. Điều này chứng tỏ rằng sự dị đoan là  một ý kiến sâu xa và tế nhị đã thắm nhuần trọn vẹn bản tánh con  người. Đức Thầy nói: "Ai để cho thói dị đoan chi phối thì không  thể tiến hoá được". Lời tuyên bố thật rõ ràng, nhưng chúng ta hãy lưu ý đến chữ "chi phối". Đức Thầy không nói một người dị đoan  ít hoặc nhiều không thể tiến hóa được, mà Ngài nói kẻ nào bị sự dị đoan chi phối mới không thể tiến hóa được. Không có chi lôi kéo con người lại đàng sau như thói dị đoan. Chúng ta biết có lắm người tử  tế, mộ đạo, nhơn từ, sống một cuộc đời gương mẫu cho sự  tốt lành và đúng đắn thận trọng nhưng họ lại là những người mê tín. Họ chỉ cho những lễ bái, những nghi thức cùng cách hành  động  của họ là quan trọng, trong khi tất cả các thứ này không có gì là thiết yếu cả.

Ta hãy lấy việc làm nhằm trợ  giúp những người quá vãng làm thí dụ. Những người Công Giáo La Mã làm lễ cầu hồn; cũng ý  nghĩa đó, người Ấn Độ lại làm lễ Shraddha; mục đích của cả hai là muốn giúp người quá vãng. Hai cách hành lễ đều công hiệu dù dưới hình thức rất khác nhau. Tuy nhiên, người Ấn Độ cũng như người Công Giáo, nếu bị lệ thuộc  những hình thức này thì họ sẽ là người mê tín dị đoan. Ý muốn tốt đẹp và sự trang nghiêm cùng lòng thương mến người quá vãng mà cả hai biểu lộ trong việc hành lễ, đó là điều qui định cái kết quả. Ý muốn tốt đẹp là căn bản,  nhưng tính cách đặc biệt của hình thức bên ngoài là điều phụ thuộc, hình thức phản ảnh ý muốn bên trong có tính cách địa phương và không quan hệ gì. Hình  thức bên ngoài tùy thuộc sinh quán của bạn, bởi vì bạn sinh vào một Tôn giáo nào, một chủng tộc nào hay một nơi đặc biệt nào đó. Bạn phải thoát ra khỏi tất cả những sự mê tín trong các nghi thức, trong các việc lễ bái, cũng như trong sự công hiệu của những hình thức thuần túy bên ngoài. Trong một thời gian rất lâu, sự tín ngưỡng đó đã tỏ ra rất quan trọng và có ích lợi thiết thực. Chỉ có nó mới diệt trừ được sự uể oải, tính cẩu thả và lãnh đạm ở con người thôi. Những hình thức bên ngoài này chỉ là những chiếc nạng cần thiết cho những người còn chưa bước đi một mình được. Khi bạn có thể không cần những nạng này nữa, thì bạn hãy dẹp chúng nó qua một bên.

 

Bởi vậy con chớ cho một ý kiến nào là đúng đắn chỉ vì nhiều người đã cho nó là dúng đắn hay là tại thiên hạ đã xét đoán nó trong nhiều thế kỷ rồi, hoặc là thấy nó trong một cuốn sách mà người ta gọi là sách thánh, con phải dùng sự xét đoán riêng của con và con phải xem coi ý kiến đó có hữu lý hay không?

 

C. W. L. Những lời này của Đức Thầy Kouthoumi. Cách đây hai ngàn năm trăm năm chúng nó vốn lời của Đức Phật Cồ Đàm,  khi người ta hỏi Ngài: "Bạch Phật, có biết bao nhiêu vị Giáo Chủ, biết bao nhiêu giáo lý đã trình bày cho chúng tôi! Tất cả dường  như tốt đẹp hết, làm sao biết được cái nào hay nhất? Làm sao chọn lựa"? Kinh Kalama Soutta de l'Angouttara Nikaya có chép câu trả lời của Phật như sau:

Đức Phật nói: "Không nên tin một điều nào chỉ vì nó được xác  nhận suông. Đừng tin những tập tục, vì lẽ chúng nó từ ngàn xưa truyền lại cho chúng ta. Đừng tin những lời đồn đãi. Đừng tin sách vở của các  vị Thánh Hiền bởi vì lẽ các Ngài là tác giả mấy quyển đó. Đừng tin những sự tưởng tượng mà chúng ta cho rằng do một vị Thần minh đã giác ngộ chúng ta (nghĩa là phỏng đoán một sự linh cảm). Cũng đừng tin những kết luận do chúng ta bất ngờ giả định. Đừng tin cái gì do một sự cần thiết tương tợ bề ngoài. Đừng tin chỉ vì sự uy tín suông của các vị Huấn Sư hoặc Tôn Sư của chúng ta. Nhưng chúng ta phải tin, khi sách vở, giáo lý hay châm ngôn được lý trí và lương tâm của chúng ta xác nhận". Đức Phật kết luận : Bởi vì  chính đó là điều ta dạy các con . Các con chớ nên tin điều chi chỉ vì các con đã nghe nói suông. Nhưng nếu đức tin của các con căn cứ trên sự tin chắc riêng của các con thì các con hãy hành động và hãy cố gắng hết sức " [28].

 

Một trong những việc thực tập mà Đức Thầy bắt buộc các đệ tử của Ngài phải làm là tìm xem điều gì họ thật biết và điều gì mà họ chỉ tin theo thôi. Một việc làm rất tốt là ghi chú phần kiến thức nào chúng ta được phép nói rằng nó thuộc về quyền sở  hữu thật sự của chúng ta, còn phần nào thuộc về chúng ta chỉ vì chúng ta đã hoàn toàn thấu  hiểu và công nhận nó, cuối cùng phần nào mà chúng ta đã thu lãnh của kẻ khác, gần như không kịp suy nghĩ. Con người luôn  luôn sinh ra trong một Tôn Giáo cũng như họ sinh ra trong một xứ sở nào đó. Đối với nhiều phong tục thì qui tắc vẫn giống in nhau. Chẳng hạn như muốn ăn cơm tối trong thành phố thì phải ăn mặc một cách đặc biệt. Đó là một tập quán và không ai muốn vi phạm đến một vấn đề không quan trọng gì, mà trong đó cũng không có việc liên quan đến sự lành hay dữ.

 

A. B. Đây là một việc thực tập rất hữu ích cho bạn, nếu thỉnh thoảng  bạn  quan  sát nội dung Cái Trí và trước hết ghi chú coi tất cả những điều mà bạn tin, vì lẽ nhiều người đã tin như vậy; hai là, tất cả những điều bạn tin vì lẽ chúng là những tín ngưỡng thuở xưa; ba là, tất cả những điều bạn tin, vì lẽ chúng được ghi chép trong Thánh kinh. Sau khi loại trừ ba loại này ra rồi, bạn hãy ghi nhận cái nào còn lại. Như thế bạn sẽ nhận thấy thật sự những tín ngưỡng của bạn căn cứ trên nền tảng nào? Chính đây là một trong những thắng lợi, đã trải qua trong giai đoạn tự do tư tưởng như tôi đã thực hiện điều đó. Phải có kinh nghiệm rồi mới thật hiểu thế  nào là hy sinh tín ngưỡng đạo đức mà từ  trước đến giờ mình đã cho là chân thật; thế nào là sự đổ vỡ cuối cùng, khi mà miếng đất dưới chân chúng ta sụp mất. Tôi suýt chết vì việc đó; thân thể tôi đã rũ  liệt trong nhiều tuần. Nhưng sau khi đã kinh nghiệm triệt để như thế rồi, thì không cần một kinh nghiệm nào khác nữa. Do đó, khi  tôi học  hỏi giáo  lý Thông Thiên Học, mặc dù  trong thâm tâm tôi, tôi tuyệt đối tin chắc đi nữa, tôi cũng phải bắt Cái Trí tôi thí nghiệm lại tất cả những ý niệm mới mẻ này.

 

Con hãy nhớ rằng dù cho cả ngàn người đồng tán thành một vấn đề nào đi nữa, nhưng nếu họ không biết chút gì trong đó cả, thì ý kiến của họ vẫn vô giá trị.

 

C. W. L. Đây là điều mà thế giới hiện tại khó lòng hiểu được. Hiện giờ người ta tưởng rằng cứ tích lũy sự dốt nát thì cuối cùng sự hiểu biết sẽ nảy sanh ra. Nghĩ như thế là sai lầm vậy. Những kẻ dốt nát phải nhờ người hiểu biết dắt dẫn.

 

A. B. Về vài phương diện, một số sách vở lớn lao của chúng ta là một điều bất tiện, tệ hại. Nó khuyến khích chúng ta đọc không suy nghĩ, khiến cho Cái Trí trở nên nông cạn và hay thay đổi. Do đó luôn luôn tôi khuyên người ta nên đọc ít rồi mô phỏng lại đoạn đã đọc, chẳng phải bằng trí nhớ, nhưng bằng sự hiểu biết hoàn toàn vấn đề. Điều gì đã thuộc về bạn khi nào nó đã được Cái Trí của bạn đồng hóa. Muốn được như thế, bạn phải suy nghĩ và hiểu biết tường tận những gì bạn đã đọc hoặc nghe. Không vậy, bạn càng  đọc nhiều chừng nào thì bạn càng trở nên dị đoan nhiều chừng nấy. Bạn cứ thêm những tín ngưỡng mới vào những tín ngưỡng cũ của bạn mà không có cái nào được căn cứ trên một nền  tảng vững chắc.

Tôi có một người giúp việc rất dở về kế toán. Mỗi lần y tính lộn, y bắt đầu  làm lại một cuốn sổ mới với hy vọng sắp đặt lại cho có thứ tự.  Hiện nay cũng thế, nhiều người luôn luôn đòi hỏi sự mới lạ vì những sự hiểu biết nông cạn mà họ đã thu thập không làm cho họ thực sự thỏa mãn. Những người trong nhóm hội viên chúng ta đi đâu cũng lấy những tác phẩm của Đức Giám Mục Leadbeater hoặc của tôi làm dẫn chứng cũng là những người mê tín dị đoan vậy. Những sự kiện họ kể ra có thể rất đúng, nhưng chúng không đúng đối với họ, vì nếu họ thật hiểu chúng, họ không cần  dựa vào uy tín của chúng tôi. Nếu họ muốn lấy chúng tôi làm dẫn chứng, thì họ phải xem lời nói của chúng tôi như là những ý kiến cá nhân và không nên tìm cách ép buộc ai nghe theo cả. Trên đời chỉ có một uy quyền mà thôi : Đó  là sự Minh Triết.

 

Người nào muốn đi trên Đường Đạo thì phải tập tự mình tư tưởng, vì thói dị đoan là một trong những tai hại lớn nhất trên thế gian. Một trong những chướng ngại phải hoàn toàn diệt trừ mới được.

 

C. W. L. Sự  dị đoan là một sức mạnh lớn lao và tế nhị. Nó  hiển nhiên là chướng ngại thứ ba trên Đường Đạo mà con người cần phải dứt bỏ, sau khi đã được Điểm Đạo lần thứ Nhứt; tiếng Nam Phạn (Pali) gọi nó là Silabbataparamasa, nghĩa là: "Đức tin căn cứ vào sự công hiệu của nghi thức hay là lễ bái bất cứ loại nào ".

 

Điều nào con tưởng cho thiên hạ cũng phải thật đúng. Con không nên tưởng cho kẻ khác điều nào mà con không biết rằng  quả có thật như vậy.

 

C. W. L. Nếu điều của chúng ta nghĩ về kẻ khác chỉ là giả tưởng (ức đoán) thì chắc chắn tư tưởng của chúng ta bất cứ về phương diện nào cũng là lý luận thuần túy. Thật ra, chúng ta biết rất  ít về những người ở gần mình nhất, và chúng ta còn biết ít hơn về những người mà chúng ta gặp gỡ một cách ngẫu nhiên; nhưng người ta không ngớt ngồi lê đôi mách, lắm chuyện lắm lời vô ích về  những  hành động, những lời nói và những tư tưởng của thiên hạ. May thay, một phần lớn những điều này vẫn hoàn toàn sai lạc.

 

A. B. Những dư luận về kẻ khác thường sai lầm. Chúng ta chỉ có thể phán đoán chính xác về một người nào khi chúng ta thật biết y, thấy và hiểu được tư tưởng của y. Phần đông người đời  chưa đạt được trình độ hiểu biết đó. Tuy nhiên, ý kiến của họ về  mấy kẻ khác đã quyết định rồi. Luôn luôn họ xét đoán mấy người này và không biểu lộ trong tư  tưởng một chút nhân từ nào cả.

Sau đó một chút, Đức Thầy có nói rằng: "Con đừng bao giờ cho kẻ khác có ý muốn này hay ý muốn nọ". Lời khuyên này hết  sức quan trọng, nếu nó được người đời tuân theo, thì phân nửa sự thống khổ của Trần gian sẽ bị tiêu diệt. Nếu có ai làm một việc  mà bạn không hiểu được, bạn hãy để cho y làm, đừng bịa ra những lý do. Lý do hành động của y, tất nhiên bạn không hiểu được, nhưng bạn  lại tìm một lý do, thường thường thì không mấy tốt đẹp rồi bạn kết nó vào sự hành động, và sau cùng bạn khiển trách kẻ khác về  cái điều mà chính là bạn đã tưởng và đã làm ra. Khi qui  cho kẻ khác những lý do như thế, con người tăng cường mãnh lực  xấu có thể đang hoạt động trong trí của kẻ bị chỉ trích, hoặc nếu kẻ ấy chưa có mầm xấu thì họ lại làm cho nó nảy sinh. Đấng Christ có  nói: "Chớ khá đương đầu với kẻ hung ác "[29]. Lời này có thể đem áp dụng cho trường hợp kể ra đây. Không phải bổn phận của chúng ta là tìm điều xấu trong Trí Thiên Hạ để diệt trừ; hãy cô lập sự xấu. Nó sẽ tự tiêu hủy.

 

Con đừng tư tưởng rằng thiên hạ hằng nghĩ đến con luôn luôn.

 

C. W. L. Điều này xảy ra mãi mãi: tất cả những gì của kẻ khác làm hay nói, chúng ta cũng đều cho rằng liên hệ đến chúng  ta cả. Bởi chúng ta luôn luôn nghĩ đến mình nên chúng ta tưởng tượng rằng kẻ khác cũng phải nghĩ đến chúng ta. Nếu chúng ta luôn luôn nghĩ đến mình, thì muốn cho hợp lý, chúng ta phải tưởng rằng kẻ khác cũng luôn luôn nghĩ đến chính mình họ vậy, chớ không phải nghĩ đến chúng ta. Con người tự đặt mình vào trung tâm của cái vòng tròn của họ, mọi tư tưởng, mọi cảm xúc của họ đều quay cuồng theo vòng tròn và họ xét đoán mọi sự theo phản ứng của chúng đối với họ. Họ cứ chạy theo vòng tròn chung quanh họ. Nhưng không phải như thế đâu. Mỗi người tự nhốt mình trong vòng tròn của mình - chắc chắn vòng tròn này cũng lẩn  quẩn như những vòng tròn khác. Trong chín phần mười những trường hợp mà con người bất bình về hành vi và lời nói của kẻ khác có lẽ đều phát sinh từ  ý niệm này.

 

Nếu một người kia làm  điều gì mà con tưởng là có hại  cho con, hay là nói một chuyện nào dường như có can hệ tới con, thì con chớ vội nghi rằng: "Người đó có ý nhục mạ tôi ". Có lẽ đúng hơn, là người đó không nghĩ đến con chút nào, vì mỗi linh hồn đều có những việc lo lắng riêng, và thường thường chỉ lo cho một mình mình thôi. Nếu có người nào nói với con giọng quạu quọ, thì con chớ tự nói rằng: "Người đó ghét tôi và muốn nhục mạ tôi ". Có lẽ vì một người nào hay một việc chi đó làm cho y giận và bởi y gặp con, nên y mắng con xối xả cho đã nư giận. Người đó làm chuyện điên cuồng, vì sự giận hờn nào cũng là sự điên cuồng cả, nhưng không phải vì lẽ đó mà con nghĩ quấy  cho  y.

 

C. W. L. Chính đó là lẽ phải, nhưng rất ít người thực hành! Khi tôi còn là Mục Sư của Giáo Hội Anh Cát Lợi, có lần tôi thuyết về sự thử lòng hay sự cám dỗ mà tôi nghĩ rằng có thể xảy ra cho những tín đồ nông dân hay thợ thuyền, họ là những con chiên của tôi. Tôi trình bày tại sao phương thức hành động nào có thể đem đến vài hậu quả tai hại. Sau lời thuyết pháp, một người nông dân giận dữ đã xông vào Thánh Đường và hỏi tôi vì cớ gì tôi đưa y ra làm đối tượng cho bài thuyết giáo của tôi. Thật thế, kẻ bất hạnh tự bộc lộ tâm trạng của y tức khắc. Tôi không bao giờ ngờ y có thể phạm phải hành vi đặc biệt này, nhưng hiển nhiên, nó là một mối ưu tư mà sự quan sát của tôi đã chạm vào đó. Đến nay tôi vẫn còn tin rằng người ấy quả quyết rằng tôi nhận rõ y trong đám thính giả và đưa y ra làm đề tài cho bài thuyết giảng của tôi.   Trong sự sống chung đông đúc này, không thể tránh khỏi được những sự đụng chạm đến một mức độ nào đó. Cho mấy điều này  là quan hệ hay là trọng đại, thật vô  ích. Khi đi đường trong một đô  thị lớn, chúng ta thấy hàng ngàn người đều bận rộn công việc riêng của họ; họ đi đường họ, không nghĩ gì đến kẻ khác đang qua lại. Đôi khi không thể tránh khỏi sự  xô lấn, nhưng không ai tưởng rằng mình bị xúc phạm nên nổi nóng, vì thái độ đó thật buồn cười. Trên phương diện lý trí và tình cảm cũng xảy ra những sự đụng chạm như thế. Trong những đám đông đều luôn luôn có sự va chạm về mặt lý trí và tình  cảm. Chúng ta hãy xem những sự việc này giống như điều mới nói ra đây, tức là hiểu rằng kẻ đã giẫm chân trên Thể Trí của chúng ta không hề cố ý chút nào, và y chỉ đi theo con  đường của y chớ không nghĩ đến chúng ta.

Chúng ta đừng quan trọng hóa những sự đụng chạm nhỏ nhen đó, cũng như những sự xô lấn hằng ngày ngoài đường phố.

Khi chúng ta để ý đến  cách của kẻ khác chăm chú vào những quyền lợi của họ, chúng ta cũng có bổn phận coi chừng, đừng cho chúng ta say mê những quyền lợi của chúng ta cho đến đỗi chúng ta quên những cử chỉ lễ độ, nhã nhặn để làm cho đời thêm tươi đẹp.

Người Thông  Thiên  Học  phải  khác  hơn người thường bởi sự lễ độ cũng như sự an tịnh và bình thản luôn luôn. Các bạn hãy ở cho dễ thương, hãy kiên nhẫn. Người ta rất vội vàng mà người ta cũng không thiếu thì giờ để tỏ ra mình là người tử tế và có tình  huynh đệ. Chớ để cho những triều lưu nóng giận lôi cuốn chúng ta do những dây thần kinh quá căng thẳng và thường xảy ra trong thời  buổi xáo trộn của chúng ta.

 

A. B. Lời khuyên của Đức Thầy ở đây thật rất sáng suốt, khôn khéo. Chớ nên nghĩ rằng mọi người đều nhớ đến bạn vì lẽ  bạn vẫn nhớ đến họ. Mấy kẻ khác cũng nhớ đến  họ chớ không hề nhớ đến bạn đâu. Họ lo lắng công việc riêng của họ cũng như bạn lo lắng công việc riêng của bạn. Nhiều nước sẽ được hạnh phúc hơn nếu người ta chịu chấp nhận và đem thực hành ý niệm này. Nếu một người kia chạm phải bạn trong  cuộc sống náo nhiệt và xáo trộn này, thì bạn chớ tưởng rằng y tìm cách hại bạn, hoặc có    ý gì đối với bạn. Trừ ra khi nào bạn chắc chắn rằng người ta muốn hại bạn, thì tốt hơn bạn nên nghĩ trái ngược lại là không có điều đó.

Một người nói với bạn giọng giận dữ, nếu lúc đó bạn nhớ đến điều cần thiết là đừng gán cho y thái độ thù nghịch và đừng nổi nóng như y, thì bạn sẽ tiến nhanh trong vấn đề tự chủ. Thường thường sau cơn giận người ta mới nhớ. Một người đã tự chủ hoàn toàn, thì cho đến chút tình cảm nóng giận cũng không nảy sinh ra nữa. Dầu thừa nhận rằng kẻ đối thoại với bạn sai quấy, lỗi ấy chỉ do sự yếu đuối mà ra, kẻ chí nguyện làm người Huyền Bí Học chớ nên quên bổn phận mình phải nhân từ trước sự yếu đuối của kẻ khác. Ta nên nhớ  rằng cử chỉ giận dữ hay câu trả lời cộc cằn và gay gắt của một người nào thường là dấu  hiệu bộ thần kinh của y bị căng thẳng quá độ bởi sự xao xuyến, lo âu ; y quá yếu đuối nên không thể chịu nổi một sự  cố gắng mà không tỏ ra phản ứng gì. Thần kinh của y căng thẳng cực độ; đó là lý do khiến y hành động như thế.

Theo lời Đức Thầy, người ấy hành động điên cuồng. Quả đúng như thế, nhưng chúng ta hãy khoan thứ cho y. Chính vì thế đa số những sự khó khăn nhỏ mọn nảy sinh. Một sự căng thẳng khó chịu  khiến cho chúng ta nổi nóng trước hầu hết mọi việc. Bạn hãy nghĩ  đến bao nỗi bận tâm đang chi phối Thế gian, lo lắng về mọi thứ quấy nhiễu và hành hạ con người. Đành rằng chúng ta không biết được những nỗi khó nhọc của những kẻ sống chung quanh ta, vì không người khôn ngoan nào lại thuật  cho bất cứ ai biết những nỗi khó khăn  của mình. Cái tư cách tầm thường cũng không cho phép người ta làm như thế. Nhưng nếu chúng ta nhớ đến những nỗi khó khăn này và quan tâm đến chúng thì chúng ta sẽ đạt được sự yên  tĩnh hoàn toàn, nó là mục tiêu của Đức Thầy trong những bài này.

 

Chừng con làm đệ tử Chơn Sư rồi, con có thể thấy được tư tưởng của con đúng đắn hay không, khi con so sánh nó với tư  tưởng của Ngài. Bởi vì Thầy với trò vốn là một và trò chỉ cần đem tư tưởng của y kề với tư tưởng của Thầy, thì y sẽ thấy hai tư tưởng có phù hợp với nhau hay không. Nếu như không thì tư tưởng của trò đã sai lầm và y phải lập tức sửa đổi vì tư tưởng của Chơn Sư vốn trọn lành, bởi  Ngài thông hiểu hết mọi việc.

 

A. B. Một đệ tử  chánh thức luôn luôn có thể xác định giá trị của tư tưởng  của y, khi y đặt nó cạnh tư tưởng của Đức Thầy. Nếu y cảm thấy một sự rung động không điều hòa, thì y biết rằng tư tưởng của y chẳng có giá trị gì cả. Nếu lấy một sự tương tợ ở cõi Trần mà nói, thì đó cũng như là một cung đàn lỗi nhịp. Người đệ tử không cần làm cho Đức Thầy chú ý đến mình. Y chỉ để tư tưởng của y bên cạnh tư tưởng của Ngài. Nếu y thấy có dấu hiệu sai lệch thì y liền vứt bỏ tư  tưởng của y và tức khắc cố gắng lập lại sự hòa hợp giữa tư tưởng của y với tư tưởng của Đức Thầy. Người đệ tử không lý luận, không tìm cách cho rằng dù sao có lẽ tư tưởng của mình cũng đúng; vì nếu nó sai quấy, thì sự sai lầm hiện ra tức khắc. Trước  khi được  Đức Thầy thâu nhận làm Đệ Tử Chánh Thức thì  không thể hành  động như  thế được, và đối với nhiều người chí nguyện thì điều này là một sự khó khăn. Bởi Tâm Thức của đệ tử phải hòa hợp làm một với Tâm Thức của Đức Thầy, cho nên Ngài không nhận một người nào mà tư tưởng của y buộc Ngài phải làm một tấm vách để ngăn nó với tư tưởng của Ngài.

 

C. W. L. Người ta nói rằng người đệ tử làm một với Đức Thầy. Điều này đúng trong một ý nghĩa mà chỉ có Đức Thầy mới hiểu trọn vẹn. Người đệ tử cũng hiểu như  thế, song y chỉ hiểu một cách bất toàn. Phải giao tiếp đặc biệt với Đức Thầy, như thế mới hiểu  được sự hiệp nhất này mãnh liệt là dường nào. Người đệ tử  phải trở  thành một tiền đồn của Tâm Thức của Đức Thầy. Y liên  hệ với Ngài cũng gần giống như Phàm Nhơn thuộc về Chơn Nhơn. Chơn Nhơn cho một phần nhỏ của mình (danh từ phân thân không đúng lắm, nhưng nó còn đúng hơn chữ phản ảnh) xuống mấy cõi dưới, sống theo những điều kiện đặc biệt ở đó, nơi mà ba thể: Xác, Vía, Trí tốt hơn hết của con người chỉ biểu lộ được Chơn Nhơn một cách  thật hết sức bất toàn . .  Điều này sẽ phấn khích chúng ta, mỗi khi chúng ta cảm thấy mình  nản chí trước tất cả những sự yếu  đuối của chúng ta tại cõi Trần. Người ta có thể  tự  nói: "Dù trong trường hợp nào, Chơn Nhơn cũng cao cả hơn mấy điều đó. Vậy tôi không có lý do gì để thất vọng. Tôi chỉ cần tăng thêm một chút sức mạnh của tôi trong sự hiểu biết thấp thỏi này để biểu lộ bản tánh thật sự của tôi ở cõi trên một cách tinh túy hơn; thế là những tật xấu của tôi sẽ giảm dần".

Cũng thế, người đệ tử không những là đại diện của Đức Thầy, mà còn quả là Đức Thầy thực sự; nhưng là Đức Thầy đang bị bao vây bởi những sự hạn chế kinh hồn; nhưng hạn chế này chẳng những thuộc về những cõi thấp mà còn thuộc về Phàm Ngã của người đệ tử chưa bị hoàn toàn chế ngự. Nếu Chơn Nhơn của người đệ tử đã triệt để làm chủ được các thể thấp, chúng trở thành những phản ảnh hay những biểu hiện của các thể cao, thì nó có thể biểu lộ những đặc tính của Đức Thầy hoàn toàn hơn. Nhưng vẫn còn một sự hạn chế mà người ta gọi là "vóc vạc" của y, người đệ tử là một Chơn Nhơn nhỏ bé hơn Đức  Thầy; y nối gót theo Thầy, và do đó y chỉ có thể đại diện cho Ngài một phần nào mà thôi. Tuy  nhiên dù người đệ tử có tư tưởng nào, thì chúng cũng đều có ở trong Thể Vía và Thể  Trí của  Đức Thầy.  Một phần cũng vì lẽ đó  mà các đệ tử phải chịu trải qua một thời gian Nhập Môn, trong  thời gian này hình ảnh sống của người Đệ  Tử Nhập Môn luôn luôn ở dưới mắt Đức Thầy. Đức Thầy muốn biết chính xác tư tưởng,  tình  cảm của người đệ tử tạm thời đó; nếu không vậy, Ngài có thể thấy Thể Vía và Thể Trí của Ngài luôn luôn bị tràn ngập bởi những tư tưởng và tình cảm của người đệ tử, chúng bất hòa với công việc của Ngài đang mãi bận lo . . . Chỉ sau khi quan sát một thời gian khá lâu và nhận thấy rằng những tư  tưởng và những tình  cảm bất đồng của thí sinh còn  rất ít, Ngài mới thu nhận  y  vào hàng  môn đồ, và làm cho y trở thành một phần tử của Ngài.

Tuy nhiên, Đức Thầy cũng còn phòng hờ để tùy tiện tạo một bức màn chận ngang giữa Tâm Thức của Ngài với Tâm Thức của đệ tử; vị này tha thiết muốn không có sự phân cách nào làm gián đoạn sự hiệp nhất đó; nhưng ở cõi Trần chúng ta hay lỗi lầm và thường  thường chúng ta có tiếp thu một tư tưởng hay một  tình cảm bất chánh nào đó, Đức Thầy không thể chấp nhận cái đó được, Ngài điềm nhiên tự vệ, thật ra, về sau, đến một lúc kia Đức Thầy hủy bỏ luôn luôn bức màn ngăn ngừa kia, đó là lúc Ngài nhận người đệ tử  vào  hàng "Con" của Ngài. Nhưng Ngài chỉ nhận như thế là khi nào Ngài hoàn toàn chắc chắn không còn cái chi  phải loại ra nữa.

Nhờ sự kết hợp mật thiết với Tâm Thức của Đức Thầy như thế, người đệ tử có thể đặt tư tưởng của y kế bên tư tưởng của Ngài. Đệ tử không cần làm cho Đức Thầy chú ý đến y, vì y không thỉnh cầu ý kiến  của Ngài  trong vấn đề đang lo lắng, y chỉ nhờ sự hiệp nhất này, mà biết được tư tưởng của Ngài đối với vấn đề đặc biệt đó. Các bạn sẽ hỏi: Vị đệ tử phải làm thế nào? Có nhiều cách, tùy theo mức độ của sự hiệp nhất này: người đệ tử tạo ra trong trí mình hình ảnh rõ rệt của Đức Thầy , rồi dùng tất cả sức mạnh  nâng tâm hồn mình lên đến tận hình ảnh này; y hiệp nhất với nó, đoạn phát triển rõ ràng tư tưởng của mình, rồi xem coi nó có bất hòa hoặc bất  đồng chút nào với tư tưởng của Thầy không, nếu có, y phải tức khắc sửa đổi tư tưởng của y.

Ở đây, quan điểm Huyền Bí Học khác với quan điểm của Thế gian rất xa. Trên  đời này, nếu bạn bất đồng ý kiến với một người khác, bạn liền lập luận để binh vực ý kiến của bạn hoặc bạn cố gắng biện chính cho ý kiến đó. Trên phạm vi Huyền Bí Học, chúng ta không bao giờ tranh luận. Vì chúng ta biết rằng vị ở trên chúng ta biết  rõ sự  việc đó hơn chúng ta, nên chúng ta chấp nhận  ý kiến  của Ngài. Không bao giờ chúng ta có ý nghĩ đem lối nhìn của chúng ta mà chống lại cách thấy của Ngài, vì chúng ta biết (không phải là vấn đề suy luận nữa mà chính là sự hiểu biết trực tiếp) rằng Ngài có cả ngàn cách nghe thấy mà chúng ta không có, nên Ngài hiểu điều Ngài nói. Ý kiến của Ngài căn cứ trên nền tảng hiểu biết sâu rộng hơn chúng ta rất xa. Về sau, chúng ta có thể tìm hiểu lý do của sự kiện ấy, và đó là chuyện khác. Nhưng trong khi chờ đợi, chúng ta không chống lại Ngài, và chúng ta cũng không nghĩ đến việc đó. Khi người đệ tử đặt tư tưởng của y bên cạnh tư tưởng của Đức Thầy, y không lý luận. Khi cây đàn của bạn cần phải lên dây hòa điệu, bạn không tự hỏi tiếng đàn này sẽ không tốt chăng, mà bạn cứ lên dây.

Trong thế giới Huyền Bí, chúng ta không hề phê phán, chỉ trích. Chúng ta xem như đã chứng minh rồi tất cả những gì mà  nhân viên của Quần Tiên Hội đã làm hết lòng. Trong trường hợp  này không phải là chúng ta, mà chính Đức Thầy của nhân viên đó nhận xét sự thành công hay thất bại của y. Dĩ nhiên, đôi khi có thể chúng ta thấy trước một sự thất bại, chúng ta có thể khuyên nhủ với tất cả sự tinh tế, thanh nhã của chúng ta như sau: "Nếu người ta  làm việc này hoặc việc kia, anh sẽ không nghĩ rằng điều đó khá hơn một chút sao”? Những nhà Huyền  Bí Học hay là những người nhiệt thành muốn trở nên nhà Huyền Bí Học đều tuyệt nhiên tránh  việc chỉ trích kẻ khác một cách khinh xuất mà không biết gì đến những nỗi lo âu  và khó khăn của họ. Chúng ta hoàn toàn xa lánh  việc  chỉ trích; đối với chúng ta, nó  là một hành vi xấu  xa.

Về phương diện này, những ai quyết định bước vào Đường  Đạo nên thực hành đúng theo thói quen mà các vị đệ tử Chơn Sư  đã chấp nhận. Chúng ta hãy từ bỏ thói chỉ trích những kẻ khác đang hoàn thành nhiệm vụ của họ. Phần đông họ đều cố gắng đến mức tối đa theo quan điểm riêng của họ. Có thể quan điểm chúng  ta cao hơn quan điểm của họ nhiều, nhưng không phải là không  đúng trong việc làm, họ chỉ theo ánh sáng riêng của họ, chớ  không phải ánh sáng riêng của chúng ta. Nếu  một người nào đó được Hội của chúng ta ủy thác nhiệm vụ chăng, chúng ta nên để y có cơ hội hoàn thành nhiệm vụ của y một cách tốt đẹp. Nếu  y làm công việc  không được  chu đáo, thì sau một thời gian hợp lý, chúng ta có thể  giao nhiệm vụ đó cho một kẻ khác. Nhưng trong khi chờ đợi, chúng ta chớ nên làm rộn y, phải để cho y có dịp trổ tài và thực  hành những ý niệm riêng của y. Luôn luôn can thiệp vào công việc của kẻ khác là một điều sai quấy.

Thái độ chỉ trích thường xuyên, luôn luôn tìm chỗ sơ hở, luôn luôn rình rập những nhược điểm của kẻ khác là một bản tánh rất xấu xa tệ hại. Trong giới Huyền Bí, người ta không làm như thế. Chúng  ta thường nghe nói rằng: "Tôi không thể  nào không chỉ trích được: đó là bản tánh của tôi ". Nếu đó là bản tánh của bạn, thì thật đáng  thương cho bạn. Tốt hơn hết bạn hãy cố gắng vượt lên khỏi nó. Bạn áp dụng danh từ "tự nhiên", "nhân tánh" theo cách  hành  động  của người trung bình, nhưng khi một người đã khép mình vào khuôn khổ của kỷ luật tu thân một cách nghiêm khắc thì y cố gắng  vượt khỏi mức độ trung bình. Chúng sinh ra đời để sửa đổi tâm tánh của mình. Hãnh diện vì nó thật vô ích. Người chí nguyện phải cố gắng vượt lên trên mức độ trung bình mới có thể làm cho nó tiến tới được. Nếu y chỉ ở chỗ đồng bậc hay là ở mức thấp hơn mức độ trung bình, y không thể làm cho bản tánh y trở nên  tốt  đẹp. Chỉ  có quyết định mới trừ được tật xấu hay chỉ trích.

Đôi khi chúng ta muốn nói với những kẻ khác rằng: "Các bạn đừng cản đường tiến hóa của Chơn Nhơn cao cả của các bạn nữa  và hãy để cho Ngài có dịp tỏ ra hết sức cố gắng. Bạn để cho Phàm Nhơn thấp hèn của bạn ngăn cản Chơn Nhơn, không cho Ngài muốn làm và làm một cách dễ dàng". Mong sao không ai nói   rằng: "Tôi không làm được". Nếu bạn nói như thể thì bạn xét đoán  trước và tự cho mình phải thất bại. Tốt hơn là bạn nên làm ra hình tư tưởng này: "Tôi có thể làm được việc  đó và tôi sẽ làm", và như thế công việc đã hoàn thành được nửa rồi. Thường thường sự cố gắng cũng không mang lại kết quả gì, đó là lẽ tự nhiên. Nhưng nếu cố gắng mãi, sức mạnh sẽ gia tăng, chẳng bao lâu chắc chắn sẽ  thành công. Nếu chưa thành công, chớ tưởng rằng bạn đã mất tất cả, sức mạnh đã tạo được rồi, dù  nó chưa đủ  để mang  đến một sự thành công tức khắc, nó cũng là một thắng lợi trước tiên và nếu  chúng ta không ngừng gia tăng sức cố gắng, thì đến một lúc nào đó, sự thành công sẽ đền đáp lại công lao khó nhọc của chúng ta.

Một hố thẳm ngăn cách hai thái độ này: một bên cứ ngồi mà ngã lòng, thất vọng; còn một bên thì đứng lên và hành động.  Người ta cũng nói rằng trong thiên hạ hai hạng người: hạng thứ nhất đảm đương một trách nhiệm, còn hạng thứ hai cứ ngồi và tự  hỏi: "Tại sao người ta không làm khác hơn"? Chúng ta nên gia nhập vào hạng thứ nhất và đừng để  ý đến lời chỉ trích của kẻ khác, họ là những người không muốn động đến bàn tay đặng làm việc.

 

Những người nào chưa được Ngài thâu nhận làm đệ tử chính thức thì không thể làm vậy, song nếu họ thường tự hỏi như sau đây, thì họ sẽ được giúp đỡ nhiều lắm: "Thầy sẽ nghĩ việc này ra sao? Bởi vì không nên làm, không nên nói, hay không nên nghĩ điều nào mà theo ý mình, Thầy không làm, không nói, hay không nghĩ như thế được ".

Phải chân thật trong lời nói của con; phải nói cho đúng đắn và không quá lố.

 

C. W. L. Nếu chúng ta luôn luôn nhớ rằng chúng ta không bao giờ được nghĩ hay nói điều gì mà Đức Thầy không nghĩ, không  nói, thì trong đời sống chúng ta ít có cái chi cần phải sửa đổi. Có  thể chúng ta phạm vài lầm lỗi trong việc  xét đoán  những tư tưởng hay những lời nói mà ta cho là của Ngài, nhưng về phương diện chung, đời sống của chúng ta sẽ trong sạch phi thường và sẽ đến  gần Ngài. Chắc chắn có nhiều người tự nói rằng: "Nếu phải mất thì giờ để nghĩ như thế, thì không bao giờ tôi nói điều gì được cả ". Nếu họ im lặng, có lẽ thế gian không vì thế mà kém tốt đẹp: vì thường thường lời nói của con người vẫn không ích lợi gì cả. Nếu  một người kia mỗi khi sắp nói điều chi, y đắn đo kỹ lưỡng về lời nói của mình và tự hỏi: "Đức Thầy sẽ nói những lời như tôi sắp  nói  ra chăng"?, thì y sẽ ít nói hơn. Ban đầu, việc nhớ đến tư tưởng của Đức Thầy đặng đối chiếu có thể mất thì giờ, nhưng khi đã thành thói quen rồi thì việc đó xảy ra mau như chớp.

Tư tưởng truyền đi nhanh như ánh sáng và có thể còn nhanh hơn nữa, như các nhà Vật Lý Học cho chúng ta biết, ánh sáng  truyền  đi khoảng 186 dặm Anh ( milles ) trong một giây đồng hồ, còn tư tưởng chẳng hạn từ Anh Quốc, cách đây 12.500 dặm, đến nhanh như tia chớp. Sự nhanh chóng của ánh sáng trong phạm vi Vật Lý Huyền Bí Học là một trong những vấn  đề mà chúng ta mới vừa biết chữ thứ nhất. Chúng ta không ngớt thu hoạch những ý niệm mới trong Khoa Pháp môn và thí nghiệm một cách mò mẫm. Về điều này chúng ta giống như những nhà luyện kim thuở xưa mà sức cố gắng đã làm nảy sinh ra Khoa Hóa Học, khoa này đã dần dần trở thành một khoa học bao la gồm muôn ngàn sự vật. Tôi tưởng những thí nghiệm không chắc chắn của vài người ngày nay sẽ đem lại với thời gian một Khoa Huyền Bí Học mà sự phát triển sẽ hữu ích cho cõi đời rất nhiều.

Thường thường những tư tưởng của chúng ta chuyển động ít nhanh chóng hơn điều nó làm được, vì chúng ta không tập sử dụng  nó riêng biệt khác hơn lời nói và hành động của chúng ta. Một trong những kết quả của sự tham thiền là tập cho chúng ta sử dụng riêng biệt với lời nói và sự hành động. Sự thành công đem lại những kết quả thật phi thường. Bà Tiến Sĩ Annie Besant có nghiên cứu vấn đề này một cách đặc biệt. Bà có nói trước mặt tôi rằng, trong những lúc diễn thuyết công cộng, khi Bà vừa thốt ra câu nào,  thì câu kế tiếp hiện đến cho Bà dưới ba hay bốn hình thức khác nhau, Bà điềm tĩnh  chọn lựa câu  nào dường như có công hiệu hơn hết, trong khi Bà thốt ra câu trước. Rất ít có người làm được như vậy. Đây là phải tách  rời cách  dùng tư tưởng ra khỏi sự hành động một cách nhanh chóng khó mà tính toán trước được. Như vậy người ta mới thấy điều đó dẫn đến đâu. Thật đáng cho chúng ta ra công khó nhọc tập sử dụng tư tưởng với tính cách là tư tưởng mà thôi. Khi tập lấy thói quen hết sức tốt đẹp này là suy nghĩ trước khi nói hoặc làm thì người đệ tử sẽ thấy rằng thời gian này chẳng những làm cho đời sống của y hòa nhịp với đời sống của Đức Thầy, mà tư tưởng của y còn hoạt động một cách nhanh chóng và hữu ích nữa.

 

Chớ nên cho kẻ khác có ý muốn cái này, cái kia, duy chỉ một mình Thầy nó biết được tư tưởng của nó mà thôi; và có thể y làm như vậy là vì  những lý do mà con không hề biết.

 

C. W. L. Mỗi người là một bí ngữ, dù cho đối với những người mà y thương yêu nhất cũng vậy. Và đôi khi, sau một thời  gian khá lâu, bạn biết được những lý do hành động của y, thì thường  thường chúng  làm cho  bạn rất ngạc nhiên. Ảnh hưởng chỉ huy Cái Trí của y là một yếu tố mà bạn không bao giờ nghĩ đến. Tôi quan sát điều này thường lắm có lẽ ở Ấn Độ nhiều hơn những nơi khác, vì trí óc người Ấn Độ khác với trí óc của chúng ta trên nhiều phương diện, và đa số các bạn Ấn của chúng ta có những tư tưởng mà người Anh không hề có, họ lấy chúng làm động lực. Trí  óc họ hết sức tế nhị và sinh hoạt của họ căn cứ trên những truyền thống khác hẳn lối suy tư của chúng ta. Như thế, nếu trong dòng giống của chúng ta, không một người nào được phép tìm hiểu nguyên do của những lời nói hoặc hành động của bất cứ ai, thì  điều đó        quả là một điều bất cẩn quá đáng đối với ngoại quốc là nơi chúng ta gặp phải một nền văn minh hoàn toàn khác lạ. Nhiều  sự hiểu lầm vô phương cứu chữa đã xảy ra cũng vì chúng ta bịa đặt ra lý do những hành động của kẻ khác. Chúng ta đừng làm như thế. Lý do của sự hành động nào đó không can hệ gì đến chúng ta, bận tâm đến nó vô ích.

 

Khi con nghe một câu chuyện nào có hại cho kẻ khác, thì đừng lập nó lại. Có lẽ câu chuyện đó không có thật, mà dù có thật đi nữa, đừng nói đến mới là nhân từ hơn.

 

A. B. Nếu sau khi đọc mấy hàng này, mà bạn còn nói hành ai, như thế là bạn đã vi phạm mệnh lệnh trực tiếp của Đức Thầy đưa ra, vì mệnh lệnh đó đã truyền đến bạn và nó liên quan đến bạn. Cũng khá dễ làm thinh. Điều khiển Cái Trí có lẽ khó hơn, nhưng  chắc chắn là bạn có thể làm chủ được xác thân bạn. Có thể câu chuyện phiếm của bạn không có giá trị lớn lao, nhưng nếu nó không đúng mà bạn cứ lập đi lập lại mãi, tức bạn  nói dối và điều này rất nguy hại cho những người đang chuẩn bị để được Điểm Đạo. Danh từ  nói dối quả là nặng nề, nhưng đó là một việc và  chúng ta phải đương đầu với nó.

Dĩ nhiên chúng ta không thể dùng đời sống của mình để xem  xét coi những chuyện nhảm nhí đó có đúng hay không. Vậy điều thận trọng hơn hết là đừng bao giờ lập lại những chuyện đó. Chúng ta cũng đừng để ý đến việc nó có hại cho chúng ta, và cho tương  lai của chúng ta. Giả sử chuyện đó có thật đi nữa, chúng ta cũng đừng nói gì hết, mới thật là nhân từ hơn. Tại sao bạn muốn hại người? Tại sao muốn lập lại những câu chuyện trình diện những kẻ khác dưới một phương diện bất hảo.

Đành rằng, nếu chúng ta biết được một người nào đó là tay gian xảo hay bịp bợm định lợi dụng lòng tin cậy của kẻ thật thà,  thì chúng ta có bổn phận phải cho người ta biết điều đó, hay là ít ra cũng phải báo cho những người đang bị đe doạ biết để đề phòng. Nhưng đó là một vấn đề khác hẳn với việc nuôi dưỡng câu chuyện ngồi lê đôi mách thường tình. Muốn làm tròn bổn phận đó, chúng  ta cần  phải hết sức lịch thiệp, kèm theo sự suy nghĩ chính chắn và loại ra mọi thù hận và mọi phẫn nộ.

 

Trước khi nói, phải suy nghĩ cho kỹ lưỡng, vì  e không đúng với  sự thật.

 

C. W. L. Điều này đã được truyền dạy từ nhiều năm nay, tuy nhiên các bạn đồng song của chúng ta cứ khăn khăn nói những  điều không đúng với sự thật. Đôi khi người ta nói thật thái quá:      "Một vật cách đây một trăm thước chăng, họ nói ngàn dặm". Khi trời nóng hơn thường lệ, họ nói: "Trời nóng như thiêu như đốt".  Phải là những người không biết rành rẽ ngôn ngữ của mình mới không tìm được những từ ngữ để mô tả mức độ dị biệt của tư tưởng, và phải nhờ đến những tiếng điên rồ, quái gở và dư thừa này để  chứng tỏ mình còn kém giáo dục và nói không chính xác. Tôi tưởng rằng về điểm đó, chúng ta chớ tỏ ra bơ thờ, cẩu thả. Người ta có lý do cho rằng Đấng Christ đã nói mấy lời này: "Đến ngày phán xét (cuối cùng), con người sẽ biện giải về tất cả những lời nói vô ích  mà họ  đã thốt ra" [30].

 

Con phải thành thật trong việc làm, đừng bao giờ kiếm thế phô trương cái mà con không thật có, vì sự giả trá ngăn cản cái tinh quang thuần khiết của chân lý, tinh quang ấy phải xuyên qua lòng con cũng như tia sáng mặt trời giọi ngang qua tấm kiếng trong trẻo vậy.

 

A. B. Thực hiện sự chân chánh trong việc làm là điều rất khó khăn. Sự chân chánh này có nghĩa là không bao giờ làm điều gì trước mặt kẻ khác cốt để họ có một ý kiến tốt đẹp về mình. Khi bạn trơ trọi một mình, chớ làm điều gì mà bạn phải hổ thẹn khi ở trước mặt kẻ khác. Cuối cùng luôn luôn phải hết sức ngay thật. Hãy để cho kẻ khác thấy bạn đúng như thực chất của bạn và đừng  tìm cách làm ra khác hơn vẻ thường ngày. Phần đông chúng ta có một thứ  lý tưởng là muốn khoe mình cho thiên hạ thấy, bởi thế khi  chúng ta trơ trọi một mình, chúng ta làm mọi chuyẹn nhỏ nhặt mà chúng ta không làm trước mặt kẻ khác, vì chúng ta có cảm tưởng rõ rệt rằng họ sẽ có hơi ngạc nhiên mà thấy chúng ta hành động như thế.

Mỗi khi bạn không sẵn lòng làm một chuyện gì bởi vì bạn  không ở một mình, thì bạn hãy chống lại ý định đó. Nếu hành động của bạn tốt đẹp, thì bạn đừng quan tâm đến dư luận của bàng quan. Bằng trái lại, thì bạn đừng hành động. Có một lúc, tôi tưởng tôi phải có trước công chúng cái thái độ mà người ta mong mỏi thấy ở các tác giả hay ở một diễn giả v.v. . . Đôi khi ý định này nảy sinh từ một lý do tầm thường. Đây là một thí dụ. Trong khi vượt biển, tôi có thói quen đánh bài, theo ý tôi, đó là sự tiêu khiển vô hại. Một ngày kia, nảy sinh ra ý tưởng khiến tôi tự hỏi rằng những  người hành khách nghĩ gì về tôi khi họ thấy tôi đánh bài buổi chủ nhật vì họ biết rằng tôi dạy Huyền Bí Học, việc đó có làm cho họ khó chịu không? Rồi tôi thầm nói: "Người ta thấy tôi hay không thấy, chẳng quan hệ gì. Nếu  hành động của tôi xấu, thì tôi phải  từ  bỏ, bằng không dư luận của kẻ khác chẳng thay đổi nó được chút nào". Về phương diện này, Bà Blavatsky thật đáng phục , luôn luôn Bà làm theo ý Bà, không chút kể đến dư luận quần chúng. Nếu người ta nói rằng cử chỉ của Bà không  phải là cử chỉ của một nhà Huyền Bí Học, thì điều đó có quan trọng gì? Dù sao những  quan sát viên cũng không hiểu về chuyện đó.

Nhà Huyền Bí Học không làm ra bộ nghiêm trang và trọng thể, không cố làm mọi việc với vẻ cao sang, mặc dù người ta tưởng  rằng họ phải có thái độ như thế. Những quan niệm thông thường về  điều đó hoàn toàn sai lạc. Nhà Huyền Bí Học hết sức tự nhiên. Tôi thiết tưởng một trong những lý do quan trọng trong thời đại này để  chúng ta sống một cuộc đời hoàn toàn chân thật và ngay thẳng là chúng ta có bổn phận góp phần nhỏ nhặt trong công việc dọn đường cho Đức Chưởng Giáo sắp lâm phàm trong một ngày gần đây, hầu cho con đường này có lẽ được bằng thẳng một đôi chút. Vì các Đấng Cao Cả không phải luôn luôn thích hợp với chân  dung do con người tạc ra cho các Ngài. Các Ngài không chấp nhận khuôn  khổ nào đã làm sẵn cho các Ngài, mà các Ngài đến để cải cách thế gian và thường thường các Ngài sửa đổi một cách triệt để những tư tưởng đang thịnh hành. Các Ngài quan  tâm đến  tánh tình con người nhiều nhất, nhưng luôn luôn không để ý đến những thành kiến của họ. Cuộc sống chân thật và ngay thẳng của chúng ta có thể dùng để chuẩn bị cho sự sinh sản những ý kiến, như thế Đức Di Lạc lâm phàm, con người bớt nô lệ những thành kiến của họ và họ ít bị phẫn uất vì sao họ không được khác hơn. Vậy thì sự ngay thật hoàn toàn  phải là đặc tính trong trạng thái của chúng ta, luôn luôn với điều kiện là đừng bao giờ rơi xuống thấp hơn lý tưởng của chúng ta. Chúng ta đừng lầm rằng cách chúng ta hành động  trước mặt kẻ khác không quan trọng, mà chúng ta phải thận trọng và thành thật trong chỗ mật thiết cũng như  ở giữa công cộng.

 

C. W. L. Thật hết sức đúng là đừng bao giờ giả bộ, và sự tự phụ nào cũng có tính cách giả dối, nhưng trong khi chúng ta cố gắng tránh khỏi tánh đó, chúng ta lại e rằng mình sẽ ngã vào sự quá độ đối lập. Đôi khi nhiều người nói rằng: "Tôi là thế nào, tôi muốn tỏ ra như thế đó", rồi họ để lộ ra phần xấu tệ, rất thô tục và  rất tầm thường nhất của họ. Lẽ tự  nhiên cái đó chẳng phải là chân tướng thực sự của họ mà là sự mô phỏng rất thấp kém, rất xấu xa và đê tiện của con người thật sự. Cái gì cao thượng nhất, tốt đẹp nhất và thanh cao nhất, trong bản chất con người, chính là cái gần nhất với Chơn Ngã. Do đó, muốn sống một cách  tự nhiên, chúng ta phải biểu lộ trạng thái tuyệt đẹp của mình.

Làm bộ sùng tín là một hình thức láo xược. Một người kia  trước mặt bạn tỏ ra là một nhà Huyền Bí Học, nhưng đồng thời y lại nói nhiều về địa vị cao sang của y và lòng khoan dung của y; y cho biết rằng y có nhiều quyền năng phi thường và tìm cách làm cho những người nhẹ dạ cả tin khâm phục y, cũng như những nhà đạo đức giả thuở xưa: "Họ thích cầu nguyện trong Thánh Đường và ngồi ở mấy góc đường để cho thiên hạ trông thấy". Họ cũng giống như những nhà Luật học và Tu sĩ Do Thái, giả vờ cầu nguyện rất lâu.[31] Bạn nên tin chắc rằng họ không phải là nhà Huyền Bí Học Chân chính. Nhà Huyền Bí Học chân chính không bao giờ giả bộ sùng Đạo, mặc dù y đã quyết sống một cuộc đời đạo đức rất cao thượng hơn kẻ tự xưng là "người tự nhiên".

Thường thường người ta không biết Đức Thầy vì người ta  khăng khăng có một ý niệm Ngài phải như thế này hay như thế nọ. Nhưng có thể Đức Thầy thực sự Ngài sống khác hẳn với những điều họ tưởng tượng, Ngài không theo thành kiến và tư tưởng của chúng ta. Ngài vẫn là Ngài, Ngài ngự trên cõi riêng của Ngài và nếu chúng ta nô lệ những thành kiến của mình, thì khi Ngài đến, có lẽ chúng ta không biết được Ngài. Vài người nhất định rằng Đức Chưởng Giáo sẽ nói và sẽ làm điều gì và các Ngài xử sự ra sao. Bạn không nên để cho thành kiến ngăn cách bạn với Ngài. Chúng ta biết rằng Ngài sẽ dạy về thuyết Bác Ái, nhưng chỉ có Ngài quyết định phương thức và những chi tiết mà thôi. Chúng ta phải nhất định nhận ra cho được Ngài và sẵn sàng đi theo Ngài đến bất cứ nơi nào mà Ngài dắt chúng ta đi tới.

 

CHƯƠNG THỨ MƯỜI HAI

   Y

TÌNH BÁC ÁI  VÀ SỰ SỐNG THIÊNG LIÊNG

 

Phải phân biện điều ích kỷ với điều không ích kỷ, bởi vì  ích kỷ có thiên hình vạn trạng. Khi con tưởng trừ được tật ích kỷ trong một hình trạng nào rồi, thì nó lại tái sinh trong một hình trạng khác cũng mạnh mẽ như trước vậy. Nhưng lần lần, con mãi lo giúp đỡ kẻ khác cho đến đổi trong trí con không còn chỗ nào và giờ phút nào nghĩ đến con nữa.

 

A. B. Ở đây Đức Thầy mô tả các điều mà tôi tưởng là cách  duy nhất để đi đến tánh hoàn toàn vị tha. Chắc chắn là có thể diệt được một hình thức đặc biệt của tánh ích kỷ khi chúng ta đem tất cả sức cố gắng đặng trừ tận gốc rễ nó, nhưng theo lời Đức Thầy nói, nó sẽ tái sinh dưới một hình thức khác. Như thế bạn sẽ mất nhiều thì giờ để tiêu diệt một loại ích kỷ nào đó, rồi bạn ở vào  tình thế của Hercule khi giết con rắn chín đầu (Hydre); hễ đầu này bị chặt đứt thì đầu khác lại mọc lên. Nhưng phương thức dặn dò ở đây trừ được tận gốc.

Một trong những kết quả quý nhất mà lòng sùng tín hiến cho chúng ta ở đây, tôi tưởng nó đẹp hơn hết, ấy là tư tưởng mà ta hiến cho một người khác để làm mục đích của sự sùng đạo; tư tưởng này chiếm trọn cả trí óc của chúng ta và chúng ta quên mình  mà không có sự cố gắng đặc biệt nào cả. Đó là cách phát triển thật sự: . . . cũng như đóa hoa tăng trưởng một cách vô tâm nhưng tha thiết muốn mở rộng tâm hồn dưới ánh dương quang" [32].

Tất cả mọi  cố gắng  là một  dấu hiệu của sự  yếu  đuối, nếu  bạn tìm được những phương thức khéo léo để thuyết dụ được bạn bằng cách nào đó, thì đó quả là một sự thắng lợi lớn lao. Bạn sửa đổi dòng tư tưởng, bạn tập trung năng lực vào chiều hướng tốt lành rồi tánh xấu sẽ chết lần mòn. Đó chính là cách hay hơn hết để chế ngự các tánh xấu của mình, bởi vì nghĩ đến tánh xấu, dù là hối hận, cũng gia tăng sức mạnh của nó.

Bạn chỉ nghĩ đến kẻ khác thôi, rồi Đức Thầy đã nói, bạn sẽ không còn thì giờ cũng như không còn chỗ trống nào trong tâm trí để nghĩ đến chính mình nữa. Và điều này sẽ là hạnh phúc của bạn. Riêng tôi, tôi nhận thấy quả đúng như vậy. Khi tôi muốn phiền  muộn và có hơi luyến tiếc một chuyện  riêng tư (Tôi tưởng hiện giờ không còn như  thế nữa, trước kia tôi đã bị điều đó rồi) thì tôi đem hết tâm trí tôi lo giúp  đỡ kẻ khác và làm việc cho họ. Buồn bực về những trường hợp chỉ làm cho một mình chúng ta xúc động là ích kỷ vậy. Điều đó chỉ đem lại sự đau khổ cho chúng ta thôi. Tuy nhiên nhiều người vẫn làm như thế. Họ ngồi xuống và nói: "Ôi buồn quá! Khổ quá! Thật đau đớn cho tôi. Người ấy không cần đến tôi, không lo lắng gì đến tôi, không thương yêu tôi". Rồi cứ than van mãi như thế không thôi.

Mấy điều đó là ích kỷ: Phương thức chữa bệnh buồn bực lẫn bệnh ích kỷ là tức khắc làm việc đặng giúp đỡ một người khác. Trong  khi làm việc, trí của bạn không thể chứa một lượt hai mục tiêu và khi bạn không còn nghĩ đến bạn nữa thì bạn bắt đầu có hạnh phúc. Bạn tìm hạnh phúc từ khi bạn có thể nói rằng: "Tôi không đòi hỏi những ai ở chung quanh tôi một điều gì cả. Tôi yêu thương họ và không cần cái chi cả để bù đắp  lại". Thường thường người ta gọi là tình thương, một mảnh tình bị  lớp màn  ích kỷ  dày  đặc  bao bọc. Tình thương gây ra sự đau khổ ư; thì chính là sự  ích kỷ đã hiện diện trong đó.

Đây là một bài học rất khó cho những kẻ thành tâm, và có tình thân ái, tôi vẫn biết như thế. Tuy nhiên chúng ta phải học lấy bài này vì nó sẽ mang đến hạnh phúc và sự bằng an cho chúng ta. Chính tôi đã kinh nghiệm điều đó rồi. Bạn hãy tập trung thương yêu  tất cả mọi người và đừng đòi hỏi một điều gì  để đền đáp lại và khi bạn đạt được mục đích, nhiều người sẽ thương yêu bạn,  nhưng ngày nào bạn còn tỏ ra thèm thuồng, thì bản năng tự nhiên của họ lại dè dặt, thận trọng. Bài học thật khó khăn thay, nhưng khi đã hoàn toàn lãnh hội được, thì nó sẽ mang lại một sự an tịnh không thể nào lay chuyển nổi, dù cho người mà chúng ta hết dạ yêu thương trở nên  khó chịu với chúng ta trong chốc lát. Không có gì đáng kể: bạn biết rằng một ngày kia người ấy sẽ đổi thái độ và  trong khi chờ đợi, bạn vẫn thương yêu y như trước. Ban đầu khó chăng? Hãy quyết định đừng lo đến điều đó. Bạn hãy thầm nói rằng: "Dù cho sự đau khổ của bản ngã thấp hèn của tôi đến thế nào  chăng nữa, điều đó đối với tôi không có nghĩa lý gì hết". Chúng ta là gì ? Hay ít ra bản ngã thấp hèn của chúng ta là thế nào, mà chúng ta thương hại cho những sự đau khổ của chúng ta hay là đòi quyền được kẻ khác thương yêu ? Nếu bạn giữ thái độ đó với những nỗi khổ đau của bạn thì bạn sẽ vượt lên trên nó được.

 

C. W. L. Nghĩ đến một điều lầm lỗi là tăng thêm sức cho nó. Đó là điều sai lầm mà hệ thống Cơ Đốc giáo thường vướng phải về việc truyền lệnh cho con người phải ăn năn và hối hận những lỗi của mình. Khi con người càng hối hận, y càng nhấn mạnh tư tưởng của y về những tội lỗi của y đã làm thì chúng càng tăng thêm ảnh hưởng của chúng. Trái lại, nếu người ta tiếp tục theo đuổi con  đường của mình và làm việc cho kẻ khác, thì hình tư tưởng đó không được thêm sức, nên tự nhiên nó phải chết và tự tách rời ra rồi rơi vào sự lãng quên. Tự xét mình một cách yếu đuối, bệnh hoạn thường biến một lỗi nhẹ thành ra một lỗi nặng. Người ta thường nghĩ đến những đứa trẻ luôn luôn nhổ gốc cây coi nó có mọc không. Cũng như một người kia đầy nhiệt tâm đang làm một việc tốt đẹp và cao quý, rồi y bắt đầu tự nghi ngờ mình và thầm nói: "Tôi không chắc vì lý  do của tôi là trong sạch, tôi phải hành  động vì lòng kiêu hãnh của tôi", hoặc nếu người ấy làm giảm bớt những nỗi khổ đau của kẻ  khác rồi y lại  nghĩ: "Thật ra trong đó có sự ích kỷ; vì không thể chịu được việc mục kích những nỗi thống khổ này, tôi đã xoa dịu chúng". Trong Thánh Đường Anh Quốc, người ta nói: "Lạy Chúa xin thương xót chúng tôi là kẻ tội lỗi rất khốn khổ". Chúng ta là kẻ tội lỗi, có thể đúng như vậy, nhưng làm cho tội lỗi chúng ta trầm trọng thêm do những sự đau khổ của chúng ta và làm cho những kẻ khác cũng khốn khổ như mình thì thật là vô ích. Đừng bao giờ nhấn mạnh về quá khứ mà hãy quyết tâm làm cho tốt đẹp hơn trong tương lai. Rất vô ích mà cầu mong lúc bây giờ đừng làm việc này hay việc nọ. Tốt hơn nên nói: "Tôi  đã làm việc ấy, đó là điều đáng tiếc. Mặc kệ. Đây là hoàn cảnh hiện tại của công việc. Tôi phải xem xét coi điều gì tôi có thể làm được để cho công việc tốt đẹp hơn". Tôi không muốn nói rằng tới một mức độ cao siêu chúng  ta không thể sửa chữa dĩ vãng được, nhưng điều đó kể ra đây là một việc  ít thực  tế đối với chúng ta vậy.

Trong Bát Chánh Đạo của Đấng Thế Tôn, Đức Phật của chúng ta, con đường thứ bảy là Chánh Niệm. Đức Phật nói với những người theo Ngài như sau: "Phải hết sức đề phòng trong việc khêu gợi những ký ức của các con. Nếu các con nói: không thể quên  được điều  gì, tức là các con chưa làm chủ được ký ức của các con, các con không chế ngự được trí tuệ của các con, nó vốn là một thành phần của các con. Cái đó cũng giống như khi các con đi  ngoài đường các con lượm tất cả những rác rến nhơ bẩn mà các con gặp. Các con chất chứa bừa bãi trong ký ức của các con tất cả những thứ vô ích và xấu xa. Các con  chỉ  nên  nhớ  những chuyện tốt lành và đặc biệt, hãy quên phức những chuyện khác". Rồi Đức Phật kể một cách tỉ mỉ và rõ ràng những điều nào mà phải quên, như những lời xúc phạm làm phật ý, mếch lòng, sự khinh bỉ và những sự nhục mạ tưởng tượng. Chúng thuộc về những điều chúng ta phải triệt để quên mất đi. Trái lại, thuộc về những điều phải ghi nhớ là những lời nhân từ của kẻ khác đã nói với chúng ta, tất cả những ân nghĩa mà chúng ta đã thọ lãnh, tất cả những tánh tốt mà chúng ta đã nhận thấy  ở kẻ khác.

Chúng ta phải tập thương yêu những người mình gặp trong cuộc sống hằng ngày. Tôi không nói rằng phải thương tất cả đồng  bậc với nhau. Người ta không đòi hỏi điều đó. Chính Đức Phật cũng có một đệ tử mà Ngài thương hơn hết là Ananda (Ác-nan) và Đấng Christ cũng có một đệ tử mà Ngài yêu nhất là Thánh Gioan  (Saint Jean). Trong buổi ăn cuối cùng trước ngày mà Ngài chịu  khổ nạn, Thánh  Gioan nép mình vào lòng Ngài. Chúng ta không  bị bắt buộc phải thương yêu mọi người giống như nhau, hoặc phải thương yêu họ như thương cha, mẹ, vợ, con. Trái lại ta nên tỏ ra  rất tử  tế và có lòng thương yêu đối với tất cả mọi người, mà không hề oán ghét một ai. Chúng ta phải có thái độ này và không hề trông mong kẻ khác đền đáp lại. Mọi sự thỉnh cầu đều bao hàm một cao vọng; yếu tố ham muốn lại dự vào. Rồi chúng ta lại nghĩ đến mình chớ chẳng phải nhớ đến những người mà mình thương  yêu. Ban  rải sự yêu thương mà không có ý mong mỏi được đền đáp lại, chỉ như thế mới đáng gọi là tình thương. Không có lòng thương người (vị tha), thì con người sẽ nuôi tánh ghen ghét, tật đố cùng nhiều sự ham muốn khác. Tình thương của họ không phản chiếu  một màu  hồng đẹp đẽ và trong trẻo mà lại nhuộm màu đỏ nâu, ấy là một sự biểu hiện buồn bực mà hình dáng cũng xấu xa và thảm đạm; thay vì tỏa ra như  ánh sáng mặt trời, nó lại cong xuống và giữ  chặt lại, nó truyền ra theo đường cong khép kín, thường chỉ ảnh hưởng đến kẻ sinh ra nó mà thôi. Tình bác ái thiêng liêng triệt để làm cho các cõi chuyển động. Nó túa ra những đường cong rộng lớn vô cùng nhưng chúng không trở về trung tâm và cũng không muốn  quay lại con đường chúng đã đi. Tình bác ái đó ban rải ra theo những thứ nguyên khác nhau và trên  những cõi khác nhau để hoàn thành cơ tạo theo Thiên Ý. Đó là bài học mà chúng ta phải học cho thật thuộc. Nó rất  khó bởi vì  muốn  thành  công chúng ta phải diệt trừ  bản  ngã thấp hèn, nhưng đó chính là con đường dắt đến sự an lạc vậy.

 

Con phải phân biện một cách khác nữa. Phải tập phân biện Đức Thượng Đế trong mọi loài và trong mọi vật, dù chúng có thật xấu xa hay dường như có vẻ xấu xa cũng vậy.

Con có thể giúp người huynh đệ của con luôn luôn là nhờ con với y đồng chung có sự sống thiêng liêng trong mình. Hãy học hỏi cách kêu gọi sự sống đó trong  người y. Như thế con mới ngăn ngừa nó khỏi bị tai hại.

 

A. B. Đây là bài học cuối cùng về sự phân biệt điều chân với điều giả. Dù chúng ta đứng trước sự xấu xa đến đâu đi nữa phải biết vẫn có Đức Thượng Đế trong đó, bởi vì nó không thể hiện hữu, nếu không có Ngài hiện diện bên trong. Trong những bản Kinh Thánh Ấn Độ không ngớt lập lại chân lý này: "Ta là cách chơi của kẻ gian lận" [33].  Đó  là  lời nói của Đức Thượng Đế trong  quyển Thánh Ca - Bhagavad Gita - , câu cách ngôn này thường gây bực tức rất nhiều cho độc giả. Tuy nhiên đó là chân lý, kẻ gian phải học một bài học bằng cách ấy, vì không chịu học bằng  phương pháp tốt đẹp hơn. Người nào không thể tuân theo giới luật; thì phải học theo cách kinh nghiệm những luật tự nhiên. Những luật mà chúng ta gọi là luật tự nhiên như thế vốn là sự biểu lộ cụ thể hữu hình  nhất của trí tuệ thiêng liêng.

Chúng nó vốn vững vàng như đá, không lay chuyển được. Trong khi va chạm vào chúng nó mà bị thương tích, con người nhờ sự đau đớn, mới học tập cách tránh xa những sái quấy như thế trong tương lai. Người nào không chịu học tập bằng những giới  luật hoặc bằng những gương mẫu (ở đời không thiếu chi gương mẫu) thì y bắt buộc phải học tập bằng sự đau khổ là sự báo ứng của sự vi phạm Luật Trời. Dù sao y cũng được đưa đi đến chỗ hiệp nhất, bởi vì sự tiến hóa là sự biểu hiện của Thiên Ý và ý chí của Thượng Đế. Tôi tin rằng chính đây là ý nghĩa của câu Thánh Kinh Do Thái: "Nếu ta lên Trời, thì ngươi cũng lên đó với ta". Đến đây không có chi là mờ ám khó hiểu. Tất cả chúng ta đều biết rằng Đức Thượng Để ở trên Trời. Nhưng tác giả Thánh Kinh nói tiếp:    "Nếu ta ngủ dưới địa ngục,  thì ngươi cũng ở đó" [34].

Vậy  bạn nên  biết Trời ở trong tất cả những gì chung quanh bạn; cái khác còn lại không liên quan chi đến bạn. Đó là một cách và cũng là một cách duy nhất để bạn giúp đỡ người huynh đệ của  bạn bởi vì cả hai đồng chung sự sống thiêng liêng. Ngoài điều đó ra, thì tất cả cái còn lại đều dị biệt. Nhưng về sự sống thiêng liêng thì cả hai chỉ là một. Ấy là một phương tiện, một đòn bẫy có thể dùng để giúp đỡ bằng mọi cách. Bạn muốn  giúp đỡ một người nào để trừ khử một tật xấu của y chăng? Bạn nên nhớ rằng ý muốn diệt trừ  tánh xấu của y cũng nhiệt thành như ý muốn của bạn. Y khổ sở  vì tật xấu của y và nếu gặp được "con người thật" trong mình y thì bạn sẽ thấy y khao khát được giải trừ tất xấu ấy là dường nào! Đó mới thật là cách giúp đỡ. Con đường nội tâm không làm hại hoặc  sỉ nhục đến ai bao giờ.

 

C. W. L. Tất cả những gì hiện hữu trong cõi này, cũng như ở những cõi khác, đều là một biểu hiện của sự sống thiêng liêng; do đó, tất cả, điều lành cũng như điều dữ, đều là sự biểu hiện của Thượng Đế. Không một vật gì hiện hữu được nếu không có Thượng  Đế là trái tim và cội rễ của nó. Tất cả những bản Thánh Kinh đều nhấn mạnh đến sự kiện này. Chẳng hạn như trong  Thánh Kinh Cơ Đốc: "Ta tạo ra ánh sáng và làm ra bóng  tối; Ta tạo ra sự bình an và gây ra tai hoạ; chính ta là Yaweh, Đấng đã làm ra mấy điều  đó" [35]. Người ta rất khó hiểu được tại sao những gì mà con người cho là sự ác lại cũng là thiêng liêng, nhưng sự thật là như thế. Vẫn có những anh Bàng Môn Tả Đạo và những kẻ đồi bại, bất chính đủ hạng, nhưng trong mình của họ đều có sự sống thiêng liêng, bởi vì  ngoài nó ra không có sự sống nào khác.

Nếu một người kia vì vô  minh và vô lý làm ác thì chung qui điều lành cũng sẽ do đó mà sinh ra. Người đó không thể tiến hóa bằng cách nào khác hơn được. Kẻ  gian  xảo sẽ lừa bịp, y đã quyết định như thế. Trong khi chờ đợi, y không thoát khỏi Luật Trời. Y  đã phạm tội, nhưng từ cái quấy y thu thập được một sự lợi ích là học được một bài học và sự thất bại sẽ dắt y vào con đường chánh. Chính  vì thế mà phải nói rằng đó là một phương thuốc cuối cùng, nhưng cũng là một phương thuốc vậy; chúng ta phải biết rằng nó  thuộc  về Thiên Cơ.

Theo một ý nghĩ nào đó, nhất định tất cả đều là Thượng Đế; nhưng nói như  thế không đúng với ý nghĩa trong mấy câu  này: ấy  là tinh thần của Thượng Đế trong mỗi cá nhân làm ra con người. Nếu bạn có thể thấy xuyên qua Phàm Nhơn quá biến dạng, quá đồi trụy này để đi đến sự sống thiêng liêng trong con người thì bạn mới có thể kêu gọi nó. Đừng quên rằng kẻ dữ với tư cách là Linh Hồn vẫn khao khát sự tiến bộ như chúng ta vậy. Y muốn được giải trừ khỏi sự ác, nó đeo đuổi, nó ám ảnh và khuấy rối bản ngã y. Nếu ta đi đến  được tâm hồn của y bằng cách soi thấu lớp vỏ bề ngoài do sự cứng rắn và sự hung ác của y tạo thành, thì kẻ dữ sẽ vội vàng trợ lực chúng ta để giúp Phàm Nhơn.

Một phần lớn trong đời tôi, tôi làm Mục Sư và phụ tá ngoài Giáo Hội (người lương), tôi đã làm việc  trong những khu vực tồi tệ nhất ở Anh Quốc. Tôi đã thấy nhiều người mà thiên hạ cho là những kẻ sát nhân tàn nhẫn, đến đỗi tôi không mong gì cải hóa,  nhưng tôi không hề gặp một người nào mà không có trong tận đáy lòng một điểm lành; thí dụ như tình thương của y đối với một con  chó, dường như chỉ có điều này nhắc nhở chúng ta y là một con người mà thôi, nhược bằng không có điều này, thì y quả là một  con thú, một con thú nguy hiểm. Tuy nhiên, trong người y có sự sống duy nhất. Về phương diện chính xác này, nếu chúng ta giao thiệp được với y thì chúng ta còn hy vọng kêu gọi sự sống duy  nhất đó, chúng ta có thể giúp y tiến lên.

 

A. B. Đức Thầy chấm dứt bằng mấy lời này: "Như thế con  ngăn ngừa được người huynh đệ của con khỏi bị tai hại". Ở đây lời kêu gọi của Ngài mạnh mẽ hơn  hết. Thật ra, đối với vị đệ tử, công  việc đó là lý  do và mục tiêu của đời sống, bởi vì vị này  chỉ có một ước vọng duy nhất là trở thành một Đấng Cứu Thế. Không có lời kêu gọi nào đem lại sự ích lợi cho cá nhân của người đệ tử có hiệu lực hơn là lời kêu gọi này. Đức Thầy chỉ sống để giúp đời. Đời sống chúng ta càng biểu hiện tinh thần phục vụ thì nó càng giống hệt đời sống của Ngài.

 

PHẦN  THỨ  BA

mục lục  đầu sách  cuối sách  lời nói đầu  phần 1  2  3  4   5

TÁNH  ĐOẠN  TUYỆT

CHƯƠNG THỨ MƯỜI BA

 DIỆT TRỪ SỰ HAM MUỐN

 

A. B. Bây giờ chúng ta đã đến đức tánh thứ hai mà tiếng Phạn gọi là vairagya và theo Đức Thầy gọi bằng Anh ngữ là Tánh Đoạn Tuyệt. Phiên dịch như thế thật rất đúng. Trước kia tôi dùng danh từ "không đắm mê", nhưng từ nay tôi sẽ đổi lại là Tánh Đoạn Tuyệt như  Đức Thầy đã chọn.

 

Đối với nhiều người thì tánh đoạn tuyệt là một đức tánh khó tập được, vì họ tưởng rằng những điều ham muốn tạo ra con người họ. Và nếu những điều ham muốn riêng tư, những thiện cảm và những bất thiện cảm của họ bị diệt mất, thì họ không còn cái chi cả.

 

A. B. Hầu hết những người thành tâm muốn đi trên con Đường Đạo đều nhận biết Chân lý của câu đầu tiên, trong đó Đức  Thầy nói rằng Tánh Đoạn Tuyệt là một đức tánh được chỉ định cần thiết và khó tập được. Bởi vì con người đồng hóa với dục vọng của mình nên sự khó khăn mới do đó sinh ra. Ngày nào một dục vọng chưa được thỏa mãn còn  làm cho bạn khổ sở, thì ngày đó bạn còn đồng hóa với nó. Tốt hơn là biết và nhìn nhận điều đó, bởi vì rất dễ mà tưởng rằng bạn đã thoát ra khỏi dục vọng, nhưng thật ra bạn chưa giải trừ được chút nào. Một số đông người đời thích cho rằng họ đã chủ trị được những dục vọng của họ, tuy nhiên trọn đời họ và mỗi hành vi của họ đều chứng tỏ họ chưa thoát khỏi tay chúng nó. Điều hay hơn hết là nhận ra sự thật ấy, nếu bạn chưa làm được điều đó; rồi bạn mới sẵn sàng áp dụng phương thuốc.

Bước đầu tiên là chú trọng đến ý niệm này: "Tôi không phải là dục vọng". Đến đây bạn có thể nhờ sự giải thích  của tôi về vấn đề bẩm tính. Bẩm tính này cũng thay đổi như dục vọng. Vậy cái gì thay  đổi đều  không thể là Chơn Ngã và tất cả mọi sự xao động thay đổi đều không liên hệ gì đến nó. Chẳng hạn, tôi biết có nhiều người, một hôm nói như vầy: "Hữu phước thay được ở bên Adyar và suy gẫm về những việc trọng đại xảy ra bên  ấy". Nhưng ngày mai, họ lại thấy tinh thần suy nhược, họ ngã lòng, rủn chí. Họ không phải là bẩm tính bất thường này, không phải là sự nhiệt thành, mà cũng không phải sự ngã lòng thật là bạn đâu. Cả hai chỉ là sự rung động tạm thời của Cái Vía, do sự đụng chạm bên ngoài gây ra.

Do đó, người ta khuyên  bạn  nên  tham thiền mỗi ngày, bởi vì khi dục vọng của bạn chưa nằm yên, bạn không thể nào tham thiền cho có hiệu quả được. Nhờ tham thiền  đều đặn và tận tâm dần dần bạn sẽ phân biệt được Chơn Ngã ẩn phía sau những sự ham muốn  của bạn. Hãy kiên tâm tiếp tục tham thiền trọn ngày tập lấy thái độ cần thiết, thì bạn sẽ bắt đầu phân biệt được Chơn Ngã một cách thường trực. Rồi bạn sẽ không còn đồng hóa bạn  với dục vọng của bạn và không còn luôn luôn cảm thấy rằng: "Tôi có ý định, tôi ước mong, tôi muốn" mà bạn sẽ nghĩ rằng: "Không phải là Chơn Ngã của tôi đâu  mà ấy  là bản  ngã thấp hèn của tôi đó".

Đây là bài học đầu tiên  và trọng  đại mà Đức Thầy dạy về các Đức tánh cần thiết thứ hai. Trước khi được Điểm Đạo [36], chúng  ta không bị bắt buộc phải đoạn tuyệt hoàn toàn. Tuy nhiên, Đức  Thầy mong  mỏi bạn  thực hiện được một phần lớn lao của sự  đoạn tuyệt, và đối với chúng ta, ý muốn của Ngài là một định luật . . . . Trước khi bạn có thể được Điểm Đạo, thì tất cả những sự dao động từ sự ngã lòng, rủn chí qua sự bồng bột, sôi nổi, hai cực đó đều phải chấm dứt.

 

C. W. L. Nhiều  người không cố gắng chút nào để phân biệt dục vọng với Chơn Ngã, mà họ nói rằng: "Trời sinh tôi ra thế nào thì tôi thế ấy. Nếu tánh tình tôi không tốt, ý chí tôi bạc nhược, thì cũng do Ngài tạo ra. Nếu tôi không đủ nghị lực chống chõi lại sự cám dỗ, đó là tại tôi sinh ra như thế". Họ không hiểu rằng trong những kiếp quá khứ, họ đã tự tạo ra chính họ, nhưng có thói quen xem tính khí họ như vật bất biến mà người ta tặng cho họ, cũng như một người có thể sinh ra đã đui mù hay què quặt vậy. Họ không nhận rõ họ có bổn phận sửa đổi tánh  xấu của họ. Họ không biết rằng họ có khả năng sửa đổi và họ không thấy tại sao họ phải nhọc công như thế.

Thường thường người bậc trung không thấy được lý do nào đủ sức thúc giục y đảm đương công việc rất khó nhọc để sửa đổi tánh tình. Vài người nói với y rằng: "Nếu  bạn không sửa đổi tánh tình thì bạn không được lên Thiên Đàng". Nhưng nhiều người trả lời rằng đối với họ sự buồn bực ở trên Trời không thể diễn tả được và họ hy vọng có một tương lai khác hơn. Thật ra, chắc chắn lý thuyết về đời sống trên cõi Thiên Đàng dù được truyền bá rộng rãi, nó cũng ít có ảnh hưởng thực tiễn đến đa số quần chúng, chắc chắn bởi vì  nó ít đúng với sự  thật. Trong tất cả những lý thuyết mà tôi đã biết, chỉ có một lý thuyết dường như có thể thúc đẩy con người cố gắng được mà thôi: đó là giáo lý Thông Thiên Học. Thông Thiên Học chỉ cho chúng ta việc nào đáng cho chúng ta phải cố gắng. Nó cũng chỉ cho chúng ta biết rằng chúng ta có đủ  cơ hội và thì giờ để thành công một cách  trọn vẹn. Nếu con người hiểu được Thiên Cơ và tìm cách phụng sự nó, thì y đã tìm được động lực mạnh mẽ nhất để góp công vào sự tiến hóa và chuẩn bị cho nhiệm vụ đó. Rồi y nhận biết rằng y có thể sửa đổi triệt để tính khí và bẩm chất của y và y biết chắc chắn sẽ thành công.

Chơn Ngã quyết định tiến hóa, lo phát triển Phàm Nhơn và làm cho  các thể  thấp hòa nhịp với Ngài đặng thành những khí cụ  để cho Ngài dùng. Mọi sự ham muốn thuộc về loại khác và bản tính trái ngược chứng tỏ rằng nó không thuộc về Linh Hồn. Do đó, chúng ta không nói: "Tôi muốn cái này",  mà lại  nói : "Tinh chất dục vọng của tôi lại hoạt động. Nó muốn cái này hoặc cái kia, nhưng tôi là Chơn Ngã, tôi muốn tiến hóa. Tôi muốn  cộng tác với Thiên Cơ. Tính khí và những sự ham muốn bất thường này đối với tôi  không  có  nghĩa gì hết". Khi mà một sự ham muốn chưa được thỏa mãn còn có thể làm cho con người đau khổ, thì chắc chắn y còn tự đồng hóa với tinh chất dục vọng của y.

 

Nhưng mấy người đó chưa thấy được Chơn Sư, vì khi đứng trước Thánh Dung, hào quang rực rỡ, thì sự ham muốn nào cũng tiêu tan hết, chỉ trừ việc muốn sao cho được giống như Ngài vậy. Nhưng trước khi có hạnh phúc được đối diện với Ngài, nếu con chí quyết thì con có thể tập tánh đoạn tuyệt được.

 

A. B. Điều này còn nhắc nhở chúng ta nhớ lại một đoạn Kinh  trong quyển Thánh Ca Bhagavad Gita như sau : "Những đối tượng của giác quan, chớ không phải sự ham muốn những đối tượng này, sẽ quay đi chỗ khác  tránh xa người tiết dục, và sự ham muốn còn  lại cũng bỏ y mà đi, khi người ấy thấy được Đấng Tối Cao " [37].

Tất cả dục vong đều  tiêu tan, khi con người thấy thoáng qua một đối tượng duy nhất đáng ước mong. Bởi đó khi bạn được  phép thấy Chơn Sư thì sự hiện diện của Ngài giúp bạn không những thoát khỏi những điều ham muốn, mà còn giải trừ ngay tánh ham muốn nữa. Tánh ham muốn là một cái rễ có nhiều nhánh nhóc; người ta ra công chặt đứt những nhánh nhóc này, nhưng khi mà rễ cái còn  thì nó sẽ sinh những nhánh nhóc mới khác mà sự hiệp nhất với Đức Thầy sẽ giải thoát bạn  khỏi cội rễ của mọi sự ham muốn.

Tuy nhiên, Đức Thầy nói với chúng ta rằng, trước đó, nếu con muốn, thì con sẽ đạt được Tánh Đoạn Tuyệt. Ba chữ "Nếu con muốn" chứng tỏ một sự  quan trọng  đặc biệt. Chúng chỉ cho chúng ta thấy đâu là chỗ khó khăn. Không phải chỉ là tài năng mà thôi, nhưng hầu hết luôn luôn không có ý chí hoạt động. Nếu nghị lực  của bạn  dùng để lo lắng cho công việc của bạn trên Đường Đạo  cũng bằng nghị lực của bạn sử dụng để điều khiển hoạt động của bạn ở thế gian, thì sự tiến bộ của bạn sẽ nhanh chóng hơn nhiều.

 

C. W. L.   Đây là một trong những câu châm ngôn đẹp nhất trong  quyển sách quí giá này. Thật thế, khi bạn thấy được Chơn  Sư và hiểu được Ngài là sao, thì mọi dục  vọng thấp hèn của bạn đều tiêu tan. Trọn cả con người bạn đều thấm nhuần một thứ gì cao thượng hơn. Nhiều người mong muốn có Tánh  Đoạn Tuyệt, nhưng họ luôn luôn bám víu vào những vật họ ham muốn và họ đau khổ  khi thiếu chúng nó. Thật sự họ không ước mong có Tánh Đoạn Tuyệt đâu. Họ chỉ có tư tưởng cầu mong mà thôi. Đó chỉ là bề ngoài, chớ không phải trong thâm tâm của Phàm Nhơn họ. Điều hay hơn hết chúng ta nên tự vấn chúng ta trên phương diện này, chúng ta suy xét kỹ lưỡng để xem coi chúng ta có quả thật thoát khỏi những dục vọng thấp hèn này chưa. Người Thông Thiên  Học thường cho rằng mình đã đạt được Tánh Đoạn Tuyệt và xem dục vọng như những vật vô hại, nhưng có nhiều vật nhỏ mọn không đáng kể đó lại bám rễ rất sâu. Người ta tảo thanh chúng nó trên mặt, nhưng chúng nó xuất hiện lại dưới những hình thức mới và thật khó quả quyết là chúng nó mất hẳn. Phước  thay cho chúng ta, trong tình trạng hiện tại, không phải bắt buộc tận diệt các dục vọng. Sau khi được  Điểm Đạo, những rễ của vài thứ dục vọng còn sống sót, nhưng rồi phải nhổ tận gốc chúng. Tuy nhiên, tốt hơn hết nên nhổ sạch chúng ngay bây giờ đây. Bước tiến hóa của chúng ta sẽ dễ dàng và nhanh chóng hơn. Chúng ta thực hiện điều này được, vì Đức Thầy không hề khêu gợi điều gì mà chúng ta không thể  làm được, dù  Ngài có đưa đến cho chúng ta những nhiệm vụ để thử thách sự bền chí hay sức mạnh tinh thần của chúng ta; đó là những nhiệm vụ cần thiết nếu chúng ta muốn tiến bộ nhanh chóng.

 

Tánh phân biện đã chỉ rõ rằng những vật mà phần đông người đời khao khát như của cải, quyền thế, thì không đáng nhọc công chiếm hữu chút nào. Song khi nào thật hiểu điều này, chớ không phải chỉ nói ra mà thôi, thì sự ham muốn mấy điều đó mới tiêu tan.

 

A. B. Những sự ham muốn về của cải và quyền thế đều mang nhiều hình thức khác nhau, chúng không luôn luôn thuộc về tiền tài,  thế lực của xã hội hay chính trị. Thường thường tài sản là vật mà người ta ước muốn đầu tiên, nhưng chính nó không phải là  một vật sở hữu có ích lợi, vì nó khuyến khích sự ham muốn và không bảo đảm được hạnh phúc, như người ta có thể nhận thấy ở những nhà giàu, họ không làm ra một hạng người có phước. Đối  với quyền tước xã hội hay chính trị cũng thế. Tất cả là bụi bậm, hào nhoáng, đồ giả chớ không phải vàng ròng. Kinh Gita có nói  rằng: "Người khôn ngoan luôn luôn bằng lòng, mặc dù có những gì xảy đến cho họ; hoặc nói cách khác, người vui lòng và lợi dụng  những gì có thể giúp ích được mà không mất thì giờ và nhọc công cầu xin điều gì khác".

Ít có người chiếm được  địa vị cao sang trong xã hội hay chính trị, nhưng dù không chiếm được địa vị đó đi nữa sự cám dỗ của quyền tước cũng vẫn thường có. Quyền tước bao gồm sự ham muốn bắt buộc  kẻ khác tuân theo mệnh lệnh  của mình, cùng là can thiệp vào những công chuyện của người khác và điều khiển chúng thay vì phải lo liệu những công việc riêng của mình. Sự  ham muốn quyền tước trong xã hội hay chính trị chắc là không lan rộng lắm, nhưng thường thường người ta chú ý đến một điều ao ước  xấu xa là muốn  thấy kẻ khác hành động  theo ý  tưởng của chúng ta. Phải trừ khử tánh này, nếu chúng ta muốn tiến bộ. Những người đã quyết định đi đến mục đích, như phần đông chúng ta, thì sẽ thấy ngay rằng bản ngã thấp hèn của chúng ta cho chúng ta nhiều điều phải làm, nó không cố gắng xúi giục chúng ta xen vào đời sống của thiên hạ. Chơn Ngã ở trong ta cũng là một với Chơn Ngã ở trong những kẻ khác và cách Chơn Ngã thích biểu hiện trong  những kẻ khác chỉ liên hệ đến họ, chớ không dính dấp gì đến chúng ta. Thế nên, phải từ  bỏ mọi khuynh hướng can thiệp.

Bạn không có quyền can thiệp, chỉ trừ khi nào bạn có bổn  phận,  nghĩa là trong trường hợp duy nhất mà bị hạn chế là bạn có quyền điều khiển những người mà Tạo Hóa hay Nhân Quả đặt để dưới quyền bạn, chẳng hạn như con cái, tôi tớ hay thợ thầy của bạn. Đối với trẻ con, sự chỉ huy là sự  bảo vệ nó trong suốt thời kỳ nó còn yếu  đuối cần được chở che. Sự chỉ huy phải giảm dần dần  khi Chơn Nhơn của nó chiếm lấy những  thể của nó một cách trọn vẹn hơn. Đối với những người đồng đẳng với bạn (tôi dùng chữ đồng đẳng với nghĩa rộng của nó), thì lẽ tất nhiên là bạn không có quyền can thiệp.

 

C. W. L. - Những người thường muốn lo lắng cho mấy kẻ khác, chỉ vì họ tưởng rằng họ có khả năng điều khiển công việc của mấy người đó. Nhưng  rốt cuộc  họ không biết gì hết. Thiên lực  đang hoạt động trong mỗi người; chúng ta hãy để nó hành động theo cách thế riêng của nó. Đấng Christ há chẳng nhắc nhở những người Do Thái đoạn này trong Thánh Kinh của họ sao: "Các người là những vị Thượng Đế, và vì việc họ là con cái của Đấng Tối Cao" [38]. Có lẽ đồng bào của bạn hành động đúng; cũng có lẽ sai lầm, nhưng khi mà y thành thật, đúng đắn và chăm chú làm hết sức mình  thì mọi sự sẽ tốt đẹp. Hãy để y thắng điểm, dù bạn là tay  đánh cầu giỏi hơn y. Đôi khi, người ta có thể khuyên lơn kẻ khác thật khéo léo, có lễ độ và thận trọng, nhưng thường lắm, khuyên như  thế cũng là vô lễ nữa. Dù bất cứ trường hợp nào cũng đừng bao giờ bắt buộc ai nghe theo ý mình. Việc lo lắng đầu tiên của chúng ta là phải sắp đặt công chuyện của chúng ta cho có trật tự, bởi vì mỗi người  phải chịu  trách nhiệm đối với chính mình mình.

 

CHƯƠNG THỨ MƯỜI BỐN

Y

DUY CÓ MỘT ĐIỀU HAM MUỐN TỐT HƠN HẾT

 

Tới đây tất cả đều dễ, miễn là hiểu thì đủ rồi. Nhưng có vài người từ bỏ việc đeo đuổi mục đích trần tục hầu về thiên đàng hay là để riêng mình thoát đọa luân hồi. Con đừng phạm lỗi đó.

 

C. W. L. Ý muốn giải thoát cho riêng mình được biểu lộ nhất ở Ấn Độ, vì tại đây việc tin tưởng vào sự Luân Hồi được phổ biến rất rộng rãi. Đối với người Thiên Chúa Giáo bực trung thì Thiên Đàng cũng là giải thoát chúng ta khỏi đời sống trần tục. Vì những bài học này để dạy một bé trai Ấn Độ, nên trước nhất, nó được đem áp dụng theo những tình thế đặc biệt của xứ Ấn Độ, mặc dù những ý niệm ấy cũng có thể giúp ích rất nhiều cho thế giới Tây Phương của chúng ta. Là người Thông Thiên Học, chúng ta không cố gắng quá sức để được hưởng hạnh phúc trên cõi Thiên Đàng, nơi mà con người phải trải qua nhiều trăm năm hoặc nhiều ngàn năm giữa hai kiếp luân hồi. Nhiều người trong chúng ta thích từ khước trọn vẹn hạnh phúc đó và trở lại tiếp tục liền công việc dưới thế gian. Hơn nữa, đối với những người thành tâm từ khước thì nguyện ước có thể được chấp thuận. Nhưng muốn thực hiện điều này, chúng ta phải có một sức mạnh, vì chúng ta sẽ đem hai Thể Vía và Trí cũ vào trong một Xác Thân mới.

Không phải Thể Vía và Thể Trí bị mỏi mệt như cái óc xác thịt. Ở đây có một nguyên do khác xen vào là trong kiếp này Thể Vía và Thể Trí chúng ta biểu thị con người của chúng ta giống in như chúng ta lúc ở kiếp chót mới rồi. Khi tiến tới trong cuộc đời, nếu chúng ta sửa chữa chúng rất nhiều, song có lẽ chỉ đạt đến một mức độ nào đó thôi. Chúng ta hãy lấy một thí dụ: có một giới hạn mà khi vượt qua khỏi nó rồi, thì một chiếc xe hơi không thể sửa chữa được nữa hoặc sửa cho tốt hơn. Thường thường thì mua một chiếc xe hơi mới còn hay hơn là tìm cách tân trang cái cũ. Đối với Thể Vía và Thể Trí cũng hơi giống như thế. Sự sửa đổi chúng triệt để đòi hỏi nhiều thì giờ, và có lẽ sự sửa đổi đó rốt cuộc vẫn còn bất toàn. Nếu trong kiếp này  khả năng  con người đã phát triển nhiều, tốt hơn  vì sự  tiến hóa của y, y nên lấy những Vía, Trí mới khác để phát biểu, thay vì vá víu và sửa chữa những thể cũ lại. Việc đầu thai nhanh chóng như thế không phải bao giờ cũng có thể thực hiện được. Tuy nhiên, trước tình thế hiện tại và đặc biệt cần có những người làm việc  và Đức Chưởng Giáo sắp lâm phàm, cho nên thiết tưởng những ai sống một cuộc đời siêng năng và tha thiết muốn đầu thai lại ngay để tiếp tục công việc phụng sự, đều có thể thấy ước nguyện của mình được thành tựu.

Có một đời sống bình thường ở bên kia cửa tử và những ai theo con đường đó thì không cần có những sự chuẩn bị đặc biệt. Còn trái lại, người nào không muốn ở cõi Trung Giới thì phải đệ đơn, hoặc có một vị làm đơn thế cho y. Đơn này phải trình lên Đấng Cao Cả có thẩm quyền, Ngài có thể chấp thuận, nếu Ngài xét thấy "được", nhưng Ngài có thể từ chối, nếu Ngài nhận thấy Ngài hành  động như thế hữu ích cho đương sự. Thiết tưởng những người lo lắng về vấn đề này có thể an tâm: những ai mới làm việc giỏi chắc chắn sẽ có những cơ hội khác để theo đuổi con đường phụng sự của mình. Ai mong mỏi được đi đầu thai lại liền phải tự làm cho mình  trở nên người cần thiết và phải chứng tỏ mình là người sẽ giúp đời khi được  trở lại cõi Trần một cách nhanh chóng. Vả lại đây là cách hay hơn hết để tạo Thể Trí và Thể Vía có đủ điều kiện cần thiết.

 

Nếu con thật quên mình con trọn vẹn, thì con không còn nhớ tự hỏi lấy con, chừng nào bản ngã con mới được giải thoát, hoặc nó về ở cảnh trời nào. Con hãy nhớ rằng mỗi việc ham muốn ích kỷ, dù mục đích cao thượng  thế mấy đi nữa cũng là  một sợi  dây ràng  buộc; và ngày nào con không diệt hết những  điều ham muốn, thì ngày đó con chưa được rảnh rang đặng hiến mình cho công việc của Chơn Sư.

 

A. B. Đừng quên rằng hai cõi Trung Giới và Thượng Giới vẫn  làm bằng  vật chất, mặc dù chúng được cấu tạo bằng chất khí thanh bai hơn chất Hồng Trần. Chúng nó cũng là cõi hữu hình dẫy đầy những đồ vật kích thích sự ham muốn. Sự ham muốn về Thiên Đàng ở cõi Hạ Thiên, cũng như sự ham muốn của Phàm Nhơn ở cõi Trần: nhưng  cõi Thiên  Đàng chỉ xa xôi hơn và mịn màng hơn. Sự ham muốn thứ nhất hơn sự ham muốn thứ nhì bởi nó chống lại bản chất của dục vọng vì bản chất này không được thỏa mãn ngay tức khắc. Như  thế sự ham muốn về cõi Thiên Đàng thường giúp cho con người thoát khỏi những sự ham muốn thường tình và đồng thời nó chuẩn bị con người đi tìm kiếm những thú vui cao thượng hơn và trong lòng nghĩ đến chúng nhiều hơn là nhớ đến thú vui thô tục. Dĩ nhiên, đối với nhiều người rất vô ích mà nói với họ rằng : "Các anh hãy diệt sự ham muốn đi". Bạn muốn giúp một người bỏ những thú vui ăn uống và những thú vui xác thịt ư, bạn hãy thức tỉnh y đặng y ham muốn về cõi Thiên Đàng, hầu giúp y không  còn nuôi dưỡng những sự ham muốn thấp hèn nữa. Vì vậy tất cả các Tôn Giáo đều  nhấn mạnh về thuyết Thiên Đàng và Địa Ngục.  Chính Đức Phật cũng đề cập đến vấn đề này khi Ngài nói với những người thường.

Những người chí nguyện theo đuổi con Đường Đạo chẳng những phải dứt bỏ ý muốn lên Thiên Đàng mà còn phải từ bỏ ý muốn riêng mình được giải thoát khỏi vòng sinh tử, luân hồi, nghĩa là ý muốn "moksha" [39]. Lý do rất giản dị và Đức Thầy đã giải ở đây. Nếu bạn hoàn toàn quên mình, bạn không thể nghĩ đến việc này, chúng tiêm nhiễm vào  bản ngã của bạn. Bạn  không thể  ham muốn chúng nữa, nếu bạn có ý định hy sinh cho công việc của Đức Thầy.

Nhiều người mong mỏi có dịp để phụng sự bằng cách này hoặc bằng cách khác, nhưng vị đệ tử phải mong ước phụng sự Đức Thầy theo ý Ngài muốn và ở nơi nào mà Ngài xét thấy sự phục vụ của y cần thiết. Không thể phụng sự vô điều kiện khi mà tấm lòng chưa được rảnh rang. Một trong những Kinh Upanishad có nói  rằng: "Khi mà những sợi  dây ràng buộc tấm lòng chưa bị chặt đứt, thì con người không thể được Trường Sanh Bất Tử”. Câu châm ngôn này thật quá nghiêm khắc, nếu chúng ta kể vào số những sợi dây ràng buộc những tình thương mến mà chúng ta quí trọng vô cùng. Tuy nhiên, câu  ấy không nói rằng trái tim phải bị tan vỡ (cõi lòng tan nát). Không; chính là những sợi dây ràng buộc phải được chặt đứt, để cho tình thương trong lòng chúng ta chiếu  ra vô tận vô biên. Bạn nên hiểu thật rõ điều  tôi nói và đừng làm cho tôi nói rằng tình thương không phải là một  tình cảm tốt đẹp. Không phải tình thương ràng buộc chúng ta, mà chính là những yếu tố  ích kỷ lắm khi trà trộn vào. Theo bản chất của nó, tình  thương  của Chơn Ngã trong người này đối với Chơn Ngã trong người kia thì bất diệt, dù chúng ta muốn biến đổi nó, cũng vô hiệu. Nhưng khi tình thương đối với Chơn Ngã bị tình thương hình thức xen vào thì những dây ràng buộc thắt chặt với nhau và do đó chính tình thương có thể trở thành một sự nô lệ.

Cách thế duy nhất để  bạn đạt được tình trạng giải thoát hầu lo lắng cho công việc của Đức Thầy là bạn phải không ngớt cố gắng chặt đứt hết những sợi dây trói buộc. Nếu bạn thấy trong tình thương của bạn có một yếu tố làm cho bạn đau khổ, thì chính vì nó dung dưỡng tánh ích kỷ cần phải được loại trừ. Hãy xua đuổi tánh ích kỷ đi, tình thương của bạn sẽ trở nên dũng mãnh hơn, cao thượng hơn và tinh khiết hơn. Một tình thương như thế không bao giờ có thể phương hại đến công việc của Đức Thầy. Giả sử bạn muốn đến một chỗ kia để tìm một người mà bạn muốn gần gũi; bạn nên từ bỏ ý định này. Đây là một thí dụ về cách chặt đứt có phương  pháp những sợi dây vì  ích kỷ đã ràng buộc bạn với những người và vật. Hãy chặt đứt những sợi dây trói buộc đó.

Vấn đề này chỉ nói với những người mà sự quyết định không  thể lay chuyển được, chớ không phải nói với những ai muốn đi trên đường tiến hóa êm dịu và bình thản. Bạn nên nhớ kỹ, những người đó không đáng trách chút nào, Mỗi người đều có quyền tự do đi tới mau hay chậm, tùy ý. Lúc này đây tôi nói với người quả quyết, và cho vấn đề này hết sức quan trọng. Chơn Sư  luôn  luôn tìm kiếm những tánh tình này, nhưng không thường gặp được.

Một  lần nữa, tôi nói đây là sự kinh nghiệm riêng của tôi, vì tôi đã gặp những nỗi khó khăn ở  điểm đó. Lúc tôi bắt đầu luyện tập, khi tôi cảm thấy mình tha thiết muốn ở gần một người nào, thì tôi lại cố gắng dang xa ra. Nếu bạn khá khôn khéo và có nghị lực, thì bạn thường có thể cởi bỏ được những sợi dây ràng buộc trong lòng bạn mà không để cho những người chung quanh bạn hay biết điều đó. Bạn vẫn có tình thương như trước và thái độ bên ngoài của bạn cũng không thay đổi, nhưng trong lòng bạn, bạn tháo mở sợi dây ràng buộc cá nhân. Vì thấy rõ điều phải làm, rồi hoàn thành điều đó có phương pháp mà vài người đã tiến xa hơn phần đông chúng ta. Bạn sẽ thấy sự cố gắng này không khó khăn vì nhờ bạn luôn luôn nhớ rằng bạn không thể hiến thân trọn vẹn cho công việc của Chơn Sư, trước khi cắt đứt tất cả những mối dây ràng buộc.

 

C. W. L. Đoạn này chỉ cho chúng ta thấy sự ham muốn về cõi Thiên Đàng thuộc về Phàm Nhơn. Nó hữu ích cho một giai  đoạn tiến hóa của con người trước khi được làm đệ tử. Nó có một vị trí trong Cơ Tiến Hóa. Người cổ sơ chỉ nghĩ đến việc ăn uống và  những  lạc thú tương tợ khác. Giảng cho y về việc đoạn tuyệt với sự ham muốn thật vô  ích, vì trước tiên y phải trải qua giai đoạn những ham muốn thanh cao và ít thô tục hơn. Chúng ta chỉ có thể nói với y như vầy: "Bạn hãy cố gắng thanh lọc những sự ham muốn của bạn. Có nhiều việc khác rất cao thượng hơn những điều mà bạn đang suy nghĩ. Nếu bạn  muốn đi đến chỗ cao thượng đó trong tương lai thì bạn chớ nên để những tình cảm của bạn được tự do phóng túng". Người đời chỉ có thể tiến bộ từng bước một. Chỉ có những người dũng mãnh hơn hết mới có thể vượt lên một cách  nhanh chóng đến những cao độ trên Đường Đạo. Còn đối với độc  giả của quyển sách này muốn noi gương Alcyone, ngay từ bây giờ, thì hãy cương quyết dứt bỏ mọi ham muốn ích kỷ, vì chúng chính là những sợi dây ràng buộc. Như tôi đã nói trước đây: Tình thương bắt tấm lòng làm nô lệ nếu nó chứa đựng một chút ích kỷ, nhưng khi không còn một tư tưởng riêng tư nào lẫn lộn, thì nó trở thành một quyền lực của tâm hồn. Trước khi cắt đứt những sợi dây ràng buộc, trước khi nhổ bật rễ tánh ích kỷ, thì tình thương cũng có thể vừa là một chướng  ngại, vừa là một sự phù trợ.

Bên Ấn Độ và nhiều xứ khác, vấn đề này thường bị hiểu lầm, vì sự  lầm lộn tình thương ( không ích kỷ) và sự ham muốn ( ích  kỷ) . Vài triết gia đã cố làm cho lòng mình chai ngắt để trở nên lãnh đạm và thoát khỏi sự khổ đau bằng cách xa lánh tình yêu. Họ đã làm vậy: phương pháp này tạo ra những người phát triển có phân nửa, họ mở mang trí thức nhưng không biết cảm động. Chúng ta phải có khả năng biểu lộ ngay cả những lượn sóng tình cảm vĩ đại, nhưng những lượn sóng này phải là phản ảnh của những cảm xúc cao thượng phát sinh từ Chơn Nhơn; chúng phải thuộc quyền kiểm soát chặt chẽ của chúng ta, chớ không phải sự bồng bột của Cái Vía, lôi cuốn chúng ta để làm trò chơi của Tinh chất ham muốn. Chế ngự tình cảm bằng cách hủy diệt nó cũng phi lý như việc muốn tránh quả báo xấu bằng cách không làm gì hết. Đức Thầy muốn cho chúng ta càng ngày càng hữu ích cho nhân loại bằng những hành động, bằng những tình cảm và bằng những tư tưởng của chúng ta. Chúng  ta càng hoạt động theo ba đường lối tư  tưởng đó thì mỗi người càng cảm thấy được kết quả tốt lành.

 

Khi tất cả những sự ham muốn thuộc về phàm ngã đã tiêu tan, cũng có thể còn lại một sự ham muốn là thấy kết quả công việc của con làm. Nếu con giúp ai thì con muốn biết con giúp người đó tới bực nào, có lẽ con cũng muốn cho y thấy điều đó và biết ơn con nữa. Mà điều này cũng vẫn còn là một sự ham muốn . . . . .và đồng thời là một sự không tin cậy.

 

A. B. Đó là điều  mà quyển Thánh Ca Bhagavad Gita gọi là hành  động mà không vì cái kết quả. Nếu bạn thật tâm hành động,  thì bạn không có thì giờ để lo lắng đến  kết quả và cũng không có thì giờ để xem lại tác phẩm của bạn đã hoàn tất.  Hễ  việc này  vừa xong, việc khác lại đến với bạn. Bạn sẽ mất thì giờ, nếu bạn xem xét những kết quả. Nếu bạn nghĩ đến công việc đã thực hiện, thì  làm thế nào bạn có thể hoàn thành nhiệm vụ mới. Trong vấn đề giúp đỡ cá nhân - là vấn đề thú vị hơn hết vì nó căn cứ trên tình thương riêng  tư - bạn chớ tìm hiểu người được giúp đỡ có biết ơn bạn hay không. Làm như thế chẳng khác nào bạn chạy theo sau người mà bạn mới hiến một món quà để xem coi y có biết ơn bạn không và đòi hỏi y những lời cảm tạ. Hành động như thế không phải là cho, mà chính là buôn bán vậy. Ở đây không có sự đổi chác! Chắc chắn bạn đã nhớ chuyện Đấng Christ đã đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, dù họ chỉ bán những lễ vật để cúng tế. Ngài nói  với  họ  rằng: "Các ngươi chớ nên làm cho ngôi nhà của Cha ta thành ra một tiệm buôn" [40].

 

C. W. L. Không ai ít rảnh rang hơn nhà Huyền Bí Học. Khi vừa làm xong việc này, lại bắt tay vào việc khác, không dừng lại ngắm cái kết quả của công việc vừa hoàn tất. Giả sử bạn làm phận sự của một người điều dưỡng hay người phụ tá ngoài chiến trường. Đối với người bị thương này bạn phải săn sóc với tất cả khả năng của bạn, rồi bạn  lại lo cho một người khác tức khắc, không thể chờ  đợi trong nửa giờ để chắc ý hiệu quả đã đạt được, cũng không thể xem xét coi người bệnh có cơ may mắn được bình phục không. Công việc  của Đức Thầy cũng giống như thế. Chúng ta không có thì giờ hay là ngưng lại để nghĩ  đến những kết quả cuối cùng và nhất là nghĩ đến những kết quả đó đối với chúng ta. Mong ước những cố gắng của mình được kết quả tốt đẹp và vui mừng về sự thành công khi nó đến là việc thường tình của nhân loại, nhưng chúng ta phải vượt qua những nhược điểm này của loài người bởi vì mục đích của chúng ta là sự tiến đến bực Siêu Phàm. Khi một  công việc của chúng ta làm hoàn thành mỹ mãn, ta có thể vui mừng, mà ta cũng phải vui mừng như vậy khi thấy kẻ khác thành công như ta.

Đoạn này đề cập đến ý muốn cho người mà bạn giúp đỡ thấy việc làm của bạn và biết ơn bạn. Mọi cảm nghĩ như thế không  mang tính chất một tặng vật, mà là một cuộc buôn bán vậy. Khoa Pháp Môn chỉ nhìn nhận có một cách cho ra mà thôi: ấy là cách Thượng Đế ban rải tình thương, như mặt trời bủa rải sự sống.

 

Khi con ra sức giúp đỡ, tất nhiên phải có kết quả, dù con thấy hay không cũng vậy, nếu con thông hiểu luật trời, ắt con biết phải có như thế luôn luôn.

 

A. B. Trong quyển Theo gương Chúa Jésus ­Christ có đặt ra câu hỏi này: "Ai muốn phụng sự mà không đòi hỏi chi cả"? Người đệ tử phải làm việc vì thích làm việc, mục đích  của nó không phải là kết quả đạt được, cũng không phải vì nỗi vui mừng và sự thỏa thích mà nghĩ rằng: "Tôi phụng sự". Vị đệ tử  phải  hy sinh cho nhân loại vì thương đời. Lẽ dĩ nhiên cái kết quả vẫn chắc chắn, vì chúng ta sống trong một thế giới do định luật cai quản. Vậy chúng ta không  cần  phải  bận  tâm  đến nó. Thường thường việc làm của chúng ta  không có tính cách sinh ra những kết quả tức khắc tại cõi Trần, nhưng nó đem ta đến gần lúc thành công mỹ mãn. Rồi một người khác sẽ đến để hoàn tất công việc, nhưng nếu trước đây không có những người ra công khó nhọc mà không thấy kết quả đó thì công nghiệp  ấy không bao giờ thành tựu.

Chúng ta không thể thực hiện một công việc quan trọng nào được, nếu chúng ta không tin chắc ở Luật Trời, vì tất cả những công nghiệp trọng yếu đều kéo dài một  thời gian  rất lâu. Chúng ta hãy xem  công việc  của Đức Bàn Cổ chẳng hạn. Từ hàng ngàn năm này đến hàng ngàn năm khác trôi qua, trước khi có sự biểu hiện mà bạn gọi là  kết quả. Một  định luật tương tợ cũng áp dụng cho công việc xây cất một ngôi nhà lớn, vì cần phải đào sâu nền móng. Một phần chính công việc của chúng ta là phải xây những nền móng vô hình. Sau này một người thợ xây cất khác đến đặt  trên móng một hàng gạch. Hàng gạch này được thấy ngay. Vậy thì về điều này những nền móng có vô ích chăng ?

Kết quả thế nào cũng đến. Hãy làm việc một cách bình tĩnh và có phương pháp, không bao giờ bạn thất vọng. Mọi sự thất vọng đều do ý muốn thu gặt kết quả việc làm. Có thể bạn theo đuổi công việc một cách  cương quyết và lâu ngày mà không thấy hiệu quả gì đáng kể. Tuy nhiên một ngày kia, kết quả bỗng thình lình hiện ra. Một nhà Hóa Học bỏ từ hạt muối trong một dung dịch đến độ bảo hòa [41]. Một thời gian qua trong chất lỏng kia hình như không xảy ra tác dụng gì, tuy nhiên chỉ một hạt muối sau cùng rơi vào, thì dung dịch ấy bỗng đặc lại. Công việc của chúng ta cũng giống như thế: thình lình người ta thấy nó hoàn tất. Chúng ta dọn đường cho sự lâm phàm của Đức Chưởng Giáo. Chúng ta phải hết sức làm việc, chúng ta bình tĩnh, tin tưởng và nhẫn nại, chúng ta hy sinh cho công việc của chúng ta. Khi Đức Di Lạc lâm phàm, Ngài sẽ thâu lấy tất cả những gì chúng ta đã  làm; rồi kết quả sẽ hiện ra trên thế gian.

 

C.W. L. Thường thường phải có sự cố gắng liên tục của nhiều  người mới đạt được một kết quả quan trọng. Nếu cần phải  thực hiện một cuộc cải cách lớn lao trên Thế gian, thì thường có một người hay nhiều người nhận thấy sự  cần thiết này và họ bắt  đầu đem truyền bá tư  tưởng ấy bằng những cuộc diễn thuyết hoặc bằng sách vở. Họ bị thiên hạ cười chê và sự cố gắng của họ dường như vô ích, nhưng họ đã thuyết phục được vài người và những người này theo đuổi công việc  cho đến khi xã hội công nhận cuộc cải cách ấy. Công trình của những người gia nhập sau này không thể thành tựu nếu không có sự cố gắng dường như vô ích của những bực tiền phong.

Thường lắm khi chúng ta theo đuổi một công việc cho tới khi nó sắp thành tựu. Một người khác đến và hoàn tất nó. Công trình của người sau này được thừa nhận và y sẽ được xem như là người đã thực hiện tất cả công việc. Chúng ta đừng lo đến điều đó. Công lao của chúng ta được biết đến hay không cũng không có gì quan trọng, nhưng chúng ta hãy vui mừng vì được phép làm việc. Nghiệp quả của chúng  ta sẽ dành cho chúng ta kết quả của sự cố  gắng kia và hiện giờ người ta làm hoặc nói gì về việc ấy cũng không quan hệ chi. Người nào làm việc một cách khoa học, hiểu  biết điều  mình làm, chỉ nhớ đến kết quả của một việc làm tốt đẹp trong một lúc hoặc một phương diện nào đó, sẽ không bao giờ thất vọng.

Khi Đức Chưởng Giáo lâm phàm, Ngài sẽ góp nhặt tất cả công việc  của chúng ta để Ngài tiếp tục công việc đó và làm cho nó được hoàn bị; thế rồi tất cả công việc  này dường như vốn của Ngài làm. Trong một ý nghĩa nào đó, điều này thật đúng, vì nguồn cảm hứng của chúng ta đều phát sinh  từ nơi Ngài. Tuy nhiên, một phần lớn công nghiệp có thể được hoàn thành do công lao vô hình và  dường như không lợi ích chi cả của một số người khiêm tốn đã đóng góp trước kia. Chúng ta có cơ hội ở trong hàng ngũ của những  người này là một đặc ân lớn lao mà chúng ta có thể mong ước.

Nếu hiểu biết Luật Trời, chúng ta có thể sử dụng nó trong mọi  trường  hợp: điều này không những đúng đối với những sự hoạt động không ngớt của chúng ta trên những cảnh giới tinh thần, mà còn ở tại cõi Trần nữa. Mỗi tư tưởng của chúng ta đều tạo ra một  hình dạng trên cõi Trung Giới hay là cõi Thượng Giới. Hình tư tưởng này đi tìm người hay vật  mà ta nghĩ đến nó, nó bay lơ lửng chung quanh, hoặc truyền sang tinh lực tốt hay xấu (tùy theo bản chất và đặc tính của nó) qua người hay vật nào liên hệ đến nó. Vẫn không khó nhọc gì mà tạo nên một  hình tư tưởng lành cũng như tạo nên một hình tư tưởng ác. Tất cả đều tùy thuộc vào thái độ trí tuệ. Người ta sẽ  bảo: "Thái độ của tôi chỉ quan hệ đến  một mình tôi thôi, và chỉ quan hệ trong lúc này đây". Không đâu, nó cũng quan hệ đến bạn trong ngày kế đó, trong tháng tới, hoặc trong  năm tới, vì nó tạo ra những tư tưởng phản ứng lại bạn. Mỗi khi một tư tưởng được lập lại thì nó được tăng thêm sức mạnh. Chúng ta có bổn  phận tạo ra những hình tư tưởng tốt đẹp về mọi phương diện, mặc dù chúng nó vô hình, nhưng chúng sẽ đạt được mục đích không hề sai lầm.

 

Vậy thì phải làm lành bởi chưng ưa thích việc lành, chớ chẳng phải trông mong được ban thưởng. Phải làm việc vì ưa thích sự làm việc, chớ chẳng phải trông mong được thấy kết quả. Con phải xả thân giúp đời, vì  con thương đời và bởi tại con không còn  làm cách nào khác được nữa.

 

C. W. L. Tình thương quả thật là một động cơ mạnh nhất. Từ đầu chí cuối của quyển sách này, cũng như những tác phẩm gần  đây do nó linh cảm, người ta có thể chú ý đến việc lập đi lập lại  một cách  mãnh liệt  và việc nhấn mạnh về sự cần thiết của tình thương, như là một giải thích tất cả mọi việc và cũng là một phương thuốc chữa mọi chứng bệnh. Tình thương sẽ là điểm chính yếu trong giáo lý của Đức Chưởng Giáo, khi Ngài lâm phàm, vì  vậy cho nên  điểm ấy  được nêu lên thật rõ rệt trong giáo lý của những ai cố gắng chuẩn bị cho cuộc lâm phàm này với khả năng tầm thường của mình.

Một việc khác nữa mà sinh viên  phải chủ ý là: trong suốt quyển này Chơn Sư xem điều sau đây đã được chấp nhận là: Chúng  ta đều sốt sắng và đối với chúng ta chỉ có sự làm việc là quan trọng duy nhất  thôi. Chắc chắn đó là cách hay hơn hết để  đem chúng ta đạt đến trạng thái trí tuệ này, nếu mà trong bầu không khí của chúng ta còn lưu lại vài mảnh của ý tưởng khác. Trong tâm trí của Đức Thầy, dĩ nhiên chỉ có Một tư tưởng mà thôi:  ấy là Phụng Sự. Không có gì có thể khích  lệ chúng ta bằng ý Ngài muốn thấy chúng ta trở thành người phụng sự.

Thường lắm, chúng ta tự cản trở bước đường của mình. Chúng ta phải tự  nép  qua một bên để Chơn Ngã chúng ta có khả năng hoạt động, vì bao giờ chúng ta còn e dè, bao giờ chúng ta còn giữ lại một món gì vì không bằng lòng hy sinh nó cho công việc của Chơn Sư thì chúng ta tự cản trở bước đường của mình. Thật ít khi gặp được một người không giữ lại chút gì; y hiến thân trọn vẹn cho công việc của Chơn Sư, và không ngần ngại mà cho tất cả. Điều đó ít khi thấy, nhưng ai có được đức tánh này sẽ tiến xa và nhanh chóng vô cùng.

 

CHƯƠNG THỨ MƯỜI LĂM

  Y

 NHỮNG PHÉP THẦN THÔNG

 

Con đừng ham những phép thần thông, con sẽ có, khi Chơn Sư xét thấy đã đúng ngày giờ.

 

A. B. Nên hiểu rằng danh từ "phép thần thông" là tất cả những năng lực ý thức lấy vật chất tạo thành Xác Thân, Thể Vía, hay là Thể Trí làm trung gian để biểu lộ ra. Vậy tất cả những  năng lực  trí  tuệ  đều là những phép thần thông. Sự phân biệt giữa quan năng thường của trí tuệ phát sanh do từ bộ óc và nhiều thứ Thần Nhãn  hoặc những  quan năng tương tợ, đều sai lầm. Nhiều người nổi lên phản đối việc hoạch đắc những phép thần thông, trong khi hằng ngày họ sử dụng chúng do xác thịt làm trung gian. Họ trách  cứ Thần Nhãn, mà họ dùng con mắt của xác thịt. Trách cứ Thần Nhãn là vô lý, trừ phi họ theo quan điểm của những người Yogi bên Ấn Độ; đối với mấy vị này những giác quan của xác thịt cũng như giác quan tinh thần đều là một chướng ngại. Lập luận của mấy  người này  thật đúng. Họ không thừa nhận giá trị giác quan nào của chúng ta, vì theo ý họ, thì chúng ta đưa họ tiếp xúc chặt chẽ với những thế giới của ảo mộng mà họ muốn vượt khỏi. Tôi không  đồng ý với họ. Tôi thiết tưởng tốt hơn phải được tinh khiết và sử dụng quan năng của chúng ta trên tất cả những cõi Trời, nhưng  trong khi chờ đợi cho thái độ căn bản của những nhà Yogi này được nhìn nhận, chúng  ta thấy một phần lớn của những lời phản đối về phép thần thông đều phi lý.

Thật ra, khi bắt  đầu  dùng  những  giác quan của Cái Vía, luôn luôn có thể xảy ra sự sai lầm. Vả chăng những giác quan của xác thịt cũng có thể gạt gẫm chúng ta. Chẳng hạn vài ảo ảnh thị giác do sự tiêu hóa không được điều hòa và bệnh gan sinh ra, tôi vẫn không kể vào loại này, như các y sĩ đã làm, nhiều hiện tượng quả thật thuộc về thị giác của Cái Phách hay của Cái Vía. Một thí dụ dễ nhớ về việc giác quan gạt gẫm chúng ta là hiện tượng mặt trời mọc; bạn biết rằng mặt trời không mọc, nhưng bạn vẫn thấy nó mọc như  thường.

Giác quan luôn luôn cần phải được lý trí điều chỉnh, vì lý trí cao hơn tất cả mọi nhận thức của giác quan. Thần Nhãn (sự thấy  của Cái Vía) luôn luôn lừa gạt bạn khi bạn bắt đầu sử dụng nó. Vì vậy cho nên người nào được Đức Thầy chỉ dạy cũng phải luyện tập một cách có phương pháp và đầy đủ. Người ta hỏi y về những điều đã thấy thì ban đầu những câu trả lời đều sai. Sau đó người ta chỉ cho  y biết những chỗ sai lầm và giải thích cho y hiểu. Giả sử một người  không  được  Đức Thầy hướng dẫn, nhưng Thần Nhãn  của y lại hoạt động. Đó là trường hợp thường xảy ra. Sự  mở mang những quan năng của Cái Vía phù hợp với trào lưu tiến hóa thường lệ, nên nhiều người đã bắt đầu có những giác quan này. Người có Thần Nhãn lên cõi Trung Giới cũng giống như đứa bé ở dưới cõi Trần. Bạn biết một đứa bé đưa tay lấy cây  đèn cầy  đang cháy đặt tận đầu phòng. Dĩ nhiên, sự lầm lạc của em được người lớn sửa chữa. Khi em đến gần vật  ấy em sẽ thấy rằng vài vật hấp dẫn em vẫn ở xa em. Chúng ta có thể gọi người mới sử dụng những giác quan của Cái Vía là một đứa bé trên cõi Trung Giới, y bị lầm lạc nhiều lắm. Điều này không quan hệ gì nếu em ở chung với những bậc đàn anh, và cũng không có tai hại gì nếu chánh lý là một đức tánh phổ biến. Nhưng rủi thay! Người nhận được một sự truyền  đạt từ cõi Trung Giới đưa xuống hay là có Thần Nhãn thường tưởng rằng mình đã cao hơn nhân loại do sự  tiết lộ đặc biệt  đã  ban  cho  y. Về phương diện này y không học hỏi giáo lý như một đứa bé sẵn sàng tuân  theo những  lời chỉ dạy của các bậc đàn anh, cho nên do  đó mới sinh ra nhiều điều phiền muộn.

 

C. W. L. Những vị đệ tử mới được Đức Thầy thâu nhận thì thường thường phải chịu sự huấn luyện dài lâu về nhãn quan cao  siêu và những cảm giác thuộc về cõi trên. Chắc chắn nhiều người nhận thấy công việc luyện tập này rất buồn chán. Một vị đệ tử cao cấp lãnh phần chỉ bảo cho vị tân tín đồ, đưa cho vị này xem một số đồ vật trước mắt và hỏi y thấy những gì. Ban đầu, hầu như y trả lời sai hết, vì y không nhắm đúng tiêu điểm của thị giác. Y không phân biệt được sự dị biệt của Cái Vía của một người chết với Cái Vía của người còn sống, giữa Cái Vía của người còn sống với hình  tư tưởng của một người bạn phóng ra. Trên các phương diện này và nhiều phương diện khác, người quan sát thiếu kinh nghiệm không sao tránh khỏi sự sai lầm. Với sự nhẫn nại, vị huấn luyện viên chỉ cho y thấy nhiều lần những vật ấy và dạy y nhận biết chúng bằng cách  chú trọng đến những điểm dị biệt nhỏ nhoi.

Một sự huấn luyện như thế rất cần thiết, nhưng bạn chớ kết luận rằng những giác quan của Cái Vía đặc biệt không chắc chắn,  không tin được. Người ta không thể tin được bất cứ một giác quan  nào khi nó không được huấn luyện, mà trí khôn thuần túy không  được huấn luyện một lượt với nó. Mỗi ngày, nếu trời đẹp chúng ta dậy sớm, chúng ta có thể xem cảnh mặt trời mọc. Chúng ta biết rõ ràng rằng mặt trời không mọc, tuy nhiên, chúng ta lại thấy nó mọc. Những người ít suy luận đôi khi nói về những điều hơi quá mức kinh nghiệm bình thường như vầy: "Tôi không thể tin những điều tôi không thấy, chừng nào tôi thấy, tôi mới tin". Vài người đi xa  hơn  nữa nói: "Tôi tin chắc, nếu tôi rờ mó được". Chúng ta hãy lấy ba cái chén, rồi đổ vào đó ba thứ nước nhiệt độ khác nhau: nước thật nóng, nước đá và nước lạnh. Hãy ngâm một bàn tay này vào nước nóng và một bàn tay kia vào nước đá vài phút, rồi ngâm cả hai bàn tay vào nước lạnh. Bàn tay lúc trước ngâm trong nước nóng sẽ làm cho bạn biết rằng nước trong chén thứ ba thật lạnh, còn bàn tay kia lại cho rằng nước đó nóng lắm. Sự kiện này chứng tỏ rằng người ta không thể luôn luôn tin vào sự chứng tỏ của giác quan, mà cần phải kiểm soát lại bằng lý trí. Đối với giác quan của Cái Vía và những giác quan của Cái Trí, cần phải được kiểm soát cũng như đối với giác quan  của xác thịt.

Nếu một người kia ưa thích  những phép thần thông, thì  y phải  chịu  khó mở mang chúng, và thường thường phải trải qua nhiều năm luyện tập, mới có thể chắc chắn rằng quan sát của y rất đúng  trong mọi trường hợp. Người ta khó tưởng  tượng  được  trường hoạt động của nhãn quan này mở rộng đến đâu. Hãy lấy một thí dụ cũng đủ rõ. Trên  cõi Trung Giới có 2401 loại Tinh Chất khác nhau và nếu muốn trở nên  một chuyên viên thành thạo có thể làm việc giỏi và nhanh chóng, thì phải học cách phân biê&#