|
HOME NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES
|
DƯỚI CHƠN THẦY NGUYÊN TÁC CỦA: ANNIE BESANT và C. W. LEADBEATER
Dịch giả : CAO
NGÂN HÀ và BẠCH LIÊN |
|
mục lục đầu sách cuối sách lời nói đầu phần 1 2 3 4 5
Trong quyển sách này sưu
tập những bài bình giảng của Ông C. W. Leadbeater - hiện giờ là
Giám Mục - và của tôi về ba tác phẩm nổi tiếng, khuôn khổ tuy nhỏ
bé, nhưng nội dung thật quan trọng. Cả hai chúng tôi ước mong nó sẽ
hữu ích cho những người chí nguyện và ngay cả những người đã
vượt qua giai đoạn đó, vì người diễn giảng cao niên hơn thính giả
và do kinh nghiệm, hiểu biết
nhiều hơn về đời sống của
người đệ tử.
Những cuộc đàm luận này
chẳng phải chỉ diễn ra ở tại một chỗ mà thôi. Chúng tôi đã nói
chuyện với các bạn chúng tôi trong nhiều lúc, và nhiều nơi khác
nhau, nhất là ở Adyar, Luân Đôn (London) và Sydney. Rất nhiều chú
thích đã được thính giả ghi lại. Tất cả những lời ghi chú có
giá trị đều được sưu tập, và sắp xếp có thứ tự rồi tập trung
lại sau khi loại bỏ những phần trùng hợp với nhau.
Rủi thay, vì chỉ còn có
một số rất ít những chú giải thuộc phần I của quyển
Tiếng Nói Vô Thinh, cho nên chúng tôi lấy những chú giải của
một vị Thân hữu, bạn đồng nghiệp của chúng tôi, là Ông Ernest Wood
đã dùng trong một khóa học ở Sydney. Những chú giải này nhập với
những lời bình giảng của Giám Mục Leadbeater về đoạn đó. Không
tìm lại được một ghi chú nào về những lời bình giảng của tôi,
mặc dù tôi đã nói nhiều về quyển
Tiếng Nói Vô Thinh song những
lời diễn giảng đó không còn lưu lại.
Tất cả những lời diễn
giảng này đều chưa xuất bản, chỉ trừ vài bài diễn văn ngắn của
Giám Mục Leadbeater nói với các sinh viên đã được chọn lựa về
quyển Dưới Chơn Thầy. Một tác
phẩm nhan đề Những lời bình
giảng Dưới Chơn Thầy đã được xuất bản vài năm qua. Trong đó
những lời chú thích của ông không được đúng như lời ông đã nói.
Quyển ấy sẽ không in lại. Phần cốt yếu của quyển đó vẫn có trong
quyển này, tất cả đều thu gọn lại rồi đem in.
Cầu xin những trang sách
đây giúp cho vài huynh đệ trẻ tuổi của chúng ta hiểu biết rành rẽ
những bài học vô giá này. Càng nghiên cứu, càng thực hành chúng
nó thì càng nhận thức được nhiều hơn.
ANNIE BESAN
GIẢNG LÝ DƯỚI CHƠN THẦY
Chương :
I . Đường Đạo và những quyền lợi
ở thế gian
II
. Sự Điểm Đạo và khi sắp được Điểm Đạo
III. Quyển sách được viết ra cách nào
IV
. Lời cầu nguyện đầu tiên
V.
Thái độ của người đệ tử
VII. Bốn đức tánh cần thiết
PHẦN THỨ HAI: TÁNH PHÂN BIỆN
VIII. Những mục đích thật
và những mục đích không phải là thật
XI
.Phải tuyệt đối ngay thật
XII. Tình bác ái và sự sống thiêng liêng
PHẦN THỨ BA: TÁNH ĐOẠN TUYỆT
XIII. Diệt trừ sự ham muốn
XIV. Duy có một điều ham
muốn tốt hơn hết
XVI. Những sự ham muốn nhỏ nhen
XVII. Hãy lo lắng những việc
nào có can hệ với mình
PHẦN
THỨ TƯ: HẠNH KIỂM TỐT
XVIII. Tự chủ trong lúc tư
tưởng
XIX. Tự chủ trong lúc hành động
XXII.Đi
thẳng đến mục đích duy nhất - Hay là chú định
XXIV .
Sự giải thoát cõi Niết Bàn và sự giải thoát
khỏi vòng sinh tử
XXV .
Lòng từ ái trong đời sống hằng ngày
DẪN NHẬP
CHƯƠNG THỨ NHỨT
�
Y
�
ĐƯỜNG ĐẠO VÀ NHỮNG QUYỀN LỢI Ở
THẾ GIAN
C. W. L.
–
Quyển Dưới Chơn Thầy là một
trong ba quyển (hai quyển kia là
Tiếng Nói Vô Thinh và Ánh
Sáng Trên Đường Đạo) đặc biệt giúp cho việc bước vào đường
Đạo dễ dàng. Hiện thời, giá trị của quyển
Dưới Chơn Thầy đối với chúng
ta thật là to tát vì lẽ nó cực kỳ giản dị và đã được Đức
Chưởng Giáo sắp lâm phàm đặc biệt thừa nhận. Nó chứa đựng những
bài của Đức Chơn Sư dạy người đệ tử ấu thơ của Ngài là J.
Krishnamurti, mới 13 tuổi, năm 1909 (Krishnamurti có tên Alcyone trong
quyển Những Tiền Kiếp của Alcyone
mới xuất bản đây, vào năm 1924).[1]
Vì lúc đó Krishnamurti chưa thật giỏi tiếng Anh, mà bài học lại
bằng Anh Ngữ, cho nên lời dạy và văn từ phải đặc biệt rõ ràng.
Đức Chơn Sư Kouthoumi với tài năng thích ứng phi thường của Ngài,
đã trình bày mọi điều kiện để được Điểm Đạo lần thứ nhứt, bằng
một ngữ pháp đơn giản tuyệt diệu. Đó là sự hấp
dẫn của quyển sách này.
Quyển
Ánh Sáng Trên Đường Đạo xuất bản
năm 1885, và quyển Tiếng Nói Vô Thinh năm 1889. Mỗi tác phẩm đạo đức này đều
có những đặc tính riêng. Chúng ra đời lâu hơn và có tính
cách thi vị hơn quyển Dưới Chơn Thầy, dù quyển này cũng có vài câu tuyệt đẹp :
điều ấy phải như vậy, vì tác giả là Đức Thầy Kouthoumi. Ông Swami
T. Subba Rao có nói với chúng tôi rằng quyển
Ánh Sáng Trên Đường Đạo có nhiều nghĩa chồng chất lên nhau
mà ý nghĩa thâm sâu nhất liên hệ đến bậc Điểm Đạo của Đức Văn
Minh Đại Đế (Mahachohan) trình độ cao hơn Đức Chơn Sư của chúng ta
hiện nay một bậc. Quyển Tiếng
Nói Vô Thinh dẫn chúng ta đến bậc Điểm Đạo của vị La hán
(Arhat). Quyển Dưới Chơn Thầy đặc biệt nói về sự Điểm Đạo lần thứ nhứt.
Vậy chúng ta bắt đầu giảng lý quyển này.
Tất cả chúng ta thường
nghe kể những điều cần thiết để được
thâu nhận vào đường Đạo, nhưng người ta sẽ nhắc nhở chúng ta
những điều kiện cho tới ngày nào chúng ta thực hiện được tất cả
những gì đã dạy trong những kinh sách như quyển này. Không khó gì
mà biết thật đúng những điều phải làm; trên con đường chúng ta đi,
chướng ngại nào mà chẳng do chúng ta tạo ra? Tuy nhiên những người
tuân theo các huấn lệnh ấy tương đối ít lắm, vì họ thường bị bản
ngã của họ cản đường. Điều gì đã viết trong những quyển sách
này, chính mỗi độc giả phải đem ra áp dụng riêng cho một mình
mình. Vị Huấn Sư có thể giảng giải, chỉ dẫn nhiều cách thức
khác nhau những điều phải thực hiện, nhưng mỗi người phải tự đi
theo con đường riêng của mình. Cũng giống như sự thao luyện đặng dự
vào một cuộc chạy đua hay là biểu diễn thể dục, Huấn luyện viên
có thể chỉ dạy kỹ lưỡng; thí sinh phải vận động bắp thịt mình,
ngoài y ra, trong đời này không có ai làm thế cho y điều đó.
Có hàng triệu người ở
chung quanh chúng ta tự cho rằng mình sống đúng theo những huấn
giới của Tôn giáo mình, nhưng thật ra rất ít người tuân theo cho
đúng. Ngay cả những người có đức hạnh và đời sống thánh thiện
thường cũng không triệt để tuân theo tất cả những huấn giới đưa ra
cho họ. Trong vài trường hợp, những giáo lý Công truyền có tính
cách hoặc không trọng yếu, hoặc không thích hợp, nhưng trong Huyền
Bí Học không có huấn giới nào vô ích cả. Phải tuân theo thật đúng
đắn tất cả những lời dạy. Điều này không có nghĩa là phải đạt
tới mức hoàn hảo tuyệt đối mọi đức tánh trước khi được Chơn Sư
thâu nhận. Phải là một vị Siêu Phàm mới đi đến trình độ toàn
thiện đó, những kẻ chí nguyện phải có những đức tánh ấy ở một
mức độ hợp lý mới được, vả lại chúng phải xác thực chớ không
được là những giả tưởng quí mến. Khi một giáo sư
Hóa Học nói với chúng ta rằng khi phối hợp vài chất Hóa
Học theo cách nào đó, chúng ta sẽ có vài hiệu quả. Chúng ta biết
rằng những hiệu quả này sẽ sinh ra. Nếu chúng ta thay đổi
tỷ lệ, chúng ta sẽ không có cái chúng ta chờ đợi, mà là cái
khác. Trong lãnh vực Đạo Đức hình như người ta cho rằng tuân theo
huấn thị một cách mơ hồ và qua loa đã đủ lắm rồi. Trong Khoa
Huyền Bí Học, thật khác hẳn : ấy là một Khoa Học, phải xem nó
như thế. Dù rằng những điều kiện này đã kể cho chúng ta nghe
nhiều lần rồi, phải mong sao cho nhiều người trước kia chưa thành
công sẽ có thể bước vào Đường Đạo, sau khi đã học hỏi kỹ lưỡng
những điều kiện này, tìm hiểu và tuân hành một cách hết sức
đúng đắn những yêu sách. Cái lãnh vực nội tâm này không phải xa
vời, không phải mập mờ, không chắc chắn. Vài năm trước đây, dường
như nó xa cách hơn, vì những người mà chúng ta quen biết, được giao
thiệp trực tiếp với các Đấng Chơn Sư rất ít. Một sinh viên có thể
tự nói : "Phải rồi, chỉ có vài ba người có thiên tài đặc biệt,
hoặc có diễm phúc lạ thường mới gặp được Chơn Sư, ngoài trường
hợp đó, dường như cái đặc ân ấy không phải dành cho những người
thường". Nhưng hiện giờ có nhiều người được giao thiệp trực tiếp
với các Ngài, và cũng không phải vô lý mà tự nói: "Nếu những
người khác thành công, tại sao tôi không làm được như họ?". Nếu ta
thất bại, thì chắc chắn lý do ở nơi ta. Đừng tìm nguyên nhân nào
khác ở ngoài, vô ích. Nhất định không phải là lỗi tại Đức Thầy:
Ngài luôn luôn hiện diện khi đệ tử sẵn sàng. Có vài người chí
nguyện thất bại là tại một khuyết điểm nào đó ngăn cản; ở những
người khác có lẽ vì chưa mở mang đầy đủ các đức tánh. Nếu không
có mấy khuyết điểm đó tất cả chúng ta sẽ thành công. Công việc
thật đáng làm là hết sức bền lòng cố gắng tìm xem coi ta thiếu
sót cái chi rồi bồi bổ chỗ khuyết điểm.
Có một thế giới bên trong
xác thực và quan trọng hơn thế giới bên ngoài mà chúng ta không
ngớt chịu áp lực của nó. Ở đâu người ta cũng gặp những người tự
cho rằng mình rất bận rộn và họ biết rất rõ rằng họ đang theo
đuổi công kia việc nọ. Tuy nhiên, sự thật là những người này đang
làm việc trong hư ảo và bề ngoài. Ít ai hiểu biết sự hiện diện
của một thế giới bên trong, thế giới tinh thần vô cùng quan trọng
hơn thế giới bên ngoài không biết bao nhiêu lần.
Trên Đường Đạo, ta phải
đóng vai trò của ta ở ngoài đời nhưng nếu ta làm bổn phận đó,
cũng chỉ vì mục đích phục vụ đời sống chân thật bên trong mà
thôi. Một diễn viên đóng trò trên sân khấu vì y có đời sống khác
phải sống, một đời sống liên tục và kết hợp nhau. Có thể y thay
đổi vai trò trong nhiều lúc khác nhau; ta cũng giống như y, ta đầu
thai nhiều lần và lấy nhiều xác thể khác nhau. Người diễn viên
không ngớt sống đời sống chân thật của con người và nghệ sĩ; và
chính vì đời sống chân thật này mà y quyết đóng trò thật khéo
trong đời sống tạm thời trên sân khấu. Ta cũng thế, ta muốn thành
công trong kiếp sống vật chất tạm thời dưới Thế gian, chính vì Sự
Thật vĩ đại bên trong mà đời sống hiện thời chỉ là một phần nhỏ
nhít. Hiểu điều đó rồi, chúng ta mới nhận thức được sự trọng
yếu tương đối của đời sống bên ngoài: giá trị duy nhất của nó là
giúp ta đóng vai trò thật hay, dù nó là thế nào chăng nữa. Bản
chất của vai trò cùng tất cả những gì xảy ra cho chúng ta trên sân
khấu trần gian này đều không mấy quan trọng. Người diễn viên có
thể đóng mọi vai trò buồn thảm hoặc những sự khó khăn giả tạo,
nhưng y không màng đến chúng nó. Chẳng hạn mỗi buổi tối, y có thể
đóng vai bị giết trong cuộc đấu gươm, đấu súng. Sự chết giả này
có thể làm thiệt hại y chăng? Điều quan hệ duy nhất làm cho y
thích ý là: đóng trò cho thật xuất sắc.
Chúng ta phải hiểu một
cách dễ dàng rằng thế giới bao quanh chúng ta là một thế giới
giả hình, giả tạo và bản tánh những sự kinh nghiệm cho chúng ta
không có chi là quan trọng. Mọi việc bên ngoài xảy đến cho chúng ta
là nghiệp quả của chúng ta, nguyên nhân phát sinh vốn thuộc về mấy
kiếp trước và hiện giờ không thế sửa đổi được. Vậy thì bận
tâm với những biến cố thật vô ích; chúng đến do sự qui định
của nghiệp báo quá khứ, nên chúng ta phải nhận lãnh một cách kiên
nhẫn. Nhiều người không làm như vậy được, họ để cho quả báo gây ra
cho họ những sự đau khổ, buồn thảm và lo âu quá độ. Điều phải
làm là luôn luôn cố gắng nhận lãnh bài học do Luật Nhân Quả mang
đến rồi xua đuổi nó ra khỏi Cái Trí, được bao nhiêu hay bấy nhiêu.
Cũng như "Con Ong và Đóa Hoa" theo cách nói của người Ấn Độ, người
anh em của chúng ta. Cách trả quả của mỗi người tạo thành tánh
khí của y trong tương lai: chỉ có điều này mới là quan hệ thôi. Ta
nên dùng quả báo để khai mở tánh can đảm, kiên nhẫn và những đức
tánh khác nữa, rồi xua đuổi
nó ra khỏi Cái Trí.
Thật không phải dễ dàng
mà thấy được như thế, vì chung quanh chúng ta cả ngàn người đều
cho cái bi kịch này là hệ trọng
và xem nó như đời sống chân thật duy nhất. Những điều họ
nói về chúng ta và họ làm cho chúng ta, khiến chúng ta có phần
khó chịu, nhưng trên đường chúng ta đi có một chướng ngại hết sức
nghiêm trọng hơn (mà ta không nghĩ đến): đó là cái áp lực liên tục
không ngừng và vô cùng rộng lớn của dư luận quần chúng. Nó thật
là ghê gớm dễ sợ, bởi vì chỉ có một người biết chân lý sống
giữa hàng triệu người vô minh. Họ tự nói rằng: "Chúng ta hãy mau
mau thu góp của cải, tiền bạc và lưu tâm đến dư luận quần chúng
đối với chúng ta, đó là điều cốt yếu của đời sống". Biết bao tư
tưởng rải ra vì ý nghĩ của những kẻ khao khát danh vọng Trần
gian, những kẻ khẩn khoản cầu cạnh được mời dự vào những tiệc
tùng, những cuộc khiêu vũ, những kẻ tìm cách biên tên Hầu Tước
này, Bá Tước nọ trên bản danh sách của những cuộc viếng thăm của
họ. Trong những vấn đề đạo đức chúng ta cũng bị một biển cả bao
vây, vì những người quảng đại thì rất ít, mà những người khác
thì rất đông đảo. Những ảo tưởng của xã hội cũng dẫy đầy, chẳng
hạn tánh "quá đoan trang của người Anh", họ cho là khiếm nhã, không
lịch sự trong khi chỉ nghe nói qua loa về tình dục. Do đó trẻ
em thiếu sự hiểu biết
sơ đẳng, chúng trưởng thành trong sự nguy hiểm và đôi khi vướng
phải tai họa bất ngờ, vì tật xấu là con sông tuôn chảy không ngừng
và kẻ dốt dễ bị sẩy chân. Phong tục thời cổ Hy Lạp và La Mã
được xem như là không được đoan chính, tuy nhiên ký ức thuở ấy vẫn
còn trong trí nhớ tôi khiến tôi phải nói rằng tư tưởng của thời
kỳ cổ điển đó ít bợn nhơ
hơn hiện thời tại Âu Châu.
Chúng ta là người biết
chút ít hơn kẻ khác về trạng thái bên trong của sự vật, chúng ta
phải chống lại trở lực thật sự đáng sợ này và tự nhủ: "Không!
Không có gì hết. Tất cả mấy điều đó không có thật và chúng ta
nguyện cầu xin được dắt từ cõi giả đến cõi chân". Sự Chân thật
là sự sống ẩn tàng, đời sống trường cửu, đời sống mà theo danh
từ trong Thánh Kinh gọi là đời sống ẩn khuất "Với Đấng Christ
trong lòng Đức Chúa Trời". Luôn luôn, đừng bao giờ quên ý tưởng ấy
và chỉ cho ngoại giới như là điều quan trọng phụ thuộc thôi. Điều
này không phải dễ làm, nhưng đó chính là điều chúng ta phải thực
hiện. Một trong các Đức Thầy của chúng ta có nói rằng: "Người
nào muốn theo Chúng Ta thì phải bỏ thế giới của y để sang qua thế
giới của Chúng Ta". Điều đó có nghĩa là phải bỏ đời sống thường
nhật ở Thế gian để sống cuộc đời ẩn dật của người tu sĩ, nhưng
mà phải hoàn thành mọi nhiệm vụ giao phó cho ta một cách nhiệt
thành hơn trước trong tấn kịch kỳ lạ của cuộc sống; nhưng mà
người chí nguyện cần phải từ bỏ tư cách
tầm thường của y
để tập lấy tư cách
của Đức Thầy.
Những ai đã thành công
trong sự cố gắng đó, một ngày kia, sẽ
được một Chơn Sư thâu
nhận làm đệ tử. Khi tư
tưởng của đệ tử đã thành một phần tư tưởng của Đức Thầy, thì
trò có thể lấy tư tưởng của Thầy mà kiểm soát lại chính tư
tưởng của mình. Tư tưởng
của Đức Thầy không bao giờ chịu ảnh hưởng của quần chúng. Như thế
đệ tử có thể biết chính xác ý nghĩ của Đức Thầy về một vấn
đề nào đó. Chẳng bao lâu thói quen ấy làm cho y hiểu được quan
điểm mới đó, mặc dầu y sẽ luôn luôn không ngớt kinh ngạc. Vài điều
trước kia người đệ tử cho là chánh yếu nay đã mất tính
cách quan trọng của chúng nó, và trở nên tầm thường; còn những
điều mà trước kia y nghĩ rằng không đáng kể nay lại vô cùng quan
trọng, bởi vì dù lớn lao hay bé nhỏ, tất cả đều ảnh hưởng đến
đời sống hữu dụng của chúng ta. Tất cả những gì ảnh hưởng đến
sự hữu dụng ấy đều quan trọng: đó là lúc chúng ta chạm trán với
Thực tế.
Áp lực của hoàn cảnh gây
ra cho cái Trí, trên cõi Trung Giới và cõi Thượng Giới (Trí Tuệ)
không có gì là cao thượng. Ta hãy để nó ngoài tai và chỉ lắng
nghe những âm thanh từ cõi cao, nghe tiếng nói và tư tưởng của Đức
Thầy. Chúng ta không có gì ngạc nhiên tại sao ngày xưa bên Ấn Độ
và các nước khác những người quyết tâm sống đời sống tinh thần,
luôn luôn bắt đầu từ bỏ cuộc sống thường nhật, đi trú ẩn trong
hang động hay rừng già cô tịch. Như thế họ được lợi trong việc
tránh khỏi luồng áp lực của dư luận vô minh và được tự do theo
đuổi chí nguyện của mình. Nhiều vị Thánh Thiên Chúa Giáo cũng từ
bỏ những hoạt động ở Thế gian để sống ẩn dật hay làm những vị
tu sĩ, hoặc kết hợp những người cùng chí hướng với mình. Sự lợi
ích của việc lánh Trần còn lớn lao hơn đối với ai được diễm phúc
sống trong hào quang của Đức Thầy hoặc một đệ tử cao cấp của
Ngài. Những làn rung động của vừng hào quang này luôn luôn tác
động trên các thể của người đệ tử,
điều chỉnh chúng, làm rơi những thành phần vật chất bất
hảo và nuôi dưỡng chúng với những yếu tố mà chúng cần dùng.
Người đệ tử phải không ngớt chăm lo việc khai mở một đức tánh
nhất định, như đức Bác ái chẳng hạn. Nếu để y luyện tập một
mình, y chỉ thực hiện một cách gián đoạn vì cứ mãi quên; nhưng
hào quang của Bề Trên giữ y lại trước sự hiện diện của những tư
tưởng và tình cảm khuôn mẫu mà y muốn tạo nên trong tâm y mãi mãi.
Kết quả đạt được giống như sự điều chỉnh chi thể xiêu vẹo của
đứa trẻ: người ta để chi thể đó trong một khí cụ cho đến lúc nó
nở nang và lấy lại hình dạng bình thường. Ở trong hào quang của
Đức Thầy, người đệ tử không thể phát sinh
một tư tưởng xấu, dù
y muốn nghĩ đến nó, điều đó cũng không thể xảy ra được. Trong vị
thế đó, chúng ta mỉm cười khi xem xét tư tưởng chúng ta ngày hôm
qua và chúng ta tự nói rằng: "Không bao giờ tôi có sự cảm xúc
này; nó đã tan như giấc mộng". Nhưng ngày mai, khi xa Đức Thầy, có
thể chúng ta phải tự phấn đấu quyết liệt mới giữ được tư cách
cao thượng mà chúng ta nhận thấy quá dễ dàng trước sự hiện diện
của Chơn Sư.
Trong thời đại hiện tại,
những người chí nguyện bước vào Đường Đạo phải cố gắng luyện
tập trong đời sống hoạt động của họ để đạt được tư cách cần
thiết đó, bởi vì họ được kêu gọi để giúp đỡ nhân loại không phải
bằng sự tham thiền hoặc chỉ bằng tư tưởng mà thôi, như một vị ẩn
sĩ hay tu sĩ, mà họ phải nhận nhiều công việc khác nhau. Đó là
một ý tưởng cực đẹp, một đặc ân lớn lao, nhưng mà khó, khó lắm
vậy. Hậu quả của sự khó khăn này: ấy là sự thành công rất hiếm.
Thường thường người ta bằng lòng xem giáo lý Thông Thiên Học giống
như một người Công Giáo bậc trung giữ
Đạo của họ, nghĩa là xem nó như một đề tài tuyệt diệu để
đàm thoại trong ngày chúa nhật, chớ không phải một ý tưởng phải
tuân theo mỗi ngày, từ sáng đến tối. Người sinh viên tự hiến mình
một cách nghiêm chỉnh cho đời sống nội tâm không thể ở trong hư ảo;
y phải suy luận hợp lý và phải thực tế, y phải không ngớt áp
dụng lý tưởng của y vào
đời sống hằng ngày. Sự kiên tâm này khó đạt được. Không phải
người ta ít sẵn sàng cố gắng phụng sự lý tưởng Thông Thiên Học :
nếu họ có thể giúp đỡ Đức Thầy
hoàn thành một công
việc nhất định cho Ngài, họ sẽ làm, dù phải hy sinh tánh mạng.
Hãy nhớ lời của Thánh Augustin: "Lắm kẻ muốn chết vì Chúa, chớ
ít ai chịu sống cho Ngài". Chịu
khổ nhục, tuẫn tiết
là ý tưởng trọng đại, anh hùng, là hành vi cao thượng. Nhưng người
chấp nhận điều đó biết mình thực hiện được một sự cố gắng phi
thường và sự tin chắc này nâng đỡ y, giúp y chịu được sự đau đớn
khổ sở; trong chốc lát y làm tròn nhiệm vụ hy sinh cao cả ấy.
Hiện nay bổn phận phải thi hành nặng nề hơn nhiều. Chúng ta không
thể duy trì mức độ anh dũng này khi những sự lo lắng
nhỏ nhặt cứ mãi hiện đến và bao vây chúng ta. Thật khó giữ
được tánh tình một mực trong khi ngày này qua ngày kia ta phải
trông nom những người nản
chí, họ không muốn làm những gì mà chúng ta thấy đó là bổn phận
của họ. Sống vì Chúa trong mọi chuyện nhỏ mọn là điều phiền
phức khó khăn. Và đúng thế, bởi những chuyện dường như nhỏ mọn
cho nên mới khó theo con Đường Đạo.
Ta hãy đọc ba quyển sách này; hãy theo dõi từng lời giáo huấn và xem coi ta có thể thực hiện chúng tới mức độ nào. Nhiều người đã làm điều đó rồi và đã bước vào Đường Đạo. Tại sao chúng ta không thành công như họ? Sự thành công bắt buộc phải thắng phục bản ngã; nó bắt buộc chúng ta phải tự điều khiển mình, nghĩ suy đến những sự việc và nơi nào có cỏ xấu mọc lên, chúng ta hãy nhổ nó. Bề sâu của rễ và sự khổ đau mà chúng ta phải chịu đựng không có gì đáng kể. Phải làm cho nó sạch đi. Công việc này thật khó khăn! Nhưng những người đã lên được vài bậc cao trên Đường Đạo quả quyết với chúng ta rằng làm như thế đáng công lắm, đáng công vô cùng, đáng làm một sự cố gắng, nhiều hay ít, hoặc một lần một, hoặc dù phải lập đi lập lại một trăm lần đi chăng nữa.
CHƯƠNG THỨ HAI
�
Y
�
SỰ ĐIỂM ĐẠO VÀ KHI SẮP ĐƯỢC ĐIỂM ĐẠO
C. W. L.
–
Tên quyển sách này đã được Bà Chánh Hội Trưởng (Annie Besant) của
chúng ta chọn trong ba, bốn mươi tên khác được đề nghị. Lời đề
tặng này cũng vốn của Bà viết cho chúng ta:
Xin hiến dâng cho những người đến gõ cửa.
Lời tượng trưng này thật
rõ ràng: "Anh hãy gõ cửa, người ta sẽ mở cho anh; anh hãy đi tìm
rồi anh sẽ gặp". Trong bài tựa Tiến Sĩ
Annie Besant có nói rằng:
Tôi được cái đặc quyền như một người chị cả, viết vài lời giới
thiệu quyển sách nhỏ này, tác phẩm đầu tiên của một đứa em
còn thơ, kỳ thật xác phàm em nhỏ, chớ không phải linh hồn em nhỏ
đâu.
Đó là điểm rất quan
trọng. Trong đời sống hằng ngày, ta còn nghĩ
đến cõi Trần và kiếp sống hiện tại nên ta xét đoán tuổi
theo thể xác, nhưng về mặt tiến hóa huyền bí, chúng ta xem xét
tuổi theo Chơn Ngã, của Linh hồn chúng ta. Phải tránh sự xét đoán
dựa theo bề ngoài, dù hầu hết mọi người trên Thế gian đều làm như
vậy. Linh hồn trưởng thành một cách liên tục và khi nó tiến cao,
nó thường bắt đầu biểu lộ sự tiến hóa của nó qua trí thông minh,
sự cảm xúc và năng lực thần bí, dù cho xác thân hãy còn trẻ.
Alcyone chắc chắn đã chứng tỏ điều đó qua sự tiến triển mau chóng
của em. Em tuân hành đúng y những lời huấn thị, cho đến đỗi em
thực hiện trong vài tháng những điều gì mà người thường cần phải
để nhiều năm mới hoàn thành, vì đối với hầu hết những người chí
nguyện, sự tiến hóa này bao hàm sự thay đổi toàn thể tánh tình.
Từ đây, những trường hợp
như thế sẽ gia tăng vì Đức Chưởng Giáo sắp lâm phàm. Những vị đệ
tử chính của Ngài phải là những người trẻ tuổi và cường tráng,
chắc chắn có vài vị không lớn tuổi hơn Ngài. Vì bởi chẳng bao lâu
nữa Ngài sẽ đến, cho nên những người được chỉ định vào công việc
đó hiện nay phải trẻ tuổi. Chắc chắn trong những đứa trẻ hiện nay
sống với chúng ta, có những em sẽ giữ vai trò tiên phong, bởi vì
trong số các em được diễm phúc đó có những em sẽ sinh vào một
hoàn cảnh thuận tiện cho sự học hỏi của chúng, nghĩa là trong
những gia đình Thông Thiên Học.
Chuẩn bị cho sự bất ngờ
như thế, chúng ta phải giữ sao cho bất cứ đứa trẻ nào chịu ảnh
hưởng của chúng ta phải nghe nói việc Đức Chưởng Giáo sẽ lâm phàm
hầu nó biết cái khả năng mở ra trước mặt nó; nó sẽ nắm lấy cơ
hội hay không, nhưng nó phải được báo tin trước. Thật đáng buồn cho
bậc cha mẹ nào phải nghe đứa con trai hay đứa con gái của mình
trách móc như sau: "Nếu cha mẹ nói cho con biết mấy việc này lúc
con còn bé thơ thì con có thể nắm lấy cơ hội; nhưng cha mẹ đã để
con trưởng thành mà không mảy may hiểu biết gì về điều đó; cha mẹ
để cho con sống theo thế tục, nên khi cơ hội đến con đã bỏ qua".
Chúng ta phải đưa cơ hội, như vậy chúng ta đã làm xong bổn phận,
vì chúng ta không được ép buộc ai hết, ngay cả việc hoạch định
một chương trình cho tương lai để chờ linh hồn khác, có thể là cao
cả, tuân hành.
Những lời giáo huấn trong sách vốn của Sư Phụ em truyền dạy, khi
Ngài chuẩn bị cho em được Điểm Đạo.
Danh từ Điểm Đạo thường
được dùng với một ý nghĩa tổng quát, nhưng ở đây nó là một danh
từ chính xác và chuyên môn. Trong những lúc đầu tiên chính là Bà
Blavatsky cũng dùng nó một cách sơ xuất. Vì thuật ngữ
của chúng ta ngày nay được xác định rõ hơn, nên danh từ Điểm
Đạo phải dành riêng cho những cuộc Đại Điểm Đạo, cho Năm Cấp Bậc
trên Đường Đạo Chánh thức theo nghĩa cổ kính. Trong mấy tác phẩm
đầu tiên của chúng ta, chúng ta nói về Con Đường Nhập Môn, Con
Đường Đạo Thật Sự và Thời Kỳ chính thức như là ba cấp bậc biểu
thị sự tiến hóa của con người. Con Đường Nhập Môn là Thời Kỳ
Chuẩn Bị, nó đến trước một cuộc Điểm Đạo (là lúc con người
"Nhập Lưu") và nó sẽ chấm dứt khi vị đệ tử đắc quả Chơn Tiên.
Bốn chục năm qua chúng ta đã nói về sự Điểm Đạo trong Hội Thông
Thiên Học; vả lại danh từ này đã dùng cho những nghi lễ của Hội
Tam Điểm (Masonie) và trong những nghi lễ khác. Ta phải cẩn
thận, đừng nhầm lẫn các cuộc Điểm Đạo trên với những cuộc
Đại Điểm Đạo của con đường Huyền Bí Học.
Như người ta đã nói lúc
đầu, thời kỳ chuẩn bị để được Điểm Đạo chia ra làm nhiều giai
đoạn tập sự liên hệ đến bốn đức tánh cần thiết được kể trong
sách này là: Phân Biện, Đoạn Tuyệt, Hạnh Kiểm Tốt và Lòng Từ
Ái.
Gọi các đức tánh này là
cấp bậc thì không đúng cũng như nói về các cuộc Điểm Đạo đem từ
cấp bậc này qua cấp bậc kia kế tiếp nhau. Bốn đức tánh cần thiết
đó không cần phải mở mang theo thứ tự chỉ định, thứ tự đã được
kể ra trong các bản văn Đông phương cổ kính, mà bổn phận chúng ta
chắc chắn là phải hoạch đắc chúng một lượt. Đối với người này
một đức tánh nào đó có thể dễ dàng hơn đối với người kia.
Đức tánh Phân Biện được
kể ra đầu tiên, vì nói tóm lại sự bước vào
Đường Đạo của con
người tùy thuộc vào nó. Các
Phật tử gọi đức tánh
Phân Biện là
Manodvaravajjana hay là "Sự mở
cửa Cái Trí." Nói cách khác, lần đầu tiên Cái Trí con người mở
ra đặng biết rằng chỉ có sự kiện tinh thần mới là chơn thật, còn
đời sống theo thế tục thường tình chỉ làm mất thì giờ thôi.
Người Ấn Độ gọi đức tánh này là
Viveka có nghĩa là Phân Biện. Người Công Giáo gọi nó là sự
Hoán Cải (Conversion),
một danh từ khác rất có ý vị, bởi vì nó nhập lại ý nghĩa của
sự trở về và sự gặp gỡ.
Hai danh từ này do chữ La Tinh Verto là tôi quay lại và
Cum là với.
Nó có nghĩa là con người
từ trước đến nay đi theo con đường riêng của mình, không hề nghĩ
đến Thiên ý; bây giờ biết được phương hướng của Thiên ý đã qui
định cho dòng tiến hóa nên tự quay lại để tuân theo. Trong nhiều
dòng Thiên Chúa Giáo, ý nghĩa của danh từ Hoán Cải bị biến tính
: nó chỉ là trạng thái của chứng giựt gân hay loạn thần kinh; tuy
nhiên, người ta còn tìm thấy ở danh từ đó ý niệm quay về và tuân
theo Thiên ý. Ấy cũng là tư tưởng của vị Sứ Đồ Thiên Chúa Giáo
khi Ngài nói rằng: "Các ngươi hãy thương mến những việc ở trên
trời, chớ đừng quyến luyến
những việc dưới Thế gian".
Nếu Đường Đạo có nhiều
cấp bậc kế tiếp thì trong sự giao tiếp riêng tư giữa đệ tử và
Đức Thầy chuẩn bị cho y được Điểm Đạo cũng có nhiều mức độ khác
nhau được xác định. Chỉ có Quần Tiên Hội thừa lệnh Đấng Duy Nhất
Chí Tôn Cầm Quyền Điểm Đạo là Đấng Chúa Tể, và nhân danh Ngài,
mới được phép Điểm Đạo. Nhưng sự liên hệ giữa đệ tử và Sư Phụ
của y vẫn có tính cách cá nhân. Ban đầu, người ta có thể chấp
nhận làm Đệ Tử Nhập Môn, kế đó làm Đệ Tử Thiệt Thọ rồi bậc
thứ ba làm Con Đức Thầy. Đó là những sự liên lạc riêng tư, ta không
được lầm lộn nó với những cuộc Điểm Đạo do Quần Tiên Hội tấn
phong.
Sự Điểm Đạo lần thứ Nhứt
là một cấp bậc chấp nhận con người làm một nhân viên của Quần
Tiên Hội. Từ trước đến giờ người chí nguyện chưa thật sự đặt chân
trên con Đường Đạo, nhưng y chuẩn bị cho công việc
đó. Sự Điểm Đạo này không phải là một sự
tấn phong độc đoán; nó là sự chứng nhận một giai đoạn tiến
hóa đã đạt được, giai đoạn mà ngày xưa người ta gọi là hợp nhất
Bản Ngã Cao Siêu với Bản Ngã thấp hèn, sự liên hiệp giữa Chơn Nhơn
và Phàm Nhơn. Ai muốn làm thí sinh để được Điểm Đạo lần thứ Nhứt
thì phải hoạch đắc những đức tánh cần thiết đã kể ra trong quyển
này và y phải làm cho Phàm Nhơn thành ra sự biểu hiện của Chơn
Nhơn. Không còn một Phàm Nhơn nào có thể bắt buộc Chơn Nhơn phải
kính nể và có những ý muốn chống đối với những ý muốn của Chơn
Nhơn còn mắc vào vòng luân hồi từ
kiếp này qua kiếp kia.
Sự thay đổi xảy ra lúc bây
giờ được trình bày trong những đồ hình của quyển
Con người hữu hình và vô hình. Thể Vía của người dã man
hiện ra những màu sắc biểu lộ tất cả những tình dục thấp hèn;
chu vi nó không đều đặn vì con người không kiểm soát được nó. Nhân
Thể (hay Thượng Trí) và Hạ Trí không liên lạc nhau. Thượng Trí
dường như trống rỗng, không màu sắc; còn Hạ Trí thì mở mang chút
ít, nhưng chỉ mới bắt đầu liên lạc với Cái Vía. Thể Vía của
người dã man dẫy đầy những cảm xúc và những dục tình
phức tạp không liên hệ gì với trí khôn. Chúng không khiến y
suy nghĩ; y không biết suy nghĩ là gì. Những sự đam mê hiện diện
và lôi cuốn y.
Trái lại, trong người tiến
hóa, tất cả những thể này đều phối hợp chặt chẽ với nhau. Nhân
Thể đầy đủ chớ không trống rỗng; tất cả những màu sắc khác nhau
biểu lộ những đức tánh cao thượng đã được khai mở trong Thể này
và Nhân Thể bắt đầu chiếu hào quang ra tứ phía để giúp đỡ kẻ
khác. Hạ Trí cũng biểu lộ những màu sắc như thế, ít dày đặc hơn
một chút nhưng vẫn đẹp; nó tiêu biểu cho Nhân Thể ở cõi thấp. Đến
lượt Thể Vía, nó phản ảnh Hạ Trí song có hơi đậm và dày hơn, vì
cảnh giới của Cái Vía thấp hơn.
Phàm Ngã của người dã man
tự biểu lộ đủ thứ cảm xúc và dục tình mà Chơn Nhơn chắc chắn
không tán đồng; nhưng ở người tiến hóa, chỉ có những cảm xúc mà
Chơn Nhơn muốn có mà thôi. Y chọn lựa những cảm xúc thay vì chịu
làm trò chơi cho chúng. Y nói: "Tình thương là một điều rất đẹp;
tôi muốn lòng tôi rạt rào mến thương. Lòng Sùng Đạo là một điều
rất đẹp, tôi khao khát được lòng Sùng Tín. Lòng Thiện Cảm đẹp
biết bao! Tôi muốn lòng mình đầy Thiện Cảm." Và y thực hiện điều
ấy với tầm mắt mở rộng và có ý thức. Như thế những cảm xúc
được đặt dưới sự kiểm soát của Hạ Trí là sự biểu hiện của Nhân
Thể; như vậy chúng ta gần đạt đến chỗ hiệp nhất hoàn toàn Chơn
Nhơn và Phàm Nhơn.
Không nên tưởng có sự hiện
diện của hai nhân vật trong con người. Không hề có một Phàm Nhơn
nào hiện ra như một người độc lập, nhưng Chơn Nhơn cho tách rời một
phần nhỏ nhít của Ngài để vào Phàm Nhơn đặng kinh nghiệm những
làn rung động của những cõi thấp. Rồi Phàm Nhơn trở nên linh động
hơn Chơn Nhơn nhiều vì nó ở trong giai đoạn mà nó có thể đáp ứng
với những sự rung động đó; cho nên, nó quên rằng nó thuộc về Chơn
Nhơn; nó dấn thân vào cuộc đời vì việc riêng của nó và hành động
theo ý nó hơn là dưới sự điều khiển của Chơn Nhơn. Tuy nhiên, trải
qua nhiều kiếp luân hồi, Chơn Nhơn trở nên mạnh mẽ. Thế rồi con
người mới nhận ra Phàm Nhơn chỉ là sự biểu hiện của chính mình
và mình là Chơn Nhơn còn phải luân hồi. Và mỗi lần Ngài muốn chỉ
huy, thay vì vâng lời thì Phàm Nhơn vơ vẫn đi lạc đường và cần
được kiềm chế. Ta có bổn phận phải đào luyện Phàm Nhơn thế nào
để cho nó thành ra sự biểu
hiện của Chơn Nhơn và chỉ của Chơn Nhơn thôi. Đó chính là
điều mà Ông Sinnett gọi là "Thề nguyền trung thành với Chơn Nhơn."
Trong quyển Tiếng Nói Vô Thinh
có khuyên ta rằng: Người đệ tử phải hủy diệt Thể Nguyệt Tinh: tức
là Thể Vía. Điều này không có nghĩa là sát hại Thể Vía, nhưng
Cái Vía của chúng ta chỉ hiện hữu như là một sự biểu hiện của
cái gì ở trên cao hơn
nó và thay vì có những dục tình và những
cảm xúc riêng biệt, nó sẽ chỉ phản chiếu những hình ảnh do
Chơn Nhơn chọn lựa mà thôi.
Điều kiện này phải đạt
được trước khi được phép trình diện để được Điểm Đạo lần thứ
Nhứt. Con người phải có sự kiểm soát Xác Thân, Cái Vía và Cái
Trí của mình; chúng phải là tôi tớ của Chơn Nhơn. Cái kỹ luật
này đòi hỏi ở người thường một sự cố gắng lớn lao. Nhiều người
nói: "Tôi không làm nổi điều đó đâu. Đừng nói với tôi điều đó, vô
ích". Như vậy là đem trình bày cho y một lý tưởng quá cao
siêu một lần một. Trái lại, điều đó không phải là một sự cố
gắng quá sức đối với những người đã nhiều năm tham thiền và suy
gẫm về những vấn đề ấy. Thật ra, không phải dễ mà tiêu diệt lần
hồi từ cái này đến cái kia không biết bao nhiêu dục tình và sự
ham muốn, để khắc phục Cái Vía và Cái Trí. Đó là công việc khó
nhọc nhưng hết sức đáng cho con người ra công làm. Kết quả đạt
được so với sự cố gắng sẽ vô cùng lớn lao hơn, dù đã cố gắng
mãnh liệt đến đâu. Tự dọn mình đặng có thể phụng sự một cách
thật hữu hiệu Đức Chưởng Giáo là một sự khích lệ, một sự kích
thích phụ vào công việc khó nhọc này. Những người được Điểm Đạo
không phải vì sự ích
lợi riêng cho cá nhân họ, hoặc để tránh sự mệt nhọc và đau
khổ ở Thế gian, mà để họ có khả năng cộng tác với Thiên Cơ cao
cả.
Trong đời sống con người,
có vài sự thay đổi vô cùng quan trọng hơn tất cả những cái khác.
Điều thứ nhất xảy ra lúc con người có cá tính, thoát kiếp thú
và chuyển kiếp làm người để bắt đầu thực hiện Chơn Nhơn. Điều
quan trọng thứ hai là được nhận vào hàng Chơn Tiên; khi được Điểm
Đạo lần thứ Năm, con người mới rời bỏ hàng ngũ nhân loại để bước
vào giai đoạn siêu nhân. Đó là mục đích dự định cho tất cả mọi
người; đó là mục tiêu mà chúng ta phải cố gắng đạt được trong
dãy địa cầu hiện nay. Khi thời kỳ này chấm dứt, người nào đã
hoàn tất điều gì mà Trời đã muốn cho nhân loại, đã tuyệt đối
tuân theo Thiên Ý về những điều kiện liên hệ với y thì sẽ được
thoát kiếp làm người. Nhiều người trong chúng ta có thể đạt được
mục tiêu đó trước thời gian kết thúc rất lâu.
Trong khoảng thời gian giữa
hai sự thay đổi này, có một việc thứ ba rất quan trọng, đó là:
"Sự Nhập Lưu," khi được Điểm đạo lần thứ Nhứt. Thể thức được đọc
khi thu nhận thí sinh vào Quần Tiên Hội có mấy lời này: "Bây giờ
đây, luôn luôn con vẫn được an toàn; con đã nhập lưu; cầu chúc cho
con, không bao lâu đây, sẽ qua tới bờ bên
kia". Người Thiên Chúa Giáo gọi người Tân Đạo Đồ là người
được "Cứu Rỗi" hay được an toàn. Điều đó có nghĩa là, trong triều
lưu tiến hóa hiện tại, chắc chắn y không bị ở lại đàng sau; chắc
chắn y không bị mất hàng ngũ trong ngày "Phán Xét" của cuộc Tuần
Hoàn sau, như một cậu học trò bê trễ quá nên không theo kịp chúng
bạn trong lớp.
Người được Điểm Đạo lần
thứ Nhứt, phải qua cuộc Điểm Đạo lần thứ Nhì, lần thứ Ba và lần
thứ Tư trước khi đến trình độ Chơn Tiên, tức là được Điểm Đạo lần
thứ Năm, và khi đạt được quả vị này Ngài hiệp nhất được Chơn
Thần với Chơn Nhơn, cũng như trước đây Ngài hiệp nhất Chơn Nhơn với
Phàm Nhơn. Khi con người hoàn toàn hiệp nhất Chơn Nhơn với Phàm Nhơn
rồi thì Phàm Nhơn không còn nữa, trừ phi nó là sự biểu hiện của
Chơn Nhơn; bây giờ còn một việc tương tự như thế chờ đợi người Đạo
Đồ một lần nữa, đó là làm cho Chơn Nhơn thành ra sự biểu hiện
của Chơn Thần. Còn một giai đoạn khác giống như thế đang mở rộng
ở phương trời xa thẳm chăng? Chúng ta không biết điều đó. Tuy nhiên
chắc chắn khi đạt đến quả vị Chơn Tiên chúng ta sẽ thấy mở ra
trước mắt một viễn ảnh hướng thượng vinh
diệu hơn nhiều.
Người ta thường hỏi sự
cuối cùng của cuộc tiến hóa đang mở ra trước mắt chúng ta sẽ ra
sao? Riêng tôi, tôi không biết nó sẽ chấm dứt hay không. Một hôm, một
Đại Triết Gia có nói: "Không thể nào quan niệm được sự tiến hóa
có mức cuối cùng, mà cũng không thể nào quan niệm được sự tiến
không có mức cuối cùng; nhưng trong hai lẽ đó phải có một cái
đúng". Có người nói về nhập vào Đấng Tối Cao: Chúng ta không biết
gì về điều này. Chúng ta chỉ biết rằng Tâm Thức của chúng ta
tiếp tục mở rộng; và phía trước nó, có nhiều mức độ mới lạ
nối tiếp nhau, cao hơn trình độ chúng ta. Chúng ta biết rằng có
thể tiếp xúc với cõi Bồ Đề và Tâm Thức chúng ta mở ra rộng lớn
vô cùng, chúng ta vẫn chính là chúng ta, đồng thời chúng ta thành
ra những người khác và cao
cả hơn.
Kinh nghiệm này không hề
cho chúng ta cái cảm giác rằng chúng ta đã mất cá tính rồi. Nhưng
chúng ta có cảm giác đã mở rộng nó đến mức có thể gia thêm vào
năng lực cảm xúc của chúng ta sự cảm xúc của những kẻ khác. Ai
có thể đạt đến mức đó trong lúc tham thiền thì nên tiếp tục việc
ấy. Nhờ sự khai triển không ngừng, Tâm Thức không ngớt mở rộng ra
cho đến lúc bao trùm chẳng những nhân vật cực kỳ cao thượng mà cho
tới những nhân vật thấp thỏi hơn nó; tuy nhiên, những nhân vật cực
kỳ cao thượng vì dũng mãnh hơn và sử dụng được một năng lực ghê
gớm, nên cảm biết trước hơn mấy người kia. Một sự khai triển Tâm
Thức như thế vẫn tăng dần; người ta phải mở một con đường xuyên qua
tất cả những cảnh thấp của cõi Bồ Đề. Rồi chẳng bao lâu, người
ta tập mở Kim Thân là Thể Bồ Đề. Ấy là một thể mà con người có
thể tùy ý sử dụng trên cao độ phi thường này, nơi đó các bầu Thế
giới chỉ là một, nơi đó con người có thể vượt qua không gian mà
không phải đi qua theo nghĩa thông thường như ta hiểu chữ này.
Vì nhiều người trong chúng
ta đã kinh nghiệm sự kiện ấy, nên chúng ta có quyền cho rằng trong
tương lai Tâm Thức này cũng khai mở như thế. Chúng ta đã đạt được
sự hiệp nhất mà không có cảm giác mất cá tính, cũng không bị
chìm đắm trong biển cả sáng ngời, như lời của thi sĩ diễn tả.
Trái lại, dường như cái biển cả sáng ngời nó tuôn tràn vào giọt
nước.
Đúng thật là một quả
quyết mâu thuẩn, nhưng cái đó là cảm giác đã nhận thức của người
đã mở Bồ Đề Tâm; cái Tâm Thức của giọt nước mở rộng ra và thành
Tâm Thức của biển cả. Đó là sự kiện đối với chúng ta như thế.
Tại sao không giả sử rằng ngay bây giờ không có cái gì thay đổi
trong phương thức đó? Ta không thể quan niệm được sự nhập vào một
sự sống khác làm cho chúng ta mất Tâm Thức mà chúng ta phải dày
công lắm mới hoạch đắc được. Tôi tin rằng Tâm Thức này sẽ mở mang
cho đến ngày chúng ta hiệp nhất với Đức Thượng Đế, nhưng chỉ trong
ý nghĩa mà Đấng Christ đã nói: "Các con là những vị Thượng Đế;
tất cả các con là con của Đấng Tối Cao."
Chúng ta có thể nhìn lại
cái quá khứ xa xăm của sự tiến hóa và chúng ta cũng có thể thấy
được tương lai xa thăm thẳm ở phía trước. Do đó chúng ta có thể tin
chắc vào tương lai, nó tiêu biểu hàng triệu năm hoạt động hữu hiệu
trên những mức độ tuyệt diệu, nơi đó sự quang vinh, uy lực và tình
bác ái không thể quan niệm nổi ở
dưới Thế gian này.
Chúng ta hãy xem xét vấn đề trên quan điểm chánh lý. Chúng ta hy
vọng hiểu biết cách nào? Nếu hiện nay chúng ta có thể hiểu biết
được mức cuối cùng của mấy điều đó thì nó quả là tầm thường
lắm, không cân xứng với tất cả những giai đoạn xảy ra trước nó.
Trí tuệ của chúng ta còn
hạn hẹp, chúng ta không biết được giới hạn của nó ở đâu; phải
thấy sự phát triển cao siêu, người ta mới bắt đầu hiểu rằng cái
trí khôn mà con người rất hãnh diện thật chẳng ra gì cả, nó chỉ
là một khởi điểm, là hạt giống của cái cây tương lai. Đem so sánh
với trí khôn mai sau thì hiện nay con người chỉ có Cái Trí của
đứa trẻ con; quả thật là trí khôn của đứa trẻ con đầy hứa hẹn,
vì nó đã hoàn thành nhiều công việc và có hy vọng nó sẽ hoàn
thành nhiều hơn nữa. Nhưng, so sánh với Cái Trí của những Đấng Cao
Cả thì nó chỉ là Cái Trí của một đứa bé thơ thôi; như vậy nó
không thể vươn lên đến chỗ thật cao mà cũng không thể xuống sâu đến
chỗ thật thâm diệu, nên chúng ta không thể bảo nó hiểu được chỗ
khởi thủy và chỗ cuối cùng. Về phần tôi, tôi thú nhận ngay với
tất cả sự thành thật rằng tôi không biết được mục đích của Đấng
Tối Cao. Tôi chỉ biết một điều là Ngài có thật.
Nhà Siêu Hình Học và
Triết gia đã suy nghiệm thuần lý về vấn đề này, sự cố gắng làm
phát triển rất nhiều Hạ Trí và Thượng Trí của họ. Những người
nào thích tưởng tượng cứ suy tưởng, không có hại chi cả; nhưng tôi
tưởng, họ phải hiểu rõ rằng đó chỉ là những điều tưởng tượng.
Các nhà Triết học không nên biến đổi những lý thuyết của họ
thành ra hệ thống và mong mỏi chúng ta chấp nhận vì có lẽ đúng
là họ đã bỏ qua nhiều yếu tố căn bản. Riêng tôi, tôi không suy luận
thuần lý, khi cảm thấy rằng sự huy hoàng và sự vinh quang đang chờ
chúng ta đã đủ, để thỏa mãn những khát vọng của chúng ta rồi.
"Những điều gì mà mắt không thấy được, tai chẳng nghe được và
cũng không sắp đặt sẵn trong lòng người, đó là những điều mà
trời đã chuẩn bị cho những người mà Ngài Thương".[2]
Đó là chính sự thật hôm
nay mà cũng là sự thật hồi hai ngàn năm trước.
CHƯƠNG
THỨ BA
�
Y
�
QUYỂN SÁCH ĐƯỢC VIẾT RA BẰNG CÁCH NÀO ?
C. W. L.
–
Lời tựa của Tiến sĩ Besant (hồi tháng 12 năm 1910), giải thích
kế đó, cách Alcyone
đã viết quyển sách.
Và em viết thuộc lòng lại mấy lời này một cách chậm chạp và
khó khăn, vì năm trước em chưa giỏi tiếng Anh
như bây giờ.
Một phần lớn cuốn sách vốn lập lại y nguyên lời của Chơn Sư, còn
câu nào không phải lời của Ngài thì cũng là tư tưởng của Ngài do
em diễn tả lại. Có hai câu bỏ sót, Ngài chữa lại. Trong hai chỗ
khác, em quên một chữ, Ngài thêm vô. Trừ ra mấy điều đó, tác phẩm
này hoàn toàn của Alcyone, ấy là món quà đầu tiên của em hiến cho
đời.
Riêng tôi, tôi có thuật lại
câu chuyện xảy ra như thế nào trong
quyển Chơn Sư
và Thánh Đạo.
Cũng khá dễ mà thuật lại
quyển sách nhỏ ấy được viết trong trường hợp nào. Mỗi đêm tôi có
bổn phận phải dắt đứa trẻ này ở trong Cái Vía của nó đến nhà
Đức Thầy, để Ngài giáo huấn nó. Mỗi lần, Ngài để ra trong khoảng
mười lăm phút đặng giảng dạy nó rồi khi mỗi bài chấm dứt Ngài
tóm tắt những điểm quan trọng mà Ngài đã giảng, hoặc bằng một
câu, hoặc bằng nhiều câu. Như thế Ngài làm ra một toát yếu rất dễ
để em học thuộc lòng. Sáng mai, em phải nhớ lại rồi chép ra.
Quyển Dưới Chơn Thầy gồm những câu tóm tắt lời giảng dạy của
Đức Thầy bằng những từ ngữ riêng của Ngài dùng. Krishnamurti chép
lại hơi khó khăn những lời này, vì hồi đó em chưa giỏi tiếng Anh.
Em thuộc lòng tất cả những bài này nên không lo ngại về số phần
của những chú thích mà em đã ghi chép. Nhưng sau đó ít lâu,
Krishnamurti đi Bénarès với bà Hội Trưởng của chúng ta, ở đó, em
viết thơ về Adyar cho tôi, yêu cầu tôi thu thập và gởi cho em tất cả
những câu ghi chú những lời Đức Thầy đã dạy em. Tôi cố gắng xếp
đặt lại thật rõ ràng những lời ghi chú này và đánh máy ra.
Đối với tôi, dường như một
phần lớn những lời ghi chú đó chính là lời của Đức Thầy. Tôi
muốn thật chắc chắn không có sự sai lạc trong khi chép nên tôi đã
đem dâng lên Đức Thầy Kouthoumi những bản đánh máy và cầu xin Ngài
vui lòng đọc lại tất cả. Ngài đọc và đổi một hoặc hai chữ ở
chỗ này, chỗ kia, thêm vài chữ để liên kết và giải thích, và vài
câu khác mà tôi nhớ có nghe Ngài đã nói. Rồi Ngài nói: "Phải, như
vậy đúng; cái này được"; nhưng Ngài nói thêm: "Chúng ta hãy đem
mấy tờ này trình lên Đức Di Lạc". Và Đức Thầy với tôi cùng đi,
Ngài cầm bản thảo và trình lên Đức Chưởng Giáo. Đức Chưởng Giáo
đọc và tán thành. Chính Ngài nói: "Huynh phải làm cho nó thành
một quyển sách nhỏ xinh đẹp đặng giới thiệu Alcyone cho đời".
Chúng tôi không hề có ý nghĩ giới thiệu Alcyone với Thế gian; và
chúng tôi tưởng không đáng cho nhiều luồng tư tưởng tập trung vào
một đứa bé mới mười ba tuổi đầu còn cần sự học hỏi và sự giáo
hóa. Nhưng trong giới huyền bí, chúng tôi phải làm những gì người
ta nói với chúng tôi, vì vậy quyển sách này được giao cho nhà in
ngay buổi sáng hôm sau.
Tất cả những sự phiền
phức mà chúng tôi đã tiên kiến khi quyển sách nhỏ này được xuất
bản sớm, đã xảy ra. Tuy nhiên Đức Chưởng Giáo hữu lý và chúng tôi
đã lầm, vì cái tốt đẹp do quyển sách đó mang lại đã vượt xa vô
hạn những nỗi ưu phiền do nó đã gây ra cho chúng tôi. Thật thế, có
hàng ngàn người viết thư cho chúng tôi biết rằng đời sống của họ
đã thay đổi hoàn toàn và họ thấy mọi vật đều khác hẳn, chỉ vì
đã đọc quyển sách ấy. Quyển
Dưới Chơn Thầy đã được dịch ra hai mươi bảy thứ tiếng, xuất
bản khoảng bốn mươi lần, hoặc hơn nữa và có trên một trăm ngàn
quyển đã in ra. Qua trung gian
của quyển sách này một công trình tuyệt diệu đã hoàn thành. Và
trên tất cả, nó được Đức Chưởng Giáo sắp lâm phàm đặc biệt cho
phép ấn hành. Điều này đã tăng thêm giá trị của nó, bởi vì qua
nội dung của quyển sách nhỏ này người ta có thể suy diễn được
phần nào giáo lý của Đức Chưởng Giáo.
CHƯƠNG THỨ TƯ
�
Y
�
C. W. L.
–
Bà Tiến sĩ A. Besant đã kết thúc lời nói đầu của
quyển sách này bằng
những lời cầu nguyện cho chúng ta như sau:
Cầu xin tác phẩm này giúp ích cho kẻ khác, cũng như lời khẩu
truyền đã giúp ích cho Alcyone. Chính vì cũng mong mỏi như thế, nên
Alcyone mới đem truyền lại cho chúng ta. Nhưng mà những lời giáo
huấn này chỉ có hiệu quả là khi nào người ta thật sự sống đúng
theo nó, cũng như chính Alcyone từ khi được Thầy dạy đến giờ vẫn
tuân theo luôn luôn. Nếu noi theo gương này, cũng như giữ vẹn lời
giới răn thì độc giả sẽ bắt đầu bước vào Đường Đạo cũng như tác
giả vậy.
Trong khi duyệt lại quyển
sách, Tiến sĩ Besant nói rằng: "Thật ít khi thấy những lời lẽ
tương tự, lời giáo huấn trực tiếp có tính cách triết lý như thế,
và được diễn tả một cách tuyệt diệu lại đem giảng dạy cho đời".
Vì vậy, thật đáng cho chúng ta phải cân nhắc kỹ lưỡng từng lời.
Chỗ khởi đầu quyển sách,
trước lời tựa của Alcyone, chúng ta gặp lời cầu nguyện xưa, do từ
tiếng Phạn dịch ra.
[3]
Xin dắt tôi từ cõi giả đến cõi chơn.
Xin dắt tôi từ chỗ tối tăm đến nơi sáng suốt.
Xin dắt tôi từ sự chết đến sự trường sinh bất tử.
Trong trường hợp hiện tại,
chữ "Chơn" có thể bị hiểu lầm. Khi dùng chữ "Chơn" và chữ "Giả"
chúng ta muốn nói rằng cái này có một sự hiện tồn xác thực,
còn cái kia thì không có. Đối với chúng ta chữ "Giả" chỉ có
nghĩa hư ảo, tưởng tượng. Nhưng người Ấn Độ không bao giờ hiểu
nghĩa chữ này như thế. Có thể chúng ta hiểu theo một ý nghĩa gần
đúng ý nghĩa họ quan niệm, khi chúng ta nói rằng: "Xin dắt tôi từ
cõi vô thường đến cõi Trường Tồn bất diệt."
Nói rằng các cõi thấp như cõi Hồng Trần, cõi Trung Giới và cõi
Thượng Giới là giả, thường sẽ gây ra nhiều sự lầm lẫn lớn lao.
Chúng nó không phải là giả khi mà chúng nó còn tồn tại ở mức
độ của chúng nó. Những vật hữu hình dường như quả có thật, khi
chúng ta ở cõi Hồng Trần, nhưng khi chúng ta ngủ, chúng ta dùng tâm
thức của Cái Vía thay vì tâm thức của Xác Thân, chúng ta không thể
thấy đồ vật này nữa, bởi vì chúng ta đã đi qua cõi cao hơn. Vì
lẽ đó, đôi khi người ta gọi chúng nó là giả, nhưng người ta cũng
có thể gọi cõi Trung Giới là giả vì khi ở cõi Trần, chúng ta
không thấy đồ vật ở cõi
Trung Giới. Đồ vật ở hai cõi luôn luôn vẫn hiện diện và thấy được
đối với người mà tâm thức đã hoạt động trong cả hai cõi ấy.
Theo sự hiểu biết của
chúng ta, mọi sự biểu hiện đều vô thường; chỉ có cái "Không Biểu
Hiện" là tuyệt đối và thường hằng
[4]
mà thôi. Một ngày kia, mọi sự biểu hiện, ngay cả những sự biểu
hiện ở những cõi cao, sẽ trở về với cõi vô thủy vô chung. Như thế
sự khác biệt giữa cái mà chúng ta gọi là vô thường với những
cõi cao siêu này chỉ là vấn đề thời gian thôi, và thời gian đó so
với Trường Tồn Bất Diệt thì nó không có nghĩa gì hết. Vậy cõi
Hồng Trần cũng vẫn thật như cõi Niết Bàn và cũng như cõi Niết
Bàn nó vẫn là sự biểu hiện của Thượng Đế. Do đó, chúng ta không
nên tưởng rằng trong hai cõi ấy, có một cõi thật, còn cõi kia chỉ
là ảo mộng hay là huyễn tưởng thôi.
Còn một lý thuyết khác
vẫn thường cho rằng vật chất là xấu. Không phải xấu đâu. Vật chất
cũng như Tinh thần, cả hai đều là biểu hiện của Đức Thượng Đế;
cả hai đều thuộc về Ngài; chúng nó chính là hai trạng thái của
Ngài mang. Vật chất thường gây chướng ngại trên đường tiến hóa của
chúng ta, nhưng khi nào sử dụng nó làm chậm trễ bước tiến hóa
của chúng ta. Cũng như việc người ta bị dao cắt mà cho rằng tất
cả những dao đều xấu. Theo sự uyển chuyển của tiếng Phạn, chúng
ta có thể dịch lời cầu nguyện thứ nhất như sau: "Xin dắt tôi từ
cái giả đến cái Thật"."Chơn," "Thường","Thật" cái nghĩa dường như
gồm cả mấy điều đó. Vậy thì lời cầu nguyện của chúng ta có
nghĩa rõ hơn như
thế này: Xin dắt tôi từ ngoại giới, là nơi ảo ảnh lớn lao
hơn hết đến nội tâm, là nơi gần kề chân lý tuyệt đối.
Lời cầu nguyện thứ nhì
là: "Xin dắt tôi từ chỗ tối tăm đến nơi
Sáng Suốt." Dĩ nhiên, đây là từ chỗ tối tăm của sự dốt nát
đến ánh sáng của sự hiểu biết. Lời cầu nguyện này dâng lên Đức
Thầy. Chúng ta cầu xin Đức Minh Triết của Ngài soi sáng chúng ta.
Bên Ấn Độ, câu này còn có nghĩa thứ hai thêm vô nghĩa thứ nhất.
Thiết tưởng chúng ta cầu xin Đức Thầy dắt chúng ta đến sự hiểu
biết các cõi cao siêu. Chúng ta cũng tìm thấy ở đó tư tưởng thật
đẹp được diễn đạt trong vài quyển sách xưa rằng: Ánh sáng của
cõi dưới là sự tối tăm của cõi cao kế đó. Đó là một Chân lý
tuyệt diệu. Cái mà chúng ta gọi là ánh sáng dưới Trần thế thì
đục và mờ so với ánh sáng của cõi Trung Giới và đến lượt ánh
sáng của cõi này lại yếu hơn ánh sáng của cõi Thượng Giới. Thật
rất khó mà tìm những lời lẽ diễn tả sự dị biệt này, vì mỗi
lần trong tâm thức quí bạn vượt lên một cõi cao, quí bạn lại cảm
giác nhận thức được một cái gì cao siêu phi thường hơn tất cả
những gì mà trước kia quí bạn chưa từng biết, quí bạn thấy uy
lực tăng gia, ánh sáng tăng gia, phúc lạc tăng gia.
Một người tâm thức thật
mở mang tự nhủ: "Hôm nay, lần đầu tiên, tôi mới hiểu Sự Sống thật
sự là gì, và sự huy hoàng của mấy
điều đó". Vậy mỗi cõi đều cao hơn cõi dưới kế nó, điều
này không thể so sánh được cho đến đổi từ cõi Trung Giới trở về
cõi Trần thì dường như người ta đi từ ngoài ánh sáng mặt trời
vào ngục tối vậy. Khi một người có thể hoạt động một cách có ý
thức trên cõi Thượng Giới, y sẽ có thể phát triển trong nhiều
phương hướng vô cùng cao hơn những điều y đã biết tại cõi Trung
Giới. Khi y tiếp xúc Tâm Thức Bồ Đề, lần đầu tiên y mới vừa cảm
biết cách Thượng Đế xem coi vạn vật. Đó chính là sự tiếp xúc
đầu tiên với Thượng Đế, một ý niệm đầu tiên về cách thế của
"Đấng Vô Sở Bất Tại" cảm biết vũ trụ của Ngài tạo ra. Người ta
nói về Ngài như vầy: "Sự sống của chúng ta, sự hoạt động của
chúng ta, bản thể của chúng ta vốn ở trong lòng
Ngài"
[5]
và một câu nữa: "Vạn vật
đều do Ngài sinh ra và thuộc về Ngài".
[6]
Đây không phải chỉ là một lời nói đẹp đẽ và có thi vị mà chính
là sự biểu hiện của một sự việc. Có một Đơn vị cực kỳ vinh
quang, không phải chỉ là một nhóm Huynh Đệ mà thật sự là một Đơn
vị; khi chạm phớt qua nó, người ta bắt đầu hiểu một cách mơ hồ
điều mà Thượng Đế cảm thấy khi Ngài nhìn xem Vũ Trụ của Ngài và
nói: "Cái đó thật tốt". Như thế chúng ta cầu xin được dắt từ
chốn tối tăm ngự trị ở các cõi thấp đến ánh sáng của Tâm Thức
cao siêu là ánh sáng tương phản với sự tối tăm. Không có danh từ
nào thích hợp hơn, không có tiếng nào đủ khả năng diễn đạt cảm
nghĩ của chúng ta đúng hơn. Sau hết chúng ta lại nguyện rằng: "Xin
dắt tôi từ sự chết đến sự Trường
Sinh Bất Tử ". Câu này không có nghĩa như người mới mộ Đạo
hiểu, vì người Thông Thiên Học không xem sự tử vong như một người
chưa khảo cứu vấn đề này: thái độ của y phải thật trái hẳn. Sự
chết không có gì đáng sợ; nó không phải là Bạo Chúa của những
sự khiếp đãm, nhưng đúng hơn nó là một vị Thiên Thần mang chìa
khóa vàng đến mở cửa vào
một đời sống cao cả hơn và nhiệt liệt hơn. Đành rằng chúng ta luôn
luôn luyến tiếc những người quá vãng, nhưng sự luyến tiếc này chỉ
nhắm vào việc: "Nắm một bàn tay tan ra mây khói, nghe âm thanh của
một tiếng nín lặng". Khi chúng ta cầu xin được dắt từ sự chết
đến sự Trường Sinh Bất Tử, ý tưởng của chúng ta không phải như ý
tưởng của một người Thiên Chúa Giáo sống mãi trong sự Trường Tồn
với bản ngã hiện hữu của y, dưới hình thức này hay dưới hình
thức khác. Tuy nhiên, chúng ta cầu mong thoát khỏi sự chết và
người bạn keo sơn của nó là sự tái sinh. Cái điều chờ đợi con
người, ấy là chu kỳ của sự tiến hóa, những người Phật Tử gọi
là Sansâra, có nghĩa là Bánh xe của sự sống. Lời cầu nguyện ở
đây có nghĩa là: "Xin dắt tôi từ vòng sinh tử đến sự Trường Sinh
Bất Tử - đến đời sống vượt lên trên sự sinh và sự tử, nó không
cần phải xuống những cõi thấp nữa, vì sự tiến hóa của nó trong
con người đã chấm dứt và nó đã học hết
những gì mà vật chất đã dạy nó.
Thường thường người ta
không ngờ đến điều này là ý niệm đó cũng chiếm một địa vị quan
trọng trong những Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo. Thiên Chúa Giáo hiện
đại phải chịu vài ám ảnh (tôi không nghĩ rằng người ta có thể
gọi chúng bằng danh từ nào khác
hơn), mà một trong những ám ảnh đó là tư tưởng ghê tởm về
một địa ngục đời đời kiếp
kiếp. Tín ngưỡng này đã rải một đám mây mù vô lý, vô nghĩa trên
một loạt giáo lý khác. Trong toàn thể của nó, thuyết Cứu rỗi
Linh Hồn xuất hiện có nghĩa là nhằm cứu vớt Linh Hồn ra khỏi cái
địa ngục hão huyền đời đời đó. Ý nghĩa thật khác lắm. Thiết
tưởng tất cả những đoạn sách nói về địa ngục đời đời kiếp kiếp
dường như không thể hiểu được đã trở thành sáng tỏ và minh bạch,
khi mà người ta hiểu được rằng thật ra con người
được cứu rỗi vì Đức
Chúa sinh ra trong lòng nó.
Đấng Christ thường nói về
con đường rộng rãi đưa đến sự chết chóc hay là sự tàn phá mà
nhiều người đã đi theo nó. Một hôm, người đệ tử của Ngài đến hỏi
Ngài: "Bạch Chúa, phải chăng chỉ có một số ít người được cứu
rỗi mà thôi"? Ngài đáp rằng: "Cánh cửa vẫn chật hẹp và con đường
dắt đến sự sống vẫn eo hẹp, rất ít người tìm được nó". Những
lời tuyệt diệu và hoàn toàn đúng này, người ta thường giải thích
rằng nó có nghĩa là đa số nhân loại sẽ bị ném vào một địa ngục
đời đời kiếp kiếp, còn một thiểu số sẽ được lên Trời. Thật là
hết sức kỳ cục
mà gán cho Chúa ý
tưởng này. Ý của Chúa hoàn toàn minh bạch. Các
đệ tử hỏi Ngài có bao nhiêu người theo con đường dẫn đến sự
Điểm Đạo? Ngài trả lời: "Ít lắm", lời Ngài vẫn đúng đối với
ngày nay cũng như đối với thuở xa xưa đó. Khi Ngài nói rằng: "Con
đường dắt đến cõi chết thì rộng rãi và nhiều người theo nó", là
Ngài đã nói đến con đường dắt đến sự sinh tử luân hồi. Dĩ nhiên,
quả thật đó là con đường
rộng rãi và dễ đi biết bao! Cách tiến hóa ấy không mệt nhọc chút
nào và những người đi theo đường đó sẽ đạt được mục đích khá dễ
dàng . . . có lẽ hết cuộc
Tuần Hoàn thứ bảy.
Nhưng cánh cửa chật hẹp và con đường eo hẹp, lại dẫn đến sự Điểm Đạo và cõi Trời. Khi Đấng Christ nói về Cõi này, Ngài không hề muốn nói đó là cõi Thiên Đàng hay trạng thái sau khi chết hay dévakhane, mà luôn luôn Ngài đề cập đến một nhóm người đã được cứu rỗi hay một đoàn thể được tuyển chọn, tức Quần Tiên Hội vậy. Khi Ngài nói về điều kiện của kiếp sống giữa sự chết và sự tái sinh, chúng ta thấy Ngài dùng những từ ngữ khác. Quí bạn hãy nhớ lại một đoạn văn của Thánh Jean như sau: "Và đây này, một đám đông người, không ai đếm được, thuộc mọi quốc gia, mọi bộ lạc, mọi chủng tộc, mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước Ngôi Chúa và trước con chiên con, mặc áo dài trắng và cầm trong tay những vòng chiến thắng". Khi tác giả đề cập đến bên kia cửa tử, Ngài nói với chúng ta về một đám người đông đảo, vô số, chớ không phải một nhóm ít người chịu khó khăn lắm mới tìm được con đường của họ.
CHƯƠNG THỨ NĂM
C. W. L.
–
Bây giờ chúng ta đi đến lời tựa của chính Alcyone.
Mấy lời này chẳng phải của tôi, ấy là lời của Sư Phụ tôi đã dạy
tôi. Không có Ngài, tôi chẳng làm gì được, nhưng nhờ Ngài giúp, tôi
mới bước vào Đường Đạo.
Alcyone cho rằng sự tiến
hóa của em hoàn toàn nhờ ảnh hưởng và sự giúp đỡ của Sư Phụ em.
Chúng ta cũng dự vào một phần lớn sự giúp đỡ mà em đã nhận
được, vì chúng ta có những lời trong sách, nghĩa là lời của Đức
Thầy. Nhưng sự giúp đỡ lớn lao bằng sự hiện diện và sự dìu dắt
của Ngài cũng sẵn sàng chờ đợi mỗi người trong chúng ta. Sự thật
này phải khắc sâu trong tâm trí chúng
ta; chúng ta phải tin tưởng vào nó như
tin tưởng vào một sự kiện tuyệt đối chắc chắn: Tất cả
những ai muốn chuẩn bị như Alcyone đều sẽ được giúp đỡ.
Anh cũng vậy, anh muốn bước vào Đường Đạo này thì những lời của
Sư Phụ tôi sẽ hữu ích cho anh. Nếu anh tuân theo. Nói rằng mấy lời
đó chơn chánh và tốt đẹp chưa phải là đủ. Người nào muốn thành
công thì phải thực hành đúng theo lời chỉ giáo. Một người đang
đói xếp ve nhìn một món đồ ăn rồi nói "ngon quá" thật vô ích với
y. Y phải đưa tay lấy và ăn. Cũng thế, nghe những lời dạy của Đức
Thầy chưa phải là đủ; phải thực hành những điều Ngài nói, chăm
chỉ theo từng tiếng, từng dấu.
Nói rằng: " Tôi sẽ làm
theo tất cả những lời dạy trong sách" cũng chưa đủ. Lời giáo huấn
phải thấm nhuần trọn vẹn đời sống của chúng ta. Phải canh chừng
những cơ hội thuận tiện. Mấy câu thơ ở đàng sau chót quyển sách
diễn tả thật rõ rệt ý muốn đó:
Chờ đợi tiếng nói Chơn Sư,
Rình xem ánh sáng ẩn tàng,
Lắng nghe hầu biết được mệnh lệnh của Ngài,
Dầu ở giữa chiến trận.
Chú ý từng nét dấu nhỏ nhít của Ngài,
Trên đám đông quần chúng,
Nghe tiếng thì thầm của Ngài,
Xuyên qua tiếng ca hát vang rền của quả đất.
Ai ước nguyện làm đệ tử
Chơn Sư thì phải luôn luôn lắng nghe
lời Thầy ở giữa những tiếng ồn ào, hỗn loạn và cuồng
nhiệt của cuộc tranh đấu sinh sống. Phải nỗ lực tìm cơ hội để
thực hành bất cứ lời dạy nào của Ngài. Chung qui không phải thật
là khó khăn đâu; một phần lớn chính là vấn đề thói quen.
Chỉ có bước đầu là đáng kể.
Khi bước thứ nhất xong rồi thì thói quen đã có; rất dễ cho chúng
ta giữ chừng không bỏ cuộc, chẳng khác nào một người kia trong
việc kinh doanh tìm cơ hội để kiếm lợi. Người đó có lý mà giữ
một thái độ chờ đợi; vì nếu y lo lắng công việc làm ăn thì y
phải giữ cho trọn vẹn bổn phận của y, nhưng nếu y ra sức giải
quyết những việc tạm thời thì chính chúng ta cũng rất có thể áp
dụng một sự cố gắng như vậy đối với những vấn đề của đời sống
cao siêu.
Ai muốn được quỳ dưới chân
Đức Thầy thì rất cần phải được hiểu rõ ý muốn củaNgài. Thái
độ đó là kết quả của sự đọc sách Thông Thiên Học. Chỉ có thái
độ đó mới là mục đích thật, vì Thông Thiên Học là một lối sống
thật sự phải noi theo, chớ không
phải là một hệ thống giáo lý chỉ để cho chúng ta học hỏi
mà thôi. Vậy chúng ta phải cố gắng sao cho quan điểm của chúng ta
phù hợp với quan điểm của Đức Thầy, mà không hề có sự cưỡng bức
nào cả. Không ai trong chúng ta hành động thật khôn ngoan khi thừa
nhận quan điểm nào đó chỉ vì nó là quan điểm của Đức Thầy mà
không hiểu vì sao mà Ngài đạt được quan điểm đó. Chúng ta thừa
nhận quan điểm của Chơn Sư mà không có sự nguy hiểm nào cả, vì sự
hiểu biết của Ngài vượt xa vô cùng kiến
thức của chúng ta.
Nhưng Ngài không muốn điều đó. Tư tưởng của Ngài phải thuyết phục
được trí khôn của chúng ta, chớ không phải chỉ ảnh hưởng đến tình
cảm mà thôi.
Điều cần thiết trước nhất
là phải tin chắc rằng những điều ấy quả có thật, trường tồn và
tối quan trọng. Người Thiên Chúa Giáo bậc trung nói rằng quả thật
những điều vô hình quan trọng hơn hết, còn những việc hữu hình là
giả tạm. Y tin như vậy nhưng không hề làm in như điều y đã tin
tưởng. Tại sao vậy? Bởi vì y không chắc chắn
những điều đó có thật. Tại cõi trần, y chắc chắn rằng
tiền bạc có những lợi ích và càng kiếm được tiền, càng tốt cho
y. Y ít tin rằng những chuyện tinh thần có thật, chúng thuộc về
loại đề mục mà y gọi là "Tôn Giáo". Theo y dường như không chắc
chắn, không có tính cách thực dụng và hiển nhiên, thích hợp với
công việc của đời sống thường ngày. Chúng ta đang tìm cách tiến
tới trong địa hạt tinh thần, chính chúng ta phải đưa tính cách
thực dụng này, sự chính xác tuyệt đối và minh bạch này vào giới
vô hình. Ông Sinnett đã nói trong tác phẩm Thông Thiên Học đầu tiên
của ông như sau: "Đối với quí vị, những điều này phải thật như
Thập Tự Giá". Điều này rất đúng, chúng phải quen thuộc với chúng
ta như những điều chúng ta thấy hàng ngày.
Chúng có thể trở nên như
thế, hoặc do sự suy luận, hoặc do trực giác, nhất là do kinh
nghiệm trực tiếp. Khi trong trí ta tin chắc rằng việc nào đó phải
có thì nó trở thành một sự xảy ra có thật đối với chúng ta.
Chắc chắn đó là một ưu điểm mà sinh viên kỳ cựu hơn một sinh viên
còn trẻ tuổi. Dù những người mới có nhiệt tâm đến đâu đi nữa,
những người kỳ cựu cũng vẫn có đủ thì giờ làm cho ý niệm này
thành ra một phần cốt yếu của đời sống họ và đồng hóa nó lần
hồi, từ chút này đến chút kia. Như một thi sĩ đã nói: "Sự
hiểu biết vượt lên cao, từ sự tiến bộ này đến sự tiến bộ
khác". Có vài người trong chúng ta vừa nghe nói đến những sự kiện
cao siêu thì liền hoàn toàn tin chắc rằng chúng nó quả có thật;
cái trực giác tốt đẹp đó vốn do nghiệp quả lành của họ đã gây
ra từ những tiền kiếp. Tuy nhiên đối với phần đông số phần ít may
mắn, thì rất cần sự phát triển liên tục lâu dài. Thật ra một
người có thể gia nhập Hội Thông Thiên Học đã ba mươi năm rồi mà
không hiểu biết gì hơn lúc y mới vào. Thật đáng buồn vậy, vì mọi
cơ hội tốt đều trôi qua rồi. Trái lại, đối với người không ngớt
suy nghĩ về Thông Thiên Học và sống theo nó đều cảm thấy lần lần
có một sự tin chắc. Những kinh nghiệm của đời sống và những tư
tưởng về những vấn đề đó lần lượt đem đến cho chúng
ta nhiều bằng chứng để cho chúng ta thấy rằng những việc ấy
vốn hiển nhiên.
Trong nhiều trường hợp,
những tư tưởng Thông Thiên Học ban đầu dường như phức tạp và khó
hiểu, nhưng về sau chúng trở nên giản dị và dễ dàng; chúng biến
thành một thành phần của chúng ta. Một đứa trẻ tập viết một
trương, nó rất hãnh diện nếu nó không phạm một lỗi nào, nhưng về
sau, nó cũng chép một trương như vậy mà không cần để ý đến nữa,
nó đã có thói quen rồi. Trong thời gian mà chúng ta còn cần phải
cố gắng để hiểu biết thì chúng ta chưa thật hiểu được giá trị
của những tư tưởng Thông Thiên Học. Một ngày kia, chúng sẽ trở
thành một sức mạnh trong đời sống của chúng ta.
Kinh nghiệm cá nhân đem lại
chắc chắn những sự tiến bộ dễ dàng hơn và nhanh chóng hơn; trong
chúng ta, rất ít khi chúng ta không có sự kinh nghiệm nào cả. Về
phương diện này, một ít hiểu
biết trực tiếp cũng chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng không
phải tất cả cái còn lại là thật cả, nhưng mà nó rất có thể
đúng. Riêng về phần chúng ta, chúng ta nhận thấy một phần giáo lý
chúng ta đã học phù hợp với Chân lý, nên chúng ta chấp nhận phần
còn lại cũng có thể đúng. Khi toàn thể triết lý kết hợp với
nhau, thì có lẽ đúng đó sẽ chắc chắn cho đến nỗi nó trở
thành sự thật.
Nếu không chú ý đến một dấu và bỏ qua một tiếng, thì dấu đó và
tiếng đó mất biệt vì Chơn Sư không nói đến hai lần.
A. B.
–
Nhiều người không thể hiểu rằng những kẻ không ngớt nghe lập đi
lập lại những chân lý là những người không hiểu biết gì hơn những
người còn ở ngoài đời. Và Chân lý Thông Thiên học không cảm họ
được, nếu họ không cố tâm tuân hành. Nên chú ý, tôi không nói: nếu
họ không tuân hành - mà tôi nói: nếu họ không cố tâm tuân hành.
Chính là sự cố gắng bền bỉ vốn cần thiết mà nhiều người trong
chúng ta lại thường hay quên. Thật thế, Chơn Sư không nói hai lần.
Ngài đưa ra một tư tưởng, nếu nó không được tiếp nhận thì Ngài
không nhấn mạnh nó. Ngài không lập lại điều Ngài đã nói. Chỉ có
những đệ tử của Ngài, vì phải kể đến những điều kiện của Thế
gian nên cứ lập đi lập lại cả trăm lần những điều họ đã nói cho
đến khi chúng sinh ra được một cảm tưởng. Nếu bạn được nhận làm
Đệ Tử chánh thức, Đức Thầy sẽ không bảo bạn thực hành việc gì
mà bạn không thể làm được. Nếu bạn bỏ qua một huấn lệnh của
Ngài đưa ra cho bạn, Ngài sẽ không đưa ra cho bạn một huấn lệnh nào
nữa đâu. Điều đó không phải vì Ngài không nhân từ, nhưng bởi Ngài
không có thì giờ để lãng phí. Ngài có không biết bao nhiêu công
việc phải làm. Tất cả giáo lý này đem truyền cho Alcyone vì em đã
làm việc nhiều và không ngớt.[7]
Chỉ có những ai ý chí cứng cỏi, không sờn lòng mới đến gần Đức
Thầy được. Tôi biết điều đó. Chính là sự cố gắng bền bỉ và
không bỏ cuộc này mà nhiều người trong chúng ta cho là khó khăn,
nhưng đó là điều cần thiết và nếu không làm nổi, bạn không thể
nào bước vào Đường Đạo được.
C. W. L.
–
Chúng ta là những người đi theo Đức Thầy và cố gắng hoàn thành
một phần công việc của Ngài ở ngoài đời, chúng ta luôn luôn phải
nói hai lần; chúng ta luôn luôn lập lại những thông điệp khác nhau
đã được giao phó cho chúng ta, vì những người nghe vốn vô tư lự hay
lơ đãng. Chỉ khi nào một người được giao thiệp với Chơn Sư mới xem
như là không thờ ơ nữa; vậy một lời nói khéo léo, bóng bẩy cũng
đã đủ cho y rồi và chắc chắn nó không được lập lại, nếu nó không
được tiếp nhận; không phải Chơn Sư kiêu hãnh, tự phụ, nhưng vì đệ
tử chưa sẵn sàng.
Phải hiểu cách thức Chơn
Sư đào tạo đệ tử. Một mạng lệnh trực tiếp của các Ngài đưa ra
rất hiếm có. Cách đây đã lâu, khi tôi được vào hàng Đệ Tử nhập
Môn, câu hỏi đầu tiên của tôi là: "Bạch Sư Phụ! Con phải làm gì"?
Đức Thầy đáp: "Con hãy tự kiếm lấy điều đó"; rồi Ngài giải
thích: "Thầy biết chắc chắn rằng nếu Thầy ra cho con một mệnh
lệnh thì con sẽ vâng lời ngay, nhưng trong trường hợp đó con chỉ
nhận được quả của một sự vâng lời mau lẹ và tức khắc, nhưng
nghiệp quả của việc làm sẽ về
phần Thầy.Thầy muốn nó thuộc về phần con. Thầy muốn con
làm những việc lành và tạo nghiệp lành. Ý kiến phải phát sinh
từ nơi con chớ không phải từ nơi Thầy".
Rất ít khi các Đấng Cao
Cả cho những mệnh lệnh trực tiếp; nhưng thường thường do một lời
nói của Đức Thầy hoặc một cái nhìn của Ngài cũng đủ cho người
ta đoán được Ngài bằng lòng cách hành động nào đó hay không.
Những người ở chung quanh Ngài (đặc biệt nhất là trường hợp của
Đức Thầy Kouthoumi) tập lưu ý đến sự nhận xét ấy, họ luôn luôn
chú ý.
Đức Thầy Morya là vị Vua
trong giai đoạn đầu của kiếp hiện tại, nên thường Ngài nói với
một giọng oai quyền của một vị Hoàng Đế. Ngài thường ra lệnh
trực tiếp và Ngài tỏ ý không bằng lòng với những lời lẽ rõ
rệt. Đức Thầy Kouthoumi hầu như không bao giờ tỏ ý không bằng lòng;
các đệ tử của Ngài tập đoán ý Ngài bằng cách nhìn của Ngài,
bởi vì ít khi Ngài khiển trách. Đó là lý do tại sao các đệ tử
ở trong tình trạng chờ đợi đặng nghe lời Ngài dạy dỗ họ. Khi
nhận được chỉ thị của Đức Thầy, họ cố gắng tuân theo, bởi vì họ
biết rằng nếu họ xao lãng, thờ ơ thì chỉ thị đó sẽ không được
lập lại. Sự không tiếp nhận chỉ thị này không hề bị khiển trách,
chỉ có người đệ tử bị thiệt thòi, vì y không nhận được chỉ thị
mới trong một dịp khác.
Trong quyển
Chơn Sư và Thánh Đạo, chúng tôi có trình bày rằng các Đấng
Chơn Sư đào tạo đệ tử các Ngài bằng nhiều cách khác nhau tùy theo
Cung của họ và loại công việc họ phải đảm đương. Trên con đường
của Đức Bàn Cổ và Đức Morya thì có những người Kshattriya
(Sái-đế-lỵ), tức là hạng người có uy quyền như Thẩm phán, Luật
gia, Quân nhân, Chính khách. Trên con đường của Đức Bồ Tát và Đức
Thầy Kouthoumi thì có những người thuộc về hạng Brahmana
(Bà-la-môn), tức là các Huấn luyện viên, các nhà Truyền giáo, các
nhà Cải cách. Ngoài
ra còn năm Cung lớn khác mà
mỗi Cung đều có đặc tính
riêng biệt. Một vị Đế Quân ít nhất Sáu lần Điểm Đạo cai quản mỗi
Cung, dưới Ngài có nhiều Đức Thầy khác. Như thế, chẳng hạn như
Cung thứ hai, một vị đệ tử không cần thiết phải làm đệ tử Đức
Thầy Kouthoumi; y có thể
trực thuộc
Đức Thầy Djwal Koul.
CHƯƠNG THỨ SÁU
�
Y
�
C. W. L.
–
Những tác phẩm Đông phương nói với chúng ta rằng có đến bốn nẻo
chánh có thể dắt con người đến Con Đường Nhập Môn. Các sách ấy
nói thêm rằng sự thay đổi mục tiêu là thường do nhóm người đã
bước vào Đường Đạo rồi. Các vị ấy khai sáng cho người đời thấy
sự vinh quang và sự huy hoàng của Con Đường Đạo cũng như sự cần
thiết phải theo đuổi nó.
1)–
Ảnh hưởng của một vị Cao Đồ không bị giới hạn trong lời nói của
người thốt ra, cái gây ra một ảnh hưởng mạnh mẽ như thế, chính là
sự rung động của sự sống chiếu tỏa ra chung quanh Người. Sự kiện
này được hoàn toàn công nhận ở Ấn Độ là nơi có nhiều vị Đạo Sư
khác nhau, từ hạng cao đến hạng thấp, có quyền năng nhiều hay ít;
người ta gọi họ là Gu-ru (Gourous):
Tôn Sư. Mỗi vị Đạo Sư đều có những đệ tử riêng. Họ dạy đệ tử Họ
những quan niệm Triết Học riêng của Họ, đôi khi Họ cho đệ tử những
câu Thần chú để niệm, tức là những cách tham thiền và dạy đệ tử
thực hành Pháp môn Yoga. Nhưng không phải do bài vở mà Họ giúp đỡ
đệ tử của Họ nhiều hơn hết. Điểm chính là đệ tử sống gần Tôn
Sư. Nếu Đạo Sư là một vị thuộc phái Tiêu dao[8],
đi ta bà từ nơi này sang nơi khác, các đệ tử cũng đi theo Thầy.
Cũng thế đó, các đệ tử của Đức Jésus đã đi theo Ngài ở
Palestine. Nếu vị Đạo Sư thường trụ, không di chuyển thì các đệ tử
ở chung quanh Thầy, ngồi dưới chân Thầy, sẵn sàng tiếp nhận những
lời vàng ngọc của Thầy thốt ra, nhưng họ thụ hưởng những sự lợi
ích của bài dạy của Thầy ít hơn ảnh hưởng do sự hiện diện của
Ngài ban ra cho họ.
Không có gì đúng theo khoa
học hơn nữa. Những thể cao siêu của vị Đạo Sư
rung động với một tốc độ mau hơn nhiều so với tốc độ rung
động của những thể của đệ tử vừa mới từ giả đời sống thế tục
là nơi phát xuất những sự rung động ở mức độ thấp kém. Các đệ
tử chưa cởi bỏ trọn vẹn yếu tố cá nhân như Thầy. Họ phải tự
khắc kỷ, giữ gìn giới luật, nhận thấy những tánh xấu của mình,
quyết định sửa chữa chúng nó và hoạch đắc vài đức tánh; tóm
lại, họ phải thay đổi tánh tình. Thường thường đó là một công
trình dài lâu và buồn tẻ,
nhưng mà có thể thành ra hết sức dễ dàng nhờ được thường trực
sống gần vị Đạo Sư là người đã khai mở được những đức tánh này
và dứt bỏ được tật xấu kia. Những làn rung động thanh cao gây ra
một áp lực thường xuyên, vị đệ tử trong giấc ngủ cũng như trong
lúc thức, thu hút chúng nó và không ngớt hòa nhịp với chúng nó.
Đó là nguyên tắc rất phổ thông trong Vật Lý: hai cái đồng hồ để
gần nhau mà hai quả lắc không đồng bộ với nhau, quả lắc mạnh hơn
từ từ kéo quả lắc yếu hòa hợp với sự chuyển động của nó hoặc
làm cho quả lắc yếu ngưng lại.
2)–
Cách thứ hai để đi đến con Đường Nhập Môn là đọc hoặc nghe những
lời giáo huấn về vấn đề đó. Một người thấy vấn đề Nhập Môn rất
thú vị, những dịp tốt đem đến cho y vài sự hiểu biết đó, nhờ
trực giác, y nắm lấy chúng nó và tức khắc tìm cách thỏa mãn sự
ham muốn hiểu biết thêm về vấn đề ấy. Đó chính là trường hợp
của tôi. Quyển Thế Giới Huyền Bí
lọt vào tay tôi, tôi liền nhất
định: "Nếu quả đúng như thế - nếu điều đó hiển nhiên - nếu
các Đấng Cao Cả có thật, và nếu
các Ngài bằng lòng nhận công việc phụng sự của chúng ta và
ban cho chúng ta một ít sự hiểu biết vô giá của các Ngài để bù
lại, thì tôi sẽ là một trong những người phụng sự các Ngài. Tôi
sẽ lượm lặt trong bất cứ mảnh vụn hiểu
biết nào mà tôi có thể làm được. Kể từ ngày đó, mục đích
duy nhất xứng đáng với sự nỗ lực của tôi là hội đủ những điều
kiện cần thiết". Thật ra, hàng ngàn người đã nghe nói hoặc đọc
trong sách toàn thể giáo lý nhưng họ không có một phấn khởi nào
cả. Đó chính là vấn đề kinh nghiệm đã thu thập được trong những
tiền kiếp. Phải có tiếp xúc với chân lý trong một kiếp trước và
tin chắc nó tốt đẹp và xác thực thì mới nhận biết nó ngay khi
nó hiện đến cho chúng ta trong kiếp này.
Nhiều người trong chúng ta
lấy làm ngạc nhiên khi thấy một người kia đọc một tác phẩm Thông
Thiên Học mà không sửa đổi tâm tánh, không hoán cải. Thông Thiên Học
là một giáo lý cao siêu, nó giải quyết được nhiều vấn đề. Tuy
nhiên, như các bạn đã biết
rõ, nếu bạn thử đem sách Thông Thiên Học cho vài người bạn thân
mượn, thì phân nửa số người này đem trả lại bạn và nói: "Phải,
thật hay lắm, nhưng họ không hiểu biết gì trong đó". Chính là
nghiệp quả lành tạo ra thuở xưa, khi học hỏi những ý niệm này,
ngày nay đã giúp chúng ta hiểu được chúng nó. Càng nghiên cứu sâu
xa một vấn đề trong quá khứ thì hiện nay nó càng hấp dẫn chúng
ta. Đó chính là kinh nghiệm của chúng ta về một tác phẩm có giá
trị mà chúng ta đã đọc hai chục năm trước chẳng hạn. Bây giờ bạn
hãy đọc lại tác phẩm đó, bạn sẽ thấy nó hay biết bao so với khi
xưa; bạn có thể đánh giá nó tùy theo năng lực của bạn hiểu biết
nó.
3)–
Đôi khi cách thứ ba cũng dắt con người vào con Đường Nhập Môn,
những tác phẩm Ấn Độ gọi cách đó là "Sự suy tư sáng suốt". Nói
một cách khác, bằng sự cố gắng ngày đêm suy nghĩ không ngớt, một
người kia có thể đi đến kết luận rằng phải có một Cơ Tiến Hóa,
những Đấng toàn năng, toàn thiện phải biết rõ Cơ đó; sau cùng,
phải có một con đường dẫn đến các Ngài. Người nào nhờ một sự
cố gắng suy luận như thế, đi đến kết luận ấy ắt y lo tìm đường
Đạo. Tuy nhiên, trên con đường này thật ra ít gặp những khách lữ
hành.
4)–
Đối với vài phương diện, phương pháp thứ tư là hay hơn hết, ấy là
sự mở mang đức hạnh. Đó là ý niệm dành cho người Thiên Chúa Giáo
bậc trung vì y thường tin rằng chỉ có đức hạnh là cần thiết.
Trái lại, người Thông Thiên Học nhớ lại rằng vào thời buổi của
Thiên Chúa Giáo nguyên thủy thì sự tinh luyện tánh tình hay là
thánh đức mà ngày nay họ cho là mục tiêu chỉ một bước đầu tiên
mà thôi. Thánh Clément nói thẳng rằng sự Trong sạch (Tinh khiết)
chỉ là một đức tánh tiêu cực, nó có ích lợi là giúp cho sự
hiểu biết được dễ dàng. Người đã luyện được mình Trong sạch rồi
thì xứng đáng được học hỏi và chuẩn bị để được giác ngộ là
thời kỳ thứ nhì rồi sang qua thời kỳ thứ ba hay là sự hoàn
thiện. Bạn hãy nhớ lại lời của Thánh Phao Lồ: "Có một Minh Triết
mà chúng ta giảng giải cho những người đã trọn lành, nhưng không
hề truyền cho kẻ khác".
[9]
Đức hạnh dắt con người
vào cửa Đạo; một người hạnh kiểm tốt trong nhiều kiếp luân hồi,
cũng không phải vì đó mà trở nên thông minh hơn. Rốt cuộc y hoạch
đắc một trực giác khá đủ để thân cận với những người hiểu biết,
như đến với một vị đệ tử
Chơn Sư. Tuy nhiên người ta cho rằng theo phương pháp đó phải mất
hàng ngàn năm và nhiều kiếp Luân Hồi. Người mở mang đức hạnh mà
không mở trí khôn, một ngày kia cũng sẽ bước vào Đường Đạo được
vậy, nhưng ấy là một sự tiến bộ chậm chạp. Sẽ tiết kiệm được
biết bao nhiêu thì giờ, nếu y theo lời dạy của Thánh Pierre
và lo mở mang trí
tuệ.
CHƯƠNG THỨ BẢY
� Y �
Có bốn đức tánh cần thiết để bước vào Đường Đạo, ấy là
* PHÂN BIỆN.
* ĐOẠN TUYỆT.
* HẠNH KIỂM TỐT.
* LÒNG TỪ ÁI.
C. W. L.
–
Mấy đức tánh cần thiết này luôn luôn được chỉ dẫn trong các Tôn
giáo, nhưng sự phiên dịch ở đây có khác hơn chút ít với những sự
phiên dịch trước.
a)–
Về đức tánh thứ nhứt sự thay đổi rất ít. Tôi đã giải thích
những danh từ của người Ấn Độ và những người Phật giáo dùng: nó
đồng nghĩa với chữ Hoán Cải của người Thiên Chúa giáo; người đệ
tử phải hiệp nhất Chơn Nhơn với Phàm Nhơn. Trên Đường Đạo chính
thức một sự hiệp nhất in như thế sẽ kết hợp lại Chơn Nhơn với
Chơn Thần. Chơn Nhơn là một phần tử của Chơn Thần tách ra và ngự
ở phía dưới Chơn Thần, tại phần trên cao của cõi Thượng Giới. Chơn
Nhơn cũng xuống để thu thập những kinh nghiệm, để tập tiếp nhận
và lập lại vài thứ rung động không cảm được Chơn Thần ở cảnh
giới của Ngài. Đến lượt Chơn Nhơn phải hiểu rằng nó là một phần
tử của Chơn Thần, nó có ra đây chỉ vì Chơn Thần và khi đã đạt
được mục đích, con người sẵn sàng được Điểm Đạo lần thứ Năm và
thành một vị Siêu Phàm.
Cái khả năng phải có để
được hai lần điểm đạo được xác định
như sau đây: trong cuộc Điểm Đạo lần thứ Nhứt, Chơn Nhơn hiệp
với Phàm Nhơn, đến đỗi trong Phàm Nhơn chỉ có sự hoạt động của
Chơn Nhơn thôi; trong cuộc Điểm Đạo lần thứ Năm, thì những gì trong
Chơn Nhơn mà không do Chơn Thần linh cảm hay tán thành đều biến mất.
Mỗi khi Chơn Thần ảnh hưởng đến những kiếp sống dưới Trần gian
thì Ngài xuống như một vị Thượng Đế từ trên trời giáng thế vậy.
Trong mỗi kỳ Điểm Đạo, Chơn Thần xuống như một tia chớp nhoáng và
trong phút chốc Ngài hiệp nhất với Chơn Nhơn, cũng như sự hiệp
nhất này sẽ vĩnh viễn khi con người đắc quả Chơn Tiên. Trong vài
trường hợp khác, Chơn Thần cũng xuống vậy, chẳng hạn như trường
hợp đã được đề cập trong quyển
Những kiếp sống của Alcyone, khi em phát nguyện với Đức Thế Tôn
(Đức Phật).
[10]
Trong những phương pháp đã
kể ra, do phương pháp này hay
phương pháp kia, con người đã
biết phân biện hay nhận thức được công việc này đáng tìm kiếm,
còn công việc kia thì không
đáng.
b)–
Kế đó con người thấy rằng nó phải hoạch đắc đức tánh thứ nhì,
mà ở đây Đức Thầy gọi là Dứt Bỏ hay Đoạn Tuyệt. Bà Tiến
Sĩ A. Besant
đã dịch là "Không có
Dục tình hay Lãnh đạm", nó chính là
Vairagya của người Ấn Độ, có
nghĩa là Lãnh đạm đối với kết quả của những hành vi của chúng
ta. Đức Thế Tôn diễn tả bằng những danh từ đó, Ngài dùng chữ Nam
Phạn - Pâli - Parikamma . Karma
hay kamma luôn luôn có nghĩa là
làm hay hành động và Parikamma có nghĩa là chuẩn bị hành
động; ấy là hành động theo đó một điều quan trọng đặc biệt chỉ
định bổn phận làm lành là vì chưng yêu mến sự lành chớ không vì
lợi lộc nào khác có thể đem đến cho chúng ta. Phải hiểu rõ điều
này. Thường người ta hiểu rằng Lãnh đạm đối với kết quả của
hành động có nghĩa là phải thi hành bổn phận không cần bận tâm
đến sự phản ứng của nó đối với kẻ khác. Như trong quyển này có
nói với chúng ta ở phía đàng sau như
vầy: "Con phải làm
điều lành; con không được
làm điều ác", dù những hiệu quả xảy ra như thế nào cũng vậy; như
thế không có nghĩa là phải làm theo ý muốn chúng ta mà không cần
lo nghĩ coi hành vi của mình
cảm đến kẻ khác cách nào. Thật ra, chính là cái kết quả đã tạo
ra xác định một hành vi thiện hay ác. Đệ tử Chơn Sư không nghĩ đến
hậu quả đối với chính mình, nhưng y hết sức quan tâm đến hậu quả
gây ra cho kẻ khác.
c)–
Đức tánh cần thiết thứ ba gọi là Hạnh Kiểm Tốt, liên quan đến
sáu qui tắc mà người Ấn Độ gọi là
Shatsampatti. Theo danh từ Nam
Phạn - Pâli - của Đức Phật dùng, đức tánh này được gọi là
Upachâro, nó có nghĩa là "Chủ ý” hơn là “Hạnh Kiểm." Phải
giữ gìn Hạnh Kiểm theo đường lối của sáu thứ bửu châu này đã qui
định, như người ta đã gọi như thế. Trong khi tiếp tục nghiên cứu
sách này, chúng ta sẽ gặp ở phía sau những danh từ của Đức Thầy
Kouthoumi dùng. Đức Phật gọi những danh từ ấy là:
Samo, "Yên tịnh," nghĩa là kỷ
luật của Trí tuệ; Damo, "Khắc
phục," nghĩa là kỷ luật của Xác thân; kế đó là
Uparati,
Titikkha, Samadhana và
Saddha, theo nghĩa chữ là:
"Đình chỉ, Chịu
đựng, Chuyên cần và
Đức tin". Tôi đã ra công tìm kiếm ý nghĩa của những danh từ này
trong những quyển Tự điển chính và cũng nhờ Đại Đức Hòa Thượng
Hikkaduwe Sumangala Thero, Tăng Thống phái Phật giáo Nam Tông dịch
giúp tôi. Những từ ngữ này cũng tiêu biểu đức tin đặc biệt của
phái đó.
Chúng hơi khác chút ít
với lối dịch trong quyển Dưới
Chơn Thầy. Đức tánh ở đây gọi là "Đình chỉ" trong
Dưới Chơn Thầy dịch là "Khoan dung" vì đây là vấn
đề từ bỏ tư tưởng
cạn hẹp của Tôn giáo, và thói Dị đoan mà cũng hoàn toàn cởi bỏ
tất cả mọi ý tưởng cho rằng phương pháp của bạn hay hơn
tất cả những phương pháp khác, cũng như thấy rằng không có
một nghi thức hoặc lễ bái nào là cần thiết. Sự chịu đựng, nhẫn
nhục đó chỉ là một hình thức của sự yên tịnh. Sự chuyên tâm phát
xuất từ sự định trí và sự thăng bằng, nó bắt ta phải tập trung
trọn đời ta vào tiêu điểm của sự cố gắng và như thế nó cũng gồm
sự cương quyết. Sau hết đức tin là sự tin cậy Đức Thầy và cũng
là sự tự tín nữa. Trong hai trường hợp, mấy đức tánh này không
khác nhau, nhưng đức Phật nói đến chúng trên một quan điểm đặc
biệt - sự cần thiết của đức Minh Triết. Còn Đức Di Lạc và Đức
Thầy Kouthoumi thì nhấn mạnh sự cần thiết của tình thương hơn. Khi
dạy Alcyone, Đức Thầy cũng nhắm vào ý nghĩa thực tiễn hơn là
dịch những danh từ xưa.
d)–
Đức tánh cần thiết sau cùng là Lòng Từ Ái, tiếng Phạn là
Mumukshatva, nghĩa là
"Sự nhiệt thành mong muốn được giải thoát ra khỏi vòng sinh tử
luân hồi và hợp nhất với Đấng Tối Cao". Đó là điều Đức Phật đã
gọi trong danh mục của Ngài là Anuloma, nghĩa là "Thứ tự trực tiếp" hay " Sự
liên tục". Điều này có nghĩa là sau khi khai mở các đức
tánh khác con người phải ước mong được thoát khỏi những sự hạn
chế của Thế gian và được hợp nhất với Đấng Tối Cao
để trở thành Cộng sự
viên của Ngài.
Rồi Alcyone nói tiếp:
Tôi cố gắng nói cho bạn nghe những lời của Sư Phụ tôi dạy tôi về
mỗi đức tánh ấy.
Đến đây mới bắt đầu phần
chính của tác phẩm Dưới Chơn
Thầy.
TÁNH PHÂN BIỆN
CHƯƠNG THỨ TÁM
�
Y
�
NHỮNG MỤC ĐÍCH THẬT VÀ NHỮNG MỤC ĐÍCH KHÔNG PHẢI LÀ THẬT
C. W. L.
–
Đây là phần I của chính quyển
Dưới Chơn Thầy.
Đứng đầu mấy đức tánh này là tánh phân biện. Thường thường,
người ta hiểu tánh phân biện này là phân biện sự chơn và sự giả,
nó dắt con người vào Đường Đạo. Hiểu như thế thật đúng vậy, nhưng
còn nhiều hơn nữa, và phải thực hành đức tánh này không những khi
mới bước vào Đường Đạo, mà phải phân biện mỗi ngày, mỗi bước cho
đến khi đi mút con đường đạo.
Mấy lời sau chót này chỉ
rõ những nỗi khó khăn phải vượt qua của đa số người mắt đã thấy
được vẻ vinh quang và sự tốt đẹp của con Đường Đạo và muốn dấn
thân vào Con Đường đó để đến quỳ dưới chân Đức Thầy. Tất cả
những người ấy đều là những người tốt, đúng đắn và cần mẫn,
nhưng Phàm Nhơn của họ bất tuân kỷ luật và họ chịu áp lực của dư
luận quần chúng rất nặng nề, như tôi đã giảng trước đây. Chúng ta
cũng không quên rằng nhân loại vừa mới vượt qua phân nửa cuộc Tuần
Hoàn thứ tư và những gì mà người ta cố gắng hoàn thành trong
cuộc Tuần Hoàn này sẽ trở nên dễ dàng trong cuộc Tuần Hoàn thứ
bảy. Những người đợi tới thời kỳ đó thì sẽ có trong ba thể:
Thân, Vía, Trí của họ chất khí phát triển hơn chất khí cấu tạo
các thể của chúng ta hiện nay rất nhiều. Tất cả những vòng xoắn
ốc của nó đều hoạt động chớ không phải chỉ có hơn phân nửa số
vòng xoắn ốc
[11]
như hiện nay. Sau hết, tất
cả những thần lực ở chung quanh đều phò trợ họ, thay vì nghịch
với họ như bây giờ.
Các Đấng Chơn Sư đều ở
một bên với chúng ta và thần lực của các Ngài giúp đỡ chúng ta.
Lực tiến hóa, dù chậm chạp nhưng vẫn liên minh với chúng ta và
tương lai cũng thuộc về chúng ta. Nhưng trong thời đại này, mọi
hoạt động như thế đều vô cùng khó khăn. Vào khoảng giữa cuộc tuần
hoàn thứ năm tất cả những người gây ảnh hưởng mạnh mẽ cho chúng
ta và theo một chiều hướng nghịch đều bị loại ra và chỉ
còn lại những người cùng đi theo một đường lối với chúng ta. Như
vậy, trong cuộc Tuần Hoàn thứ bảy mọi việc đều trở nên rất dễ
dàng. Ở vào thời kỳ đó người ta có thể tìm được ở ngoài đời
mọi sự thuận lợi mà hiện nay chỉ thấy điều đó trong một Đạo
Viện dưới sự điều khiển của một vị đã tiến hóa cao về tinh
thần. Vài độc giả đã thầm nói rằng: "Nếu thế, tại sao không đợi
đến cuộc Tuần Hoàn thứ bảy"? Nhiều người trong chúng ta đã bị
trào lưu lôi cuốn theo sự sung sướng, sự thú vị của Trần gian từ
hai hoặc ba mươi ngàn năm rồi, và những ai không có nhiệt vọng tiến
hóa hay giúp đỡ nhân loại có thể còn tiếp tục sống như thế cả
triệu năm nữa và chắc chắn cuối cùng mọi sự sẽ trở nên dễ dàng
hơn. Nhưng những người hiện nay đương đầu với những nỗi khó khăn sẽ
được đặc ân vô cùng lớn lao và tiến hóa mau lẹ, sẽ nhận được
vòng chiến thắng.
Các bạn hãy nhớ lại bài
Thánh ca xưa của Thiên Chúa giáo, nói về một người kia lên tới
trời và nhìn chung quanh, y lấy làm lạ mình có hơi khác với mấy
người đó. Sau cùng y gặp Đức Christ và hỏi Ngài vì lẽ gì? Đấng
Christ trả lời rằng:
"Ta biết con tin ở Ta - và giao mạng sống của con cho Ta -nhưng tất
cả những ngôi sao sáng rỡ này đâu rồi? - Chúng phản chiếu lóng
lánh trên vương miện của con - hãy xem đám đông vui vẻ đàng kia; -
tất cả đều mang trên trán những hòn ngọc; mỗi linh hồn mà họ dắt
đến Ta là mỗi viên ngọc họ mang trên trán hôm nay đó".
Thánh Kinh Thiên Chúa giáo
nói rằng những nhà Hiền Triết sáng rỡ như bầu trời, như ánh sáng
trên bầu trời quang đãng. Nhưng mà những ai dắt được nhiều người
đến với sự công bằng chính trực sẽ giống như những ngôi sao chói
sáng mãi trên không gian vô tận, những ngôi mặt trời vĩ đại rực rỡ
ban rải hơi nóng và thần lực cho hàng ngàn sinh vật khác nhau. Đó
là sự khác biệt giữa hoàn thành tức khắc bổn phận của chúng ta
với sự chờ đợi cho trào lưu mang đến đích trong cuộc tuần hoàn
thứ bảy.
Con bước vào Đường Đạo vì con biết rằng chỉ trong đó mới tìm
được những việc đáng thâu lãnh mà thôi. Những người không hiểu
biết làm lụng để được giàu sang và có quyền thế; nhưng hai cái
tước lộc đó, bất quá chỉ dùng được có một đời mà thôi, thế nên
chúng nó là mộng ảo. Có nhiều việc lớn lao đáng tìm lấy hơn sự
giàu sang và có quyền thế; những việc đó chân thật và trường
tồn, một phen người ta thấy chúng rồi thì không còn muốn gì khác
nữa.
A. B.
–
Vấn đề chơn giả thuộc về Siêu Hình Học thâm sâu, nhưng thật ra nó
không phải thuộc về vấn đề ở đây, vì Alcyone là đứa học trò còn
nhỏ lắm của Đức Thầy. Hơn nữa những bài học
này dạy trên cõi Trung giới. Trong những trường hợp như thế,
Đức Thầy giảng cho Hạ Trí lẫn Chơn Nhơn, nhưng trong dịp này Ngài
giữ sao cho lời dạy của
Ngài thích hợp với Hạ Trí của một đứa trẻ chưa phát triển đến
mức trọn vẹn. Dù Chơn Nhơn đã đến tuổi nào đi nữa, ba thể vẫn
còn trẻ trung, cho nên bài dạy được ban ra bằng những ngôn từ thật
giản dị để khi nhập xác, đệ tử có thể hiểu được trong lúc nó
thức.
Chữ giả ở đây tiêu biểu
tất cả những gì không có tính cách thiêng liêng, tất cả những gì
nhất thời trong thế giới hiện tượng, tất cả những gì thuộc về
Bản Ngã cá nhân, luôn tất cả những hành vi cao thượng mà con người
theo đuổi với mục tiêu vật chất. Chúng ta diễn tả tư tưởng của
Đức Thầy khi nói rằng tất cả đều giả, chỉ trừ những gì thuộc
về Thiên Ý thôi. Những người đã đạt được tánh phân biện đều biết
được những điều thật; họ làm việc như những nhân viên của Thượng
Đế và thực hiện Thiên Ý. Sự hành động thật sự vốn là của Ngài.
Điều ấy không có nghĩa là họ xao lãng hoạt động của phần vật
chất, mà họ phải làm việc giỏi hơn chớ không phải tệ
hơn, vì họ là nhân viên của Thượng Đế và là công cụ cho
những hoạt động của Ngài dưới thế gian. Kinh
Gita nói rằng: "Yoga là sự
hành động khéo léo, lão luyện" hay là sự hiệp nhất với
Thượng Đế. Người nào đạt được sự hiệp nhất đó, hành động của y
phải khéo léo, vì không
phải y hành động mà chính là Trời.
Khi Arjuna hỏi Đức Shri Krishna về bổn phận phải chiến đấu,
Ngài trả lời rằng chính Ngài đã giết kẻ nghịch rồi, và Ngài
nói thêm rằng: "Này Arjuna, hãy chiến đấu".
Đức Thầy nói rằng khi đã
thấy những điều cao thượng rồi thì người ta không còn ham muốn
điều gì khác nữa, đó là ý niệm quen thuộc đối với học giả đã
nghiên cứu Kinh Gita. Trong ấy
có nói rằng:
"Khi thấy được Đấng Chí Tôn rồi thì các đối tượng của giác quan,
chớ không phải sự ham muốn chúng nó, sẽ rút lui ra khỏi người giữ
giới ở trong xác thân, sự ham muốn còn sót lại cũng rời bỏ y
luôn.
[12]
Khi một người đã thấy được Đấng Duy Nhất, thì sự ham muốn
những đối tượng của giác quan cũng tiêu tan trong lòng y".
C. W. L.
–
Thật ra, khi được mục kích những điều cao thượng rồi, người ta
không còn ham muốn những điều thấp hèn nữa, nhưng điều tối cần là
sự tiết chế dục vọng phải là hiệu quả của sự thấy này. Thường
lắm, ta thấy con người lầm lẫn nguyên nhân với hậu quả khi y có kỳ
vọng tưởng rằng sự không quan tâm đến những điều thấp hèn nữa sẽ
tức khắc nâng con người lên một bậc cao hơn trước (những điều thấp
hèn vẫn tốt đẹp đứng về
phương diện riêng của nó, nhưng sở dĩ gọi nó là thấp hèn khi phải
đối chiếu với những điều cao thượng và thuộc về tinh thần). Chắc
chắn là không phải thế đâu. Đó là một hình thức của ảo ảnh rất
lan tràn thuộc về sự tu khổ hạnh. Một số đông thực hành điều mà
họ gọi là chủ nghĩa ép xác, khổ hạnh, và coi điều đó là tôn
chỉ của sự tu hành. Họ lầm tưởng rằng xa lánh các sự vui vẻ tầm
thường của đời sống và tìm cách làm cho mình thiếu thốn mọi
tiện nghi về nhiều phương diện là việc làm rất có giá trị. Đó
là di tích của ý niệm khắc khổ Thanh giáo (Puritanisme) đã có một
thời cường thịnh ở Anh Quốc và trong một số lớn những nước Âu
Châu. Nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Thanh giáo đó là muốn trở
nên tốt lành thì phải chịu thiếu thốn đủ thứ. Khi một người cảm
thấy mãn nguyện về bất cứ điều gì, chắc chắn y đã vi phạm vài
Luật Trời nào đó, vì không hề có hạnh phúc dành cho con người
dưới Thế gian này. Xác thân con người là vật đáng khinh bỉ và cần
phải khắc phục nó bằng muôn ngàn cách. Nếu ai thích một sự hoạt
động nào đó, chắc chắn y đã phạm tội lỗi. Tất cả những điều
này thật phi lý, ấy là sự đảo lộn Chân lý. Thật ra, những điều
được Thế gian ưa thích và người ta xem chúng như những sự vui thú
lớn lao, thì đối với người đã tiến hóa cao đã mất hết ý nghĩa
vì họ khao khát những niềm vui thanh nhã hơn có thể đền bù lại
gấp bội những thú vui kia.
Trên
đời này người ta rất ưa đủ thứ chuyện không có ích lợi gì
đối với những người mong muốn những thú vui cao cả hơn;
chẳng hạn như đua ngựa, uống rượu và cờ bạc; cùng những thú vui
khác như khiêu vũ và đánh bài: những cuộc vui này không đáng trách
lắm. Chúng giống như những trò chơi của trẻ con. Lớn lên, trẻ con
bỏ đồ chơi của chúng hồi còn bé. Khi nó lên ba hay lên bốn thì nó
thích chơi những cục gạch
và những búp bế. Lớn lên
một chút, nó chơi những hình chiến sĩ, những diều giấy, những
bông vụ và những cục đạn. Sau cùng, lớn hơn chút nữa, nó bỏ hết
những thứ ấy để chơi đá banh hay đánh cầu, hoặc các trò chơi đồng
loại khác cần phải vận động nhiều ở ngoài trời. Đứa trẻ dần
dần trải qua nhiều giai đoạn rất tự nhiên. Càng lớn con người càng
bỏ những trò vui ở trước kia, không phải vì tinh thần nghĩa vụ,
nhưng vì những trò chơi đó
không còn gây thích thú đối với y nữa. Y đã tìm được những mục
tiêu thích hợp hơn với giai đoạn tiến hóa của y. Người ta thấy ngay
rằng một đứa trẻ lên ba không thể trở nên một chàng thanh niên khi
nó quyết không biết đến những đồ chơi của thời ấu
trĩ và muốn chơi đánh cầu
hay đá banh.
Người tiến hóa cao không
còn thấy một sự hấp dẫn nào đối với nhiều việc mà thế nhân cho
là cần thiết, và người bậc trung chắc chắn sẽ thấy đời sống của
vị đệ tử buồn tẻ và khó chịu, nếu y cố gắng sống như chúng ta,
không còn nhắm vào lợi lộc khác mà chỉ lo cho Thông Thiên Học và
những vấn đề cốt yếu của
sự sinh tồn. Người đời bậc trung sẽ nói rằng: "Những người ấy
chỉ làm mãi một việc, dường như họ chỉ biết và thích chuyện đó
thôi". Thật ra điều đó rất đúng, vì
tất cả vấn đề khác đều gồm trong đó, nhưng người đời sẽ
không trở thành một kẻ tiến hóa chỉ vì họ tự phụ không quan tâm
đến những thú vui của họ khi mà trong thâm tâm họ, họ vẫn
không ngớt thèm thuồng những điều đó.
Trên khắp thế gian chỉ có hai hạng người: những người hiểu biết
và những người không hiểu biết, và chỉ có sự hiểu biết đó mới
là quan trọng.
Đạo của một người kia giữ hay dòng giống của y là những việc
không quan trọng.
A. B.
–
Ở đây Đức Thầy phân biệt rất rõ ràng: Ngài chia người đời ra làm
hai hạng: những người hiểu biết và những người không hiểu biết.
Đó là sự phân biệt lớn lao trên phương diện huyền bí; mỗi người
nên biết mình thuộc về hạng người nào. Hai hạng này gồm nhiều
dòng giống và giai cấp khác nhau mà sự dị biệt bên ngoài không
đáng kể. Những người không hiểu biết tìm kiếm những gì chỉ tồn
tại trong một đời mà thôi. Nhưng những người đã thấy sự chân thật
một lần rồi thì chỉ có
một ý muốn duy nhất là làm việc cho Đức Thượng Đế, tuân theo Cơ
tiến hóa vĩ đại của Ngài để góp phần vào sự thực hiện công
nghiệp đó, dù trong một phạm vi hết sức nhỏ bé. Chúng ta có thể
xác định trình độ hiểu biết của mình bằng cách nhận xét coi nó
có thích hợp với công việc này hay không. Chẳng hạn như sự hiểu
biết thuộc về trí óc thuần túy dùng để đàm thoại một cách thông
minh hay để chỉ dạy kẻ khác thì không phải là sự hiểu biết chân
thật. Chỉ có sự hiểu biết được đồng hóa với sự sống mới là sự
hiểu biết chân thật mà thôi. Nhiều người có thói quen mỗi buổi
tối ngồi tịnh một lát trước khi đi ngủ, để kiểm soát những hành
vi của mình trong ngày. Sự thực hành công việc đó rất hữu ích;
nhưng nếu bạn theo đuổi nó, bạn nên tự hỏi chẳng những điều gì
bạn đã làm, đã cảm và đã nghĩ, mà bạn còn phải xét xem thái
độ của bạn ra sao nữa. Nếu bạn làm việc bù đầu bù
cổ, thì bạn đã bị mất gần hết thì giờ. Trái lại, nếu
bạn xem những công việc đó thuộc về công việc của Đức Thượng Đế,
như là những hành động hy sinh, chẳng những chúng không gây trở
ngại cho bạn mà lại còn tạo cơ
hội giúp bạn tiến bộ nữa.
Điều thật quan trọng là sự hiểu biết này, sự hiểu biết cơ trời
đối với con người. Bởi vì trời có một cái cơ mà cơ đó là sự
tiến hóa. Ngay khi con người hiểu được thiên cơ và thật sự biết
rồi, thì y chỉ lo hiệp tác
với thiên cơ, giúp thiên cơ thực hiện và đồng hóa với nó. Đó là
vinh diệu và sự tốt đẹp của con người.
C. W. L.
–
Trí tuệ của những người tham gia vào những đoàn thể chính trị hay
đoàn thể giới tửu
[13]
mà họ nói là hữu ích cho
nhân loại, sẽ tăng cường cực độ khi con người thật sự nhận thức
được Thiên Cơ do Đức Thượng Đế đã sắp đặt sẵn cho vũ trụ của
Ngài; họ nghĩ rằng một ngày kia nó sẽ hoàn tất; thời giờ đó lâu
hay mau tùy ở số người sẵn sàng lo lắng cho nó. Nếu trong vài
tuần hay vài năm toàn thế giới có thể được dẫn dắt để hiểu biết
và cộng tác với Thiên Cơ, thì tất cả những gì Đức Thượng Đế
muốn cho các con của Ngài hưởng sẽ được hoàn thành nhanh chóng.
Thiên hạ chưa mở mang khá đầy đủ để hiểu biết Cơ Trời, đó là lý
do vì sao những cố gắng của chúng ta chưa đủ vào đâu và mặt trời
còn soi sáng nhiều nơi buồn thảm, bất công và đồi bại.
Nhiều sinh viên Thông Thiên
Học đã biết Đại cương của Cơ Trời. Tôi không muốn nói rằng họ đã
thấy, nhưng họ đã giao thiệp với những người đã thấy, do đó họ
biết và hiểu được chiều hướng đặng cộng tác với Thiên Cơ. Nhưng,
khi đến ngày giờ thấy được trực tiếp Thiên Cơ, người ta mới nhận
ra chân lý của tất cả những lời nói ở đây về sự nhiệt thành.
Trên đời này, người ta hy sinh một cách hăng say và nồng nhiệt cho
những nguyên do, cho những công cuộc cải cách hữu ích, nhưng họ dễ
lầm lạc ngoại trừ họ có vài ý niệm về Cơ tiến hóa, và thấy
được việc làm của họ liên quan đến Cơ này như thế nào. Họ quan tâm
đến vài nguyên nhân vì tính cách khẩn cấp và cần thiết của chúng
nó. Chẳng hạn như lý do của sự tiết độ. Họ nhận thấy những tai
hại ghê gớm của việc uống
rượu và biết khi tật xấu này mất hẳn thì sẽ có lợi vô cùng cho
nhân loại trên nhiều phương diện. Do đó, họ cố gắng ngăn chận nó,
chẳng phải họ chỉ cho bợm rượu biết tật nghiện rượu là một sự
điên cuồng và một tội lỗi, mà họ cấm bán rượu, và như thế họ
bắt buộc con người phải có tiết độ. Cách này không thể diệt được
sự ghiền rượu, nhưng chỉ làm cho người ta không được toại ý thôi.
Tôi không có ý phê phán, chỉ trích luật cấm bán rượu này; nó có
nhiều ưu thế đáng kể. Nếu chúng ta cho hạn chế sự bán thạch tín
và thanh toan (acide prussique) là khôn ngoan, hữu lý thì tại sao
không làm như vậy đối với một thứ
thuốc độc gây ra nhiều tai hại hơn cả hai thứ kia nhập chung
lại? Tôi chỉ nói rằng phương sách đó không tiêu diệt được tận gốc
rễ sự xấu; nó kiếm cách cải thiện con người bằng sự cưỡng bách,
chớ không phải bằng cách thuyết phục.
Cũng đúng như thế, những
người đã từng thấy rõ sự đau khổ ghê rợn của "kẻ bị trầm luân
thứ mười"
[14]
thì họ lo tìm khắp nơi một phương thuốc chữa trị bịnh xấu hổ lớn
lao và hiển nhiên đó. Nhưng
rủi thay, có người tìm thấy phương thuốc trong một căn bản tuyệt
đối hoặc ngay trong sự hỗn loạn. Chúng ta không thể phiền
trách những người chủ trương những phương cách bất vụ lợi
mà họ mong rằng sẽ làm dịu bớt sự đau khổ cho những người đồng
loại của họ. Trong những trường hợp như thế, chính là đầu óc
nhầm lẫn chớ không phải con tim. Trái tim thúc đẩy họ chịu những
sự tổn thất và hy sinh lớn lao của cá nhân để xoa dịu những nỗi
đau khổ của đồng bào như họ mong muốn. Mà họ còn phải hiểu rằng
sự tiến hóa của nhân loại tùy thuộc một cái Cơ, họ phải cố gắng
học hỏi Cơ đó để sự hành động của họ trở nên khôn ngoan cũng như
vị tha. Chính con người thiếu sự phân biện. Bởi họ chỉ thấy một
khía cạnh của vấn đề, cho nên họ đi sâu vào một hệ thống mà kết
quả còn tệ hại hơn những nỗi đau khổ họ mong xoa dịu.
Vậy, bởi y hiểu biết rồi nên mới thuận theo lẽ trời, khăng khăng
một lòng làm lành và chống
chỏi với sự ác, làm việc cho sự tiến hóa chứ không phải vì tư
lợi của mình.
C. W. L.
–
Đó là đá thử vàng để giúp
chúng ta nhận ra những người hiểu biết; vấn đề không hề liên hệ
gì đến Tôn giáo hay chủng tộc của con người, nhưng chỉ xét về sự
kiện duy nhất mà họ phấn đấu cho sự lành, chống lại sự ác. Mỗi
khi chúng ta thấy một người trung thành với điều chi mà y biết là
cao cả, và đang phấn đấu cho những điều đối với y hình như là tốt
đẹp và chống lại những điều đối với y dường như là xấu xa, thì
chúng ta phải xem y như là một huynh đệ làm việc theo Thiên Ý, dù
cho sự hành động của y luôn luôn không phải là những điều mà chúng
ta tán thành hay là những điều mà chúng ta tưởng được đẹp lòng
Trời, như họ nói.
Tuy nhiên, họ có những
ý tưởng hết sức nhỏ nhen và hẹp hòi, cố chấp. Trong vài
trường hợp, họ chứng tỏ một tinh thần chống đối kịch liệt rất
giống như sự thù hằn đối với những người mà sự tin tưởng khác
hơn họ.
Một trong những đặc tính
nổi bật về việc làm của Quần Tiên Hội là, trong mỗi trường hợp
như thế, các Ngài thu lấy điều tốt và dẹp qua một bên điều xấu.
Các Ngài lấy mãnh lực phát sinh do sự tận tụy và lòng chân thành
đó rồi tận dụng nó, đồng thời gạt bỏ điều xấu chúng ngăn cản
điều lành biểu lộ, ít ra cũng tại cõi Trần này. Trong nhiều cộng
đồng Thiên Chúa giáo thói mê tín mạnh hơn lòng nhân từ đáng mến
khiến cho kẻ bàng quan chỉ nhận thấy sự chua cay trong đó mà thôi.
Các Đấng trong Quần Tiên Hội lấy làm thương hại cho sự mê tín đó
và các Ngài nhận thấy rõ rằng nó gây ra sự di hại còn hơn những
tật xấu khác. Tuy nhiên, các Ngài biết rút lấy trong đó tất cả
những mãnh lực của sự nhân từ đáng
mến của lòng sùng tín và ý muốn tốt đẹp để sử dụng và
ban thưởng những người đã sinh ra nó. Và mỗi người trong nhóm
người đó cũng nhận được quả lành của lòng từ thiện của y, mặc
dù, đồng thời y cũng phải đền tội đúng theo Luật Nhân Quả do sự
mê tín và nóng giận của y gây ra.
Vậy chúng ta phải nhân từ
trong khi giao thiệp với những người này, và trong mọi trường hợp,
nên chú tâm đến những điều lành, như Đức Thầy đã nói: "Chúng ta
phải lấy những viên ngọc", chớ đừng tìm những cọng rơm như người
ta thường làm.
Người mà thuận theo lẽ trời tức là một phe với chúng ta, dù y
nói y là người Bà la môn, người Phật giáo, người Công giáo hay Hồi
giáo, hoặc giả y là người Ấn, người Anh, người Trung Hoa hay người
Nga cũng không hề chi cả.
A. B.
–
Đây là một tư tưởng mà những thí sinh trên Đường Đạo không bao giờ
được quên vì nếu nó không biểu hiện trong đời sống của bạn, thì
bạn còn rất xa cửa Đạo. Ở đó không ai hỏi bạn thuộc về giống dân
nào, tôn giáo nào mà chỉ cần biết những đức tánh mà bạn cố
gắng tăng thêm cho tánh tình của bạn. Tất cả chúng ta đều lần
lượt đầu thai qua nhiều giống dân khác nhau. Ngày nay chúng ta sinh
ra trong một giống dân phụ, thuộc về giống dân chánh nào đó, vì
chúng ta cần hoạch đắc những tánh tốt đặc biệt do giống dân ấy
có thể cho chúng ta. Trái lại, cũng đồng thời nhiều người lo mở
mang những nhược điểm của chính giống dân phụ ấy. Chắc chắn người
ta có thể nói một cách hữu lý rằng: "Hiện giờ, không có một
giống dân tộc nào có khả năng loại bỏ tật xấu của tôi và mở mang
tánh tình của tôi được". Nhưng chúng ta không có phận sự chấp
nhận, chẳng hạn như những phương pháp của người Anh và đem chúng
nó lên cao đến tận mây xanh rồi loại bỏ tất cả những phương pháp
khác, vì tin chắc rằng chúng nó vốn tuyệt đối, không có phương
pháp nào bằng. Mỗi giống dân đều có vai trò của nó phải đóng
trong sự điều hòa chung; mỗi giống dân đều góp phần vào sự tổng
hợp rộng lớn vô cùng. Dù bạn thuộc về giống dân nào hiện giờ,
một phần sự điều hòa do giống dân đó biểu hiện cũng hiến cho bạn
việc làm dễ dàng và tự nhiên hơn hết. Khi bạn đã học xong kinh
nghiệm trong giống dân đó rồi thì về sau bạn sẽ học cách thủ vai
tuồng khác trong một giống dân khác. Nếu con người hiểu được điều
này thì họ sẽ bớt được thói quen tự đắc một cách khờ khạo về
nòi giống của mình và bớt việc chỉ trích những dân tộc khác.
Khi tôi nghe ai phàn nàn
một người nào đó nếu y lỗi lầm là bởi y
là người Anh hay người Ấn, tôi liền thấy cái hư ảo còn án
mắt kẻ phàn nàn đó, cũng như khi một người kia bàu chữa sự bất
tài của mình bằng cách nói rằng những sự bất toàn đó vốn thuộc
về nòi giống của y. Phải cố gắng hoạch đắc những đức tánh hết
sức tốt đẹp của giống dân chánh và giống dân phụ của bạn chớ
không phải những nhược điểm của chúng. Chẳng hạn như người Ấn Độ
phải tìm cách phát triển tâm linh, tánh không làm hại, đức khoan
dung, khả năng hành động mà không quan tâm đến cái kết quả của sự
hành động, bởi vì đó là những đức tánh mà gia tộc đầu tiên của
giống Aryen phải biểu hiện.
Tuy nhiên, đôi khi chúng ta
thấy tánh Đoạn Tuyệt có kèm theo sự bê trễ, buông trôi, do ý nghĩ
sai lầm này: "Nếu phải lãnh đạm đối với kết quả của sự hành
động, chính vì sự hành động không quan trọng". Thật ra, điều cần
thiết là sự hành động hoàn thiện lẫn sự lãnh đạm với kết quả,
cả hai việc một lượt. Đối với người Anh, lắm khi trái ngược lại.
Thường thường họ có tài làm việc kỹ lưỡng, nhưng họ sẵn sàng
tìm kết quả của hành vi mình một cách quá hăng hái, họ thường
không có tánh lãnh đạm. Vậy mỗi người phải tìm lấy những điều
mình thiếu sót mà làm mục tiêu. Người Ấn Độ phải cố gắng hoạt
động và người Anh phải cố gắng lãnh đạm; cả hai không mất những
đức tánh của mình đã có. Nếu mọi người đều làm như thế thì
những sự dị biệt giữa các dân tộc sẽ góp phần vào sự phong phú
của tất cả, vì mỗi giống dân này mượn ở những giống dân kia
những điều mình thiếu sót.
C. W. L.
–
Yêu Tổ quốc, tôn sùng giống nòi, cảm thấy bạn còn mắc nợ tổ
quốc, sẵn sàng phục vụ tổ quốc, tất cả những điều này đều
tuyệt đẹp. Nhưng bạn hãy khá coi chừng, đừng biểu lộ sự ca ngợi
của bạn bằng cách chê bai những dân tộc khác. Sự tương quan
giữa chúng ta với toàn thể nhân loại, đó là điều chúng ta
đừng bao giờ quên. Chúng ta là công dân của Quả Địa Cầu chớ không
phải riêng của một giống dân tộc mà thôi. Tuy nhiên tình yêu tổ
quốc là điều tốt, cũng như tình yêu gia đình vẫn tốt vậy. Trong
cả hai trường hợp, chúng ta không cần phải phóng đại quá đáng đức
tánh của chúng ta đến nỗi đem cái xấu thay thế cái tốt. Tình
thương gia đình là một tình cảm tuyệt đẹp, nhưng đừng để nó đi
quá lố trở thành tật xấu như
những vị Nam Tước
cướp bóc thời Trung Cổ, họ giết người để làm giàu cho gia tộc
mình. Cũng thế, tình yêu tổ quốc cũng đáng ca ngợi; trái lại nếu
nó đưa đến sự tấn công các dân tộc khác, nó thành ra đáng chê
trách vậy. Nhưng nếu bằng cách nào đó, bạn có thể làm việc cho
dân tộc của bạn mà không làm hại những dân tộc khác, bạn tỏ ra
xứng đáng thuộc về giống nòi của bạn, sự hiện diện của bạn làm
cho nó trở nên tốt đẹp hết sức, bạn có quyền được toại chí. Trên
phương diện Tôn giáo, cũng đúng như thế. Tất cả chúng ta đã từng
là tín đồ của nhiều Tôn giáo lớn rồi, mỗi Tôn giáo nhấn mạnh về
vài đức tánh, nhưng tất cả những đức tánh đều cần thiết cho sự
tiến hóa của nhân loại.
Những người nào thuận theo
lẽ trời thì biết rằng tại sao họ thuận theo. Họ biết họ phải
làm cái chi và họ cố gắng để hoàn thành nó. Còn những người
khác không biết họ phải làm điều chi, thế nên họ thường hành động
như những kẻ ngông cuồng.
C. W. L.
–
Điều này nhắc lại lời dạy của Đức Phật Cồ Đàm khi Ngài cho rằng
mọi tội lỗi đều do vô minh gây ra. Nhưng người chưa hiểu biết thường
hành động một cách ít đúng đắn, do đó kẻ ác luôn luôn đáng
được chúng ta thương hại, chớ không nên căm thù hay hờn ghét
họ. Thường thường người ta cảm thấy y hành động vì tánh ích kỷ,
vì y muốn có những sự lợi ích cho cá nhân y, như y đã tưởng vậy;
cho nên người ta cũng có hơi
sẵn lòng quên đi sự thiếu hiểu biết của y về những việc làm do y
gây ra. Chẳng hạn như thí dụ này. Vài nhà tỷ phú đạt được một
sự thịnh vượng tạm thời bằng cách bóp nghẹt và tiêu diệt một số
xí nghiệp kém quan trọng. Như thế họ sẽ gây ra ảnh hưởng khiến cho
nhiều người mất chén cơm và mấy nạn nhân này thù ghét, nguyền
rủa họ về sự ích kỷ và
tàn nhẫn của họ.
Phải, họ hành động như
thế chính vì sự vô minh. Họ theo đuổi ngay những mục tiêu của họ
để đè bẹp địch thủ vì họ tin rằng những kẻ ấy có thể làm việc
hay hơn họ. Có thể họ đạt được những kết quả rất tốt và đồng
thời làm giàu, nhưng họ sẽ không bao giờ định kinh doanh như thế
nếu họ biết rằng họ sẽ đau khổ nhiều hơn tất cả những người
cạnh tranh với họ, và như thế họ tự tạo cho họ trong tương lai một
quả báo vô cùng tệ hại hơn cái số phận dành cho những địch thủ
bị họ loại trừ. Thay vì oán ghét những người ích kỷ như thế,
tốt hơn là hãy thương xót họ vì còn vô minh.
Và họ tìm cho họ con đường nào mà họ tưởng chúng làm cho họ
được vui vẻ chớ không biết rằng tất cả là một (vạn vật nhất
thể), do đó chỉ có điều chi Trời muốn, thì điều đó mới thật làm
cho mọi người đều được đẹp lòng.
C. W. L.
–
Những nhà thực dụng chủ nghĩa có một câu cách ngôn quan trọng như
sau: "Phải tìm điều lợi lớn hơn hết của số người đông hơn hết".
Câu cách ngôn này làm ra một sự tiến bộ thật sự cao hơn ý tưởng
mà trước kia có ưu thế là: "Chỉ có sự lợi cho vài người là điều
quan trọng, còn những kẻ khác tiêu biểu một số lượng không đáng
kể". Tuy nhiên không nên bỏ quên thiểu số. Mỗi người đều đáng kể
vì tất cả chỉ là Một. Khi mà Tâm Thức Bồ Đề chưa phát triển với
một mức độ nào đó, thì con người chưa hiểu được điều này, nhưng
còn phải trải qua một thời gian mới hiểu được tới một điểm nào
"tất cả những người trên thế gian chỉ là một". Đối với chúng ta,
tin vào Chân lý này là một thứ nghĩa vụ
đạo đức, hoặc một thứ khát vọng thành kính về cái Đơn vị
cuối cùng. Chúng ta nói rằng: "Tất cả chúng ta đều sinh
ra từ một Đấng Từ Phụ chung, vậy tất cả chúng ta đều là
anh em với nhau, tất cả chúng ta đều là một". Nhưng ngày nào chúng
ta chưa có kinh nghiệm trong Tâm Thức Bồ Đề về vấn đề đó thì sự
thật và chỗ thâm sâu của nó vượt khỏi tầm hiểu biết của chúng
ta.
Tuy nhiên, chúng ta có thể
đưa ra một ý niệm về vấn đề đó khi nói rằng: "Tất cả tâm thức
chỉ là một, toàn thể thế giới là một, tất cả tình thương được
biểu hiện trên đời là tình Bác Ái duy nhất và thiêng liêng. Tại
cõi Trần này tất cả vẻ đẹp được biểu hiện là sự Mỹ lệ duy
nhất và thiêng liêng. Tại
cõi Trần này tất cả thánh thiện được biểu hiện là sự Thánh
Thiện của Đức Thượng Đế". Đấng Christ đã diễn tả tư tưởng này
với một người đến gọi Ngài là "Ông Thầy rất tốt". Ngài bèn đáp:
"Tại sao gọi Ta là tốt? Chỉ có Trời mới Tốt thôi"[15].
Lòng từ thiện của mỗi người là lòng từ thiện của Trời biểu
hiện nơi y thôi. Tất cả vẻ đẹp, tất cả sự vinh quang dưới Trần
Thế này mà chúng ta đã chiêm ngưỡng tại quả Địa Cầu, ngoài biển
rộng, trên trời cao, chỉ là một phần của sự Mỹ Lệ Duy Nhất và
Thiêng Liêng. Nếu chúng ta đi từ cảnh dưới lên cảnh trên, từ bậc
này đến bậc khác thì chúng ta càng ngày càng thấy sự mỹ lệ dần
dần trải ra trước mắt. Và sau cùng chúng ta tập thấy trong sự mỹ
lệ của mỗi vật "Toàn diện Mỹ Lệ" của Trời. "Tất cả là một"
vậy.
Khi học xong bài học này
rồi thì nhận thức được sự vinh quang
của Trời biểu lộ trong mọi vật và qua trung gian của vạn
vật; tất cả những sự vinh quang khác của Ngài đều ở trong mỗi
người. Như một phong cảnh
đẹp trải ra trước mắt chúng ta, chúng ta trầm trồ khen ngợi chẳng
những cảnh vật không thôi, mà còn tất cả những gì nó khêu gợi
trong trí ta; ấy là Vũ Trụ vô tận vô biên mà phong cảnh này chỉ
là một phần nhỏ nhít. Lúc bấy giờ đời sống của chúng ta hữu
phước vô cùng và tràn ngập tình thương; hạnh phúc này cho chúng ta
một ý niệm về cái Toàn Phúc Vĩnh Cửu; và tình thương đó làm cho
chúng ta hiểu được tình Bác Ái Trường Tồn
Bất Diệt. Cách duy nhất để thực hiện những sự tiến bộ lớn
lao là phải tin chắc rằng chúng ta chỉ là một điểm trong cái
"Toàn thể". Lúc đó Tâm Thức của chúng ta mới có thể nhập vô Tâm
Thức của Thượng Đế, ngõ hầu do con mắt của chúng ta, Ngài có thể
thấy được tất cả vẻ mỹ lệ đó, và chúng ta là phần tử của
Ngài, chúng ta cũng đồng thời thấy và hiểu vẻ mỹ lệ đó vậy.
Họ theo đuổi sự mộng ảo, thay vì sự chân thật. Và ngày nào họ
chưa học hỏi cách phân biệt hai điều này, thì ngày đó họ chưa
thuận theo lẽ Trời. Và chính vì thế mà sự phân biện là bước đầu
tiên phải thực hiện.
Tuy nhiên, dù khi chọn lựa đã xong rồi đi nữa, con cũng phải nhớ
rằng có rất nhiều hạng trong sự chơn và sự giả và con còn phải
biết phân biệt điều lành với điều dữ, cái quan trọng với cái
không quan trọng, cái hữu ích với cái vô ích, cái thực với cái
hư, cái ích kỷ với cái vô tư lợi.
C. W. L.
–
Đó là sự phân tách nhỏ của sự phân chia lớn lao giữa điều chơn và
điều giả. Sự liệt kê này chỉ cho chúng ta biết nếu chúng ta muốn
theo con Đường Đạo thì phải thực hành sự phân biện từ những chi
tiết cho đến những trường hợp nhỏ nhặt nhất của đời sống. Luôn
luôn có những vấn đề ít quan trọng xảy đến mà chúng ta phải giải
quyết bằng cách này hay cách khác; vậy thì bao giờ chúng ta cũng
phải nhớ đến tánh phân biện và luôn luôn đề phòng. Lúc nào cũng
phải suy nghĩ, quả thật là mệt nhọc. Nhiều người ưu
tú đã cố gắng như
thế đều mệt nhọc; sự cố
gắng bền bỉ, lâu dài thật là quá sức đối với họ. Đó là lẽ tự
nhiên, nhưng mọi sự ngã lòng
sẽ ngăn cản việc thành công
không cho chúng ta đạt được
mục đích. Thế nên mặc dù phải thắng phục sự mệt nhọc, chúng ta
đừng bao giờ quên điều đó trong đời sống chúng ta.
Một bên lành, một bên dữ, không khó chi trong sự lựa chọn, bởi vì
những người muốn theo Chơn Sư thì đã nhất định làm lành dù bất
cứ với giá nào.
A. B.
–
Nếu một người nào đó còn do dự trước điều lành và điều dữ, tức
là y chưa thực sự muốn theo Đức Thầy. Những ai quyết tâm rồi thì
phải nhất định chọn điều lành trong mọi trường hợp, dù quan trọng
hay không, mà không màng đến những hậu quả. Trong
Yoga Sutras có nói về năm đức
tánh căn bản gọi là Yama, gồm có: tánh không làm hại, không độc hiểm, tánh chân
thật, tánh chánh trực cùng những đức tánh khác đã được qui
định ngay ở đoạn khởi đầu của Đường
Đạo: "Đó là những đại nguyện đã được phổ biến". Nói một
cách khác, như thế có nghĩa là phải triệt để tuân theo chúng nó
trong mọi trường hợp. Không có một mối lợi nào, dù đem đến cho
mình hay cho kẻ khác, cho phép người đệ tử được vi phạm bất cứ
một giới luật nào. Ai đã tiến đến trình độ ấy, thì trong lời
nói hoặc trong sự hành động, không hề làm sai sự thật bao giờ, dù
thấy mình sẽ được lợi, chẳng những trong vấn đề tiền bạc, mà
trong tất cả trường hợp khác. Chẳng hạn y không vượt qua uy tín
của y. Bạn hãy tự hỏi coi bạn có luôn luôn lựa chọn sự chân thật
một cách tự nhiên không. Ngày nào bạn chưa làm được như thế, ngày
đó bạn còn xa Cửa Đạo thứ nhứt. Đối với trường hợp đó, Đức
Thầy cho rằng nói thêm nữa vô ích. Đã rõ rệt lắm rồi, đã hiển
nhiên rồi vậy.
C. W. L.
–
Ý kiến này chẳng những liên hệ đến hạnh kiểm mà còn có liên quan
đến việc có một lượt những tánh tốt và những tánh xấu để tiến
hành một công việc. Nếu không tuân theo qui luật này một cách nghiêm
nhặt thì chứng tỏ rằng trong thâm tâm chúng ta không thật sự muốn
thành công. Đôi khi người ta nói rằng: "Tôi muốn có Thần Nhãn; tôi
muốn thấy cõi Trung Giới! Phải khởi sự làm cái gì? Đâu là bước
đầu?". Bước đầu là phải thanh lọc
[16]
các thể. Bạn hãy cẩn thận cung cấp cho xác thân những thức ăn nào
thích hợp với nó nhất. Nhiều người muốn có Thần Nhãn thấy được
cõi Trung Giới, nhưng khi phải lựa chọn, họ thích cái mà họ gọi
là bữa ăn tối thật ngon. Họ có cảm tưởng rằng bữa ăn như thế cần
thiết đối với họ, vì họ có thói quen và trong lúc đó họ quên
mất việc muốn có Thần Nhãn. Thế là chỉ có thói quen tạo ra ý
tưởng đó thôi. Khi biết được đặc tính này thuộc về loại vật chất
rồi thì chúng ta có thể cố tâm ra công khó nhọc để loại trừ
những thói quen cũ kỹ, tệ hại hoặc có thể vô ích đặng tập lấy
những thói quen mới. Chúng ta phải thấy một sự khích lệ trong
việc thói quen có thể trở thành một người bạn liên minh với chúng
ta rất có thế lực, mặc dù nó có gây trở ngại cho chúng ta lúc
đầu tiên. Một khi những thói quen tốt đã tạo được rồi thì chúng
sẽ hành động một cách tự động. Chúng ta có thể lãng quên chúng
để chú ý đến những việc khác.
Trên phương diện hạnh kiểm,
không có vấn đề lựa chọn giữa thiện và ác nữa. Độc giả nào xem
quyển này mà thấy có thú vị hoặc ai khao khát đến quì dưới chân
Đức Thầy, thì sẽ không do dự chọn điều lành khi thấy nó. Mong
rằng không có ai trong chúng ta thử làm việc gian trá - chúng ta đã
vượt qua điều đó rồi - mà chúng ta cũng không hề làm sai lạc chân
lý, dù cho thấy được sự
ích lợi ngay trước mắt. Chắc chắn chúng ta không lựa chọn một
nghề nghiệp đáng trách như sát hại thú vật. Chúng ta cũng không
phải là những người mặc những y phục hay là trang điểm với những
món đồ nếu không giết thú vật thì không làm được chúng nó - đôi
khi trong những tình trạng thật đau lòng là tàn sát chim non còn
nằm trong ổ. Tất cả những người tiếp tục
ăn mặc như
thế quả thật không muốn theo Đức Thầy; họ thích theo thời
trang hơn.
CHƯƠNG
THỨ CHÍN
Nhưng con người và xác phàm là hai cái khác nhau. Ýchí của con
người luôn luôn không phù hợp với những sự ham muốn của xác thân.
Khi xác thân con muốn điều chi thì con hãy ngừng lại, và suy nghĩ
xem có phải thật là con muốn điều đó chăng?
A. B.
–
Ở đây Đức Thầy ra lịnh rất
rõ ràng cho đệ tử Ngài, khi
xác thân muốn điều chi, đệ
tử phải ngừng lại và tự
hỏi: "Có phải thật là tôi muốn điều đó hay không"? Nhiều người
thấy rằng ngừng lại và suy nghĩ mỗi ngày, từ sáng tới chiều như
thế rất khó khăn buồn chán. Nhưng phải thực hiện mấy điều đó vì
chúng nó đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ chuẩn bị. Tôi biết
làm như vậy rất khó, do đó nhiều người chí nguyện đâm ra chán nản
vì việc cố gắng như thế.
Những người bỏ cuộc vì
mệt mỏi thì không đạt được mục đích. Chỉ có bao nhiêu đó thôi. Sự
cố gắng phải quyết liệt và bền bỉ. Điều này đòi hỏi một đời
sống hoàn toàn có qui củ (có mực thước): không hề vội vã trong
hành động, lời nói, ngay cả tư tưởng. Mọi sinh hoạt của người đệ
tử, từ vật chất, tình cảm cho đến trí tuệ phải hoàn toàn tuân
theo kỷ luật.
C. W. L.
–
Nếu trong vấn đề tiến bộ, con người muốn thật sự làm hết sức
mình; thì phải ra công học hỏi kỹ lưỡng những thể khác nhau của
chúng ta và biết chắc chắn chúng là thế nào. Ở đây nói rất rõ
ràng rằng thể xác có những sự ham muốn không phải là của con
người, đối với Thể Vía và Thể Trí cũng đúng như thế. Khi hiểu
rõ sự cấu tạo của ba thể này người ta thấy rằng những sự ham
muốn tự nhiên của chúng không hạp với con
người. Chúng ta nói về chúng cũng gần như nói về những
người khác biệt với chúng ta, điều này vẫn đúng theo một ý nghĩa
nào đó; mỗi thể đều được cấu tạo bằng vật chất sống; sự sống
của chúng nó tập trung lại và có một ý thức tập thể. Trong Cái
Vía nó tạo ra một sinh vật mà đôi khi chúng ta gọi
là Tinh chất ham muốn,
nói tóm lại sinh vật này do sự sống tập thể của các tế bào của
Cái Vía tạo ra. Đứng riêng một mình, mỗi tế bào chỉ là một sự
sống nhỏ bé, có một bán ý thức, đang tranh đấu để đi xuống hơn
là đi lên, bởi vì đối với nó, sự tiến hóa là đi xuống vô trong
loài kim thạch. Khi tất cả những sự sống này nhập chung lại với
nhau trong Cái Vía thì chúng liên kết với nhau tới một điểm nào
đó, chúng tạo được một sự hợp nhất và cho ta cái cảm giác rằng
Cái Vía có những bản năng mạnh mẽ và riêng tư, mạnh mẽ cho đến
nỗi người ta có thể cho rằng nó có một ý chí riêng của nó. Muốn
tiến hóa nó cần những sự rung động mạnh mẽ và thô kệch thuộc về
những tình cảm và xúc động mà chúng ta không muốn mở mang, chẳng
hạn như: tánh ganh tị, ghen ghét và ích kỷ. Đó là lý do tại sao
những quyền lợi của nó trái ngược với những quyền lợi của chúng
ta. Những sự rung động của tình thương, tánh thiện cảm và sự sùng
tín vốn vô cùng tế nhị, mau lẹ và mạnh mẽ hơn nhiều. Chúng thuộc
về thành phần cao siêu của Thể Vía. Vì vậy chúng vốn là một
loại mà xác thân cũng như chúng ta không cần dùng đến.
Những người mà đời sống
không có qui củ, họ muốn được tự do nói năng, tự do hành động như
họ thường tuyên bố, thật ra họ là những kẻ nô lệ cho Cái Vía của
họ. Chúng ta chẳng nên vì thế mà trách Cái Vía và đừng cho nó
là một con quỉ như những người tín đồ Thiên Chúa giáo thời Trung
Cổ vậy. Cái Vía không biết gì đến chúng ta và đời sống của
chúng ta; nó không hề cám dỗ chúng ta điều gì, nhưng nó chỉ tìm
cách tự biểu lộ và tiến hóa theo cách thức riêng của nó cũng như
mọi sinh vật khác.
Đôi khi người ta hỏi: "Ta
có nên
cho Tinh chất ấy một cơ hội để tiến hóa và cho nó thực
hiện những rung động thô kệch không"? Không! Đó là lòng nhân ái bị
ngộ nhận và trong mọi trường hợp chúng ta không thể áp dụng đến
mức triệt để được. Cách cư xử tuyệt hảo hơn mà chúng ta có thể
dành cho chất thô trược, là trục xuất nó (nó tồn tại trong Thể
Vía của chúng ta, vì trong những kiếp quá khứ, chúng ta đã để cho
những cảm xúc thấp hèn nổi dậy trong lòng chúng ta); nó sẽ đeo
theo một người dã man, hoặc một con
chó hay một con bò mà sự rung động của chúng không làm hại
được ai.
Tùy theo cách thế riêng
của nó, Tinh chất ham muốn cũng khá
quỉ quyệt. Đặt mình vào vị trí của nó và hiểu được Tâm
Thức ở một mức độ thấp kém thế nào thật là điều khó khăn đối
với chúng ta. Nhưng lẽ tự
nhiên, Tinh chất ham muốn cảm thấy chung quanh nó có cái gì tế nhị
hơn nó, đó là chất Trí Tuệ, và dường như kinh nghiệm dạy nó rằng
nếu nó làm cho chất Trí Tuệ rung động một lượt với nó, thì nó
sẽ có những sự rung động mạnh mẽ và thô kệch hơn và nó chỉ có
cách đó thôi, không làm khác hơn nữa được. Nếu nó thuyết phục
được con người tin rằng ý muốn của chúng nó giống như ý muốn của
con người, thì có nhiều may mắn để thỏa mãn ước vọng, do đó nó
cố gắng làm lay chuyển chất tế nhị này. Chẳng hạn, nếu nó xúi
giục được Cái Trí sinh ra một tư tưởng bẩn thỉu thì nó liền được
những cảm xúc bẩn thỉu mà nó ưa thích. Hoặc nếu nó làm cho một
tư tưởng ghen ghét phát hiện, thì liền đó một tình cảm ghen ghét
nổi lên. Đó chính là điều nó muốn. Không phải nó muốn làm ác,
vì đối với nó chỉ có những rung động mãnh liệt và thô kệch mới
thỏa thích nó được. Như thế Tinh chất ham muốn thường tỏ ra mạnh
hơn con người, mặc dù nó còn ở trong giai đoạn tiến hóa hết sức
thấp thỏi. Nghĩ đến điều đó, chúng ta cảm thấy có hơi nhục
nhã khi biết rằng mình đã chịu thua nó và bị một vật chưa phải
là kim thạch sử dụng như một khí cụ. Phải đương đầu với Thể Vía
và tinh lọc nó bằng cách thay thế tất cả thói quen xấu xa được
lưu lại từ quá khứ bằng
những cảm xúc tốt lành, chúng sẽ hữu ích cho chúng ta trong tương
lai.
Tinh chất Trí Tuệ và Tinh
chất Xác Thân cùng vẫn có thật. Tinh chất xác thân có bổn phận
cấu tạo các mô và giữ gìn
toàn thể Xác Thân. Nếu chúng ta bị xước trầy da, bị đứt hoặc bị
thương, Tinh chất Xác Thân liền vội vã mang đến chỗ vết tích những
bạch huyết cầu và cố gắng tạo ra những tế bào mới. Trên nhiều
phương diện, công việc của Tinh chất này tỏ ra rất có ích lợi cho
Xác Thân; vài hoạt động của nó vô cùng hữu ích cho chúng ta; đồng
thời nó cũng thích biểu lộ những sự khích động không xứng đáng
cho chúng ta chút nào cả.
Bởi vì con là Thượng Đế và con chỉ muốn điều gì Thượng Đế muốn
mà thôi. Nhưng con phải tiến vào tận đáy lòng của con để gặp Đức
Thượng Đế ở trong người con và nghe lời của Ngài, mà lời của
Ngài cũng là lời của con
vậy.
C. W. L.
–
Sự hợp nhất của chúng ta với Đấng Duy Nhất khó mà hiểu được. Đây
là cách tôi thành công đầu tiên: nó không phải là một phương pháp
mà tôi có thể khuyên người ta làm theo. Lúc bấy giờ, tôi cố gắng
tập trung tất cả năng lực của tôi lên cảnh thứ nhất của cõi Trí
Tuệ hầu xác định coi con người có thể lợi dụng đến điểm nào
những con đường vắn tắt nối liền những cảnh thứ nhất của các
cõi khác nhau. Muốn đi lên từ cõi này qua cõi kia, con người có
thể lên khỏi cõi Trần bằng cách đi từ cảnh này đến cảnh khác,
cho tới cảnh thứ nhất. Kế đó mới qua cảnh chót là cảnh thứ bảy
của cõi Trung Giới, và dần dần từ bậc lên cảnh thứ nhất của cõi
Trung giới, rồi mới tới cõi Hạ Thiên, và cứ tiếp tục lên như thế
đó. Người ta còn có thể theo đường tắt từ cảnh thứ nhất của cõi
Hồng Trần đến cảnh thứ nhất của cõi Trung Giới, rồi từ đó lên
cảnh thứ nhất của cõi Thượng Giới hay là cõi Trí Tuệ.
Tôi có nghe những vị đệ
tử cao cấp đề cập đến một cách rút ngắn
khác, cách này thẳng góc với cách trước. Họ nói rằng sự
tập trung các năng lực vào một trong những cảnh thứ nhất của
chúng ta thì có thể thông đồng với cõi Hư Không đối chiếu (Plan
cosmique correspondant) với nó và do đó khi tập trung các năng lực
vào cảnh thứ nhất của cõi Trí Tuệ (Cõi Thượng Giới) thì có thể
liên lạc với cõi
Thượng giới hay là cõi Trí Tuệ Hư
Không (Plan mental
cosmique), cao hơn những điều
mà chúng ta biết rất nhiều.
Thật vậy, tôi không có hy
vọng gì lên đó được, nhưng còn có thể thông đồng với nó. Trong khi
cố gắng, tôi nhận biết rằng tôi có thể thấy (nhưng không thể mô tả
được) cảnh đối chiếu trong cõi Trí Tuệ
Hư Không; tôi thấy trọn vẹn hai loại cảnh giới cao hơn giai
đoạn của chúng ta hiện nay. Tôi không tiếp xúc với cảnh đó được
dù bằng bất cứ cách nào - Tôi nghĩ rằng dù một vị Chơn Tiên cũng
không thực hiện được điều đó - nhưng tôi thấy được nó, dường như ở
dưới tận đáy giếng nhìn một ngôi sao trên trời, cái Tâm Thức cao
vút này, tôi có thể thấy được nó. Bây giờ trong tâm tôi phát sinh
một sự tin chắc mạnh mẽ không thể tả được rằng nếu từ trước đến
nay tôi tin là mình có một ý chí, một trí khôn, những cảm xúc,
thì những cái đó không phải là của tôi, mà chính là của Ngài:
chính là ý chí của Ngài, là tình cảm của Ngài vậy. Không có
cái gì thuộc về của tôi cả. Tôi không bao giờ quên được kinh nghiệm
này; nhờ nó mà tôi biết chắc được một sự kiện không thể mô tả.
Cũng như tôi đã giải trước
đây chúng ta có thể nhờ Tâm Thức Bồ Đề mà biết được chắc chắn
sự hiện diện của Thượng Đế trong lòng ta. Khi chúng ta đến mức
đó, cái Tâm Thức như biển cả liền mở rộng ra chung quanh chúng ta.
Chúng ta biết rằng mình là một phần tử của nó và những kẻ khác
cũng là những phần tử của nó như chúng ta. Nó là vật sở hữu
chung của chúng ta. Chẳng bao lâu, lại sinh ra một cảm giác mới,
chúng ta hiểu rằng tất cả mấy cái đó chỉ là một Tâm Thức duy
nhất, nó thâm nhập vào chúng ta và tất cả những kẻ khác, để
cuối cùng chúng ta hiểu rằng chúng ta là Trời vậy. Sự hiểu biết
này kích thích và thúc đẩy một cách dữ dội phi thường không thể
nào quan niệm được, nhưng con người cảm thấy được an toàn và có
một niềm tin tuyệt đối. Tôi hoàn toàn chấp nhận rằng điều đó có
thể khiến cho vài người kinh
hãi vì họ tưởng rằng họ bị tiêu mất. Thật vậy, điều này không
thể xảy ra được. Nhưng bạn hãy nhớ lời của Đấng Christ nói: "Kẻ
nào chết vì Ta, thì sẽ cứu mạng nó được"
[17].
Đấng Christ, biểu hiện cho
nguyên lý Bồ Đề, nói với chúng ta:
"Kẻ nào vì Ta - vì sự mở mang Tâm Thức Bồ Đề trong lòng
y - sẽ bỏ lại Nhân Thể là cái thể mà trong đó y sống rất
lâu; y sẽ tìm được chính
mình và tìm thấy một sự
sống vô cùng rộng lớn hơn và cao cả hơn". Muốn được như thế, phải
có một sự can đảm chắc chắn; ở trọn vẹn trong Thể Bồ Đề (Kim
Thân) lần đầu tiên và nhận thấy Nhân Thể mà ta đã nương tựa nhiều
ngàn năm đã biến mất là
một sự kinh nghiệm thật phi thường. Một trong hai thứ kinh nghiệm
được mô tả đã đủ cho ta biết một cách tuyệt đối chắc chắn rằng
Chơn Ngã vốn duy nhất. Ý niệm đó không thể truyền đạt, nhưng sự
kinh nghiệm giúp chúng ta hiểu được nó và không có điều chi có
thể lay chuyển được sự chắc chắn này.
Đừng lầm lộn các thể của con với con. Xác thân của con, cái vía
của con, cái trí của con không phải thật là con đâu. Nhưng mỗi thể
nó đều xưng là Bản ngã đặng hoạch đắc cho được những điều nó
muốn. Con phải biết tất cả chúng nó và phải tự biết rằng con là
chủ chúng nó.
C. W. L.
–
Đức Thầy nói về các thể này một cách tuyệt đối như Ngài đã nói
đến những cá nhân riêng biệt. Đó là những tinh chất đã được đề
cập trước đây. Chúng tự do áp chế được một số đông người; họ
chẳng những không cố gắng chút nào đặng thoát ra thế lực của
chúng nó, mà cũng không biết mình mang một cái ách cần phải cổi
bỏ và họ cũng không tự tách ra khỏi những thân mình họ nữa. Cái
giáo lý khốc hại dạy rằng con người có một Linh Hồn đã gây
ra tai hại rất nhiều do chủ trương đó. Nếu người ta chỉ hiểu được
rằng con người là một Linh Hồn và có những Thể, thì
người ta bắt đầu thấy rõ ràng hơn và rất mau chóng. Ngày nào mà
một người kia còn tưởng tượng rằng Linh Hồn là một cái gì mơ hồ
bay qua bay lại trên người y, thì y rất
ít có hy vọng được cải thiện. Khi chúng ta cảm thấy những
Tinh chất nổi dậy trong lòng chúng ta, chúng ta phải nói rằng: "Sự
cảm xúc này là một sự rung động trong Thể Vía của tôi; vậy tôi
chỉ rung động theo cái nào hạp với tôi, hiện giờ tôi là trung tâm
điểm của một nhóm thể xác này và tôi sử dụng chúng nó theo ý
tôi".
Khi có việc phải làm thì xác thân viện lẽ nó cần phải nghỉ ngơi,
đi dạo chơi, ăn uống, và người chưa hiểu biết thì nói trong lòng
rằng: "Tôi cần làm mấy việc đó, và tôi phải làm mới được". Nhưng
mà người hiểu biết thì nói: "Ấy là xác thân của tôi muốn mấy
việc đó chớ không phải là tôi đâu, nó phải chờ đợi ".
C. W. L.
–
Đối với trẻ con, điều này thật rõ rệt. Nếu một đứa trẻ muốn
làm một việc gì, thì đối với nó việc đó là trời, là đất vậy;
công việc phải thực hành xong tức khắc, và nếu nó thất vọng, nó
tưởng như vũ trụ sụp đổ chung quanh nó. Những người dã man cũng
giống như thế, họ dễ bị kích động cho đến đổi vì một lý tưởng
nhỏ mọn không ra gì, họ có
thể giết người. Người văn minh sẽ tự hỏi: "Ta hãy chờ một chút
để xem cái gì xảy ra". Đứa trẻ chạy theo mấy cuộc chơi của nó,
còn chúng ta, đàn anh của nó, lắm khi lại quở trách, la rầy nó,
vì không hiểu được bản tánh
trẻ con. Đứa trẻ nói: "Tôi đã quên", thật hoàn toàn đúng thế,
nhưng chúng ta nghi ngờ điều đó, vì chúng ta biết rõ
rằng chính chúng ta phải nhớ. Vậy chúng ta đã quên lúc
chúng ta còn nhỏ bé và đồng thời quên cả thời kỳ ấu trĩ của
giống dân tộc chúng ta. Chúng ta phải nói rằng: "Ta biết rõ em
muốn cái gì, nhưng thật ra bây giờ không nên làm việc ấy, vì nó
làm quấy rầy nhiều người;
em sẽ thi hành việc đó vào một dịp khác". Đó là cách giáo dục
hữu hiệu. Người ta cũng hành động như thế đối với kẻ dã man.
Chung qui y sẽ hiểu rằng y
không nên chiều theo vài sự
xúc động. Về điều đó, y phải trải qua nhiều kiếp và thường
thường y bị giết trước khi học xong bài học, nhưng dần dần y bớt
dã man một chút và văn minh hơn. Còn người đã tiến hóa, y xem Xác
Thân như một sinh vật biệt lập, như một khí cụ để y điều khiển.
Thường thường khi có dịp giúp đỡ ai thì xác thân nói: "Việc ấy
làm cho tôi buồn bực quá! Vậy, ai đó hãy làm thế cho tôi đi ".
Nhưng con người trả lời với xác thân như vầy: "Ngươi ngăn cản ta
không cho làm một việc phải sao được".
C. W. L.
–
Như Bà Tiến sĩ Annie Besant đã khuyên nên lưu ý
điều này; thường lắm, khi có một cơ hội rất tốt hiện đến,
nhiều người xem xét nó rồi nói: À, đó là chuyện phải làm. Một
ngày kia, ai đó sẽ lãnh lấy; tôi không thấy tại sao tôi phải làm
điều đó". Trái lại một người thật sốt sắng nói: "Đây là một công
việc cần thiết, tại sao chính tôi không đảm đang việc đó"? Và
người ấy liền bắt tay vào việc, y
hoàn thành nó.
Thân con vốn là con thú của con, con ngựa của con cỡi. Bởi thế,
phải đối đãi với nó cho tử tế và phải săn sóc nó cho kỹ lưỡng.
Đừng bắt nó làm việc quá sức; phải nuôi nó cho đúng phép với đồ
ăn uống tinh khiết và giữ gìn cho nó thật sạch sẽ luôn luôn, đừng
dung dưỡng một mảy bợn nhơ.
C. W. L.
–
Xác Thân là một con thú, ý niệm này quả thật rất hữu
ích và hình như hiển nhiên vậy. Nhưng nếu chúng ta càng đi
sát theo sự so sánh này thì
ta càng hoàn thành được việc cần thiết. Giả sử bạn có một con
ngựa. Dĩ nhiên bạn là người tốt và biết điều; nếu bạn muốn phục
vụ tử tế, thì bạn cũng muốn cho con ngựa của bạn được sung
sướng, có đủ tiện nghi và tráng kiện. Bước đầu, bạn tìm cách
hòa thuận với nó, để tìm hiểu nó, để nó biết ý bạn. Nó sẽ
cảm thấy bạn sẵn sàng tử tế với nó. Rồi bạn tìm đồ ăn thích
hợp với nó nhất và bạn cho nó ăn. Bạn coi chừng đồ ăn cho được
đầy đủ, nhưng đừng thêm chút gì có hại cho nó. Đồng thời, bạn
bắt nó làm việc, vì bạn nuôi nó nhằm mục đích đó, nhưng không nên
bắt nó làm quá sức. Bạn biết nó làm được cái gì thì bạn bắt
nó làm việc đó. Bạn đã dạy nó tin cậy
bạn; vậy nó sẽ vâng lời bạn và nếu bạn gọi tới nó thì
nó sẽ tỏ ra có thiện chí, vì nó biết rằng nó sẽ được an lành.
Sau cùng, dù cho sự sợ sệt cũng không lay chuyển
nổi lòng tin cậy của nó. Theo cách đó, bạn sẽ được giúp
đỡ nhiều nhất với sự cực nhọc tối thiểu. Cách luyện tập thú
xoàng, đôi khi làm cho con ngựa khiếp sợ. Kết cuộc không bao giờ con
ngựa làm việc thật đắc
lực. Mục tiêu của bạn thì khác hẳn: bạn muốn giữa bạn và con
ngựa bạn có một sự hòa thuận thâm tình.
Xác Thân hoàn toàn giống
con ngựa đó. Chúng ta phải biết phương pháp tốt nhất để áp dụng
cho nó. Áp dụng những phép luyện
tập dữ dội của Hatha Yoga là một sự lầm lạc to. Bạn hãy
tỏ ra tử tế, bạn sẽ thấy
Xác Thân nỗ lực giúp đỡ bạn tùy sức nó và nó không vì
đó mà chịu đau khổ, nhưng đừng bao giờ bắt nó làm việc quá
sức. Nội trong một giờ, bạn có thể gây ra tai hại mà cần phải
nhiều năm mới bù lại được. Trong công việc làm ăn người ta
luôn luôn nói: "Phải cố gắng thêm chút nữa mới được", nhưng thường
lắm, khi sự cố gắng thêm chút ít đó làm mệt nhọc cơ thể khiến
từ đó, nó không trở lại trạng thái bình thường được. Rất dễ gây
ra sự tổn hại như thế, bởi vì cơ thể là một cái guồng máy hết
sức mảnh mai, một guồng máy sống, khả năng phục hồi của cơ thể
thật vô hạn. Trong nhiều trường hợp chúng ta gọi là "một Xác Thân
tốt", có thể chịu đựng với những sự đối xử
hà khắc. Nhưng sự kiện chịu đựng được và con người còn
sống như thế không có nghĩa là vô hại. Trái lại, một chút cố
gắng quá sức lắm khi lưu lại một vết tích vĩnh viễn. Do đó, tôi
khuyên những ai dấn thân trên con đường phát triển huyền bí hãy khá
thận trọng, và tin chắc rằng theo lời vị Hội Trưởng của chúng ta:
công việc nào mà chúng ta không thể thi
hành vì không có ngày giờ, thì đó không phải là công việc
của chúng ta.
Rồi đến vấn đề ăn uống.
Lý thuyết chủ trương rằng một món ăn cũng đủ nuôi sống được bất
cứ ai không phải là lời khuyên tốt lành cho người hành giả có óc
thực tế. Khí chất và khả năng của con người phức tạp vô cùng.
Châm ngôn xưa có nói rằng: "Món nào tốt với người này, là thuốc
độc đối với người kia"; nói về giá trị của thực phẩm, điều đó
thật đúng. Tôi cũng biết rõ điều này: có một khuynh hướng cho
rằng những người bận tâm nhiều về thức ăn của mình sẽ tạo ra cho
mình những sự lo lắng vô ích về những thực chất hoàn toàn thuộc
về cõi trần. Dĩ nhiên, đừng phóng đại thái quá mà hãy giữ trung
dung và phải khôn ngoan. Bổn phận của mỗi người đối với Xác Thân
mình là phải tìm xem nó cần thức ăn loại nào và số lượng mà nó
đòi hỏi. Lẽ phải dạy chúng ta như sau: Hãy cho Xác Thân cái gì
hợp với nhu cầu và sở thích của nó, nhưng đừng bao giờ cho nó
dùng những thực phẩm có hại như rượu và thịt. Đừng cưỡng bách
điều gì cả. Hãy luôn luôn tìm cách thỏa mãn và đồng thời tìm
hiểu nó, như vậy bạn sẽ có sự cộng tác trí khôn của nó, dù cái
trí khôn đó như thế nào chăng nữa.
Thường thường bỏ thịt cá
để sang việc dùng rau trái rất khó. Bên Anh, những người mới ăn
chay, ban đầu không hiểu chi về vấn đề này. Vì từ
trước đến giờ họ ăn nhiều nhất là thịt với cải bắp
và khoai tây mà thuyết ăn chay đối với họ là bỏ thịt để ăn
cải bắp với khoai tây. Song khoai tây chỉ toàn là bột và cải bắp
thì chứa đựng nước. Người
ta không thể sống nhờ bột và nước; cần phải có những yếu tố
khác nữa; những vật thực tạo nên bắp thịt, xương, máu. Chúng rất
nhiều, cho nên chúng ta chịu khó thì sẽ tìm được những thực phẩm
thích hợp hơn hết với thể xác và lấy nó làm món ăn chính. Nếu
thức ăn không thích hợp có thể gây ra những sự
phiền nhiễu cho sự
tiêu hóa. Hãy thử dùng các món khác, trừ ra khi người ta mắc một
chứng bịnh nan y. Khi trẻ con giữ gìn sâu đặng
xem nó hóa bướm, chúng chịu khó tìm coi sâu sống bằng lá
cây nào, vì chúng biết rằng chỉ có một loại lá cây thích hợp
với nó. Chắc chắn chúng ta có thể chịu ra công khó nhọc như thế
đối với con thú được dành
riêng để phụng sự chúng ta trong nhiều năm và nuôi nó với
những đồ ăn uống tinh khiết thích hợp với nó.
Sự sạch sẽ có một tầm
quan trọng cốt yếu; những lý do về vấn
đề đó thật khác nhau: nó cần thiết chẳng những vì phép vệ
sinh, chẳng những vì nó là biểu hiện của sự tinh anh, tế nhị mà
cũng vì Đức Thầy đặc biệt dùng những người liên lạc chặt chẽ
với Ngài như những vận hà để truyền Thần lực của Ngài. Thường
thường công việc này dành cho những vị đệ tử sống gần kề bên
Ngài, nhưng mà những ai cố gắng sống thật đúng với những nguyên
tắc đã trình bày trong các quyển sách như quyển sách này đều sẽ
ở dưới mắt Ngài. Có thể một người như vậy sẽ được Đức Thầy xem
như là hữu ích và Ngài dùng y làm một vận hà để di chuyển thần
lực. Rất có thể ở một nơi nào đó, Ngài không tìm được một vị
đệ tử chỉ định để truyền
một Thần lực. Trái lại, có thể có một người khác ít tiến hóa
hơn, song có đủ những điều kiện cần thiết. Trong tường hợp này
Đức Thầy quyết dùng y.
Ngài ban rải nhiều thứ
Thần lực rất khác biệt vì nhiều lý do khác nhau; khi thì người
này làm một vận hà thích hợp, khi thì người khác. Khi quan sát
trường hợp của hai vị đệ tử ở gần nhau, người ta nhận thấy rằng
một người luôn luôn được dùng
để chuyển di một thứ Thần lực nào đó và một người kia thì
một thứ khác. Sự di chuyển Thần lực đó thuộc về cõi Trần cũng
như thuộc về cõi Trung Giới, cõi Thượng Giới và cõi Bồ Đề vậy.
Tại cõi Trần, Thần lực tuôn ra nhiều nhất là ở hai bàn tay và hai
bàn chân. Vậy nếu Xác Thân của người được chọn, trong lúc nào đó,
không đủ điều kiện trên phương diện cực kỳ quan trọng về sạch sẽ,
tinh khiết, Đức Thầy không thể dùng y, vì y là người không làm một
vận hà thích hợp được. Đó là đổ nước trong sạch vào một cái
ống dơ bẩn; khi chảy qua đó nước sẽ dơ. Do đó những người gần Đức
Thầy một cách mật thiết phải giữ gìn hết sức kỹ lưỡng những
nguyên tắc về sự hoàn toàn sạch sẽ của Xác Thân. Vậy về điều
này chúng ta hãy giữ sao cho được Ngài bằng lòng, không có chi
đáng trách cứ trong trường hợp mà sự giúp đỡ của chúng ta trở
nên cần thiết.
Còn một điểm nữa chúng ta
cần phải lưu ý; nếu chúng ta muốn làm người hữu dụng thì ta phải
tránh đừng làm cho cơ thể bị biến hình, biến dạng, nhất là ở
bàn chân. Tôi có vài tuần ở trong một đoàn thể kia, nơi đó người
ta có thói quen đi chân không, tôi rất cảm động mà thấy sự biến
dạng và hư vẹo một cách bất thường ở bàn chân của nhiều người
tân tín đồ. Tôi nhận thấy sự tàn tật này gây ra tai hại biết bao
cho năng lực của họ trong việc làm vận hà để Đức Thầy ban rải
Thần lực. Trong những điều kiện bình thường, Thần lực này choán
trọn vẹn thân mình của người đệ tử, rồi túa ra theo mười đầu
ngón tay và mười đầu ngón chân. Nhưng khi những đôi giày trái vệ
sinh làm cho bàn chân trọn đời hư vẹo, thì Đức
Thầy chỉ dùng phân nửa phía trên thân hình của người đệ tử.
Vậy Ngài phải thêm nhọc công vì mỗi lần phải truyền Thần lực,
Ngài phải dựng lên một thứ đê điều hay là một cái hàng rào để
ngăn chận tạm thời gần hoành cách mạc của người đệ tử. Vì lẽ
đó mà tự nhiên Đức Thầy buộc lòng phải dùng những người khác
không bị biến thể như thế.
Bởi vì không có một xác thân hoàn toàn tinh khiết và tráng kiện
thì không thể nào con đảm
đương nổi công việc khó khăn trong khi tập luyện để bước vào Đường
Đạo, con không thể chịu đựng nổi nổ lực cần thiết và tái diễn
mãi.
C. W. L.
–
Trong hoàn cảnh hiện tại sự tập luyện để bước vào Đường Đạo
thật rất gay go. Nếu việc ấy được thúc đẩy không ngừng, nó sẽ là
một căng thẳng liên tục, công việc này chỉ có thể chịu đựng nổi
nếu tất cả những thể của chúng ta, gồm cả Xác Thân, đều ở trong
tình trạng tốt đẹp. Như vậy một sức khoẻ hoàn toàn là điều cần
thiết để tiến bộ nhanh chóng; mọi sự suy nhược đều làm mất thì
giờ. Những vị chăm nom đến sự tiến bộ của một người đệ tử đều
luôn luôn coi chừng hết sức kỹ lưỡng, không cho anh này cố gắng quá
sức. Và các Ngài sẽ không bắt buộc một người nào dưới quyền
lãnh đạo của các Ngài làm một công việc phụ thuộc nào trước khi
biết rằng người ấy có đủ khả năng đảm đương nó với một phương
tiện thích đáng.
Vậy thì thân con phải vâng
theo mạng lịnh của con luôn luôn chớ không phải con ở dưới quyền sai
khiến của nó, Cái Vía của con có nhiều sự ham muốn, đếm tới cả
chục có đầu. Nó muốn thấy con giận dữ, nó muốn nghe con nói
những tiếng nặng nề, nó muốn thấy con ganh ghét, tham lam, thèm
muốn của cải thiên hạ và
ngã lòng rủn chí. Nó muốn
mấy điều đó và còn nhiều việc khác nữa . . ., chẳng phải nó có
ý hại con, song tại nó ưa những sự rung động dữ dội và thay đổi
không ngừng. Nhưng trong mấy việc đó con không muốn việc nào cả,
bởi vậy con phải phân biệt ý muốn của con với ý muốn của Cái
Vía.
A. B.
–
Tôi thấy dường như đa số những người hay suy tư
biết rõ rằng họ không phải là Xác Thân của họ, nhưng mà
những ví dụ của Đức Thầy đưa ra ở đây lại chứng tỏ rằng họ không
ngớt tự đồng hóa với Cái Vía. Đôi khi bạn cũng thốt ra những câu
như: "Tôi giận dữ; tôi nổi cáu". Ngay cả những người không muốn
tưởng mình là những cảm xúc thấp hèn thường cũng lầm lẫn chúng
với những tình cảm cao thượng; chắc chắn họ không nói rằng: "Tôi
ghen ghét" khi họ nhận thấy trong lòng nảy sinh ra tình cảm đó, vì
dù họ có thể tự đồng hóa hoàn toàn với tình cảm của họ, con
người cũng cố gắng che lấp những sự thấp hèn và trong trường hợp
này, họ tưởng rằng tình cảm của họ không phải là sự ghen ghét
mà là tình thương. Họ nghĩ: "Tôi đau khổ vì người nào đó thương
tôi, lại thương một người khác nhiều hơn thương tôi".
Tình thương là một đức
tánh có ảnh hưởng rất xa, thế lực của nó rộng lớn cho đến đổi,
con người sẵn sàng nhờ nó che chở và tìm cách gán cho nó tất cả
những điều hoàn toàn xa lạ
với nó.
Tốt hơn là nên thành thật
xem xét những tình cảm của ta, đừng xem thường những vấn đề quan
trọng ấy và cũng đừng để những lời dịu ngọt phỉnh lừa ta. Trong
trường hợp trên đây, nếu bạn đau khổ, thì đó hoàn toàn
không phải vì bạn thương yêu người bạn của mình, mà vì bạn
không muốn chia sớt vật chiếm hữu của bạn cho ai cả. Một khi nảy
sinh tình cảm đau khổ này, nó đều do tánh ích kỷ
gây nên, nó là "đối lập"
[18]
của tình thương. Về phần bạn, bạn là Chơn Nhơn, nên bạn không thể
cảm thấy mình ganh ghét. Bạn không thể phẫn nộ hay là nổi cáu,
các tánh đó đều là tánh khí thuộc về Cái Vía.
Đức Thầy còn đề cập đến
những thí dụ khác như tánh tham lam, sự ham muốn, ghen ghét và ngã
lòng rủn chí. Những người chí nguyện bước vào Đường Đạo ít nhân
nhượng hai tánh trước hơn là sự ngã lòng. Thường thường người ta
ít đề phòng sự ngã lòng hơn các tánh khác vì họ lầm tưởng chỉ
có một mình họ chịu hậu quả mà thôi. Họ nói rằng: "Nếu tôi cảm
thấy buồn rầu hay thất vọng, thì rốt cuộc đó chỉ là chuyện riêng
của tôi và chỉ quan hệ đến một mình tôi thôi". Nhưng nói như
thế không đúng: Mấy
kẻ khác cũng bị tai hại vậy. Các sinh viên Huyền Bí Học đều biết
rõ điều chi xảy ra. Những làn rung động của sự
ngã lòng truyền đi và cảm nhiễm không những Thể Vía mà còn
Thể Trí của nhiều người nữa. Hậu quả này thường trầm trọng hơn
người ta tưởng, bởi vì trong đám người có thể bị tư tưởng bạn
cảm nhiễm, đa số trình độ tiến hóa còn thấp kém hơn bạn, nhiều
người đang lâm vào tình trạng có thể gây trọng tội. Những độc giả
thường xem sử sách và những bản thống kê các bản án phạm tội
đại hình thì biết rằng nhiều vụ án mạng, nhất là sát nhơn và
tự tử, đều xảy ra sau một thời kỳ vô cùng chán nản. Trước tòa
án, tội nhân thường nói rằng: "Tôi nản chí quá, tôi không thể nào
cưỡng lại nổi". Ở trình độ tiến hóa còn thấp kém, nhiều người
có thể bị cảm nhiễm như thế. Có những người bị tội cấm cố, hay
tử hình nhưng thật ra họ không phải là thủ phạm hoặc họ chỉ tạo
có một phần tội ác do bàn tay của họ gây nên mà thôi. Chúng ta
sống trong một thế giới ít có người hiểu được những luật thầm
kín phi thường này và nếu tòa án chúng ta không xét xử được một
cách hoàn toàn công bằng, thì chính vì không biết khoa Tâm lý học
vỡ lòng vậy.
[19]
Chắc chắn tôi cảm thấy
tất cả những điều này rõ rệt hơn vì chính tôi đã bị đưa đẩy: Khi
thì phấn khởi, khi thì ngã lòng, theo sự dao động của quả lắc
đồng hồ. Ấy là tánh khí chung của nhiều người: hôm nay hạnh phúc
tràn ngập Thế gian, ánh dương quang chiếu rạng, tạo vật xinh tươi,
tất cả đều hân hoan, vui thú. Rồi phản ứng không thể tránh được
lại xảy đến. Một cảm xúc buồn bã mênh mang xâm chiếm tâm hồn bạn,
toàn thể thế giới dường như tối sầm lại. Nếu bạn bình tĩnh tìm
hiểu căn nguyên, thì bạn sẽ thấy những
lý do bên ngoài mà bạn đổ cho sự thay đổi tánh khí của bạn
không đủ để giải thích những hiệu quả quan trọng như thế. Tuy nhiên
tánh khí này cũng mang đến vài sự lợi ích. Thuật nói trước công
chúng của tôi chắc chắn
không có hiệu lực như thế này, nếu tôi không có khả năng bẩm sinh
đó. Tánh khí của nhà diễn giả gồm sự hiểu biết những tình cảm
hết sức đối chọi nhau, nhưng nó cũng giống với các tánh khí khác
là những cái lợi lại kèm theo những cái bất lợi. Chúng ta không
nên nhượng bộ trước những sự biến đổi luân phiên dữ dội của tình
cảm.
Tôi không chắc rằng muốn
thắng được tánh xấu ấy, chỉ cần tự nói rằng: "Tôi không nên cảm
biết mình ngã lòng", nhưng trong
những trường hợp cực đoan người ta cũng có thể thắng thế
khi nhớ rằng mình không được buông xuôi vì những hậu quả thảm khốc
sẽ di hại cho kẻ khác. Cố gắng xua đuổi một tình cảm như thế đó
chưa đủ; phải thay vào đó bằng một tư tưởng can đảm, an tịnh thật
mạnh mẽ và phụ vào đó một tình
cảm vị tha nồng nhiệt
của bạn.
Như Đức Thầy đã chỉ dạy,
Cái Vía không muốn hại ai. Nó hành động như thế, chỉ vì nó được
cấu tạo bằng Tinh chất đang đi xuống và đang tiến hóa nhờ những
sự rung động dữ dội và luôn luôn thay đổi. Sự ham muốn không ngừng
này chứng tỏ rằng Cái Vía có những sự thay đổi mãnh liệt, điều
đó phải giúp sinh viên không tự đồng hóa với Cái Vía và thấy
rằng nó đã tạo ra những tình cảm mà anh không biết lý do, những
tình cảm mà lý trí không tán đồng, những tình cảm tiêu biểu
những sự hoạt động độc lập, riêng
rẽ của Thể Vía. Người ta phải hiểu điều đó và đừng làm
trò chơi cho những tánh khí bất thường ấy. Bạn hãy nghiên cứu
chính bản tánh của Thể Vía bạn. Hãy khám phá cho được những
chuyện bất hảo mà nó đặc biệt ưa thích, rồi bạn từ chối, không
chấp nhận những điều tai hại đó. Quyết định xong, bạn đừng nghĩ
đến chúng nó nữa, đừng
nhấn mạnh chúng nó. Bạn hãy chọn lấy những thái độ đối nghịch
với nó và suy gẫm về những thái độ này suốt ngày. Cái Vía của
bạn muốn không kiên nhẫn ư ? Bạn hãy chú ý vào sự kiên nhẫn; bạn
hãy nghĩ đến đức tánh này trong thời gian tham thiền buổi sáng
của bạn và bạn thực hành nó từ giờ này sang giờ khác. Cái Vía
của bạn lại muốn cho bạn ghen ghét ư ? Bạn hãy nhận biết sự kiện
đó, rồi ngưng ngay ý nghĩ về sự ghen ghét, rồi tập trung tư tưởng
vào tánh vị tha. Bạn hãy áp dụng phương pháp này một cách liên
tục thì sự ghen ghét tự nó tiêu mất. Cái Trí của bạn không thể
dung nạp một lượt hai tình cảm trái
ngược nhau.
Bạn
hãy nhớ rằng mọi sự
khó khăn đều nhắm tạo nên cơ hội tiến bộ cho sinh viên Huyền Bí
Học. Người đệ tử tỏ lòng yêu mến có được công đức gì, khi mà
mọi người chung quanh y đều tử tế, hay tốt lành, khi mà ai nấy đều
ân cần niềm nở với y? Những người tầm thường nhất cũng làm được
như thế. Người chí nguyện
làm đệ tử phải biểu lộ những tình cảm tốt lành khi người ta tỏ
ra xấu xa đối với y, bằng không y có khác chi những người thường? Y
phải nhớ đến điều này trong những lúc khó khăn hay bị cám dỗ.
Người chí nguyên phải lướt tới đối đầu với chúng và xem chúng như
những cơ hội để trả quả. Đối với người đệ tử, phải coi bất cứ
ai hay bất cứ cơ hội thử thách nào đưa đến đều không phải là một
sự cám dỗ, mà đúng là một dịp may vậy. Khi đem những cảm xúc
tốt đẹp đáp ứng lại những tình cảm xấu xa thì người đệ tử
giống như Sư Phụ mình.
Như thế đã biểu lộ được nơi y những đức tánh của Đức Thầy.
Vậy buổi sáng khi tham
thiền bạn hãy suy gẫm những đức tánh mà bạn cần phải có. Chẳng
hạn, nếu bạn hay nóng nảy bạn hãy nghĩ đến đức kiên nhẫn. Rồi
trong ngày bạn gặp một người nóng nảy hoặc khó chịu, thì vì
thói quen, trước tiên bạn đáp lại bằng sự nóng nảy, nhưng khi vừa
phạm lỗi bạn liền nghĩ ngay đến đức kiên nhẫn. Lần sau bạn nghĩ
đến đức kiên nhẫn đúng lúc bạn phạm lỗi. Tập thêm một chút nữa
bạn sẽ nghĩ đến đức kiên nhẫn, trước đó một chút; rồi bạn cảm
thấy nóng giận nhưng bạn không biểu lộ ra; sau cùng bạn không còn
cảm thấy nóng giận nữa. Bước đầu của những giai đoạn ấy đã
chứng tỏ rằng sự tham thiền của bạn khởi sự có hiệu quả. Tôi
biết nhiều người muốn thí nghiệm điều này. Họ kiên nhẫn trong vài
ngày hay vài tuần rồi nói: "Tôi không tham thiền về vấn đề đó
nữa, tôi không thu gặt được một kết quả nào; việc tham thiền của
tôi không có ích lợi gì cho tôi; tôi không tiến bộ". Người này cũng
giống như một người khách bộ hành phải thực hiện một cuộc hành
trình bằng cách đi bộ ba ngày đường, nhưng mới đi được khoảng một
hoặc hai giờ, y ngồi xuống nói rằng: "Đi làm gì? Tôi có tiến bước
đâu". Dưới cõi trần, ai lại không thấy cái tư cách như thế lố bịch
biết bao, mà tư cách kia
cũng giống như vậy. Sự tham thiền tạo ra những kết quả, đó là
cưỡng bách, không khác nào sự đi bộ sẽ đưa bạn đến một quãng
đường, điều này chắc
chắn như thế. Những định luật Khoa học tác động một cách bất
biến, do đó mọi năng lực của bạn tạo ra phải mang lại kết quả.
Nếu bạn chưa thu thập được kết quả tức khắc theo ý muốn, chính
vì cái nguyên tắc đối lập chưa hoàn toàn bị hàng phục, năng lực
của bạn còn bám chắc lấy nó để trung hòa nó, để rồi chinh phục
nó một cách triệt để. Bạn chớ bận tâm đến kết quả. Hãy chú
định tư tưởng của bạn vào đức kiên nhẫn hoặc những đức tánh nào
mà bạn muốn mở mang. Rồi cái kết quả tự nó sẽ đến, khỏi cần ai
trợ giúp.
C. W. L.
–
Tóm lại, với sự luyện tập một ít lâu, không khó gì cho
chúng ta đặng biết rằng chúng ta không phải là Xác Thân, nó
chỉ là cái áo mặc ngoài thôi. Còn Thể Vía - những cảm xúc và
dục vọng của chúng ta - lại khó biết hơn vì dường như nó là
thành phần của bản ngã sâu kín
hơn hết của chúng ta. Mỗi ngày, ở đâu người ta cũng gặp những
người có cảm tưởng rằng họ là những tình cảm, dục vọng của họ.
Ở vài người bị tình cảm, dục vọng choán đầy cả tâm hồn họ cho
đến đổi nếu cố gắng dùng trí tưởng tượng
tách biệt chúng riêng ra, thì họ không còn cái chi cả: trọn
cả con người họ chỉ là dục vọng và cảm xúc thôi. Một người như
thế thật khó tách riêng y ra với Thể Vía của y; nhưng đó là điều
phải thực hiện. Cái Vía luôn luôn thay đổi tánh tình của nó và
sự kiện này giúp con người hiểu rằng nó (Cái Vía) không phải là
Chơn Ngã, cái Bản Ngã thật. Chính là Linh hồn không hề thay đổi;
ước vọng của nó vốn bất di bất dịch - nó muốn tiến hóa để giúp
đỡ Linh Hồn khác theo đuổi con Đường Đạo do các Chơn Sư của chúng
ta đã vạch ra. Vậy thật rõ ràng và chắc chắn rằng Thể Tình Cảm
này không phải là Chơn Ngã.
Sở dĩ Tinh chất Cái Vía
đạt được ít nhiều sự liên tục vì những
hạt nguyên tử trường
tồn thu hút những chất khí cùng một loại với chất khí mà chúng
ta đã có ở kiếp trước để bao bọc chúng nó; bởi thế thật khó mà
thình lình đương đầu với nó và quật ngã nó được. Tuy nhiên, không
phải điều đó không làm được và phương tiện hay
nhất là nhờ sự quan sát kỹ lưỡng để xác định những loại
hoạt động xấu xa nào mà Cái Vía muốn
theo đuổi. Mỗi người đều có những nỗi khó khăn riêng: người
thì tỏ ra nóng nảy, dễ cáu hoặc là ưa đố kỵ, ganh ghét; người
khác lại tham lam. Nhận biết như thế rồi ta phải chuyên tâm khắc
phục tật xấu ấy một cách cương quyết. Giả sử vấn đề ở đây là
tánh nóng giận, nó thường xảy ra bởi do những tình trạng
ghê gớm và những tiếng động là đặc tính của đời sống hiện
đại. Người muốn bỏ tánh nóng giận thì phải cương quyết không nổi
nóng nữa. Lấy nó làm một đề tài tham thiền rất tốt, nhưng đừng
chiến đấu với tật xấu bằng cách chống cự với nó. Điều hay hơn
hết là tham thiền về đức tánh đối lập với nó, nghĩa là đức
kiên nhẫn. Đừng nghĩ đến tánh xấu và việc cần phải đối
phó với nó, vì như thế sẽ tăng cường sức hoạt động của nó.
Nếu bạn cố gắng giúp kẻ
khác bằng tư tưởng của bạn cũng nên theo phương pháp đó. Khi bạn
giúp một người có tánh xấu nói trên đây, thay vì chú trọng đến
tánh nóng giận của y, tội nghiệp cho y - như
thế sẽ tăng cường tánh nóng giận đó - bạn hãy nói rằng:
"Tôi muốn thấy y bình tĩnh và kiên nhẫn". Như vậy tất cả năng lực
tinh thần của bạn giúp cho y được bình tĩnh và kiên nhẫn. Ban đầu,
khi gặp một người không nhẫn nại, chúng ta sẽ nổi nóng, nhưng sau
đó chúng ta nhớ lại rằng: "Chúng ta không muốn làm điều đó". Dù
nhớ muộn như thế cũng tạm được. Lần sau, hay lần thứ hai mươi,
chúng ta sẽ nhớ ngay chứ không phải khi vừa mới phạm lỗi. Trong
giai đoạn thứ ba, ta sẽ nhớ ngay trước khi thốt ra lời phẫn nộ; sự
nóng giận vẫn có, nhưng chúng ta không để nó bộc lộ ra. Tiến thêm
một bước nữa, chúng ta không
còn cảm thấy một sự nóng giận nào. Chúng ta đã hàng phục được
sự nóng giận và chúng ta sẽ không còn bận tâm vì nó nữa, trong
kiếp này, cũng như trong
những kiếp sắp tới.
Muốn chế ngự bản tánh
của Cái Vía, thì điều cần thiết là không có một tình cảm cá
nhân để phiền hà, để giận dỗi. Những tình cảm cao thượng như
thiện cảm và tình thương phải tràn ngập trong lòng chúng ta, chúng
ta không còn tức tối hay bất bình được. Người nào còn những tình
cảm này là còn nghĩ đến mình, chúng ta không có quyền làm thế,
nếu chúng ta đã tự hiến mình cho Đức Thầy. Có thể có những
người trì độn, họ bị mắng mà không biết; sự vô ý thức như thế
không tốt; nhưng khi bạn đã ghi ý muốn nhục mạ rồi thì hãy tỏ ra
khôn ngoan; đừng chú ý đến, cách đó luôn luôn hay nhất. Người ta
nói xấu bạn, điều này không quan trọng mấy. Việc nói xấu luôn đã
xảy ra từ thuở khai thiên lập địa, và ngày nào chúng ta chưa tiến
đến gần quả vị Chơn Tiên thì ngày đó sự nói hành cũng vẫn còn
mãi. Tóm lại, những điều kẻ khác nói không quan trọng; đó là
những làn rung động thoáng qua làm xao xuyến không khí và chỉ có
thế thôi, trừ ra khi nào chúng ta quyết định làm trái ngược lại.
Một người nào đó nói những điều không tốt cho bạn, nếu bạn không
hay thì chẳng có sao cả. Ví như bạn nghe được những lời đó, bạn
đùng đùng nổi giận, bạn
kinh hãi, bạn thất vọng và
còn nhiều phản ứng khác nữa, thì không phải lỗi của kẻ thủ phạm
đầu tiên, mà chính là bạn đã hại bạn. Hãy nhìn sự việc một
cách thật kiên nhẫn và nói rằng: "Tội nghiệp, y không biết chi hơn
cái đó". Bạn hãy giữ lấy thái độ dịu dàng và nhân hậu. Những
điều kẻ khác nói không quan trọng mấy, vì họ luôn luôn hành động
thiếu sự hiểu biết. Bạn hãy nhớ mấy lời này: "Tấm lòng tự biết
những nỗi buồn bực của nó"[20].
Một người kia luôn luôn có những lý lẽ để giải thích, để hành
động hoặc suy tư như họ đã làm. Từ bên ngoài không thể biết tất
cả những lý do của họ, vì bạn chỉ quan sát chúng một cách nông
cạn và thường thường thì sai lạc nhiều lắm. Do đó, ngày nào bạn
chưa lên tới cõi Bồ Đề thì ngày đó bạn nên làm lợi cho họ là
đặt ra nghi vấn hoặc hãy làm hay hơn nữa: đừng gán cho ai những lý
lẽ này hay những lý lẽ nọ. Nếu hành vi nào đó bạn cho là sái
quấy, sự phê phán nhân từ hơn hết là nói rằng: "Tôi sẽ không làm
điều này; theo ý tôi như thế là quấy. Có thể người ấy có những
lý lẽ riêng của y mặc dầu tôi không biết chúng như thế
nào".
Khi một người kia tỏ ra vô
lễ thì lắm khi có điều gì bất thường đã xảy đến cho y và bởi
vậy y không ở trong trạng thái tự nhiên của y nữa, y thấy điều đó
và người đầu tiên nói chuyện với y lại là chính bạn. Thật ra,
không phải y giận bạn; sự mất quân bình của y có lý do khác; có
thể bữa cơm tối của y bị mất ngon. Chúng ta hãy tập lấy đức khoan
dung đối với kẻ khác mà nói rằng: "Tội nghiệp cho bạn ấy, tôi
nghĩ là y luôn luôn không thế nào được hoàn toàn
khả ái và dễ mến như tôi". Chắc chắn sau đó người này sẽ
hối hận về những lời khiếm nhã của y, có lẽ y cũng không nhận
thấy điều gì khác thường do y đã thốt ra. Khi người ta cảm thấy
bị xúc phạm hay phật lòng vì chính họ đã tưởng đến bản ngã,
cái ta của họ. Chính tư tưởng cá nhân này cần phải bị nhổ tận
rễ và ném đi xa. Không bận rộn về bản ngã thì không còn tật đó.
Nếu người này chỉ nghĩ đến tất cả tình thương mà y dành cho
người kia thì tình thương của người kia đối với người thứ
ba có quan hệ gì đối với y đâu. Cái ảo ảnh về bản ngã chia
rẽ là căn nguyên của hầu hết mọi đau khổ.
Người ích kỷ hiện nay đã
lỗi thời, y theo đuổi những hoạt động
hữu ích và cần thiết cho y hồi hai chục ngàn năm trước,
nhưng bây giờ đây chúng không còn hữu ích và cần thiết nữa, người
ích kỷ là người chậm tiến, cổ hủ. Chúng ta có bổn phận phải
theo kịp thời thế. Đời sống của chúng ta, tư tưởng của chúng ta
có mục đích là phải hướng về tương lai mà Đức Chưởng Giáo đã
chuẩn bị cho chúng ta. Vậy ta phải quét sạch tất cả những tư
tưởng lỗi thời này.
Trong khi tìm kiếm những
lỗi lầm của bạn để chủ trị chúng, bạn
đừng để những tư tưởng sai lầm về sự
ăn năn và hối hận lưu
vết tích trong lòng bạn. Bạn hãy nhớ bà vợ của ông Lot
[21]
và đừng nhìn về phía sau; điều đó chẳng có ích lợi gì cả. Sau
khi phạm một lỗi nặng nào đó, bạn có thể nói thật bình tĩnh
rằng: "Dại quá, chẳng bao giờ tôi tái phạm nữa". Người ta nói
rằng ông Talleyrand nói những lời này: "Ai cũng có thể lầm lẫn -
tất cả chúng ta đều lầm lẫn - nhưng mà người phạm lỗi hai lần
một việc là kẻ khờ dại". Một này kia, một vị Chơn Sư có nói
rằng: "Sự hối hận chỉ có chút giá trị là khi nào quyết định
không tái phạm nữa". Bạn cũng nên nhớ câu này nữa: "Kẻ nào không
hề lầm lỗi là kẻ không làm gì cả". Bạn đừng lo lắng về những
gì mà bạn đã làm trong những kiếp trước; tại sao lại bận tâm đến
ngày hôm qua. Cả hai thuộc về qua khứ. Sự hối hận làm mất thì
giờ và năng lực; nó chính là một điều tệ hại, một hình thức
ích kỷ.
Thật dễ cho chúng ta tử
tế và dễ thương với những người cũng đối đãi với chúng ta như
thế đó, nhưng nếu chúng ta đã thực sự tiến hóa, thì chúng ta ban
rải tình thương ra chung quanh, dù cho những
kẻ khác không tỏ lòng thương mến chúng ta cũng vậy. Đấng
Christ đã nói: "Nếu con thương những kẻ yêu con, con đáng được ban
thưởng điều gì? Những kẻ thu thuế kia lại không hành động như thế
sao"[22]?
Ngài còn dạy rằng: "Con hãy thương yêu kẻ nghịch của con và cầu
nguyện cho những người hành hạ con.[23]
Đã đến lúc người đệ tử của Chơn Sư
chứng tỏ mình làm được điều gì, nơi mà y có thể hành động
như Ngài, nơi mà y đáp lại sự nói xấu và ngược đãi bằng những tư
tưởng nhân từ và tình thương, rồi y còn bàu chữa và khoan hồng
đối với sự rồ dại của kẻ nghịch. Thương yêu và tử tế đối với
những người thương yêu và tử
tế với ta vẫn chưa đủ, phải có khả năng ban rải tình thương của
chúng ta thật nhiều cho những kẻ còn ngờ vực, họ không hiểu điều
đó là gì? Người ta nói về Đấng Christ như vầy: "Khi bị nguyền
rủa, Ngài không hề nguyền rủa lại; khi bị hành hạ, Ngài không hề
hăm doạ, mà chỉ phó thác mọi việc cho Đấng xét đoán công bằng"[24].
Tất cả chúng ta cũng bị kẻ khác làm hại, bị đối xử bất công,
bị người ta không hiểu biết mình, không ai nhận
chân giá trị của mình. Nhưng không một ai cần phải bận tâm
về những điều đó, vì Luật Nhân Quả luôn luôn canh chừng để lập
lại trật tự. Đức Chúa Trời nói: "Hãy để cho Ta trả thù. Hãy để
cho Ta phân phát mọi việc, ân đền oán trả"[25].
Chúng ta hãy phó thác mọi việc cho Ngài. Luôn luôn công bằng trả
lại; những điều xấu xa một ngày kia sẽ được kiểu chính[26].
Những người nào ngày nay chưa biết lỗi mình, một ngày kia sẽ biết
và sẽ hối hận. Không có sự bất công nào tồn tại được. Tất cả
mọi sự đã an bài, sẽ được thực hiện
đúng như
đã dự định.
Chính Đức Thượng Đế luôn
luôn treo gương Bác Ái. Nhiều người nói xấu
Ngài; vì không hiểu biết Ngài nên họ đã nhạo báng Ngài.
Ngài không hề trả lời, nhưng tình Bác ái thiêng liêng cứ không ngớt
tuôn ra. Nếu chúng ta muốn biểu hiện sự sống thiêng liêng, chúng ta
phải có một đặc tánh giống như Ngài vậy.
Cái trí của con vui thích với tư tưởng kiêu căng chia rẽ. Nó kiếm
thế tự tôn tự đại và xem thường kẻ khác.
C. W. L.
–
Lại ở đây nữa, đừng lầm lộn ý muốn của Cái Trí với
ý muốn của chúng
ta và nên biết rằng chúng ta không phải là Cái Trí. Chúng ta
có thói quen hay nói: "Tôi nghĩ thế này hay thế khác", nhưng trong
mười lần hết chín lần không phải là chúng ta nghĩ mà chính là
Cái Trí vậy. Nhiều người trong chúng ta cố gắng chủ trị và uốn
nắn tư tưởng của họ theo kỷ luật, nhưng nếu kiểm điểm lại, chúng
ta nhận thấy những tư tưởng đáng gọi thuộc về của ta nghĩa là
của Chơn Nhơn thật hiếm hoi biết bao và những tư tưởng
thuộc về Hạ Trí thì không biết bao nhiêu nữa.
Hạ Trí bay từ vật này
sang vật kia, ghé phớt qua nhiều vấn đề khác nhau, nhưng thường
thường nó không chăm lo chu đáo cái nào cả. Thói quen của nó không
phải là không xem xét tường tận điều gì, mà nó chỉ lướt qua việc
này đến việc khác để có những rung động mới mẻ luôn luôn. Thoáng
nhìn lại phía sau, chắc chắn trong khoảng thời gian rất ngắn ngủi
ta sẽ thấy rằng Trí ta nhớ đến một dọc chuyện này rồi tới
chuyện kia, toàn là vô vị. Chẳng hạn khi đi đường bạn sẽ nhận
thấy nếu chính bạn đặc biệt không suy nghĩ gì cả, thì cái gì mà
tư tưởng không chịu dừng lại: đó chính là Cái Trí của bạn. Nếu
bạn không khép nó vào kỷ luật, nó sẽ duyệt lại hàng loạt ý
niệm vô ích đối với bạn, những ý niệm này vị tất
đã xấu xa, trừ khi chúng nó vốn riêng tư thuộc về cá nhân
ích kỷ. Sự liên tưởng là thói quen của Cái Trí; đôi khi nó chiếm
lấy một tư tưởng đẹp nhất của bạn rồi dẫn đến một việc khác xa
và rất thô tục. Chúng ta phải can thiệp và đổi hẳn tất cả. Tôi
biết rất khó mỗi lúc đều mỗi kiểm soát những sự hoạt động của
Cái Trí, nhưng chúng ta phải thực hiện điều đó, vì Cái Trí là
một sức mạnh vô cùng và hơn nữa nó là thần lực cao nhất ở gần
chúng ta: Nếu ý chí có thể bắt Cái Trí làm một vận hà thì ít
có việc gì mà Cái Trí chúng ta không hoàn thành nổi. Chúng ta có
thể hoạch đắc cái sức mạnh phi thường này, dù chúng ta giàu hay
nghèo, già hay trẻ, và chúng ta có thể làm cho nó thành một dụng
cụ quí báu để phụng sự Đức Thầy, với điều kiện là chúng ta luôn
luôn canh chừng nghiêm nhặt cho tới chừng nào Cái Trí tập được
những thói quen mới khác. Tư tưởng có thể hoàn thành được nhiều
việc, mà những phương tiện khác không thể thành công. Một tư tưởng
thương yêu gởi đến cho một người - mà chúng ta biết y cần được
giúp đỡ - có thể hữu ích cho y hơn là cho y một số tiền; trọn
đời y có thể nhờ ảnh hưởng tốt đẹp đó. Tại cõi Trần này, cái
kết quả có thể không nhìn thấy được, nhưng công việc làm của Đức
Thầy không phải vì thế mà không thành sự
thật.
Tư tưởng hướng về Chơn Sư
thường trực ở phía sau Cái Trí: Cái Trí có thể quay về tư tưởng
này mỗi khi Chơn Nhơn không thực sự suy nghĩ về điều gì bắt buộc
nó phải chú ý; tư tưởng đó phải hết sức rõ rệt. Đối với nhiều
người, tư tưởng về Đức Thầy chỉ là một thứ phúc lạc mơ hồ, một
sự xuất thần nửa vời, một trạng thái hôn mê về đạo giáo; trong
mấy lúc đó họ không thể suy nghĩ thật sự về điều gì cả. Thay vì
đắm mình một cách mơ hồ trong một tư tưởng thiếu chính xác,
chúng ta nên làm cho việc sùng mộ Đức Thầy của mình thành
một hình tư tưởng rõ rệt, chẳng hạn như "Tôi có thể làm gì để
phụng sự Ngài? Tôi dùng mãnh lực tư tưởng của tôi vào mục
đích gì "? Trong quyển
sách này luôn luôn bạn sẽ thấy tác giả nhấn mạnh rằng: Thật ra
chúng ta chỉ có một tư tưởng duy nhất, một ý chí duy nhất, một
phận sự duy nhất mà thôi. Tư tưởng duy nhất đó là phụng sự Đức
Thầy; ý chí duy nhất đó là làm việc cho Ngài; phận sự duy nhất
đó là tận tụy với Ngài và vì thương Ngài mà tận tâm với nhân
loại. Mặc dù những công việc có tính cách hết sức phức tạp đang
chờ đợi chúng ta đi nữa, chúng ta cũng phải đảm đương chúng nó để
phụng sự Ngài và nhân loại. Trong trí Đức Thầy chỉ có một tư
tưởng duy nhất là: phụng sự; nếu chúng ta muốn hiệp nhất với
Ngài, tư tưởng duy nhất đó cũng phải là tư
tưởng của chúng ta. Tư tưởng duy nhất ấy bắt buộc chúng ta
phải đạt cho được khả năng phụng sự, rồi do đó mới có thể tiến
hóa; chẳng phải chúng ta khao khát thành những bậc vĩ nhân, mà vì
chúng ta muốn thành khí cụ tốt.
Nhiều người đang mở trí.
Nhiều nhà bác học luyện trí để mở rộng sự hiểu biết của họ mà
thôi. Đôi khi họ cũng có thể có một ý tưởng phụ thuộc là muốn
được danh tiếng lẫy lừng,
nó là kết quả của một sự phát minh vĩ đại; nhưng tôi không tin
rằng đó là trường hợp của đa số những nhà Khoa học. Thường
thường trong thâm tâm họ đều có ý muốn đem những quan niệm đã
hoạch đắc để giúp ích cho đời, nhưng trong tinh thần Khoa học, lòng
nhiệt thành muốn hiểu biết đã chiếm hàng đầu. Đó là một môi
trường hoạt động tốt đẹp; nhiều tâm hồn cao quí làm việc trong
phạm vi này đã giúp cho nhân loại những công việc lớn lao.
Chúng ta cũng vậy, chúng
ta phải tinh luyện Cái Trí của mình để trở nên nhanh nhẹn, linh
hoạt và hữu ích. Tại sao thế ? Tại sao người thợ mộc mài cái
bào của y? Chẳng phải để cho y có một cái bào sắc bén hơn
cái bào của anh thợ mộc khác, nhưng để bào cây cho láng, để
làm một việc tốt. Đây mới thật đúng vì lý do nào chúng ta phải
tinh luyện Thể Trí. Nhưng hãy luôn luôn nhớ tư
tưởng này: "Tôi đang tạo một khí cụ cho công nghiệp của Đức
Thầy". Lý tưởng này sẽ ngừa được sự kiêu căng của trí thức, nó
giúp chúng ta tránh khỏi nhiều cạm bẫy, vì chắc chắn chúng ta
phải sa vào đó, nếu Cái Trí mở mang quá độ.
Khi con bắt buộc nó không quan tâm đến những việc trần được rồi
thì nó cũng còn cố gắng gom tất cả về cho bản ngã của con. Nó
giục con chú ý đến sự tiến hóa riêng của con, thay vì lo nghĩ đến
việc của Chơn Sư và giúp đỡ
kẻ khác.
A. B.
–
Trong những bài dạy của Đức Thầy, có lẽ điều làm cho tôi
chú ý hơn hết, đó là ý niệm chánh, không thay đổi và luôn luôn
được lập đi lập lại về cái ý tưởng duy nhất. Dường như cái ý
niệm chánh này chiếu ra sự thuần nhất một cách mạnh mẽ cho đến
đỗi người ta cảm thấy rằng Đức Thầy không thể có tư tưởng nào
khác nữa và Ngài nhập vào Đấng Duy Nhất đến độ tư tưởng của
Ngài không thể tách rời ra khỏi Đấng Duy Nhất hay có thể quên Đấng
Duy Nhất, dù Ngài phải lưu ý đến vấn đề gì. Đây cũng là tư tưởng
của người đệ tử. Luôn luôn
nghĩ đến công nghiệp của
Đức Thầy và luôn luôn làm việc cho kẻ khác : ý tưởng duy nhất này
phải vượt lên trên tất cả, bằng không thì chính Cái Trí của bạn
tưởng chớ không phải là bạn. Nhưng nếu tư tưởng đó là của
bạn, thì tất cả tư tưởng khác đều thuộc về bạn. Giả sử trong
lúc tham thiền bạn nghĩ đến một đức tánh nào đó. Bạn tự hỏi,
tại sao bạn muốn có nó? Có phải để được người ta khen ngợi hay
để tiến dần đến sự Điểm Đạo? Hay trái lại, bạn muốn có nó để
trở thành một khí cụ hảo hạng cho công việc của Đức Thầy? Đó là
đá thử vàng để giúp bạn biết có phải là Cái Trí suy nghĩ hay
là chính bạn suy nghĩ.
Có một phương tiện hữu
hiệu là bạn nên chịu một sự thử thách rõ rệt. Giả sử có
một chi tiết trong công việc phụng sự Đức Thầy đòi hỏi những đức
tánh thấp thỏi hơn trong đức tánh đã mở mang (tôi tin rằng trường
hợp này có thể xảy ra, dù theo thường lệ sự hữu dụng của một
người tùy thuộc vào sự tiến hóa của y). Vậy thay vì dùng tài cao
của bạn để hối thúc sự tiến hóa, bạn có bằng lòng gánh vác
việc nhỏ mọn đó và cố gắng hoàn thành nó không? Bạn có bằng
lòng hạ mình để được hữu dụng nhiều hơn không? Được. Nếu bạn
không quên mục đích duy nhất là trợ giúp công việc của Đức Thầy.
Công việc này sẽ đưa đến cho chúng ta tất cả những cơ hội có thể
tinh luyện các Thể Trí hầu làm sao cho chúng trở nên nhanh nhẹn,
linh hoạt và hữu ích. Tuân
theo những ý định này thì những sự tiến bộ của chúng ta sẽ không
có nguy cơ làm cho chúng ta rơi vào tà thuyết của sự chia rẽ. Dưới
thế gian này, chúng ta phải luôn luôn mở mắt ra hầu lợi dụng những
cơ hội mà kẻ khác xao lãng, xem thường. Người đệ tử luôn luôn tìm
những công việc mà kẻ khác không thực hiện để bổ túc những điều
thiếu sót. Một thái độ như thế chứng tỏ rằng sự kiểm soát Cái
Trí đã tiến bộ.
C. W. L.
–
Công nghiệp của Đức Thầy phải chiếm hàng đầu trong tư tưởng của
chúng ta. Nếu chúng ta nhận thấy một tư tưởng, một lý do hoạt
động khác xen vào, thì chính lý do này thuộc về Hạ Trí chớ không
phải thuộc về Chơn Nhơn. Sự khác biệt giữa hai thứ tư tưởng này
rất quan trọng. Thật ra Cái Trí có tính kiêu căng và chia rẽ. Nó
đã xoá bỏ được hết mọi thứ kiêu hãnh đặc biệt của Thế gian ư ?
Thì nó lại làm cho chúng ta kiêu hãnh về sự tiến hóa của chúng
ta, về sự liên lạc giữa chúng ta với Đấng Chơn Sư cao cả, hoặc sự
lợi ích khác tương tợ như thế. Khi chúng ta đã vượt qua được những
nhược điểm này, Cái Trí cố gắng khiến cho chúng ta kiêu căng vì
đã thắng được tánh kiêu căng. Đừng phiền trách tinh chất tế nhị
đó, nó không có ý nghĩ gì về bạn, nó chỉ tìm những thứ rung
động khác lạ cần thiết cho sự tiến hóa của nó mà thôi.
Khi con thiền định, nó cố gắng giục con nghĩ đến những chuyện
khác mà nó cần dùng, chớ không cho con nhớ đến chuyện duy nhất con
đang lo giải quyết. Con không phải là Cái Trí đó, nhưng nó vốn
thuộc về của con để con sử dụng, vậy ở đây sự phân biện rất cần
thiết; con phải giữ chừng luôn luôn, bằng
không con sẽ thất bại.
C. W. L.
–
Bên Ấn Độ, người ta cho rằng Cái Trí là Raja hay là chúa tể của
giác quan, và trong bản thân ta, chính Cái Trí khó trị hơn cả. Về
vấn đề này, chúng ta là người Tây phương, chúng ta ít đồng ý với
người Đông phương, vì chúng ta chuyên lo mở Hạ Trí nên sinh ra kiêu
hãnh về sự nhanh nhẹn của Cái Trí có thể chuyển
từ vấn đề này sang vấn đề khác.
Tuy nhiên nhờ sự cố gắng
bền bỉ, bạn có thể bắt buộc Tinh chất (Cái Trí) này phục tòng
sức mạnh vĩ đại của tập quán. Bạn có thể kềm nó vào trong ngõ
hẹp và làm cho nó hiểu rằng vì bạn là Chơn Nhơn nên bạn không
muốn thay đổi ý định; ý định đó gồm vô số nhánh nhóc, vì tất
cả đều tuyệt nhiên qui về công việc của Đức Thầy. Chẳng bao lâu
Tinh chất kỳ dị và bất kham đó sẽ thấy rằng nó có lợi khi cộng
tác với bạn hơn là chống lại, song nó vẫn không hiểu bạn. Sau
cùng bạn sẽ làm việc với nó trong sự điều hòa, thuận thảo.
CHƯƠNG
THỨ MƯỜI
Khoa pháp môn không hề công nhận sự thỏa thuận giữa việc lành và
việc dữ. Dù với bất cứ giá nào con cũng phải làm việc lành; con
không nên làm việc ác, để mặc tình kẻ dốt nói hoặc nghĩ thế nào
cũng được. Hãy học hỏi cho rộng sâu luật bí ẩn của thiên nhiên;
chừng con biết rồi con hãy tổ chức đời sống của con đúng theo
những luật đó và luôn luôn con phải sử dụng lý trí và lẽ phải.
A. B.
–
Nếu bạn quan sát một cách chân thành thì bạn sẽ thấy đời sống do
những thỏa hiệp mà ra. Con người luôn luôn tránh né điều mà họ
biết là việc lành, họ kinh sợ câu hỏi độc hại hơn hết là: "Người
ta nói thế nào về việc ấy ?" Trong trường hợp nào đó, họ biết
rõ cách giải quyết hay hơn hết, nhưng họ đổi nó ra khác hơn một
chút, họ làm cho nó mất ý nghĩa rồi lùi lại hầu tránh cho mình
những sự khó khăn, phiền phức. Sợ dư luận một phần do tánh yếu
đuối, nhưng thật ra tánh này cũng dễ mến, vì họ muốn làm vui
lòng kẻ khác. Bên Ấn Độ người ta thường có tánh này, nhưng nếu
bạn nhất quyết đi trên Đường Đạo thì bạn đừng bao giờ để cho bạn
chịu ảnh hưởng liên quan đến những nguyên tắc hay những vấn đề quan
trọng như những đại vấn đề Tôn Giáo và xã hội. Ta hãy lấy một
thí dụ về sự cưới gã trẻ con. Lắm khi những việc hôn nhân này
được thực hiện quá sớm. Biết bao lần tôi phản đối trước công
chúng về sự độc ác trong việc bắt một cô gái mới phát triển có
phân nửa, làm mẹ, tôi chống lại hành động này bởi nó nguy hại
đến sinh lực sống lâu của nòi giống. Nhiều người biết điều tai
hại này và công khai nói trắng ra, tuy nhiên họ vẫn phạm vào lỗi
đó, vì nếu họ không làm như vậy thì họ sẽ bị thiên hạ phê bình,
chỉ trích. Người ta không thể làm một nhà Huyền Bí Học với một
thái độ như thế.
Bây giờ chúng ta hãy dẹp
qua một bên những vấn đề căn bản hầu hết liên
quan đến tương lai của một dân tộc, chúng ta hãy xét đến
những vấn đề nhỏ nhặt xảy ra trong đời sống hằng ngày. Ở đây
cũng không nên có sự thỏa hiệp nữa, hãy nhất quyết làm điều nào
mà bạn tưởng là việc lành và giữ vững ý kiến đó. Tôi biết chắc
rằng bạn không thể đạt được lý tưởng ngay tức khắc cũng như người
ta không thể nào bước một bước từ chân núi mà lên tới đỉnh núi
được. Nhưng nếu bạn nhất
định leo lên núi thì phải đi từ bước, mỗi bước đưa bạn đến gần
chót núi. Đừng bao giờ hạ lý tưởng của bạn xuống thấp; không có
chi tai hại bằng điều này. Theo Kinh
Upanishad thì: "Điều thiện là
một việc; thú vui là một việc khác nữa; người minh triết chọn
điều thiện, bỏ thú vui".
Bạn hãy làm thử những
việc nhỏ mọn mà lương tâm của bạn cho là việc phải, việc lành.
Bạn không phải chịu trách nhiệm về điều gì mà lương tâm nói với
kẻ khác, hoặc là cách họ tuân theo nó, nhưng bạn phải chịu trách
nhiệm về cách của bạn tuân theo lương tâm với bất cứ giá nào. Cái
giá đó bạn nên hiểu rõ, nó chỉ bề ngoài. Bạn không thể mất mát
điều gì cả khi mà bạn thực hiện những điều mà bạn xét ra là
điều lành, điều phải. Lẽ tất nhiên, bạn phải cẩn thận để tránh
việc đồng hóa những tánh bất thường, những thành kiến, những thị
hiếu, những sở thích của bạn với điều thiện. Về phương diện này,
Đức Thầy có đưa ra ở đây những lời cảnh cáo như sau: "Con hãy học
hỏi cho rộng sâu những luật bí ẩn của thiên nhiên. Trước hết, con
hãy tìm kiếm điều thiện, rồi thì sống theo những sự
hiểu biết của con".
Cuối đoạn đó, Đức Thầy
còn thêm lời khuyên quan trọng này
". . . con phải luôn luôn sử dụng lý trí và lẽ phải". Luôn
luôn bạn nên quan tâm đến tình cảm của kẻ khác, nhưng đừng bao giờ
để cho nó xen vào giữa bạn và những gì bạn biết là tốt lành.
Nếu bạn phải chọn lựa giữa sự làm mếch lòng kẻ khác và việc
lừa dối lương tâm của mình, thì bạn hãy chọn việc thứ nhất. Trong
sự giao thiệp với người
đời, nhà Huyền Bí Học luôn luôn phân biệt con người thật (Chơn Nhơn)
với thành kiến của các thể khác với nó. Y không làm hại một
người nào, nhưng y thích đụng chạm với những thành kiến của
họ hơn là làm ác. Tuy nhiên y sẽ không đụng chạm đến những thành
kiến đó, nếu không cần thiết. Nhưng nếu bị bắt buộc, y cũng biết
rằng thật ra người đó được giúp đỡ, chớ chẳng bị thiệt hại gì
và chính y là khí cụ được dùng để phá vỡ một sự hạn chế; sự
hạn chế này là một chướng ngại cho người đó. Dù trong trường hợp
ấy, y vẫn hành động một cách êm ái, dịu dàng và vị nễ. Thường
thường người ta cho điều đó là gay go, bất tiện. Nhưng rất khó mà
hoàn thành một việc trong
sự yên tịnh và ánh sáng của lẽ phải; sự cảm xúc mạnh mẽ giúp
cho sự thành công được dễ dàng. Sự cảm xúc dù tốt hay xấu cũng
truyền đạt một sự kích thích lôi cuốn con người hoạt động mà
không cần cố gắng nữa. Nếu bạn muốn trở nên một nhà Huyền Bí
Học thì đừng để bị kích động như người thường. Bạn phải mở mang
lý trí lẫn sự phân biện và trong sự cố gắng đó, bạn
bắt đầu biểu hiện Bồ
Đề Tâm một cách vô ý thức.
C. W. L.
–
Con người thường có lắm thành kiến và họ lại đồng hóa chúng với
điều thiện. Mỗi người đều được đào luyện một cách riêng biệt, họ
không ngờ vực những điều họ đã học hỏi nên họ tưởng rằng những
người không theo phương pháp riêng của họ đều lầm lẫn, nhất là
phương pháp đó được đa số người noi theo. Thường thường những thành
kiến của quần chúng rất phi lý. Vậy chúng ta không nên để chúng
nó ảnh hưởng đến mình trong vấn đề thiện ác. Tôi không nói rằng
trong thành kiến của quần chúng thường không có vài yếu tố hữu
lý, nếu ta xét kỹ, nhưng chắc yếu tố đó không phải lý lẽ của
quần chúng trưng ra mà là một lý lẽ khác. Mảnh Chân lý đó thường
bị biến dạng, bị áp dụng sai vì bởi bị lớp màn dày đặc của sự
lầm lạc bao bọc nó.
Nhà Huyền Bí Học không bao
giờ để bị bắt buộc làm việc sai
quấy vì sợ đụng chạm với những thành kiến của kẻ khác;
trái lại, y cũng không hề công kích chúng nó một cách vô ích. Lý
trí và lẽ phải luôn luôn được sử dụng để xét đoán. Một công việc
yêu cầu bạn cố gắng, vì bạn biết rằng nó hữu ích và quan trọng.
Tốt lắm, nhưng đừng vào thẳng vấn đề như con bò lao mình vào hàng
rào. Có thể con bò chạy thoát ra khỏi, nhưng không phải là không
có sự thiệt hại cho nó và cho hàng rào. Trong mọi hành động của
chúng ta, chúng ta phải giữ thái độ bình tĩnh và hợp lý. Nếu
chúng ta xúc động và nóng giận, thì chúng ta sẽ làm cho một lượn
sóng cảm xúc nổi dậy, nó gây trở ngại cho chúng ta. Rất khó mà
hành động một cách dịu dàng và bình tĩnh, không tỏ ra thù địch
đối phương, song đó hiển nhiên là cách xử sự tốt đẹp.
Đừng để dễ bị kích thích
như nhiều người khác. Họ không chịu nổi điều này hay điều khác;
họ không chịu hiểu và không muốn nhọc công tìm hiểu; họ xông tới
và cũng không nghĩ rằng họ có thể lầm đường. Nhưng chúng ta phải
nghĩ đến kẻ khác, phải quan tâm đến tình cảm của họ và sau cùng
chúng ta có thể chấp nhận rằng trong một trường hợp đặc biệt, họ
có lý, còn chúng ta sai quấy, lỗi lầm.
Phải phân biệt việc trọng hệ với việc không trọng hệ. Đối với
việc lành và việc dữ thì lòng con phải cứng cỏi như sắt đá, còn
những việc ít trọng hệ thì khá nhân nhượng cho kẻ khác luôn luôn.
Bởi vì bao giờ con cũng phải ở cho tử tế, dễ thương, biết điều,
hòa nhã và để cho thiên hạ có quyền tự do bằng quyền tự do mà
con yêu cầu cho con vậy.
A. B.
–
Đây là đoạn văn rất dịu dàng và thật đẹp. Nó làm quân bình đoạn
văn trước, vì nếu tách biệt riêng ra, đoạn trên có hơi cứng rắn.
Vậy những điều mà người ta thường tha thiết nhất, chính là những
điều không quan trọng gì, nhà Huyền Bí Học thường
không làm nghịch với họ, không cản trở họ. Đối với y, điều
quan trọng là một công việc nào đó phải hoàn thành. Y chú định ý
chí của mình vào mục đích chính mà chỉ có nó mới được xem là
quan trọng, ngoài ra cái gì còn lại, y để cho mọi người được tự
do. vì y hòa nhã, dễ dãi với mấy điều đó, nên người ta cho rằng y
là người đệ tử khả ái. Dần dần y dắt họ đến chỗ trọng hệ dễ
dàng mà họ không mấy ngờ vực điều đó. Người đời cho đức tánh ấy
là sự khéo léo, lịch thiệp, còn nhà Huyền Bí Học gọi là Đức
Phân Biện.
Người cuồng tín không biết
đức tánh này nên y thất bại mãi,
trong khi nhà Huyền Bí Học lại luôn luôn thành công. Vì không
phân biệt được việc nào trong hệ với việc nào không trọng hệ nên
người cuồng tín không chịu nhân nhượng ngay cả những việc không ra
gì. Y làm cho những kẻ đối thoại với y bực tức nên họ không chịu
theo y tuy rằng y có lý và mặc dù mục tiêu chính của y thực sự
là quan trọng. Nếu bạn khéo léo, họ có thể ngoan ngoãn theo bạn
cũng như con mèo ngao ngao. Bữa kia tôi quan sát một sự kiện nhỏ
này. Một người đàn ông cố gắng kéo con bò đi tới, tự nhiên con
vật quị bốn chân xuống đất, giỏng đuôi lên và hết sức trì lại.
Nếu người này khôn ngoan, y thôi kéo; con vật cũng không còn trì
lại, rồi y vuốt ve nó và nói vài câu khích lệ nó, y sẽ làm cho
nó ngoan ngoãn theo y. Đây là một bài học quí báu cần phải lãnh
hội. Nếu những kẻ khác không chịu làm theo như ý bạn, thì bạn
hãy tìm nguyên nhân ở nơi bạn. Thường thường bạn sẽ nhận thấy
rằng chính thái độ của bạn làm cho kẻ khác nghịch với bạn. Cách
tôi hành động như vầy. Trong chỗ kia, những hành động của tôi đưa
đến những sự đụng chạm, những sự xích mích và những sự khó
khăn, tôi thong thả suy nghĩ về điều đó để khám phá ra vì đâu tôi
đã gây ra lý sự, rồi tôi cố gắng tìm một phương pháp khác. Phương
pháp này có hiệu quả hơn là bắt kẻ khác đi theo con đường của
bạn. Chắc là bạn có thể ép buộc họ đến một mức độ nào đó,
nhưng theo nguyên tắc thì làm như thế không tốt và trên thực tế sự
chống đối và khó khăn sẽ vì đó mà sinh ra. Điều này chứng tỏ
thiếu hẳn đức tính của nhà lãnh đạo, một năng lực, mà Đức Thầy
muốn chúng ta phải có trong tương lai. Các Ngài mong mỏi chúng
ta biết cách dìu dắt kẻ khác, chớ không phải dùng sức mạnh
lôi kéo họ.
C. W. L.
–
Trong khoảng bảy trăm năm nữa, nhiều người trong chúng ta sẽ có dịp
hoạt động cho sự phát triển của Giống Dân Chính Thứ Sáu. Trong khi
chờ đợi, chúng ta có nhiều việc phải làm để chuẩn bị cho nhân
loại đón tiếp Đức Chưởng Giáo lâm phàm. Khi Ngài đến, vài người
trong chúng ta còn sống và chúng ta sẽ làm việc dưới sự chỉ huy
của Ngài. Do đó, chúng ta
phải có những đức tánh của nhà lãnh đạo, mà trước hết thì nhà
lãnh đạo cần phải khéo léo.
Nhà Huyền Bí Học không hề
bỏ dở một nhiệm vụ quan trọng nào, luôn luôn chung cuộc y sẽ thành
công, mặc dù y có thể thất bại hay tạm thời rút lui. Cuộc cách
mạng Pháp cho chúng ta một
bằng chứng. Những người chủ trương giải phóng cho nước Pháp
không thể kiềm chế nổi cuồng vọng của nhân dân; sự tàn sát
và tội ác tràn lan. Ngôi sao lặn trong máu huyết một thời gian.
Bạn đừng tưởng rằng các
Đấng Cao Cả tán đồng những hành vi phi lý, sự hăng say tàn sát,
sự đê tiện và độc ác không thể tả, sự phản bội, sự
khủng bố, tóm lại là tất cả những sự ghê tởm cùng tột
trong một thời kỳ khủng khiếp này. Quyền hành lọt vào tay một
đám dân đen quá điên tiết bởi sự chuyên chế, áp bức đê tiện và họ
tỏ ra thấp kém hơn loài thú vật. Bạn đừng bao giờ tưởng tượng
rằng các Ngài đang làm việc cho nền văn minh lại tán thành sự tàn
ác lạ thường đó. Tuy nhiên, về sau, các Ngài thành công do một
phương sách khác. Ngày nay nước Pháp và nhiều nước khác đều có
được sự hoàn toàn tự do nhờ dân tộc của họ đã tranh đấu. Tất cả
những cuộc cải cách vĩ đại do các Ngài khởi xướng, tất cả những
công nghiệp khác do các Ngài đảm trách đều diễn tiến như thế. Dù
sự thắng lợi không luôn luôn
đến tức khắc, nhưng sau cùng tất cả đều hoàn thành.
Chính chúng ta phải thực
hiện điều này; đừng bao giờ tự cho mình đã thất bại và lúc nào
cũng cứ thi hành bổn phận. Nhưng
muốn có kết quả tốt, chúng ta phải đạt được nghệ thuật
giúp đỡ kẻ khác một cách khéo léo. Nhiều người thật ưu tú, muốn
sai khiến thiên hạ một cách nghiêm khắc, nhưng đó không phải là
phương sách hay. Phải chỉ cho kẻ khác biết hạnh phúc, sự vui vẻ,
sự vinh quang của tương lai của nhân loại và công nghiệp mà các Đức
Thầy thực hiện; như thế, họ sẽ theo
chúng ta. Nếu bạn
không thỏa thuận với vài người thì bạn hãy tìm kiếm lỗi của
bạn. Bạn đừng bận tâm về những khuyết điểm của họ, dù chúng có
nhiều đi nữa, mà bạn hãy tìm nơi bạn điều gì ngăn cản không cho
bạn phù hợp với họ. Xem xét khá kỹ lưỡng có lẽ bạn sẽ khám
phá ra vài điểm nào đó.
Hãy tìm kiếm coi việc nào đáng làm và con phải nhớ rằng không nên
xét đoán những sự việc theo giá trị bề ngoài của chúng. Thà làm
một việc nhỏ mọn mà hữu ích liền cho công việc của Chơn Sư còn
hay hơn làm một công việc lớn lao mà thế gian gọi là tốt. Chẳng
phải phân biệt cái nào hữu ích với cái nào vô ích là đủ, mà
còn phải biết điều nào hữu ích nhiều với điều nào hữu ích ít.
A. B.
–
Như tôi đã nói, những việc nào thực sự đáng làm thường ít ai lo.
Người ta lại chú ý đến những việc không ra gì. Vậy người đệ tử
có bổn phận tập phân biện để khỏi mất thì giờ khi muốn làm tất
cả những việc vô ích, chúng chiếm hết thì giờ của
người thế gian.
Bây giờ đến một điểm tế
nhị hơn: đừng xét đoán một việc theo tính cách
trọng đại của nó. Về phương diện nhân sinh, những hành vi
của nhà chính trị, có thể rất vĩ đại, nhưng theo quan điểm Đức
Thầy, chúng chẳng quan trọng gì, mà chỉ là hạt bụi trên bánh xe.
Một việc nhỏ mọn kia do một
kẻ vô danh thực hiện có thể vô cùng vĩ đại hơn, nếu nó hoàn
thành phù hợp với công việc của Đức Thầy.
Rồi đến sự
phân biệt còn tế nhị
hơn nữa: là mức độ hữu ích. Bạn không thể làm tất cả công việc,
bạn phải hoàn thành việc
nào mà theo ý bạn nó giúp ích Đức Thầy của bạn nhiều hơn hết.
Những gì giúp ích
nhân loại là phụng sự Đức Thầy, nhưng thì
giờ và năng lực của bạn có hạn, khi bạn có quyền lựa chọn
thì hãy chọn việc hữu ích nhiều hơn cả. Đức Thầy đã đưa ra một
gương kiểu mẫu khi Ngài nói về sự
nuôi dưỡng Linh Hồn
của con người hơn là nuôi dưỡng thân
xác. Giúp đỡ Linh Hồn tức là bạn diệt tận
gốc rễ của mọi đau
khổ ở Trần gian, vì nguồn gốc của chúng nó là sự vô minh và ích
kỷ.
Nuôi kẻ nghèo là một việc tốt đẹp, cao quí và hữu ích. Nhưng mà
nuôi linh hồn những người đó
lại còn cao quí và hữu ích hơn nữa. Người nào giàu cũng nuôi xác
thân được cả, duy có người hiểu biết mới nuôi được linh hồn mà
thôi.
C. W. L.
–
Đôi khi người ta trách Hội Thông Thiên Học không
lo những công việc phước thiện, nhân đạo, như việc phát thực
phẩm và quần áo cho người nghèo. Vài Chi Bộ của chúng ta đã hoạt
động nhiều về mặt này, nhưng đó không phải là công việc
chánh của họ. Người giàu có và nhân từ nào cũng có thể
bố thí, nhưng nhiều việc
chỉ có người hiểu biết mới làm được mà thôi. Có lẽ người ta sẽ
cho rằng chúng ta không được khiêm tốn khi tự cho mình là "những
người hiểu biết", nhưng thật ra chúng ta không hề tự hào về việc
đó. Người ta cũng dễ thấy một nhóm người trung hậu, nhân từ không
hề biết đến Thông Thiên Học, song trình độ trí thức của họ cao hơn
phần đông chúng ta rất xa. Sở dĩ chúng ta đã nghiên cứu những vấn
đề này vì nhân quả đặt để như thế; chúng ta biết nhiều hơn họ vì
họ không tham cứu chúng nó sâu xa. Nhiều
người rất thông minh, có linh tính sùng đạo, nếu họ biết
cách điều khiển tinh lực như
chúng ta, họ sẽ tiến bộ nhanh chóng. Rồi có lẽ họ sẽ tiến hơn
chúng ta; riêng về phần chúng ta, chúng ta sẽ hoan nghinh họ, chúng
ta vui mừng vì sự tiến bộ của họ, bởi vì trên Đường Đạo không hề
có sự ganh tị và mỗi người đều tán thưởng sự tiến bộ của bạn
mình.
Trong khi chờ đợi, những
sự hiểu biết về Thông Thiên Học là
một tài năng lớn
lao để cho chúng ta biểu dương. Nếu chúng ta không truyền bá
những kiến thức đó cho kẻ khác được hiểu biết, chúng ta giữ riêng
để thụ hưởng tất cả; như việc giải thoát những
nỗi lo lắng, khổ đau, hiểu biết
những vấn
đề khó khăn, thì chúng
ta lại bắt chước người đàn ông trong Thánh Kinh Cơ Đốc, y vùi
lấp tài năng y. Nhưng nếu chúng ta hết sức ban rải ánh sáng
mà chúng ra đã thụ lãnh và giúp đỡ mọi người bằng tất cả những
phương tiện, như thế ít ra
chúng ta mới chứng tỏ được tài năng của mình. "Người hiểu biết"
có thể lấy sự hiểu biết của y để nuôi
dưỡng Linh Hồn của
những kẻ nghèo cũng như những kẻ giàu: đó là công việc thực tế,
như việc nuôi dưỡng xác thân trên phương diện vật chất vậy. Đâu là
nguyên nhân của tất cả những sự khốn cùng, đau khổ trên Thế gian
này? Chính là sự vô minh và ích kỷ vậy. Nếu chúng ta chống lại
sự vô minh và tánh ích kỷ bằng cách
trình bày cho kẻ khác hiểu biết những luật của đời sống
và chỉ cho họ thấy tại sao
họ cần phải vị tha, thì
chúng ta đã làm nhiều lắm rồi, đặng bảo đảm sự tiện
nghi và hạnh phúc cho con người trên
cõi Thế gian này, dù cho trên phương diện vật chất, chúng ta
không thể làm được việc đó, bằng cách phân phát lương thực cho họ.
Không ai lại nghĩ rằng điều đó chẳng phải một việc tốt đẹp, cần
thiết và không nên làm. Những nhu cầu hiện nay đòi hỏi
những sự cố gắng của chúng ta, nhưng mà sự
tiêu hủy hết nguyên nhân của mọi sự đau khổ còn là một công
việc lớn lao hơn nữa. Chúng ta phải làm những gì mà những người
chỉ giúp đồng bào họ tại cõi Trần không thể làm được.
Ở mọi thời kỳ mà sự
minh triết và sự hiểu biết có những tiếng nói về vấn
đề này, thì những người hiểu biết được miễn làm những
nhiệm vụ khác để có thời giờ truyền giáo. Nếu bạn có đọc về
những Công Vụ của các sứ đồ Thiên Chúa giáo bạn sẽ thấy rằng
trong nhà thờ Thiên Chúa giáo thuở xưa, tài sản đều là cộng
đồng (của chung) và trong
lúc phân phối lương thực mà gặp điều khó khăn, thì các tín đồ
thường xin các nhà truyền giáo giải quyết những cuộc tranh
tụng và chia phần ăn cho họ. Những vị sứ đồ trả lời rằng:
"Chẳng lẽ chúng tôi bỏ lời Chúa để dọn bàn "[27],
rồi các Ngài nói với các vị Cơ Đốc
khác nên chỉ định trong nhóm những
kẻ đảm nhiệm công việc đó và sự quyết định của họ sẽ
là qui luật, chớ không nên mong chờ ở những nhà sứ đồ việc
lo lắng về phương diện hoàn toàn vật chất của đời sống vì sứ
mạng của các Ngài là trình
bày giáo lý. Lo lắng về mặt vật chất không phải là
điều nên xao lãng,
nhưng mà những kẻ hữu
trách có biệt tài phải
được chỉ định về công việc đó, vì họ không thể dạy dỗ được.
A. B.
–
Vì là Hội viên Thông Thiên Học, chúng ta có những sự hiểu biết mà
người ngoài đời không có. Vậy sự truyền bá Thông Thiên học là bổn
phận duy nhất của chúng ta. Những người trong chúng ta chưa sẵn
sàng làm nhiệm vụ đó như diễn thuyết, viết sách vở hoặc truyền
bá giáo lý bằng những cách nào khác, thì
trong khi chuẩn bị nên làm những công việc thuộc loại khác.
Đối với
những người không thể
truyền giáo, tôi có lập một ban Phụng Sự. Người tân Hội viên
nào cũng có thể hoạt động trong đó, chỉ có
một điều cấm kỵ đối với Hội viên là sự ăn không ngồi rồi.
Mọi người đều phải tích
cực tham gia vào công việc
của Đức Thầy.
C. W.
L.
–
Người ta không thể tưởng tượng được có bao nhiêu người đã đến hay
là đi đến gần tới mức mà họ có thể tiến bộ một cách nhanh
chóng, nếu có thể giải điều đó cho họ hiểu. Tôi để ý thấy điều
đó, trước hết là trong giới trẻ em, vì tôi đặc biệt chăm nom họ.
Tôi thấy hầu hết trong mọi
xứ nhiều bạn thanh niên nam
nữ có thể tiến bộ khả quan về Thông Thiên Học nếu người ta giảng
giải rành rẽ giáo lý cho họ hiểu. Nhưng vì không phải là trường
hợp đó, họ đem hết sức mình lo lắng cho những sự hoạt động ngoài
đời và trở thành những người thật nhân từ, dũng cảm thường tình.
Họ có thể tiếp tục như thế trong hai, ba mươi kiếp hoặc hơn nữa,
mặc dù họ
có thể học hỏi giáo lý Thông Thiên Học và có thiện cảm
với nó nếu giáo lý này được trình bày cho họ một cách rành rẽ.
Đó là sự biểu hiện cái trách nhiệm nặng nề của
những người đã hiểu biết giáo lý Thông Thiên Học. Vậy chúng
ta phải có khả năng và chuẩn bị để
truyền bá Thông Thiên Học, mỗi khi có cơ hội thuận tiện đưa
đến. Nhiều người có thể bắt đầu mở mang sự học hỏi Thông Thiên
Học ngay bây giờ cũng như trong hai mươi kiếp tới. Đành rằng, đó
cũng là vấn đề Nhân Quả của họ,
nhưng chính Nhân quả của chúng ta là tạo ra một cơ hội để
trình bày giáo lý Thông Thiên Học cho họ, còn họ có chấp nhận hay
không là việc riêng của họ. Ngày nào mà chúng ta chưa làm hết sức
mình thì ngày đó chúng ta không thể biết được Nhân Quả của họ có
cho phép họ được trợ giúp hay không.
Nếu con hiểu biết rồi, thì bổn phận của con là phải giúp kẻ
khác giác ngộ. Nhưng dù con có khôn ngoan thế mấy đi nữa, con cũng
còn nhiều điều phải học hỏi trên Đường Đạo. Ở đây cũng còn thiếu
chi điều con phải học hỏi. Vậy con hãy phân
biện và chọn lựa thật kỹ càng cái nào đáng ra công học
hỏi. Sự hiểu biết nào cũng
hữu ích và một ngày kia con sẽ hiểu biết tất cả. Mà khi nào con
biết được có một phần thì con phải giữ gìn sao cho phần đó hữu
ích hơn hết. Đức Thượng Đế vốn minh triết và Ngài cũng rất từ
bi; hễ con được minh triết nhiều chừng nào thì
do con, Ngài càng dễ biểu hiện nhiều chứng nấy. Vậy thì
con phải học hỏi, nhưng trước hết con nên học hỏi điều nào
giúp con hữu ích cho thiên hạ nhiều hơn hết.
C. W. L.
–
Ở đây Đức Thầy khuyên nên học hỏi, nhưng Ngài nói với đệ tử Ngài
phải biết chọn lựa điều nào giúp mình đặng mình giúp đỡ lại kẻ
khác. Tôi tưởng lời khuyên này có nghĩa là trước nhất phải cố
gắng hiểu Thông Thiên Học cho thấu đáo, ngoài ra còn phải có kiến
thức và giáo dục hiện đại của con người trí thức. Tôi biết trong
Hội Thông Thiên Học có nhiều Hội viên không có học thức vì nhiều
lý do khác nhau, nhưng họ rất đúng đắn và rất tận tâm. Họ nói
rằng: "Tại sao chúng ta phải chịu những sự phiền toái của giáo
dục? Chúng ta muốn đi đến chỗ thâm sâu của Chân lý này và trình
bày rành rẽ chúng nó ".
Đúng thế, nhưng mà những người thiếu giáo dục chắc chắn sẽ trình
bày giáo lý ấy dưới một hình thức không phù hợp với những người
có giáo dục và có kiến thức về văn hóa, nên làm cho họ dang ra xa
chúng ta và tránh xa chúng
ta. Tôi nghe nói rằng một người có trực giác đứng trước một vấn
đề trình bày vụng về, y sẽ vượt qua hình thức để nhận lấy Chân
lý ẩn tàng bên trong. Nhưng rủi thay! Không phải mọi người đều có
trực giác và chúng ta không
có quyền nhượng bộ tánh lười biếng của chúng ta để tạo
thêm một chướng ngại cho người nào có
thể ưa thích vấn đề đó: chúng ta có bổn
phận phải trình bày Chân lý hết sức rành mạch.
Con phải kiên tâm chăm chú vào sự học hỏi của con, không phải để
cho kẻ khác tưởng là con khôn ngoan, mà cũng không phải cốt để
hưởng hạnh phúc của sự khôn ngoan, nhưng chỉ vì người khôn ngoan
mới có thể giúp đời một cách khôn khéo. Dù con có chí lớn muốn
giúp đỡ thế mấy đi nữa, nếu con dốt nát thì chắc là con làm hại
đời nhiều hơn là làm lợi.
A. B.
–
Đó là lời khuyên bảo đặc biệt đối với các Hội viên còn
trẻ của chúng ta. Tôi thường gặp nhiều học sinh Trung Học
trẻ tuổi khi tiếp thu được tinh thần mới thì tỏ ra tha thiết muốn
giúp đời và lắm khi muốn thôi học. Họ hỏi: "Sự học này có ích
gì cho chúng tôi”? Trong những trường hợp như thế tôi luôn luôn cho
lời khuyên này: "Em nên tiếp tục học hành, và thành một người trí
thức. Có thể trong những môn học của em có nhiều thứ không quan
trọng mấy, nhưng sự đào luyện trí tuệ là công việc cực kỳ quan
trọng. Đó là điều lợi ích của việc học hành của em, nó sẽ làm
cho Cái Trí em biết suy luận hợp lý và xác đáng. Nếu em không tự
khép mình vào kỷ luật tinh thần đó, sau này công việc của em sẽ
bị trở ngại ".
Chỉ biết giáo lý Thông
Thiên Học thôi thì chưa đủ
đâu. Nếu bạn muốn giúp người khác hiểu biết, bạn phải rèn luyện
trí tuệ để có thể trình bày những Chân lý đó một cách đúng
đắn. Cách trình bày vấn đề của một người phản ảnh ngay sự thiếu
giáo dục của y. Trong những môn của tôi học hỏi trước kia, chỉ có
môn khoa học làm cho tôi đẹp ý hơn hết. Trước hết nó đã giúp tôi
trình bày mọi vấn đề một cách có mạch lạc và hợp lý khiến cho
những thính giả có học thức và có giáo dục chịu nghe tôi. Kế đó
nó đã cung cấp cho tôi nhiều tỷ dụ làm cho thính giả có cảm
tưởng tốt, bởi vì chúng được trích ra từ những đề tài rất dễ
tìm bằng chứng.
Những bậc niên trưởng trong
chúng ta có thể giúp rất nhiều các bạn trẻ tiếp xúc với Ngài;
tránh việc làm nguội lạnh
lòng nhiệt thành của họ, các Ngài giải thích một cách khôn khéo
và tử tế sự quan trọng của việc đạt cho được cái điều
Thế gian gọi là sự
giáo dục. Khi hoạch đắc được những Chân lý cao siêu thì người ta
có hơi xem thường những sự học hỏi ở bậc thấp này. Vì vậy cho
nên Đức Thầy mới nói với người đệ tử trẻ tuổi và việc mở mang
trí thức còn lâu lắm mới
được hoàn toàn như sau: "Con phải kiên tâm
chăm chú vào sự học hỏi của con ".
C.
W. L.
– Lịch sử đã chứng thật cả trăm lần rằng
lời khuyên này là đúng. Nhiều người tử tế, có rất nhiều hảo ý
lại phạm những lỗi lầm rất đau thương, khiến cho hành vi của họ,
dù cho lý do nào, cũng gây ra những tai hại nhiều hơn một sự tấn
công ở bên ngoài. Công việc của Thông Thiên
Học lắm khi bị tổn thương vì những sự trình bày sai lạc và
cẩu thả. Chúng ta không muốn cho thiên hạ nói xấu Thông Thiên Học
vì những lỗi lầm hoặc những khuyết điểm riêng của chúng ta. Nếu
người ta giao cho bạn một công việc nào của Hội mà bạn tỏ ra bất
tài, làm không xong thì hãy làm lại và cố gắng hoàn thành công
việc ấy. Người ta bảo bạn
đọc một bài chăng, nếu bạn tỏ ra bất lực, thì hãy tập đọc cho
suôn sẻ. Nếu bạn không biết
viết một bài diễn văn thì chẳng bao lâu bạn sẽ thành công khi bạn
có đầy đủ kiến thức và chịu khó sắp đặt
đề tài. Trong mọi trường hợp bạn cũng
nên chọn một công việc
và cố gắng làm cho xong xuôi. Vì
là nhà Thông Thiên Học, chúng ta
có bổn phận phải
biết văn phạm và biết cách
nói cho đúng mẹo luật, như vậy chúng ta mới có thể trình bày Chân
lý này một cách hấp dẫn cho những người mà chúng ta muốn giúp
đỡ. Tất cả những Chân lý dù là Chân lý cao siêu nhất, cũng có
thể bị lu mờ bởi một lối trình bày vụng về và sai lệch. Về
phương diện này, chúng ta có bổn phận phải làm hết sức mình. Sự
giáo dục rất cần thiết cho
chúng ta nếu chúng ta muốn trình bày những Chân lý này đúng với
bản tính của chúng.
CHƯƠNG THỨ MƯỜI MỘT
Phải biết phân biện điều chơn với điều giả, phải tập sao cho hết
sức đúng đắn trong tư tưởng, trong lời nói và trong việc làm.
A. B.
–
Chúng ta có thể tự hỏi, nếu chúng ta không noi theo tư
tưởng của Đức Thầy, cũng như lời nói của Ngài, thì tại sao
ở đây lại có lời khuyên bảo này. Sự phân biệt giữa điều chơn và
điều giả chẳng phải đến đầu tiên hay sao? Nếu Đức Thầy chỉ đề
cập đến điều đó ở đây mà thôi là chính vì việc đạt được sự ngay
thật hoàn toàn rất khó. Ngài nói phải tuyệt đối ngay thật và
rất khó mà ngay thật hoàn toàn trong tư tưởng, trong lời nói và
trong việc làm. Như bạn đã chú ý đến điều này, chính là tư tưởng
được kể trước nhất; theo thứ tự Huyền Bí Học, thì tư tưởng đứng
đầu, rồi mới đến lời nói và việc làm. Đức Thế Tôn, Đức Phật
của chúng ta cũng theo thứ tự đó, khi Ngài nói: Chánh tư duy,
chánh ngữ và chánh nghiệp.
Trước nhất là trong tư tưởng. Việc này không phải dễ, vì trong đời
có biết bao nhiêu tư tưởng lầm lạc, có biết bao nhiêu sự dị đoan
phi lý, hễ người nào để cho chúng chi phối thì không bao giờ tiến
bộ được.
C. W. L.
–
Chúng ta tưởng rằng trong Thông Thiên Học; chúng ta đã xóa bỏ hẳn
được sự dị đoan. Tôi không dám chắc là luôn luôn đúng như thế. Tôi
thấy hình như một sự dị đoan về Thông Thiên Học vẫn có thể phát
sinh. Ai tin một điều nào đó "bởi vì nó ở trong Thánh Kinh Cơ Đốc
(Bible)" chắc chắn là y mê tín, vì sự tin tưởng của y không có một
nền tảng thích đáng. Mà khi nói rằng: "Chính Bà Blavatsky đã nói
như thế" hoặc "Cái đó có
ghi trong Bộ Giáo Lý Bí Truyền",
thì cũng không thoát khỏi sự mê tín. Nhưng có một sự khác biệt,
bởi vì chúng ta có nhiều bằng cớ về sự hiểu biết của Bà
Blavatsky do Bà thốt ra hơn là sự hiểu biết của Thánh Paul hoặc
những tác giả xưa chẳng hạn. Nhưng đây không phải là vấn đề do Bà
Blavatsky nói hay do Ông Saint Jacque hoặc Ông Saint Pierre nói. Chúng
ta phải hiểu một tư tưởng, rồi tự đồng hóa với nó, vươn lên tới
nó và để cho nó nẩy nở trong lòng chúng ta. Ngày
nào chúng ta còn đọc suôn như con két, thì ngày đó những ý
niệm này là những sự dị đoan
vậy. Tin tưởng vào một Chân lý có thể là một sự dị đoan,
nếu sự tin tưởng đó không có một nền tảng đúng đắn cũng như căn
cứ vào lời quả quyết của tác giả này hay tác giả nọ. Khi ý
niệm đã thắm nhuần trong tâm trí của chúng ta rồi, chúng ta có
thể nói được rằng: "Nó là thành phần của tôi; nó thuộc về tôi;
tôi biết tại sao tôi tin; do đó sự tin tưởng của tôi sáng suốt chớ
không phải là điều dị đoan ". Tôi e rằng, có nhiều sự tin tưởng
không khôn ngoan về Chân lý trong nhiều trường hợp.
A. B.
–
Rất khó cho con người thoát hẳn sự dị đoan và không còn lấy sự
phụ thuộc làm điều chính yếu nữa (như thế cũng là sự
dị đoan). Trước khi được Điểm Đạo lần thứ Nhứt, con người
chưa ắt bỏ được hẳn thói dị đoan. Điều này chứng tỏ rằng sự dị
đoan là một ý kiến sâu xa
và tế nhị đã thắm nhuần trọn vẹn bản tánh con
người. Đức Thầy nói: "Ai để cho thói dị đoan chi phối thì
không thể tiến hoá được".
Lời tuyên bố thật rõ ràng, nhưng chúng ta hãy lưu ý đến chữ "chi
phối". Đức Thầy không nói một người dị đoan
ít hoặc nhiều không thể tiến hóa được, mà Ngài nói kẻ nào
bị sự dị đoan chi phối mới không thể tiến hóa được. Không có chi
lôi kéo con người lại đàng sau như thói dị đoan. Chúng ta biết có
lắm người tử tế, mộ đạo,
nhơn từ, sống một cuộc đời gương mẫu cho sự
tốt lành và đúng đắn thận trọng nhưng họ lại là những
người mê tín. Họ chỉ cho những lễ bái, những nghi thức cùng cách
hành động
của họ là quan trọng, trong khi tất cả các thứ này không có
gì là thiết yếu cả.
Ta hãy lấy việc làm nhằm
trợ giúp những người quá
vãng làm thí dụ. Những người Công Giáo La Mã làm lễ cầu hồn;
cũng ý nghĩa đó, người Ấn
Độ lại làm lễ Shraddha; mục đích của cả hai là muốn giúp người
quá vãng. Hai cách hành lễ đều công hiệu dù dưới hình thức rất
khác nhau. Tuy nhiên, người Ấn Độ cũng như người Công Giáo, nếu bị
lệ thuộc những hình thức
này thì họ sẽ là người mê tín dị đoan. Ý muốn tốt đẹp và sự
trang nghiêm cùng lòng thương mến người quá vãng mà cả hai biểu lộ
trong việc hành lễ, đó là điều qui định cái kết quả. Ý muốn tốt
đẹp là căn bản, nhưng tính
cách đặc biệt của hình thức bên ngoài là điều phụ thuộc, hình
thức phản ảnh ý muốn bên trong có tính cách địa phương và không
quan hệ gì. Hình thức bên
ngoài tùy thuộc sinh quán của bạn, bởi vì bạn sinh vào một Tôn
giáo nào, một chủng tộc nào hay một nơi đặc biệt nào đó. Bạn
phải thoát ra khỏi tất cả những sự mê tín trong các nghi thức,
trong các việc lễ bái, cũng như trong sự công hiệu của những hình
thức thuần túy bên ngoài. Trong một thời gian rất lâu, sự tín
ngưỡng đó đã tỏ ra rất quan trọng và có ích lợi thiết thực. Chỉ
có nó mới diệt trừ được sự uể oải, tính cẩu thả và lãnh đạm
ở con người thôi. Những hình thức bên ngoài này chỉ là những
chiếc nạng cần thiết cho những người còn chưa bước đi một mình
được. Khi bạn có thể không cần những nạng này nữa, thì bạn hãy
dẹp chúng nó qua một bên.
Bởi vậy con chớ cho một ý kiến nào là đúng đắn chỉ vì nhiều
người đã cho nó là dúng đắn hay là tại thiên hạ đã xét đoán nó
trong nhiều thế kỷ rồi, hoặc là thấy nó trong một cuốn sách mà
người ta gọi là sách thánh, con phải dùng sự xét đoán riêng của
con và con phải xem coi ý kiến đó có hữu lý hay không?
C. W. L.
–
Những lời này của Đức Thầy Kouthoumi. Cách đây hai ngàn năm trăm năm
chúng nó vốn lời của Đức Phật Cồ Đàm,
khi người ta hỏi Ngài: "Bạch Phật, có biết bao nhiêu vị Giáo
Chủ, biết bao nhiêu giáo lý đã trình bày cho chúng tôi! Tất cả
dường như tốt đẹp hết, làm
sao biết được cái nào hay nhất? Làm sao chọn lựa"? Kinh Kalama
Soutta de l'Angouttara Nikaya
có chép câu trả lời của Phật như sau:
Đức Phật nói: "Không nên
tin một điều nào chỉ vì nó được xác
nhận suông. Đừng tin những tập tục, vì lẽ chúng nó từ ngàn
xưa truyền lại cho chúng ta. Đừng tin những lời đồn đãi. Đừng tin
sách vở của các vị Thánh
Hiền bởi vì lẽ các Ngài là tác giả mấy quyển đó. Đừng tin
những sự tưởng tượng mà chúng ta cho rằng do một vị Thần minh đã
giác ngộ chúng ta (nghĩa là phỏng đoán một sự linh cảm). Cũng
đừng tin những kết luận do chúng ta bất ngờ giả định. Đừng tin
cái gì do một sự cần thiết tương tợ bề ngoài. Đừng tin chỉ vì
sự uy tín suông của các vị Huấn Sư hoặc Tôn Sư của chúng ta. Nhưng
chúng ta phải tin, khi sách vở, giáo lý hay châm ngôn được lý trí
và lương tâm của chúng ta xác nhận". Đức Phật kết luận : Bởi vì
chính đó là điều ta dạy các con . Các con chớ nên tin điều
chi chỉ vì các con đã nghe nói suông. Nhưng nếu đức tin của các con
căn cứ trên sự tin chắc riêng của các con thì các con hãy hành
động và hãy cố gắng hết sức "
[28].
Một trong những việc thực tập mà Đức Thầy bắt buộc các đệ tử
của Ngài phải làm là tìm xem điều gì họ thật biết và điều gì
mà họ chỉ tin theo thôi. Một việc làm rất tốt là ghi chú phần
kiến thức nào chúng ta được phép nói rằng nó thuộc về quyền sở
hữu thật sự của chúng ta, còn phần nào thuộc về chúng ta
chỉ vì chúng ta đã hoàn toàn thấu
hiểu và công nhận nó, cuối cùng phần nào mà chúng ta đã
thu lãnh của kẻ khác, gần như không kịp suy nghĩ. Con người luôn
luôn sinh ra trong một Tôn Giáo cũng như họ sinh ra trong một
xứ sở nào đó. Đối với nhiều phong tục thì qui tắc vẫn giống in
nhau. Chẳng hạn như muốn ăn cơm tối trong thành phố thì phải ăn mặc
một cách đặc biệt. Đó là một tập quán và không ai muốn vi phạm
đến một vấn đề không quan trọng gì, mà trong đó cũng không có
việc liên quan đến sự lành hay dữ.
A. B.
–
Đây là một việc thực tập rất hữu ích cho bạn, nếu thỉnh thoảng
bạn quan
sát nội dung Cái Trí và trước hết ghi chú coi tất cả những
điều mà bạn tin, vì lẽ nhiều người đã tin như vậy; hai là, tất
cả những điều bạn tin vì lẽ chúng là những tín ngưỡng thuở xưa;
ba là, tất cả những điều bạn tin, vì lẽ chúng được ghi chép trong
Thánh kinh. Sau khi loại trừ ba loại này ra rồi, bạn hãy ghi nhận
cái nào còn lại. Như thế bạn sẽ nhận thấy thật sự những tín
ngưỡng của bạn căn cứ trên nền tảng nào? Chính đây là một trong
những thắng lợi, đã trải qua trong giai đoạn tự do tư tưởng như tôi
đã thực hiện điều đó. Phải có kinh nghiệm rồi mới thật hiểu thế
nào là hy sinh tín ngưỡng đạo đức mà từ
trước đến giờ mình đã cho là chân thật; thế nào là sự đổ
vỡ cuối cùng, khi mà miếng đất dưới chân chúng ta sụp mất. Tôi
suýt chết vì việc đó; thân thể tôi đã rũ
liệt trong nhiều tuần. Nhưng sau khi đã kinh nghiệm triệt để
như thế rồi, thì không cần một kinh nghiệm nào khác nữa. Do đó,
khi tôi học
hỏi giáo lý Thông
Thiên Học, mặc dù trong thâm
tâm tôi, tôi tuyệt đối tin chắc đi nữa, tôi cũng phải bắt Cái Trí
tôi thí nghiệm lại tất cả những ý niệm mới mẻ này.
Con hãy nhớ rằng dù cho cả ngàn người đồng tán thành một vấn đề
nào đi nữa, nhưng nếu họ không biết chút gì trong đó cả, thì ý
kiến của họ vẫn vô giá trị.
C. W. L.
–
Đây là điều mà thế giới hiện tại khó lòng hiểu được. Hiện giờ
người ta tưởng rằng cứ tích lũy sự dốt nát thì cuối cùng sự
hiểu biết sẽ nảy sanh ra. Nghĩ như thế là sai lầm vậy. Những kẻ
dốt nát phải nhờ người hiểu biết dắt dẫn.
A. B.
–
Về vài phương diện, một số sách vở lớn lao của chúng ta là một
điều bất tiện, tệ hại. Nó khuyến khích chúng ta đọc không suy
nghĩ, khiến cho Cái Trí trở nên nông cạn và hay thay đổi. Do đó
luôn luôn tôi khuyên người ta nên đọc ít rồi mô phỏng lại đoạn đã
đọc, chẳng phải bằng trí nhớ, nhưng bằng sự hiểu biết hoàn toàn
vấn đề. Điều gì đã thuộc về bạn khi nào nó đã được Cái Trí
của bạn đồng hóa. Muốn được như thế, bạn phải suy nghĩ và hiểu
biết tường tận những gì bạn đã đọc hoặc nghe. Không vậy, bạn
càng đọc nhiều chừng nào
thì bạn càng trở nên dị đoan nhiều chừng nấy. Bạn cứ thêm những
tín ngưỡng mới vào những tín ngưỡng cũ của bạn mà không có cái
nào được căn cứ trên một nền
tảng vững chắc.
Tôi có một người giúp
việc rất dở về kế toán. Mỗi lần y tính lộn, y bắt đầu
làm lại một cuốn sổ mới với hy vọng sắp đặt lại cho có
thứ tự. Hiện nay cũng thế,
nhiều người luôn luôn đòi hỏi sự mới lạ vì những sự hiểu biết
nông cạn mà họ đã thu thập không làm cho họ thực sự thỏa mãn.
Những người trong nhóm hội viên chúng ta đi đâu cũng lấy những tác
phẩm của Đức Giám Mục Leadbeater hoặc của tôi làm dẫn chứng cũng
là những người mê tín dị đoan vậy. Những sự kiện họ kể ra có
thể rất đúng, nhưng chúng không đúng đối với họ, vì nếu họ thật
hiểu chúng, họ không cần
dựa vào uy tín của chúng tôi. Nếu họ muốn lấy chúng tôi làm dẫn
chứng, thì họ phải xem lời nói của chúng tôi như là những ý kiến
cá nhân và không nên tìm cách ép buộc ai nghe theo cả. Trên đời chỉ
có một uy quyền mà thôi : Đó
là sự Minh Triết.
Người nào muốn đi trên Đường Đạo thì phải tập tự mình tư tưởng,
vì thói dị đoan là một trong những tai hại lớn nhất trên thế gian.
Một trong những chướng ngại phải hoàn toàn diệt trừ mới được.
C. W. L.
–
Sự dị đoan là một sức mạnh
lớn lao và tế nhị. Nó hiển
nhiên là chướng ngại thứ ba trên Đường Đạo mà con người cần phải
dứt bỏ, sau khi đã được Điểm Đạo lần thứ Nhứt; tiếng Nam Phạn
(Pali) gọi nó là Silabbataparamasa,
nghĩa là: "Đức tin căn cứ vào sự công hiệu của nghi thức hay là
lễ bái bất cứ loại nào ".
Điều nào con tưởng cho thiên hạ cũng phải thật đúng. Con không nên
tưởng cho kẻ khác điều nào mà con không biết rằng
quả có thật như vậy.
C. W. L.
–
Nếu điều của chúng ta nghĩ về kẻ khác chỉ là giả tưởng (ức
đoán) thì chắc chắn tư tưởng của chúng ta bất cứ về phương diện
nào cũng là lý luận thuần túy. Thật ra, chúng ta biết rất
ít về những người ở gần mình nhất, và chúng ta còn biết
ít hơn về những người mà chúng ta gặp gỡ một cách ngẫu nhiên;
nhưng người ta không ngớt ngồi lê đôi mách, lắm chuyện lắm lời vô
ích về những
hành động, những lời nói và những tư tưởng của thiên hạ.
May thay, một phần lớn những điều này vẫn hoàn toàn sai lạc.
A. B.
–
Những dư luận về kẻ khác thường sai lầm. Chúng ta chỉ có thể
phán đoán chính xác về một người nào khi chúng ta thật biết y,
thấy và hiểu được tư tưởng của y. Phần đông người đời
chưa đạt được trình độ hiểu biết đó. Tuy nhiên, ý kiến của
họ về mấy kẻ khác đã
quyết định rồi. Luôn luôn họ xét đoán mấy người này và không biểu
lộ trong tư tưởng một chút
nhân từ nào cả.
Sau đó một chút, Đức Thầy
có nói rằng: "Con đừng bao giờ cho kẻ khác có ý muốn này hay ý
muốn nọ". Lời khuyên này hết
sức quan trọng, nếu nó được người đời tuân theo, thì phân
nửa sự thống khổ của Trần gian sẽ bị tiêu diệt. Nếu có ai làm
một việc mà bạn không hiểu
được, bạn hãy để cho y làm, đừng bịa ra những lý do. Lý do hành
động của y, tất nhiên bạn không hiểu được, nhưng bạn
lại tìm một lý do, thường thường thì không mấy tốt đẹp rồi
bạn kết nó vào sự hành động, và sau cùng bạn khiển trách kẻ
khác về cái điều mà chính
là bạn đã tưởng và đã làm ra. Khi qui
cho kẻ khác những lý do như thế, con người tăng cường mãnh
lực xấu có thể đang hoạt
động trong trí của kẻ bị chỉ trích, hoặc nếu kẻ ấy chưa có mầm
xấu thì họ lại làm cho nó nảy sinh. Đấng Christ có
nói: "Chớ khá đương đầu với kẻ hung ác "[29].
Lời này có thể đem áp dụng cho trường hợp kể ra đây. Không phải
bổn phận của chúng ta là tìm điều xấu trong Trí Thiên Hạ để diệt
trừ; hãy cô lập sự xấu. Nó sẽ tự tiêu hủy.
Con đừng tư tưởng rằng thiên hạ hằng nghĩ đến con luôn luôn.
C. W. L.
–
Điều này xảy ra mãi mãi: tất cả những gì của kẻ khác làm hay
nói, chúng ta cũng đều cho rằng liên hệ đến chúng
ta cả. Bởi chúng ta luôn luôn nghĩ đến mình nên chúng ta
tưởng tượng rằng kẻ khác cũng phải nghĩ đến chúng ta. Nếu chúng
ta luôn luôn nghĩ đến mình, thì muốn cho hợp lý, chúng ta phải
tưởng rằng kẻ khác cũng luôn luôn nghĩ đến chính mình họ vậy,
chớ không phải nghĩ đến chúng ta. Con người tự đặt mình vào trung
tâm của cái vòng tròn của họ, mọi tư tưởng, mọi cảm xúc của họ
đều quay cuồng theo vòng tròn và họ xét đoán mọi sự theo phản
ứng của chúng đối với họ. Họ cứ chạy theo vòng tròn chung quanh
họ. Nhưng không phải như thế đâu. Mỗi người tự nhốt mình trong vòng
tròn của mình - chắc chắn vòng tròn này cũng lẩn
quẩn như những vòng tròn khác. Trong chín phần mười những
trường hợp mà con người bất bình về hành vi và lời nói của kẻ
khác có lẽ đều phát sinh từ
ý niệm này.
Nếu một người kia làm điều
gì mà con tưởng là có hại
cho con, hay là nói một chuyện nào dường như có can hệ tới con,
thì con chớ vội nghi rằng: "Người đó có ý nhục mạ tôi ". Có lẽ
đúng hơn, là người đó không nghĩ đến con chút nào, vì mỗi linh
hồn đều có những việc lo lắng riêng, và thường thường chỉ lo cho
một mình mình thôi. Nếu có người nào nói với con giọng quạu quọ,
thì con chớ tự nói rằng: "Người đó ghét tôi và muốn nhục mạ tôi
". Có lẽ vì một người nào hay một việc chi đó làm cho y giận và
bởi y gặp con, nên y mắng con xối xả cho đã nư giận. Người đó làm
chuyện điên cuồng, vì sự giận hờn nào cũng là sự điên cuồng cả,
nhưng không phải vì lẽ đó mà con nghĩ quấy
cho y.
C. W. L.
–
Chính đó là lẽ phải, nhưng rất ít người thực hành! Khi tôi còn
là Mục Sư của Giáo Hội Anh Cát Lợi, có lần tôi thuyết về sự thử
lòng hay sự cám dỗ mà tôi nghĩ rằng có thể xảy ra cho những tín
đồ nông dân hay thợ thuyền, họ là những con chiên của tôi. Tôi trình
bày tại sao phương thức hành động nào có thể đem đến vài hậu quả
tai hại. Sau lời thuyết pháp, một người nông dân giận dữ đã xông
vào Thánh Đường và hỏi tôi vì cớ gì tôi đưa y ra làm đối tượng
cho bài thuyết giáo của tôi. Thật thế, kẻ bất hạnh tự bộc lộ tâm
trạng của y tức khắc. Tôi không bao giờ ngờ y có thể phạm phải
hành vi đặc biệt này, nhưng hiển nhiên, nó là một mối ưu tư mà sự
quan sát của tôi đã chạm vào đó. Đến nay tôi vẫn còn tin rằng
người ấy quả quyết rằng tôi nhận rõ y trong đám thính giả và đưa
y ra làm đề tài cho bài thuyết giảng của tôi.
Trong sự sống chung đông đúc
này, không thể tránh khỏi được những sự đụng chạm đến một mức
độ nào đó. Cho mấy điều này
là quan hệ hay là trọng đại, thật vô
ích. Khi đi đường trong một đô
thị lớn, chúng ta thấy hàng ngàn người đều bận rộn công
việc riêng của họ; họ đi đường họ, không nghĩ gì đến kẻ khác đang
qua lại. Đôi khi không thể tránh khỏi sự
xô lấn, nhưng không ai tưởng rằng mình bị xúc phạm nên nổi
nóng, vì thái độ đó thật buồn cười. Trên phương diện lý trí và
tình cảm cũng xảy ra những sự đụng chạm như thế. Trong những đám
đông đều luôn luôn có sự va chạm về mặt lý trí và tình
cảm. Chúng ta hãy xem những sự việc này giống như điều mới
nói ra đây, tức là hiểu rằng kẻ đã giẫm chân trên Thể Trí của
chúng ta không hề cố ý chút nào, và y chỉ đi theo con
đường của y chớ không nghĩ đến chúng ta.
Chúng ta đừng quan trọng
hóa những sự đụng chạm nhỏ nhen đó, cũng như những sự xô lấn
hằng ngày ngoài đường phố.
Khi chúng ta để ý đến
cách của kẻ khác chăm chú vào những quyền lợi của họ,
chúng ta cũng có bổn phận coi chừng, đừng cho chúng ta say mê những
quyền lợi của chúng ta cho đến đỗi chúng ta quên những cử chỉ lễ
độ, nhã nhặn để làm cho đời thêm tươi đẹp.
Người Thông
Thiên Học
phải khác
hơn người thường bởi sự lễ độ cũng như sự an tịnh và bình
thản luôn luôn. Các bạn hãy ở cho dễ thương, hãy kiên nhẫn. Người
ta rất vội vàng mà người ta cũng không thiếu thì giờ để tỏ ra
mình là người tử tế và có tình
huynh đệ. Chớ để cho những triều lưu nóng giận lôi cuốn
chúng ta do những dây thần kinh quá căng thẳng và thường xảy ra
trong thời buổi xáo trộn
của chúng ta.
A. B.
–
Lời khuyên của Đức Thầy ở đây thật rất sáng suốt, khôn khéo. Chớ
nên nghĩ rằng mọi người đều nhớ đến bạn vì lẽ
bạn vẫn nhớ đến họ. Mấy kẻ khác cũng nhớ đến
họ chớ không hề nhớ đến bạn đâu. Họ lo lắng công việc riêng
của họ cũng như bạn lo lắng công việc riêng của bạn. Nhiều nước
sẽ được hạnh phúc hơn nếu người ta chịu chấp nhận và đem thực
hành ý niệm này. Nếu một người kia chạm phải bạn trong
cuộc sống náo nhiệt và xáo trộn này, thì bạn chớ tưởng
rằng y tìm cách hại bạn, hoặc có tư
ý gì đối với bạn. Trừ ra khi nào bạn chắc chắn rằng người
ta muốn hại bạn, thì tốt hơn bạn nên nghĩ trái ngược lại là không
có điều đó.
Một người nói với bạn
giọng giận dữ, nếu lúc đó bạn nhớ đến điều cần thiết là đừng
gán cho y thái độ thù nghịch và đừng nổi nóng như y, thì bạn sẽ
tiến nhanh trong vấn đề tự chủ. Thường thường sau cơn giận người ta
mới nhớ. Một người đã tự chủ hoàn toàn, thì cho đến chút tình
cảm nóng giận cũng không nảy sinh ra nữa. Dầu thừa nhận rằng kẻ
đối thoại với bạn sai quấy, lỗi ấy chỉ do sự yếu đuối mà ra, kẻ
chí nguyện làm người Huyền Bí Học chớ nên quên bổn phận mình
phải nhân từ trước sự yếu đuối của kẻ khác. Ta nên nhớ
rằng cử chỉ giận dữ hay câu trả lời cộc cằn và gay gắt
của một người nào thường là dấu
hiệu bộ thần kinh của y bị căng thẳng quá độ bởi sự xao
xuyến, lo âu ; y quá yếu đuối nên không thể chịu nổi một sự
cố gắng mà không tỏ ra phản ứng gì. Thần kinh của y căng
thẳng cực độ; đó là lý do khiến y hành động như thế.
Theo lời Đức Thầy, người
ấy hành động điên cuồng. Quả đúng như thế, nhưng chúng ta hãy khoan
thứ cho y. Chính vì thế đa số những sự khó khăn nhỏ mọn nảy sinh.
Một sự căng thẳng khó chịu
khiến cho chúng ta nổi nóng trước hầu hết mọi việc. Bạn hãy nghĩ
đến bao nỗi bận tâm đang chi phối Thế gian, lo lắng về mọi
thứ quấy nhiễu và hành hạ con người. Đành rằng chúng ta không
biết được những nỗi khó nhọc của những kẻ sống chung quanh ta, vì
không người khôn ngoan nào lại thuật
cho bất cứ ai biết những nỗi khó khăn
của mình. Cái tư cách tầm thường cũng không cho phép người
ta làm như thế. Nhưng nếu chúng ta nhớ đến những nỗi khó khăn này
và quan tâm đến chúng thì chúng ta sẽ đạt được sự yên
tĩnh hoàn toàn, nó là mục tiêu của Đức Thầy trong những
bài này.
Chừng con làm đệ tử Chơn Sư rồi, con có thể thấy được tư tưởng
của con đúng đắn hay không, khi con so sánh nó với tư
tưởng của Ngài. Bởi vì Thầy với trò vốn là một và trò
chỉ cần đem tư tưởng của y kề với tư tưởng của Thầy, thì y sẽ
thấy hai tư tưởng có phù hợp với nhau hay không. Nếu như không thì
tư tưởng của trò đã sai lầm và y phải lập tức sửa đổi vì tư
tưởng của Chơn Sư vốn trọn lành, bởi
Ngài thông hiểu hết mọi việc.
A. B.
–
Một đệ tử chánh thức luôn
luôn có thể xác định giá trị của tư tưởng
của y, khi y đặt nó cạnh tư tưởng của Đức Thầy. Nếu y cảm
thấy một sự rung động không điều hòa, thì y biết rằng tư tưởng
của y chẳng có giá trị gì cả. Nếu lấy một sự tương tợ ở cõi
Trần mà nói, thì đó cũng như là một cung đàn lỗi nhịp. Người đệ
tử không cần làm cho Đức Thầy chú ý đến mình. Y chỉ để tư tưởng
của y bên cạnh tư tưởng của Ngài. Nếu y thấy có dấu hiệu sai lệch
thì y liền vứt bỏ tư tưởng
của y và tức khắc cố gắng lập lại sự hòa hợp giữa tư tưởng của
y với tư tưởng của Đức Thầy. Người đệ tử không lý luận, không tìm
cách cho rằng dù sao có lẽ tư tưởng của mình cũng đúng; vì nếu
nó sai quấy, thì sự sai lầm hiện ra tức khắc. Trước
khi được Đức Thầy thâu
nhận làm Đệ Tử Chánh Thức thì
không thể hành động
như thế được, và đối với
nhiều người chí nguyện thì điều này là một sự khó khăn. Bởi Tâm
Thức của đệ tử phải hòa hợp làm một với Tâm Thức của Đức Thầy,
cho nên Ngài không nhận một người nào mà tư tưởng của y buộc Ngài
phải làm một tấm vách để ngăn nó với tư tưởng của Ngài.
C. W. L.
–
Người ta nói rằng người đệ tử làm một với Đức Thầy. Điều này
đúng trong một ý nghĩa mà chỉ có Đức Thầy mới hiểu trọn vẹn.
Người đệ tử cũng hiểu như
thế, song y chỉ hiểu một cách bất toàn. Phải giao tiếp đặc biệt
với Đức Thầy, như thế mới hiểu
được sự hiệp nhất này mãnh liệt là dường nào. Người đệ
tử phải trở
thành một tiền đồn của Tâm Thức của Đức Thầy. Y liên
hệ với Ngài cũng gần giống như Phàm Nhơn thuộc về Chơn Nhơn.
Chơn Nhơn cho một phần nhỏ của mình (danh từ phân thân không đúng
lắm, nhưng nó còn đúng hơn chữ phản ảnh) xuống mấy cõi dưới,
sống theo những điều kiện đặc biệt ở đó, nơi mà ba thể: Xác,
Vía, Trí tốt hơn hết của con người chỉ biểu lộ được Chơn Nhơn một
cách thật hết sức bất toàn
. . Điều này sẽ phấn khích
chúng ta, mỗi khi chúng ta cảm thấy mình
nản chí trước tất cả những sự yếu
đuối của chúng ta tại cõi Trần. Người ta có thể
tự nói: "Dù trong
trường hợp nào, Chơn Nhơn cũng cao cả hơn mấy điều đó. Vậy tôi
không có lý do gì để thất vọng. Tôi chỉ cần tăng thêm một chút
sức mạnh của tôi trong sự hiểu biết thấp thỏi này để biểu lộ
bản tánh thật sự của tôi ở cõi trên một cách tinh túy hơn; thế
là những tật xấu của tôi sẽ giảm dần".
Cũng thế, người đệ tử
không những là đại diện của Đức Thầy, mà còn quả là Đức Thầy
thực sự; nhưng là Đức Thầy đang bị bao vây bởi những sự hạn chế
kinh hồn; nhưng hạn chế này chẳng những thuộc về những cõi thấp
mà còn thuộc về Phàm Ngã của người đệ tử chưa bị hoàn toàn chế
ngự. Nếu Chơn Nhơn của người đệ tử đã triệt để làm chủ được các
thể thấp, chúng trở thành những phản ảnh hay những biểu hiện của
các thể cao, thì nó có thể biểu lộ những đặc tính của Đức Thầy
hoàn toàn hơn. Nhưng vẫn còn một sự hạn chế mà người ta gọi là
"vóc vạc" của y, người đệ tử là một Chơn Nhơn nhỏ bé hơn Đức
Thầy; y nối gót theo Thầy, và do đó y chỉ có thể đại diện
cho Ngài một phần nào mà thôi. Tuy
nhiên dù người đệ tử có tư tưởng nào, thì chúng cũng đều
có ở trong Thể Vía và Thể
Trí của Đức Thầy.
Một phần cũng vì lẽ đó
mà các đệ tử phải chịu trải qua một thời gian Nhập Môn,
trong thời gian này hình ảnh
sống của người Đệ Tử Nhập
Môn luôn luôn ở dưới mắt Đức Thầy. Đức Thầy muốn biết chính xác
tư tưởng, tình
cảm của người đệ tử tạm thời đó; nếu không vậy, Ngài có
thể thấy Thể Vía và Thể Trí của Ngài luôn luôn bị tràn ngập bởi
những tư tưởng và tình cảm của người đệ tử, chúng bất hòa với
công việc của Ngài đang mãi bận lo . . . Chỉ sau khi quan sát một
thời gian khá lâu và nhận thấy rằng những tư
tưởng và những tình
cảm bất đồng của thí sinh còn
rất ít, Ngài mới thu nhận
y vào hàng
môn đồ, và làm cho y trở thành một phần tử của Ngài.
Tuy nhiên, Đức Thầy cũng
còn phòng hờ để tùy tiện tạo một bức màn chận ngang giữa Tâm
Thức của Ngài với Tâm Thức của đệ tử; vị này tha thiết muốn
không có sự phân cách nào làm gián đoạn sự hiệp nhất đó; nhưng ở
cõi Trần chúng ta hay lỗi lầm và thường
thường chúng ta có tiếp thu một tư tưởng hay một
tình cảm bất chánh nào đó, Đức Thầy không thể chấp nhận
cái đó được, Ngài điềm nhiên tự vệ, thật ra, về sau, đến một lúc
kia Đức Thầy hủy bỏ luôn luôn bức màn ngăn ngừa kia, đó là lúc
Ngài nhận người đệ tử vào
hàng "Con" của Ngài. Nhưng Ngài chỉ nhận như thế là khi nào
Ngài hoàn toàn chắc chắn không còn cái chi
phải loại ra nữa.
Nhờ sự kết hợp mật thiết
với Tâm Thức của Đức Thầy như thế, người đệ tử có thể đặt tư
tưởng của y kế bên tư tưởng của Ngài. Đệ tử không cần làm cho Đức
Thầy chú ý đến y, vì y không thỉnh cầu ý kiến
của Ngài trong vấn đề
đang lo lắng, y chỉ nhờ sự hiệp nhất này, mà biết được tư tưởng
của Ngài đối với vấn đề đặc biệt đó. Các bạn sẽ hỏi: Vị đệ
tử phải làm thế nào? Có nhiều cách, tùy theo mức độ của sự
hiệp nhất này: người đệ tử tạo ra trong trí mình hình ảnh rõ
rệt của Đức Thầy , rồi dùng tất cả sức mạnh
nâng tâm hồn mình lên đến tận hình ảnh này; y hiệp nhất với
nó, đoạn phát triển rõ ràng tư tưởng của mình, rồi xem coi nó có
bất hòa hoặc bất đồng chút
nào với tư tưởng của Thầy không, nếu có, y phải tức khắc sửa đổi
tư tưởng của y.
Ở đây, quan điểm Huyền Bí
Học khác với quan điểm của Thế gian rất xa. Trên
đời này, nếu bạn bất đồng ý kiến với một người khác, bạn
liền lập luận để binh vực ý kiến của bạn hoặc bạn cố gắng biện
chính cho ý kiến đó. Trên phạm vi Huyền Bí Học, chúng ta không bao
giờ tranh luận. Vì chúng ta biết rằng vị ở trên chúng ta biết
rõ sự việc đó hơn
chúng ta, nên chúng ta chấp nhận
ý kiến của Ngài.
Không bao giờ chúng ta có ý nghĩ đem lối nhìn của chúng ta mà
chống lại cách thấy của Ngài, vì chúng ta biết (không phải là
vấn đề suy luận nữa mà chính là sự hiểu biết trực tiếp) rằng
Ngài có cả ngàn cách nghe thấy mà chúng ta không có, nên Ngài
hiểu điều Ngài nói. Ý kiến của Ngài căn cứ trên nền tảng hiểu
biết sâu rộng hơn chúng ta rất xa. Về sau, chúng ta có thể tìm
hiểu lý do của sự kiện ấy, và đó là chuyện khác. Nhưng trong khi
chờ đợi, chúng ta không chống lại Ngài, và chúng ta cũng không
nghĩ đến việc đó. Khi người đệ tử đặt tư tưởng của y bên cạnh tư
tưởng của Đức Thầy, y không lý luận. Khi cây đàn của bạn cần phải
lên dây hòa điệu, bạn không tự hỏi tiếng đàn này sẽ không tốt
chăng, mà bạn cứ lên dây.
Trong thế giới Huyền Bí,
chúng ta không hề phê phán, chỉ trích. Chúng ta xem như đã chứng
minh rồi tất cả những gì mà
nhân viên của Quần Tiên Hội đã làm hết lòng. Trong trường
hợp này không phải là chúng
ta, mà chính Đức Thầy của nhân viên đó nhận xét sự thành công hay
thất bại của y. Dĩ nhiên, đôi khi có thể chúng ta thấy trước một
sự thất bại, chúng ta có thể khuyên nhủ với tất cả sự tinh tế,
thanh nhã của chúng ta như sau: "Nếu người ta
làm việc này hoặc việc kia, anh sẽ không nghĩ rằng điều đó
khá hơn một chút sao”? Những nhà Huyền
Bí Học hay là những người nhiệt thành muốn trở nên nhà
Huyền Bí Học đều tuyệt nhiên tránh
việc chỉ trích kẻ khác một cách khinh xuất mà không biết
gì đến những nỗi lo âu và
khó khăn của họ. Chúng ta hoàn toàn xa lánh
việc chỉ trích; đối
với chúng ta, nó là một
hành vi xấu xa.
Về phương diện này, những
ai quyết định bước vào Đường
Đạo nên thực hành đúng theo thói quen mà các vị đệ tử Chơn
Sư đã chấp nhận. Chúng ta
hãy từ bỏ thói chỉ trích những kẻ khác đang hoàn thành nhiệm vụ
của họ. Phần đông họ đều cố gắng đến mức tối đa theo quan điểm
riêng của họ. Có thể quan điểm chúng
ta cao hơn quan điểm của họ nhiều, nhưng không phải là không
đúng trong việc làm, họ chỉ theo ánh sáng riêng của họ, chớ
không phải ánh sáng riêng của chúng ta. Nếu
một người nào đó được Hội của chúng ta ủy thác nhiệm vụ
chăng, chúng ta nên để y có cơ hội hoàn thành nhiệm vụ của y một
cách tốt đẹp. Nếu y làm
công việc không được
chu đáo, thì sau một thời gian hợp lý, chúng ta có thể
giao nhiệm vụ đó cho một kẻ khác. Nhưng trong khi chờ đợi,
chúng ta chớ nên làm rộn y, phải để cho y có dịp trổ tài và thực
hành những ý niệm riêng của y. Luôn luôn can thiệp vào công
việc của kẻ khác là một điều sai quấy.
Thái độ chỉ trích thường
xuyên, luôn luôn tìm chỗ sơ hở, luôn luôn rình rập những nhược điểm
của kẻ khác là một bản tánh rất xấu xa tệ hại. Trong giới Huyền
Bí, người ta không làm như thế. Chúng
ta thường nghe nói rằng: "Tôi không thể
nào không chỉ trích được: đó là bản tánh của tôi ". Nếu đó
là bản tánh của bạn, thì thật đáng
thương cho bạn. Tốt hơn hết bạn hãy cố gắng vượt lên khỏi
nó. Bạn áp dụng danh từ "tự nhiên", "nhân tánh" theo cách
hành động
của người trung bình, nhưng khi một người đã khép mình vào
khuôn khổ của kỷ luật tu thân một cách nghiêm khắc thì y cố gắng
vượt khỏi mức độ trung bình. Chúng sinh ra đời để sửa đổi
tâm tánh của mình. Hãnh diện vì nó thật vô ích. Người chí nguyện
phải cố gắng vượt lên trên mức độ trung bình mới có thể làm cho
nó tiến tới được. Nếu y chỉ ở chỗ đồng bậc hay là ở mức thấp
hơn mức độ trung bình, y không thể làm cho bản tánh y trở nên
tốt đẹp. Chỉ
có quyết định mới trừ được tật xấu hay chỉ trích.
Đôi khi chúng ta muốn nói
với những kẻ khác rằng: "Các bạn đừng cản đường tiến hóa của
Chơn Nhơn cao cả của các bạn nữa
và hãy để cho Ngài có dịp tỏ ra hết sức cố gắng. Bạn để
cho Phàm Nhơn thấp hèn của bạn ngăn cản Chơn Nhơn, không cho Ngài
muốn làm và làm một cách dễ dàng". Mong sao không ai nói
rằng: "Tôi không làm được". Nếu bạn nói như thể thì bạn xét
đoán trước và tự cho mình
phải thất bại. Tốt hơn là bạn nên làm ra hình tư tưởng này: "Tôi
có thể làm được việc đó
và tôi sẽ làm", và như thế công việc đã hoàn thành được nửa rồi.
Thường thường sự cố gắng cũng không mang lại kết quả gì, đó là
lẽ tự nhiên. Nhưng nếu cố gắng mãi, sức mạnh sẽ gia tăng, chẳng
bao lâu chắc chắn sẽ thành
công. Nếu chưa thành công, chớ tưởng rằng bạn đã mất tất cả, sức
mạnh đã tạo được rồi, dù
nó chưa đủ để mang
đến một sự thành công tức khắc, nó cũng là một thắng lợi
trước tiên và nếu chúng ta
không ngừng gia tăng sức cố gắng, thì đến một lúc nào đó, sự
thành công sẽ đền đáp lại công lao khó nhọc của chúng ta.
Một hố thẳm ngăn cách hai
thái độ này: một bên cứ ngồi mà ngã lòng, thất vọng; còn một
bên thì đứng lên và hành động.
Người ta cũng nói rằng trong thiên hạ hai hạng người: hạng
thứ nhất đảm đương một trách nhiệm, còn hạng thứ hai cứ ngồi và
tự hỏi: "Tại sao người ta
không làm khác hơn"? Chúng ta nên gia nhập vào hạng thứ nhất và
đừng để ý đến lời chỉ
trích của kẻ khác, họ là những người không muốn động đến bàn tay
đặng làm việc.
Những người nào chưa được Ngài thâu nhận làm đệ tử chính thức
thì không thể làm vậy, song nếu họ thường tự hỏi như sau đây, thì
họ sẽ được giúp đỡ nhiều lắm: "Thầy sẽ nghĩ việc này ra sao?
Bởi vì không nên làm, không nên nói, hay không nên nghĩ điều nào mà
theo ý mình, Thầy không làm, không nói, hay không nghĩ như thế được
".
Phải chân thật trong lời nói của con; phải nói cho đúng đắn và
không quá lố.
C. W. L.
–
Nếu chúng ta luôn luôn nhớ rằng chúng ta không bao giờ được nghĩ hay
nói điều gì mà Đức Thầy không nghĩ, không
nói, thì trong đời sống chúng ta ít có cái chi cần phải
sửa đổi. Có thể chúng ta
phạm vài lầm lỗi trong việc
xét đoán những tư tưởng hay
những lời nói mà ta cho là của Ngài, nhưng về phương diện chung,
đời sống của chúng ta sẽ trong sạch phi thường và sẽ đến
gần Ngài. Chắc chắn có nhiều người tự nói rằng: "Nếu phải
mất thì giờ để nghĩ như thế, thì không bao giờ tôi nói điều gì
được cả ". Nếu họ im lặng, có lẽ thế gian không vì thế mà kém
tốt đẹp: vì thường thường lời nói của con người vẫn không ích
lợi gì cả. Nếu một người
kia mỗi khi sắp nói điều chi, y đắn đo kỹ lưỡng về lời nói của
mình và tự hỏi: "Đức Thầy sẽ nói những lời như tôi sắp
nói ra chăng"?, thì y
sẽ ít nói hơn. Ban đầu, việc nhớ đến tư tưởng của Đức Thầy đặng
đối chiếu có thể mất thì giờ, nhưng khi đã thành thói quen rồi
thì việc đó xảy ra mau như chớp.
Tư tưởng truyền đi nhanh như
ánh sáng và có thể còn nhanh hơn nữa, như các nhà Vật Lý Học cho
chúng ta biết, ánh sáng
truyền đi khoảng 186 dặm Anh
( milles ) trong một giây đồng hồ, còn tư tưởng chẳng hạn từ Anh
Quốc, cách đây 12.500 dặm, đến nhanh như tia chớp. Sự nhanh chóng
của ánh sáng trong phạm vi Vật Lý Huyền Bí Học là một trong
những vấn đề mà chúng ta
mới vừa biết chữ thứ nhất. Chúng ta không ngớt thu hoạch những ý
niệm mới trong Khoa Pháp môn và thí nghiệm một cách mò mẫm. Về
điều này chúng ta giống như những nhà luyện kim thuở xưa mà sức
cố gắng đã làm nảy sinh ra Khoa Hóa Học, khoa này đã dần dần trở
thành một khoa học bao la gồm muôn ngàn sự vật. Tôi tưởng những
thí nghiệm không chắc chắn của vài người ngày nay sẽ đem lại với
thời gian một Khoa Huyền Bí Học mà sự phát triển sẽ hữu ích cho
cõi đời rất nhiều.
Thường thường những tư
tưởng của chúng ta chuyển động ít nhanh chóng hơn điều nó làm
được, vì chúng ta không tập sử dụng
nó riêng biệt khác hơn lời nói và hành động của chúng ta.
Một trong những kết quả của sự tham thiền là tập cho chúng ta sử
dụng riêng biệt với lời nói và sự hành động. Sự thành công đem
lại những kết quả thật phi thường. Bà Tiến Sĩ Annie Besant có
nghiên cứu vấn đề này một cách đặc biệt. Bà có nói trước mặt
tôi rằng, trong những lúc diễn thuyết công cộng, khi Bà vừa thốt ra
câu nào, thì câu kế tiếp
hiện đến cho Bà dưới ba hay bốn hình thức khác nhau, Bà điềm tĩnh
chọn lựa câu nào
dường như có công hiệu hơn hết, trong khi Bà thốt ra câu trước. Rất
ít có người làm được như vậy. Đây là phải tách
rời cách dùng tư
tưởng ra khỏi sự hành động một cách nhanh chóng khó mà tính toán
trước được. Như vậy người ta mới thấy điều đó dẫn đến đâu. Thật
đáng cho chúng ta ra công khó nhọc tập sử dụng tư tưởng với tính
cách là tư tưởng mà thôi. Khi tập lấy thói quen hết sức tốt đẹp
này là suy nghĩ trước khi nói hoặc làm thì người đệ tử sẽ thấy
rằng thời gian này chẳng những làm cho đời sống của y hòa nhịp
với đời sống của Đức Thầy, mà tư tưởng của y còn hoạt động một
cách nhanh chóng và hữu ích nữa.
Chớ nên cho kẻ khác có ý muốn cái này, cái kia, duy chỉ một mình
Thầy nó biết được tư tưởng của nó mà thôi; và có thể y làm như
vậy là vì những lý do mà
con không hề biết.
C. W. L.
–
Mỗi người là một bí ngữ, dù cho đối với những người mà y thương
yêu nhất cũng vậy. Và đôi khi, sau một thời
gian khá lâu, bạn biết được những lý do hành động của y,
thì thường thường chúng
làm cho bạn rất ngạc
nhiên. Ảnh hưởng chỉ huy Cái Trí của y là một yếu tố mà bạn
không bao giờ nghĩ đến. Tôi quan sát điều này thường lắm có lẽ ở
Ấn Độ nhiều hơn những nơi khác, vì trí óc người Ấn Độ khác với
trí óc của chúng ta trên nhiều phương diện, và đa số các bạn Ấn
của chúng ta có những tư tưởng mà người Anh không hề có, họ lấy
chúng làm động lực. Trí óc
họ hết sức tế nhị và sinh hoạt của họ căn cứ trên những truyền
thống khác hẳn lối suy tư của chúng ta. Như thế, nếu trong dòng
giống của chúng ta, không một người nào được phép tìm hiểu nguyên
do của những lời nói hoặc hành động của bất cứ ai, thì
điều đó
quả là một điều bất cẩn quá đáng đối với ngoại quốc là
nơi chúng ta gặp phải một nền văn minh hoàn toàn khác lạ. Nhiều
sự hiểu lầm vô phương cứu chữa đã xảy ra cũng vì chúng ta
bịa đặt ra lý do những hành động của kẻ khác. Chúng ta đừng làm
như thế. Lý do của sự hành động nào đó không can hệ gì đến chúng
ta, bận tâm đến nó vô ích.
Khi con nghe một câu chuyện nào có hại cho kẻ khác, thì đừng lập
nó lại. Có lẽ câu chuyện đó không có thật, mà dù có thật đi
nữa, đừng nói đến mới là nhân từ hơn.
A. B.
–
Nếu sau khi đọc mấy hàng này, mà bạn còn nói hành ai, như thế là
bạn đã vi phạm mệnh lệnh trực tiếp của Đức Thầy đưa ra, vì mệnh
lệnh đó đã truyền đến bạn và nó liên quan đến bạn. Cũng khá dễ
làm thinh. Điều khiển Cái Trí có lẽ khó hơn, nhưng
chắc chắn là bạn có thể làm chủ được xác thân bạn. Có
thể câu chuyện phiếm của bạn không có giá trị lớn lao, nhưng nếu
nó không đúng mà bạn cứ lập đi lập lại mãi, tức bạn
nói dối và điều này rất nguy hại cho những người đang chuẩn
bị để được Điểm Đạo. Danh từ
nói dối quả là nặng nề, nhưng đó là một việc và
chúng ta phải đương đầu với nó.
Dĩ nhiên chúng ta không thể
dùng đời sống của mình để xem
xét coi những chuyện nhảm nhí đó có đúng hay không. Vậy
điều thận trọng hơn hết là đừng bao giờ lập lại những chuyện đó.
Chúng ta cũng đừng để ý đến việc nó có hại cho chúng ta, và cho
tương lai của chúng ta. Giả
sử chuyện đó có thật đi nữa, chúng ta cũng đừng nói gì hết, mới
thật là nhân từ hơn. Tại sao bạn muốn hại người? Tại sao muốn lập
lại những câu chuyện trình diện những kẻ khác dưới một phương
diện bất hảo.
Đành rằng, nếu chúng ta
biết được một người nào đó là tay gian xảo hay bịp bợm định lợi
dụng lòng tin cậy của kẻ thật thà,
thì chúng ta có bổn phận phải cho người ta biết điều đó,
hay là ít ra cũng phải báo cho những người đang bị đe doạ biết để
đề phòng. Nhưng đó là một vấn đề khác hẳn với việc nuôi dưỡng
câu chuyện ngồi lê đôi mách thường tình. Muốn làm tròn bổn phận
đó, chúng ta cần
phải hết sức lịch thiệp, kèm theo sự suy nghĩ chính chắn
và loại ra mọi thù hận và mọi phẫn nộ.
Trước khi nói, phải suy nghĩ cho kỹ lưỡng, vì
e không đúng với sự
thật.
C. W. L.
–
Điều này đã được truyền dạy từ nhiều năm nay, tuy nhiên các bạn
đồng song của chúng ta cứ khăn khăn nói những
điều không đúng với sự thật. Đôi khi người ta nói thật thái
quá:
"Một vật cách đây một trăm thước chăng, họ nói ngàn dặm". Khi trời
nóng hơn thường lệ, họ nói: "Trời nóng như thiêu như đốt".
Phải là những người không biết rành rẽ ngôn ngữ của mình
mới không tìm được những từ ngữ để mô tả mức độ dị biệt của tư
tưởng, và phải nhờ đến những tiếng điên rồ, quái gở và dư thừa
này để chứng tỏ mình còn
kém giáo dục và nói không chính xác. Tôi tưởng rằng về điểm đó,
chúng ta chớ tỏ ra bơ thờ, cẩu thả. Người ta có lý do cho rằng
Đấng Christ đã nói mấy lời này: "Đến ngày phán xét (cuối cùng),
con người sẽ biện giải về tất cả những lời nói vô ích
mà họ đã thốt ra"
[30].
Con phải thành thật trong việc làm, đừng bao giờ kiếm thế phô
trương cái mà con không thật có, vì sự giả trá ngăn cản cái tinh
quang thuần khiết của chân lý, tinh quang ấy phải xuyên qua lòng con
cũng như tia sáng mặt trời giọi ngang qua tấm kiếng trong trẻo vậy.
A. B.
–
Thực hiện sự chân chánh trong việc làm là điều rất khó khăn. Sự
chân chánh này có nghĩa là không bao giờ làm điều gì trước mặt
kẻ khác cốt để họ có một ý kiến tốt đẹp về mình. Khi bạn trơ
trọi một mình, chớ làm điều gì mà bạn phải hổ thẹn khi ở trước
mặt kẻ khác. Cuối cùng luôn luôn phải hết sức ngay thật. Hãy để
cho kẻ khác thấy bạn đúng như thực chất của bạn và đừng
tìm cách làm ra khác hơn vẻ thường ngày. Phần đông chúng ta
có một thứ lý tưởng là
muốn khoe mình cho thiên hạ thấy, bởi thế khi
chúng ta trơ trọi một mình, chúng ta làm mọi chuyẹn nhỏ
nhặt mà chúng ta không làm trước mặt kẻ khác, vì chúng ta có cảm
tưởng rõ rệt rằng họ sẽ có hơi ngạc nhiên mà thấy chúng ta hành
động như thế.
Mỗi khi bạn không sẵn lòng
làm một chuyện gì bởi vì bạn
không ở một mình, thì bạn hãy chống lại ý định đó. Nếu
hành động của bạn tốt đẹp, thì bạn đừng quan tâm đến dư luận của
bàng quan. Bằng trái lại, thì bạn đừng hành động. Có một lúc,
tôi tưởng tôi phải có trước công chúng cái thái độ mà người ta
mong mỏi thấy ở các tác giả hay ở một diễn giả v.v. . . Đôi khi ý
định này nảy sinh từ một lý do tầm thường. Đây là một thí dụ.
Trong khi vượt biển, tôi có thói quen đánh bài, theo ý tôi, đó là
sự tiêu khiển vô hại. Một ngày kia, nảy sinh ra ý tưởng khiến tôi
tự hỏi rằng những người
hành khách nghĩ gì về tôi khi họ thấy tôi đánh bài buổi chủ nhật
vì họ biết rằng tôi dạy Huyền Bí Học, việc đó có làm cho họ
khó chịu không? Rồi tôi thầm nói: "Người ta thấy tôi hay không thấy,
chẳng quan hệ gì. Nếu hành
động của tôi xấu, thì tôi phải
từ bỏ, bằng không dư
luận của kẻ khác chẳng thay đổi nó được chút nào". Về phương
diện này, Bà Blavatsky thật đáng phục , luôn luôn Bà làm theo ý
Bà, không chút kể đến dư luận quần chúng. Nếu người ta nói rằng
cử chỉ của Bà không phải
là cử chỉ của một nhà Huyền Bí Học, thì điều đó có quan trọng
gì? Dù sao những quan sát
viên cũng không hiểu về chuyện đó.
Nhà Huyền Bí Học không
làm ra bộ nghiêm trang và trọng thể, không cố làm mọi việc với vẻ
cao sang, mặc dù người ta tưởng
rằng họ phải có thái độ như thế. Những quan niệm thông
thường về điều đó hoàn
toàn sai lạc. Nhà Huyền Bí Học hết sức tự nhiên. Tôi thiết tưởng
một trong những lý do quan trọng trong thời đại này để
chúng ta sống một cuộc đời hoàn toàn chân thật và ngay
thẳng là chúng ta có bổn phận góp phần nhỏ nhặt trong công việc
dọn đường cho Đức Chưởng Giáo sắp lâm phàm trong một ngày gần đây,
hầu cho con đường này có lẽ được bằng thẳng một đôi chút. Vì các
Đấng Cao Cả không phải luôn luôn thích hợp với chân
dung do con người tạc ra cho các Ngài. Các Ngài không chấp
nhận khuôn khổ nào đã làm
sẵn cho các Ngài, mà các Ngài đến để cải cách thế gian và
thường thường các Ngài sửa đổi một cách triệt để những tư tưởng
đang thịnh hành. Các Ngài quan
tâm đến tánh tình con
người nhiều nhất, nhưng luôn luôn không để ý đến những thành kiến
của họ. Cuộc sống chân thật và ngay thẳng của chúng ta có thể
dùng để chuẩn bị cho sự sinh sản những ý kiến, như thế Đức Di
Lạc lâm phàm, con người bớt nô lệ những thành kiến của họ và họ
ít bị phẫn uất vì sao họ không được khác hơn. Vậy thì sự ngay
thật hoàn toàn phải là đặc
tính trong trạng thái của chúng ta, luôn luôn với điều kiện là
đừng bao giờ rơi xuống thấp hơn lý tưởng của chúng ta. Chúng ta
đừng lầm rằng cách chúng ta hành động
trước mặt kẻ khác không quan trọng, mà chúng ta phải thận
trọng và thành thật trong chỗ mật thiết cũng như
ở giữa công cộng.
C. W. L.
–
Thật hết sức đúng là đừng bao giờ giả bộ, và sự tự phụ nào
cũng có tính cách giả dối, nhưng trong khi chúng ta cố gắng tránh
khỏi tánh đó, chúng ta lại e rằng mình sẽ ngã vào sự quá độ
đối lập. Đôi khi nhiều người nói rằng: "Tôi là thế nào, tôi muốn
tỏ ra như thế đó", rồi họ để lộ ra phần xấu tệ, rất thô tục và
rất tầm thường nhất của họ. Lẽ tự
nhiên cái đó chẳng phải là chân tướng thực sự của họ mà
là sự mô phỏng rất thấp kém, rất xấu xa và đê tiện của con người
thật sự. Cái gì cao thượng nhất, tốt đẹp nhất và thanh cao nhất,
trong bản chất con người, chính là cái gần nhất với Chơn Ngã. Do
đó, muốn sống một cách tự
nhiên, chúng ta phải biểu lộ trạng thái tuyệt đẹp của mình.
Làm bộ sùng tín là một
hình thức láo xược. Một người kia
trước mặt bạn tỏ ra là một nhà Huyền Bí Học, nhưng đồng
thời y lại nói nhiều về địa vị cao sang của y và lòng khoan dung
của y; y cho biết rằng y có nhiều quyền năng phi thường và tìm
cách làm cho những người nhẹ dạ cả tin khâm phục y, cũng như những
nhà đạo đức giả thuở xưa: "Họ thích cầu nguyện trong Thánh Đường
và ngồi ở mấy góc đường để cho thiên hạ trông thấy". Họ cũng
giống như những nhà Luật học và Tu sĩ Do Thái, giả vờ cầu nguyện
rất lâu.[31]
Bạn nên tin chắc rằng họ không phải là nhà Huyền Bí Học Chân
chính. Nhà Huyền Bí Học chân chính không bao giờ giả bộ sùng Đạo,
mặc dù y đã quyết sống một cuộc đời đạo đức rất cao thượng hơn
kẻ tự xưng là "người tự nhiên".
Thường thường người ta
không biết Đức Thầy vì người ta
khăng khăng có một ý niệm Ngài phải như thế này hay như thế
nọ. Nhưng có thể Đức Thầy thực sự Ngài sống khác hẳn với những
điều họ tưởng tượng, Ngài không theo thành kiến và tư tưởng của
chúng ta. Ngài vẫn là Ngài, Ngài ngự trên cõi riêng của Ngài và
nếu chúng ta nô lệ những thành kiến của mình, thì khi Ngài đến,
có lẽ chúng ta không biết được Ngài. Vài người nhất định rằng
Đức Chưởng Giáo sẽ nói và sẽ làm điều gì và các Ngài xử sự ra
sao. Bạn không nên để cho thành kiến ngăn cách bạn với Ngài. Chúng
ta biết rằng Ngài sẽ dạy về thuyết Bác Ái, nhưng chỉ có Ngài
quyết định phương thức và những chi tiết mà thôi. Chúng ta phải
nhất định nhận ra cho được Ngài và sẵn sàng đi theo Ngài đến bất
cứ nơi nào mà Ngài dắt chúng ta đi tới.
CHƯƠNG THỨ MƯỜI HAI
TÌNH BÁC ÁI VÀ SỰ SỐNG
THIÊNG LIÊNG
Phải phân biện điều ích kỷ với điều không ích kỷ, bởi vì
ích kỷ có thiên hình vạn trạng. Khi con tưởng trừ được tật
ích kỷ trong một hình trạng nào rồi, thì nó lại tái sinh trong
một hình trạng khác cũng mạnh mẽ như trước vậy. Nhưng lần lần,
con mãi lo giúp đỡ kẻ khác cho đến đổi trong trí con không còn chỗ
nào và giờ phút nào nghĩ đến con nữa.
A. B.
–
Ở đây Đức Thầy mô tả các điều mà tôi tưởng là cách
duy nhất để đi đến tánh hoàn toàn vị tha. Chắc chắn là có
thể diệt được một hình thức đặc biệt của tánh ích kỷ khi chúng
ta đem tất cả sức cố gắng đặng trừ tận gốc rễ nó, nhưng theo lời
Đức Thầy nói, nó sẽ tái sinh dưới một hình thức khác. Như thế
bạn sẽ mất nhiều thì giờ để tiêu diệt một loại ích kỷ nào đó,
rồi bạn ở vào tình thế
của Hercule khi giết con rắn chín đầu (Hydre); hễ đầu này bị chặt
đứt thì đầu khác lại mọc lên. Nhưng phương thức dặn dò ở đây trừ
được tận gốc.
Một trong những kết quả
quý nhất mà lòng sùng tín hiến cho chúng ta ở đây, tôi tưởng nó
đẹp hơn hết, ấy là tư tưởng mà ta hiến cho một người khác để làm
mục đích của sự sùng đạo; tư tưởng này chiếm trọn cả trí óc
của chúng ta và chúng ta quên mình
mà không có sự cố gắng đặc biệt nào cả. Đó là cách phát
triển thật sự: . . . cũng như đóa hoa tăng trưởng một cách vô tâm
nhưng tha thiết muốn mở rộng tâm hồn dưới ánh dương quang"
[32].
Tất cả mọi
cố gắng là một
dấu hiệu của sự yếu
đuối, nếu bạn tìm
được những phương thức khéo léo để thuyết dụ được bạn bằng cách
nào đó, thì đó quả là một sự thắng lợi lớn lao. Bạn sửa đổi
dòng tư tưởng, bạn tập trung năng lực vào chiều hướng tốt lành
rồi tánh xấu sẽ chết lần mòn. Đó chính là cách hay hơn hết để
chế ngự các tánh xấu của mình, bởi vì nghĩ đến tánh xấu, dù
là hối hận, cũng gia tăng sức mạnh của nó.
Bạn chỉ nghĩ đến kẻ khác
thôi, rồi Đức Thầy đã nói, bạn sẽ không còn thì giờ cũng như
không còn chỗ trống nào trong tâm trí để nghĩ đến chính mình nữa.
Và điều này sẽ là hạnh phúc của bạn. Riêng tôi, tôi nhận thấy
quả đúng như vậy. Khi tôi muốn phiền
muộn và có hơi luyến tiếc một chuyện
riêng tư (Tôi tưởng hiện giờ không còn như
thế nữa, trước kia tôi đã bị điều đó rồi) thì tôi đem hết
tâm trí tôi lo giúp đỡ kẻ
khác và làm việc cho họ. Buồn bực về những trường hợp chỉ làm
cho một mình chúng ta xúc động là ích kỷ vậy. Điều đó chỉ đem
lại sự đau khổ cho chúng ta thôi. Tuy nhiên nhiều người vẫn làm như
thế. Họ ngồi xuống và nói: "Ôi buồn quá! Khổ quá! Thật đau đớn
cho tôi. Người ấy không cần đến tôi, không lo lắng gì đến tôi, không
thương yêu tôi". Rồi cứ than van mãi như thế không thôi.
Mấy điều đó là ích kỷ:
Phương thức chữa bệnh buồn bực lẫn bệnh ích kỷ là tức khắc làm
việc đặng giúp đỡ một người khác. Trong
khi làm việc, trí của bạn không thể chứa một lượt hai mục
tiêu và khi bạn không còn nghĩ đến bạn nữa thì bạn bắt đầu có
hạnh phúc. Bạn tìm hạnh phúc từ khi bạn có thể nói rằng: "Tôi
không đòi hỏi những ai ở chung quanh tôi một điều gì cả. Tôi yêu
thương họ và không cần cái chi cả để bù đắp
lại". Thường thường người ta gọi là tình thương, một mảnh
tình bị lớp màn
ích kỷ dày
đặc bao bọc. Tình
thương gây ra sự đau khổ ư; thì chính là sự
ích kỷ đã hiện diện trong đó.
Đây là một bài học rất
khó cho những kẻ thành tâm, và có tình thân ái, tôi vẫn biết như
thế. Tuy nhiên chúng ta phải học lấy bài này vì nó sẽ mang đến
hạnh phúc và sự bằng an cho chúng ta. Chính tôi đã kinh nghiệm
điều đó rồi. Bạn hãy tập trung thương yêu
tất cả mọi người và đừng đòi hỏi một điều gì
để đền đáp lại và khi bạn đạt được mục đích, nhiều người
sẽ thương yêu bạn, nhưng ngày
nào bạn còn tỏ ra thèm thuồng, thì bản năng tự nhiên của họ lại
dè dặt, thận trọng. Bài học thật khó khăn thay, nhưng khi đã hoàn
toàn lãnh hội được, thì nó sẽ mang lại một sự an tịnh không thể
nào lay chuyển nổi, dù cho người mà chúng ta hết dạ yêu thương trở
nên khó chịu với chúng ta
trong chốc lát. Không có gì đáng kể: bạn biết rằng một ngày kia
người ấy sẽ đổi thái độ và
trong khi chờ đợi, bạn vẫn thương yêu y như trước. Ban đầu khó
chăng? Hãy quyết định đừng lo đến điều đó. Bạn hãy thầm nói
rằng: "Dù cho sự đau khổ của bản ngã thấp hèn của tôi đến thế
nào chăng nữa, điều đó đối
với tôi không có nghĩa lý gì hết". Chúng ta là gì ? Hay ít ra bản
ngã thấp hèn của chúng ta là thế nào, mà chúng ta thương hại cho
những sự đau khổ của chúng ta hay là đòi quyền được kẻ khác
thương yêu ? Nếu bạn giữ thái độ đó với những nỗi khổ đau của
bạn thì bạn sẽ vượt lên trên nó được.
C. W. L.
–
Nghĩ đến một điều lầm lỗi là tăng thêm sức cho nó. Đó là điều
sai lầm mà hệ thống Cơ Đốc giáo thường vướng phải về việc truyền
lệnh cho con người phải ăn năn và hối hận những lỗi của mình. Khi
con người càng hối hận, y càng nhấn mạnh tư tưởng của y về những
tội lỗi của y đã làm thì chúng càng tăng thêm ảnh hưởng của
chúng. Trái lại, nếu người ta tiếp tục theo đuổi con
đường của mình và làm việc cho kẻ khác, thì hình tư tưởng
đó không được thêm sức, nên tự nhiên nó phải chết và tự tách rời
ra rồi rơi vào sự lãng quên. Tự xét mình một cách yếu đuối, bệnh
hoạn thường biến một lỗi nhẹ thành ra một lỗi nặng. Người ta
thường nghĩ đến những đứa trẻ luôn luôn nhổ gốc cây coi nó có mọc
không. Cũng như một người kia đầy nhiệt tâm đang làm một việc tốt
đẹp và cao quý, rồi y bắt đầu tự nghi ngờ mình và thầm nói: "Tôi
không chắc vì lý do của tôi
là trong sạch, tôi phải hành
động vì lòng kiêu hãnh của tôi", hoặc nếu người ấy làm giảm bớt
những nỗi khổ đau của kẻ
khác rồi y lại nghĩ: "Thật
ra trong đó có sự ích kỷ; vì không thể chịu được việc mục kích
những nỗi thống khổ này, tôi đã xoa dịu chúng". Trong Thánh Đường
Anh Quốc, người ta nói: "Lạy Chúa xin thương xót chúng tôi là kẻ
tội lỗi rất khốn khổ". Chúng ta là kẻ tội lỗi, có thể đúng như
vậy, nhưng làm cho tội lỗi chúng ta trầm trọng thêm do những sự đau
khổ của chúng ta và làm cho những kẻ khác cũng khốn khổ như mình
thì thật là vô ích. Đừng bao giờ nhấn mạnh về quá khứ mà hãy
quyết tâm làm cho tốt đẹp hơn trong tương lai. Rất vô ích mà cầu
mong lúc bây giờ đừng làm việc này hay việc nọ. Tốt hơn nên nói:
"Tôi đã làm việc ấy, đó là
điều đáng tiếc. Mặc kệ. Đây là hoàn cảnh hiện tại của công việc.
Tôi phải xem xét coi điều gì tôi có thể làm được để cho công việc
tốt đẹp hơn". Tôi không muốn nói rằng tới một mức độ cao siêu
chúng ta không thể sửa chữa
dĩ vãng được, nhưng điều đó kể ra đây là một việc
ít thực tế đối với
chúng ta vậy.
Trong Bát Chánh Đạo của
Đấng Thế Tôn, Đức Phật của chúng ta, con đường thứ bảy là Chánh
Niệm. Đức Phật nói với những người theo Ngài như sau: "Phải hết
sức đề phòng trong việc khêu gợi những ký ức của các con. Nếu
các con nói: không thể quên
được điều gì, tức là các
con chưa làm chủ được ký ức của các con, các con không chế ngự
được trí tuệ của các con, nó vốn là một thành phần của các con.
Cái đó cũng giống như khi các con đi
ngoài đường các con lượm tất cả những rác rến nhơ bẩn mà
các con gặp. Các con chất chứa bừa bãi trong ký ức của các con
tất cả những thứ vô ích và xấu xa. Các con
chỉ nên
nhớ những chuyện tốt
lành và đặc biệt, hãy quên phức những chuyện khác". Rồi Đức Phật
kể một cách tỉ mỉ và rõ ràng những điều nào mà phải quên, như
những lời xúc phạm làm phật ý, mếch lòng, sự khinh bỉ và những
sự nhục mạ tưởng tượng. Chúng thuộc về những điều chúng ta phải
triệt để quên mất đi. Trái lại, thuộc về những điều phải ghi nhớ
là những lời nhân từ của kẻ khác đã nói với chúng ta, tất cả
những ân nghĩa mà chúng ta đã thọ lãnh, tất cả những tánh tốt
mà chúng ta đã nhận thấy ở
kẻ khác.
Chúng ta phải tập thương
yêu những người mình gặp trong cuộc sống hằng ngày. Tôi không nói
rằng phải thương tất cả đồng
bậc với nhau. Người ta không đòi hỏi điều đó. Chính Đức
Phật cũng có một đệ tử mà Ngài thương hơn hết là Ananda (Ác-nan)
và Đấng Christ cũng có một đệ tử mà Ngài yêu nhất là Thánh Gioan
(Saint Jean). Trong buổi ăn cuối cùng trước ngày mà Ngài chịu
khổ nạn, Thánh Gioan
nép mình vào lòng Ngài. Chúng ta không
bị bắt buộc phải thương yêu mọi người giống như nhau, hoặc
phải thương yêu họ như thương cha, mẹ, vợ, con. Trái lại ta nên tỏ ra
rất tử tế và có
lòng thương yêu đối với tất cả mọi người, mà không hề oán ghét
một ai. Chúng ta phải có thái độ này và không hề trông mong kẻ
khác đền đáp lại. Mọi sự thỉnh cầu đều bao hàm một cao vọng;
yếu tố ham muốn lại dự vào. Rồi chúng ta lại nghĩ đến mình chớ
chẳng phải nhớ đến những người mà mình thương
yêu. Ban rải sự yêu
thương mà không có ý mong mỏi được đền đáp lại, chỉ như thế mới
đáng gọi là tình thương. Không có lòng thương người (vị tha), thì
con người sẽ nuôi tánh ghen ghét, tật đố cùng nhiều sự ham muốn
khác. Tình thương của họ không phản chiếu
một màu hồng đẹp đẽ
và trong trẻo mà lại nhuộm màu đỏ nâu, ấy là một sự biểu hiện
buồn bực mà hình dáng cũng xấu xa và thảm đạm; thay vì tỏa ra
như ánh sáng mặt trời, nó
lại cong xuống và giữ chặt
lại, nó truyền ra theo đường cong khép kín, thường chỉ ảnh hưởng
đến kẻ sinh ra nó mà thôi. Tình bác ái thiêng liêng triệt để làm
cho các cõi chuyển động. Nó túa ra những đường cong rộng lớn vô
cùng nhưng chúng không trở về trung tâm và cũng không muốn
quay lại con đường chúng đã đi. Tình bác ái đó ban rải ra
theo những thứ nguyên khác nhau và trên
những cõi khác nhau để hoàn thành cơ tạo theo Thiên Ý. Đó
là bài học mà chúng ta phải học cho thật thuộc. Nó rất
khó bởi vì muốn
thành công chúng ta
phải diệt trừ bản
ngã thấp hèn, nhưng đó chính là con đường dắt đến sự an
lạc vậy.
Con phải phân biện một cách khác nữa. Phải tập phân biện Đức
Thượng Đế trong mọi loài và trong mọi vật, dù chúng có thật xấu
xa hay dường như có vẻ xấu xa cũng vậy.
Con có thể giúp người huynh đệ của con luôn luôn là nhờ con với y
đồng chung có sự sống thiêng liêng trong mình. Hãy học hỏi cách kêu
gọi sự sống đó trong người
y. Như thế con mới ngăn ngừa nó khỏi bị tai hại.
A. B.
–
Đây là bài học cuối cùng về sự phân biệt điều chân với điều giả.
Dù chúng ta đứng trước sự xấu xa đến đâu đi nữa phải biết vẫn có
Đức Thượng Đế trong đó, bởi vì nó không thể hiện hữu, nếu không
có Ngài hiện diện bên trong. Trong những bản Kinh Thánh Ấn Độ không
ngớt lập lại chân lý này: "Ta là cách chơi của kẻ gian lận"
[33].
Đó là
lời nói của Đức Thượng Đế trong
quyển Thánh Ca - Bhagavad Gita - , câu cách ngôn này thường gây bực
tức rất nhiều cho độc giả. Tuy nhiên đó là chân lý, kẻ gian phải
học một bài học bằng cách ấy, vì không chịu học bằng
phương pháp tốt đẹp hơn. Người nào không thể tuân theo giới
luật; thì phải học theo cách kinh nghiệm những luật tự nhiên.
Những luật mà chúng ta gọi là luật tự nhiên như thế vốn là sự
biểu lộ cụ thể hữu hình
nhất của trí tuệ thiêng liêng.
Chúng nó vốn vững vàng
như đá, không lay chuyển được. Trong khi va chạm vào chúng nó mà bị
thương tích, con người nhờ sự đau đớn, mới học tập cách tránh xa
những sái quấy như thế trong tương lai. Người nào không chịu học
tập bằng những giới luật
hoặc bằng những gương mẫu (ở đời không thiếu chi gương mẫu) thì y
bắt buộc phải học tập bằng sự đau khổ là sự báo ứng của sự vi
phạm Luật Trời. Dù sao y cũng được đưa đi đến chỗ hiệp nhất, bởi
vì sự tiến hóa là sự biểu hiện của Thiên Ý và ý chí của
Thượng Đế. Tôi tin rằng chính đây là ý nghĩa của câu Thánh Kinh Do
Thái: "Nếu ta lên Trời, thì ngươi cũng lên đó với ta". Đến đây không
có chi là mờ ám khó hiểu. Tất cả chúng ta đều biết rằng Đức
Thượng Để ở trên Trời. Nhưng tác giả Thánh Kinh nói tiếp:
"Nếu ta ngủ dưới địa ngục,
thì ngươi cũng ở đó"
[34].
Vậy
bạn nên biết Trời ở
trong tất cả những gì chung quanh bạn; cái khác còn lại không liên
quan chi đến bạn. Đó là một cách và cũng là một cách duy nhất
để bạn giúp đỡ người huynh đệ của
bạn bởi vì cả hai đồng chung sự sống thiêng liêng. Ngoài
điều đó ra, thì tất cả cái còn lại đều dị biệt. Nhưng về sự
sống thiêng liêng thì cả hai chỉ là một. Ấy là một phương tiện,
một đòn bẫy có thể dùng để giúp đỡ bằng mọi cách. Bạn muốn
giúp đỡ một người nào để trừ khử một tật xấu của y chăng?
Bạn nên nhớ rằng ý muốn diệt trừ
tánh xấu của y cũng nhiệt thành như ý muốn của bạn. Y khổ
sở vì tật xấu của y và
nếu gặp được "con người thật" trong mình y thì bạn sẽ thấy y khao
khát được giải trừ tất xấu ấy là dường nào! Đó mới thật là
cách giúp đỡ. Con đường nội tâm không làm hại hoặc
sỉ nhục đến ai bao giờ.
C. W. L.
–
Tất cả những gì hiện hữu trong cõi này, cũng như ở những cõi
khác, đều là một biểu hiện của sự sống thiêng liêng; do đó, tất
cả, điều lành cũng như điều dữ, đều là sự biểu hiện của Thượng
Đế. Không một vật gì hiện hữu được nếu không có Thượng
Đế là trái tim và cội rễ của nó. Tất cả những bản Thánh
Kinh đều nhấn mạnh đến sự kiện này. Chẳng hạn như trong
Thánh Kinh Cơ Đốc: "Ta tạo ra ánh sáng và làm ra bóng
tối; Ta tạo ra sự bình an và gây ra tai hoạ; chính ta là
Yaweh, Đấng đã làm ra mấy điều
đó"
[35].
Người ta rất khó hiểu được tại sao những gì mà con người cho là
sự ác lại cũng là thiêng liêng, nhưng sự thật là như thế. Vẫn có
những anh Bàng Môn Tả Đạo và những kẻ đồi bại, bất chính đủ
hạng, nhưng trong mình của họ đều có sự sống thiêng liêng, bởi vì
ngoài nó ra không có sự sống nào khác.
Nếu một người kia vì vô
minh và vô lý làm ác thì chung qui điều lành cũng sẽ do đó
mà sinh ra. Người đó không thể tiến hóa bằng cách nào khác hơn
được. Kẻ gian
xảo sẽ lừa bịp, y đã quyết định như thế. Trong khi chờ đợi,
y không thoát khỏi Luật Trời. Y
đã phạm tội, nhưng từ cái quấy y thu thập được một sự lợi
ích là học được một bài học và sự thất bại sẽ dắt y vào con
đường chánh. Chính vì thế
mà phải nói rằng đó là một phương thuốc cuối cùng, nhưng cũng là
một phương thuốc vậy; chúng ta phải biết rằng nó
thuộc về Thiên Cơ.
Theo một ý nghĩ nào đó,
nhất định tất cả đều là Thượng Đế; nhưng nói như
thế không đúng với ý nghĩa trong mấy câu
này: ấy là tinh thần
của Thượng Đế trong mỗi cá nhân làm ra con người. Nếu bạn có thể
thấy xuyên qua Phàm Nhơn quá biến dạng, quá đồi trụy này để đi
đến sự sống thiêng liêng trong con người thì bạn mới có thể kêu
gọi nó. Đừng quên rằng kẻ dữ với tư cách là Linh Hồn vẫn khao
khát sự tiến bộ như chúng ta vậy. Y muốn được giải trừ khỏi sự
ác, nó đeo đuổi, nó ám ảnh và khuấy rối bản ngã y. Nếu ta đi
đến được tâm hồn của y bằng
cách soi thấu lớp vỏ bề ngoài do sự cứng rắn và sự hung ác của
y tạo thành, thì kẻ dữ sẽ vội vàng trợ lực chúng ta để giúp
Phàm Nhơn.
Một phần lớn trong đời
tôi, tôi làm Mục Sư và phụ tá ngoài Giáo Hội (người lương), tôi đã
làm việc trong những khu vực
tồi tệ nhất ở Anh Quốc. Tôi đã thấy nhiều người mà thiên hạ cho
là những kẻ sát nhân tàn nhẫn, đến đỗi tôi không mong gì cải hóa,
nhưng tôi không hề gặp một người nào mà không có trong tận
đáy lòng một điểm lành; thí dụ như tình thương của y đối với một
con chó, dường như chỉ có
điều này nhắc nhở chúng ta y là một con người mà thôi, nhược bằng
không có điều này, thì y quả là một
con thú, một con thú nguy hiểm. Tuy nhiên, trong người y có sự
sống duy nhất. Về phương diện chính xác này, nếu chúng ta giao
thiệp được với y thì chúng ta còn hy vọng kêu gọi sự sống duy
nhất đó, chúng ta có thể giúp y tiến lên.
A. B.
–
Đức Thầy chấm dứt bằng mấy lời này: "Như thế con
ngăn ngừa được người huynh đệ của con khỏi bị tai hại". Ở
đây lời kêu gọi của Ngài mạnh mẽ hơn
hết. Thật ra, đối với vị đệ tử, công
việc đó là lý do và
mục tiêu của đời sống, bởi vì vị này
chỉ có một ước vọng duy nhất là trở thành một Đấng Cứu
Thế. Không có lời kêu gọi nào đem lại sự ích lợi cho cá nhân của
người đệ tử có hiệu lực hơn là lời kêu gọi này. Đức Thầy chỉ
sống để giúp đời. Đời sống chúng ta càng biểu hiện tinh thần
phục vụ thì nó càng giống hệt đời sống của Ngài.
TÁNH
ĐOẠN
TUYỆT
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BA
A. B.
–
Bây giờ chúng ta đã đến đức tánh thứ hai mà tiếng Phạn gọi là vairagya và theo Đức Thầy gọi bằng Anh ngữ là Tánh Đoạn
Tuyệt. Phiên dịch như thế thật rất đúng. Trước kia tôi dùng danh từ
"không đắm mê", nhưng từ nay tôi sẽ đổi lại là Tánh Đoạn Tuyệt như
Đức Thầy đã chọn.
Đối với nhiều người thì tánh đoạn tuyệt là một đức tánh khó
tập được, vì họ tưởng rằng những điều ham muốn tạo ra con người
họ. Và nếu những điều ham muốn riêng tư, những thiện cảm và những
bất thiện cảm của họ bị diệt mất, thì họ không còn cái chi cả.
A. B.
–
Hầu hết những người thành tâm muốn đi trên con Đường Đạo đều nhận
biết Chân lý của câu đầu tiên, trong đó Đức
Thầy nói rằng Tánh Đoạn Tuyệt là một đức tánh được chỉ
định cần thiết và khó tập được. Bởi vì con người đồng hóa với
dục vọng của mình nên sự khó khăn mới do đó sinh ra. Ngày nào một
dục vọng chưa được thỏa mãn còn
làm cho bạn khổ sở, thì ngày đó bạn còn đồng hóa với nó.
Tốt hơn là biết và nhìn nhận điều đó, bởi vì rất dễ mà tưởng
rằng bạn đã thoát ra khỏi dục vọng, nhưng thật ra bạn chưa giải
trừ được chút nào. Một số đông người đời thích cho rằng họ đã
chủ trị được những dục vọng của họ, tuy nhiên trọn đời họ và
mỗi hành vi của họ đều chứng tỏ họ chưa thoát khỏi tay chúng nó.
Điều hay hơn hết là nhận ra sự thật ấy, nếu bạn chưa làm được
điều đó; rồi bạn mới sẵn sàng áp dụng phương thuốc.
Bước đầu tiên là chú
trọng đến ý niệm này: "Tôi không phải là dục vọng". Đến đây bạn
có thể nhờ sự giải thích
của tôi về vấn đề bẩm tính. Bẩm tính này cũng thay đổi như dục
vọng. Vậy cái gì thay đổi
đều không thể là Chơn Ngã
và tất cả mọi sự xao động thay đổi đều không liên hệ gì đến nó.
Chẳng hạn, tôi biết có nhiều người, một hôm nói như vầy: "Hữu
phước thay được ở bên Adyar và suy gẫm về những việc trọng đại
xảy ra bên ấy". Nhưng ngày
mai, họ lại thấy tinh thần suy nhược, họ ngã lòng, rủn chí. Họ
không phải là bẩm tính bất thường này, không phải là sự nhiệt
thành, mà cũng không phải sự ngã lòng thật là bạn đâu. Cả hai
chỉ là sự rung động tạm thời của Cái Vía, do sự đụng chạm bên
ngoài gây ra.
Do đó, người ta khuyên
bạn nên
tham thiền mỗi ngày, bởi vì khi dục vọng của bạn chưa nằm
yên, bạn không thể nào tham thiền cho có hiệu quả được. Nhờ tham
thiền đều đặn và tận tâm
dần dần bạn sẽ phân biệt được Chơn Ngã ẩn phía sau những sự ham
muốn của bạn. Hãy kiên tâm
tiếp tục tham thiền trọn ngày tập lấy thái độ cần thiết, thì
bạn sẽ bắt đầu phân biệt được Chơn Ngã một cách thường trực. Rồi
bạn sẽ không còn đồng hóa bạn
với dục vọng của bạn và không còn luôn luôn cảm thấy rằng:
"Tôi có ý định, tôi ước mong, tôi muốn" mà bạn sẽ nghĩ rằng:
"Không phải là Chơn Ngã của tôi đâu
mà ấy là bản
ngã thấp hèn của tôi đó".
Đây là bài học đầu tiên
và trọng
đại mà Đức Thầy dạy về các Đức tánh cần thiết thứ hai.
Trước khi được Điểm Đạo
[36],
chúng ta không bị bắt buộc
phải đoạn tuyệt hoàn toàn. Tuy nhiên, Đức
Thầy mong mỏi bạn
thực hiện được một phần lớn lao của sự
đoạn tuyệt, và đối với chúng ta, ý muốn của Ngài là một
định luật . . . . Trước khi bạn có thể được Điểm Đạo, thì tất cả
những sự dao động từ sự ngã lòng, rủn chí qua sự bồng bột, sôi
nổi, hai cực đó đều phải chấm dứt.
C. W. L.
–
Nhiều người không cố gắng
chút nào để phân biệt dục vọng với Chơn Ngã, mà họ nói rằng:
"Trời sinh tôi ra thế nào thì tôi thế ấy. Nếu tánh tình tôi không
tốt, ý chí tôi bạc nhược, thì cũng do Ngài tạo ra. Nếu tôi không
đủ nghị lực chống chõi lại sự cám dỗ, đó là tại tôi sinh ra như
thế". Họ không hiểu rằng trong những kiếp quá khứ, họ đã tự tạo
ra chính họ, nhưng có thói quen xem tính khí họ như vật bất biến
mà người ta tặng cho họ, cũng như một người có thể sinh ra đã đui
mù hay què quặt vậy. Họ không nhận rõ họ có bổn phận sửa đổi
tánh xấu của họ. Họ không
biết rằng họ có khả năng sửa đổi và họ không thấy tại sao họ
phải nhọc công như thế.
Thường thường người bậc
trung không thấy được lý do nào đủ sức thúc giục y đảm đương công
việc rất khó nhọc để sửa đổi tánh tình. Vài người nói với y
rằng: "Nếu bạn không sửa
đổi tánh tình thì bạn không được lên Thiên Đàng". Nhưng nhiều người
trả lời rằng đối với họ sự buồn bực ở trên Trời không thể diễn
tả được và họ hy vọng có một tương lai khác hơn. Thật ra, chắc
chắn lý thuyết về đời sống trên cõi Thiên Đàng dù được truyền bá
rộng rãi, nó cũng ít có ảnh hưởng thực tiễn đến đa số quần
chúng, chắc chắn bởi vì nó
ít đúng với sự thật. Trong
tất cả những lý thuyết mà tôi đã biết, chỉ có một lý thuyết
dường như có thể thúc đẩy con người cố gắng được mà thôi: đó là
giáo lý Thông Thiên Học. Thông Thiên Học chỉ cho chúng ta việc nào
đáng cho chúng ta phải cố gắng. Nó cũng chỉ cho chúng ta biết
rằng chúng ta có đủ cơ hội
và thì giờ để thành công một cách
trọn vẹn. Nếu con người hiểu được Thiên Cơ và tìm cách
phụng sự nó, thì y đã tìm được động lực mạnh mẽ nhất để góp
công vào sự tiến hóa và chuẩn bị cho nhiệm vụ đó. Rồi y nhận
biết rằng y có thể sửa đổi triệt để tính khí và bẩm chất của y
và y biết chắc chắn sẽ thành công.
Chơn Ngã quyết định tiến
hóa, lo phát triển Phàm Nhơn và làm cho
các thể thấp hòa
nhịp với Ngài đặng thành những khí cụ
để cho Ngài dùng. Mọi sự ham muốn thuộc về loại khác và
bản tính trái ngược chứng tỏ rằng nó không thuộc về Linh Hồn. Do
đó, chúng ta không nói: "Tôi muốn cái này",
mà lại nói : "Tinh
chất dục vọng của tôi lại hoạt động. Nó muốn cái này hoặc cái
kia, nhưng tôi là Chơn Ngã, tôi muốn tiến hóa. Tôi muốn
cộng tác với Thiên Cơ. Tính khí và những sự ham muốn bất
thường này đối với tôi không
có nghĩa gì hết". Khi
mà một sự ham muốn chưa được thỏa mãn còn có thể làm cho con
người đau khổ, thì chắc chắn y còn tự đồng hóa với tinh chất dục
vọng của y.
Nhưng mấy người đó chưa thấy được Chơn Sư, vì khi đứng trước Thánh
Dung, hào quang rực rỡ, thì sự ham muốn nào cũng tiêu tan hết, chỉ
trừ việc muốn sao cho được giống như Ngài vậy. Nhưng trước khi có
hạnh phúc được đối diện với Ngài, nếu con chí quyết thì con có
thể tập tánh đoạn tuyệt được.
A. B.
–
Điều này còn nhắc nhở chúng ta nhớ lại một đoạn Kinh
trong quyển Thánh Ca Bhagavad
Gita như sau : "Những đối tượng của giác quan, chớ không phải sự
ham muốn những đối tượng này, sẽ quay đi chỗ khác
tránh xa người tiết dục, và sự ham muốn còn
lại cũng bỏ y mà đi, khi người ấy thấy được Đấng Tối Cao "
[37].
Tất cả dục vong đều
tiêu tan, khi con người thấy thoáng qua một đối tượng duy nhất
đáng ước mong. Bởi đó khi bạn được
phép thấy Chơn Sư thì sự hiện diện của Ngài giúp bạn không
những thoát khỏi những điều ham muốn, mà còn giải trừ ngay tánh
ham muốn nữa. Tánh ham muốn là một cái rễ có nhiều nhánh nhóc;
người ta ra công chặt đứt những nhánh nhóc này, nhưng khi mà rễ
cái còn thì nó sẽ sinh
những nhánh nhóc mới khác mà sự hiệp nhất với Đức Thầy sẽ giải
thoát bạn khỏi cội rễ của
mọi sự ham muốn.
Tuy nhiên, Đức Thầy nói
với chúng ta rằng, trước đó, nếu con muốn, thì con sẽ đạt được
Tánh Đoạn Tuyệt. Ba chữ "Nếu con muốn" chứng tỏ một sự
quan trọng đặc biệt.
Chúng chỉ cho chúng ta thấy đâu là chỗ khó khăn. Không phải chỉ là
tài năng mà thôi, nhưng hầu hết luôn luôn không có ý chí hoạt động.
Nếu nghị lực của bạn
dùng để lo lắng cho công việc của bạn trên Đường Đạo
cũng bằng nghị lực của bạn sử dụng để điều khiển hoạt
động của bạn ở thế gian, thì sự tiến bộ của bạn sẽ nhanh chóng
hơn nhiều.
C. W. L.
–
Đây là một trong những câu châm ngôn đẹp nhất trong
quyển sách quí giá này. Thật thế, khi bạn thấy được Chơn
Sư và hiểu được Ngài là sao, thì mọi dục
vọng thấp hèn của bạn đều tiêu tan. Trọn cả con người bạn
đều thấm nhuần một thứ gì cao thượng hơn. Nhiều người mong muốn
có Tánh Đoạn Tuyệt, nhưng
họ luôn luôn bám víu vào những vật họ ham muốn và họ đau khổ
khi thiếu chúng nó. Thật sự họ không ước mong có Tánh Đoạn
Tuyệt đâu. Họ chỉ có tư tưởng cầu mong mà thôi. Đó chỉ là bề
ngoài, chớ không phải trong thâm tâm của Phàm Nhơn họ. Điều hay hơn
hết chúng ta nên tự vấn chúng ta trên phương diện này, chúng ta suy
xét kỹ lưỡng để xem coi chúng ta có quả thật thoát khỏi những
dục vọng thấp hèn này chưa. Người Thông Thiên
Học thường cho rằng mình đã đạt được Tánh Đoạn Tuyệt và
xem dục vọng như những vật vô hại, nhưng có nhiều vật nhỏ mọn
không đáng kể đó lại bám rễ rất sâu. Người ta tảo thanh chúng nó
trên mặt, nhưng chúng nó xuất hiện lại dưới những hình thức mới
và thật khó quả quyết là chúng nó mất hẳn. Phước
thay cho chúng ta, trong tình trạng hiện tại, không phải bắt
buộc tận diệt các dục vọng. Sau khi được
Điểm Đạo, những rễ của vài thứ dục vọng còn sống sót,
nhưng rồi phải nhổ tận gốc chúng. Tuy nhiên, tốt hơn hết nên nhổ
sạch chúng ngay bây giờ đây. Bước tiến hóa của chúng ta sẽ dễ
dàng và nhanh chóng hơn. Chúng ta thực hiện điều này được, vì Đức
Thầy không hề khêu gợi điều gì mà chúng ta không thể
làm được, dù Ngài có
đưa đến cho chúng ta những nhiệm vụ để thử thách sự bền chí hay
sức mạnh tinh thần của chúng ta; đó là những nhiệm vụ cần thiết
nếu chúng ta muốn tiến bộ nhanh chóng.
Tánh phân biện đã chỉ rõ rằng những vật mà phần đông người đời
khao khát như của cải, quyền thế, thì không đáng nhọc công chiếm
hữu chút nào. Song khi nào thật hiểu điều này, chớ không phải chỉ
nói ra mà thôi, thì sự ham muốn mấy điều đó mới tiêu tan.
A. B.
–
Những sự ham muốn về của cải và quyền thế đều mang nhiều hình
thức khác nhau, chúng không luôn luôn thuộc về tiền tài,
thế lực của xã hội hay chính trị. Thường thường tài sản
là vật mà người ta ước muốn đầu tiên, nhưng chính nó không phải
là một vật sở hữu có ích
lợi, vì nó khuyến khích sự ham muốn và không bảo đảm được hạnh
phúc, như người ta có thể nhận thấy ở những nhà giàu, họ không
làm ra một hạng người có phước. Đối
với quyền tước xã hội hay chính trị cũng thế. Tất cả là
bụi bậm, hào nhoáng, đồ giả chớ không phải vàng ròng. Kinh Gita
có nói rằng:
"Người khôn ngoan luôn luôn bằng
lòng, mặc dù có những gì xảy đến cho họ; hoặc nói cách khác,
người vui lòng và lợi dụng
những gì có thể giúp ích được mà không mất thì giờ và nhọc công
cầu xin điều gì khác".
Ít có người chiếm được
địa vị cao sang trong xã hội hay chính trị, nhưng dù không
chiếm được địa vị đó đi nữa sự cám dỗ của quyền tước cũng vẫn
thường có. Quyền tước bao gồm sự ham muốn bắt buộc
kẻ khác tuân theo mệnh lệnh
của mình, cùng là can thiệp vào những công chuyện của người
khác và điều khiển chúng thay vì phải lo liệu những công việc
riêng của mình. Sự ham muốn
quyền tước trong xã hội hay chính trị chắc là không lan rộng lắm,
nhưng thường thường người ta chú ý đến một điều ao ước
xấu xa là muốn thấy
kẻ khác hành động theo ý
tưởng của chúng ta. Phải trừ khử tánh này, nếu chúng ta
muốn tiến bộ. Những người đã quyết định đi đến mục đích, như
phần đông chúng ta, thì sẽ thấy ngay rằng bản ngã thấp hèn của
chúng ta cho chúng ta nhiều điều phải làm, nó không cố gắng xúi
giục chúng ta xen vào đời sống của thiên hạ. Chơn Ngã ở trong ta
cũng là một với Chơn Ngã ở trong những kẻ khác và cách Chơn Ngã
thích biểu hiện trong những
kẻ khác chỉ liên hệ đến họ, chớ không dính dấp gì đến chúng ta.
Thế nên, phải từ bỏ mọi
khuynh hướng can thiệp.
Bạn không có quyền can
thiệp, chỉ trừ khi nào bạn có bổn
phận, nghĩa là trong
trường hợp duy nhất mà bị hạn chế là bạn có quyền điều khiển
những người mà Tạo Hóa hay Nhân Quả đặt để dưới quyền bạn, chẳng
hạn như con cái, tôi tớ hay thợ thầy của bạn. Đối với trẻ con, sự
chỉ huy là sự bảo vệ nó
trong suốt thời kỳ nó còn yếu
đuối cần được chở che. Sự chỉ huy phải giảm dần dần
khi Chơn Nhơn của nó chiếm lấy những
thể của nó một cách trọn vẹn hơn. Đối với những người
đồng đẳng với bạn (tôi dùng chữ đồng đẳng với nghĩa rộng của
nó), thì lẽ tất nhiên là bạn không có quyền can thiệp.
C. W. L. - Những người
thường muốn lo lắng cho mấy kẻ khác, chỉ vì họ tưởng rằng họ có
khả năng điều khiển công việc của mấy người đó. Nhưng
rốt cuộc họ không
biết gì hết. Thiên lực đang
hoạt động trong mỗi người; chúng ta hãy để nó hành động theo cách
thế riêng của nó. Đấng Christ há chẳng nhắc nhở những người Do
Thái đoạn này trong Thánh Kinh của họ sao: "Các người là những vị
Thượng Đế, và vì việc họ là con cái của Đấng Tối Cao"
[38].
Có lẽ đồng bào của bạn hành động đúng; cũng có lẽ sai lầm,
nhưng khi mà y thành thật, đúng đắn và chăm chú làm hết sức mình
thì mọi sự sẽ tốt đẹp. Hãy để y thắng điểm, dù bạn là
tay đánh cầu giỏi hơn y. Đôi
khi, người ta có thể khuyên lơn kẻ khác thật khéo léo, có lễ độ
và thận trọng, nhưng thường lắm, khuyên như
thế cũng là vô lễ nữa. Dù bất cứ trường hợp nào cũng
đừng bao giờ bắt buộc ai nghe theo ý mình. Việc lo lắng đầu tiên
của chúng ta là phải sắp đặt công chuyện của chúng ta cho có trật
tự, bởi vì mỗi người phải
chịu trách nhiệm đối với
chính mình mình.
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BỐN
�
Y
�
DUY CÓ MỘT ĐIỀU HAM MUỐN TỐT HƠN HẾT
Tới đây tất cả đều dễ, miễn là hiểu thì đủ rồi. Nhưng có vài
người từ bỏ việc đeo đuổi mục đích trần tục hầu về thiên đàng
hay là để riêng mình thoát đọa luân hồi. Con đừng phạm lỗi đó.
C. W. L.
–
Ý muốn giải thoát cho riêng mình được biểu lộ nhất ở Ấn Độ, vì
tại đây việc tin tưởng vào sự Luân Hồi được phổ biến rất rộng
rãi. Đối với người Thiên Chúa Giáo bực trung thì Thiên Đàng cũng
là giải thoát chúng ta khỏi đời sống trần tục. Vì những bài học
này để dạy một bé trai Ấn Độ, nên trước nhất, nó được đem áp
dụng theo những tình thế đặc biệt của xứ Ấn Độ, mặc dù những ý
niệm ấy cũng có thể giúp ích rất nhiều cho thế giới Tây Phương
của chúng ta. Là người Thông Thiên Học, chúng ta không cố gắng quá
sức để được hưởng hạnh phúc trên cõi Thiên Đàng, nơi mà con người
phải trải qua nhiều trăm năm hoặc nhiều ngàn năm giữa hai kiếp luân
hồi. Nhiều người trong chúng ta thích từ khước trọn vẹn hạnh phúc
đó và trở lại tiếp tục liền công việc dưới thế gian. Hơn nữa,
đối với những người thành tâm từ khước thì nguyện ước có thể
được chấp thuận. Nhưng muốn thực hiện điều này, chúng ta phải có
một sức mạnh, vì chúng ta sẽ đem hai Thể Vía và Trí cũ vào trong
một Xác Thân mới.
Không phải Thể Vía và Thể
Trí bị mỏi mệt như cái óc xác thịt. Ở đây có một nguyên do khác
xen vào là trong kiếp này Thể Vía và Thể Trí chúng ta biểu thị
con người của chúng ta giống in như chúng ta lúc ở kiếp chót mới
rồi. Khi tiến tới trong cuộc đời, nếu chúng ta sửa chữa chúng rất
nhiều, song có lẽ chỉ đạt đến một mức độ nào đó thôi. Chúng ta
hãy lấy một thí dụ: có một giới hạn mà khi vượt qua khỏi nó
rồi, thì một chiếc xe hơi không thể sửa chữa được nữa hoặc sửa
cho tốt hơn. Thường thường thì mua một chiếc xe hơi mới còn hay hơn
là tìm cách tân trang cái cũ. Đối với Thể Vía và Thể Trí cũng
hơi giống như thế. Sự sửa đổi chúng triệt để đòi hỏi nhiều thì
giờ, và có lẽ sự sửa đổi đó rốt cuộc vẫn còn bất toàn. Nếu
trong kiếp này khả năng
con người đã phát triển nhiều, tốt hơn
vì sự tiến hóa của
y, y nên lấy những Vía, Trí mới khác để phát biểu, thay vì vá
víu và sửa chữa những thể cũ lại. Việc đầu thai nhanh chóng như
thế không phải bao giờ cũng có thể thực hiện được. Tuy nhiên,
trước tình thế hiện tại và đặc biệt cần có những người làm
việc và Đức Chưởng Giáo
sắp lâm phàm, cho nên thiết tưởng những ai sống một cuộc đời siêng
năng và tha thiết muốn đầu thai lại ngay để tiếp tục công việc
phụng sự, đều có thể thấy ước nguyện của mình được thành tựu.
Có một đời sống bình
thường ở bên kia cửa tử và những ai theo con đường đó thì không
cần có những sự chuẩn bị đặc biệt. Còn trái lại, người nào
không muốn ở cõi Trung Giới thì phải đệ đơn, hoặc có một vị làm
đơn thế cho y. Đơn này phải trình lên Đấng Cao Cả có thẩm quyền,
Ngài có thể chấp thuận, nếu Ngài xét thấy "được", nhưng Ngài có
thể từ chối, nếu Ngài nhận thấy Ngài hành
động như thế hữu ích cho đương sự. Thiết tưởng những người
lo lắng về vấn đề này có thể an tâm: những ai mới làm việc giỏi
chắc chắn sẽ có những cơ hội khác để theo đuổi con đường phụng
sự của mình. Ai mong mỏi được đi đầu thai lại liền phải tự làm
cho mình trở nên người cần
thiết và phải chứng tỏ mình là người sẽ giúp đời khi được
trở lại cõi Trần một cách nhanh chóng. Vả lại đây là cách
hay hơn hết để tạo Thể Trí và Thể Vía có đủ điều kiện cần
thiết.
Nếu con thật quên mình con trọn vẹn, thì con không còn nhớ tự hỏi
lấy con, chừng nào bản ngã con mới được giải thoát, hoặc nó về
ở cảnh trời nào. Con hãy nhớ rằng mỗi việc ham muốn ích kỷ, dù
mục đích cao thượng thế mấy
đi nữa cũng là một sợi
dây ràng buộc; và
ngày nào con không diệt hết những
điều ham muốn, thì ngày đó con chưa được rảnh rang đặng hiến
mình cho công việc
của Chơn Sư.
A. B.
–
Đừng quên rằng hai cõi Trung Giới và Thượng Giới vẫn
làm bằng vật chất,
mặc dù chúng được cấu tạo bằng chất khí thanh bai hơn chất Hồng
Trần. Chúng nó cũng là cõi hữu hình dẫy đầy những đồ vật kích
thích sự ham muốn. Sự ham muốn về Thiên Đàng ở cõi Hạ Thiên, cũng
như sự ham muốn của Phàm Nhơn ở cõi Trần: nhưng
cõi Thiên Đàng chỉ xa
xôi hơn và mịn màng hơn. Sự ham muốn thứ nhất hơn sự ham muốn thứ
nhì bởi nó chống lại bản chất của dục vọng vì bản chất này
không được thỏa mãn ngay tức khắc. Như
thế sự ham muốn về cõi Thiên Đàng thường giúp cho con người
thoát khỏi những sự ham muốn thường tình và đồng thời nó chuẩn
bị con người đi tìm kiếm những thú vui cao thượng hơn và trong lòng
nghĩ đến chúng nhiều hơn là nhớ đến thú vui thô tục. Dĩ nhiên,
đối với nhiều người rất vô ích mà nói với họ rằng : "Các anh
hãy diệt sự ham muốn đi". Bạn muốn giúp một người bỏ những thú
vui ăn uống và những thú vui xác thịt ư, bạn hãy thức tỉnh y đặng
y ham muốn về cõi Thiên Đàng, hầu giúp y không
còn nuôi dưỡng những sự ham muốn thấp hèn nữa. Vì vậy tất
cả các Tôn Giáo đều nhấn
mạnh về thuyết Thiên Đàng và Địa Ngục.
Chính Đức Phật cũng đề cập đến vấn đề này khi Ngài nói
với những người thường.
Những người chí nguyện
theo đuổi con Đường Đạo chẳng những phải dứt bỏ ý muốn lên Thiên
Đàng mà còn phải từ bỏ ý muốn riêng mình được giải thoát khỏi
vòng sinh tử, luân hồi, nghĩa là ý muốn "moksha"
[39].
Lý do rất giản dị và Đức Thầy đã giải ở đây. Nếu bạn hoàn toàn
quên mình, bạn không thể nghĩ đến việc này, chúng tiêm nhiễm vào
bản ngã của bạn. Bạn
không thể ham muốn chúng
nữa, nếu bạn có ý định hy sinh cho công việc của Đức Thầy.
Nhiều người mong mỏi có
dịp để phụng sự bằng cách này hoặc bằng cách khác, nhưng vị đệ
tử phải mong ước phụng sự Đức Thầy theo ý Ngài muốn và ở nơi
nào mà Ngài xét thấy sự phục vụ của y cần thiết. Không thể
phụng sự vô điều kiện khi mà tấm lòng chưa được rảnh rang. Một
trong những Kinh Upanishad có
nói rằng: "Khi mà những sợi
dây ràng buộc tấm lòng chưa bị chặt đứt, thì con người không
thể được Trường Sanh Bất Tử”. Câu châm ngôn này thật quá nghiêm
khắc, nếu chúng ta kể vào số những sợi dây ràng buộc những tình
thương mến mà chúng ta quí trọng vô cùng. Tuy nhiên, câu
ấy không nói rằng trái tim phải bị tan vỡ (cõi lòng tan
nát). Không; chính là những sợi dây ràng buộc phải được chặt đứt,
để cho tình thương trong lòng chúng ta chiếu
ra vô tận vô biên. Bạn nên hiểu thật rõ điều
tôi nói và đừng làm cho tôi nói rằng tình thương không phải
là một tình cảm tốt đẹp.
Không phải tình thương ràng buộc chúng ta, mà chính là những yếu
tố ích kỷ lắm khi trà trộn
vào. Theo bản chất của nó, tình
thương của Chơn Ngã
trong người này đối với Chơn Ngã trong người kia thì bất diệt, dù
chúng ta muốn biến đổi nó, cũng vô hiệu. Nhưng khi tình thương đối
với Chơn Ngã bị tình thương hình thức xen vào thì những dây ràng
buộc thắt chặt với nhau và do đó chính tình thương có thể trở
thành một sự nô lệ.
Cách thế duy nhất để
bạn đạt được tình trạng giải thoát hầu lo lắng cho công
việc của Đức Thầy là bạn phải không ngớt cố gắng chặt đứt hết
những sợi dây trói buộc. Nếu bạn thấy trong tình thương của bạn
có một yếu tố làm cho bạn đau khổ, thì chính vì nó dung dưỡng
tánh ích kỷ cần phải được loại trừ. Hãy xua đuổi tánh ích kỷ
đi, tình thương của bạn sẽ trở nên dũng mãnh hơn, cao thượng hơn và
tinh khiết hơn. Một tình thương như thế không bao giờ có thể phương
hại đến công việc của Đức Thầy. Giả sử bạn muốn đến một chỗ kia
để tìm một người mà bạn muốn gần gũi; bạn nên từ bỏ ý định
này. Đây là một thí dụ về cách chặt đứt có phương
pháp những sợi dây vì
ích kỷ đã ràng buộc bạn với những người và vật. Hãy chặt đứt
những sợi dây trói buộc đó.
Vấn đề này chỉ nói với
những người mà sự quyết định không
thể lay chuyển được, chớ không phải nói với những ai muốn đi
trên đường tiến hóa êm dịu và bình thản. Bạn nên nhớ kỹ, những
người đó không đáng trách chút nào, Mỗi người đều có quyền tự do
đi tới mau hay chậm, tùy ý. Lúc này đây tôi nói với người quả
quyết, và cho vấn đề này hết sức quan trọng. Chơn Sư
luôn luôn tìm kiếm
những tánh tình này, nhưng không thường gặp được.
Một
lần nữa, tôi nói đây là sự kinh nghiệm riêng của tôi, vì tôi
đã gặp những nỗi khó khăn ở
điểm đó. Lúc tôi bắt đầu luyện tập, khi tôi cảm thấy mình
tha thiết muốn ở gần một người nào, thì tôi lại cố gắng dang xa
ra. Nếu bạn khá khôn khéo và có nghị lực, thì bạn thường có thể
cởi bỏ được những sợi dây ràng buộc trong lòng bạn mà không để
cho những người chung quanh bạn hay biết điều đó. Bạn vẫn có tình
thương như trước và thái độ bên ngoài của bạn cũng không thay đổi,
nhưng trong lòng bạn, bạn tháo mở sợi dây ràng buộc cá nhân. Vì
thấy rõ điều phải làm, rồi hoàn thành điều đó có phương pháp mà
vài người đã tiến xa hơn phần đông chúng ta. Bạn sẽ thấy sự cố
gắng này không khó khăn vì nhờ bạn luôn luôn nhớ rằng bạn không
thể hiến thân trọn vẹn cho công việc của Chơn Sư, trước khi cắt đứt
tất cả những mối dây ràng buộc.
C. W. L.
–
Đoạn này chỉ cho chúng ta thấy sự ham muốn về cõi Thiên Đàng
thuộc về Phàm Nhơn. Nó hữu ích cho một giai
đoạn tiến hóa của con người trước khi được làm đệ tử. Nó
có một vị trí trong Cơ Tiến Hóa. Người cổ sơ chỉ nghĩ đến việc
ăn uống và những
lạc thú tương tợ khác. Giảng cho y về việc đoạn tuyệt với
sự ham muốn thật vô ích, vì
trước tiên y phải trải qua giai đoạn những ham muốn thanh cao và ít
thô tục hơn. Chúng ta chỉ có thể nói với y như vầy: "Bạn hãy cố
gắng thanh lọc những sự ham muốn của bạn. Có nhiều việc khác rất
cao thượng hơn những điều mà bạn đang suy nghĩ. Nếu bạn
muốn đi đến chỗ cao thượng đó trong tương lai thì bạn chớ nên
để những tình cảm của bạn được tự do phóng túng". Người đời chỉ
có thể tiến bộ từng bước một. Chỉ có những người dũng mãnh hơn
hết mới có thể vượt lên một cách
nhanh chóng đến những cao độ trên Đường Đạo. Còn đối với
độc giả của quyển sách này
muốn noi gương Alcyone, ngay từ bây giờ, thì hãy cương quyết dứt bỏ
mọi ham muốn ích kỷ, vì chúng chính là những sợi dây ràng buộc.
Như tôi đã nói trước đây: Tình thương bắt tấm lòng làm nô lệ nếu
nó chứa đựng một chút ích kỷ, nhưng khi không còn một tư tưởng
riêng tư nào lẫn lộn, thì nó trở thành một quyền lực của tâm
hồn. Trước khi cắt đứt những sợi dây ràng buộc, trước khi nhổ bật
rễ tánh ích kỷ, thì tình thương cũng có thể vừa là một chướng
ngại, vừa là một sự phù trợ.
Bên Ấn Độ và nhiều xứ
khác, vấn đề này thường bị hiểu lầm, vì sự
lầm lộn tình thương ( không ích kỷ) và sự ham muốn ( ích
kỷ) . Vài triết gia đã cố làm cho lòng mình chai ngắt để
trở nên lãnh đạm và thoát khỏi sự khổ đau bằng cách xa lánh tình
yêu. Họ đã làm vậy: phương pháp này tạo ra những người phát triển
có phân nửa, họ mở mang trí thức nhưng không biết cảm động. Chúng
ta phải có khả năng biểu lộ ngay cả những lượn sóng tình cảm vĩ
đại, nhưng những lượn sóng này phải là phản ảnh của những cảm
xúc cao thượng phát sinh từ Chơn Nhơn; chúng phải thuộc quyền kiểm
soát chặt chẽ của chúng ta, chớ không phải sự bồng bột của Cái
Vía, lôi cuốn chúng ta để làm trò chơi của Tinh chất ham muốn. Chế
ngự tình cảm bằng cách hủy diệt nó cũng phi lý như việc muốn
tránh quả báo xấu bằng cách không làm gì hết. Đức Thầy muốn cho
chúng ta càng ngày càng hữu ích cho nhân loại bằng những hành
động, bằng những tình cảm và bằng những tư tưởng của chúng ta.
Chúng ta càng hoạt động theo
ba đường lối tư tưởng đó
thì mỗi người càng cảm thấy được kết quả tốt lành.
Khi tất cả những sự ham muốn thuộc về phàm ngã đã tiêu tan, cũng
có thể còn lại một sự ham muốn là thấy kết quả công việc của
con làm. Nếu con giúp ai thì con muốn biết con giúp người đó tới
bực nào, có lẽ con cũng muốn cho y thấy điều đó và biết ơn con
nữa. Mà điều này cũng vẫn còn là một sự ham muốn . . . . .và
đồng thời là một sự không tin cậy.
A. B.
–
Đó là điều mà quyển
Thánh Ca Bhagavad Gita gọi là hành
động mà không vì cái kết quả. Nếu bạn thật tâm hành động,
thì bạn không có thì giờ để lo lắng đến
kết quả và cũng không có thì giờ để xem lại tác phẩm của
bạn đã hoàn tất. Hễ
việc này vừa xong,
việc khác lại đến với bạn. Bạn sẽ mất thì giờ, nếu bạn xem xét
những kết quả. Nếu bạn nghĩ đến công việc đã thực hiện, thì
làm thế nào bạn có thể hoàn thành nhiệm vụ mới. Trong vấn
đề giúp đỡ cá nhân - là vấn đề thú vị hơn hết vì nó căn cứ trên
tình thương riêng tư - bạn
chớ tìm hiểu người được giúp đỡ có biết ơn bạn hay không. Làm như
thế chẳng khác nào bạn chạy theo sau người mà bạn mới hiến một
món quà để xem coi y có biết ơn bạn không và đòi hỏi y những lời
cảm tạ. Hành động như thế không phải là cho, mà chính là buôn bán
vậy. Ở đây không có sự đổi chác! Chắc chắn bạn đã nhớ chuyện
Đấng Christ đã đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, dù họ
chỉ bán những lễ vật để cúng tế. Ngài nói
với họ
rằng: "Các ngươi chớ nên làm cho ngôi nhà của Cha ta thành ra
một tiệm buôn"
[40].
C. W. L.
–
Không ai ít rảnh rang hơn nhà Huyền Bí Học. Khi vừa làm xong việc
này, lại bắt tay vào việc khác, không dừng lại ngắm cái kết quả
của công việc vừa hoàn tất. Giả sử bạn làm phận sự của một
người điều dưỡng hay người phụ tá ngoài chiến trường. Đối với
người bị thương này bạn phải săn sóc với tất cả khả năng của
bạn, rồi bạn lại lo cho một
người khác tức khắc, không thể chờ
đợi trong nửa giờ để chắc ý hiệu quả đã đạt được, cũng
không thể xem xét coi người bệnh có cơ may mắn được bình phục
không. Công việc của Đức
Thầy cũng giống như thế. Chúng ta không có thì giờ hay là ngưng
lại để nghĩ đến những kết
quả cuối cùng và nhất là nghĩ đến những kết quả đó đối với
chúng ta. Mong ước những cố gắng của mình được kết quả tốt đẹp
và vui mừng về sự thành công khi nó đến là việc thường tình của
nhân loại, nhưng chúng ta phải vượt qua những nhược điểm này của
loài người bởi vì mục đích của chúng ta là sự tiến đến bực Siêu
Phàm. Khi một công việc của
chúng ta làm hoàn thành mỹ mãn, ta có thể vui mừng, mà ta cũng
phải vui mừng như vậy khi thấy kẻ khác thành công như ta.
Đoạn này đề cập đến ý
muốn cho người mà bạn giúp đỡ thấy việc làm của bạn và biết ơn
bạn. Mọi cảm nghĩ như thế không
mang tính chất một tặng vật, mà là một cuộc buôn bán vậy.
Khoa Pháp Môn chỉ nhìn nhận có một cách cho ra mà thôi: ấy là
cách Thượng Đế ban rải tình thương, như mặt trời bủa rải sự sống.
Khi con ra sức giúp đỡ, tất nhiên phải có kết quả, dù con thấy hay
không cũng vậy, nếu con thông hiểu luật trời, ắt con biết phải có
như thế luôn luôn.
A. B. Trong quyển
Theo gương Chúa Jésus Christ có đặt ra câu hỏi này: "Ai muốn
phụng sự mà không đòi hỏi chi cả"? Người đệ tử phải làm việc vì
thích làm việc, mục đích
của nó không phải là kết quả đạt được, cũng không phải vì nỗi
vui mừng và sự thỏa thích mà nghĩ rằng: "Tôi phụng sự". Vị đệ
tử phải
hy sinh cho nhân loại vì thương đời. Lẽ dĩ nhiên cái kết quả
vẫn chắc chắn, vì chúng ta sống trong một thế giới do định luật
cai quản. Vậy chúng ta không
cần phải
bận tâm
đến nó. Thường thường việc làm của chúng ta
không có tính cách sinh ra những kết quả tức khắc tại cõi
Trần, nhưng nó đem ta đến gần lúc thành công mỹ mãn. Rồi một
người khác sẽ đến để hoàn tất công việc, nhưng nếu trước đây không
có những người ra công khó nhọc mà không thấy kết quả đó thì công
nghiệp ấy không bao giờ
thành tựu.
Chúng ta không thể thực
hiện một công việc quan trọng nào được, nếu chúng ta không tin chắc
ở Luật Trời, vì tất cả những công nghiệp trọng yếu đều kéo dài
một thời gian
rất lâu. Chúng ta hãy xem
công việc của Đức Bàn
Cổ chẳng hạn. Từ hàng ngàn năm này đến hàng ngàn năm khác trôi
qua, trước khi có sự biểu hiện mà bạn gọi là
kết quả. Một định
luật tương tợ cũng áp dụng cho công việc xây cất một ngôi nhà lớn,
vì cần phải đào sâu nền móng. Một phần chính công việc của chúng
ta là phải xây những nền móng vô hình. Sau này một người thợ xây
cất khác đến đặt trên móng
một hàng gạch. Hàng gạch này được thấy ngay. Vậy thì về điều
này những nền móng có vô ích chăng ?
Kết quả thế nào cũng
đến. Hãy làm việc một cách bình tĩnh và có phương pháp, không bao
giờ bạn thất vọng. Mọi sự thất vọng đều do ý muốn thu gặt kết
quả việc làm. Có thể bạn theo đuổi công việc một cách
cương quyết và lâu ngày mà không thấy hiệu quả gì đáng kể.
Tuy nhiên một ngày kia, kết quả bỗng thình lình hiện ra. Một nhà
Hóa Học bỏ từ hạt muối trong một dung dịch đến độ bảo hòa
[41].
Một thời gian qua trong chất lỏng kia hình như không xảy ra tác dụng
gì, tuy nhiên chỉ một hạt muối sau cùng rơi vào, thì dung dịch ấy
bỗng đặc lại. Công việc của chúng ta cũng giống như thế: thình
lình người ta thấy nó hoàn tất. Chúng ta dọn đường cho sự lâm
phàm của Đức Chưởng Giáo. Chúng ta phải hết sức làm việc, chúng
ta bình tĩnh, tin tưởng và nhẫn nại, chúng ta hy sinh cho công việc
của chúng ta. Khi Đức Di Lạc lâm phàm, Ngài sẽ thâu lấy tất cả
những gì chúng ta đã làm;
rồi kết quả sẽ hiện ra trên thế gian.
C.W. L.
–
Thường thường phải có sự cố gắng liên tục của nhiều
người mới đạt được một kết quả quan trọng. Nếu cần phải
thực hiện một cuộc cải cách lớn lao trên Thế gian, thì
thường có một người hay nhiều người nhận thấy sự
cần thiết này và họ bắt
đầu đem truyền bá tư
tưởng ấy bằng những cuộc diễn thuyết hoặc bằng sách vở. Họ bị
thiên hạ cười chê và sự cố gắng của họ dường như vô ích, nhưng họ
đã thuyết phục được vài người và những người này theo đuổi công
việc cho đến khi xã hội công
nhận cuộc cải cách ấy. Công trình của những người gia nhập sau
này không thể thành tựu nếu không có sự cố gắng dường như vô ích
của những bực tiền phong.
Thường lắm khi chúng ta
theo đuổi một công việc cho tới khi nó sắp thành tựu. Một người
khác đến và hoàn tất nó. Công trình của người sau này được thừa
nhận và y sẽ được xem như là người đã thực hiện tất cả công
việc. Chúng ta đừng lo đến điều đó. Công lao của chúng ta được
biết đến hay không cũng không có gì quan trọng, nhưng chúng ta hãy
vui mừng vì được phép làm việc. Nghiệp quả của chúng
ta sẽ dành cho chúng ta kết quả của sự cố
gắng kia và hiện giờ người ta làm hoặc nói gì về việc ấy
cũng không quan hệ chi. Người nào làm việc một cách khoa học, hiểu
biết điều mình làm,
chỉ nhớ đến kết quả của một việc làm tốt đẹp trong một lúc
hoặc một phương diện nào đó, sẽ không bao giờ thất vọng.
Khi Đức Chưởng Giáo lâm
phàm, Ngài sẽ góp nhặt tất cả công việc
của chúng ta để Ngài tiếp tục công việc đó và làm cho nó
được hoàn bị; thế rồi tất cả công việc
này dường như vốn của Ngài làm. Trong một ý nghĩa nào đó,
điều này thật đúng, vì nguồn cảm hứng của chúng ta đều phát sinh
từ nơi Ngài. Tuy nhiên, một phần lớn công nghiệp có thể được
hoàn thành do công lao vô hình và
dường như không lợi ích chi cả của một số người khiêm tốn
đã đóng góp trước kia. Chúng ta có cơ hội ở trong hàng ngũ của
những người này là một đặc
ân lớn lao mà chúng ta có thể mong ước.
Nếu hiểu biết Luật Trời,
chúng ta có thể sử dụng nó trong mọi
trường hợp: điều này
không những đúng đối với những sự hoạt động không ngớt của chúng
ta trên những cảnh giới tinh thần, mà còn ở tại cõi Trần nữa.
Mỗi tư tưởng của chúng ta đều tạo ra một
hình dạng trên cõi Trung Giới hay là cõi Thượng Giới. Hình
tư tưởng này đi tìm người hay vật
mà ta nghĩ đến nó, nó bay lơ lửng chung quanh, hoặc truyền
sang tinh lực tốt hay xấu (tùy theo bản chất và đặc tính của nó)
qua người hay vật nào liên hệ đến nó. Vẫn không khó nhọc gì mà
tạo nên một hình tư tưởng
lành cũng như tạo nên một hình tư tưởng ác. Tất cả đều tùy thuộc
vào thái độ trí tuệ. Người ta sẽ
bảo: "Thái độ của tôi chỉ quan hệ đến
một mình tôi thôi, và chỉ quan hệ trong lúc này đây". Không
đâu, nó cũng quan hệ đến bạn trong ngày kế đó, trong tháng tới,
hoặc trong năm tới, vì nó
tạo ra những tư tưởng phản ứng lại bạn. Mỗi khi một tư tưởng được
lập lại thì nó được tăng thêm sức mạnh. Chúng ta có bổn
phận tạo ra những hình tư tưởng tốt đẹp về mọi phương diện,
mặc dù chúng nó vô hình, nhưng chúng sẽ đạt được mục đích không
hề sai lầm.
Vậy thì phải làm lành bởi chưng ưa thích việc lành, chớ chẳng
phải trông mong được ban thưởng. Phải làm việc vì ưa thích sự làm
việc, chớ chẳng phải trông mong được thấy kết quả. Con phải xả
thân giúp đời, vì con thương
đời và bởi tại con không còn
làm cách nào khác được nữa.
C. W. L.
–
Tình thương quả thật là một động cơ mạnh nhất. Từ đầu chí cuối
của quyển sách này, cũng như những tác phẩm gần
đây do nó linh cảm, người ta có thể chú ý đến việc lập đi
lập lại một cách
mãnh liệt và việc
nhấn mạnh về sự cần thiết của tình thương, như là một giải thích
tất cả mọi việc và cũng là một phương thuốc chữa mọi chứng
bệnh. Tình thương sẽ là điểm chính yếu trong giáo lý của Đức
Chưởng Giáo, khi Ngài lâm phàm, vì
vậy cho nên điểm ấy
được nêu lên thật rõ rệt trong giáo lý của những ai cố gắng
chuẩn bị cho cuộc lâm phàm này với khả năng tầm thường của mình.
Một việc khác nữa mà sinh
viên phải chủ ý là: trong
suốt quyển này Chơn Sư xem điều sau đây đã được chấp nhận là:
Chúng ta đều sốt sắng và
đối với chúng ta chỉ có sự làm việc là quan trọng duy nhất
thôi. Chắc chắn đó là cách hay hơn hết để
đem chúng ta đạt đến trạng thái trí tuệ này, nếu mà trong
bầu không khí của chúng ta còn lưu lại vài mảnh của ý tưởng
khác. Trong tâm trí của Đức Thầy, dĩ nhiên chỉ có Một tư tưởng mà
thôi: ấy là Phụng Sự. Không
có gì có thể khích lệ
chúng ta bằng ý Ngài muốn thấy chúng ta trở thành người phụng
sự.
Thường lắm, chúng ta tự
cản trở bước đường của mình. Chúng ta phải tự
nép qua một bên để
Chơn Ngã chúng ta có khả năng hoạt động, vì bao giờ chúng ta còn e
dè, bao giờ chúng ta còn giữ lại một món gì vì không bằng lòng
hy sinh nó cho công việc của Chơn Sư thì chúng ta tự cản trở bước
đường của mình. Thật ít khi gặp được một người không giữ lại
chút gì; y hiến thân trọn vẹn cho công việc của Chơn Sư, và không
ngần ngại mà cho tất cả. Điều đó ít khi thấy, nhưng ai có được
đức tánh này sẽ tiến xa và nhanh chóng vô cùng.
CHƯƠNG THỨ MƯỜI LĂM
�
Y
�
Con đừng ham những phép thần thông, con sẽ có, khi Chơn Sư xét thấy
đã đúng ngày giờ.
A. B.
–
Nên hiểu rằng danh từ "phép thần thông" là tất cả những năng lực
ý thức lấy vật chất tạo thành Xác Thân, Thể Vía, hay là Thể Trí
làm trung gian để biểu lộ ra. Vậy tất cả những
năng lực trí
tuệ đều là những
phép thần thông. Sự phân biệt giữa quan năng thường của trí tuệ
phát sanh do từ bộ óc và nhiều thứ Thần Nhãn
hoặc những quan năng
tương tợ, đều sai lầm. Nhiều người nổi lên phản đối việc hoạch
đắc những phép thần thông, trong khi hằng ngày họ sử dụng chúng do
xác thịt làm trung gian. Họ trách
cứ Thần Nhãn, mà họ dùng con mắt của xác thịt. Trách cứ
Thần Nhãn là vô lý, trừ phi họ theo quan điểm của những người Yogi
bên Ấn Độ; đối với mấy vị này những giác quan của xác thịt cũng
như giác quan tinh thần đều là một chướng ngại. Lập luận của mấy
người này thật đúng.
Họ không thừa nhận giá trị giác quan nào của chúng ta, vì theo ý
họ, thì chúng ta đưa họ tiếp xúc chặt chẽ với những thế giới
của ảo mộng mà họ muốn vượt khỏi. Tôi không
đồng ý với họ. Tôi thiết tưởng tốt hơn phải được tinh khiết
và sử dụng quan năng của chúng ta trên tất cả những cõi Trời,
nhưng trong khi chờ đợi cho
thái độ căn bản của những nhà Yogi này được nhìn nhận, chúng
ta thấy một phần lớn của những lời phản đối về phép thần
thông đều phi lý.
Thật ra, khi bắt
đầu dùng
những giác quan của
Cái Vía, luôn luôn có thể xảy ra sự sai lầm. Vả chăng những giác
quan của xác thịt cũng có thể gạt gẫm chúng ta. Chẳng hạn vài
ảo ảnh thị giác do sự tiêu hóa không được điều hòa và bệnh gan
sinh ra, tôi vẫn không kể vào loại này, như các y sĩ đã làm, nhiều
hiện tượng quả thật thuộc về thị giác của Cái Phách hay của Cái
Vía. Một thí dụ dễ nhớ về việc giác quan gạt gẫm chúng ta là
hiện tượng mặt trời mọc; bạn biết rằng mặt trời không mọc, nhưng
bạn vẫn thấy nó mọc như
thường.
Giác quan luôn luôn cần
phải được lý trí điều chỉnh, vì lý trí cao hơn tất cả mọi nhận
thức của giác quan. Thần Nhãn (sự thấy
của Cái Vía) luôn luôn lừa gạt bạn khi bạn bắt đầu sử dụng
nó. Vì vậy cho nên người nào được Đức Thầy chỉ dạy cũng phải
luyện tập một cách có phương pháp và đầy đủ. Người ta hỏi y về
những điều đã thấy thì ban đầu những câu trả lời đều sai. Sau đó
người ta chỉ cho y biết
những chỗ sai lầm và giải thích cho y hiểu. Giả sử một người
không được
Đức Thầy hướng dẫn, nhưng Thần Nhãn
của y lại hoạt động. Đó là trường hợp thường xảy ra. Sự
mở mang những quan năng của Cái Vía phù hợp với trào lưu
tiến hóa thường lệ, nên nhiều người đã bắt đầu có những giác
quan này. Người có Thần Nhãn lên cõi Trung Giới cũng giống như đứa
bé ở dưới cõi Trần. Bạn biết một đứa bé đưa tay lấy cây
đèn cầy đang cháy đặt
tận đầu phòng. Dĩ nhiên, sự lầm lạc của em được người lớn sửa
chữa. Khi em đến gần vật ấy
em sẽ thấy rằng vài vật hấp dẫn em vẫn ở xa em. Chúng ta có thể
gọi người mới sử dụng những giác quan của Cái Vía là một đứa
bé trên cõi Trung Giới, y bị lầm lạc nhiều lắm. Điều này không
quan hệ gì nếu em ở chung với những bậc đàn anh, và cũng không có
tai hại gì nếu chánh lý là một đức tánh phổ biến. Nhưng rủi
thay! Người nhận được một sự truyền
đạt từ cõi Trung Giới đưa xuống hay là có Thần Nhãn thường
tưởng rằng mình đã cao hơn nhân loại do sự
tiết lộ đặc biệt đã
ban cho
y. Về phương diện này y không học hỏi giáo lý như một đứa
bé sẵn sàng tuân theo những
lời chỉ dạy của các bậc đàn anh, cho nên do
đó mới sinh ra nhiều điều phiền muộn.
C. W. L.
–
Những vị đệ tử mới được Đức Thầy thâu nhận thì thường thường
phải chịu sự huấn luyện dài lâu về nhãn quan cao
siêu và những cảm giác thuộc về cõi trên. Chắc chắn nhiều
người nhận thấy công việc luyện tập này rất buồn chán. Một vị
đệ tử cao cấp lãnh phần chỉ bảo cho vị tân tín đồ, đưa cho vị
này xem một số đồ vật trước mắt và hỏi y thấy những gì. Ban
đầu, hầu như y trả lời sai hết, vì y không nhắm đúng tiêu điểm của
thị giác. Y không phân biệt được sự dị biệt của Cái Vía của một
người chết với Cái Vía của người còn sống, giữa Cái Vía của
người còn sống với hình tư
tưởng của một người bạn phóng ra. Trên các phương diện này và
nhiều phương diện khác, người quan sát thiếu kinh nghiệm không sao
tránh khỏi sự sai lầm. Với sự nhẫn nại, vị huấn luyện viên chỉ
cho y thấy nhiều lần những vật ấy và dạy y nhận biết chúng bằng
cách chú trọng đến những
điểm dị biệt nhỏ nhoi.
Một sự huấn luyện như thế
rất cần thiết, nhưng bạn chớ kết luận rằng những giác quan của
Cái Vía đặc biệt không chắc chắn,
không tin được. Người ta không thể tin được bất cứ một giác
quan nào khi nó không được
huấn luyện, mà trí khôn thuần túy không
được huấn luyện một lượt với nó. Mỗi ngày, nếu trời đẹp
chúng ta dậy sớm, chúng ta có thể xem cảnh mặt trời mọc. Chúng ta
biết rõ ràng rằng mặt trời không mọc, tuy nhiên, chúng ta lại thấy
nó mọc. Những người ít suy luận đôi khi nói về những điều hơi quá
mức kinh nghiệm bình thường như vầy: "Tôi không thể tin những điều
tôi không thấy, chừng nào tôi thấy, tôi mới tin". Vài người đi xa
hơn nữa nói: "Tôi tin
chắc, nếu tôi rờ mó được". Chúng ta hãy lấy ba cái chén, rồi đổ
vào đó ba thứ nước nhiệt độ khác nhau: nước thật nóng, nước đá
và nước lạnh. Hãy ngâm một bàn tay này vào nước nóng và một bàn
tay kia vào nước đá vài phút, rồi ngâm cả hai bàn tay vào nước
lạnh. Bàn tay lúc trước ngâm trong nước nóng sẽ làm cho bạn biết
rằng nước trong chén thứ ba thật lạnh, còn bàn tay kia lại cho
rằng nước đó nóng lắm. Sự kiện này chứng tỏ rằng người ta không
thể luôn luôn tin vào sự chứng tỏ của giác quan, mà cần phải kiểm
soát lại bằng lý trí. Đối với giác quan của Cái Vía và những
giác quan của Cái Trí, cần phải được kiểm soát cũng như đối với
giác quan của xác thịt.
Nếu một người kia ưa thích
những phép thần thông, thì
y phải chịu
khó mở mang chúng, và thường thường phải trải qua nhiều năm
luyện tập, mới có thể chắc chắn rằng quan sát của y rất đúng
trong mọi trường hợp. Người ta khó tưởng
tượng được
trường hoạt động của nhãn quan này mở rộng đến đâu. Hãy
lấy một thí dụ cũng đủ rõ. Trên
cõi Trung Giới có 2401 loại Tinh Chất khác nhau và nếu muốn
trở nên một chuyên viên thành
thạo có thể làm việc giỏi và nhanh chóng, thì phải học cách phân
biệt chúng và biết cách sử dụng chúng đúng lúc. Người ta có thể
làm việc mà không có sự kinh nghiệm này, nhưng đó là một cách
lãng phí, chẳng khác nào
người ta xối một thùng nước trên mình một người để rửa ngón tay
nhỏ của y.
Tuy nhiên, chúng ta được
dạy rằng sự phung phí năng lực chính
là một trong những điều lỗi lầm cần phải tránh. Năng lực
là số vốn mà chúng ta có bổn phận phải gia tăng càng nhiều càng
tốt. Chúng ta có trách nhiệm về sự phung phí nó, cũng như chúng
ta sẽ có trách nhiệm trong
việc để cho năng lực đó nằm yên vô dụng.
Một người đệ tử của Chơn
Sư sẽ không nói như vầy đâu: "Tôi đã biết cái đó rồi". Chúng ta
học hỏi điều đó trong một tinh thần khác. Sự khao khát hiểu biết
của chúng ta vốn luôn luôn tột bậc, nhưng luôn luôn
nhắm vào mục đích được phụng sự đắc lực hơn và được hữu
dụng hơn. Đó là nguyên tắc, chúng ta hãy tin chắc như thế, không có
sự hiểu biết nào vô ích cho công việc của chúng ta phải đảm nhận.
Tất cả những sự học hỏi đã hoạch đắc đều
thường giúp nhà Huyền Bí Học đưa ra những dẫn chứng và
thấu hiểu điểm này hoặc
điểm khác, không vậy thì mấy vấn đề này sẽ không được rõ ràng.
Người ta nói rằng khi cuộc tiến hóa này chấm dứt chúng ta sẽ
hiểu biết tất cả; ít ra chúng
ta cũng được giải
thoát khỏi sự vô minh. Đó là mục đích của tất cả những cố gắng
của chúng ta và chắc chắn rằng chúng ta cần phải được học hỏi
đến mức thâm diệu để đến lượt chúng ta, chúng ta sẽ thực hiện
những công việc cao thượng một cách tốt đẹp. Trong khi chờ đợi,
tốt hơn là nên sử dụng triệt để những quyền năng sẵn có của
chúng ta và không nên ao ước những
phép thần thông trước khi được Chơn
Sư xét thấy đúng ngày giờ cho phép chúng ta khai mở chúng.
Sự cưỡng bách luyện tập để mở mang những phép đó, thường
sinh ra đủ thứ phiền
não. Người nào có những phép ấy thì thường
bị bọn tinh linh
[42]
gạt gẫm làm cho lạc đường hoặc trổ tánh khoe khoang và tưởng mình
không thể lầm lẫn. Dù thế nào, ngày giờ và năng lực của y bị hao
tổn để luyện tập mấy phép đó, nên để làm việc giúp đời còn tốt
hơn.
C. W. L.
–
Những Tinh Linh gồm nhiều loại khác nhau, chúng đóng một vai trò
quan trong trong thiên nhiên. Chúng thường có thân hình khá nhỏ bé
[43]
và cảm thấy
thật thích thú khi khiến cho
một người to lớn mạnh mẽ làm những điều chúng nó muốn. Khi
chúng lừa phỉnh y, chúng chỉ tự xưng là Jules César,
Napoléon Bonaparte hoặc bất kỳ một
nhân vật nào quan trọng và vang danh mà chúng chợt nhớ đến
và chúng rất thích thấy
những người lớn, tiến hóa hơn chúng, lại tuân theo những lời khuyên
của chúng. Thật vậy, những người này cũng đáng thương hại, nhưng
lẽ ra họ phải dùng lý trí và lương tri để
kiểm soát chỗ thấy của mình.
Nếu thỉnh thoảng bạn nghe
một tiếng nói từ cõi Trung Giới đưa đến, bạn đừng vội kết luận
rằng đó là tiếng nói của Chơn Sư hay của vị Đại Thiên Thần. Những
người chết thường tìm phương tiện để giao thông với chúng ta và cho
những lời khuyên bảo. Cũng
bởi những Tinh Linh (hay Ngũ
Hành) luôn luôn thích đóng hài kịch, cho nên thường thường thì chắc
chắn một trong bọn chúng đã thốt ra lời ấy. Vậy bạn hãy lắng
nghe tiếng nói một cách thật bình tĩnh. Đó là hiện tượng đáng
chú ý, chẳng phải nó cần thiết vì có ích lợi cho chúng ta, nhưng
bởi vì mỗi cơ hội khác thường đều có thú vị. Vả lại thường
thường những chuyện thú vị như thế có tính cách giáo dục chúng
ta. Nhưng bạn đừng khởi sự phủ nhận rằng không có sự giao thông,
vì làm như thế không đúng lắm. Điều nào có thể không chắc có,
nhưng tuyên bố là không thể có được thì tỏ ra không thận trọng.
Bạn hãy kính cẩn lắng nghe sự tiệt lộ đó, nhưng đừng để nó ảnh
hưởng chút nào đến hạnh kiểm của bạn, trừ phi có những lý lẽ
chính xác về việc ấy. Hành động của chúng ta phải là kết quả
của sự quyết định căn cứ trên tư
tưởng và sự suy luận chớ không phải căn cứ trên lời nói của
kẻ khác mà ta không biết là ai.
Nhiều người tiếp nhận
được sự tiết lộ này, họ tưởng rằng
chúng phải đổi mới thế gian. Đa số những tiết lộ này thật
tốt, song nói một cách tổng quát, không có gì rõ rệt lắm. Chiều
hướng chung là một hình
thức mập mờ, một giáo lý viễn vông, bất định. Trong giới hạn
này,thường thường những lời tiết lộ đó còn có giá trị hơn những
giáo huấn chính thống quá thiển cận và hẹp hòi. Người ta thường
thấy trong đó những dấu vết Thông Thiên Học hoặc Tư Tưởng Tân Tiến.
Nhưng đó là Thông Thiên Học pha lẫn
với nước, nhất là nước rất nhiều. Thường thường những sự
thông báo này vốn do một hồn ma có lòng tốt đưa ra, vì y vừa học
được vài sự kiện quan trọng có liên hệ với đời sống Dương trần
nên y muốn chỉ bảo cho bà
con thân thích còn ở Thế gian. Tin chắc rằng nếu những quan niệm
cao siêu đó được người đời dung nạp, thì Thế gian sẽ trở nên thật
tốt đẹp: y bèn tìm cách in sâu vào trí họ những quan niệm này, y
giống như một người giàu trong truyện ngụ ngôn[44]
đã nghĩ rằng: "Nếu có ai trở về từ cõi tử, thì thiên hạ
sẽ ăn năn hối hận". Nhưng hồn ma ấy lại quên câu trả
lời của ông Abraham rất khôn ngoan như sau: "Nếu
họ không nghe Đức Moises và các nhà tiên tri, thì họ cũng chẳng tin
ai nữa, dù kẻ đó là một người chết đi sống lại"
[45].
Hơn nữa, hồn ma quên rằng chính y hồi còn sinh tiền cũng không chú
ý chút nào đến những thông điệp Thần Linh Học. Nếu những sự thông
báo thuộc loại này gởi đến
do theo đường lối của chúng ta - thì có thể tin chúng nó
được, hoặc nhiều, hoặc ít,
nếu chúng ta được gọi là
những nhà tâm linh - chúng ta hãy nhận lấy với tất cả sự kính
cẩn của mình, nhưng đồng thời không nên quá xao động. Có nhiều
người, sau khi nhận được các thông điệp tưởng
rằng chúng sẽ biến
đổi được quả địa cầu! Nhưng việc đó thật là khó vậy. Khi các
thông điệp ấy đến với chúng ta, chúng ta áp dụng
vài phương sách để kiểm soát sự chân thật và giá trị của
chúng nó. Phần đông người đời không có những phương tiện kiểm
chứng tức khắc, nhưng nếu họ chịu lấy lương tri của họ xem xét
những kinh nghiệm siêu linh đó, thì thường thường cũng
tốt lắm rồi. Hầu như luôn luôn người ta chọn một trong hai
thái độ này: hoặc người ta chấp nhận một cách mù quáng các thông
điệp trên, hoặc họ nhạo báng chúng nó và cho là chuyện buồn
cười. Hai thái độ cực đoan này đều vô lý. Miễn là ai có học hỏi
những vấn đề đó thì biết được cái khả năng của những bức thông
điệp ấy và cũng biết rằng hầu hết những thông điệp này xuất xứ
từ những người không thể nói với chúng ta một điều gì mới lạ hay
chính xác. Một hồn ma, nếu
khá khôn ngoan, có thể hoạch đắc được vài điều hiểu biết mà hồi
còn sinh tiền y không được phép học, nhưng hầu hết những người quá
vãng đều bỏ qua cơ hội học hỏi này và đành chịu những sự hạn
chế, có những thành kiến
như lúc còn ở Thế gian.
Những kinh nghiệm trong địa
hạt siêu linh đã trở nên thường
xuyên hơn vì Đức Chưởng Giáo sắp lâm phàm và sự kiện
này trên các cõi trời đều biết. Tại cõi Trần, người ta sốt
sắng trông đợi Ngài, ngay cả những người hoàn toàn ở ngoài hàng
ngũ Thông Thiên Học. Nhiều
người cảm thấy tính cách cấp bách của sự giáng lâm này, nên thái
độ mong đợi của họ đã khiến họ có thể nhận được các thông điệp
nhiều hơn trước. Vậy chắc chắn có nhiều ý kiến được loan ra, hoặc
đúng hoặc sai, có liên hệ đến sự lâm phàm của Đức Chưởng Giáo.
Đã lâu rồi, chính Ngài đã nói: sẽ
có nhiều Đấng Christ giả xuất hiện. Chắc chắn những người
Thiên Chúa Giáo bậc trung cho rằng những Đấng Christ giả này là
những người nghịch với Chúa nhắm mục đích phỉnh phờ, lừa gạt
thiên hạ. Nhưng không phải vậy; nhiều người trong đám những "Đấng
Christ giả" ấy là những người có ý muốn tốt đẹp, họ thành thật
tưởng rằng bóng của Đức
Christ đã phủ trên mình họ,
và chính hảo ý đó làm
cho họ trở nên nguy hiểm hơn, vì
thiên hạ cảm thấy sự chân thành của họ, nên nghe theo họ.
Thái độ của Thông Thiên
Học đối với những
"Chúa giả" có thể được bày tỏ như sau: "Tiếc thay cho ai để bị
lừa gạt đến đỗi cho một người quá ư tầm thường là Đấng Chưởng
Giáo". Tuy nhiên, nếu lời chỉ dạy có chút ít giá trị và nếu
thiên hạ hăng hái tuân theo thì đời sống của họ sẽ được tốt đẹp.
Nếu trên vài điểm nào đó, những giáo lý ấy có những cảm tưởng
sai lạc, thì mặc dù hạnh kiểm của họ có tốt đi nữa, họ cũng
phải nhận lãnh Quả Báo của sự lỗi lầm. Tốt
hơn là họ phải thấy rõ sự thật, nhưng chúng ta chớ nên phạm
lỗi lầm là cho rằng sự sai lạc đối với một Chân lý
quan trọng nào đó thì ắt phải kéo theo tất cả sự sai lạc
của những điểm khác. Không
hề đúng như thế.
Tuy nhiên, tôi hy vọng rằng
chúng ta là sinh viên Thông Thiên Học, chúng ta sẽ tránh được lỗi
lầm đặc biệt này, vì chúng ta chờ đợi sự lâm phàm của Đức
Chưởng Giáo một cách chính chắn và rõ rệt mà đa số giáo phái
khác không có điều đó. Ngày giờ giáng lâm càng gần, chúng ta càng
nên tỏ ra biết lẽ phải. Chớ
nên bao giờ bác bỏ điều gì có thể có được, mà luôn luôn chúng ta
phải sử dụng sự suy luận và lý trí của mình. Chúng ta phải chấp
nhận thái độ của ông Gamaliel: "Nếu công việc này hay sự nghiệp này do con người làm ra, thì
nó sẽ tự đổ vỡ, nhưng nếu nó do Trời tạo nên thì bạn không thể
nào phá hủy nó được. Bạn chớ liều lĩnh chống lại
Trời"
[46].
Chúng ta hãy chấp nhận tất cả những gì tốt lành, dù cho nó bắt
nguồn từ đâu.
Các Đấng Chơn Sư ảnh hưởng
đến nhiều người. Những khí cụ mà các Ngài dùng có biết được
các Ngài hay không, điều này
không mấy quan trọng. Vậy chúng ta hãy mong mỏi có những lực lượng
hoàn toàn ngoài những tổ chức Thông Thiên Học cũng chuyên tâm lo
lắng cho mục đích lớn lao chung. Chúng ta hãy theo con đường của
mình, hãy cương quyết phụng sự Thông Thiên Học
một cách vững vàng, trung thành và ngay thật.
Khi chúng ta hiến mình cho công việc của Hội, hiển nhiên đó
là công việc của chúng ta, nhưng hãy thận
trọng và đồng thời đừng kết án hoặc chống đối với một tổ
chức nào ngoài Hội. Chiều hướng chung của các tổ chức đó có thể
giống nhau, nhưng chúng ta đừng đòi hỏi tất cả những sự
biểu hiện tương tự phải được hoàn toàn trong sạch. Thần lực
sẽ tuôn xuống cõi Trần bằng nhiều cách từ đây cho đến ngày Đức
Chưởng Giáo lâm phàm.
Chính là Quần Tiên Hội đã rải xuống thế gian những nguồn thần
lực chắc chắn sẽ ảnh hưởng rất ít đối với những ai bận rộn
trong vấn đề vật chất, và rất nhiều đối với
những người nhạy cảm, còn
đối với những người sẵn sàng lợi dụng nó, thì ấy là sự
biến đổi trời, đất. Chắc chắn những biến cố đặc biệt sẽ xảy ra.
Quyển
Ánh Sáng Phương Đông lại rất đúng với những bản Kinh Phật
Giáo, khi đề cập đến cuộc đời của Đức Phật. Quyển
này lập đi lập lại
nhiều lần tại sao các sinh vật khác nhau không thuộc về loài người
lấy làm vui mừng khi biết được sự giáng lâm sắp tới của Ngài, và
tại sao các vị Thiên Thần và các Tinh Linh (Ngũ Hành) cảm được
ảnh hưởng từ điện phi thường của Ngài, nên mới hợp
nhau lại lúc biến cố
vĩ đại đặc biệt sắp xảy ra, như
lúc Ngài ra đời, lúc Ngài đắc
quả Phật và lúc Ngài
chuyển pháp luân
[47].
Ý nghĩ này chứa đựng một
phần lớn chân lý. Mỗi khi xảy ra sự biểu hiện vĩ
đại của uy lực cao
siêu, thì những loại tiến hóa khác nhạy cảm hơn chúng ta đều cảm
biết điều đó hơn chúng ta. Vì con người từ
lâu lo mở Hạ Trí nên
xao lãng việc học hỏi khía cạnh bí ẩn của tạo vật, họ chỉ rút
vào bản thân, nên trong lúc này họ thường ít nhạy cảm hơn một số
sinh vật thấp kém hơn họ.
Tôi đã biết nhiều mèo và chó đã đáp ứng được những ảnh hưởng
từ cõi trên ban xuống hơn con người, không phải chúng lợi dụng được
ảnh hưởng đó đồng một mức độ với loài người, nhưng chúng cảm
biết được, trong khi con
người không hay biết chi cả.
Khi Đức Chưởng Giáo đến,
Ngài sẽ điều khiển công việc của những người đã chuẩn bị cho sự
giáng lâm của Ngài và hoàn tất nó. Vậy chắc chắn Ngài vẫn giữ
khuôn mặt dị biệt của thế giới trên mọi phương diện, như trước khi
Ngài đến. Chẳng những Ngài giảng về Tôn
Giáo Ngài, mà tất cả những sự cải cách khác đều có thể
trở nên hoàn mỹ như là hậu quả của giáo lý Ngài. Dĩ nhiên, chúng
ta không biết chính xác về vấn đề ấy, vì lần này cũng như ngày
xưa, chắc là Ngài gặp sự chống đối.
Không có gì cho phép chúng
ta nói rằng Ngài sẽ thuyết phục được toàn thể thế giới. Chắc
chắn có nhiều nhà truyền giáo xuất hiện trước khi giáo lý thuần
túy của Ngài được công nhận khắp nơi. Hai ngàn năm trước, khi Ngài
giáng lâm, người ta nghe nói chút ít về Ngài. Chúng ta mong cho đời
sống của Đức Chưởng Giáo và những vị làm việc chung quanh Ngài,
gặp toàn những việc dễ dàng. Người đời luôn luôn dễ đón tiếp và
truyền bá những tiếng xấu. Do đó chúng ta sẵn sàng chịu đựng
không biết bao nhiêu nỗi phiền muộn nhỏ nhen và những bực tức, khó
chịu, nếu không phải quá
tệ. Lẽ tự nhiên sẽ có lắm kẻ vì tư lợi chỉ trích những đề nghị
cải cách của Ngài. Lần trước chính những kẻ vụ lợi ấy đã
giết Ngài, sau khi Ngài truyền Đạo mới vừa được ba năm. Chúng ta
không thể biết được những gì sẽ xảy ra trong lần này, nhưng ít ra
chúng ta cũng hy vọng rằng trong mỗi xứ có một người có thể làm
cho Ngài quyết định ở lại với chúng ta lâu hơn ba năm. Hội "Ngôi Sao
Phương Đông"
[48]
đã đảm nhận nhiệm vụ đặc biệt là chuẩn bị cho sự
lâm phàm của Đức Chưởng Giáo. Hội biết rõ ý nghĩa của sự
giáng lâm ấy và có lẽ cũng biết được những điểm chính của giáo
lý Ngài. Có thể có nhiều cá nhân khác cũng như nhiều tổ chức
khác cũng được cảm hứng và được dẫn dắt làm việc đồng
chung một quan niệm, nhưng thường thường họ không có trong tay tất
cả sự hiểu biết như chúng ta đã được đặc ân thọ lãnh. Chúng ta hy
vọng rằng công việc của chúng ta khả dĩ
mang lại những gì mà trước kia không có. Chúng ta mong như
thế, nhưng không biết được điều đó sẽ ra sao. Chúng ta chỉ rán làm
hết sức mình.
Những người có duyên
lành cộng tác với Đấng Đại Từ Bi lẽ tự nhiên được đi đầu
thai. Do đó chúng ta thường nghe nói đến
những đứa trẻ phi thường ra đời. Những trẻ này phải sinh ra
bây giờ, để đến tuổi trưởng thành là khi Đức Chưởng Giáo đến.
Trên vài phương diện có thể chúng không giống với những đứa trẻ
khác. Vậy bạn đừng ngạc nhiên khi nghe người ta nói đến những đứa
trẻ nhớ lại được tiền kiếp của chúng hoặc thực hiện được những
kinh nghiệm siêu linh
đặc biệt. Tất cả những việc này thật tự nhiên. Chúng ta phải
trông đợi những việc ấy, vì chúng ta đang sống trong một thời đại
đặc biệt. Có lần Bà Tiến Sĩ
Besant đã giải thích cách chúng ta phải cư xử, khi biết được
những trường hợp ấy. Bà nói rằng: "Bạn chớ để một sự việc
nào như thế làm bạn
mất bình tĩnh và đừng tin quá dễ dàng
những lời tự nhận
của những đứa trẻ này, vì rất ít người được biết chúng là ai
trong những kiếp trước. Bạn nên nhớ rằng tất cả những trẻ ấy đều
nhạy cảm lạ thường. Vậy bạn hãy đối đãi với chúng thật dịu
dàng và hết sức tử tế. Dù trong trường hợp nào cũng đừng nói
với chúng một lời thô lỗ hoặc tỏ ra một cử chỉ cộc cằn nào.
Cũng đừng bao giờ làm chúng giật mình hoặc kinh sợ, vì chúng thụ
cảm những điều này mau lẹ hơn những trẻ khác. Bạn
hãy giữ gìn chúng đừng cho tiếp
xúc với đám đông và gần gũi những kẻ xấu xa. Chớ cho chúng quen
biết với nhiều người. Bạn hãy bao bọc chúng trong một luồng từ
điển điều hòa và không quá thay đổi thường xuyên. Bạn đừng đưa
chúng vào trường mà hãy bao quanh chúng trong bầu không khí thân
ái đặc biệt của gia đình.
A. B.
–
Nơi đây Chơn Sư còn đưa ra thêm một lý do để đừng ham muốn những
phép thần thông: thời giờ và năng lực dành cho việc mở mang chúng
có thể dùng để làm việc giúp đời. Bạn hãy để ý: thường thường
những lời khuyên của Ngài đều căn cứ trên sự cần thiết phải phụng
sự và loại bỏ sự ích kỷ
dưới mọi hình thức. Thay vì dùng thì giờ và sinh lực của bạn để
luyện những phép thần thông cho mình, thì bạn hãy dùng nó để
giúp đỡ những người xung quanh. Nếu
Đức Thầy của bạn nhận thấy tất cả những năng lực của bạn
đã được dùng vào việc phụng sự kẻ khác và nếu
Ngài xét rằng có thể
giao cho bạn những
phương tiện hoạt động phụ thuộc khác và chắc ý là bạn sẽ dùng
nó với mục đích vị tha như trước,
thì chừng ấy Ngài sẽ giúp bạn. Nếu bạn có thể nói một
cách hết sức thành thật rằng tất cả những quan năng của bạn đều
được sử dụng, thì bạn hãy
tin rằng đã sắp đến
ngày giờ bạn được trao cho những phép thần thông mới lạ.
Nhưng rất ít người có thể nói được như thế, và nếu bạn không
thuộc vào những hạng người này, thì bạn hãy gắng công đạt
cho được điều kiện
đó.
Đây là ý nghĩa của bài
ngụ ngôn "những tiền tệ" (talents)
–
danh từ tiền tệ được áp dụng như nhau theo ý nghĩa đời nay cũng
như đời xưa, tức là để ám chỉ một sức nặng hay là một số tiền
nào đó. Một người kia đi du lịch và giao cho những người giúp việc
một số tiền: người này lãnh năm đồng, người khác thì hai đồng và
một người nữa thì một đồng. Khi trở về người chủ mới hỏi cách
chi dụng các món tiền đó. Những người nắm giữ năm đồng và hai
đồng biết làm sinh lợi và hoàn lại cho chủ với số lời. Còn
người giữ một đồng lại
giấu đi, rồi đem trả lại. Thế rồi người chủ thu hồi đồng tiền đó
lại, còn những người kia được giao cho những số tiền quan trọng hơn
và vị chủ nhân nói rằng: "Người ta cho thêm kẻ nào có, và y được
dư dả, còn kẻ nào không có, người ta sẽ lấy ngay cái gì y đã có"
[49].
Câu này có vẻ trái ngược với chánh lý, nhưng theo Huyền Bí Học,
ý nghĩa của nó lại rõ ràng. Kẻ nào sử dụng triệt để quyền năng
của mình sẽ được giao phó thêm những
quyền năng khác nữa. Kẻ nào không sử dụng quyền năng của
mình, kẻ nào trên phương diện Pháp Môn không có quyền năng thì y sẽ
mất luôn khả năng sử dụng
chúng. Chúng sẽ hao mòn suy nhược.
Không ai được than phiền sao
mình không nhận được mọi sự giúp đỡ của Đức Thầy mà mình tự cho
là có quyền thọ lãnh. Nếu
bạn muốn giao thiệp với những vị Đại Giáo Chủ, thì chỉ có một
phương sách duy nhất là phải hữu ích cho đồng loại. Đó là quyền
độc nhất được các Đấng Chơn Sư nhìn nhận. Các Ngài không kể tài
năng mà chỉ nhắm vào sự hữu dụng. Tôi đã được giao thiệp với Đức
Thầy trong kiếp này,
mà trước đó tôi không biết sự hiện hữu
của Ngài nên tôi không thể nghĩ đến việc gặp Ngài. Quả thật
tôi là đệ tử của Ngài trong nhiều kiếp rồi, nhưng không phải vì
lẽ đó mà Ngài hiện đến với tôi. Nhưng Ngài hiện đến vì tôi đã
đem tất cả năng lực của tôi để giúp đỡ những người chung quanh -
những người nghèo khổ, những người khốn cùng, những người bị áp
bức - vì Ngài xét thấy đáng ban thần lực xuống cho tôi, để tôi
chuyển di cho cả ngàn người
khác.
Bởi đó, thay vì trong lúc
tham thiền bạn cầu khẩn Đức Thầy bạn, xin Ngài hiện đến với bạn,
thì bạn hãy tìm công việc nào hữu ích trong làng xóm hoặc đô thị
của bạn, rồi bạn đảm nhận và hoàn thành việc ấy. Đối với Đức
Thầy, việc công cụ của Ngài
[50]
có biết Ngài dùng nó hay
không thì không quan trong mấy. Khắp nơi trên thế giới đều có những
vị đại ân nhân của nhân loại được Đức Thầy
giúp đỡ và linh cảm. Nhiều người ở ngoài Hội Thông Thiên
Học cũng nhận được nguồn
cảm hứng như thế.
Những phép thần thông sẽ đến với y theo trào lưu tiến hóa. Thế
nào chúng cũng phải đến với y. Nếu Chơn Sư thấy những phép ấy
hữu ích cho con sớm hơn, Ngài sẽ chỉ cách cho con luyện tập mà
không tai hại gì cả. Từ đây
đến đó, tốt hơn là con đừng có mấy phép ấy.
C. W. L.
–
Người ta thường nói: "Tôi nghe rằng ai luyện được
những phép mầu thần thông thì thành ra người hết sức hữu
ích. Tôi muốn giúp ích cho đời, tôi muốn có những phép ấy". Sự ao
ước này không có chi đáng trách cả. Nhưng tốt hơn là nên tuân theo
lời khuyên bảo của Đức Thầy ở đây và chờ cho những phép thần
thông đến một cách tự nhiên,
hoặc chờ cho chính Ngài dạy ta
cách mở mang chúng nó. Mà Ngài sẽ thực hiện điều đó không?
Dám chắc như thế, khi nào bạn đã sẵn sàng. Chính sự kinh
nghiệm riêng của tôi
cho phép tôi tin như thế. Tôi không có một phép thần thông nào cả
và tôi cũng không nghĩ đến chúng, bởi lúc phong trào Thông Thiên
Học bắt đầu hoạt động, chúng tôi tưởng
rằng việc hoạch đắc những phép thần thông chỉ dành riêng cho
những người lúc sinh ra đã
có một mức độ nào đó về năng khiếu
tâm linh, chớ không phải trường hợp của tôi. Tuy nhiên, một hôm
Đức Thầy đến viếng Adyar, Ngài đề cập đến vấn đề đó và khuyên
tôi thử thực hành một lối tham thiền và nói rằng: "Thầy tưởng con
sẽ đạt được kết quả tốt với lối tham thiền ấy". Tôi đã cố gắng
và có kết quả sau đó. Đức Thầy sẽ đưa ra lời chỉ dạy như thế
đối với những người làm việc cho Ngài, khi Ngài xét rằng đúng
ngày giờ. Chúng ta có thể xem như điều này chắc chắn sẽ xảy ra.
Chúng ta không thể tiên đoán
Ngài diễn tả ý muốn của Ngài dưới hình thức nào, nhưng Ngài sẽ
cho chúng ta biết bằng cách này hay bằng cách khác.
Phương thức tốt hơn hết
giúp chúng ta thực hiện được sự cố gắng đó, chắc chắn là sự hy
sinh trọn vẹn tất cả tài năng của mình vào việc phụng sự. Những
người làm như thế mà không còn nghĩ đến chính mình, nhất định sẽ
nhận được những quyền năng mới khác.
Đó cũng là bài ngụ ngôn
xưa về tiền tệ. Những kẻ tôi tớ
nào sử dụng khôn ngoan số tiền của mình thì sẽ thấy mình
có thể tiếp tục như thế và sẽ được
giao phó phần việc
quan trọng hơn. Người ta nói về họ như
vầy: "Ngươi
đã trung thành trong việc nhỏ, Ta sẽ uỷ thác cho ngươi nhiều hơn.
Ngươi hãy hòa mình trong sự hoan lạc của Thầy ngươi"
[51]
. Ít người chịu khó tìm hiểu ý nghĩa mấy lời này: Thế nào sự
hân hoan của Thượng Đế, sự hân hoan của Đức
Thầy? Hân hoan ấy không
phải là sự vui thú hay hạnh phúc mơ hồ hay là việc vào cõi Thiên
Đàng. Sự hân hoan của Ngài là việc tạo lập các thế giới. Đó là
trò chơi của Bacchus trong chuyện thần thoại Hy Lạp, đó là trò chơi
của Krishna theo người Ấn Độ. Đức Thượng Đế thích đảm trách sự
tiến hóa, là công trình vĩ đại này. Đó là sự hân hoan của Ngài,
sự hân hoan trong việc thực
hiện một chương trình cao cả của Ngài và việc
ban rải tình thương của Ngài khắp vũ trụ. Nếu chúng ta muốn
tham dự vào sự hân hoan của Đức Thượng Đế, chúng ta phải tham gia
công nghiệp này và hạnh phúc do công việc ấy tạo nên. Nếu chúng ta
không sử dụng tất cả những năng lực sẵn có của mình thì Chơn Sư
sẽ không giúp chúng ta đạt được những quyền năng khác. Ngài chờ
đến lúc Ngài thấy chúng ta sử dụng một cách tốt đẹp nhất những
gì chúng ta đã có. Luôn luôn người ta vẫn hiểu như thế.
Họ muốn thành những người cứu trợ vô hình. Chúng ta luôn
luôn nói với họ rằng: "Trước hết
bạn phải là những người cứu trợ hữu hình. Nếu tại cõi
Trần là nơi bạn hoàn toàn có ý thức, bạn đã hy sinh trọn vẹn
đời bạn cho công việc phụng
sự, thì chừng đó chắc chắn bạn cũng sẽ là người hữu ích ở mấy
cõi khác".
CHƯƠNG
THỨ MƯỜI SÁU
�
Y
�
NHỮNG SỰ HAM MUỐN NHỎ NHEN
Đừng ham muốn những việc nhỏ mọn thường xảy ra trong đời sống
hằng ngày. Chớ nên tỏ ý khoe mình xuất sắc hay là tỏ vẻ thông
minh.
C. W. L.
–
Hầu hết thiên hạ thích làm cho kẻ khác chú ý đến mình, thích
trình diện dưới hình thức tốt đẹp nhất, nhưng không một ai sau khi
đối diện với Đức Thầy rồi thì lại có thể nghĩ đến việc khoe
mình. Khi y được chiêm ngưỡng ánh sáng huy hoàng của
Ngài thì tức khắc y biết rằng tất cả sự sáng chói của cá
nhân chỉ là ánh sáng của ngọn đèn dầu nhỏ xíu bằng đồng tiền
Anh trước mặt trời. Như thế,
ý tưởng khoe khoang không thể nảy sinh ra, hoặc trước kia y có ý
tưởng đó thì bây giờ đây nó tiêu mất rồi.
Người nào tin rằng ánh
sáng nhỏ bé của mình sẽ gây một ảnh hưởng lớn lao cho thế gian
là người chưa thấy ánh sáng cao cả, nên không có danh từ gì để so
sánh.
Tuy nhiên, muốn phụng sự
Đức Thầy, chúng ta phải biết lợi
dụng tất cả đức tánh mà chúng ta đã có. Dù ánh sáng của
chúng ta như thế nào đi nữa, chúng ta cũng không nên che giấu nó.
Không phải chỉ có ngọn đèn pha rực rỡ của Đức Chưởng Giáo là
cần nhất mà thôi. Trên bãi biển phải có những ánh sáng nhỏ bé
chiếu ra. Ánh sáng vĩ đại chiếu ra rực rỡ cho đến đỗi nhiều
người chóa mắt; những kẻ khác lại không bao giờ ngước lên, nên
không ngờ rằng ánh sáng này có thật. Những ánh sáng yếu hơn, vừa
sức hiểu biết của họ, có thể làm cho họ chú ý. Chúng ta có thể
giúp đỡ nhiều người chưa sẵn sàng để nhờ những Đấng Cao Cả bảo
trợ. Vậy mỗi người phải ở
tại vị trí của mình. Nhưng bạn đừng bao giờ muốn
khoe mình chỉ vì thích sự khoe mình, như thế thật phi lý
vậy.
Đừng ham nói, nói ít thì tốt. Không nói cái chi lại càng quí hơn
nữa, trừ ra khi chắc rằng những điều muốn nói ra vẫn chân thật,
dễ thương và hữu ích. Trước khi nói, con hãy tự hỏi con xem điều
con muốn nói có ứng đáp với ba đức tánh đó không, nếu không thì
phải làm thinh.
A. B.
–
Những người muốn nói mãi không ngớt, sẽ không có
chi để luôn luôn nói cho đúng. Do đó họ nói những điều không
đáng cho ta chủ ý và như
thế họ gia tăng sức mạnh những luồng nói hành dữ dội đang trải
qua trên thế gian. Họ gây ra tai hại khôn lường, nếu họ để cho cái
lưỡi họ làm theo ý muốn của nó, thay vì họ phải làm chủ nó. Ở
đây đúng là trường hợp tôi đã nghe lời huấn thị mà Đức Thầy
thường lập đi lập lại: Trước khi nói, con hãy tự hỏi con xem lời
con sẽ nói có chơn chánh, dễ thương,hữu ích không. Nếu thiếu ba
đức tánh này thì đừng nói gì hết. Điều
này làm chậm lại cuộc đàm thoại của con. Dần dần con sẽ
nhận thấy con ít nói lại
và đó là một điều tốt vậy.
Những người nhạy miệng hay
nói phung phí khí lực của họ, mà đáng lẽ họ phải để dành cho
những hoạt động hữu ích. Người
nói nhiều thường làm việc rất ít. Có lẽ bạn nghĩ rằng
những nhận xét về việc sử dụng lời nói có thể áp dụng cho
chính tôi. Được lắm, vì tôi diễn thuyết luôn luôn. Nhưng ngoài công
việc của tôi, tôi nói rất ít. Tôi không biết nói gì nữa cả,
nên người ta thường trách cứ
sự im lặng của tôi. Ở Tây phương, thường khi tôi bị bắt buộc phải
nói, vì sự im lặng được xem như là một sự buồn bực, thói kiêu
hãnh hoặc là không muốn tỏ ra vui vẻ, dễ thương. Như
thế dĩ nhiên tôi không nói dễ dàng trừ phi tôi có vài điều
đặc biệt và hữu ích để nói.
Hẳn nhiên là bạn phải nói, khi bạn có những lý do chính
đáng, khi bạn có điều đáng nói, khi bạn làm điều đó với thiện
chí. Không phải chỉ có những lời nói vô ích thuộc về loại này
phải tránh. Một lời nói vô ích chẳng khác nào một viên gạch ngăn
cách bạn với Đức Thầy. Còn nghiêm trọng hơn đối với những ai muốn
đến gần Ngài?
Người nói nhiều không thể
nào chân thật được. Tôi không muốn nói rằng y đã hữu lý và cố tâm
chối bỏ sự thật, nhưng y
không thể luôn luôn đúng đắn và sự không chính xác đó là một thái
độ trái nghịch với chân lý. Không có gì tai hại hơn tự tạo chung
quanh mình một bầu không khí giả dối, luôn luôn do những câu chuyện
không xác đáng sinh ra. Chẳng hạn tôi thường nhận được những bức
thư chỉ là những lời lẽ dài dòng bao bọc những chuyện nhỏ xíu
làm nồng cốt. Trong tất cả những công việc thường ngày ở đời,
chúng ta tập giảm bớt tánh quá lố. Cũng như khi tôi nhận được
một bức thư phiền trách người nào - thường
có những bức thư như thế - và theo tánh tình của tác giả
tôi đoán được cái nào có lý và định được thái độ của y khi viết
bức thư đó.
Đức Bàn Cổ nói rằng
người nào làm chủ được cái lưỡi của mình thì làm chủ được tất
cả. Và một vị Huấn Sư Thiên Chúa Giáo đã nói rằng: "Cái lưỡi là
một bộ phận nhỏ bé; nhưng nó khoe khoang những điều vĩ đại. Hãy
xem đóm lửa có thể làm cháy cả một khu rừng lớn! Cái lưỡi cũng
vậy, nó là một ngọn lửa. Nó là thế giới của sự bất công. Vậy
cái lưỡi cũng là một bộ phận của thân thể, nó làm nhơ bẩn trọn
cả thân mình"
[52].
Làm chủ được cái lưỡi tức là làm chủ được bản ngã thấp hèn.
Những nỗi ưu phiền nhỏ mọn thường là hậu quả của những câu
chuyện không ra gì và sự phản ứng của chúng. Những chứng bệnh
nhức đầu chút ít, bần thần, suy nhược . . . không có nguyên nhân
nào khác hơn nữa. Nếu những ai bị khổ vì mấy chứng bệnh đó mà
tập lặng thinh, họ sẽ thấy khỏe mạnh hơn trước. Đầu tiên, vì họ
không mất tất cả năng lực của bộ thần kinh đã hao tổn khi nói và
sau đó họ lại khỏi trả một cách thường xuyên những quả nhỏ nhặt
mà họ đã gây ra do những lời nói vô vị tầm ruồng của họ. Bạn
nhớ rằng Đức Pythagore đã bắt buộc các đệ tử của Ngài phải giữ
im lặng trong hai năm. Điều này đáng cho chúng ta suy nghĩ, vì Đức
Pythagore hiện nay là Đức Thầy Kouthoumi, Ngài là Sư
Phụ của Alcyone và Giám
mục Leadbeater.
Bên Ấn Độ có nhiều người
Yogi gọi là Muni (Munis) tức là
những người đã phát nguyện giữ im lặng, tịnh khẩu. Giá trị
của lời khấn nguyện đó luôn luôn được nhìn nhận ở đây. Tôi biết
một người đàn ông đã phát
nguyện tịnh khẩu trong mười năm và y đã đạt được một sự an
tĩnh và một phẩm cách phi
thường. Nhờ đó y có thể đi vào một
đời sống tinh thần vô cùng phong phú hơn trước kia. Dĩ nhiên,
đa số chúng ta không thể khấn nguyện như thế, vì chúng ta đang sống
trong một thế giới mà chúng ta có đủ thứ bổn phận phải chu toàn.
Nhưng chúng ta có thể sống theo nguyên tắc này: giữ im lặng mỗi khi
có thể thực hiện được mà không làm mếch lòng những người chung
quanh ta.
Sự cần thiết phải thường
xuyên tập tánh cẩn thận và phán xét còn mang lại một điều lợi
ích, nó tập cho chúng ta tự giữ mình.
Phải nói, nhưng hãy nói với một sự cương quyết không vượt
quá mức mà qui luật của Huyền Bí Học cho phép về sự hữu ích và
lòng nhân từ. Một bài học
hay đối với chúng ta là giữ quyết định này trong ngày. Bạn hãy
nhất định rằng từ sáng đến tối bạn sẽ không nói một lời nào có
tính cách khinh xuất. Ngày ấy, ít ra sẽ là một
bước tiến của bạn.
Huynh đệ
Jain của chúng ta cũng
tập như thế để đạt được
tánh cẩn thận và khắc kỷ. Sớm mai, họ quyết định trong ngày sẽ
không làm một điều nào đó, có lẽ nó không có gì quan trọng. Họ
kiêng cữ và như thế thói quen cẩn thận diệt trừ
tánh cẩu thả. Chính Đức Phật cũng nói một cách cương quyết
về tánh cẩu thả, về sự vô ý thức làm cho con người phạm phải
nhiều lỗi lầm tai hại.
C. W. L.
–
Những người nói luôn luôn không ngừng nghỉ thì không
thể nói một cách
chính xác và hữu ích. Hơn nữa, họ không
thể chân thật nếu họ luôn luôn quen nói một cách cẩu thả.
Vài câu chuyện của họ chắc chắn không đúng với sự thật, dù họ
không có ý muốn gạt gẫm. Sau khi đã thốt ra tất cả những lời quả
quyết không đúng với sự
thật, họ nói rằng: "Tôi không cố ý nói sai thì
cái đó không có gì là quan trọng". Đó không phải là ý muốn
của bạn, nhưng đúng là việc làm của bạn sẽ sinh ra những hậu
quả. Nếu bạn làm một việc sai quấy, dù bạn có chủ ý tốt cũng
không thay đổi được bản chất sự sai lầm của bạn và cũng không thể
che chở cho bạn thoát khỏi sự báo ứng tuần hoàn. Một người đã
nói điều gì đó, rồi sau cải chính rằng: "Tôi thấy tôi lầm, câu
chuyện không hoàn toàn đúng như thế". Y đã nói trái với sự thật,
chắc chắn là không cố ý,
nhưng y đã nói một điều không có thật rồi cáo lỗi là mình vô
tình. Người ấy cũng giống như một kẻ vì rủi ro làm nổ súng gây
ra thương tích cho người khác rồi nói rằng: "Tôi tưởng súng không
có nạp đạn". Tới bao giờ bạn không có bằng chứng chắc chắn, thì
bạn phải xem như súng đã
nạp đạn rồi.
Chỉ trong một ngày thôi
chúng ta quả quyết nói toàn những chuyện chân thật, khả ái và
hữu ích. Ngày ấy sẽ lặng lẽ trôi qua,
mà có lẽ thế gian sẽ không mất mát điều
chi lớn lao, và điều đó rất tốt cho chúng ta. Đành rằng mọi
cuộc đàm thoại mau lẹ và
hứng thú không thể diễn ra, vì chúng ta cần phải dừng lại để suy
nghĩ. Những qui tắc này vốn căn cứ trên những định luật của đời
sống cao siêu. Muốn tiến hóa nhanh hơn, phải cố gắng tuân theo những
qui luật này. Phải tự sửa đổi, dù những qui luật này có vẻ
làm cho con người xung đột với đời sống thường nhật và
những phương pháp của nó. Điều này dường như khó khăn, nhưng
nếu đã suy nghĩ
kỹ lưỡng, một người kia cảm thấy rằng những sự đòi hỏi
của một đời sống cao thượng đối với y quá lớn lao, thì y có thể
chờ trong một, hai kiếp nữa trước khi muốn thực sự tiến hóa.
Chúng ta không thể đồng thời sống một cuộc đời dễ dàng, không cố
gắng, không cực nhọc, mà lại tiến hóa nhanh chóng. Nhưng chúng ta
có thể lựa chọn và không được khiển trách ai đã cảm thấy mình
chưa chịu đựng
nổi sự căng thẳng cực
độ này.
Bây giờ tốt hơn là tập thói quen suy nghĩ cho kỹ lưỡng trước khi
nói: Bởi vì khi con được Điểm Đạo rồi, con phải giữ
gìn từ lời nói, sợ e không được kín miệng.
C. W. L.
–
Điều này có thể gây ra sự ngộ nhận đối với một độc
giả không hiểu biết những sự kiện liên hệ đến sự Điểm Đạo.
Nếu người nào có ý muốn tiết lộ những sự bí mật thực sự về
sự Điểm Đạo, y chưa mở miệng thốt nên một lời nào, thì y đã quên
mất rồi, không có chi mà phải phản bội. Vậy thì những bí mật
thực sự được hoàn toàn giữ kín. Không bao giờ có những việc lọt
ra ngoài, không thế nào có điều đó được. Còn một sự nguy hiểm
lớn lao cho người được Điểm Đạo mà tánh cẩu thả, bất cẩn. Y có
thể lâm vào một hoàn cảnh
hết sức khốn khổ. Chính tôi đã biết nhiều tài liệu, dù có công
bố trên các nhật báo hình như chẳng có tai hại gì, nhưng người ta
xin tôi đừng lập lại, thì
tôi vẫn im lặng, không biết vì lẽ nào. Lời hứa là lời hứa. Phải
xem nó như một sự cam kết thiêng liêng. Nếu ai không đồng ý với quan
niệm này thì tốt hơn nên bỏ
ngay ý nghĩ tiến triển trên
con đường Huyền Bí Học.
Đừng ham nói những chuyện tầm phào; nó vốn phù phiếm và vô vị.
Khi nó kéo ra chuyện nói hành thiên hạ, thì lại trở thành độc
ác.
C. W. L.
–
Những lời nói mà chúng ta phải gọi là vô ích, thật ra thường có
lý do để tiêu khiển thì giờ một cách vui vẻ. Trong thời đại chúng
ta thịnh hành thói quen có thể đáng tiếc, là phí nhiều thì giờ
để đàm thoại, đáng lẽ dùng để suy nghĩ còn có ích hơn. Chắc
chắn có những lúc chúng ta nói những chuyện hoàn toàn không cần
thiết chỉ để làm vui lòng người khác, họ sẽ có thể ngạc nhiên
nếu chúng ta cứ im lặng mãi. Nhưng ngoài trường hợp đó ra, biết
bao câu chuyện vô ích mà dường như lý do duy nhất là chỉ nói để
mà nói thôi! Đó là một điều lầm lỗi. Những người bằng hữu chân
thật có thể rất hữu phước gặp gỡ nhau trong sự im lặng, họ được
kết hợp chặt chẽ với nhau
trong tư tưởng. Trái lại, nếu
vì sợ cuộc đàn thoại mất hứng thú, nên phải tiếp tục nói,
thì khốn thay, người ta lại nói nhiều điều mà tốt hơn là phải im
lặng. Kẻ hay nói nhiều chẳng phải là người khôn ngoan nhất và
thường chỉ là người khôn ngoan bực trung.
Vậy thì con hãy tập cho có thói quen nghe hơn là nói. Đừng tỏ bày
ý kiến của con, nếu người ta không ân cần hỏi con.
C. W. L.
–
Vài người không thể nghe phát biểu một sự xác nhận nào mà họ cho
là sai lầm hay thiếu sót mà không cãi lại
ngay. Do đó sinh ra sự bất hòa và tranh luận. Chúng ta nên
hiểu rõ rằng chúng ta không có bổn phận sửa chữa ý kiến của kẻ
khác hoặc đưa kẻ lầm lạc
vào đường ngay nẻo chánh. Bổn phận của chúng ta là giúp đỡ kẻ
khác tùy khả năng mình và một cách êm thắm. Nếu người ta có hỏi
ý kiến chúng ta, chúng ta hãy bày tỏ
một cách thật trầm tĩnh và ôn hòa mà không có một tinh
thần chống đối nào cả. Cho rằng ý kiến chúng ta có lợi hơn cho
những kẻ ở chung quanh ta là
điều vô ích, vì đôi khi nó chẳng ích lợi chi cả, mà bắt kẻ khác
phục tòng là điều lỗi lầm. Có thể một người
nào đó biết đích xác về một sự kiện nào đó mà chúng ta
quả quyết rằng không phải thế, nhưng tốt hơn nên để y nói. Chắc
chắn điều này làm cho y thích ý và cũng không có gì hại đến
chúng ta chút nào. Dù y tin rằng trái đất dẹp hay mặt trời xoay
chung quanh quả đất, thì đó là chuyện riêng của y. Còn ai lãnh
chức vụ của một nhà giáo dục, có bổn phận phải dạy dỗ một số
học sinh, thì phải sửa đổi chúng một cách dịu dàng và bình
tĩnh: Đó chính là bổn phận của những người giáo hóa trẻ con,
nhưng không ai có trách nhiệm làm nhà giáo dục của quảng đại quần
chúng.
Thật ra, nếu
chúng ta nghe ai nói xấu người nào, chúng ta có bổn
phận phải nói: "Xin
bạn thứ lỗi. Bạn không hoàn toàn có lý. Điều đó không đúng với
sự thật", rồi bạn cố gắng hết sức lập lại các sự kiện. Một
người không được ai binh vực đã bị công kích thì bổn phận của
chúng ta là phải bàu chữa cho y.
Có một câu gồm hết các đức tánh phải tập là: tri, cảm, nguyện,
mặc, mà đức tánh chót là khó hơn hết.
C. W. L.
–
Những người thuộc về phái Hoa Hồng Thập Tự Giá có đưa ra nguyên
tắc này: người nào đã cương quyết tiến trên đường Huyền Bí Học
thì nhất định phải hiểu biết, phải dũng cảm, phải quyết chí và
phải trầm mặc. Phải hiểu những định luật thiên nhiên và có gan áp
dụng chúng nó. Muốn sử dụng những quyền năng cao siêu đã ban cho
chúng ta trên Đường Đạo, thì phải có một ý chí dũng mãnh, có
khả năng chủ trị được những quyền năng đó cũng như tự kiềm chế
lấy mình vậy. Và sau khi thành công, ta dè dặt đặng
đừng nói ra điều đó.
� Y �
HÃY LO LẮNG VIỆC NÀO CÓ CAN
HỆ VỚI MÌNH
Còn một sự ham muốn thông thường phải bài trừ một cách
nghiêm khắc là xen vào chuyện thiên hạ. Điều nào kẻ khác
làm được, nói được hay tin được không can hệ tới con, con hãy tập
cho quen tánh để y làm trọn vẹn một mình theo ý y muốn. Ngày nào
y không can dự vào chuyện thiên hạ, thì ngày đó y còn quyền tư
tưởng, nói năng và hành động tự do. Con đây cũng vậy, con yêu cầu
được quyền tự do làm điều nào mà con tưởng rằng tốt, vậy con
cũng phải để cho kẻ khác được tự do như con vậy, và nếu người ta
dùng quyền tự do của người ta, thì
con không được phép kích bác.
C. W. L.
–
Đừng can thiệp vào chuyện tín ngưỡng và hành động của kẻ khác,
khi mà dĩ nhiên những chuyện ấy không trái
ngược với quyền lợi chung. Nếu một kẻ nào đó làm cho những
người đến gần y đều
phiền hà, không chịu
nổi y, đôi khi chúng ta có bổn phận đưa ra ý kiến, tuy nhiên dù
trong trường hợp đó, thường thường tốt hơn là chúng ta nên rút lui
và để cho sự việc tự dàn xếp một cách êm ái.
Thuộc về giống dân
Anglo-Saxon (Anh
–
Nhật-nhĩ - man)
[53],
chúng ta rất hãnh diện về quyền tự do của mình, nhưng thật ra
chúng ta không được tự do chút nào, vì những tập quán trói
buộc đến một mức độ gần như không thể tưởng tượng được. Chúng ta
không ăn mặc hoặc lưu thông theo ý muốn. Chẳng hạn một người thích
ăn mặc theo lối cổ Hy Lạp - có thể y phục đó là một trong những y
phục đẹp nhất từ trước đến
nay - nếu y ăn
mặc như thế ra đường,
thì đám đông có thể bu quanh y, và y có thể bị bắt giữ vì đã gây
trở ngại cho sự lưu thông. Trong bất cứ xứ tự do thật sự nào, y
có thể ăn mặc và hành động theo ý mình, với điều kiện là không
làm phiền kẻ khác. Nhưng không, không có tự
do thật sự; chúng ta
không thể tách khỏi con đường của tất cả mọi người đều đi, hoặc
đi lệch ra một chút mà không
gây nhiều nỗi khó khăn và xáo động. Đó là điều đáng tiếc vậy.
Sự hoàn toàn tự do rất tốt đẹp đối với tất cả mọi người nhất
là đối với những ai muốn can thiệp vào công việc của kẻ khác.
A. B.
–
Đa số chúng ta đều đúng đắn
và nhiệt thành, chúng ta tin chắc giá trị và sự học hỏi của
chúng ta, chúng ta xác nhận một cách hợp lý sự quan trọng tối cao
của nó, và chắc chắn chúng ta muốn kẻ khác chia xẻ những tình
cảm của mình, đôi khi chúng ta
hầu như muốn ép buộc họ nghe theo chúng ta nữa. Đó là sự
lầm lỗi chung của tất cả những người bẩm chất nhiệt thành. Một
người kia có thể tiếp nhận một cách vui vẻ những gì mà chính y
đã biết, mặc dù trí óc y có thể không biết điều đó và không thể
tỏ bày cho y được. Trước khi chấm dứt thời kỳ dự bị ấy, y không
thể thu nhận một chân lý nào từ
bên ngoài đến; và
muốn cưỡng bách y phải theo nó là làm hại y hơn là làm lợi.
Cũng thế, tâm thức không
thể được sáng tạo nhờ một ảnh hưởng bên ngoài. Nó chỉ là kết
quả của những kinh nghiệm quá khứ. Vậy chấp nhận một giáo lý
nào hay một lời khuyên nào là biểu hiện sự trình
bày bên ngoài đã đánh thức những ý niệm sẵn có trong con
người qua bộ óc như một làn chớp. Về phương diện này, vai trò duy
nhất của vị Huấn Sư là mang đến cho con người tại cõi Trần, những
ý niệm mà con người đã biết ở mấy cõi khác.
Một trong những Đại Giáo Chủ đã cho biết rằng không ít bài
học về Thông Thiên Học đã được giảng dạy cho nhiều người trong
giấc ngủ của xác thịt họ.
Vậy "con người thật" học hỏi và những ý niệm đã được thu thập
rồi trong giấc ngủ có thể được một vị Huấn Sư giảng dạy lại một
lần nữa tại cõi Trần, những lời giảng dạy ấy sẽ giúp cho những
sự hiểu biết thâm nhập vào bộ óc. Vị Huấn Sư
tại cõi Trần không thể làm gì hơn thế được.
Nhờ những sự thất vọng
tiếp diễn, mà chúng ta biết rằng không thể giúp con người bằng
cách muốn cho họ đi vào con đường mà họ chưa được chuẩn bị trước.
Như thế chúng ta sẽ rất yên lòng, và chúng ta cũng sẵn sàng giúp
đỡ khi nhận thấy điều đó có thể hữu ích, hoặc sẵn sàng tránh xa
trong trường hợp biết trước sự giúp đỡ của mình vô hiệu, nghĩa
là trường hợp người ta không lợi dụng được ý kiến
của chúng ta. Đứng trước thái độ này, những người không
hiểu biết thường kết luận rằng chúng ta lãnh đạm, nhưng thực ra
người tiến hóa cao phân biệt một cách chính xác trường
hợp nào có thể giúp đỡ được và trường hợp nào nên rút
lui.
Nếu không biết phải hành
động thế nào cho chính đáng, thì nên áp dụng
những phương thức thí nghiệm. Bạn hãy đưa ra một
ý kiến. Nếu ý kiến này được tiếp đón một cách lãnh đạm
hoặc bị bác bỏ, bạn
nên hiểu rằng trên
đường lối đó bạn không thể giúp đỡ kẻ đối thoại của bạn. Bạn
hãy chờ đợi hoặc thử dùng một phương sách khác, tùy trường hợp.
Làm như thế còn tốt hơn là đưa tất cả những sự kiện hiểu biết
của bạn cho người ấy. Bạn đừng trấn áp hoặc đè nén tinh thần y
bằng cách trút đổ toàn thể những sự
hiểu biết của bạn lên y, hoặc cố gắng bắt buộc y phải thu
nhận nó. Những người thường đòi hỏi phải cho họ được tự do, nhưng
họ ghê tởm một cách kỳ lạ,
khi họ phải để cho kẻ khác tự do. Đó là một lỗi lầm lớn lao, vì
kẻ khác cũng như chúng ta vẫn được quyền có những ý kiến riêng
biệt và phát biểu như chúng ta.
Đôi khi, đó là một lỗi
lầm ngược lại. Đi từ cực đoan này đến cực đoan khác, bạn đừng
nghĩ rằng bạn phải chấp nhận ý kiến của thiên hạ. Sự phê phán
khác biệt nhau tuyệt nhiên là điều chính đáng. Bạn có thể nói
với tất cả sự thành thật của mình: "Không, tôi không đồng ý về
điều đó ", hoặc bạn có thể giữ
im lặng. Nhưng có điều bạn nên tránh là công
kích kẻ khác vì y binh vực ý kiến riêng
của y. Đứng trước một sự quả quyết nào đó, bạn hãy bắt
đầu tự vấn lương tri của
bạn và luôn luôn dùng lý trí xem xét nó. Bạn hãy để cho mọi
người được tự do. Song bạn phải tự chủ, không lệ thuộc ai cả.
Nếu con tưởng rằng y làm quấy và con có dịp tỏ riêng với y thì
phải nói một cách hết sức lễ phép, vì cớ nào con không nghĩ như
thế. Có lẽ con làm cho y tin được, nhưng trong nhiều trường hợp, can
thiệp như thế cũng không phải cách nữa. Dù thế nào con cũng đừng
đem chuyện đó nói với một người khác, vì
làm như thế thật sái quấy lắm.
A. B.
–
Đôi khi bạn có thể giúp đỡ một người mà bạn biết đang đi vào con
đường sai lầm về đạo lý; nhưng ở đây cần phải
hết sức thận trọng, vì trong nhiều trường hợp tương tự như
thế rất dễ làm hại hơn là làm lợi. Chắc chắn sự giúp đỡ như
thế phải được thực hiện một cách đặc biệt và hoàn toàn thân
mật, theo lời chỉ dẫn của
Đức Thầy. Nếu kẻ đối thoại của chúng ta đã có sẵn một
định kiến, chúng ta chỉ có thể để y tự học bằng sự kinh
nghiệm. Mà may thay kinh
nghiệm là một ông thầy hết sức giỏi.
Một người có ý tưởng sai
lầm đến trình bày với bạn. Rất vô ích mà nói rằng ý tưởng đó
không có giá trị chi cả, trừ phi bạn chắc chắn rằng y tin tưởng
vào sự phán đoán của bạn
hơn là của y, hoặc ít ra y cũng chú trọng đến lời khuyên giải của
bạn. Trong nhiều trường hợp, chính người ấy phải tự
khám phá chỗ sai lầm của y và tốt hơn chúng ta đừng ngăn
cản y làm công việc đó. Người ta thường đến tìm tôi và báo vài
điều tiên tri mà họ cho là quan trọng. Thường thường tôi lắng nghe
một cách điềm tĩnh và lễ độ song không bày tỏ một ý kiến nào.
Đến khi lời tiên tri không ứng nghiệm, nhà tiên tri tự
thấy rằng mình lầm lạc, nhưng phải để cho y tự kết luận.
Những câu chuyện như thế không thể tránh khỏi khi có nhiều người
học hỏi Huyền Bí Học. Thường thường họ bị lạc đường vì sự phán
đoán của họ đã mất nền tảng cổ truyền. Họ tự hỏi vì sao bao
nhiêu tiêu chuẩn của họ sắp vỡ từng mảnh trong tất cả những trận
địa chấn này. Trong trường hợp như thế, việc duy nhất nên làm là
không được vội vã, phải yên lặng giữ bình tĩnh và thăng bằng. Tất
cả sẽ dần dần sáng tỏ, sự giả trá và sai lầm sẽ tiêu tan, và
sự chân thật sẽ tồn tại.
Nếu con thấy ai làm hung ác với một đứa trẻ con hay là một con
thú, thì con có bổn phận
phải ngăn cản.
A. B.
–
Sự can thiệp trong trường hợp này phải là một bổn phận, vì sức
mạnh mà hà hiếp sức yếu thì
y có bổn phận phải bảo vệ, bởi chính sức yếu không thể tự
bảo vệ cho mình. Như thế mỗi khi một đứa trẻ hay một con thú bị
hành hạ, kẻ mạnh hơn có bổn phận phải can thiệp, không cho kẻ bị
hiếp đáp mất quyền của nó và khổ sở vì bị kẻ khác tước đoạt
tự do. Vậy khi bạn thấy một đứa trẻ bị đối xử tàn bạo, thì bạn
nên luôn luôn phản đối và cố gắng can thiệp cho có hiệu quả.
Nếu con thấy ai vi phạm phép nước, thì con phải báo cho nhà cầm
quyền biết.
C. W. L.
–
Người ta đã bàn luận nhiều về đoạn này, và do đó nhiều
người đã bất bình.
Điều này cũng là, vì thật ra, nếu bạn im lặng trước một trọng
tội, thì trước hay sau sự
việc xảy ra tùy theo trường hợp, bạn vẫn là kẻ đồng lỏa và luật
pháp kết tội bạn như thế. Nhưng người ta có thể nói rằng: "Phải
chăng chúng tôi dọ thám kẻ khác để biết họ có vi phạm phép nước
hay không"? Chắc chắn không
phải như thế. Bạn không phải là những cảnh binh có phận sự truy
tầm kẻ thủ phạm.
Pháp luật bảo đảm sự
đoàn kết trong cả nước. Nó thiết lập trật tự
cho sự lợi ích chung. Vậy mỗi công dân đều có bổn phận giữ
gìn luật pháp. Tuy nhiên mọi người phải sử dụng lương tri của
mình. Không ai cho rằng mình phải tuân theo những luật lệ cổ hủ,
dù chúng được lưu giữ trong các văn bản. Không cần phải chịu
khó thông báo những sự vi
phạm nhỏ nhặt. Chúng ta hãy lấy một thí dụ
về việc vi phàm quyền tư hữu. Nếu bạn thấy một người nào
băng ngang vườn kẻ khác đặng đi tắt, tôi tưởng rằng bạn không cần
phải đi thưa gởi. Nếu người ta hỏi bạn, thì dĩ nhiên là bạn
phải thuật lại sự kiện ấy. Một thí dụ khác nữa: đó là luật
cấm buôn lậu. Tôi tưởng rằng một công dân tốt phải tuân theo luật
đó và không nghĩ đến việc buôn lậu một thứ gì. Đồng thời, nếu
một người bạn đồng hành của tôi tìm cách buôn lậu thuốc hút hay
một món hàng hóa tương tợ khác, thì ắt hẳn tôi không có bổn phận
đi tố cáo với nhà chức trách, vì vấn đề vi phạm luật không làm
hại đến ai cả.
Riêng cá nhân tôi, tôi không
vi phạm luật ấy, vì tôi nghĩ rằng
luật pháp được thiết lập để chúng ta tuân hành. Nếu nó
không thích hợp, cần phải tu chính, thì phải căn cứ vào đường lối
của Hiến Pháp. Có vài điều luật khó tuân giữ. Ở vài xứ việc
chủng đậu bị bắt buộc. Riêng tôi
[54],
tôi không đồng ý và chỉ ưng thuận khi bị cưỡng ép, bởi tôi thích
vào tù hơn là chủng ngừa, vì đó là việc làm không tốt. Trong mọi
vấn đề mỗi người phải hành động theo ý mình.
Bên Ấn Độ, những án mạng
được mục kích phải phúc trình bằng cách kể lại một cách chính
xác. Dĩ nhiên, những tội ác này đều quan trọng. Kẻ chứng kiến
một vụ sát nhân hay một hành vi cướp bóc có bổn phận phải báo
cáo lại, nhưng trong nhiều trường hợp
không quan trọng không cần làm như thế. Theo luật pháp Ấn Độ,
người ta không cho mình là đồng lõa nếu không báo cáo lại một số
việc nhỏ mọn.
A. B.
–
Khi thấy luật pháp bị vi phạm, mọi người công dân đều có bổn phận
phải ngăn cản. Đó là một trong những trách nhiệm sơ đẳng. Tuy
nhiên, một ngày kia lời dạy này đã bị cãi cọ. Một sinh viên đến
tìm tôi và cho rằng trong sách có một câu mà em không đồng ý, vì
nó biểu lộ sự tọc mạch, một sự do thám trong mọi công việc của
kẻ khác. Thật ra, câu ấy không có nghĩa gì giống như thế cả, nhưng
nếu bạn thấy ai vi phạm luật nước, thì
phải can thiệp, vì luật pháp giữ
gìn sự kết hợp của
một dân tộc, nó thiết lập và bảo vệ trật tự, và tạo ra một sợi
dây liên hệ giữa mọi người dân. Như vậy mọi người đều có bổn phận
bảo vệ pháp luật. Không ai có quyền che giấu một án mạng sắp
diễn ra. Nếu hành động như
thế, người ta sẽ trở thành kẻ tòng phạm. Thường thường điều đó
được mọi người công nhận,
nếu ai thấy tội ác diễn ra mà không cấp báo, sẽ bị xem như đồng
lõa trước pháp luật và sẽ bị luật pháp trừng trị. Tôi phải giả
định rằng em sinh viên ấy không thật cân nhắc những lời nói của em,
vì một nước
mà người công dân không
nhận thức được bổn
phận sơ đẳng này và trốn tránh nó, thì nước ấy sẽ rơi vào
chỗ suy vong vì không có tinh
thần công
cộng.
Nếu con lãnh phần giáo hóa người nào, thì con có bổn phận phải
chỉ cho y biết lỗi của y một cách dịu dàng.
C. W. L.
–
Đó là lẽ tự nhiên. Sở dĩ một đứa trẻ, một học sinh, một người
giúp việc được đặt dưới quyền chúng ta, bởi vì chúng ta trưởng
thành và khôn ngoan hơn. Nếu
chúng ta không chỉ những lỗi chúng đã phạm phải, chúng không thể
lợi dụng được sự hiểu biết và kinh nghiệm của chúng ta. Do đó
chúng ta thiếu trách nhiệm
đối với chúng và xao lãng bổn phận mà chúng ta phải chu
toàn vì chúng ta được đặt để trên chúng nó.
Trừ ra những trường hợp trên đây, thì con phải lo lắng việc riêng
của con và tập lấy đức tánh im lặng.
A. B.
–
Nếu lời giới răn này được tuân hành thì xã hội sẽ đổi khác biết
bao! Thay vì luôn luôn đề phòng những kẻ lân cận, một người kia
sống cuộc sống riêng của mình một cách tự do và cởi mở, vì
những tôn trọng yên tĩnh lẫn nhau sẽ có thể hành động theo ý riêng
của mình. Lòng khoan dung và thiện chí sẽ thay thế việc can thiệp
vào chuyện của kẻ khác và chỉ trích nhau. Hiện nay giống
dân thứ năm của chúng ta đang chi phối thế giới, là giống dân
hay gây hấn, hiếu chiến và hay phê bình, chỉ trích, nhưng chúng ta
phải cố gắng sống như con người trong những thời đại tương lai, tức
là như giống dân chánh thứ
sáu. Muốn được như thế phải thực
hành đức khoan dung và lòng nhân hậu
tích cực. Điều này dẫn đến ý niệm về tình huynh đệ đại
đồng, là nguyên tắc căn bản của giống dân thứ sáu.
C. W. L.
–
Hình như không khó khăn gì mà lo lắng cho công
việc riêng của mình, nhưng rất ít người làm được. Đoạn này
có nghĩa là phải lấy thái độ chung về đức khoan dung và thiện
chí thay thế cho những điều tệ hại hiện nay đang lan tràn, tôi muốn
nói tinh thần hay can dự vào
việc kẻ khác và hay chỉ
trích. Người nào hành động một cách hoàn toàn khác lạ hơn bình
thường, tôi e rằng nhiều
người sẽ kết luận ngay là y làm như
thế vì những lý do tồi tệ. Không phải như
thế: có thể y có lý do riêng. Hơn nữa, ít ra y
không phạm phải một hành động bất chính rõ ràng hoặc xen
vào công việc của kẻ khác, thì chúng ta nên để y đi theo con đường
của y và hành động theo sở
thích của y.
Cũng giống như những thói
xấu khác hiện nay, nguyên nhân chính của tật xấu ấy là sự thái
quá của những tánh đặc biệt thuộc về giống dân chánh thứ năm và
giống dân phụ thứ năm của giống dân này. Giống dân của chúng ta
đang mở năng lực chỉ trích thuộc về Hạ Trí và sự phát triển này
tiến quá xa sẽ sinh ra tánh công kích, gây gổ và lý sự. Còn những
người nhắm vào sự tiến hóa về phương diện Huyền Bí Học thì phải
mở Bồ Đề Tâm, ấy là đức tánh Hợp Nhất, đó là đức tánh tổng
hợp, chớ không phải sự phân tích và cố gắng tìm những sự tương
đồng hơn là những điều dị biệt. Sự phát triển đức tánh
này sẽ là nhiệm vụ của giống dân chánh thứ sáu, và giống
dân phụ thứ sáu thuộc giống dân chánh thứ năm, hiện nay đang sinh
sản ở Mỹ Quốc, Úc Châu và nhiều nơi khác.
Trong Hội Thông Thiên Học,
chúng ta đề cao ý niệm về tình huynh đệ. Một
trong những cách thực hiện tình huynh đệ là đi tìm những cơ
hội để khen ngợi chứ không phải tìm dịp để trách móc
người khác. Nếu
muốn tìm điều thiện,
bạn có thể tìm thấy trong tất cả mọi người, mọi vật có những
điểm để khen ngợi và những điểm để chê bai. Và chúng ta có những
lý do hết sức tốt đẹp trong việc tập trung sự chú ý của chúng ta
vào những đức tánh tốt chứ không phải những điều đáng trách cứ.
Như vậy có thể làm cho cán cân chênh lệch đi một ít. Chúng ta có
thể nhường cho kẻ khác tìm lỗi của họ. Chắc chắn là họ không bỏ
thói quen khiển trách và họ sẽ vui thích mà làm việc đó
hơn chúng ta. Một lối thực tập hay nhất là đi tìm những khía cạnh
tốt đẹp. Phải bắt đầu thực hiện công việc này trước mới có thể
biết rõ những điều lành trong con người phong phú đến đâu. Rồi
chúng ta sẽ khám phá được tất cả mọi đức tánh tốt đẹp trong
những người mà chúng ta đối đãi không có một chút chi công bình
nào cả. Nhận xét những người ít quen biết với chúng ta bằng cách
chỉ căn cứ trên một hay hai
sự kiện là việc làm rất dễ. Chẳng hạn, thấy họ dường như nổi
cáu, chúng ta cho họ là những người nóng nảy. Một ngày
kia chúng ta thấy họ không bằng
lòng, rồi chúng ta kết luận họ là kẻ luôn luôn bất mãn. Có
thể chúng ta gặp họ trong lúc chẳng may, và đời sống bình thường
của họ có thể không giống những điều chúng ta tưởng nghĩ
chút nào.
Nếu thỉnh thoảng chúng ta
bị lầm lạc, thì sự lầm lạc này nên
thuộc về khía cạnh tốt, chúng ta nên cho kẻ khác có tánh
tốt nhiều hơn thật sự mà y đã có. Như thế chẳng thiệt hại gì cho
y cũng như chẳng thiệt hại gì đối với chúng ta. Một vị Chơn Sư
đã nói rằng: "Trong mỗi người đều có khía cạnh tốt và có
khía cạnh xấu". Bạn chớ nên
cho một người nào có tánh tình xấu xa, bạn sẽ mong cho
những hành động của y phù hợp với sự xấu đó và nếu y không làm
việc sái quấy, thì bạn có thể thất vọng, vì như thế chứng tỏ
bạn xét đoán sai lầm. Thà đánh giá quá cao hàng trăm người còn
tốt hơn là xét đoán một người theo cách quá khắc nghiệt. Cầu xin
Bồ Đề Tâm của chúng ta hoạt động để ít ra giúp cho chúng ta chỉ
tìm khía cạnh tốt chớ không phải điều xấu, trước hết sẽ có lợi
trên phương diện chân lý và công bằng, và sau đó đã hiểu biết về
quyền năng của tư tưởng, chúng ta biết rằng khi nhận thấy điều xấu
ở một người nào đó, chúng
ta sẽ làm cho y trở nên
xấu hơn trước, nhưng khi thấy điều
tốt ở
y, chúng ta sẽ giảm
bớt được điều xấu
và trợ giúp sự tăng trưởng điều lành.
Một trong những bài học
chính yếu mà chúng ta cần
phải học là đừng để cho Hạ Trí lôi cuốn chúng ta và đừng gán cho
kẻ khác những lý do đê tiện. Kinh nghiệm của chúng ta cho thấy
những nhân tính có thể sai
lầm, và luôn luôn không phải con người hoạt
động do tánh vị tha. Khuynh hướng tự nhiên của chúng ta là
tìm nguyên do trong tình cảm ích kỷ, thay vì trong sự cao thượng.
Chúng ta không nên để cho mình rơi vào mức độ ngờ vực và ý
muốn xấu xa này. Sự cần
thiết có ích cho chúng ta cũng như cho kẻ
khác là trước nhất phải đi tìm lý do cao thượng hơn hết;
ngay cả khi chúng ta không
biết được, chúng
ta cũng vẫn nhìn nhận
ý muốn tốt lành của
kẻ khác. Khi chúng ta nghĩ đến một lý do xấu xa, tức là chúng ta
tăng cường nó bằng tư tưởng, vì Cái Trí của chúng ta rất dễ cảm
thụ. Nếu một người có hơi yếu đuối, chúng ta nhìn nhận cái hảo
ý của y, chẳng bao lâu y sẽ hổ thẹn vì ý tưởng thấp thỏi của y
và sẽ thay thế nó bằng một khuynh hướng cao thượng. Hơn nữa khi
gán những lý do tốt lành cho tất cả những người bạn thân của
chúng ta, chúng ta chắc chắc rằng mình có lý đến chín phần mười.
Đành rằng, thiên hạ, theo thói quen vô liêm
sĩ sẽ phê phán chúng ta: "Anh chỉ là người khờ khạo, dại
dột thôi". Tốt hơn là khờ khạo mà làm điều lành theo lối đó còn
hơn là kẻ sắc sảo mà không thể nghĩ tốt cho ai cả.
Đúng ra, không ai thật có
ý xấu cả. Vậy hãy tránh sự sai lầm chung là gán những lý do
riêng biệt cho những người làm những
điều mà chúng ta gọi là xấu xa, quấy quá. Chúng ta chớ nên
có thái độ bất công cho
rằng những người ăn thịt nào cũng đều nghĩ rằng việc ấy không
mấy quan trọng và họ đã làm điều
mà họ biết là ác. Sự thật không đi ngược với những tình
cảm tốt lành của họ, họ sống theo tập quán và không tưởng tới
điều ấy. Đó là những người thật tốt. Thời Trung Cổ, những người
giống như họ chẳng lần lượt đưa nhau lên giàn hỏa ư, mà không có
nghĩ gì hơn? Một trong các Đức Thầy của chúng ta đã nói: "Mục
tiêu của chúng ta chẳng phải là làm cho con
người có đức hạnh, mà căn cứ trên sự tốt lành,
tạo ra những trung tâm tinh thần mạnh mẽ".
HẠNH KIỂM TỐT
CHƯƠNG THỨ MƯỜI TÁM
�
Y
�
Đức Thầy kể sáu điểm về hạnh kiểm đặc biệt, bắt buộc phải có
là:
I. Tự chủ trong lúc tư tưởng.
II. Tự chủ trong lúc hành động.
III. Khoan dung.
IV. An phận.
V. Đi thẳng
đến mục đích cũng có thể dịch
là tư tưởng cố định
[55].
VI. Lòng tin cậy.
(Tôi biết vài điểm trên đây thường được dịch khác, chẳng hạn như
những danh từ về các đức tánh cần thiết, nhưng tôi luôn luôn dùng
những danh từ của Đức Thầy đã dùng khi giảng giải cho tôi).
A. B.
–
Theo lời Alcyone, vài danh từ
đã được Đức Thầy dịch có hơi khác với những danh từ mà chúng ta
đã quen dùng. Đối với ba
đức tánh đầu, chúng được dịch gần giống như những danh từ mà tôi
đã dùng trong nhiều năm qua. Ba đức tánh sau cùng dịch có hơi khác,
dù nghĩa chính của chúng vẫn là một. Tôi luôn luôn dịch đức tánh
thứ ba của các điểm thuộc về Hạnh Kiểm Tốt là "Khoan dung", như
Đức Thầy dịch ở đây, nhưng tôi biết nhiều người không đồng ý về
sự chọn lựa danh từ này. Danh từ do tiếng Phạn là
Ouparati, nguyên nghĩa của nó là "Ngừng lại", "Đình chỉ"
(chúng tôi nghĩ rằng danh từ ngừng lại liên hệ đến những tình cảm
như tinh thần chỉ trích và sự bất mãn. Vậy trạng thái tích cực
của đức tánh này là sự khoan dung).
Tôi luôn gọi điểm thứ tư
là "Sự chịu đựng" hay
Titiksha. Thật ra, ý nghĩa An
phận vẫn không thay đổi, vì chịu đựng ắt phải kèm theo sự An
phận. Trong trường hợp này, Đức Thầy vui vẻ một cách đặc biệt -
nếu tôi dám mạo muội dùng
chữ này - Ngài phiên dịch
bằng cách làm nổi bật đặc tánh ấy. Mỗi người lấy nó làm đề
tài tham thiền thì rất tốt. Kế đó là đức tánh "Đi thẳng đến mục
đích". Chính do chữ Phạn là
Samadhana mà tôi dịch là "Thăng bằng". Ở đây ý nghĩa cũng giống
như nhau vì người mà đường hướng không thay đổi, cố định thì thăng
bằng và ngược lại người được thăng bằng thì đường hướng không thay
đổi. Sau cùng, đến chữ Shraddha
mà tôi luôn luôn gọi là "Đức tin". Ở đây
Shraddha được dịch là "Lòng
tin cậy", nhưng một lần nữa ý nghĩa ở đây vẫn in
như nhau, vì tôi luôn luôn định nghĩa Đức tin
là Lòng tin tưởng sâu xa ở Thượng Đế bên trong chúng ta
[56]
và ở nơi Đức Thầy. Điều tốt hơn hết là ghi nhận những điểm dị
biệt và những điểm tương đồng,
chúng giúp chúng
ta hiểu rõ ý nghĩa.
I. Tự chủ trong tư tưởng: Đức tánh cần thiết, được mệnh danh là
đoạn tuyệt, chỉ cho chúng ta biết rằng phải làm chủ
Cái Vía. Tuy nhiên cũng phải làm chủ Cái Trí nữa. Điều này
có nghĩa là chế phục tánh khí làm sao cho không thể giận hờn hay
nóng nảy. Cũng phải chế phục Cái Trí thế nào cho tư tưởng luôn
luôn được yên lặng và thanh tỉnh; và nhờ Cái Trí trấn áp bộ thần
kinh cho nó ít căng thẳng được bao nhiêu tốt bấy nhiêu.
C. W. L.
–
Trấn an bộ thần kinh quả là một trong những điều khó khăn đối với
chúng ta, vì chúng ta đang cố gắng thực hiện một kinh nghiệm mới
lạ tức là hối thúc sự tiến hóa của mình (do đó chúng ta cần
tinh lọc những thể thấp và làm cho chúng trở nên càng ngày càng
nhạy cảm), trong lúc phải lo cuộc sinh sống giữa thế tục. Vấn đề
này càng khó khăn thì cuộc chiến thắng của chúng
ta càng vinh quang. Khi chế phục được chúng rồi thì chứng tỏ
rằng nhờ ý chí chúng ta đã tiến bộ hơn vị tu sĩ hay vị ẩn sĩ.
Đôi khi người ta trừ được
tánh nóng nảy, nhưng sự kiểm soát trọn vẹn các thể
thấp còn khó khăn. Có thể còn có lúc bực tức, nổi nóng,
trong khi thực sự tánh nết nóng nảy khi xưa đã hoàn toàn biến
mất. Như thế
ít nguy hại hơn là còn tánh nóng nảy mà che đậy nó, nhưng
chúng ta cũng phải trừ tuyệt tánh đó đặng những người ở chung
quanh chúng ta đừng lầm lạc. Nếu bạn có Thần Nhãn bạn nhìn vào
Thể Vía của một người đi đường nào đó, bạn sẽ thấy nó là một
khối quay cuồng. Thay vì có những đường vạch rõ rệt, những màu
sắc phân minh vận chuyển điều hòa, thì bạn lại thấy hiện trên mặt
năm mươi hoặc sáu mươi lòng chảo nhỏ, hay là những
xoáy ốc quay cuồng
mãnh liệt đến đỗi mỗi sự xoáy nhanh ấy tạo thành một cái gút
cứng ngắt giống như một mục cóc. Bạn hãy quan sát những mục cóc
này, tất cả đều sinh ra bởi hàng loạt những cử chỉ nóng nảy,
những sự lo lắng nhỏ mọn, những tình cảm như hờn mát, ganh ghét,
đố kỵ, cũng có thể là sự hận thù đã nổi dậy trong người này,
trong vòng bốn mươi tám giờ qua. Những trốt xoáy lớn hơn và lưu
lại lâu dài hơn, nếu y cứ lập lại nhiều lần
cùng trong một tư tưởng như thế đối với một người khác.
Ngày nào
con người
còn ở trong tình
trạng này thì ngày đó y không thể nào suy tư một cách sáng suốt
và chính xác như y có thể
làm được. Nếu y muốn suy nghĩ hay viết về một đề tài nào đó thì
những luồng trốt xoáy này nhuộm màu và làm biến đổi lối nhìn
của y, dù y có quên đi những cảm xúc đã làm nảy sinh ra chúng.
Người ta quên cơn xúc động
của sự bất mãn, không biết rằng hiệu quả của nó vẫn tồn tại và
thường thường những luồng trốt xoáy này vẫn không thay đổi.
Các nhà có Thần Nhãn hay
có Thiên Nhãn nhận biết những thành kiến, những tiên kiến một
cách rõ ràng. Chất Trí Tuệ phải di chuyển mau lẹ, chẳng phải trên
mặt nhưng trong vài vùng hay khu vực. Nói một cách
tổng quát, chất khí có khuynh hướng tự sắp xếp
theo mật độ của nó. Chất khí thô kệch di chuyển trong một
mức độ nào đó khắp châu
thân, nó có khuynh hướng qui tụ ở phần dưới hình bầu dục.
Do đó những người bị chi phối bởi những tư tưởng, những tình cảm
ích kỷ, thì hình bầu dục ấy giống như quả trứng được thăng bằng
theo đầu lớn của nó. Đối với những người thật sự
vị tha hoặc tiến hóa
trên phương diện Huyền Bí
Học, thì hình bầu dục giống như quả trứng đứng sửng trên đầu
nhỏ. Thể trí có bốn khu vực hay bốn vùng riêng biệt chấp chứa
những loại tư tưởng khác
nhau.
Giả sử một người kia có
những tư tưởng tôn giáo rất hẹp hòi. Chất trí tuệ thay vì di
chuyển tự do trong vùng của nó, nó lại dồn cục cho đến khi nhô ra
thành một khối, rồi bắt đầu dậy lên và hôi hám. Bởi những tư
tưởng tôn giáo của y phải xuyên qua khu vực này của Thể Trí, cho
nên không bao giờ có thể đúng đắn, vì sự
rung động của nó bị chứng bệnh của Thể Trí làm cho mất
hiệu lực - nói theo
nghĩa từng chữ thì như thế - chứng bệnh của Thể
Trí đến ghép vào điểm này. Những thiên kiến của y làm sự
phán đoán của y không thể
tránh khỏi sai lạc cho đến khi nào y bắt đầu tự chữa trị cho mình
lành mạnh bằng cách kiểm soát và thanh
lọc Cái Trí có phương
pháp. Chỉ tới chừng đó, y mới có thể nhận thức đúng, nghĩa là
thấy mọi vật như Đức Thượng Đế đã thấy, đã hiểu
biết toàn thể hệ thống của Ngài một cách chính xác như nó
đang hiện hữu.
Những thành kiến không cần
phải nghịch hẳn với người hay vật, mà thường lắm khi chúng lại
trợ giúp cho người và vật nữa. Dù ở trong trường hợp này thành
kiến cũng là một chân lý bị biến đổi, mà sự sai dị ấy cũng
hiện ra trong hào quang. Một trong những
trường hợp thường xảy ra là một bà mẹ không hề tin rằng từ
tạo thiên lập địa đến giờ không có một hài nhi nào phi thường như
con bà. Một thí dụ khác: một nghệ sĩ không thể thấy cái gì tốt
đẹp trong bất cứ trường Mỹ thuật nào khác hơn trường Mỹ thuật
của y.
Tất cả những điều này,
xét về phương diện tâm linh giống như
một vết thương hở miệng, xuyên qua đó sức mạnh ý chí con
người thoát ra ngoài không ngừng. Đó là trường hợp của một người
bực trung. Nếu y tánh tình buồn bực, thì dĩ nhiên tình trạng còn
tệ hơn nữa, con người chỉ là một vết thương. Y không còn sức lực
nữa, tất cả đã bị tiêu hao. Nếu chúng ta muốn giữ thần lực để
dùng vào việc hữu ích - và
phải như vậy nếu muốn trở
thành nhà Huyền Bí Học - thì công
việc đầu
tiên của chúng ta là
diệt trừ tất cả những nguyên nhân gây ra những hao tổn này. Muốn
dập tắt một đám cháy phải cần một vòi nước. Nước phải được phun
ra dưới một áp lực mạnh mẽ và vòi hoặc ống nước phải không có
một lỗ trống nào. Đối với chúng ta điều này tiêu biểu sự yên
tĩnh và kỷ luật về tư
tưởng.
Người bực trung dường như
có chút ít hoặc không có sức mạnh của ý chí. Dưới áp lực của
những sự khó khăn, y chán nản, rên siết và than vãn thay vì phải
dùng ý chí để giải quyết chúng. Có hai lý do để giải thích sự
nhu nhược này. Mức độ sức mạnh trong mỗi người tùy thuộc ở cách
hiểu biết Chơn Ngã của y, và tùy thuộc ở sự phát triển của y do
cái Ngã Duy Nhất, tức là Đức Thượng Đế ở trong y. Theo nguyên tắc,
sức lực của chúng ta đều
bằng nhau, nhưng sở dĩ con người khác nhau là do sự phát triển của
tinh thần trong mỗi người. Nơi người thường có rất ít năng lực, mà
y còn phung phí cái y đã có nữa.
Đa số những người trong
chúng ta muốn có ý thức rõ rệt hơn
về sự hiện diện của Đức Thầy và về việc đem từ cõi cao
xuống óc xác thịt nhiều thứ ảnh hưởng tốt lành khác. Những ảnh
hưởng này phải xuống bằng cách mượn những thể khác nhau và sự
phản chiếu của chúng xuyên
qua từ thể này đến thể kia. Bạn hãy nhìn mặt nước hồ hay mặt
nước sông phản chiếu hình ảnh một bụi cây. Nếu mặt nước tuyệt
đối yên lặng, bức tranh thật hết sức đẹp. Mỗi lá cây đều được
trông thấy rõ ràng. Nhưng một gợn sóng nhỏ cũng đủ xáo
trộn trọn cả hình
ảnh, hoặc một cơn gió bão thổi đến, thì toàn thể hình ảnh ấy
phải biến mất. Điều này
thật đúng đối với những gì đã xảy ra trong Thể Vía và Thể Trí.
Phải bắt chúng nó yên lặng và bất động, nếu chúng ta muốn
cho chúng nó truyền
đạt những ảnh hưởng thật sự và quí báu từ cõi cao đưa xuống.
Người ta luôn luôn hỏi rằng: "Tại sao chúng ta không nhớ lại những
hành động của chúng ta trong giấc ngủ"? Và đây là lý do của sự
kiện ấy: Vì những thể thấp chưa được yên tịnh cho lắm. Thỉnh
thoảng, chúng trở nên khá yên tịnh để truyền đến cái óc xác thịt
một điều gì, tuy nhiên trong trường hợp này, thường thường cũng bị
biến dạng một ít, vì các thể trung gian không hoàn toàn trong
sáng. Sự kiện này cũng
giống như khi ta nhìn một
vật xuyên qua một ve chai thay vì nhìn qua một tấm kiếng, những
kích thước, những khuôn khổ của vật ấy sẽ bị biến đổi.
Khi được yên tịnh, chúng ta
có thể làm việc mặc dù có
những sự xáo trộn và buồn phiền, nhưng hiển nhiên muốn duy trì sự
yên lặng của các thể thấp trong những trường hợp đó, chúng ta luôn
luôn phải cố gắng. Sự cố gắng khó nhọc
đến đỗi vài người không thể chịu nổi, nhưng họ phải dần
dần thu hoạch sức mạnh cần thiết ấy.
Nhờ giữ kỷ luật đối với
chính mình, nhà Huyền Bí Học tập làm việc một lượt trong hai
cõi. Nói một cách khác trong khi làm việc tại cõi Trần, nhà
Huyền Bí Học có thể xuất hồn ra. Trong lúc đang viết hay nói, ông
có thể ở trong Cái Vía làm những việc khác. Chẳng hạn tôi nghe
nói rằng trong khi tôi diễn thuyết có nhiều
thính giả thấy những người ở Trung Giới đứng trên bệ đến
gần tôi và nói chuyện với tôi. Những quan sát viên ấy không lầm.
Thường thường những người khuất mặt này đến gần như thế để hỏi
một vấn đề gì rồi chờ câu
trả lời hoặc nhờ giúp đỡ một việc gì, trong khi cuộc diễn thuyết
vẫn tiếp tục. Đó là một thí dụ tạm thời tầm thường, nhưng có
nhiều công việc quan trọng hơn, nhà Huyền Bí Học phải sử
dụng Tâm Thức mình
một cách phức tạp để hoàn tất.
Trong mức độ nào đó, lắm
khi sự định trí song hành vẫn được thực hiện trong đời sống hằng
ngày. Nhiều bà có thể vừa đan vừa nói chuyện vì công việc
đan ấy đối với họ
trở thành tự động. Tôi thường đến một trong những ngân hàng lớn ở
Luân Đôn. Nơi đây tôi thấy
nhiều nhân viên có thói quen vừa cộng những hàng số dài, vừa ca
nho nhỏ đặng làm vui tai các đồng nghiệp
của họ. Tôi nhìn nhận
tôi không thể làm như thế được, nhưng tôi đã thấy họ đã làm
nhiều lần.
A. B.
–
Trong đoạn giải về Đoạn Tuyệt, Đức Thầy đã nói về
sự kiểm soát Thể Vía và dục vọng dưới mọi hình thức.
Trong đoạn đề cập đến sự
Phân Biện, Ngài cũng nói nhiều về chân lý bao hàm về sự thanh lọc
Thể Trí. Rồi Ngài nói qua sự kiểm soát tư tưởng
và những xúc động. Một sự xúc động là sự kết hợp giữa tư
tưởng và dục vọng. Nói một cách khác những mối xúc động là sự
ham muốn pha lẫn tư tưởng. Khi Đức Thầy đề cập đến sự kiểm soát
tánh khí của chúng ta, thì Ngài nói về sự xúc động, vì sự nóng
nảy và những tình cảm tương
tợ khác đều phát sinh một phần do Thể Vía và một phần do Thể
Trí. Người chí nguyện làm nhà Huyền Bí Học không được để cho
tánh khí hăng hái lôi cuốn mình, vì ngày nào chưa chủ trị được
nó để chế ngự những cảm xúc náo loạn, thì ngày đó y không thể
thấy được một cách sáng sủa hoặc rõ ràng. Những làn rung động
của sự cảm xúc làm nổi dậy trong chất khí thuần túy của Thể
Trí một cách kích thích tương ứng, do đó tất cả những tư
tưởng của kẻ chí nguyện bị xáo trộn và biến thể, nên y
không thể thấy một cách chính xác.
Đức Thầy nói rằng chính
tư tưởng phải yên lặng và trầm tĩnh. Đó là điều cần thiết, vì
chỉ trong các điều kiện này những ảnh hưởng trên cõi cao mới có
thể tuôn xuống Hạ Trí. Chính vì thế nên trong quyển
Thế giới huyền bí (Le Monde
occulte) Ông Sinnett đã kể lại trong một bức thư cũng là của Đức
Thầy này nói với ông rằng nếu ông muốn
viết cho hữu ích, thì ông phải giữ
Cái Trí cho tĩnh lặng. Bây giờ những tư tưởng trên cõi cao
sẽ phản chiếu xuống như núi non phản chiếu trên mặt hồ yên lặng.
Thật là chí lý, nếu
bạn muốn viết một bức thư về một đề tài quan trọng, như
Thông Thiên Học chẳng hạn, hoặc viết một bài báo, bạn nên ngồi yên
tĩnh tâm trong vài phút trước khi khởi công.
Như thế không phải là phí mất thì giờ, vì khi bạn bắt đầu
viết, bạn sẽ thấy tư tưởng tuôn ra một cách thanh thản mà không
cần cố gắng, và bạn không cần phải dừng lại để hỏi xem bạn sẽ
tiếp tục nói điều gì. Sở
dĩ có sự kiện này vì Thượng Trí đã phản chiếu xuống tấm gương
của Hạ Trí. Phương pháp thực hành này đặc biệt quan
trọng đối với những người còn chưa thể xóa bỏ được những
ảnh hưởng ngoại giới.
Người ta có thể dùng sự
xáo trộn gây ra bởi hoàn cảnh bên ngoài để thực hành sự định
trí. Lúc tôi còn bé, tôi phải học bài trong một căn phòng mà nơi
đó nhiều đứa trẻ đang thụ lãnh một môn học khác. Tình trạng này
dần dần tạo cho tôi một khả năng làm những công việc riêng của tôi,
trong khi mọi hoạt động khác đang diễn tiến chung quanh tôi. Do đó,
ngày nay tôi có thể làm việc
mà không bị những gì xảy ra ở một bên
cạnh tôi quấy rầy tôi, dù trong những điều kiện đó, tôi cũng
không thể làm những bài toán
một cách dễ dàng. Tôi luôn luôn
nhớ ơn bà thầy dạy
học tôi là cô Marryat. Sự thực tập tạo ra năng lực, và năng lực có
thể dùng trong nhiều đường lối khác. Chẳng hạn tôi nhận thấy rằng
tôi có thể dùng năng lực này khi tôi ở ngoài xác thân lúc tôi viết
về một trong những tiền kiếp của Alcyone.
Trong nếp sống của những
gia đình Ấn Độ, năng lực này phát triển một cách hoàn toàn tự
nhiên, vì người Ấn Độ có thói quen
làm nhiều việc khác nhau trong cùng một căn phòng, không kể
những đứa trẻ chạy khắp nơi và nhiều chuyện lặt vặt khác. Ở
trường làng cũng như ở tại nhà, nhiều trẻ con học trong cùng một
giờ những bài học khác nhau. Tất cả đều đọc lớn, mỗi em đều chăm
chú vào bài của mình, dưới sự chăm nom chung của một ông thầy sẵn
sàng sửa lại tức khắc những lỗi của chúng. Tôi tưởng rằng đây
không phải là một lối dạy học lý tưởng đối với một môn học nào,
nhưng trẻ con tập định trí, điều
này sẽ rất hữu
ích cho chúng về sau này.
Nếu bạn đạt được khả năng
đó thì càng tốt. Vậy, nếu bạn bị bắt buộc phải sống trong hoàn
cảnh ồn ào, bạn chớ phàn nàn, mà
lợi dụng hoàn cảnh ấy. Đó là lối làm việc của sinh viên
Huyền Bí Học. Tôi nhấn mạnh đặc điểm này, vì chính nhờ những
phương tiện đặc biệt như thế
mà người ta trở thành nhà Huyền Bí Học. Công việc được hoàn
thành trong những hoàn cảnh khó khăn là cơ
hội giúp cho chúng ta tiến bộ. Đó là một trong những lý do
khiến cho vài người trong chúng
ta đã tiến triển, còn những kẻ khác thì
kém hơn. Riêng tôi, tôi luôn luôn cố gắng thích nghi với hoàn
cảnh, chớ không phàn nàn. Bằng cách đó chúng ta sẽ không bỏ lỡ
một cơ hội nào để tiến hóa.
Điểm sau chót này khó đạt được, vì khi con cố gắng chuẩn bị để
bước vào Đường Đạo, thì con không thể nào ngăn cản thân con không
cho nó nhạy cảm hơn trước, vì lẽ đó mà một tiếng hay một sự
đụng chạm đều làm cho những dây thần kinh của con bị chấn động
một cách dễ dàng, và dù bị chạm phớt nhẹ, chúng cũng nhức nhối
vô cùng, nhưng con phải cố gắng hết sức con.
A. B.
–
Đức Thầy nói khó mà chủ trị được những dây thần kinh. Vì lẽ xác
thân là thể ít chịu tuân theo sự hành động của tư tưởng. Bạn có
thể hành động một cách dễ dàng đối với Thể Vía và Thể Trí, vì
chúng được cấu tạo bằng
chất khí thanh bai nên có thể thích ứng nhiều với tư tưởng. Nhưng
vật chất Hồng Trần nặng nề hơn, nên
ít ứng đối hơn và khó chủ trị hơn. Tuy nhiên, chúng ta
phải đạt được mục
đích.
Người đệ tử phải nhạy
cảm, đồng thời phải có một xác thân và bộ dây thần kinh hoàn
toàn tuân theo kỷ luật. Một khi sự nhạy cảm càng tăng, thì nỗi
khó nhọc càng lớn. Nhiều tiếng động đối với
người thường không có gì đáng kể, nhưng đối với người nhạy
cảm lại là một sự hành hạ. Có vài chứng bệnh làm phát triển
sự nhạy cảm quá độ của bộ
thần kinh, nên trong nhiều trường hợp có tiếng chó sủa cũng có
thể gây ra những sự động kinh
[57].
Thí dụ này đủ chứng tỏ rằng bộ thần kinh cảm xúc lẹ làng là
chừng nào!
Những dây thần kinh của
sinh viên Huyền Bí Học thì không
bệnh hoạn. Nếu chúng đau yếu, thì y không bị bắt buộc phải
luyện tập. Nhưng y giống như một sợi dây căng thẳng, vừa đụng đến
thì nó rung động liền. Những dây thần kinh của y trở nên nhạy cảm
đến cực độ, nên muốn ngăn cản sự nóng nảy, y phải dùng đến sức
mạnh vĩ đại của ý chí. Ở trong tình trạng đó, sự căng thẳng thể
xác có thể lớn lao đến nỗi trong vài trường hợp, như trường hợp
của Bà Blavatsky, đôi khi tốt hơn nên để cho xác thịt hành động tự
do, hầu ngăn chặn trước một
sự đổ vỡ hoàn toàn. Bà phải giữ xác thân để hoàn thành
nhiệm vụ được giao
phó, nên bà không để cho sự căng thẳng đi đến chỗ gãy đổ. Nhưng đó
là trường hợp ngoại lệ. Người chí nguyện nhất định nghe theo lời
giáo huấn của Đức Thầy, phải làm những điều Ngài dạy ở đây và
phấn đấu hết sức mình để chế phục bộ thần kinh của y. Thường
thường y không đạt được ý
muốn, nhưng điều
đó không quan hệ lắm. Những lời cuối cùng của Đức Thầy về
việc ấy như sau: "Con phải cố gắng hết sức con". Ngài không đòi
hỏi nhiều hơn: vậy bạn không nên để cho sự thất bại khiến cho bạn
ngã lòng, mà hãy tiếp tục làm hết sức mình.
Tình trạng rối loạn như
thế đôi khi phát sinh từ một lý do bên trong của chúng ta, bởi quá
cẩn thận và ý thức mà do đó những sinh viên hết sức nhiệt thành
cũng có thể vấp ngã. Có
hai khuynh hướng
phát hiện trong những sinh viên: khuynh hướng thứ nhất là lôi
thôi, chểnh mảng; khuynh hướng thứ nhì là hành hạ mình.
Trong trường hợp thứ nhì, tâm thức có thể đi đến một tình
trạng giống như trạng thái những dây thần kinh căng thẳng quá độ.
Do đó những sinh viên ưu tú đã cho là quan trọng những sa ngã nhỏ
nhặt. Bạn đừng quá nhấn mạnh những điều ấy đến đỗi chúng
trở thành những tội ác lớn lao. Bạn hãy đi theo con đường trung
dung giữa hai cực đoan đó. Trước khi sự việc
xảy ra bạn không thể quá thận trọng, nhưng sau đó, rất dễ
mà tự làm cho mình khổ sở. Đừng
nhấn mạnh những lỗi lầm hay những thất bại của bạn. Bạn
chỉ nên xem xét chúng để nhận thấy nguyên do, rồi cố gắng nữa. Khi
hành động như thế, những khuynh hướng khiến cho bạn nóng giận sẽ
tiêu tan. Còn nghĩ đến chúng, chỉ tăng cường sức mạnh cho chúng
thôi.
C. W. L.
–
Xác thân là một thể mà ý chí ít ảnh hưởng được nhiều. Người ta
thường nói: "Có thể sai khiến thể xác hoạt động
và chủ trị luôn tình cảm, nhưng điều khiển tư tưởng là điều
thật khó khăn hơn nhiều".
Không có gì khó khăn hơn, đó chính là điều
mà mọi người tin như
thế. Trên vài
phương diện, thật đúng
vậy, vì chất khí làm ra Cái Trí ( Chất Trí Tuệ ) thanh bai và
linh động hơn; có những sự vận chuyển, có nhiều sáng kiến phải
kiểm soát. Một mặt khác, Thể Trí gần với Chơn Nhơn hơn; Chơn Nhơn
có nhiều sức mạnh để giữ
lấy và sử dụng chất Trí Tuệ, điều đó hơn việc có sức mạnh
để sử dụng nó tại
cõi vật chất này; mà vật chất Hồng Trần
cũng ít nhạy cảm hơn. Những người tưởng rằng công việc ấy
dễ hơn vì họ quen kiểm soát xác thân, chớ không quen chủ trị Cái
Trí.
Người ta thường nghe nói
rằng chúng ta có thể chế ngự sự đau khổ xác thân, mà không thể
không biết sự đau khổ của Trí Tuệ. Nhưng sự thật thì trái ngược
lại! Sự đau đớn về Trí Tuệ hay thuộc
về tình cảm sẽ ngưng hẳn, nếu người ta cương quyết xua đuổi
nó ra xa, nhưng thật khó quên một sự đau đớn mãnh liệt của thể
xác, mặc dù người ta có thể làm dịu bớt nhiều bằng cách không
tưởng nhớ tới nó nữa. Nhà
Khoa học Thiên Chúa Giáo đã đạt được điều đó bằng cách phủ nhận
sự đau đớn. Y chỉ để cho
xác thân chịu đau thôi. Cách
này tương đối không được hay lắm.
Chúng ta phải tập chế ngự
Cái Trí bằng cách loại ra khỏi nó những sự đau đớn của xác thân,
vì là đệ tử Chơn Sư, chúng
ta phải làm cho mình trở nên hết sức nhạy cảm. Do đó, những vị
đệ tử lấy làm khó chịu khi ngồi gần một người uống rượu, hút
thuốc, ăn thịt. Thật là một sự khổ hình khi phải đi trong thành
phố qua một con đường thương mãi với cả ngàn tiếng động chát tai,
ghê rợn. Tất cả những tiếng động đó xuyên qua thể xác và làm cho
ta rùng mình, nhưng nếu nghĩ đến nó thì càng tệ hơn nữa. Còn
không chú ý thì ít biết hơn. Vị đệ tử cố gắng đạt đến những
cảnh giới cao siêu thì phải tập loại ra khỏi thể trí những cảm
giác khó chịu này, mà không thêm cho chúng nó một tư tưởng nào
có thể tăng cường sức mạnh của chúng.
Những ai có tập tham thiền
sẽ nhận thấy mình nhạy cảm hơn
những người không luyện tập. Vì lẽ đó đôi khi xác thân không
ngớt bị căng thẳng một cách đặc biệt. Người ta thường nói
rằng Bà Blavatsky vẫn nổi nóng. Dĩ nhiên điều này có một lý do
rất giản dị: chắc chắn vì
tình trạng đáng thương hại của thể xác bà. Tôi tin chắc xác thân
bà không ngớt đau nhức. Bà đã lớn tuổi, xác
thân bà suy nhược, mỏi mòn, nhưng chỉ có nó mới thích hợp
với công việc đặc biệt mà
bà có bổn phận phải hoàn thành, vì vậy bà phải duy
trì nó chớ không thể vứt bỏ như nhiều người trong chúng ta.
Tuy nhiên, một hôm dịp may đưa đến cho bà bỏ xác. Nhưng bà nói:
"Không! Tôi sẽ giữ nó cho đến khi nào tôi hoàn thành bộ Giáo Lý
Bí Truyền", đó là công việc của bà lúc ấy. Vì lẽ đó, thân xác
của bà ở trong tình trạng căng thẳng khủng khiếp và đôi khi bà
dịu bớt một phần nào sự đau đớn bằng cách để thể xác tự do
muốn làm chi thì làm. Thật ra, nhiều người không hiểu cái chi về
việc đó; nhưng chúng tôi sống gần bà, chúng tôi cho những cơn giận
dũi như thế không mấy quan trọng. Chúng tôi có ghi nhớ nhiều trường
hợp dị thường. chẳng hạn, trong lúc bà thốt ra những lời nói
dường như biểu lộ một cơn giận dữ, vì một chuyện vụn vặt nào
đó, khiến cho những người mới đến với bà, không hiểu chi cả, phải
rút lui, chúng tôi nhận thấy rằng trong khi bị kích thích đó, nếu
có ai hỏi bà một câu Triết lý, thì tất cả đều tiêu tan, như
thể một sợi dây bị cái kéo cắt đứt; cơn thịnh nộ của bà
sẽ biến mất tức khắc và
bà bắt đầu trả lời câu hỏi ấy. Một người thường trong cơn phẩn
nộ không thể làm như vậy được. Nhiều người bỏ Bà Blavatsky, vì
không hiểu bà, nhưng tôi biết chắc chắn rằng đôi khi bà buộc lòng
phải chiều theo xác thân, nếu không thì nó sẽ tan vỡ.
Cái trí yên tịnh cũng bao hàm sự can đảm, như thế mới đương đầu
với những sự thử thách và những nỗi khó khăn trên Đường Đạo mà
không chút chi sợ sệt.
A. B.
–
Tánh can đảm là một đức tánh mà những bản kinh Ấn Độ đều cho là
cực kỳ quan trọng: nguồn cội của nó là sự thừa nhận Chơn Ngã
vẫn là một. Người ta hỏi: "Đối với những người đã thấy được Chơn
Ngã thì còn sợ gì nữa, còn gì là ảo ảnh nữa"? Và cũng đáng
ghi nhớ câu sau này: "Người Bà-la-môn rất can đảm". Trong quyển sách
nhan đề Trước Thềm Thánh Điện
(Vers le Temple) của tôi, tôi khuyên các sinh viên tham thiền về đức
tánh lý tưởng, theo bản kê các đức tánh của Đức Krishna đã kể ra
ở đầu chương thứ mười sáu của
Kinh Gita. Đức tánh đầu tiên là
Abhayam, nghĩa là Vô úy hay Can
đảm.
Tánh can đảm phát sinh ra
từ sự tin chắc rằng bạn là Chơn Ngã thiêng liêng ẩn tàng bên trong,
chớ không phải là những thể
bao bọc bên ngoài, chúng chỉ là thành phần của bạn có thể bị
tổn thương. Sở dĩ quyền năng của người này khác với người kia vì
chúng tùy thuộc vào trình độ của sức mạnh mà Chơn Ngã nội tại
đã đạt được. Trên nguyên tắc, chúng ta đều có sức mạnh ngang nhau,
nhưng sự tiến hóa phát triển theo nhiều thời kỳ phức tạp. Trong
khi đạt đến sự tin chắc rằng
bạn vốn thiêng liêng,
bạn biết sự yếu đuối hay
sức mạnh của bạn đều tùy thuộc vào sự phát
triển Chơn Ngã ở nơi bạn. Vậy khi bạn kinh sợ, thì chỗ nương
tựa của bạn là việc nhớ đến uy lực bên trong. Sự nhận thức rằng
bạn là Chơn Ngã, là một
trong những ý niệm mà sự tham thiền phải mang đến cho bạn. Những
ai tham thiền buổi sáng nên đồng thời cố gắng thực hiện việc tìm
hiểu Chơn Ngã. Như thế trọn
ngày nhờ sự cố gắng
đó họ sẽ dự bị được một phần tinh lực. Điều này giúp họ đạt
được dễ dàng tánh can đảm cần thiết để tiến bước trên
Đường Đạo. Nơi đó người ta gặp nhiều khó khăn, bắt buộc
phải có sức mạnh của Linh
Hồn và sức chịu đựng nếu muốn đương đầu với chúng nó và chiến
thắng chúng nó. Những đặc tính này là những hình thái của tánh
can đảm. Trên Đường Đạo sự vật mang một hình
dáng mới, chúng cũng
cần đến tánh can đảm. Muốn đạt được đức tánh này, tôi biết một
phương thức duy nhất là hiểu biết Chơn Ngã.
C. W. L.
–
Tất cả những hệ thống huấn luyện Huyền Bí Học
đều nhấn mạnh về sự
cần thiết của tánh can đảm. Khi bước vào Đường Đạo, con người
phải sẵn sàng chịu đựng những lời phán đoán sai lầm, những điều
vu khống, những sự ngộ nhận. Những người kiếm thế vượt cao hơn
những kẻ đồng loại của mình luôn luôn phải hiểu những sự thử
thách đó. Phải có một sức mạnh tinh thần mới chịu đựng nổi
những điều ấy, giữ vững lập trường và làm
điều gì mình cho là phải, dù cho những người chung quanh có
tưởng, nói hoặc làm gì cũng được. Nó rất cần thiết đặng thực
hành những lời dạy trong
quyển sách này, phải thêm vào đó tâm hồn
cao thượng và sự cương
quyết mạnh mẽ. Riêng sự can đảm thuộc về hành động cũng cần
thiết. Trên Đường Đạo có nhiều sự nguy hiểm và những sự khó khăn.
Chẳng phải là tượng trưng mà chúng không phải chỉ có ở những
cảnh giới cao siêu mà thôi đâu. Trên bước tiến của chúng ta, chúng
ta phải chịu nhiều thử thách về sự can đảm và sự kiên trì. Chúng
ta nên chuẩn bị về điều ấy. Kẻ
nhát gan không thể
tiến bộ trên Đường Đạo. Nơi đây chẳng phải cần đức hạnh thôi, mà
cần phải có sức mạnh của tính khí không thể lay chuyển
trước cảnh ngộ bất ngờ hay
khủng khiếp.
Tôi biết bên Anh có một
Hội Huyền Bí Học đã cố gắng trong nhiều tuần lễ, hiệu triệu vài
nhân vật bên Trung giới
[58]
bằng cách đọc nhiều thứ thần chú. Rốt cuộc người ta đạt được
kết quả là một sự hiện hình, nhưng không ai muốn ở lại khá lâu
để xem hình ấy là ai. Cũng
giống như thế, có nhiều người tìm cách đạt được kết
quả trên những cảnh giới cao siêu, nhưng khi vừa thành công
thì lại hoảng sợ. Một
người lần đầu tiên xuất Vía mà tỉnh táo như lúc thức đây, có thể
hơi cảm thấy lo sợ và tự hỏi: mình có thể trở về
nhập xác được hay không? Y phải biết rõ rằng cái này cũng
không quan hệ hơn cái kia. Y đã quen thuộc trong nhiều giới hạn, và
khi chúng mất đi thình lình,
rất có thể y cảm thấy mình bị mất chân đứng vững chải. Trên
bước tiến, chúng ta
thấy đức tánh can đảm, lòng dũng cảm chân thật và cương quyết là
điều tối cần thiết. Phải đương
đầu với tất cả những thế lực, chẳng phải là một trò chơi
trẻ con .
Khi hiểu biết, khi nhớ
rằng chúng ta là một với Thượng Đế, chúng ta sẽ không sợ sệt chi
cả. Nhưng đôi khi trước cảnh ngộ nguy biến thình lình, người ta quên
đi và lại lùi bước. Không một ảnh hưởng tạm thời nào có thể
kích động, hoặc làm tổn hại được
chút nào Chơn Ngã nội tại. Vậy nếu chúng ta có thể tin
chắc rằng, chúng ta là Chơn
Ngã, chớ không phải là những thể bên ngoài,
chúng ta sẽ không còn sợ hãi nữa. Nếu người ta còn cảm
thấy sợ sệt một điều gì, thì phải tìm đến cái mãnh lực gia hộ
bên trong, chớ không phải cầu cứu với sự trợ giúp bên ngoài. Về
phương diện này, giáo lý Cơ
Đốc tầm thường đã gây ra những hiệu quả đáng tiếc. Họ bảo
tín đồ phải luôn luôn nương cậy vào sự cầu nguyện. Và cầu nguyện
có nghĩa là sự van xin, mà sự nài xin không thể áp dụng - nhưng
người ta thường làm - cho trạng thái của sự khát vọng tối cao.
Danh từ "cầu nguyện" do chữ La Tinh
precari có nghĩa là xin, yêu
cầu, không hơn không kém. Nếu chúng ta tin rằng Thượng Đế
là Đấng Toàn Thiện, chúng ta hãy theo lời khuyên của Đức
Phật: " Con chớ nên than, chớ nên khóc, chớ cầu xin, mà hãy mở mắt
ra nhìn. Ánh sáng bao phủ con, nếu con chỉ chịu giở tấm băng bịt
mắt ra xem. Quang cảnh thật
là kỳ diệu, xinh đẹp và cao cả hơn tất cả những gì mà con người
có thể tưởng tượng hoặc xin xỏ bằng sự cầu nguyện; và nó sẽ
không bao giờ chấm dứt. Không bao giờ".
Tôi biết nhiều người có
thói quen cầu cứu với Đức Thầy trợ giúp, khi họ gặp những khó
khăn. Chúng ta có thể chắc rằng tư
tưởng Đức Thầy luôn luôn gần chúng ta. Và chắc chắn rằng
chúng ta có thể đến gần Ngài, nhưng tại sao chúng ta lại làm rộn
Ngài vì một việc mà chúng ta có thể làm lấy. Lẽ tự nhiên, chúng
ta có thể cầu cứu Ngài, nhưng thật ra, nếu chúng ta có khả năng
kêu gọi đến Đức Thượng Đế
bên trong ta và nhận được sự giúp đỡ nhiều hơn, như thế chúng ta
sẽ gần Đức Thầy hơn là khi
chúng ta thốt lời kêu cứu với Ngài một cách yếu ớt. Đành rằng
chúng ta có quyền cầu xin Ngài giúp đỡ, nhưng chúng ta biết rằng
Ngài bận làm việc không ngừng cho nhân loại, sao chúng ta lại nghĩ
đến việc kêu gọi Ngài, trong
khi chúng ta còn một phương tiện nào đó có thể tự làm một mình
được? Chúng ta chớ nên dùng phương thức đó, vì nó biểu lộ một sự
thiếu đức tin. Không những không tin tưởng ở chính mình, mà chúng
ta còn không tin tưởng ở uy lực thiêng liêng nữa.
Sự tham thiền cũng phải
chuẩn bị để chúng ta đối phó với những cảnh ngộ bất ngờ và
giúp chúng ta khỏi bị rối loạn. Những người đã hiểu được định
luật bên trong phải giữ điềm tĩnh và can đảm, dù có việc gì xảy
ra, vì chúng ta biết rằng giữ một thái độ như thế là điều kiện
cần thiết của một sự tiến bộ thật sự. Sự đụng chạm, đảo lộn do
một sự đụng chạm dữ dội vì xúc động sinh ra sẽ lưu lại trên các
thể nhạy cảm của người đệ tử những dấu vết lâu dài.
Đức tánh ấy cũng bao hàm tánh kiên quyết, nó giúp con chịu đựng
dễ dàng những nỗi phiền muộn hằng ngày và tránh được các sự lo
âu không ngớt về những chuyện nhỏ nhặt, chúng đã làm mất một
phần lớn thì giờ của nhiều
người.
A. B.
–
Tánh kiên quyết là đức tánh cần thiết kế đó mà Đức Thầy đã đề
cập đến. Người đệ tử cần phải có đức tánh này mới
khỏi bị lôi cuốn theo chiều gió. Chịu lệ thuộc vào những
sự vật bên ngoài là nguyên nhân của mọi sự ưu phiền không ngớt.
Người không đủ sức điều
khiển những công việc riêng của mình được, thì không
thể tận tụy cho công
việc chính chắn nào cả. Cái điều làm cho con người hao mòn, chẳng
phải là sự làm việc, mà là những mối bận tâm, và sự lập đi lập
lại một dọc tư tưởng đau buồn. Người sợ sệt, rụt rè khó tránh
được thói quen ấy, dưới hình thức này hay hình thức khác.
Trong vài trường hợp Cái
Trí có khuynh hướng bày ra một tấn kịch có lớp lang, rồi nó sống
trong tấn kịch của nó đã tạo ra. Điều đó thường xảy đến
cho tôi. Tôi đề cập đến sự kiện này cũng như nhiều kinh
nghiệm bản thân khác, vì tôi nghĩ rằng làm như thế lời nói của
tôi sẽ sống động và hữu
ích hơn là chỉ trình bày
một cách trừu tượng. Đa số
những người chí nguyện có lẽ đã để cho Cái Trí tạo nên những
tấn kịch như thế, vì chúng ta đều có bản tính tương tợ nhau. Tôi
thường tưởng tượng rằng trong lời nói và việc làm tôi đã làm
phật lòng một người bạn thân của tôi, rồi tôi nghĩ ra cuộc gặp gỡ
đầu tiên của chúng tôi, từ
lúc mở câu chuyện đến lúc cuối cùng. Vậy mà khi chúng tôi
gặp nhau thật sự, không có điều chi xảy ra như tôi đã tiên đoán, vì
những câu khơi mào của bạn tôi luôn luôn khác xa với điều mà tôi đã
giả tưởng. Đôi khi, như thế người ta đã gợi lên
một cảnh tượng buồn
thảm, rồi tưởng tượng sẽ
phải hành động như thế nào trong những trường
hợp cảm động giả tạo đó. Cuối cùng người ta đi đến trạng
thái của Cái Trí bị khốn khổ, mà họ phải mất bao nhiêu tình cảm
và xúc động. Trong tất cả mấy điều đó, không có cái chi xảy ra,
và có lẽ không bao giờ xảy ra. Đây chỉ là một sự phung phí năng
lực mà thôi và không có cái chi khác.
Bày ra tấn kịch như thế
chỉ tạo ra những sự ưu phiền vô ích. Đó là làm suy nhược bản
chất của trí tuệ và cảm xúc. Chỉ có phương thức duy nhất để
diệt trừ thói quen này là
bạn hãy tự đặt mình ra ngoài bối cảnh và ghi nhận xem bạn có
một ảnh hưởng nào đến tư tưởng đầu tiên trong cả loạt không. Nếu
có, bạn hãy làm chủ nó, bằng không, thì nghĩ đến chuyện chưa xảy
ra chẳng ích gì và rốt
cuộc, có lẽ nó chẳng bao giờ đến. Để cho Cái Trí mải miết tập
trung tư tưởng vào những chuyện có thể xảy ra trong tương lai là
việc làm vô ích. Cũng như suy nghĩ lẩn quẩn về những chuyện đã
qua rồi cũng là điều bất
lợi. Bởi vì bạn không thể thay đổi
được quá khứ chút nào, thì lẽ tự
nhiên buồn phiền về việc đã qua chẳng ích lợi gì cả.
Nhiều người cương trực đã
đầu độc đời sống của mình, vì cứ luôn luôn nghĩ đến việc đã qua
rồi và thầm nói: "Nếu tôi đã làm hoặc tôi không làm điều
này hay điều khác, thì tôi chẳng bao giờ phiền muộn
như vậy". Dù chúng ta
nhìn nhận sự thật đúng như thế nào đi nữa, chuyện cũng đã qua
rồi, không một tư tưởng nào sửa đổi được dĩ vãng. Vì mảng lo
những chuyện đã xảy ra hoặc sắp xảy ra thình lình trong tương lai
mà chúng ta bị mất ngủ ban
đêm, lo lắng suốt ngày. Cái Trí hoạt động theo cách đó chẳng khác
một cái máy thả hết tốc lực hay quả tim lồng lên một cách dữ
dội, khi sức chịu đựng bình thường của nó bị giảm đi, thì điều
đó làm tổn hại cho cái máy
và trái tim nhiều hơn là làm việc. Bạn nên biết rằng Cái Trí sôi
động như thế là vô ích và còn tai hại nữa. Bạn nên đưa nó vào nề
nếp và tốt hơn nên tập dùng tinh lực của bạn vào công việc hữu
ích. Hành động như trên là việc dại dột mà hầu hết mọi người
đều thường mắc phải, nhưng người chí nguyện làm đệ
tử phải hết sức tránh sai lầm đó.
C. W. L.
–
Trong tất cả những sự khó khăn của Trí Tuệ, chỉ có những sự ưu
sầu là hại hơn hết. Chúng chận đứng sự tiến bộ thực sự. Khi
chúng ám ảnh bạn rồi thì chúng làm cho Cái Trí của bạn
không thể tham thiền được. Người thì ưu tư về dĩ vãng, kẻ
lại lo lắng cho tương lai. Khi vừa thoát khỏi mối lo này, thì mối
lo khác lại đến thay thế. Do đó họ không bao giờ được an tịnh, cho
nên đối với họ không có một hy vọng nào có thể đạt được chút ít
hiệu quả trong việc tham thiền.
Có một phương thức tuyệt
diệu là dùng tư tưởng hướng về Đức Thầy thay thế cho ưu tư, nhưng
muốn thực hiện điều này cần có một năng lực khá phi thường.
Thình lình bắt buộc Cái Vía hay Cái Trí luôn sôi động trở nên yên
lặng thì chẳng khác nào trong cơn
giông tố sóng bủa ba đào mà thử dùng tấm ván đè bẹp chúng
nó xuống. Thường thường, phương pháp có hiệu quả nhất là đứng
dậy và kiếm một việc làm như giẫy cỏ hay đi dạo bằng xe đạp. Sự
an tĩnh thường hằng không thể phát sinh ra trước khi các thể thấp
đạt được sự rung động điều hòa chung. Lúc bấy giờ, những sự
luyện tập khác mới có cơ
may thành công được.
Thường thường người ta hay
lo lắng về những tật xấu của
mình. Thỉnh thoảng
mỗi người đều nhận thấy những lỗi và những sự yếu đuối
của mình. Tốt hơn là đừng làm điều đó. Mà còn hy vọng gì nữa?
Nếu chúng ta không lỗi lầm và không yếu đuối, thì tất cả chúng ta
đều thành Chơn Tiên hết rồi. Lãnh đạm trước những khuyết điểm này
và cho rằng chúng không quan trọng mấy, dĩ nhiên là đáng trách,
nhưng bận tâm về chúng một cách vô ích thì cũng đáng trách vậy.
Trong khi bị xâu xé bởi những sự lo âu, Cái Trí xoay tròn, cuống
cuồng một cách vô ích. Nếu bạn đã đi trên tàu thủy, lúc thời
tiết xấu, bạn có thể
nhớ lại đôi khi chân vịt vượt lên khỏi mặt nước và quay
cuồng. Đó là về cơ giới học, sự thả hết tốc lực này gây tổn
hại cho máy móc hơn là sự làm việc có điều độ và lâu dài. Sự
kiện này cũng giống như
ở vấn đề lo âu vậy.
Trong Hội Thông Thiên Học chúng ta có xảy ra những cuộc khủng hoảng
định kỳ. Tôi đã chứng kiến một số việc ấy rồi. Tôi nhớ rất rõ
ràng sự tác động do Coulomb gây ra năm 1884. Nhiều nhà Thông Thiên
Học đã băn khoăn và bối rối đến tột độ, đôi khi đi đến chỗ mất
hẳn đức tin đối với Thông Thiên Học, vì họ cho rằng Bà Blavatsky
đã lường gạt họ. Thật ra sự giả định này không liên hệ đến vấn
đề đó. Đức tin đối với Thông Thiên Học của
chúng ta không hề căn cứ trên những lời tuyên bố của Bà
Blavatsky, cũng như một nhân vật nào khác, mà phải căn cứ trên sự
kiện. Thông Thiên Học này là một hệ thống hoàn hảo và làm
cho thỏa mãn, đã được đem hiến cho chúng ta, và nó vẫn là
chân lý, dù cho Bà Blavatsky đã phạm phải sự gian trá - nhưng trong
trường hợp này hẳn nhiên là không có rồi. Một tín ngưỡng đặt nền
tảng trên sự tôn kính cá nhân thì
ít khi vững chắc, nhưng nếu niềm tin của chúng ta có căn bản
là những nguyên tắc mà chúng ta có thể hiểu thì nó sẽ không thể
lay chuyển được, dù cho vị lãnh đạo được chúng
ta tín nhiệm lại mất
đi.
Đức Thầy dạy con người phải xem những việc bên ngoài xảy đến cho
mình như buồn phiền, khốn khổ, bệnh tật, mất mát, không có chi là
quan trọng cả. Phải xem chúng nó chẳng ra
gì và đừng để chúng
nó làm cho con rối trí. Chúng nó là kết quả của những
hành vi quá khứ, khi chúng nó đến, con phải vui lòng chịu
đựng. Con hãy nhớ rằng mọi sự khổ não trên thế gian đều tạm thời
và bổn phận của con là phải luôn luôn vui vẻ và thanh tịnh. Những
việc đó thuộc về mấy kiếp trước của con, chứ không phải kiếp
này. Con không thể thay đổi
gì được. Vậy thì bận tâm
vì nó là vô ích .
A. B.
–
Ở đây Đức Thầy dạy rằng phải tránh những sự ưu phiền, một lý do
mà tôi e cho nhiều độc giả không biết đến. Ngài
nói rằng cái chi đến từ bên ngoài chẳng quan hệ gì. Những
gì xảy đến cho chúng ta như thế thì hoàn toàn vượt khỏi ảnh
hưởng của chúng ta, vì thuở xưa chúng ta đã tạo ra chúng. Chúng
là Nhân Quả của chúng ta.
Tuy nhiên, điều này không
có nghĩa là chúng ta không thể làm gì được cả. Trái lại, chúng
ta có thể làm nhiều lắm. Chúng ta có thể đón nhận những biến sự
một cách êm đẹp và như thế chúng ta biến đổi hiệu quả của chúng
ta rất nhiều. Ấy cũng như chúng ta
đổi một quả đấm trực tiếp, khá mãnh liệt để quật ngã
chúng ta, thành một đòn phớt nhẹ, so với cái trước thì rất yếu.
Vấn đề chỉ là thay đổi góc độ theo đó chúng ta chịu quả đấm.
Nếu mỗi sự phiền não đến, bạn thầm nói: "Đó là một món nợ
phải trả; thanh toán được nó thật hay lắm". Bây giờ sự ưu phiền
sẽ không còn đè nặng bạn nữa. Một người biết cách sống vẫn an
phận và sung sướng giữa những nỗi khó khăn. Kẻ khác thiếu hiểu
biết điều đó có thể bị đè nặng bởi những ưu tư, mà một phần
lớn vốn là sự tưởng tượng.
Khi bạn bị đau ở thể xác,
bạn có thể nhận thấy ở chính bạn, sự lo âu và đau đớn mà bạn
cảm biết do Cái Trí sinh ra đến mức độ nào. Khi bạn tự tách ra
khỏi tất cả, bạn sẽ thấy sự đau đớn bớt đi nhiều. Bạn có thể
nhận thức sự thật này bằng một cách khác, khi quan sát thú vật.
Một con thú bị gãy cẳng, kéo lết cái chân bị thương vẫn điềm
nhiên ăn cỏ. Con người không làm được điều đó,
nhưng một con ngựa có thể làm được. Những nhà Sinh Lý Học
cho chúng ta biết rằng con ngựa có bộ phận thần kinh mảnh mai hơn
bộ thần kinh
của con người. Vậy nó nhạy cảm đối với sự đau đớn hơn con
người. Bạn hãy hiểu tôi và đừng cho tôi nói rằng thú vật không
biết đau đớn, hoặc đau đớn của chúng không quan trọng. Sự thật
hoàn toàn trái hẳn với điều đó. Chỉ tại con người tăng cường sự
đau đớn của mình và kéo dài nó ra bằng cách cứ chú ý đến nó.
Nếu tập trấn an những
hiệu quả do sự đau đớn tạo ra ở Cái Vía, bạn sẽ biết cách làm
giảm đi một phần lớn sự đau đớn đó.
Những người tự cho mình là Khoa học gia Công Giáo đã làm
dịu được nỗi đau đớn rất nhiều bằng cách xóa bỏ sự hoạt động
Cái Trí, nó thường xen vào làm gia tăng sự đau khổ. Tôi có kinh
nghiệm về điều đó. Khi tôi phải diễn thuyết mà bị đau nhói ở thân
xác, tôi đạt đến chỗ không
cảm thấy đau đớn nữa trong
thời gian tôi đang nói. Tại sao thế? Chỉ vì Cái Trí của tôi hoàn
toàn tập trung vào bài diễn văn của tôi. Nếu bạn có thể hoàn
toàn không chú ý xác thân, như khi bạn diễn thuyết, thì tất cả sự
đau đớn thể xác của bạn mất đi một phần lớn. Khi hoàn toàn làm
chủ Thể Trí, người ta mới có thể đạt đến mức
độ nào đó và để cho
những cảm giác ngoại giới chỉ có ảnh hưởng đến cái thể ở
ngoài. Đó là điều thường xảy ra do ảnh hưởng của một sự kích
thích khá mạnh. Trên chiến trường, người chiến sĩ không cảm biết
mình bị thương trước khi
trận chiến đã tàn và sự yên lặng đã trở lại. Và chắc chắn vài
nhà Tử Đạo đã không nhận biết những ngọn lửa đang phừng cháy vây
quanh họ, nhờ sự xuất thần trong đau khổ vì Chúa của họ. Cũng
giống như thế, nếu một đứa trẻ lâm nạn, bà mẹ nó vì quên hết
mọi sự đau đớn có thể xảy
đến cho bà, bà xông tới cứu nó và giúp đỡ nó.
Người ta có thể không nhờ
sự kích thích trên, cũng đạt được sự tự chủ như thế.
Rồi người ta có thể Vô hiệu hóa (làm mất công hiệu) một
phần lớn mọi đau khổ về tình cảm cũng như
tâm trí. Tôi không muốn nói rằng điều này dễ làm, nhưng nó
có thể thực hành được. Riêng cá nhân tôi, tôi cho rằng không đáng
phí nhiều tinh lực hoặc phải đặc biệt cố gắng để đạt đến một
kết quả không có gì đáng kể như việc làm cho một sự đau đớn nhỏ
mọn của thể xác tiêu đi. Thay vì dùng Cái Trí phục vụ xác thân,
như người ta thường làm, tốt
hơn là đổi chiều hướng nó, và bắt nó làm việc hữu ích hơn. Nếu
bạn có thái độ đúng đắn đối với đời sống, bạn sẽ thấy
rằng những sự vật bên ngoài đó ít quan trọng hơn và bạn
chỉ cho chúng ảnh hưởng đến bề ngoài của bạn thôi. Điều đó nhất
định phải như thế. Cái giá trị của chúng ở chỗ bạn dùng năng
lực để khắc phục được chúng. Xem xét chúng cách ấy bạn sẽ thấy
tinh thần được an tịnh rất nhiều.
Mọi điều xấu đều có tính
cách tạm thời. Nếu bạn nhìn cuộc tuần hoàn rộng lớn
hơn đời sống của bạn và bạn xem xét quá khứ
của bạn, không phải trong từng chi tiết, vì những chi tiết
đều vô ích, nhưng trong chiều hướng chung của nó, thì bạn sẽ nhận
thấy sự thật trên đây. Khi
người ta nhớ lại được đã biết bao nhiêu lần mình phải chịu buồn
phiền, rối ren - như nào người thân chết mất, nào bệnh tật, nào
tổn thất, nào đau khổ đủ loại - thì sẽ thấy những nỗi khổ của
mình giảm bớt và chúng gần
như mất đi ý nghĩa thật
sự của chúng một cách
tương đối. Thử làm như
thế rất cần thiết vì hiện tại ràng buộc chúng ta với nỗi lo âu
vụn vặt, làm cho chúng ta không thấy được những sự hiểu biết sâu
xa nhứt. Khi hiểu được quá khứ xa xăm của bạn, bạn trở nên dũng
mãnh hơn và lúc ấy khi
nghịch cảnh đến với bạn, bạn sẽ nghĩ rằng: "Tại sao tôi hốt
hoảng vì chuyện này? Rồi nó cũng sẽ qua!"
Tôi cảm thấy rằng chắc
chắn tôi sẽ không sống nổi, nếu tôi không xua đuổi được ưu phiền và
chịu đựng những sự khó khăn của hoàn cảnh. Những nỗi buồn phiền
đủ thứ dồn dập đến mỗi ngày, và nếu tôi để cho chúng chi phối,
tôi sẽ không thể nào sống
được tới tám ngày. Trong
thời gian đã qua, tôi có tham dự nhiều cuộc vận động giống như
việc tôi đang lo hiện giờ. Tôi nhận thấy rằng chúng luôn luôn mang
theo sự xáo trộn. Tốt hơn đừng tiên liệu những sự khổ não, nhưng
phải đương đầu với chúng, khi chúng đến, xong rồi dẹp chúng sang
một bên và quên hết.
Đức Thầy nói: "Con có bổn
phận phải luôn luôn vui vẻ và
thanh tịnh". Một ngày kia chúng ta được Ngài cảnh giác chớ
khá bỏ cặn sắt trong lò luyện kim
[59]
của vị đệ tử. Điều xấu, điều nguy hại đó lên cao độ ở
một nơi như Adyar. Tại đây, tất cả cặn sắt tức là các tật
xấu - như mọi thứ phiền não, ngờ vực, lo âu, nghi kỵ, vân vân . . .,
sẽ nhận được sức mạnh
nhiều hơn lúc chúng phát sinh từ người tạo ra chúng. Nếu đôi khi
bạn không thể xua đuổi tức khắc được sự ngã lòng, sự
bất mãn hay tất cả tình cảm xấu xa khác, thì ít ra bạn
cũng giữ chúng lại ở riêng bạn. Bạn chớ để chúng lan tràn ra,
làm nhiễm độc không khí và làm cho đời sống của kẻ khác khó khăn
hơn nhiều. Sau khi khép mình vào kỷ luật đó, bạn sẽ ngạc nhiên khi
nhìn lại tình trạng cũ của
bạn, rồi
bạn sẽ tự hỏi tại sao trước kia những
chuyện chẳng ra gì
có thể
gây xáo trộn cho bạn
được?
A. B.
–
Người hiểu biết vẫn được bằng an và sung sướng giữa cảnh ngộ
buồn phiền mà kẻ khác cho
là nghiêm trọng. Người con vô
minh không chống nổi nghịch cảnh, y vấp ngã, do cách y ứng đối với
nó. Có biết bao nhiêu sự tưởng tượng ẩn sau sự đau khổ của chúng
ta! Quả báo thực sự phải trả thường không đáng kể, nhưng
lắm khi vì lầm lỗi con người đã tăng gia gấp đôi hoặc thập
bội sự đau khổ của mình. Cho rằng điều ấy thuộc về nghiệp cũ
thật là bất công. Không, đó chỉ là kết quả do việc làm khờ dại
hiện thời của chúng ta gây ra. Ông Sinnett gọi sự kiện đó là "Quả
báo nhãn tiền".
Số nợ phải trả của chúng
ta không thể sửa đổi được. Luật Nhân Quả bắt buộc chúng ta phải
chịu đau đớn đến một mức độ
nào đó, nhưng nếu nó có thể gia tăng, thì nó cũng có thể
giảm bớt được. Nhờ cố gắng, chúng ta có thể vận dụng một sức
mạnh mới, và đổi được hiệu quả của một quả đấm trực tiếp thành
một đòn phớt nhẹ, theo lối nói của Bà Chánh Hội Trưởng của
chúng ta, nên chúng ta cảm thấy nhẹ hơn nhiều. Mỗi sự cố gắng như
thế có nghĩa là có sự can thiệp của một yếu tố mới, như vậy
thì không có gì là bất công, không có gì là can thiệp trong sự
tác động của Luật Nhân Quả. Năng lực đã phung phí vào việc khác
nay dùng để sửa đổi quả đấm.
Lẽ tất nhiên tất cả những
điều xấu xa, quấy quá đều là tạm thời. Một vị vua Ba Tư đã lấy
câu này làm phương châm: "Rồi cái
này cũng sẽ qua". Câu châm ngôn ấy thật tuyệt diệu vì nó
thích ứng với việc vui mừng cũng như việc phiền não, với điều may
mắn cũng như rủi ro, dù tình trạng chi phối đời sống chúng ta
hiện giờ thế nào chăng nữa. Chỉ có sự tiến hóa thực sự và sự
vui vẻ phát xuất từ nội tâm, mới là điều tồn tại. Những điều
này sẽ trường tồn mãi mãi. Dù sự đau khổ hiện tại của chúng ta
như thế nào, nó chỉ có một thời gian thôi. Chúng ta đã từng đau
khổ và từng chịu thử thách
trong những kiếp trước rồi. Hiểu rõ điều này nó giúp đỡ chúng ta
rất nhiều. Những chuyện gây lắm rối rắm cho chúng ta trong tuổi
thanh xuân ngày nay không còn là quan trọng
nữa. Chúng ta thầm
nói: "A, những việc này không quan trọng chi cả. Tại sao tôi lại lo
lắng đến thế"? Người khôn ngoan học hỏi bằng cách nhìn về phía
sau và nói rằng: "Những chuyện khác làm cho tôi lo lắng bây giờ
đây, chắc chắn chúng sẽ không quan trọng gì hơn mấy việc trước".
Đúng vậy, nhưng chỉ có người khôn ngoan mới kết luận được như thế
mà thôi.
Tốt hơn con nên nghĩ đến những việc hiện tại, chúng sẽ định phần
số con kiếp sau, vì đối với những điều đó, con có thể
sửa đổi được.
C. W. L.
–
Kiếp sau của bạn sẽ tùy thuộc một phần lớn nghiệp quả của bạn
tạo ra trong kiếp này. Nhưng
có một điều quan trọng hơn
nữa là: chẳng bao lâu Đức Chưởng Giáo sẽ lâm phàm. Những biến cố
sẽ dồn dập tới, Thần lực ban rải xuống thật phi thường, và
ảnh hưởng của nó có hiệu quả chung quanh chúng ta đến một
mức độ nào đó, chúng ta là những người cố gắng chuẩn bị cho
cuộc lâm phàm, không những chúng ta có thể sửa đổi được kiếp tới
của mình, mà còn sửa đổi được những ngày còn lại trong kiếp này
nữa.
Nghiệp quả của người đệ
tử làm công việc này, thì mãnh liệt hơn phần đông những người
khác. Người đời làm và có thể làm
nhiều việc mà không có gì là khổ cho họ. Nhưng nếu những
việc này do những người bước gần
đến Đường Đạo làm thì chúng tạo ra
những điều vô cùng tai
hại. Đối với người đệ tử, thì những gì xảy đến cho y tức là
xảy đến cho Đức Thầy, vì Đức Thầy đã làm cho người đệ tử thành
một phần tử của chính mình Ngài: "Không ai sống cho một mình mình
và cũng không ai chết cho một mình
mình"
[60].
Điều này vẫn đúng cho mỗi người, nhưng đối với ai muốn
phụng sự những Đấng Chơn Sư Cao Cả thì phải thận trọng gấp
đôi. Trong Huyền Bí Học tất cả những gì làm cho công việc
của bạn đồng Đạo trở nên khó khăn, đều gây ra những nghiệp
quả nặng nề.
Con không nên buồn bực hay chán nản, sự chán nản là điều xấu xa,
vì nó nhiễm kẻ khác và làm cho đời sống của họ trở nên
khó khăn hơn. Đó là điều con không được phép làm. Vậy con
phải xua đuổi nó đi xa, mỗi lần con biết nó đến.
C. W. L.
–
Những độc giả đã thực sự chán nản có thể sẽ lắc đầu và nói:
"Đó là lời khuyên tuyệt hảo, nếu có thể thực hiện". Nhưng tôi đã
nói, một tư tưởng mạnh gây ra sự ngã lòng cho kẻ khác, tạo nên
mãnh lực vượt bực khi không
còn cách nào khác để tồn
tại. Sự ngã lòng là một lỗi lầm vì nó
ảnh hưởng đến những bạn đồng môn của chúng ta. Những gì
phát sinh từ chính chúng ta, từ những kiếp sống đã qua của chúng
ta, do nghiệp quả của chính chúng ta, không thể khích động chúng
ta; dó đó, ta phải giữ mình hết sức cẩn thận để không hại đến
kẻ khác. Một việc xảy ra để gây nên điều nào đó không hay, bạn
hãy tự nói với mình như sau: "Tôi
sẽ không nói lên điều đó; tôi sẽ không làm, cũng như không
nói điều gì có thể làm cho những sự khó khăn của kẻ khác tăng
lên". Chúng ta cũng có thể từ chối làm một công cụ để phục vụ
cho quả xấu của kẻ khác. Nếu một người làm hại hay xúc phạm một
người khác, thì chắc chắn y
là công cụ cho nghiệp quả của người ấy chứ không thể khác, nhưng
đó là một vai trò của những người thiếu đại lượng. Chúng ta nên
làm những công cụ cho quả lành trong việc giúp đỡ những người
khác, mang đến những phước lành và nghĩa cử cho họ; quả xấu sẽ
phải sử dụng những vận hà khác, thay vì
mượn vận hà của
chúng ta.
Con còn phải làm chủ tư tưởng con một cách khác nữa: Đừng cho nó
vởn vơ. Bất câu việc nào của con làm, con cũng phải chủ ý vào đó
đặng làm cho được hoàn thiện.
C. W. L.
–
Rất dễ mà chủ ý vào công việc của chúng ta đang
lo đây và chúng ta
phải làm cho được hoàn toàn. Chẳng hạn như
viết một bức thư, chúng ta có thể chú ý vào đó và làm cho
nó thành một bức
thư của một nhà Huyền
Bí Học. Người ta thường viết thư
ít kỹ lưỡng và ít chính xác. Họ nói những điều cần nói,
chớ không đặc biệt cố gắng để làm cho được hoàn hảo. Đối với
vài người, những điều nhỏ nhặt, tầm thường như thế mà lại phải
làm cho được hoàn hảo thật là một điều mới mẻ. Tôi nhận được
nhiều bức thư và tôi phải
nói rằng đa số không phải như những bức thư mà chính tôi muốn gởi
đi.
Lắm khi danh
từ dùng
sai và chữ viết thường xấu tệ đến nỗi tôi phải mất nhiều
thì giờ mới đọc được. Sự
chẳng cẩn thận đó có một
ý nghĩa quan trọng
lớn lao đối với nhà Huyền Bí Học hoặc
những ai muốn trở thành nhà Huyền Bí Học. Một bức thư của
nhà Huyền Bí Học phải khác
biệt do sự đúng đắn và trong cách diễn đạt tư tưởng; nó phải
viết một cách tử tế, hoặc đánh máy, tùy trường hợp. Nó phải có
vẻ đẹp và làm vui lòng người nhận nó. Dù việc gì cũng vậy,
chúng ta vẫn phải có bổn phận tuyệt đối thực hiện cho được đầy
đủ rõ ràng. Tôi không có ý muốn nói rằng người ta luôn
luôn có thì giờ viết như
một người thợ khắc chữ, hoặc làm cho bức thư nào cũng
thành một tác phẩm mỹ thuật tuyệt đẹp. Ngày nay làm như thế không
được. Nhưng ngoài vấn đề Huyền Bí Học, muốn giữ phép lịch sự
đối với người mà ta viết thư thì chữ viết của chúng ta cũng phải
rõ ràng và dễ đọc. Nếu bạn muốn viết gấp và cẩu thả để khỏi
mất một ít thì giờ, thì bạn nên nhớ rằng, vì lỗi của bạn, mà
người nhận thư phải mất gấp bốn lần thì giờ để đọc. Chúng ta
không có quyền làm như thế.
Mỗi bức thư mà chúng ta
gởi đi phải là một vị sứ giả, một sứ giả của Đức Thầy. Nếu đó
là một bức thư nói chuyện làm ăn hay một đề tài thông thường nào,
thì nó cũng phải chứa đầy những cảm tình tốt đẹp. Muốn được như
thế, chỉ cần chốc lát cũng đủ. Trong khi viết cảm tình nhân hậu
phải tràn ngập trong trí chúng ta. Nó phải thấm nhuần cả bức thư,
rồi chúng ta không cần làm gì nữa; nhưng lúc ký tên, chúng ta phải
dừng lại giây lát để truyền vào đó một nguồn thiện cảm. Bạn
viết cho một người bạn ư, hãy rải tình
thương vào đó, để khi mở bức thư
ra, y sẽ nhận được một luồng tình cảm nhân ái đệ huynh. Nếu
gởi cho một người bạn Thông
Thiên Học, bạn hãy ban rải
vào đó một tư tưởng liên quan đến các vấn đề cao thượng hơn, và
cũng liên quan đến Đức Thầy.
Như thế bức thư sẽ nhắc nhở người huynh đệ nhớ tới tư tưởng cao
thượng mà những người Thông Thiên Học luôn luôn quí mến. Nếu chúng
ta viết thư cho một người mà chúng ta biết y thiếu một đức tánh
nào đó, thì chúng ta hãy cho đức tánh ấy thấm nhuần bức thư, nhân
dịp đó chúng ta cho y cái gì mà y còn thiếu thốn. Vậy chúng ta
hãy giữ gìn cho những bức thư của chúng ta được tốt đẹp và có
một linh hồn.
Chúng ta cũng có thể
giúp người bằng cách đó khi chúng ta
trực tiếp với họ. Vài người trong chúng ta gặp nhiều người
khác trong ngày. Chúng ta phải nói chuyện với họ, và đôi khi phải
siết tay họ. Chúng ta có thể thừa dịp tiếp xúc trực tiếp này để
truyền cho họ một luồng sinh lực hay một sức mạnh của tình thương,
hay là những tư tưởng cao
thượng; nói tóm lại cái gì mà chúng ta tưởng rằng cần thiết cho
họ. Đừng bao giờ bắt tay một người nào mà không giúp họ như thế,
vì đó chính là một cơ hội. Nếu chúng ta có chí nguyện được làm
đệ tử Chơn Sư, thì chúng ta phải tìm cơ hội như thế để phụng sự.
Một người không hữu dụng cho đồng bào
bằng cách này hay bằng cách khác, thì sẽ không được chấp
nhận sớm đâu. Tôi giả sử rằng: không làm một việc bất công đối
với một người trung bình khi nói rằng ý niệm của y trong việc kết
thân mới sau đây: "Tôi sẽ nhận được gì của người ấy bằng phương
cách này hay phương cách khác". Có thể không phải là một mối lợi
tiền bạc. Có thể là sự vui chơi hoặc lợi lộc về phương diện xã
hội. Nhưng dù trong trường hợp nào, ý tưởng lợi lộc cũng vẫn
hiện diện. Thái độ của chúng ta phải hoàn toàn trái ngược lại:
"Đây là một cơ hội mới đưa
đến cho tôi. Vậy tôi phải cho ra cái gì"? Nếu người ta giới thiệu
tôi cho một người lạ, tôi quan sát y và ban rải tư tưởng lành cho y.
Tư tưởng đó sẽ bám vào và thâm nhập vào người y đúng lúc. Những
vị đệ tử Chơn Sư đều làm như thế, khi họ đi bách bộ, đi tàu hỏa,
hoặc đi đò ngang, họ chờ cơ hội nào họ cần phải có tư tưởng
lành, thì họ liền rải ra. Có thể cả trăm lần như thế chỉ trong
một buổi sáng hay một buổi chiều.
Một sự chào hỏi cũng
phải là một sự thật hiển nhiên, chứ không phải là một hình thức
suông mà thôi. Những lời chào khi
đọc danh hiệu của Thượng Đế và cầu khẩn Ngài ban phước;
chẳng hạn như lời chào hỏi thường lệ của những người Hồi Giáo -
đôi khi biểu lộ một hình thức lễ độ suông, lắm khi chúng cũng
biểu lộ một lời chúc thâm tình và có ý niệm về Thượng Đế kèm
theo thực sự. Chúng ta nói "Good bye" (giả từ). Ít người hiểu
biết rằng đó chính là câu: "Cầu xin Thượng Đế ở với anh"
(God be with you) thâu ngắn
lại. Chúng ta nên biết điều đó và thật tâm thốt ra những lời này.
Những điều ấy dường như là tầm phào, phù phiếm, nhưng nhiều
trường hợp nhỏ nhặt trong đời sống hằng ngày tạo thành sự dị
biệt rõ rệt. Chúng là một bằng chứng của tánh tình và làm ra
tánh tình vậy. Nếu mỗi ngày, chúng ta làm những việc nhỏ mọn
này một cách kỹ lưỡng và
cẩn thận thì chẳng bao lâu chúng ta sẽ mở mang tính kỹ lưỡng,
chúng ta tự chủ, chúng ta chính chắn trong mọi trường hợp, từ
việc lớn đến việc nhỏ. Người ta không thể vừa kỹ lưỡng trong việc
lớn lao mà lại cẩu thả trong việc nhỏ mọn được. Trong trường hợp
đó, đôi khi chúng ta lại quên đi và cẩu thả trong khi chúng ta phải
thận trọng. Nhưng chúng ta phải tập cho được tính kỹ lưỡng hoàn
toàn. Rồi nhiều việc nhỏ hợp lại thành
một việc lớn, và với một chút thói quen, không phải người
ta giúp đỡ chút đỉnh mà thật sự có thể giúp một cách mạnh mẽ
trong việc siết tay hay là viết một lá thư.
Đức Thầy nói: "Dù làm
việc gì con cũng phải chú ý vào đó
để làm cho được hoàn thiện". Điều này cũng áp dụng chẳng
những cho những việc ta làm
mà còn áp dụng vào những việc giải trí như
đọc tiểu thuyết hay tạp chí. Ngoài sự nghỉ ngơi có qui củ
và giấc ngủ, thì cách nghỉ ngơi tốt nhất thường là sự tập luyện
nào đó, dưới hình thức khác nhau. Như thế trong khi đọc để mua vui
hay giải trí, thì cái trí phải phục vụ chúng ta, chứ không phải
chúng ta làm nô lệ cho nó. Bạn đọc tiểu thuyết ư, bạn hãy chú ý
vào đó và cố gắng hiểu nó để tìm thấy được ý muốn của tác
giả. Nhiều người thường đọc một cách sơ sài cho đến nỗi tới đoạn
chót kết thúc câu chuyện, thì họ lại quên
đoạn đầu. Cái cảm tưởng của họ quá mơ hồ đến nỗi họ không
tóm lược được câu chuyện; hoặc nói cho chúng ta biết nó phải dạy
chúng ta điều gì. Nhưng nếu chúng ta muốn rèn luyện Cái Trí mình,
thì khi đọc để mua vui hay giải trí, chúng ta phải đọc cho kỹ
lưỡng. Khi nghỉ ngơi, chúng ta phải làm giống như vậy. Hiện giờ
trên thế giới có hàng triệu người không biết xả hơi
[61]
và nghỉ ngơi cho đúng cách. Họ không biết rằng mười phút buông xả
gân cốt còn hơn
hai giờ nằm dài trong trạng thái căng thẳng và co rút. Kiểm
soát Cái Trí một cách êm dịu cũng là điều cần thiết cho sự nghỉ
ngơi. Khi tập kiểm soát như thế, cũng như làm mọi việc khác cho có
thói quen, thì chẳng bao lâu người ta lại thấy rằng mình không thể
làm việc một cách dở dang, có phân nửa như trước. Nếu đã nghỉ
ngơi, thì người ta phải nghỉ ngơi cho đúng mức.
Chẳng nên để Cái Trí con ở không, con phải luôn luôn tích trữ những
tư tưởng tốt lành, để chúng sẵn sàng hiện ra lúc trí con không
tưởng cái chi cả.
A. B.
–
Việc này thật dễ dàng đối với người thường dân Ấn Độ, vì thuở
nhỏ người ta đã dạy họ lập đi lập lại những câu châm ngôn rất hay,
trong lúc rỗi rãnh. Đó là thói quen ở Ấn Độ, đối với người không
được giáo dục cũng vậy. Bạn thường nghe một người
thợ khi làm xong công việc, thình lình lập đi lập lại khá
lâu: "Ram, Ram, Ram, Sitaram, Sitaram, Sitaram". Đó là câu Thánh
Ngữ chớ không có chi cả. Vài người có thể cho rằng làm như
thế vô lý, nhưng họ nhầm vậy. Những câu châm ngôn này có tác dụng
thật sự với người đọc nó. Nó bắt Cái Trí trống không, chú định
vào một tư tưởng an tịnh và
khuyến thiện. Làm như thế vô cùng hữu ích hơn là để Cái Trí của
chúng ta vởn vơ, chắc chắn nó sẽ lo lắng công việc của người lân
cận của chúng ta, do đó sinh ra sự nói hành và những tai hại bất
ngờ. Dĩ nhiên, nếu bạn chủ trị được Cái Trí mà không cần lập đi
lập lại một câu châm ngôn, thì càng tốt hơn nữa, nhưng nhiều người
không chịu làm theo cách này hay cách kia.
Có việc làm rất hữu ích
và nhiều tôn giáo đã khuyên bảo là: buổi sáng chọn
một câu nào đó rồi học thuộc lòng. Trong ngày câu ấy đột
nhiên tái hiện ở ký ức và xua đuổi những tư tưởng kém tốt đẹp
khác trong lúc Cái Trí trống không. Bạn có thể mượn
một câu văn hay một thành ngữ trong một quyển sách hay nào
đó, rồi lập đi lập lại nhiều lần với sự chú tâm, vào buổi sáng
(có thể trong lúc mặc y phục), chính câu ấy trở lại bạn trong
ngày. Người ta có thể giải thích rõ ràng tại sao Cái Trí lập đi
lập lại một cách tự động, nên nhớ rằng khi một bản nhạc, một
giọng ca nào in vào Cái Trí rồi thì nó bắt Cái Trí lập đi lập
lại mãi. Đã nhiều năm rồi,
tôi giữ
tư tưởng Đức Thầy nơi hậu cảnh Cái Trí của tôi. Hiện giờ
nó luôn luôn còn ở đó, nên khi Trí tôi rảnh rang, nó lại hướng về
Ngài.
C. W. L.
–
Những tư tưởng về Đức Thầy phải luôn luôn chiếm
hậu cảnh Cái Trí của
chúng ta, để nó hiện lên khi tâm trí chúng ta không bận việc chi
khác. Khi đang đọc sách, viết thư hay làm công việc tay chân, chúng
ta không cần thiết phải hướng về Đức Thầy những tư tưởng tích
cực, nhưng khi khởi sự, chúng ta nên quyết định như sau: "Tôi sẽ làm
việc này tốt đẹp vì Đức Thầy". Từ đó
chúng ta nghĩ đến công
việc của mình mà không nghĩ đến Ngài: nhưng khi công việc vừa hoàn
tất, thì tư tưởng về Đức
Thầy lại tái hiện trong Trí trước nhất. Một tư tưởng như thế,
không những bảo đảm cho Cái Trí sẽ tiếp nhận được điều tốt lành
mà còn khiến cho tư tưởng
của chúng ta về các vấn đề khác rõ ràng hơn và dũng mãnh hơn.
Đôi khi người ta lập đi lập
lại danh hiệu của Thượng Đế để tạo một bối cảnh trong Cái Trí.
Bên Ấn Độ, bạn thường thấy nhiều người chờ xe lửa hay đi bách bộ
trên đường, nói lầm thầm với chính họ. Đôi khi họ lập đi lập lại
khá lâu một Thánh Ngữ. Những nhà truyền giáo luôn luôn đặc biệt
chỉ trích những người "ngoại giáo" như sau: "Họ chuyên tâm lập đi
lập lại những điều vô ích". Người Hồi Giáo đi tới đi lui vừa đọc
những đoạn Thánh Kinh, luôn luôn
trên môi y không rời danh từ Allah (Thượng Đế). Có thể luôn
luôn họ không nghĩ đến Ngài nhiều, nhưng thường thường họ đọc như
thế không phải là vô hiệu quả đâu. Dĩ nhiên một người kia có thể
đọc những câu ấy vì thói quen chớ không nghĩ đến nó; một người
Công Giáo có thể đọc Kinh
trong lúc tư tưởng của y vởn vơ ở
nơi khác. Thậm chí
một vị Linh Mục có thể
đọc Kinh hằng giờ mà
không chú ý nhiều, vì
người đã thuộc lòng tất cả. Ông có thể đọc "Lạy Thánh Mẫu
Maria" và "Lạy Đức Chúa Cha của chúng tôi" mà không nghĩ đến
Đức Thánh Mẫu Maria hoặc Đức Chúa Cha của chúng ta trên
trời. Trong tất cả các tôn giáo, người ta có
thể câu nệ về hình thức và chỉ giữ
cái vỏ bề ngoài, khi đã mất hầu hết tinh hoa của nó. Nhưng
điều này thường xảy ra trong Thiên Chúa Giáo hơn là trong Ấn Giáo
và Phật Giáo, tôi có khuynh hướng muốn nói gần như không có nhiều
như thế. Hơn nữa chính là sự kiện lập đi lập lại những danh từ
như: "Rama, Rama, Rama", đã
giúp cho tư tưởng về Thượng
Đế được ghi chặt trong Trí, và như thế chắc chắn sẽ sinh ra một
hiệu quả có ích. Nếu chúng
ta có thể nhớ đến Đức Thầy một cách dễ dàng và hữu hiệu như
thế mà khỏi lập lại Danh
Hiệu của Ngài thì điều đó vẫn
tốt lắm. Nhưng sự lập
đi lập lại còn hay hơn là không có ý nghĩ về Ngài.
Trong Thể Trí có một tốc
độ rung động phù hợp với những tình cảm sùng tín này. Với thời
gian, tốc độ đó thành thường lệ, do đó sự sùng tín phát triển
và thành ra một thành phần của tánh nết. Thói quen này cũng dùng
để trục xuất những tư tưởng xấu. Nếu
Cái Trí trống không thì mọi tư tưởng nào vởn vơ gần đó
cũng có thể xâm nhập vào và chi
phối nó. Những tư tưởng đó có phần xấu hoặc là vô ích
trong mọi trường hợp hơn là hữu
dụng. Nó thuộc về một loại tư tưởng hằng hà sa số, bay vởn
vơ chung quanh chúng ta và biểu hiện cho mức độ tiến hóa trung bình
của xứ sở. Nhưng chúng ta đang nhắm một mục đích cao thượng. Chúng
ta muốn nâng đỡ người huynh
đệ tầm thường của chúng ta lên
và chúng ta không thể thành
công trước khi chúng
ta đạt tới một trình
độ cao siêu.
Mỗi ngày con phải dùng trí lực của con để dự định làm những công
việc tốt lành. Hãy trở thành một lực lượng hướng về sự tiến
hóa.
C. W. L.
–
Chúng ta được giáo hóa theo namby-pamby
[62]
một quan niệm hơi dễ dàng cho rằng chỉ có điều cần thiết duy nhất
là phải ăn ở hiền lành. Nhưng sùng tín và lánh
dữ thôi chưa đủ đâu,
chúng ta phải tiến tới, phải sử dụng đức hạnh và lòng sùng tín
của mình. Tại sao chúng ta hiện diện trên quả địa cầu? Tại sao
chúng ta sống cho chật đất nếu chúng ta không biết làm gì hết?
Ngồi xuống và hiền lành là
một trạng thái hoàn toàn thụ động (dĩ nhiên là còn tốt hơn là
ngồi xuống mà tánh tình hung dữ!). Chúng ta có
mặt dưới trần để làm vận hà cho Thiên Lực. Chúng ta là Chơn
Thần do Trời sinh ra từ lâu,
như một tia lửa Thiêng sáng rỡ. Đúng như bộ
Giáo Lý Bí Truyền đã
nói:"Tia lửa ấy cháy yếu ớt" - lắm khi nó chập chờn - nhưng chúng
ta phải làm cho nó bừng cháy do lòng nhiệt thành của chúng ta, do
đức tin và tình thương, để
cho tia sáng trở thành một ngọn lửa linh động sưởi ấm những người
khác.
Mỗi ngày con hãy nghĩ đến một người nào mà con biết rằng đang
buồn bực hay đau khổ, hoặc cần sự
giúp đỡ. Con hãy rải tư tưởng thương yêu cho y.
C. W. L.
–
Sức mạnh của tư tưởng là một điều có thật, cũng thật tế như
tiền bạc, hoặc như nước đổ từ trong bình ra ly. Khi chúng ta đưa
một luồng tư tưởng này đến một người nào, chúng ta có thể chắc
chắn rằng nó sẽ đến với y, dù chúng thấy được điều đó hay không.
Hầu như tất cả chúng ta đều biết rằng một người đang lâm vào cảnh
buồn rầu hay khổ não sẽ tìm được một nguồn an ủi lớn lao trong
luồng tư tưởng của chúng ta gởi đến
cho y. Dù trong lúc ấy chúng ta không biết một trường hợp như
thế, chúng ta vẫn có thể
rải tư tưởng một cách bao quát hơn, nó sẽ biết tìm một người
trong đám đông đang đau khổ để giúp đỡ.
Nếu bạn biết ai có liên
lạc với một số đông người buồn thảm hoặc cần được giúp đỡ, như
Tiến sĩ Besant chẳng hạn, thì bạn có thể gởi những tư tưởng sùng
tín và mạnh bạo đến cho bà, để bà có
thể gia tăng thêm chút ít mãnh lực cứu trợ mà bà đang sử
dụng. Đối với Đức Thầy
cũng thế. Ai gởi đến các Ngài một tư tưởng sùng tín sẽ nhận
được một tư tưởng đáp ứng, nghĩa là một ân huệ. Hơn nữa kho thần
lực của Ngài sẽ tăng thêm đôi chút và Ngài dùng tư tưởng chúng ta
để giúp đỡ kẻ khác.
A. B.
–
Tôi phải nói rằng trước khi đọc những dòng này tôi không có ý
định dùng tư tưởng để giúp đỡ kẻ khác một cách có phương pháp
và thường xuyên như trên đây. Dĩ nhiên đây là điều rất tốt. Buổi
sáng, bạn hãy chọn một người mà trong ngày bạn sẽ giúp đỡ khi
bạn rỗi rãnh, bởi vì bao giờ cũng có người tội nghiệp cần được
giúp đỡ. Rồi mỗi khi Trí
bạn thảnh thơi, thay vì biến nó thành một lữ quán bỏ ngõ để cho
ai vào cũng được; bạn hãy bắt nó gởi đến người mà bạn lựa chọn
những tư tưởng dũng mãnh, an ủi và phúc lạc hoặc những tư tưởng
nào cần thiết nhất cho y. Thực
hành điều này còn cao
hơn một bậc việc lập đi lập lại một dụng ngữ nhân từ.
Bằng cách
này hay cách khác, bạn hãy đóng cửa Cái Trí của bạn trước
những tư tưởng xấu xa, không chính đáng cho tới chừng nào nó có
đủ sức mạnh mà không cần đến sự trợ giúp nữa. Tư tưởng về Đức
Thầy bao giờ cũng phải giữ lại luôn luôn trong Trí
chúng ta. Nó thuộc về một loại tư tưởng luôn luôn trợ giúp
và không ngăn cản những sự hoạt động cao siêu nào của trí tuệ; nó
không loại bỏ những sự trợ giúp nào cả, mà lại còn tăng
cường sức mạnh cho chúng nữa. Trong một giai đoạn, tư tưởng ấy sẽ
chiếm trọn vẹn
Thể Trí của bạn và nhờ đó mà những điều bạn thực hiện
sẽ được tốt đẹp và mạnh mẽ hơn.
Hãy giữ cho tư tưởng của con không kiêu căng, vì sự kiêu căng luôn
luôn do sự dốt nát mà ra.
C. W. L.
–
Ở những sinh viên Huyền Bí Học có nhiều sự kiêu hãnh tế nhị. Họ
không thể ngăn cản việc thấy mình đã biết được những điều kiện
cốt yếu thật sự của cuộc đời khá hơn những kẻ không học hỏi mấy
điều đó; không nhìn nhận
mấy điều đó thật vô lý, nhưng không nên để nảy sinh trong lòng một
tư tưởng khinh miệt nào đối với những người thường chưa hiểu biết
gì về vấn đề ấy. Trên
phương diện đặc biệt này, những sinh viên Huyền Bí Học sẽ tiến
hóa hơn những người thường, nhưng rất có thể, trên nhiều phương
diện khác người thường lại tiến hóa hơn họ rất xa. Chẳng hạn như
một người hiểu biết sâu xa về văn học, khoa học hoặc nghệ thuật
đã gia công nghiên cứu lâu năm và cố gắng nhiều hơn đa số những
người trong chúng ta đã nghiên cứu Thông Thiên Học. Chúng ta phải
công bình mà ngợi khen những công trình họ đã hoàn thành, và
những cố gắng bất vụ lợi của họ. Đặc tính của người khôn ngoan,
hiền triết không phải ở chỗ khinh thường công việc của kẻ khác,
mà ở điểm nhận xét rằng mọi người đều tiến hóa.
Nhiều người nuôi dưỡng cái
điều gọi là có quan niệm tốt về mình. Họ thích
cho rằng mình luôn luôn có lý,
mình tài năng xuất chúng và cứ như thế mãi. Nhưng những điểm mà
họ tự thán phục mình không phải là điều được Chơn Nhơn thừa nhận.
Tất cả những đức tánh được phát triển trong Chơn Nhơn đều thuần
túy, tinh khiết. Nếu là
tình thương chăng? Nó không bao giờ biểu hiện một dấu vết ganh
ghét, đố kỵ hay ích kỷ nào. Đó là tấm gương phản chiếu tình bác
ái thiêng liêng trong khả năng có giới hạn của nó. Đôi khi, chúng ta
tự khen mình tiến triển khá mau chóng. Như thế chúng ta giống như
một đứa trẻ lên bốn tự hào về nó. Với đứa trẻ ở tuổi ấy, nó
có làm như thế là chính đáng, nhưng đối với một người hai mươi
mốt tuổi thì khác hẳn. Sự thông minh, lòng sùng tín, tình thương,
sự thiện cảm còn ít phát triển ở chúng ta so với sự mở mang của
chúng trong tương lai. Do đó,
thay vì chúng ta dừng lại, quá thỏa thích với chính mình, chúng
ta hãy luôn luôn tiến lên và
cố gắng gia tăng số đức tánh
của mình.
Về công việc này, tham
thiền là một phương tiện trợ
giúp lớn lao. Người
kia chuyên tâm mở rộng tình
thương, y tham thiền về đức tánh đó và cố gắng cảm xúc nó, một
thời gian ngắn sau đó, y sẽ
ngạc nhiên thấy năng lực của
đức tánh này mà y tưởng niệm bừng dậy trong lòng y.
Đức Thầy nói tánh kiêu
hãnh luôn luôn phát sinh từ sự dốt nát. Một người càng thông minh
chừng nào thì càng ít kiêu hãnh chừng nấy, vì y thấy sự dốt nát
của y. Điều ấy đặc biệt đúng hơn nữa,
nếu y có duyên may được giao tiếp với các vị Đại Chơn Sư của
chúng ta. Y sẽ không hề kiêu căng nữa khi được tiếp xúc với các
Ngài, vì mỗi lần y nghĩ mình có thể làm được điều gì, hoặc có
đức tính đặc biệt nào, thì
ý tưởng sau này chắc chắn sẽ đến với y: "Nhưng tôi đã thấy đức
tánh ấy ở Sư Phụ của tôi rồi, và đức tánh của tôi so với đức
tánh của Ngài thật chẳng ra gì".
Những đức tánh của các
Đấng Chơn Sư phát triển một cách tốt đẹp
phi thường, nên chỉ cần biết một trong các Ngài thì có thể
tức khắc chữa trị một cách triệt để những gì giống như là sự
kiêu hãnh. Tuy nhiên sự ngã lòng không bao giờ do Chơn Sư phát ra.
Trong đời sống hằng ngày, bạn tự tin là mình có khả năng làm vài
việc nhỏ mọn nào đó, nhưng nếu bạn đứng trước nhà chuyên môn, bạn
liền thấy khả năng của bạn hầu như tiêu tan khi đem nó so
sánh với kinh nghiệm của vị tài ba lỗi lạc ấy. Rốt cuộc, bạn
cảm thấy tủi nhục và ngã lòng. Nhưng đó không phải là sự cảm
xúc khi được đứng trước mặt Đức Thầy. Trước sự hiện diện của
các Ngài, bạn sẽ thấy rõ sự bất tài không ra gì của bạn, nhưng
đồng thời bạn thực hiện
được những khả năng còn tiềm tàng của bạn. Thay vì
cảm thấy có một vực thẳm không bao giờ vượt qua nổi, bạn
sẽ thầm nói rằng: "Tôi có thể làm được những điều này, tôi sẽ
cố gắng noi theo cái đó"; đó là sự khuyến khích luôn luôn được sự
hiện diện của Đức Thầy tạo ra. Rồi người ta sẽ hiểu được rất
nhiều lời nói của sứ đồ Cơ Đốc như sau: "Tôi có thể thực hiện
được tất cả nhờ Đấng Christ, Ngài ban sức mạnh cho tôi"
[63].
Nhờ thần lực của Đức Thầy, bấy giờ người ta có thể nói: "Tôi
không bao giờ ngã lòng nữa. Tôi không bao giờ ân hận nữa. Tôi không
bao giờ phẫn nộ nữa. Đó là những lỗi kỳ cục mà tôi đã phạm hôm
qua. Khi nhìn về quá khứ, tôi nhận thấy vài việc đã khiến cho tôi
lo lắng thật phi lý. Tại sao tôi lại phiền muộn, dù chuyện gì có
thể xảy đến"? Sau này, khi mà chúng ta không còn ở
trong ảnh hưởng trực tiếp của ánh sáng thiêng liêng nữa, có
thể chúng ta sẽ sa ngã, vì quên rằng ảnh hưởng đó vẫn bao quanh
chúng ta, dù chúng ta không trông thấy được những tia sáng một cách
trực tiếp, nếu muốn, chúng ta có thể luôn luôn sống trong hào quang
của Đức Thầy.
Người chưa hiểu biết tưởng mình là cao cả, mình làm được những
việc lớn lao. Người khôn ngoan biết rằng chỉ có Trời là cao cả và
việc lành nào cũng do Trời làm ra .
A. B.
–
Ở đây quyển Thánh Ca Gita đã
hiến cho chúng ta một bài học quan
trọng: Tất cả chúng ta đều là nhân viên của một ý chí duy
nhất. Mọi công nghiệp đều do tập thể hoàn thành chứ không phải
riêng những phần tử. Và cái hay hơn hết mà mọi
người trong chúng ta có thể làm được là trở nên một cơ quan
hữu ích để cho sự hoạt động duy nhất và thiêng liêng sử dụng. Sự
khoe khoang của chúng ta cũng
phi lý như sự kiêu căng của một trong những ngón tay của chúng ta
vậy. Bạn hãy trở thành những cơ
quan lành mạnh của Thiên ý. Rồi bạn sẽ thấy Đấng Tạo Hóa
Duy nhất dùng bạn, vì bạn là công cụ thích hợp cho công việc của
Ngài.
Bây giờ chúng ta trở lại
chỗ khởi điểm. Sự hiểu biết Chơn
Ngã như chúng ta đã
hiểu biết, xóa bỏ được mọi sự sợ hãi; bây giờ đây chúng ta thấy
rằng nó cũng
hủy diệt mọi sự kiêu
căng. Đó là chân lý căn bản.
Chúng ta nên nhận thấy rằng những thực trạng
phức tạp này đều đưa chúng ta đến
một chân
lý duy nhất, một sự sống
duy nhất đang hiện
lờ mờ trong vạn vật.
C. W. L.
–
Đức Thượng Đế ở trong mỗi
người. Tất cả những gì nhân
từ hay cao cả biểu hiện trong con người là ánh sáng vẫn có của
Thượng Đế chiếu nơi y. Tất cả những gì chúng ta thực hiện, chính
là Ngài thực hiện xuyên qua chúng ta. Điều này dường như kỳ dị
[64]
và bạn có thể nói hình như nó hủy diệt cái cảm giác về cá
tính. Nhưng đó chỉ là tại cái óc xác thịt của chúng ta không
nhận thức nổi sự tương quan đích thực ấy. Không phải vô lý mà
người Công Giáo thời trung cổ đã nói: "Sự vinh quang thuộc về Chúa
Trời". Một người trong chúng ta kiêu hãnh về một hành vi nào đó,
cũng như chúng ta chơi dương cầm, một trong mấy ngón tay chúng ta
nói rằng: "Tôi đánh điệu
này hay quá! Chính nhờ tôi mà điệu nhạc trở nên tuyệt diệu". Thật
ra mỗi ngón tay đều làm phận sự của nó, không phải theo ý chí cá
nhân, mà như là những công cụ
của bộ óc. Tất cả chúng ta là những ngón tay của bàn tay
Ngài, là những biểu hiện uy lực của Ngài. Tôi biết rất rõ ràng
rằng chúng ta không thể hiểu
trọn vẹn về vấn đề này, nhưng nếu chúng ta càng phát triển tâm
thức cao siêu bao nhiêu, chúng ta càng cảm thấy nó sâu xa bấy nhiêu
và đôi khi, trong lúc tham thiền hoặc trong vài lúc phấn khởi tột
độ, chúng ta tiếp xúc được với cái Nhất Thể này trong giây lát.
CHƯƠNG
THỨ MƯỜI CHÍN
�
Y
�
TỰ CHỦ TRONG LÚC HÀNH ĐỘNG
Khi tư tưởng của con đúng đắn rồi, thì con sẽ hành động dễ dàng.
A. B.
–
Câu châm ngôn này nhấn mạnh sự kiện mà tất cả sinh viên Huyền Bí
Học đều biết rõ: tư tưởng quan trọng hơn hành
động; ý tưởng này hoàn toàn đối nghịch với ý kiến thông
thường. Nhưng đó là sự thật, vì tư tưởng luôn luôn phát sinh trước
hành động. Có thể có những trường hợp gọi là hành động tự nhiên
bộc phát, nhưng điều đó chỉ có nghĩa là muốn khám phá được tư
tưởng chủ động, chúng ta
phải lui về quá khứ, có lẽ cũng trở lại một kiếp trước.
Khi sức mạnh của tư tưởng
về một vấn đề nào đó tích tụ trong Thể Trí và gặp cơ hội để
biểu hiện tư tưởng đặc biệt ấy, thì chắc chắn nó phát sinh ra sự
hành động. Mọi tư tưởng hướng về một mục đích nhất định đều tiêu
biểu một lực thúc đẩy gia tăng cho đến lúc năng lực súc tích
khiến cho bạn hành động theo chiều hướng ấy. Người Ấn Độ có lý,
khi họ chia sự hành động hay là nghiệp ra làm ba phần: tư tưởng,
ham muốn và hành động. Đúng là Chân lý vậy. Trong kiếp sống nào
cũng có thể xảy ra sự hành động không dự tính trước mà liên quan
đến kiếp vừa qua, ấy là một hành vi bộc khởi. Trong trường hợp
này, sự suy nghĩ hoàn tất,
sự hành động là phần cuối cùng nối tiếp theo, vì nó đã ở trong
chiều hướng nhất định nên thúc đẩy một cách tự nhiên. Do đó, có
thể xảy ra sự kiện này: bạn đã đem hết năng lực chọn lọc trong
loại tư tưởng nào đó và dùng trọn năng lực kiểm soát
nó, nhưng vừa gặp cơ hội đưa đến thì
tư tưởng của bạn sẽ biểu hiện ra bằng hành động. Tư
tưởng đó có thể ẩn tàng rất lâu nếu
nó không gặp cơ hội
phát lộ, nhưng khi hoàn cảnh thuận tiện, thì sự hành động sẽ
thực hiện ngay.
Đó là điều rất quan trọng
để hiểu biết sự hoạt động của tư tưởng. Bạn hãy canh chừng tư
tưởng của bạn và hướng dẫn nó vào chiều hướng tốt đẹp, vì bạn
không thể biết được lúc nào nó phát hiện ra bằng hành động. Đó
là một trong những lý do tại sao những bậc Đại Giáo Chủ của nhân
loại lại nhấn mạnh về sự
quan trọng của tư tưởng.
Trong quyển sách này, nó còn được nhắc nhở lại cho sinh viên. Có
lẽ rất hữu ích mà nhắc lại ở đây rằng Manas, chính là sự hoạt
động. Chơn Thần
có ba trạng thái là ý chí, minh triết và hoạt động; nhập
vào Atma, Bouddhi và Manas
[65].
Ở đây chúng ta được biết là tư
tưởng nhập vào sự hành động.
C. W. L.
–
Dĩ nhiên là tư tưởng đi trước sự hành động. Như
người ta thường nói, có nhiều trường hợp chúng ta làm mà
không kịp suy nghĩ. Tuy nhiên hành động của chúng ta vẫn phát sinh
từ một tư tưởng trước. Chúng ta có thói quen suy nghĩ về vài vấn
đề nào đó, hoặc về những chiều hướng nào
đó, nên tự nhiên chúng ta hành động theo những thói quen hay
là những chiều hướng đó. Một người hành động rồi tự giải thích:
"Tôi không thể không làm việc ấy. Tôi không suy nghĩ trước". Nhưng
thực ra y đem thực hiện một tư tưởng mà y đã suy nghĩ, có lẽ trong
những kiếp trước. Mặc dù thường một người trong kiếp này không có
Thể Trí giống như Thể Trí ở kiếp trước, nhưng y vẫn có một Phân
Tử Trường Tồn của Cái Trí, nghĩa là một cái nhân tiêu biểu cho
Cái Trí thu nhỏ lại và Phân Tử Trường Tồn đem theo nó những cảm
giác thuộc về loại tư tưởng thường lệ của con người từ kiếp này
sang kiếp kia.
Người ta thường lưu ý rằng
một người chỉ có thể mang theo từ kiếp này sang kiếp kia những
tính tốt trong nhân thể của nó mà thôi. Quả thật đúng như thế.
Nhân thể được tạo bằng chất khí của ba cảnh cao hơn hết của cõi
Thượng Giới là cảnh thứ nhất, cảnh
thứ nhì, và cảnh thứ ba. Và chất khí ở mức độ ấy
[66]
không thể ứng đối với sự
rung động của một tính thấp
thỏi hoặc xấu xa nào. Vậy một người chỉ có thể đồng hóa với sự
tốt lành mà thôi. Đó là
điều may mắn lớn lao cho chúng ta, vì nếu không được như thế, chúng
ta sẽ đồng hóa với nhiều yếu tố xấu xa; thay vì sự
trợ giúp, chúng ta làm chậm trễ sự tiến
hóa của chúng ta. Nhưng con người mang theo những hột nguyên
tử trường tồn khác nhau - cõi Thượng
Giới
[67],
cõi Trung Giới, Hồng Trần -
cho nên những rung động của chúng sẽ trở lại với những thể mới
của con người trong kiếp sau, dưới hình thức những tánh cố hữu,
bẩm sinh. Như thế con người mang theo khả năng các đức tánh hơn là
những đức tánh
thực sự. Bà Blavatsky gọi chúng bằng một trong những danh từ
khác là: "thiếu vật chất". Theo ý bà thì đó là những mãnh lực
sẽ hoạt động, khi chúng gặp được vật chất thích hợp, nhưng chúng
ở trong trạng thái bất động, cho đến khi nào chất này bao bọc Chơn
Nhơn một lần nữa. Khi một người hành động "không kịp suy nghĩ",
tức là y hành động do sự thúc đẩy của những tư tưởng cũ đó. Đây
là một trong những lý do khiến chúng ta phải coi chừng tư tưởng
của mình một cách cẩn thận. Không thể biết tới lúc nào tư tưởng
biến thành sự hành động. Một người nuôi mãi một tư tưởng xấu,
nghĩ rằng không bao giờ y để nó thành ra sự hành động, thì rất
có thể một ngày kia y sẽ thấy tư tưởng ấy biến thành sự hành
động, không để cho y có ngày giờ biết được điều đó.
Áp dụng sự hiểu biết này
để giúp đỡ trẻ con thật hữu ích vô cùng. Khi Chơn Nhơn lấy những
thể mới, cha mẹ và các thân bằng có thể giúp y rất nhiều bằng
cách khuyến khích những đức tánh tốt khi chúng bộc lộ lần lần
và không để cho các tánh xấu có cơ hội phát hiện
[68].
Sự giúp đỡ hữu hiệu hơn hết của ta đối với trẻ con là làm cho
những tính tốt trở nên linh động và thành thói quen trước khi tánh
xấu có thì giờ biểu lộ. Sớm muộn gì tánh xấu cũng biểu hiện
ra, chắc chắn là do ảnh hưởng của ngoại giới làm cho nó sống
lại. Nếu tánh tốt đã tiến triển mạnh, thì tánh xấu rất khó mà
gây một ấn tượng nào. Bây giờ ý chí của Chơn Nhơn sẽ chống lại
sự tiếp xúc của chúng qua trung gian những thể của mình, và trong
trường hợp như thế, chắc chắn
chúng sẽ hoàn toàn bị trừ tuyệt gốc rễ trong kiếp này,
trong kiếp tới của Chơn Nhơn sẽ không còn dấu vết gì của chúng
nữa.
Nhưng con nên nhớ rằng muốn giúp ích cho nhân loại, thì tư tưởng
phải biến thành hành động. Chớ nên biếng nhác, mà phải cần mẫn
làm việc hữu ích luôn luôn.
A. B.
–
Một điểm rất quan trọng được nhắc lại ở đây là tư tưởng muốn hữu
ích thì phải được biểu hiện ra bằng sự hành động. Về phương diện
này, đa số chúng ta còn nhiều khuyết điểm. Chúng ta tạo những tư
tưởng mà không đem ra thực hiện, và tất cả
tư tưởng thuộc về loại ấy là nguồn gốc của sự bạc nhược.
Một ngày kia, Đức Thầy Morya có nói rằng một tư tưởng tốt không
được thực
hiện bằng
sự hành động thì chẳng khác nào một mụt ung thư ăn mòn Thể
Trí. Sự so sánh chính xác
này phải làm cho chúng ta
hiểu rằng một tư tưởng như thế không những tiêu cực mà còn thực
sự độc hại nữa. Chúng ta không nên làm suy yếu những sớ của Cái
Trí chúng ta do những quyết định tốt mà không đem ra thực hành.
Chúng sẽ gây chướng ngại và làm cho tư tưởng tốt đẹp đó khó thực
hiện được, khi chúng hiện ra một lần nữa. Vậy bạn chớ nên
chậm trễ, chớ nên dời lại mai sau, đừng làm nửa chừng rồi bỏ dở
công việc. Nhiều người trong chúng ta chận đứng sự phát triển của
họ, vì họ không đem ra thực hành những quyết định của họ. Câu châm
ngôn nước Anh nói rằng: "Con đường dắt đến địa ngục lót
toàn là những ý
tưởng tốt đẹp".
Một ý định tốt mà không
đem ra thực hiện bằng sự hành động sẽ trở
thành một mãnh lực độc hại. Nó sẽ hành động như một thứ
ma túy làm tê liệt khối óc. Bạn hãy điều chỉnh tư tưởng
của bạn cho cẩn thận, khi Chơn Nhơn khiến bạn phụng sự, bạn hãy
thực hiện ngay đi. Chớ nên
chờ đến ngày mai. Thói quen dời lại ngày mai là lý do làm cho
nhiều người tử tế dưới thế gian này đứng lại một chỗ. Chúng ta
thường gặp một người rất tốt và khoảng mười năm sau gặp lại y,
chúng ta thấy y chẳng khác gì hơn lần đầu
tiên. Nhiều năm qua, người ta vẫn giữ nguyên vẹn những nỗi
khó khăn, những sự cám dỗ, những sự nhu nhược và cũng một mãnh
lực như xưa. Điều này không nên là một sự thật đối với người hội
viên Thông Thiên Học, vì tất cả chúng ta đều phải biết vài ý niệm
về cách
diễn tiến của
định luật này.
Nếu đôi khi đây là một sự
thật, thì tôi tưởng cái lý
do chính là bởi người ta
không hiểu được vì sao những khuynh hướng tốt lành khi bị chận
đứng lại thì tạo ra những chướng ngại vật. Nếu bạn đem thực hiện
những gì mà bạn cảm thấy tốt lành, thì dần dần
chúng càng thường xảy ra. Không có một hoàn cảnh thuận tiện
nào bên ngoài, không có sự
hiểu biết phụ thêm nào có
thể bù trừ được sự không
cố gắng
bên trong, sự
không quyết
định và không có năng lực thực hiện những gì mình đã biết.
Tư tưởng của bạn phải luôn luôn tiến đến sự hành động. Bạn hãy
lấy điều đó làm
qui tắc. Tôi không muốn nói rằng bạn luôn luôn có thể đem tư
tưởng của bạn ra áp dụng tức khắc được. Có thể bạn bị những
hoàn cảnh cản trở, nhưng những cơ hội tốt sẽ hiện ra sau
đó. Trong những trường hợp như thế, bạn hãy để tư tưởng của bạn
qua một bên, chớ đừng để cho nó mất đi. Nó sẽ chín muồi như trái
cây vậy. Nếu bạn làm như thế, thì những tư tưởng chưa thành sự
hành động sẽ không làm cho bạn
đau khổ. Khi đúng ngày giờ, bạn sẽ đem nó ra thực hành.
Con phải làm việc chi thuộc về bổn phận của con chớ không phải
thuộc về bổn phận của kẻ khác, trừ ra khi nào y cho phép con và
ý con muốn giúp đỡ y. Hãy để mỗi người làm công việc của họ,
theo cách thể riêng của họ. Hãy sẵn sàng giúp đỡ, nếu điều đó
cần thiết, nhưng con đừng bao giờ xen vào việc của kẻ khác. Đối
với nhiều người thì việc khó tập nhất trên đời là lo lắng công
việc riêng của mình; mà đó chính là điều con phải làm.
A. B.
–
Tiếp theo lời khuyến cáo này, nó cần thiết cho những ai có bản
tính hoạt động. Bây giờ chúng ta nên xét đến khía cạnh khác của
con Đường Đạo chật hẹp như
lưỡi dao cạo; một mặt phải tránh lười biếng, một mặt khác, phải
tránh xen vào việc của thiên
hạ. Những người nhậm lẹ hay hoạt động có khuynh hướng chăm lo hết
mọi việc. Nhưng công việc của kẻ khác thuộc về phần họ, bạn không
được xen vào. Bạn hãy nhớ rằng biết bao lần quyển
Thánh Ca Bhagavad Gita, sách
phúc âm giải về sự hành động (và điệp khúc bất biến của nó là
Hành đông! Hành động!), đã dạy chúng ta đừng làm những chuyện mà
chúng ta không thật biết rõ tính cách. Sách này còn
nói rằng: "Bổn phận của kẻ
khác thì đầy
những sự nguy hiểm
[69].
Lý do việc đó thật rõ
rệt. Bạn theo đường lối hoạt động riêng
của tư tưởng bạn, bạn lại can thiệp vào sự hành động của
một người khác, trong khi y đã theo lối hoạt động riêng của tư
tưởng y - nó khác với đường lối của bạn - thì chắc chắn bạn sẽ
làm hư hỏng công việc của y, bởi vì sự
hành động của y không phải và không thể là hậu
quả bình thường và thích ứng với sự hoạt động của bạn.
Người cương quyết có nghị lực nên biết rằng mình xen vào việc của
người khác chỉ gây sự xáo trộn mà thôi. Có một lúc, tôi muốn đem
kẻ khác vào con đường minh chánh đúng theo điều mà tôi cho là tốt
lành đối với họ, và lẽ tự nhiên điều đó vẫn tốt đối với tôi,
nhưng với tư cách là một người đệ tử, tôi biết cách làm như thế
không phải là tốt.
Trên phương diện trừu
tượng, dù phương thức hành động của một người kia không được
hoàn hảo đi nữa, nó cũng vẫn là tốt đẹp đối với y. Vì nó bao
gồm cả sức mạnh của những sự lỗi lầm và năng
lực của những đức tánh, cho nên nó qui định con đường tiến
hóa thích hợp với những nhu cầu của y. Giả sử một người kia khi
viết, thì cầm bút theo cách thức không hoàn toàn đúng. Nếu bạn
xen vào và bảo y cầm theo cách khác, chữ viết của y sẽ xấu tệ
hơn chứ không phải đẹp hơn. Y sẽ mất tất cả lợi thế của sự kinh
nghiệm lâu ngày theo phương pháp cũ và muốn đền bù lại sự mất
mát đó thì cần phải có nhiều thì giờ và công phu. Dĩ nhiên, nếu
chính y muốn thay đổi cách viết, vì tin chắc rằng lối viết khác
hay hơn và y nhờ đến sự giúp đỡ của bạn, thì trường hợp này lại
khác. Y có quyền làm theo ý muốn của y và sức mạnh của ý chí y
sẽ nâng đỡ sự hành động
của y.
Quả thật là một người có
nghị lực có thể tạm thời chế phục một người khác dễ dàng. Lịch
sử cho chúng ta thấy nhiều tấm gương của những vĩ nhân, trong lúc
còn sinh tiền họ đã áp chế những người ở bên cạnh họ, nhưng
khi họ chết rồi thì công nghiệp của họ cũng tiêu tan. Họ
quên rằng họ phải qua con đường tử vong, họ phải thấy trước cái
trống không để lại sau cái chết của họ. Nghiệp quả xấu do sự lầm
lỗi của họ tạo ra thấy rõ trong sự hư hoại công nghiệp của họ sau
khi họ từ trần. Điều này chứng tỏ tức
khắc rằng những người đó không biết chi về những điều kiện
để hành động cho có hiệu quả, họ cũng không hiểu rằng người sáng
tạo và người lãnh đạo phải tập hợp những người được chọn lọc
kỹ lưỡng, rồi cho họ hoàn
toàn tự do để hoàn thành công việc, theo đường lối riêng của họ.
Không nên cố gắng tự mình chăm lo từng
chi tiết. Hơn nữa điều này cũng không thể thực hiện được.
Cõi đời do những sự dị biệt vô số kể tạo nên, nhưng trong đó ẩn
tàng một đơn vị duy nhất. Trên thế gian những loại thấp thỏi không
biết định luật, nên bị bắt buộc phải tuân theo. Nhưng con người
được tự do một cách tương đối - tự do trong giới hạn rộng lớn của
những định luật bên ngoài mà y không thể vượt qua - nhưng trong giới
hạn ấy y có thể làm những gì y muốn. Làm việc theo đường
lối riêng của y, đó là điều kiện của sự tiến hóa của y, và theo
chỗ y tỏ ra có khả năng sử dụng sự tự do ấy một cách khôn ngoan.
Như vậy, dần dần, từng bước một, chúng ta sẽ đạt đến tự do hoàn
toàn. Trên nấc thang thứ nhất của thang tiến hóa, thú vật hoàn
toàn tuân theo Luật Trời mà vô ý thức, trên nấc cao tột, Đức Thầy
hoàn toàn tuân theo Luật Trời mà có ý thức. Tất cả chúng ta ở
hoặc cao, hoặc thấp trong khoảng giữa hai thái cực này.
Chúng ta nên nhớ rằng can
thiệp vào việc của người thuộc về Hạ Trí và sự không xen vào
việc của kẻ khác chẳng xa lạ gì với
đức tánh cần thiết đã kể ra trước đây, ấy là sự tự chủ
trong khi tư tưởng. Can thiệp bằng tư tưởng vốn mạnh mẽ lắm. Chúng
ta hãy lấy một
thí dụ trong trường hợp sau đây. Một người trong chúng ta đang
gặp khó khăn đặc biệt mà y cố gắng vượt qua. Sự khó khăn đó có
thể phát sinh từ vài nhược điểm về tánh tình, hoặc do lối suy tư
hay hành động không tốt đẹp, vì những thói quen cũ kỹ thúc đẩy y
; bằng mọi cách, y cố gắng hết sức để sửa mình. Rồi một người
nào đó xuất hiện và nghi ngờ sự yếu đuối hoặc nỗi khó khăn
đặc biệt mà y chịu
đau khổ. Người ấy nghi ngờ rồi tiếp tục đi theo con đường
của y, chớ y không dè y đã làm một điều rất tai hại.
Người thứ hai này không
hiểu rằng y đã đẩy nhẹ người anh em của mình, làm cho anh này có
thể hành động theo chiều hướng xấu. Có thể hai thế lực này, thói
quen và sự nỗ lực chống
chỏi lại, đang rung chuyển trên
đòn cân, rồi sự nghi ngờ làm nghiêng cán
cân qua một bên. Đó là lý do tại sao sự ngờ vực lại đều
đáng trách. Nó luôn luôn đáng trách: nếu chẳng may ngờ vực có lý
do xác đáng, thì
nó chỉ gây ra hậu quả là thúc đẩy kẻ bị ngờ vực đi theo
chiều hướng xấu. Nếu
sự nghi ngờ không
đúng, thì một lần khác, nó có thể khiến cho kẻ bị nghi ngờ dễ
bước vào con đường tội lỗi. Trong bất cứ trường hợp nào, ngờ vực
tức là gởi đến ai đó một
tư tưởng xấu xa, cho nên dù cách này hay cách khác, đó là điều sai
quấy. Chúng ta phải luôn luôn có quan niệm tốt đối với mọi người,
dù chúng ta có xét đoán họ tốt hơn sự thực đi nữa; chúng ta vẫn
gởi đến cho họ, một tư tưởng nó chỉ hành động cho họ được tốt
đẹp mà thôi.
Cũng cần
nhớ đến những sự kiện quan trọng này: Một khối tư tưởng
xấu, sớm muộn gì cũng bị thế lực hắc ám điều khiển để chống
lại bất cứ là ai đang tiến nhanh trên Đường Đạo. Vì một khối tư
tưởng xấu tấn công bạn có khuynh hướng thúc đẩy bạn
làm quấy, cho nên bạn phải hiểu ảnh
hưởng độc hại của sự nghi ngờ và phải canh
chừng cẩn thận tư tưởng và hành vi của bạn. Khi nghĩ
đến điều gì xảy ra cho bạn, bạn hãy nhận thức suông sự
kiện, không nảy sinh giận hờn hay uất ức. Và mỗi khi đứng trước
sự bộc phát lớn lao của lòng thù hận, bạn
nên nhớ đến câu Thánh Kinh Cựu Ước này: "Hãy thắc lưng Cái Trí
lại", và trong lúc ấy chỉ vận dụng thêm một số năng lực thặng dư
đối chọi lại, hầu trung hòa tư tưởng xấu. Bạn hãy làm như thế,
rồi những khối tư tưởng xấu hướng đến bạn, sẽ không hại bạn
được. Trái lại, bạn sẽ lợi dụng
được chúng, vì chúng sẽ giúp bạn khám phá ra những nhược
điểm của bạn. Rồi chúng sẽ đưa những nhược điểm ấy ra ánh sáng.
Nếu không vậy, thì những nhược điểm kia sẽ có thể ẩn nấp trong
lòng bạn. Và sự cương quyết đương đầu với sự đột kích của các
tánh xấu làm cho bạn trở nên mạnh mẽ hơn và với một ngày kia
chúng vừa đụng tới bạn thì chúng sẽ tan vỡ ra từng mảnh, không
làm gì bạn được.
Vậy bạn phải làm công
việc của mình một cách hoàn hảo và
đừng lo đến công việc kẻ khác, nếu họ không cần đến sự
giúp đỡ của bạn. Bạn hãy làm công việc của bạn với tất cả khả
năng bạn đang có, nhưng khi bạn có thể thực hiện như thế được, thì
bạn cũng hãy để cho kẻ khác lo công việc của họ.
C. W. L.
–
Sự xen vào công việc của kẻ khác do những ý niệm sai lầm về tôn
giáo sinh ra. Thiên Chúa Giáo chính thống đã
lạm quyền can thiệp vào công việc của kẻ khác, thay vì biết
rằng bổn phận của mỗi người là phải nhờ Linh Hồn mình cứu rỗi
mình. Bất cứ trường hợp nào, tuyệt nhiên không ai có quyền can
thiệp vào giữa Phàm Ngã và Chơn Ngã của kẻ khác, Những phán quan
tra tấn thời Trung Cổ tưởng mình làm việc chơn chánh, khi bắt thân
xác của kẻ khác chịu khổ hình ghê rợn để họ thú tội, hầu cứu
rỗi linh hồn họ. Theo chỗ hiểu biết của tôi, tôi không bao giờ cho
rằng có thể làm cho một người khác tin tưởng như thế được.
Nhưng nếu người ta làm cho xác thân y nói rằng: trên một điểm nào
đó có đức tin, thì người ta
không hiểu tại sao lời khai đó, dù sai sự thật, lại có thể cứu
rỗi được linh hồn? Nếu những kẻ tra khảo ấy thực sự tin điều đó
( Tôi tự hỏi con người có bao giờ thành thật tin sự dối trá kinh
khủng như thế không?), thì
họ có thể biện chính cho tất cả những sự ghê tởm mà họ đã làm,
vì dù họ có hành hạ tra tấn thể xác trong vài giờ hay vài ngày
đi nữa thì cũng không có gì đáng kể, so với việc họ giải thoát
vĩnh viễn cho linh hồn khỏi những nỗi đau khủng khiếp. Trong những
trường hợp đó, việc hành hạ kẻ đồng loại của họ trở
thành một hành động đáng khen. Chúng ta khó tin rằng có
người lý luận như thế, tuy nhiên, hình như có nhiều người đã làm
việc ấy rồi, dù chúng tôi không đề cập đến những người đã dùng
thế lực của Giáo hội trong những mục tiêu chính trị.
Bởi vì con ướm thử làm một việc cao thượng thì không nên vì lẽ
đó mà quên bổn phận thường ngày của con, vì bao giờ chúng nó chưa
xong, thì con không rảnh rang để làm việc khác. Đối với đời chớ
nên đảm nhận bổn phận mới nào cả, nhưng
những việc mà con đảm đương, con phải hoàn thành chúng. Thầy
muốn nói đến bổn phận nhất định và hợp lý mà chính con đã biết
chứ không phải những bổn phận tưởng tượng do kẻ khác cố gắng bắt
buộc con phải thực hành. Nếu con muốn một ngày kia có thể được
Chơn Sư thâu nhận làm đệ tử, thì
con phải làm việc
thường ngày giỏi hơn kẻ khác chớ không phải tệ hơn; vì
điều đó cũng phải nhân danh Ngài mà làm.
A. B.
–
Đôi khi chúng ta nhận thấy, khi bước vào con đường Huyền Bí Học
rồi, người ta bắt đầu làm việc thường ngày chẳng những không giỏi
hơn, mà lại con tệ hơn trước. Đó là điều sai lầm nghiêm trọng. Sự
nhiệt thành lớn lao bừng dậy do sự học hỏi những điều mới lạ,
sự cố gắng để đạt đến một đời sống cao thượng cho chúng ta thấy
một sự nguy hiểm và đồng
thời một sự lợi ích: nguy hiểm ở chỗ xem thường những bổn phận
thường ngày tại thế gian. Ý
tưởng này chứa đựng một phần
chân lý và sự nguy hiểm, ở ngay trong đó. Sự nguy hiểm của
những điều sai lầm vốn do
bởi chúng có chân lý làm căn bản. Chính là một chút chân lý chứa
đựng trong một sự sai lầm làm cho sự sai lầm trở nên mạnh mẽ, chứ
không phải tại cái vỏ dầy đặc của sự sai lầm bao phủ chân lý.
Sự hoàn thành tốt đẹp
những bổn phận của chúng ta dưới thế gian chứng tỏ rằng thần lực
tuôn xuống từ những cõi cao được tiếp nhận theo chiều hướng thuận
tiện: "Pháp Môn
Du Già, chính là sự hành động điêu luyện, khéo léo
[70]".
Nếu một người được huấn luyện trên cõi cao, thì sự hành động của
y dưới những cõi thấp sẽ được tốt đẹp. Trong trường hợp trái
ngược lại, thì chúng không được như thế. Nhưng điều này còn hay hơn
là không hề lo lắng đến những việc cao siêu. Trong trường hợp sau,
những hành vi phi lý có thể tạm thời gây ra nhiều tai hại, nhưng
tai hại đó không trường tồn vì động lực sinh ra chúng vẫn tốt
đẹp.
Người đệ tử
phải cố gắng làm bổn phận của mình dưới thế
giỏi hơn mấy
kẻ khác. Thường lắm khi vị đệ tử hành động một cách không
sáng suốt, Đức Thầy có thể can thiệp để lập lại sự thăng bằng
đã bị chênh lệch. Đó là lý do tại sao Đức Thầy để thí sinh trải
qua một thời kỳ nhập môn. Nếu thời kỳ nhập môn này thường kéo
dài ra lâu, thì đôi khi cũng vì lý do như thế. Thường thường người
ta phải để một thời gian
khá lâu mới làm cho
lòng nhiệt thành và sự hoạt động của mình
trở nên thăng bằng, do một
sự điều hòa và một
tiên kiến hợp lý.
Vị đệ tử có ích lợi cho
kẻ đồng loại của mình chăng? Đó là sự thử thách đầu
tiên của y. Người chí nguyện không nên cho công việc huyền bí
của mình quan trọng hơn phần việc ngoài đời
[71].
Nếu là người Thông Thiên
Học, mà y xao lãng công việc của Chi Bộ và công việc của y đối
với Hội để lo phần tiến
hóa riêng của y trên phương diện Huyền Bí, thì y lầm vậy. Lấy một
thí dụ khác, nếu y hy sinh
việc đời để lo học hỏi, y cũng sái quấy nặng nề. Học vấn là
điều tốt, nhưng nó phải lệ thuộc sự hữu ích. Phải học hỏi để
trở nên hữu dụng, và không nên từ bỏ sự hữu dụng chỉ vì ham học
hỏi. Mỗi khi xảy ra sự xung đột giữa bổn phận ngoài đời với sự
học hỏi, thì sự học hỏi phải nhượng bộ.
Trong tất cả những vấn đề
này, chúng ta đừng quên rằng con đường Huyền Bí Học chật hẹp như
lưỡi dao cạo. Không có chi
ngăn cản chúng ta hy sinh hầu hết thì giờ của mình trong lúc thức
đây để giúp kẻ khác những việc nhỏ nhặt, nhưng trong mấy trường
hợp đó, có thể có nhiều việc không được chọn lọc, và một
phần lớn vẫn không được thực hành kỹ lưỡng. Chúng ta bị bắt buộc
phải dành thì giờ để ngủ nghê và ăn uống, hầu lấy lại năng lực
cần thiết cho sự làm việc trong thời gian còn lại. Chúng ta cũng
phải để vài giờ để tham thiền, học hỏi, xem xét công việc
phải làm và cách thức hoàn thành nó. Khía cạnh này của vấn đề
đã được Đức Thầy giải thích trong phần Phân Biện. Mỗi phần của
giáo lý, Ngài đều đưa vị đệ tử lại con đường trung dung. Nếu y
phóng đại thái quá lời khuyên nào đó, thì y không thể tránh khỏi
việc vấp ngã một lần nữa. Người ta nói rằng một chiếc tàu chạy
hay, không chạy theo đường thẳng mà chạy vát một ngàn lần, khi thì
bên hữu, khi thì bên tả. Đời sống người đệ tử cũng giống như thế.
Vị thuyền trưởng đứng trên cầu của chiếc tàu là Đức Thầy. Ngài
chỉ cho đệ tử những ngôi sao
có thể hướng dẫn y và giúp đỡ y theo gần đúng con đường thẳng.
Nhiều người chỉ theo đuổi một ý niệm tốt đẹp duy
nhất và cố chấp cho đến đỗi không còn thấy cái nào khác
ngoài cái đó.
Đức Thầy dạy đệ tử của
Ngài đừng đảm trách nhiệm vụ mới.
Người nào tận tụy với công việc của Đức Thầy thì nên biết
điều quan trọng là y phải luôn luôn sẵn sàng phụng sự Ngài bằng
mọi cách và bất cứ nơi nào. Kinh nghiệm cá nhân tôi có thể cho
bạn một thí dụ đáng lưu ý về việc đó. Khi tôi còn trẻ, mấy đứa
con tôi bị bắt buộc phải xa rời tôi, trái với ý muốn của tôi, tôi
chống đối sự chia ly đó bằng mọi phương tiện pháp lý, nhưng tôi đã
thất kiện. Pháp luật đã cắt đứt sợi dây liên hệ và lấy hết bổn
phận bảo vệ con cái của tôi là người làm mẹ. Con gái tôi liền
trở về với tôi khi nó được tự do. Trong mười năm tôi không gặp con
tôi, và cũng không viết thư cho nó, nhưng nó đã trở về ngay với
tôi, ảnh hưởng của tôi đối với nó không suy giảm. Bây giờ tôi ở
chung với Bà Blavatsky và bà đã cảnh cáo tôi như sau: "Em coi chừng,
đừng nối lại sợi dây mà luật nhân quả đã cắt đứt". Nếu lúc đó
tôi trở lại đời sống cũ của tôi, sau khi đã tuyên thệ với Chơn Sư,
thì tôi đã hành động sai quấy.
Hơn nữa, vấn
đề không phải là xao lãng, không lo lắng con gái tôi. Nó đến
ở với chúng tôi cho đến khi nó xuất giá, nhưng nó phải chiếm địa
vị thứ nhì chớ không phải
địa vị thứ nhất.
Còn bạn, chỉ một mình
bạn mà thôi, bạn có trách nhiệm đối với những nhiệm vụ
mà bạn phải hoàn thành. Bạn có trách nhiệm
đối với Đức Thầy và chỉ đối với Ngài mà thôi. Nếu có
người muốn ép buộc bạn phải làm điều gì mà họ tưởng rằng đó
là bổn phận của bạn và
nếu bạn xét ra là không đúng, thì bạn hãy bày tỏ sự bất đồng ý
kiến của mình một cách dịu dàng êm ái và cương quyết. Bạn phải
quyết định. Sự lựa chọn của bạn có thể đúng hoặc sai và nếu
bạn lầm lạc, bạn phải chịu
đau khổ, nhưng quyền quyết định phải thuộc về bạn. Không ai
được can thiệp vào trách nhiệm của
một người đối với bản thân y và đối với Sư
Phụ y. Bạn có trách nhiệm đối với Đức Thầy của bạn. Vì
tình thương của Ngài mà bạn phải làm công việc thường ngày của
bạn giỏi hơn những kẻ khác.
C. W. L.
–
Các tôn giáo xưa đều biết nguyên tắc này: Nhà
Huyền Bí Học phải làm cho giỏi công việc tầm thường. Câu
chuyện thiếu thời của Thái Tử
Tất Đạt Đa - Ngài sau này thành Phật - đã nêu gương sáng cho
chúng ta: Ngài lo lắng học hỏi tham thiền, nhưng khi phải sử dụng
tài năng và phô trương vũ thuật để chiến thắng trong việc cầu hôn,
thì Ngài tỏ ra xuất sắc trong mấy môn này cũng như trong những sự
hoạt động cao thượng. Quyển Thánh
Ca Bhagavad Gita nói rằng:"Pháp môn Du Già là sự hành động điêu
luyện, khéo léo. Khéo léo đó là hoàn thành công việc một cách
cẩn thận, lịch thiệp và lễ độ. Vậy những vị đệ tử Chơn Sư
phải tập giữ cho đời sống của mình được thăng bằng, phải
biết lúc nào nên hoặc không nên gác qua một bên những công việc
thấp thỏi.
Người tự hiến mình, và
đã hiến thì giờ và sinh lực của y để phụng sự Đức Thầy, thì y
không nên đảm nhận thêm một công
việc nào khác ngoài công việc riêng
của y. Y không được để cho kẻ khác buộc y phải làm những
nhiệm vụ mà y không thừa nhận. Chẳng hạn tôi tưởng rằng đôi khi
người ta mong chờ sự hiện diện của hội viên Thông Thiên Học trong
những buổi nhóm họp ngoài đời. Người hội viên Thông Thiên Học có
thể nói rằng: "Tôi sẵn sàng hy sinh cho tình bằng hữu thì giờ của
tôi trong những giới hạn hợp lý". Nhưng y hoàn toàn hữu lý, khi
dành hết thì giờ của mình
để làm việc cho Hội.
Lời giáo huấn về những
bổn phận này có liên hệ đặc biệt đến đời sống của Alcyone tại
Adyar, trong khi em được Đức Thầy dạy dỗ. Chẳng hạn, một hôm người
ta bảo em dành trọn một ngày để dự một cuộc hành lễ của một
người bà con xa với em. Em trình trường hợp ấy lên Đức Thầy, Ngài
trả lời: "Được, con có thể
đến đó trong giờ nào đó và chỉ một giờ thôi, để cho những người
trong gia đình khỏi tức giận, nhưng trong khi hành
lễ con hãy cẩn thận,
tuyệt đối đừng lập lại một lời nào mà con không biết, đừng lập
lại một cách máy móc những lời của vị tăng sĩ, và con chớ để
người ta làm thay con điều gì mà chính con có thể làm được - đó
là những điều liên hệ đến những cuộc hành lễ và những sự ban ân
huệ".
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI
�
Y
�
Con phải hết lòng khoan dung cho tất cả mọi người và có thiện cảm
một cách chân thành đối với những tín ngưỡng của kẻ khác cũng
như tín ngưỡng của con vậy, bởi vì Đạo của họ cũng như Đạo của
con chỉ là một con đường dắt đến Đức Thượng Đế. Và muốn giúp đỡ
tất cả mọi người, thì con phải hiểu biết tất cả.
A. B.
–
Đức khoan dung có thể là
một trong những đức tánh mà người ta đề cập đến nhiều nhất hiện
nay, nhưng mà lại thực hành ít nhất. Đó là một trong những đức
tánh khó đạt được hơn hết, vì một tín ngưỡng càng ăn sâu vào trí
não thì càng được xem là cao quí, và lẽ tự
nhiên người ta càng muốn ép buộc kẻ khác phải tin theo. Sự
gây hấn này phát sinh
ra tất cả những sự ngược đãi và những chiến tranh tôn giáo công
khai hay riêng rẽ. Nhưng sự gây hấn ấy còn khá hơn tánh lãnh đạm,
thường được xem như là đức khoan dung. Tánh lãnh đạm không phải là
đức khoan dung. Chớ nên lầm lẫn điều đó. Hiện nay, trong chính
quyền rất ít xảy ra những sự ngược đãi; nhưng trong
gia đình và ngoài xã hội vẫn còn nhiều. Ở vài xứ, sự tự
do tư tưởng được thịnh hành thì chính quyền vẫn còn ngược đãi tôn
giáo. Những nhà tự do tư tưởng bị ngược đãi đến nỗi ý định trả
thù của họ trở nên quá mạnh. Lẽ dĩ nhiên, họ vi phạm những nguyên
tắc của họ. Tôi hy vọng rằng đó là một phản ứng suông, hậu quả
những sự ngược đãi của giáo phái đối với họ sẽ sớm chấm dứt.
Tinh thần ngược đãi vẫn
còn nhiều trên thế giới và đôi khi chính
phủ bắt buộc phải thực hiện sự khoan dung, như ở Ấn Độ
chẳng hạn, để ngăn cản những sự rối loạn
và bạo động. Tinh thần
khoan dung lẫn nhau vẫn có giữa tín đồ của các giáo phái
trong những xứ mà những tôn
giáo khác nhau được quân bình ít nhiều. Lý do của sự khoan dung
này là sự sợ sệt lẫn nhau. Như vậy sự
khoan dung, dù đã có, hầu như luôn luôn bắt nguồn từ một
tình cảm không mấy chính đáng.
Sinh viên Huyền Bí Học
phải tìm cách phát triển lòng nhân
từ; vả lại người ta đạt được nó nhờ biết rằng Chơn Nhơn
trong mỗi người tìm con đường riêng biệt của mình. Chỉ có thái độ
đó mới hợp lý thôi, vậy nên thừa nhận nó để cho đức khoan dung
trở thành một đức hạnh được phổ cập khắp nơi. Chúng ta phải nhìn
nhận rằng mỗi người có cách thức riêng của họ để tìm kiếm chân
lý tối cao và họ phải được
tuyệt đối tự do trong sự
hành động đó. Điều ấy có nghĩa là chẳng những bạn không được cố
gắng lôi cuốn một người nào theo tôn giáo của bạn, mà bạn cũng
không được cố gắng bắt ai phải theo những lập luận và ý kiến của
bạn hoặc bạn làm lay chuyển những
tín ngưỡng thích ứng với nhu cầu của họ. Lòng hoàn toàn
quảng đại này phải là mục tiêu của bạn. Những cực đoan không xa
cách nhau đâu - một mặt là đại lượng, một mặt khác, người đời
thường có ý khinh bỉ và cho rằng những vấn đề tôn giáo không có
tầm quan trọng lớn lao, chúng
chỉ đóng vai trò cảnh sát để giữ gìn con người trong vòng
trật tự, họ cho điều đó là khoan dung. Tôn giáo của kẻ khác phải
thiêng liêng đối với bạn, vì lẽ nó thiêng liêng đối với y. Các
Đấng Cao Cả trong Quần Tiên Hội sẽ không nhận vào hàng Huynh Đệ
của các Ngài bất cứ ai chưa có cái thái độ thật gần giống với
nguyên tắc này.
C. W. L.
–
Hiện giờ có lẽ sự khoan dung có nhiều hơn thời đại Đế Quốc La Mã
và nó rất giống như sự khoan dung đã có hồi xưa. Người ta nhắc
lại nhiều chi tiết lạ lùng về cách những người La Mã đối đãi
với những người Thiên Chúa Giáo đầu tiên. Những
sự sưu tầm thận trọng đã cho thấy rằng sự ngược đãi tàn
ác nhất mà người ta đã nói đến nhiều thật không hề có. Nhưng quả
thật người Thiên Chúa Giáo thường gây phiền phức cho mình. Tôi không
muốn nói là trên vài phương diện, những ý niệm trong thời đó không
phải là không dã man, nhưng những người Thiên Chúa
Giáo đầu tiên hầu như có tinh thần hỗn loạn, vô chính phủ
và khi họ xung đột với nhà cầm quyền, thì chẳng phải do tôn giáo
của họ gây nên, mà do những lời nói và sự hành động của họ.
Những người La Mã không thừa nhận tình huynh đệ theo kiểu người
Thiên Chúa Giáo đầu tiên thuyết giảng. Nó gần giống với
những hình thức này: "Hãy
làm anh em với tôi hoặc tôi sẽ giết chết anh". Trong vài trường
hợp, họ từ chối tham dự
vào những cuộc lễ nhỏ được xem như một bổn phận của người công
dân. Họ không chịu rải một nhúm hương trên bàn thờ hoặc rót một
giọt rượu để tỏ lòng tôn
kính đối với Hoàng Đế. Những cử chỉ này cũng giống như
việc giở nón chào tại Luân
Đôn khi nhà vua đi qua. Đế
Quốc La Mã khoan dung nhất trên đời đối với những tôn giáo khác.
Người La Mã rất ít thắc mắc để tìm hiểu người ta thờ vị Thần
Thánh gì, vì họ không tin
vào sự hiện hữu của vị nào cả. Họ có xây một Vạn Thần miếu vĩ
đại nơi đó họ lập đền thờ tất cả những Thần Thánh và khi họ
thấy Đấng Christ được người ta tôn thờ, họ lập tức dựng hình
Ngài. Nói chung sự khoan dung của họ chỉ là tánh lãnh đạm mà
thôi.
Đa số những người La Mã
thuở xưa đầu thai vào giống dân của nước Anh. Hiện nay có nhiều
người khoan dung đối với mọi
hình thức tín ngưỡng, vì họ không tin tưởng cái gì cả. Họ xem tôn
giáo như một huyền thoại lý thú để giúp vui cho nữ giới, còn đối
với phái nam, thì dĩ nhiên tôn giáo không phải là chuyện đứng đắn.
Mục đích của chúng ta không phải là sự khoan dung như thế ấy. Đức
khoan dung của chúng ta phải căn cứ trên sự thừa nhận rằng những
tín ngưỡng của kẻ khác cũng đưa đến chỗ cao siêu. Khi vào đền thờ
hay giáo đường của một tôn giáo khác với tôn giáo của mình, người
thật có tinh thần khoan dung
sẽ tuân theo những nghi thức đã được đặt ra, chẳng phải chỉ vì
kính trọng tục lệ mà thôi, nhưng còn vì sự kính trọng đối với
những tín đồ khác và đối với
tôn giáo khác với tôn giáo của y. Có nhiều người khi vào
nhà thờ lại từ chối việc
bái chào trước bàn thờ và họ còn cẩn thận quay lưng lại. Tôi
biết có những người thử đi vào một giáo đường Hồi
Giáo mà không cổi giày. Người ta không có gì phải làm trong
nhà thờ hoặc đền thờ của
một tôn giáo khác, nếu
người ta từ chối việc giữ
gìn hạnh kiểm cách nào mà không làm mếch lòng những tín đồ. Nếu
bạn nghĩ rằng quì gối trước bàn thờ Chúa là việc không hay, thì
không ai cấm bạn ở ngoài, nếu bạn cảm thấy việc cổi giày là một
cái tội, thì không ai ép buộc bạn phải bước vào giáo đường của
người Hồi Giáo.
Tất cả những người trên
thế gian là những biểu hiện
của Đại Ngã Duy Nhất. Vậy thì cái hình thức sự hoài vọng của
kẻ khác đều phải được kính trọng. Lắm khi sự
biểu lộ này có tính cách trẻ con, nhưng không một người nào
tánh tình tốt mà lại nghĩ
đến việc đưa nó ra giễu cợt hoặc cho nó như một điều tệ hại. Làm
sao một trí khôn kém mở mang chia sớt được cái thấy tự nhiên của
một trí khôn đã phát triển cao hơn nó nhiều. Đức khoan dung khiến
chúng ta nói theo quan niệm
của người La Mã thuở xưa như sau đây: "Tôi là người, thì không có
cái chi thuộc về người lại xa lạ với tôi" và nó cũng khiến chúng
ta cố gắng tìm hiểu quan điểm của kẻ
đồng loại với mình. Ở đây như là sự luyện tập có tính
cách cá nhân, nhưng phương pháp này chẳng bao lâu sẽ cho chúng ta
thấy rằng Cái Trí con người
có thể phản chiếu ánh sáng chân lý với nhiều khía cạnh khác
nhau. Thế gian sẽ trở nên buồn tẻ, nếu mỗi việc đều phải làm một
cách như nhau! Nó sẽ giống như cái ngục tù mà tất cả đều chỉ
hoạt động cùng một giờ và cùng một cách thức.
Như bạn đã biết, chẳng
hạn có vài điều phân biệt chính yếu giữa tâm trạng của người
Thiên Chúa Giáo và người theo đạo Tin Lành. Mỗi bên xem xét Đạo
của Chúa theo quan điểm riêng của mình, và đa số tín đồ hai phe
đều hoàn toàn không hiểu nhau.
Người Thiên Chúa Giáo áp dụng nguyên tắc cho rằng sự thờ
phượng cử hành với nhiều nghi thức, về mọi phương diện, nó phải
được uy nghiêm đúng mức để làm vinh hiển Đức Chúa Trời mà họ
tôn thờ và cũng để gây sự cảm xúc trong lòng các tín đồ.
Họ có cảm tưởng rất rõ rệt rằng lễ giáo, những nghi thức và vẻ
huy hoàng của khung cảnh chung quanh đều có tác dụng trợ giúp mạnh
nhất cho lòng sùng tín. Trái lại, những tín đồ đạo Tin
Lành cho rằng tất cả
những điều này xấu xa và ghê tởm, vì làm như
thế trí khôn con người hiểu sai lầm ý nghĩa thâm sâu. Có lẽ,
nếu phải dự tất cả những nghi lễ này, tâm trí của những người,
theo đạo Tin Lành không thể giữ được ý niệm bên trong. Điều nào có
thể gây tác dụng sâu xa đối với người Công Giáo, thì có thể là
một sự phiền phức, một sự xáo trộn, một nguyên nhân hỗn loạn cho
lòng sùng tín của người tín đồ đạo Tin Lành.
Nhiều người nhận rằng
lòng sùng tín và sự khát vọng của họ còn mơ hồ, không vững chắc
khi họ chỉ sử dụng phương
thức thờ phượng trong tâm tư. Đối với họ hình thức bên ngoài là
một sự trợ giúp lớn lao, tại sao không lợi dụng nó? Những người
tìm thấy trong nghi lễ, hình tượng tranh ảnh, trong sự biểu lộ vật
chất, một sự thỏa thích,
một nguồn cảm hứng tuyệt vời, thì chắc chắn họ thuộc về một
trong bảy cung vĩ đại của sự sống, một trong bảy con đường lớn lao
đưa con người đến ngôi Thượng Đế. Những người nào không thích chi
cả trong mấy chuyện ấy, chỉ
thấy trong đó sự bứt rứt
phiền hà và giải trí, thì họ theo đường riêng của họ. Vậy
họ hãy vui thích với con đường riêng của họ. Tại sao lại
khuấy rối họ?
Mỗi người vẫn nói ngôn
ngữ của mình từ thời thơ ấu. Người ta
cũng có thể nói, mỗi người diễn đạt ngôn ngữ đạo đức riêng
của họ. Đó chính là phương thức mà những tư tưởng, tình cảm và
khát vọng của y tự biểu lộ một cách dễ dàng nhất. Khinh khi một
người Pháp, vì ngôn ngữ của y khác với ngôn ngữ của chúng ta là
một thái độ vô cùng phi lý. Điều này cũng phi lý như việc khinh
khi một người khác tôn giáo với chúng ta. Người Pháp gọi "cái
nhà" là "maison" thay vì "house". Ý nghĩa vẫn đồng nhất. Nếu y cho
rằng danh từ này hay hơn danh từ kia thật là vô nghĩa. Điều này
khiến chúng ta nhớ đến ông Lillyvick, nhân vật nổi tiếng trong
truyện Nicolas Nickelby; sau khi học tiếng Pháp thấy “water” có nghĩa
là "nước", thì ông tuyên bố rằng tiếng Pháp là ngôn ngữ nghèo
nàn. Người ta cũng thuật lại trong thời kỳ chiến tranh Nã Phá
Luân, một bà lão kia cầu xin Chúa cho người Anh thắng trận, và có
một người kia nhắc bà rằng bên kia trời, người ta cũng cầu xin cho
người Pháp được thắng trận, thì bà đáp rằng: "Cái đó không nghĩa
gì hết. Làm sao Chúa hiểu họ được, khi họ nói những điều ngu
xuẩn như
thế"?
Không có lý do gì mỗi
người không thể theo đuổi con đường thích hợp nhất với mình. Đó
chính là con đường hay hơn hết đưa họ đến Thượng Đế. Sự bằng an
và điều hòa chỉ có được khi nào cả đôi bên điều chấp nhận sự
kiện này. Mỗi người phải nói rằng: "Tôi thích con đường của tôi,
nhưng tôi hoàn toàn muốn mọi người cũng có đặc quyền như tôi và
chọn lựa con đường tốt nhất đối với
họ. Đòi hỏi điều ấy dường như không đáng kể, nhưng ít người
bằng lòng như thế. Mỗi người phải tin rằng cái gì tốt nhất cho
mình cũng phải tốt nhất cho kẻ khác. Một cái tâm trạng rộng rãi
hơn phải nhận thấy rằng
có nhiều con đường
dẫn tới đỉnh núi và mọi người phải được tự do chọn con đường
hấp dẫn nhất đối với mình.
Tôi phải thú nhận rằng,
có một tâm trạng mà riêng cá nhân tôi, tôi khó lòng hiểu được, đó
là lòng sùng tín hướng về Thượng Đế một cách rườm rà với đủ
thứ danh từ mơn trớn lấy trong thi ca tình tứ và tiểu thuyết. Điều
đó làm cho tôi khó chịu, và tạo ra một cảm tưởng bất kính, vô lễ
trong lòng tôi, dù tôi biết rõ những điều đó vốn chân thành và có
dụng tâm tốt. Những người ưa thích sự sùng tín đó chắc chắn là
cho tôi lãnh đạm và không hiểu ý nghĩa của câu văn
vì tôi suy xét mọi việc theo lương tri, tôi suy luận và tìm
hiểu về chúng.
Trong mọi tôn giáo, những
tác phẩm viết về lòng sùng tín cho một hạng người tư tưởng cao
siêu đều giống nhau rõ rệt. Chẳng hạn bạn so sánh những tác phẩm
quen thuộc của người Công Giáo La Mã với tác phẩm thường dùng của
những tín đồ Đức Ramanou-jacharya thì bạn sẽ nhận thấy chúng thật
giống nhau. Vả lại, đời sống của một người Thiên
Chúa Giáo tốt lành cũng giống như
đời sống của một người Ấn Giáo, Phật Giáo, Hồi Giáo hay
đời sống của một người tốt thuộc về bất cứ tôn giáo nào. Tất
cả đều thực hành những đức tánh tốt giống nhau và chừa bỏ những
tật xấu như nhau.
Nhưng muốn có lòng hoàn toàn khoan dung, trước hết con hãy tự giải
thoát ra khỏi thói mê tín
[72]
và tin dị đoan.
A. B.
–
Mê tín là cho ý kiến riêng của mình có giá trị chứ không đếm kể
đến ý kiến kẻ khác. Một
lần kia, có một bà thật tử
tế nhưng cũng rất mê tín, vì thuộc phái Tân Giáo hẹp lượng nhất,
nói vơi tôi rằng bà không bao giờ
đọc một tác phẩm viết không
đúng với những ý niệm của tôn giáo bà. Đó là sự tin tưởng
của người mê tín: không hề
đọc một ý kiến nào khác và e rằng nó sẽ làm lung
lay ý kiến của mình. Kẻ
đi tìm chân lý muốn sống một cuộc đời cao thượng phải có
một quan niệm trái hẳn lại. Y cố gắng đọc tất cả những tác phẩm
thuộc về vấn đề nào đó, để thấy bao nhiêu khía cạnh khác của
ánh sáng chân lý chiếu vào trí óc con người và do nó mà bị khúc
xạ. Muốn đạt được chân lý, bạn
phải nghiên cứu tất cả những
quan điểm, tất cả
những ý kiến dị biệt, rồi đồng hóa ít nhiều yếu tố chân lý
chứa đựng trong đó.
Học hỏi những sự dị đoan
cũng là điều tốt, vì Kinh
Upanishad có nói một câu rất hay như sau: "Sự chiến thắng chỉ
thuộc về chân lý mà thôi, chớ không phải thuộc về sự giả trá".
Sức mạnh của sự dị đoan do một mảnh chân lý mà nó chứa đựng bên
trong tạo nên. Chúng ta phải khám phá mảnh chân
lý đó. Dĩ nhiên, kẻ mê tín chỉ thấy sự giả trá mà thôi.
Còn quí bạn, quí bạn phải biết những khái niệm của tất cả
những tôn giáo và phải nghiên cứu chúng không phải như nhà truyền
giáo, nhưng với tinh thần thiện cảm. Bạn cũng
nên tuân theo nguyên
tắc này trong các
vấn đề chính trị và xã hội.
Phải diệt trừ sự dị đoan
được xác nhận trong phần cuối của quyển sách này như một trong ba
trọng tội, gây tai hại nhất cho con người, vì nó là tội trái
nghịch nhất với tình thương. Ở dưới trần
thế tôn giáo và sự dị đoan vẫn bị lầm lộn, nên cần phải
có sự phân biệt trong trí
óc chúng ta bằng
một định nghĩa rõ rệt. Định nghĩa mà tôi thích nhất - dù
nó không được khá tổng quát - là thế này: tính dị đoan lấy cái
không cốt yếu mà làm điều cốt yếu, lấy cái phụ thuộc mà làm
điều quan trọng. Trong cuộc tranh luận về tôn giáo, người ta biện
bác về một điểm không trọng
yếu và mỗi bên thường tiêu biểu cho một sự hiểu lầm chân lý khác
nhau.
Một định nghĩa khác về
sự dị đoan như sau - định nghĩa này
cũng không được hoàn toàn
- Sự dị đoan là một
niềm tin không có căn bản hợp lý. Thế nên nhiều chân lý trở thành
dị đoan đối với những ai có sẵn chúng nó bởi vì họ không có một
lý do chính đáng và tốt đẹp để tán đồng chúng nó.
Đức Thế Tôn có nói rằng
chỉ có một lý do đáng cho bạn tin tưởng một việc gì là khi nào
nó phù hợp với lý trí và lương tri của bạn và như thế người ta
mới có thể nói rằng riêng bạn đã hiểu được
điều đó. Chúng ta hãy
áp dụng tiêu chuẩn này, chúng ta sẽ thấy phần lớn tôn giáo của
hầu hết nhân loại phải gọi là dị đoan, Đối với những người này
thì không quan hệ mấy, nhưng đối với những người cố gắng đi tới
Đường Đạo, tất cả những gì không được kiểm chứng bằng trực giác
hoặc lý trí phải tạm thời gác qua một bên. Khi nào quan năng siêu
việt của bạn phát triển thì nó liền nhận ra Chân lý ngay, bạn
còn có thể đồng hóa với Chân lý luôn luôn nhiều hơn. Bây giờ một
sự tin chắc sâu xa nảy sinh ở bạn và khi một Chân lý hiện đến với
bạn, bạn sẽ nhận ra nó. Quan năng Bồ Đề
[73],
ấy là lý trí thuần túy. Chúng ta phải lấy tiêu chuẩn này kiểm
soát tất cả những sự tin chắc của mình, bởi vì phần lớn những
gì chúng ta đã thừa hưởng đối với chúng ta đều là dị đoan. Rồi
khi mà đối với chúng ta cách tư tưởng này trở thành thói quen
thường lệ, thì chúng ta sẽ thoát khỏi sự dị đoan và phát triển
đức khoan dung.
C. W. L.
–
Đôi khi trí độ con người bị sự dị đoan chi phối
mãnh liệt, nên có khi người ta nói rằng sự dị đoan không thể
tách rời khỏi tôn giáo. Thật ra, có nhiều sự lầm lẫn trong tư
tưởng đạo đức mà đa số đều phi lý, nhưng một tín ngưỡng được
truyền bá rộng rãi, thì chắc nó dựa vào một mảnh nhỏ chân lý.
Nói một cách tổng quát, những sự dị đoan chẳng phải chỉ là
những điều bịa đặt, ấy là những sự kiện bị biến dạng hay bị
phóng đại quá lố. Một hôm, Bà Chánh Hội Trưởng của chúng ta có
kể một thí dụ về sự dị đoan ở Ấn Độ mà người ta đều biết. Một
Thánh nhân kia có nuôi một con mèo, nó rất mến ông, đến đỗi mỗi
khi hành lễ ông phải cột con vật dưới chân giường để nó đừng quấy
rầy ông. Thấy thế, người ta
kết luận rằng sự thận trọng đó là một phần cốt yếu của việc
hành lễ. Thời gian qua, sự hành lễ bị lảng quên và chỉ còn lại
một di tích là theo tục lệ phải cột con mèo dưới chân giường.
Những Pháp Sư và những tu
sĩ Do Thái Pharisiens bị Đấng Christ tố cáo là nhà đạo đức giả
và vì họ như những ngôi mộ trắng tinh chứng tỏ sự dị đoan của họ
về loại đó. Đức Chúa nói họ trả
thuế thập phân cho cây bạc hà, cây hồi hương và cây chà là,
vì họ buộc phải trả thuế thập phân tất cả những gì họ có, họ
tính tỉ mỉ những món thực phẩm vụn vặt như tiêu, muối, nhưng họ
hoàn toàn quên đi phần quan
trọng hơn cả qui luật công bằng, lòng trắc ẩn và đức tin.
Sự dị đoan trong ngày chúa
nhật làm hại vài vùng ở Anh Quốc, nhất là tại xứ Tô Cách Lan; ở
đây ngày chúa nhật buồn không thể tả. Ý định đầu tiên là giảm
đến mức tối thiểu công việc làm ngày chúa nhật để biến ngày ấy
thành ngày hiến dâng cho sự
lợi ích tinh thần. Tuy nhiên, vấn đề phụng sự Thiêng liêng đã đi
vào hậu cảnh, người ta thường thấy ngày này là ngày say sưa,
phóng túng nhiều hơn trong tuần. Đây đúng là lấy việc phụ thuộc
làm điều trọng yếu. Bởi vì
ít nhất là có một ngày mà người ta cho
là ngày đạo đức, nên người ta thường tin rằng những ngày
khác không tuân theo những giới răn và lý tưởng đạo giáo thì cũng
không quan trọng gì cả. Tôi để ý những người không theo luật
ngày chúa nhật - như người Ấn Độ, người Phật giáo và những
kẻ theo tôn
giáo khác - họ sống
một cuộc đời đạo đức đến một mức
độ mà người ta không thấy điều đó ở những người Thiên Chúa
Giáo. Tôi không nói rằng tất cả những người này đều có đức hạnh
mà tất cả những người Thiên Chúa Giáo cũng không
phải đều có đức hạnh, nhưng tôn giáo có ảnh hưởng đối với
họ mạnh hơn người Thiên Chúa
Giáo trung bình. Người Công Giáo bậc trung
thường chỉ nghĩ rằng
việc đi nhà thờ một lần mỗi tuần
thì đã làm tròn bổn phận đạo đức của mình rồi.
Bà Chánh
Hội Trưởng của chúng
ta cũng cho một định nghĩa về sự dị đoan như sau: đó là sự tin
tưởng không có nguyên do hợp lý. Tin vào sự xoay tròn của quả địa
cầu, sự hiện hữu của những miền xa xôi mà chúng ta chưa thấy, sự
thật về những nguyên tử và
điện tử hoàn toàn vượt khỏi tầm nhãn quan của chúng ta, là điều
thật hợp lý, vì chúng ta có những lý do vững chắc để tin tất cả
điều đó. Nhưng mà những sự tin tưởng của người bình dân không
thuộc về loại
này. Niềm tin thông thường của người Thiên Chúa Giáo về
hỏa ngục đời đời là hình phạt vĩnh viễn chỉ là một sự
dị đoan độc hại đặc biệt. Nó không căn cứ trên một nền tảng hợp
lý nào, nhưng nếu bạn đề cập điều đó với
người Thiên
Chúa Giáo trung bình, thì y sẽ cho bạn là kẻ vô thần và sẽ
trách bạn chế nhạo tôn giáo y. Người đầu tiên gây sự tin tưởng đó
có thể tin như thế không? Nhưng sau y, hàng triệu người đã tin tưởng
và bởi đó chắc chắn họ tin dị đoan.
Theo quan điểm Thiên Chúa
Giáo điều quan trọng duy nhất do vấn đề này trình bày là nó căn
cứ vào lời của Đấng Christ đã
nói. Tôi tưởng có tám đoạn trong đó người ta cho rằng Ngài
đề cập đến sự hình phạt đời đời. Vậy rất dễ mà chứng tỏ rằng
không có một đoạn nào đề cập đến tư tưởng của dân chúng về hỏa
ngục. Về vấn đề này có một quyển sách nổi tiếng nhan đề
Salvator Mundi, do một Mục sư
người Anh là Samuel Cox viết. Vị này phân tích thật kỹ lưỡng bản
văn Hy Lạp đầu tiên thuật lại lời của Đấng
Christ và chứng minh một cách dứt khoát rằng không có một
bản kinh nào cho phép chúng ta tin tưởng về một sự hình phạt đời
đời. Chắc chắn việc này không có một nền tảng hợp lý nào cả,
vì nếu Đức Chúa Trời là một Đấng Cha Lành, thì sự tin tưởng như
thế không thể chấp nhận được.
Người ta có thể nghĩ rằng
với thời gian, những người Thiên
Chúa Giáo ngày nay đã
tự giải thoát khỏi sự dị đoan khủng khiếp ấy đã từng gây tại
hại vô cùng cho nhân loại, nhưng có hàng triệu người còn tin tưởng
sự dị đoan đó và nó còn
được giảng dạy. Gần đây tôi
có thấy cuốn giáo lý cương yếu Công Giáo La Mã để cho trẻ con
dùng, những ý tưởng
xưa liên hệ đến địa ngục, nơi xảy ra những hình phạt đời
đời cũng được trình bày một cách
điên rồ ở quyển đó cũng như trong thời quá khứ. Về những
gì giảng dạy cho thiếu nhi,
chúng ta có thể tưởng rằng chúng ta đang ở vào thời trung cổ còn
thô tục hết sức. Thật không có gì đáng buồn hơn nữa.
Nhiều dòng Thiên Chúa
Giáo tự vượt lên khỏi những ý niệm như thế, nhưng những dòng cổ
kính và quan trọng nhất còn giữ kỹ những giáo điều thời Trung
Cổ. Đôi khi người ta may mắn gặp
được những vị linh mục biết giải thích tất cả những điều
này giống như chúng ta giải bày giờ đây, nhưng nguyên văn mà họ dạy
những thiếu nhi thì hoàn toàn ghê tởm và phạm thượng. . . . Chính
lúc chúng mới bắt đầu bước vào cuộc đời, người ta dạy chúng một
ý niệm hết sức đáng buồn
về Chúa Trời; đó là làm cho đời sống và trí khôn của chúng bị
nhiễm đầy sự sợ hãi và hung ác làm hại tánh
tình và sự
tiến hóa của chúng.
Giáo lý của Đức Phật về
đức tin và lý trí mà tôi đã kể ra là một giáo lý tuyệt
đẹp. Sau khi Phật tịch diệt, Giáo Hội nhóm họp để lựa chọn trong
tất cả những câu chuyện mà người ta gán cho Ngài, những lời nào
đáng gọi là xác thực. Và trước tiên Giáo Hội
đề ra nguyên tắc này: "Cái gì trái với lý trí và lương tri,
thì không phải là giáo lý của Phật". Những nhân viên của Giáo Hội
bác bỏ tất cả những gì không thỏa mãn trên phương diện này, và
nói rằng: "Điều này hiển nhiên là trái với lương tri. Phật không
hề nói như thế đâu". Có thể họ đã gạt bỏ một hai điều mà họ
không hiểu, nhưng họ tránh được cho tôn giáo của họ không biết bao
nhiêu điều dị đoan. Những vị
khai sáng các tôn giáo lớn,
trừ Mahomet, không hề viết lại giáo lý của mình. Tuy nhiên, người
ta nói Đức Phật có viết
một quyển sách hiện giờ được Tiên Thánh giữ gìn chớ không có
truyền bá ra ngoài đời
[74].
Thường thường, ba bốn thế
hệ trôi qua, các giáo lý mới được trình bày dưới hình thức sách
vở, vả lại sách này là sự
sưu tập từ nhiều nguồn tài liệu. Chẳng hạn, như
trong sách Isaie, các học giả uyên bác đã khám phá tám
truyền thông nhập lại, có ba ông
Isaie liên tiếp, một ủy ban và còn nhiều việc khác nữa. Một
tôn giáo suy tàn khi nào các nhà biên soạn không viết ra những điều
họ biết, mà viết lại những điều họ nghe, rồi sinh ra tranh luận
về những điểm nhỏ nhặt.
Còn một nguyên nhân lộn
xộn khác nữa là khi một tôn giáo mới xuất hiện, nó bao phủ tôn
giáo đã có trước như một lượn sóng chinh phục nhưng không làm cho
chúng phải phai mờ. Một vị tướng khôn ngoan, khi chinh phục một xứ
mới, ông tìm cách làm cho
những luật lệ của ông thích ứng với dân
tộc bại trận hầu tránh sự xáo trộn đến mức tối thiểu.
Vậy những tôn giáo mới cũng phải thích ứng với nhiều dân chúng
dị biệt, họ sẽ thừa nhận chúng. Thế nên người Trung
Hoa và Nhật Bản vẫn thờ phượng tổ tiên và giữ
sự cúng tế cổ truyền theo lối Thần Đạo (Shinto) của họ,
nhưng thêm vào đó luân lý của Đức Phật. Còn ở Tích Lan, tôn giáo
đã mang một tính cách duy vật, người ta cho rằng không có cái chi
trong con người được truyền lại từ kiếp này qua kiếp
khác, trừ ra nghiệp
quả của y. Tuy nhiên, người ta lại nói về những tiền kiếp
và họ hy vọng được nhập Niết Bàn trong một kiếp tương lai.
Người Thiên Chúa Giáo cũng thừa nhận các ngày lễ đặc biệt
của những quốc gia mà tôn giáo của họ được truyền bá, họ tìm tên
những vị Thánh Công Giáo đặng đặt cho chúng.
Vậy truyền thống xưa đã
lưu lại những di tích ở khắp nơi: vũ điệu ma quái ở Tích Lan, sự
thờ phượng Nữ Thần Kali bên Ấn Độ, vân vân. . . . Đôi khi chúng được
xem như là những tôn giáo chơn chánh và thành ra một nguồn dị đoan
to tát. Người ta có thể nhận ra chân lý trong một ý niệm không thể
giải thích bằng lý luận: đó là khía cạnh khác của vấn đề, Chơn
Nhơn biết và các Ngài có
những lý do vững chắc. Nhưng luôn luôn không có thể ghi những lý do
này vào bộ óc xác thịt, chỉ có một sự việc đã thu thập được:
Ấy là Chơn Nhơn biết. Một chân lý mới đem trình bày cho chúng ta,
chúng ta có thể biết tức khắc là mình có thể tiếp nhận nó hay
không. Đây không phải là sự dị đoan, mà chính là một sự tin chắc
sâu xa mãnh liệt. Tôi không tin rằng có người cảm thấy sự tin
chắc như thế về vấn đề âm
phủ. Những người tin về hỏa ngục đời đời
vì người ta đã dạy họ như thế. Nhưng người ta nói phải chăng
điều này có phải là hy sinh lý trí cho trực giác chăng? Và cũng
nên nhớ rằng ở đây danh từ
Bồ Đề mà chúng ta dịch là "trực giác", thì ở
Ấn Độ được gọi là
"lý trí thuần khiết". Đó là lý trí riêng biệt của Chơn Ngã, cao
hơn lý trí của chúng ta ở dưới những cảnh thấp.
Rồi Đức Thầy nhắc lại cho
những thí dụ liên hệ đến vấn đề dị đoan như sau:
Con phải tập hiểu rằng chẳng có sự cúng tế nào cần thiết cả,
bằng không, con sẽ tưởng rằng con giỏi hơn những người nào không
cúng tế. Nhưng con cũng đừng lên án những ai còn thích cúng tế.
Hãy để họ làm theo ý họ muốn. Nhưng họ cũng phải để cho con được
tự do vì con đã biết chân lý rồi. Họ
không nên dùng cường
lực ép con phải trở lại chỗ con đã vượt qua khỏi. Hãy rộng lượng
và nhân từ trong mọi việc.
C. W. L.
–
Nếu Đức Thầy đã nói một cách nghiêm khắc về vấn đề lễ bái, có
lẽ đời sống của những thanh niên thượng lưu
- thuộc về giai cấp Bà La Môn - mà Alcyone thuộc về giai cấp
ấy - bắt đầu trải qua dẫy đầy những lễ bái, đúng vào lúc chúng
đồng một tuổi với Alcyone bấy giờ. Trong thời kỳ đó, người thanh
niên tự cho mình là quan trọng trong những cuộc tế lễ này, bởi vì
nó được chú ý rất nhiều trong khi hành lễ Upanayana hay lễ điểm
đạo để ban cho nó tất cả
đặc quyền của giai cấp nó. Đời sống của một người Bà La Môn
chính thống đầy những lễ bái, chẳng hạn như phải làm những cử
động, phải đọc những đoạn kinh trong lúc thức dậy, lúc tắm, lúc
ăn và hầu hết trong mọi hành vi hằng ngày. Có lẽ những
người thân cận với Alcyone tìm cách bắt em phải tuân theo tất cả
những điều này một cách cẩn thận vì sợ rằng sự giáo dục tân
tiến và những người bạn Âu
Châu của em làm em chuyển hướng đối với lễ bái cổ truyền của
quốc gia. Thế nên Đức Thầy muốn bảo vệ đệ tử của Ngài nên Ngài
nói rằng những lễ bái này không tuyệt đối cần thiết. Dù Alcyone
có tuân theo hay không tuân
theo, em cũng phải giữ mình đừng để lầm lạc và ngông cuồng tưởng
rằng điểm này em cao hơn kẻ khác.
Sự hành lễ bên Thiên Chúa
Giáo khác với sự hành lễ của người Ấn Độ và Phật Giáo, vì
thường thường có nhiều người dự vào. Bên Ấn Giáo và Phật Giáo
sự hành lễ hầu như luôn luôn có tính cách cá nhân, còn bên Thiên
Chúa Giáo đặc biệt nhất là có tính cách tập thể. Tất cả những
sự hành lễ này đều không cần thiết (chỉ trừ những người thấy
chúng nó cần thiết cho bẩm tính mình). Tuy nhiên chúng là một
hình thức khoa học, và áp dụng những phương thức hoàn toàn chính
xác đối với những mãnh lực thiên
nhiên thuộc về
cõi tinh thần.
Thần lực có thể ban rải
xuống cõi trần bằng nhiều cách. Phương thức áp dụng trong lúc
hành lễ Mi-Sa, lễ Ban Thánh Thể
hay lễ dâng mình Thánh Chúa do Đấng Khai Sáng Thiên Chúa Giáo
[75]
đã tạo ra để phân phát cho con người qua Giáo Hội của Ngài những
thần lực ở mấy cõi cao mà người ta gọi là ân điển của Thiên
Chúa. Những thần lực này thuộc về các cõi trên, dĩ nhiên chúng
nó là những lực Siêu Phàm nhưng không phải vượt qua
ngoài thiên nhiên. Ngài muốn cho vị linh mục, dù bản tính
thế nào, cũng phải làm một con kinh ban rải thần lực trong lúc
hành lễ. Nếu vị linh mục
thật sự là người có đức
hạnh hết lòng sùng tín và phụng sự thì điều đó rất tốt. Nhưng
trong mọi trường hợp các sự xếp đặt đều phải bảo đảm cho cuộc
hành lễ mang lại một hiệu
quả tốt đẹp cho những người dự lễ. Sự thiết lập toàn thể Thiên
Chúa Giáo gồm nhiều nhà thờ rải rác khắp nơi trong xứ để
ân huệ tuôn xuống được ban rải cho mỗi người. Việc hành lễ
này vô cùng hữu ích cho
hằng triệu người, nhưng nói rằng nó cần thiết cho sự cứu rỗi linh
hồn, thì sẽ là điều dị đoan.
Những cuộc tế lễ khác
nhau thu hút được nhiều thứ thần lực. Dầu mức độ tinh thần của
chúng ta thế nào đi nữa, tất cả đều tuân theo những định luật
thiên nhiên. Vậy nếu sự hoạt động tốt đẹp của chúng tác động tại
cõi trần, thì chúng phải có một cơ cấu vật chất để hành động.
Về điện khí cũng vậy. Điện lực bao giờ cũng hiện hữu ở khắp nơi
chung quanh chúng ta, nó luôn luôn hoạt động, nhưng nếu bạn muốn
dùng nó vào một công việc đặc biệt, trong những điều kiện riêng
và ở một nơi nào đó, thì bạn phải
chuẩn bị một cái máy vật chất sẵn sàng để dùng cho sự
hoạt động của nó.
A. B.
–
Đức Thầy nói rằng những cuộc tế lễ không cần thiết. Tất cả tôn
giáo đều nhìn nhận sự thật này. Bên
Ấn Độ, người cao
cả nhất và được mọi người tôn trọng nhất là tu sĩ Sannyasi,
y không thực hành một cuộc tế lễ nào cả. Y cắt đứt và xóa bỏ
sợi Kim Thằng
[76]
- mà trước đây là vật quí báu nhất của y nhận được trong thời kỳ
tráng niên, lúc chứng lễ thụ pháp của giai cấp y - sợi
dây mà y phải mang suốt đời như một biểu hiện linh thánh
nhất cho tới khi nào y trở thành tu sĩ
Sannyasi.
Sự tế lễ chỉ cần thiết
khi nào con người chưa đạt được sự hiểu biết, chưa có kiến thức
chân thật và còn nhờ nó tạo ra những cảm xúc tốt lành, một tinh
thần an tĩnh và những sự phấn khởi thanh cao. Đại đa số người đời
chưa tiến hóa, họ cần được sự giúp đỡ
bằng mọi phương tiện. Vậy không một vị Hiền Triết nào lên
án sự tế lễ, dù nó không cần thiết đối với họ. Quyển
Thánh Ca Bhagavad Gita là phúc
âm của tu sĩ Sannyasi, mà
chúng ta thấy trong đó mấy
lời này: "Bậc
hiền nhân không nên làm rối trí kẻ vô minh còn quyến luyến sự hành
động nhưng nếu họ hành động trong sự hòa hợp với Ta, thì họ phải
làm cho mọi sự hành động đều được vui
thích, hấp dẫn"
[77].
Trẻ con mới tập đi phải nương tựa vào
tất cả những gì khá vững chắc như ghế, chân bàn hay là
vách tường, để đứng lên được. Vậy sự tế lễ cũng giống như chỗ
nương tựa để giúp người còn yếu đuối đứng một mình. Sự tế lễ
càng trở nên tinh vi hơn, đẹp đẽ hơn và có tính cách tượng trưng
hơn đặng cân xứng với sự tiến hóa dần dần của con người. Sau
cùng, con người tiến đến giai đoạn mà sự tế lễ không còn hữu ích
nữa; rồi y bỏ rơi nó luôn. Muốn đừng tế lễ thì có hai điều, hoặc
cao hơn chúng, hoặc thấp hơn chúng.
Trách nhiệm chọn lúc
từ bỏ sự tế lễ không
thể quyết định với người nào cả; mỗi người phải quyết định
lấy. Không ai chịu
trách nhiệm chỉ định lúc nào một người kia phải trở thành một
đạo sĩ Du
Già (Yogui). Đối với sự tế lễ cũng thế chúng ta không được
chỉ trích một người quyết định từ bỏ sự tế lễ hoặc còn thích
theo đuổi công việc đó. Đôi khi, biết rằng sự tế lễ không cần
thiết đối với mình nữa,
nhưng một người kia vẫn tiếp tục hành lễ, chỉ vì địa vị y trong
Giáo Hội. Chỉ có y mới chịu trách nhiệm về sự
lựa chọn của y. Vậy chúng ta không nên
khiển trách những người hành lễ, cũng
như những người không
tham dự.
Sự tế lễ vừa nguy hiểm,
vừa trợ giúp. Ấn Độ Giáo cổ đại
nghiêm cấm đọc vài thứ thần chú trước đám đông người; chẳng
phải không cho họ hưởng một lợi
lộc nào, mà để tránh sự tai hại
cho một số người do vài cách rung động của thần chú tạo ra.
Đó là lý do tại sao Đức
Bàn Cổ lập ra luật chỉ cho những người Bà La Môn trí thức và có
đạo hạnh mới được mời dự lễ Shraddha thôi.
Một người kia sẵn có một quyền năng nào đó, nhưng
không rõ lúc nào nên dùng và lúc nào nên giữ, nếu y tham gia
một cuộc tế lễ, y sẽ truyền thần lực vào những câu thần chú có
thể làm hại những người tham dự. Vậy nên cẩn thận, nếu quyền năng
này bắt đầu biểu hiện, thì phải tránh xa họ đi. Chẳng hạn như khi
tôi dự lễ Shraddha ở Gaya, tôi nhận thấy nếu tôi thêm thần lực của
tôi vào thì có thể làm hại các tăng sĩ, vì họ đọc nhiều câu
thần chú vô cùng mạnh mẽ.
Còn riêng phần họ, họ không tạo được ảnh hưởng nào cả vì thiếu
sự hiểu biết và sống không có qui củ lắm. Bà Blavatsky khuyên các
sinh viên huyền bí học chớ nên dự vào đám đông, trừ khi nào họ có
thiện cảm hoàn toàn với quần chúng, không phải vì
đám đông ảnh hưởng đến hào quang của họ, mà vì thần lực
của họ có thể làm hại đám đông hơn là làm lợi. Trong những
trường hợp đó, một người hiểu biết có thể xét đoán rằng tốt hơn
mình nên xa lánh vài thứ lễ bái, còn người không hiểu cách đọc
thần chú để cho thần lực hoạt động; thần lực này có thật trong
lời nói, thì có thể dự lễ mà không làm hại chút nào những
người tham dự dù họ là hạng người nào.
Bây giờ con đã sáng mắt, vài tín ngưỡng và vài cách tế lễ
của con trước kia có thể dường như phi lý. Có lẽ chúng nó
phi lý thật. Tuy nhiên, dù con không thể tham dự vào việc cúng lễ
nữa, con cũng phải kính trọng chúng, vì tình thương đối với những
linh hồn từ thiện còn cho những việc ấy là quan trọng. Những sự
tế lễ này có chỗ hữu dụng và lợi ích của chúng. Chúng giống
như những hàng đôi đã giúp con hồi con còn bé viết cho ngay hàng
và đều đặn, cho tới khi nào con viết tốt hơn và dễ dàng hơn mà
không nhờ đến chúng nữa. Hồi trước có một lúc con cần dùng
chúng, nhưng bây giờ , thời kỳ ấy đã qua rồi.
A. B.
–
Khi chúng ta càng lớn tuổi
và càng hiểu biết, vẫn có
vài chuyện mà trước kia chúng ta tin tưởng, thì bây giờ lẽ tự
nhiên chúng có vẻ hư ảo
và cũng phi lý nữa. Tuy nhiên chúng ta còn có thể nhìn
chúng một cách nhân từ và có thiện cảm, như chúng ta nhìn một em
bé gái vui đùa với bó giẻ rách mà em cho là con búp bê. Về một
phương diện nào đó, hành vi ấy khá khôi hài, nhưng
nó mang đến cho em một sự lợi ích lớn lao, vì nó làm nẩy
nở mẫu tính của em. Em bé gái không
nhìn thấy giẻ rách, mà lại thấy một đứa trẻ. Trong khi nâng
niu, săn sóc đứa con tưởng tượng của em, em tập phát triển tình âu
yếm và sự che chở của một bà mẹ, sự săn sóc những kẻ yếu đuối,
thế cô. Vậy khi chúng ta mỉm cười với em bé này tức là chúng ta
đã cười một cách rất âu yếm, và rất dịu dàng. Đối với những
tín ngưỡng, những cuộc tế lễ của chúng ta lúc trước cũng thế,
chúng có một vị trí trong đời sống của chúng ta và chúng ta có
sự lợi ích riêng của chúng.
Một bộ lạc dã man cử
hành sự tế lễ dường như hoàn toàn phi lý đối với
chúng ta - như Ấn Độ người ta thường thấy một miếng giẻ treo
trên một nhánh cây trong một làng thay thế cho vật cúng tế - chúng
ta đừng khinh khi cách biểu lộ lòng sùng
tín chất phác của
người dã man hay người dân làng đó. Dưới con mắt họ, những đồ tế
lễ hèn mọn này cũng quan trọng như những đồ vật cung hiến quí
giá nhất của chúng ta. Kỳ thật, cũng là đồng một tinh thần.
Những lễ vật bên ngoài
đều không cần thiết. Chỉ có một thứ đáng được thu nhận là lễ
vật của tâm hồn. Và sau khi lễ vật tâm hồn đi đôi với lễ vật hèn
mọn nhất, thì sự hiến dâng này đáng thu nhận. Do đó quyển
Thánh Ca Gita nói rằng: "Bất cứ là cái gì
người ta cúng dường cho ta với lòng sùng tín như một lá cây,
một cái bông, một trái cây hay một chén thuốc, ta cũng thâu nhận
như lễ vật của một người tôi hiến dâng với tình thương"
[78].
Thật là khắc nghiệt và
thiếu tình Huynh Đệ khi mà làm cho những người cúng dường này ngã
lòng, thí dụ như giựt miếng giẻ trên cây liệng đi mà đôi khi người
ta đã làm. Thái độ này chứng tỏ rằng chúng ta không có tinh thần
thuần nhất.
C. W. L.
–
Phải luôn luôn tỏ ra dịu dàng và tử tế với tuổi thơ, tuổi thơ của
cá nhân cũng như tuổi thơ của loài người trong thời kỳ hiện tại.
Bà Chánh Hội Trưởng của chúng ta có nói đến một em bé gái chăm
nom một bó giẻ và nó cho rằng nó cầm trong tay một
con búp bê. Dĩ nhiên, đây chính là một sự dị đoan, nhưng đồng
thời không ai nghĩ đến việc nổi giận hay la rầy đứa trẻ. Tại cõi
trần, quả thật là một bó
giẻ, nhưng trong
trí tưởng tượng của trẻ con có thể là một sinh vật, có đủ
các thứ tánh tình. Chúng ta không thể làm xáo trộn tư tưởng trong
trí của trẻ con mà không làm hại đến sự mở mang những
tình cảm tốt đẹp của nó đang phát khởi.
Bà cũng nhắc đến tập
quán của người dân Ấn Độ, đôi khi cột một miếng giẻ vào một cái
cây để hiến dâng cho Thượng Đế. Mục kích việc ấy, nhà truyền giáo
Thiên Chúa bậc trung sẽ vô cùng phẩn nộ và thái độ ấy chỉ chứng
tỏ sự thiếu hiểu biết của họ, vì
vật tế lễ được hiến dâng với tất cả lòng chân thành. Xét
một cách tương đối, linh hồn còn non nớt và trẻ trung hành động
theo một ý hướng tốt lành. Vậy chúng ta hãy xem việc làm đó như
con búp bê bằng giẻ rách đúng với ý nghĩa của nó. Người
dân làng rải một chút nước thay vì rải rượu hoặc dâng một cái hoa
- quả thật đó là một vật
hiến dâng hèn mọn - nhưng tại sao khinh rẻ nó? Chính Đấng Christ đã
nói: Kẻ nào nhân danh Ngài mà cho một ly nước lạnh thì cũng sẽ
nhận được sự ban thưởng của nó. Cũng nên nhớ rằng một dân tộc
nào dù sơ khai nhất, cũng không được xem tượng cốt hoặc hình thể
là sự thật, mà tất cả đều có ít nhiều cảm giác về Đấng Thiêng
Liêng do chúng biểu hiện.
Ngày kia, một vị Đại Huấn Sư có viết như sau: "Hồi tôi còn trẻ con
, tôi nói như đứa trẻ con, tôi suy nghĩ như đứa trẻ con,
nhưng khi tôi thành người lớn, tôi bỏ hết các thói trẻ con"[79].
Tuy nhiên, kẻ nào quên thời thơ ấu của mình và mất thiện cảm với
trẻ con thì không thể dạy dỗ chúng và giúp đỡ chúng được. Vậy
con hãy xem mọi người với lòng nhân từ, dịu dàng và khoan dung, và
xem ai nấy như nhau, dù họ là người Phật Giáo, người Ấn Giáo,
người Hỏa Thần Giáo (Djainistes) hoặc người Do Thái, người Công
Giáo hay là người Hồi Giáo cũng vậy.
A. B.
–
Bạn sẽ thấy ở đây một định nghĩa chính xác về nhà
Huyền Bí Học ấy là người không quên tuổi ấu thơ
của mình. Khi đã
trưởng thành, y nhớ những kinh nghiệm đã thực hành và như vậy y
có thể giúp đỡ mọi người. Muốn phát triển năng lực thiện cảm
đối với mọi người và sẵn sàng giúp tất cả, thì việc làm tốt
nhất là hãy biến đổi tư tưởng đạo đức của bạn thành những ngôn
từ của một tôn giáo công truyền nào đó rồi cho tư tưởng của
bạn nhập vào trong những dụng ngữ đặc biệt của nó. Tất cả chúng
ta đều có một ngôn ngữ để dùng riêng cho mình, cho đến khi nào
chúng ta có một ngôn ngữ chung, mà mọi người đều hiểu. Các sinh
viên nên học một ngôn ngữ hay một tiếng nói khác với tiếng nói
của mình. Những ai thụ hưởng nền
giáo dục của Thiên Chúa Giáo
có thể tập nói hoặc suy tư theo danh từ Ấn Giáo. Rồi họ
tập xét đoán nhiều vấn đề theo quan điểm Ấn, và họ sẽ ngạc nhiên
mà thấy biết bao sự sai biệt với ý tưởng của họ trước kia. Cũng
thế, người Ấn Giáo cũng có thể tập nói và suy tư theo những danh
từ mà người Công Giáo đã dùng.
Đức Ramakrishna Paramahamsa
là Đạo Sư của ông Swami Vivekananda, đã luyện mình theo qui luật ấy.
Ông liên tiếp chọn
nhiều tôn giáo rồi
tuân theo phương pháp và sự thực hành theo mỗi tôn giáo trong một
thời gian. Chẳng hạn khi chọn Thiên Chúa
Giáo, ông cầu nguyện như một người Công Giáo, suy tư theo danh
từ Công giáo, ăn mặc theo
người Công Giáo. Theo lối đó, ông đã đi từ tôn giáo này sang tôn
giáo khác để tập hòa đồng với mỗi tôn giáo và lợi dụng tất cả
phương tiện tưởng tượng bên ngoài hầu dễ bề cố gắng. Khi ông chuyên
tâm tìm hiểu về phương diện mẫu tính trong thiên nhiên mà ở Tây
phương tượng trưng bởi Đức Mẹ Đồng Trinh, ở Ấn Giáo tượng trưng
bởi Thánh Mẫu Shaktis, thì
ông xem mình như người phụ nữ, ông mặc y phục phụ nữ và suy tư
như một người phụ nữ. Chắc chắn sự luyện tập này đem đến
cho ông một kết quả tốt đẹp, vì không còn một sự dị biệt bề
ngoài nào của một tôn giáo
còn có thể
ảnh hưởng đến ông được nữa.
Đó là phương pháp thật
khác biệt với phương pháp của người
ta thường dùng! Tuy nhiên phương tiện duy nhất mà người đệ tử
phải thực hành là tập hòa đồng với tất cả những người chung
quanh chúng ta. Trước hết Đức Ramakrishna là một vị Bhakta, tức là
một nhà sùng tín nhiệt thành và ông tập tôn sùng như thế là nhờ
tình cảm.
Vậy thì trong một
thời gian
nào đó, người chí
nguyện phải tự nói rằng tôi là người Ấn Giáo, tôi là người Phật
Giáo, hay là người phụ nữ hoặc là cái gì không phải là y. Thật
hiếm có những người đàn ông luôn luôn ướm thử suy nghĩ hoặc cảm
xúc như người đàn bà, và thấy những sự vật như người đàn bà đã
thấy! Tôi cũng tưởng rằng rất hiếm có những người đàn bàthật sự
ướm thử để thấy những sự vật theo quan điểm của những người đàn
ông. Nhưng sự khuyết điểm thấy rõ ràng hơn ở phái nam; là người
đàn ông luôn luôn tự thấy mình là "người đàn ông". Tôi thấy hình
như giữa người Thông Thiên Học, việc không phân biệt nam hay nữ vì
tình Huynh
Đệ. đôi khi cũng bị lảng quên.
Vậy bạn phải tập hiểu
biết những sự vật sẽ hiện ra cho bạn như thế nào nếu bạn nhìn
thấy chúng trong một bầu không khí đặc biệt và không quen thuộc
đối với bạn. Bạn nên bỏ thói quen chỉ nhìn sự vật theo quan điểm
riêng của bạn. Đó là điều trái nghịch
với khoa Huyền Bí Học. Bạn làm điều đó thì bạn sẽ bị đời
trách móc. Sự vô tư và lòng thiện cảm của bạn sẽ bị xem như sự
lạnh nhạt. Vả lại điều đó
không có là gì quan trọng.
Tại Tây phương tôi bị tố cáo là "quá Ấn Độ", và tại Đông phương,
tôi bị tố cáo là "quá Công Giáo" vì bên Tây phương tôi nói theo ngôn
ngữ Tây phương, mà dân Ấn Độ lại không thích, còn bên Đông Phương tôi
dùng những từ ngữ Đông phương, mà người Tây Phương không ưa. Người ta
phiền hà tôi, luôn luôn tôi lập lại rằng: "Tôi nói với mọi người
bằng một thứ tiếng mà họ hiểu được".
Những lời phàn nàn và
trách móc này vốn do người ta đứng ở vị trí thấp chớ không phải
ở vị trí cao nhất để phán đoán. Tập nói nhiều ngôn ngữ đạo đức
là một trong những bài học cho ai có bổn phận mang thông điệp đến
nhiều xứ. Chân lý này không phải là điều mới mẻ. Sự trách móc
về cách thức thuyết giáo trên đây cũng không phải là mới lạ.
Thánh Paul (Phao Lồ) bị trách móc nhiều vì Ngài làm vừa lòng tất
cả mọi người. Ngài có viết như vầy: "Dù tôi được tự
do đối với mọi người, tôi tình nguyện làm tôi tớ cho tất
cả, như thế tôi mới có thể được lòng của một số đông hơn. Đối
với người Do Thái, tôi như người Do Thái, như thế tôi được lòng
người Do Thái. Đối với người tuân theo luật
pháp, tôi vẫn tuân theo luật pháp (dù chính tôi không còn ở
dưới luật pháp nữa) như thế tôi thu phục được họ. Đối với những
người không tuân luật pháp, tôi không tuân theo luật pháp (mặc dù tôi
không hề bỏ luật của Đức Chúa Trời, bởi vì tôi đang tuân theo luật
của Đấng Christ), như thế tôi được lòng họ. Đối với người yếu
đuối, tôi trở thành yếu đuối, như thế tôi có thể cứu vớt được
vài người bằng mọi phương
tiện"
[80].
Trước kia, Thánh Paul là
người hẹp hòi nhất, bây giờ Ngài trở thành người rộng lượng
nhất. Sau khi, thuộc về một trong những phái nghiêm khắc nhất của
người Do Thái, Ngài trở
thành vị sứ đồ của những
người Ngoại Giáo - một sự thay đổi phi thường.
Nhà Huyền bí học không
thuộc về một tôn giáo nào, hoặc thuộc về tất cả tôn giáo, tùy ý
bạn - không riêng biệt thuộc về Đạo nào, mà thuộc về tất cả. Ít
ra điều đó là đức khoan dung. Nếu phải
tránh sự tranh luận là điều tốt, ấy là tại người ta có
thể tạm thời thành ra hẹp lượng, thiếu khoan dung; nếu muốn thành
công; thì trong khi tranh luận để đánh đổ một tư
tưởng hẹp hòi, thật
khó giữ được một thái độ
hoàn toàn vô tư. Hãy luôn luôn phát biểu chân lý theo quan điểm Nhất
Thể, chứ đừng theo quan điểm dị biệt, chỉ như thế, bạn mới có
khả năng giúp đỡ mọi người một cách như nhau. Và chỉ như vậy mới
có thể thấy những yếu tố tốt đẹp trong mỗi người và trong toàn
thể, đồng thời bạn sẽ dẹp bỏ những điểm bất toàn qua một bên hay
là biết thấy xa hơn nữa.
C. W. L.
–
Mục đích của người Thông Thiên Học là tình
Huynh Đệ, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, nam nữ
hay màu da. Phương thức
tuyệt hảo để đạt được sự hòa hợp đó trong đời sống
của chúng ta là chia
sớt tình cảm, tư tưởng của
những dân tộc
khác cũng như của phái giống
[81]
khác. Người đàn ông quên rằng y đã sinh ra nhiều lần dưới hình
dáng phụ nữ. Người đàn bà cũng quên rằng mình đã đầu thai nhiều
kiếp trong thân xác nam nhi. Người đàn ông cố gắng dùng tư tưởng
đặt mình vào địa vị của người đàn bà để hiểu cách nhìn đời
của họ; còn phái nữ cũng
nên cố gắng tìm hiểu
quan niệm đời sống của phái nam, mặc dù điều đó không phải là
chuyện dễ làm; nhưng ấy là một cách luyện tập tuyệt hảo. Hai
phương diện đó khác nhau một cách lạ kỳ ở nhiều trường hợp. Một
người nào có thể tập hòa
đồng tâm thức của kẻ khác phái tức
là y đã tiến một
bước đến tình huynh đệ, điều này vượt lên trên ý niệm của phái
tính. Sau cố gắng tìm hiểu của người chị, người mẹ hay vợ mình,
người đàn ông có thể mở rộng sự thực tập ấy đến những người
thuộc về tôn giáo và những chủng tộc khác với y. Đó là trong
những sự tập luyện hữu ích nhất, vì người ta không
thể hiểu quan điểm
của kẻ khác và có thiện cảm với y, mà không mở rộng quan điểm
riêng của mình như thế.
Về đức khoan dung, kinh
điển Talmud có thuật lại câu
chuyện lý thú như sau đây: Có một người hành khách đến tìm ông
Abraham, trong khi theo phong tục của sa mạc, y được thết đãi ăn
uống. Ông bảo y hãy ca tụng Đức Chúa Trời trước khi dùng bữa,
nhưng người khách lạ ấy đã
từ chối và nói rằng y không hề biết chi về Đức Chúa Trời cả. Ông
Abraham nổi giận, đứng dậy, đuổi y ra khỏi trại và không cho y cái
gì cả. Lúc ấy Đức Chúa Trời đi qua -
trong thời ấy Ngài thường đi như thế - và Ngài hỏi: "Tại sao
con đuổi y"? Abraham bực tức
trả lời: "Bạch Chúa, y không chịu biết danh hiệu Chúa. Y là một
người ngoại giáo xấu xa nhất". Đức Chúa Trời đáp: "Phải, nhưng Ta
đã chịu đựng nó sáu mươi năm rồi. Chắc chắn
con có thể chịu đựng
được nó trong một giờ chớ"?
Trong chúng ta, có vài
người Thông Thiên Học còn bị ràng buộc với hình thức bên ngoài
của tôn giáo. Tuy nhiên, tôi tưởng
chúng ta có thể tự nói rằng chúng ta không riêng biệt thuộc
về tôn giáo nào mà thuộc về
tất cả. Chẳng hạn, chính tôi là người Thiên Chúa Giáo và
là Giám Mục, nhưng tôi cũng là một
Phật Tử, vì tôi đã phát nguyện và lãnh những nhiệm vụ do
đó tôi thừa nhận Đức Phật
là vị hướng đạo của tôi. Như thế tôi không bị bắt buộc phải từ
bỏ tôn giáo nào khác. Về phương diện này, Đạo Phật có thể là
một tôn giáo khoan hồng hơn hết. Nó không đòi hỏi bạn phải
tin tưởng điều gì, mà chỉ đòi hỏi bạn có quả quyết theo giáo lý
của Đức Thế Tôn và có sống với nó càng nhiều càng tốt hay không.
Một người Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo hay là người của một
tôn giáo nào khác có thể nói: "Giáo lý này tốt, tôi muốn tuân
theo", thế rồi y trở thành một Phật Tử mà không từ bỏ tôn giáo
trước của y. Thông Thiên Học là một chân lý mà tất cả các tôn
giáo đều dựa vào đó. Nếu chúng ta học khoa tôn giáo đối chiếu,
chẳng phải chỉ để nhận thấy chân lý Thông Thiên Học trong tất cả
các tôn giáo, mà còn để
hiểu Chân lý tự biểu
lộ ra nhiều cách thế khác nhau, và do đó chúng ta đạt được
khả năng giúp đỡ bằng cách sử dụng tất cả.
Bà Chánh Hội Trưởng của
chúng ta đã chỉ cho chúng ta thấy nguyên tắc
này: Đối với dân Ấn Độ, bà nói chuyện như thể người Ấn.
Để viện chứng cho lời nói của mình, bà kể ra những bản Thánh
Kinh và dùng vài danh từ Phạn ngữ mà người dân Ấn quí trọng cũng
như người Thiên Chúa Giáo La Mã quí trọng tiếng La Tinh vinh
diệu. Khi nói với các hàng Phật Tử, bà trình bày giáo lý đúng
với ý tưởng của họ. Bà còn dẫn chứng Phật ngôn và dùng những
danh từ Phật giáo. Bên Tây Phương bạn nghe Bà nói chuyện với người
Thiên Chúa Giáo bằng ngôn ngữ của họ. Bà không sửa đổi chút nào
về tín ngưỡng của Bà hay là tôn
giáo riêng của Bà, Bà chỉ nói bằng ngôn ngữ của họ.Thật ra
bà đã hiểu biết tất cả
những tôn giáo này. Khi
chúng ta biết chân lý ẩn tàng trong
mỗi tôn giáo, dù trí thức và tài hùng biện của chúng ta
chưa thể sánh kịp với Bà nhưng đa số trong chúng ta nhờ học chút
ít trong sách khải luận của bất cứ tôn giáo nào đó, cũng có thể
hiểu rõ tôn giáo ấy và trình bày chân lý bằng những danh từ đó,
để giải thích ý nghĩa của nhiều điểm còn mờ tối cho những kẻ
khác. Đại tá Olcott đã làm như thế rất nhiều lần trước sự hiện
diện của tôi. Ông không thuộc
về mẫu người hiếu học hay nhà uyên bác, thông thái, mà ông là một
diễn giả bậc nhất, ông thành công trong khi nói trước các thính
giả gồm cả người Ấn Giáo, Hỏa Giáo và Phật Giáo. Những người
hiểu biết nhiều về các tôn giáo này đều công nhận rằng ông đã
rọi một thứ ánh sáng mới mẻ vào tôn giáo của họ. Điều này
chứng tỏ tại sao Thông Thiên Học là chìa khóa mở được cửa của
các tôn giáo.
Trong những cuộc Đại Hội
Nghị của Hội chúng ta cử hành tại Adyar, sự kiện này cũng nhận
thấy dưới một hình thức khác: Có
những người thuộc nhiều tôn giáo và chủng tộc khác nhau
nhóm họp ở đây. Và những ai dự
Đại Hội đều không khỏi cảm động sâu xa, khi nhận thấy nơi đây
không những biểu hiện đức khoan dung mà còn bộc lộ một tình huynh
đệ thân ái nữa.
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI MỐT
�
Y
�
Phải vui lòng chịu đựng quả báo của con dù nó thế nào chăng nữa,
và nhận lãnh sự đau khổ như một sự vinh diệu, bởi vì nó chứng
tỏ các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu thấy con đáng giúp đỡ.
A. B.
–
Tôi xin nhắc lại, tánh này
là tánh an phận mà trước
kia dịch là "chịu đựng". Chịu đựng có thể là một đức tính tiêu
cực hơn, nhưng những điều thuộc về bạn, không phải là chịu đựng
những khó khăn không thể tránh được mà nhận lãnh chúng một cách
an vui, tánh tình một mực không thay đổi và chấp nhận mọi sự khổ
não với nụ cười. Về điểm đặc biệt này, danh từ an phận
tóm tắt tất cả những điểm mà các vị Đại Giáo Chủ đều
muốn chúng ta phải có. Nhiều người có thể chịu đựng được, nhưng
họ chịu đựng một
cách buồn bực. Phải an vui trước mọi sự thử thách, và mọi
điều bận lòng. Có vài tác phẩm Ấn Độ nhấn mạnh nhiều về điều
này: Hãy nhận lãnh mọi sự một cách vui vẻ.
Quả báo dồn dập tới cho
những người vượt ra khỏi hàng ngũ
của mình và tự
trình diện như một thí sinh trên Đường Đạo. Điều
này đã được nhấn mạnh nhiều lần. Trước hết là để báo cho
thí sinh biết những gì họ
có thể mong mỏi, sau đó cho họ có can đảm, khi kinh nghiệm lý
thuyết trở thành thực tế, bởi vì sự khác biệt giữa hai kinh
nghiệm rất lớn.
Quả báo là định luật tự
nhiên, những sự trừng phạt của nó có thể tránh được
một thời gian, hoặc trái lại, có thể ứng hiện ngay. Nói
một cách khác, bạn có thể tự
đặt mình trong những điều kiện mà Quả Báo có thể giáng
xuống bạn, hoặc bạn tạo ra
những điều kiện giúp bạn
tránh được nó trong một lúc. Cần phải lập lại nhiều lần
rằng những luật tự nhiên không phải là những án lịnh. Chúng
nó không truyền phán cho chúng ta phải làm một điều gì.
Chúng ta hãy lấy một thí dụ mà mọi người đều biết là điện lực.
Nó luôn luôn hoạt động chung quanh chúng ta, nhưng nếu chúng ta muốn
nó tạo nên một hiệu quả ở một nơi nào đó vào một giờ nhất
định, thì chúng ta phải có
một cái máy đặc biệt đặng giúp nó phát hiện. Cũng giống như
thế, Quả Báo là một luật tự nhiên và cái máy giúp nó hoạt động
được trong đời sống cá nhân, có thể được biểu hiện bằng sự có
mặt của con người trên sân
khấu cõi đời, tức là sự sinh ra. Vài sự thay đổi xảy đến trong
đời sống của một người có thể tăng cường và thúc giục sự tác
động của Luật Nhân Quả đối với y. Chẳng hạn, khi bạn tự
hiến mình làm một thí sinh tiến hóa nhanh chóng, các Đấng
Cầm Cân Nhân Quả có thể theo
lời nguyện bằng lòng của bạn, sửa đổi bộ máy - và để năng lực
làm bộ máy linh động phát triển dồi dào và sự
tự nó tiêu hao ở nơi bạn trong một thời gian ngắn ngủi. Chỉ
có ý chí của bạn mới xác định được sự biến đổi của bộ máy
ấy.
Nếu một người muốn tiến
hóa nhanh chóng, và do đó phải trả quả xấu của mình mau hơn, là
một ước muốn chân thành, một ý
định cương quyết, thì các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu chấp nhận
lời ước nguyện của y. Các Ngài vận chuyển một số Quả Báo mà y
đã tạo ra trong quá khứ và để nó đổ xuống y. Quả Báo ấy có
sẵn. Con người không gây ra
nhân mới mà bắt đầu quét sạch những gì đã tích trữ trước kia.
Nếu bạn hiểu những gì
đang xảy đến có thể làm cho bạn ngạc nhiên. Hãy xem những kiếp
sống của Alcyone và bạn sẽ thấy chúng diễn ra bao chuyện hãi
hùng. Trong một kiếp kia Alcyone bị ám sát. Trong một kiếp khác em
bị hành quyết vì một tội ác mà em không can phạm, và còn biết
bao nhiêu chuyện như thế nữa. Dưới hình thức của một ký sự, người
ta khó tin được những điều này, nhưng nếu một trong những chuyện
ấy xảy đến cho bạn trong kiếp này, bạn sẽ thấy chúng
nó rất ghê tởm. Bao nhiêu hoạn họa,
bao nhiêu khổ đau ấy chứng tỏ rằng bấy nhiêu nghiệp quả xấu
đã bị xóa sạch.
Khi những sự lo buồn
của bạn gia tăng, thì
chính là các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu đã ghi nhận nguyện ước của
bạn, đó là một điềm tốt
vậy. Nếu mọi việc
xảy đến với bạn
đều tốt đẹp, chúng ta phải kết luận rằng
bạn chưa làm cho các
Ngài để ý đến. Ở đây cũng vậy sự thấy của nhà Huyền bí học
trái ngược với ý tưởng của thế nhân. Những gì người đời cho là
xấu xa, thì lại tốt đẹp theo quan
điểm Huyền bí học.
Khi những sự khổ đau và
những sự mất mát đang đè nén bạn gia tăng với những lời trách
móc và chỉ trích nghiêm khắc của
những người ở chung quanh, thì bạn là người trả được Quả
Báo nhiều nhất. Vài tai họa tức khắc gợi lên lòng thiện cảm của
kẻ khác và người đau khổ có thể nhận được một sự trợ giúp lớn
lao. Ngược lại, có những hoạn họa khác gây ra sự phiền trách. Có
thể bạn đã làm hết sức
bạn nhưng những sự đau khổ khốc liệt cứ tấn công bạn và hơn nữa
người đời chống đối bạn, trách cứ bạn. Khi điều này xảy ra, con
người trả được một phần lớn Quả Báo xưa. Yếu tố được gia thêm và
khó chịu này giúp cho con người trả sạch quả và nhanh chóng.
Rất dễ mà thấy những sự
kiện trên đây là một sự thật trên phương diện lý thuyết, khi chúng
ta được trình bày bằng lời nói
hay là sách vở nhưng điều mà bạn phải làm là nhớ đến
chúng nó cho đúng lúc. Thường thường người ta chấp nhận chúng để
chờ đem ra thực hành, nhưng
sau đó lại chóng quên đi. Bạn hãy cố gắng làm cho chúng thâm nhập
vào trí óc bạn, để bạn không thể quên chúng được. Như thế khi
nghĩ đến chúng, bạn có thể
lấy sức mạnh của sự đau khổ, và bạn có khả năng giúp đỡ các
huynh đệ của bạn trong cơn khốn khổ của họ. Sự hiểu biệt minh
bạch này cần thiết cho bạn, nó có thể giúp bạn hiểu những người
chung quanh một cách dễ dàng, khi bạn thấy những sự khổ não cứ
thường xảy đến cho những người rất lương thiện, mà người ta thường
nói họ không có làm điều
gì cho đáng tội trạng ấy - ít ra cũng trong
kiếp này, họ được
nhìn nhận là người chỉ làm
những việc tốt lành và hữu ích. Chúng ta có khuynh hướng so sánh
mình với những người hữu phước hơn chúng ta. Đôi khi điều rất tốt
là chúng ta so sánh mình với những kẻ ít phước hơn chúng ta, để
chúng ta có thể ý thức được tất cả những ân phước mà chúng ta
đã thừa hưởng. Chúng ta quên những lý do tri ân của mình, vì chúng
ta luôn luôn nghĩ đến những nỗi khổ đau, mất mát là phần số của
chúng ta và đó chính là điều chúng ta không nên làm.
C.
W. L.
– Khi đã thật hiểu Luật Nhân Quả và tin tưởng
ở nó, người ta không thể nào không an vui. Chúng ta nên nhớ rõ rằng
Luật Nhân Quả là một định luật cũng như định luật hấp dẫn. Nó
luôn luôn tác động. Dường như đôi khi người ta nói rằng Nhân
Quả động tác một cách ngẫu nhiên, trong lúc người ta hành
động. Điều ấy không đúng. Chúng ta luôn luôn bị nó chi phối. Con
người tạo cơ hội cho Luật
Nhân Quả tác động đến y, mỗi khi y làm, y nghĩ hay nói một cách
nào đó. Luôn luôn chúng ta phải thanh toán với Nhân Quả, ấy là
tổng số những hành vi tốt hoặc xấu của chúng ta. Vì chúng ta đã
trải qua nhiều giai đoạn dã man, trong thời kỳ đó chúng ta chưa tự
chủ, chúng ta đã làm đủ mọi việc đáng trách, nên có thể một số
Quả Báo xấu đang chờ đợi tất cả chúng ta, trừ khi chúng ta
đã trả xong trong nhiều kiếp. Khi chúng ta chịu đựng những sự đau
khổ, chúng ta nên nhận định rằng có lẽ chúng ta đang trả phần
chót của Quả Báo xấu. Nếu chúng ta đọc những câu chuyện về các
vị Thánh trứ danh, chúng ta sẽ thấy rằng các Ngài đã trải qua
những sự đau khổ vô cùng. Những ai cố gắng giúp nhân
loại cũng đều bị đau khổ kinh khủng. Sự đau khổ đó thuộc
về thành phần của việc rèn luyện để được Điểm Đạo, nhưng sự công
bằng vẫn luôn luôn tuyệt
đối, vì không thể có một sự bất công nào, dù là để luyện mình
đi nữa.
Các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu,
Chúa Tể của Nhân Quả, chỉ
là những Đấng cai quản định luật này. Trên vài phương diện, danh
từ Chúa Tể, có lẽ không chính xác, vì nó làm cho người ta hiểu
rằng các Ngài chỉ huy và điều khiển Nghiệp Quả. Bạn không thể
chỉ huy hay điều khiển luật hấp dẫn, nhưng bạn có thể do những
cách xếp đặt dùng nó trên vài phương diện và theo vài cách thế
nào đó. Đối với Luật Nhân Quả cũng thế, những ai mà sự hành
động tương quan với nó là người cai quản nó vậy. Một trong những
chức vụ của các Đấng Nam Tào Bắc
Đẩu là chọn một
phần trong số Quả Báo của một người và bắt y phải trả
trong kiếp tới của y. Các Ngài không thể lấy nhiều hơn số phước
hay số họa trong nghiệp quả của người ấy, mà chắc chắn các Ngài
chọn lựa cái nào các Ngài xét ra, y có thể thanh toán được. Tuy
nhiên, ý chí của con người vẫn được tự do và nếu Quả Báo đã
chọn được trả một cách nhanh chóng hơn các Ngài đã dự
định - nếu tôi dám nói - thì các
Ngài có thể ban thêm cho một ít Quả Báo nữa. Đó là ý
nghĩa của
câu văn kỳ lạ này: "Đức
Chúa Trời hành hạ người mà Ngài thương". Có vài người tự
làm khổ cho mình nhiều mà không phải
tại quả báo cũ của họ; họ phẫn uất vì những hoàn cảnh
thay vì phải sống một cách an nhiên, nhưng các Đấng Nam Tào Bắc
Đẩu không
trách nhiệm về việc đó.
Dù quả báo của con có nặng nề đến đâu nữa, con cũng phải
cảm ơn các Đấng Chí
Tôn không cho con trả nhiều hơn cái đó.
C. W. L.
–
Khuynh hướng chung của hầu
hết những người đau khổ là
phàn nàn về thân phận mình
và nghĩ lại lúc mà những
sự việc đều được tốt lành. Chọn lấy thái độ ngược lại, chúng ta
có thể nói rằng: "Cũng có thể xảy đến cho tôi những điều còn tệ
hại hơn nữa", hoặc: "Tôi rất vui mừng đã trả hết quả báo này; tôi
có thể còn trả nhiều hơn
nữa; ít ra tôi muốn lợi dụng được điều đó".
Con hãy nhớ rằng ngày nào quả xấu của con chưa tiêu tan và con chưa
được giải thoát, thì con chưa giúp ích cho Đức
Thầy được bao nhiêu.
A. B.
–
Theo quan điểm của Đức Thầy thì người ta trả được món nợ nghiệp
quả đang đe dọa y là điều rất tốt, vì chúng ta đừng quên rằng Đức
Thầy bị trở ngại vì Quả Báo xấu của những kẻ khao khát phụng
sự Ngài. Quả Báo này ngăn cản Ngài không cho Ngài dùng họ như
điều Ngài sẽ làm nếu không bị trở ngại. Bà Blavatsky luôn luôn nói
một cách thật chân thành về việc riêng của bà (Bà tuyệt đối chân
thật). Bà nói về việc khủng hoảng do vợ chồng Coulomb gây ra như
sau: "Hiện nay tôi không có làm gì cho đáng tội ấy; đó chính là
món nợ cũ của tôi". Trả sạch Quả Báo này là điều tối quan trọng
đối với bà. Sự bêu xấu và lăng
nhục mà bà chịu đựng trong
khi câu chuyện đang tiếp diễn là một
ân huệ lớn lao nhất cho bà. Bà xem xét
tình trạng một cách thản nhiên, đôi khi, bề ngoài bà cũng
tỏ ra bối rối.
Tất cả những người chí
nguyện phải nhờ tư tưởng này trợ giúp, để họ không nhìn vào họ,
chỉ hướng về Đức Thầy mà tự nhủ rằng: "Những
sự thử thách mà tôi sẽ chịu đựng sẽ làm cho tôi có khả năng hơn
nữa để phụng sự Ngài".
Nếu bạn
khẩn khoản xin
trả quả nhanh chóng, mà bạn phàn
nàn khi lời cầu xin của mình được chấp thuận thì đó là
điều phi lý. Hãy luôn luôn
lấy cảm hứng trong tư tưởng
này: "Tôi càng được tự do, thì tôi càng có thể phụng sự Đức Thầy
nhiều hơn nữa". Khi
món quà đã cho, thì không được lấy nó lại. Đây là ý niệm rất
phổ thông trong những sách xưa An Độ, những chuyện tích của họ luôn
luôn lập lại điều đó: Món quà đã tặng, một lời nói đã
thốt ra không thể nào lấy lại được. Có nhiều trường hợp món quà
mà bạn đã tặng lúc trước
lại trở về với bạn, thì bạn phải đem tặng nó lại. Món quà ấy
không còn thuộc về bạn nữa, giữ nó tức là trộm cắp. Vậy, khi mà
món quà đem cho chính là bạn - thì đó là tặng phẩm cao cả và
tốt đẹp hơn hết - bạn đừng bao giờ lấy lại. Người ta luôn luôn
hiến mình cho Đức Thầy bằng lời nói, nhưng vừa lấy ngón tay chận
lên món quà để có thể kéo lại đàng sau một lần nữa, nếu Đức
Thầy chấp nhận lời nói của họ, như đôi khi Ngài đã làm, để chứng
tỏ cho họ thấy rằng họ đã mơ mộng và họ đã hứa nhiều mà họ
không giữ tròn lời hứa.
C. W. L.
–
Nếu một người kia đã trả sạch quả xấu của y rồi, thì y sẽ dùng
trọn cả ngày giờ và sức lực của y để phụng sự công nghiệp của
Đức Thầy - như đã giải thích, Đức Thầy bị trở ngại vì Quả Báo
xấu của chúng ta. Khi chúng ta trả sạch quả mau chóng, chúng ta
càng có khả năng phụng sự Ngài. Bà Blavatsky đã xác nhận điều
này một cách quả quyết, lối năm 1884 bà bị Coulomb và những người
khác ở Madras tấn công bà.
Phẫn nộ vì hành vi thù nghịch này, buồn phiền vì sự vong ân của
họ đối với bà, bà băn khoăn, lo
lắng khi bà tự hỏi nếu những điều đó có ảnh hưởng đến
Hội và gây ra tai hại cho Hội; nhưng bà lại nói rằng: "Ít ra chúng
ta phải luôn luôn nhớ rằng, tất cả những sự xáo trộn này làm cho
Ngài được một người tôi hữu ích hơn nữa".
Chúng ta có thể áp dụng
những ý tưởng này trong những chuyện khó khăn của Hội cũng như
những chuyện khó khăn của
chúng ta. Bạn hãy luôn luôn nghĩ đến việc phụng sự Đức Thầy, khi
Hội giải trừ xong những quả xấu của nó. Nó sẽ tiếp tục tiến
bước khi cơn khủng hoảng đã qua, vì nó phải trả xong một phần quả
xấu nào đó, mới được hữu ích hơn và thành một khí cụ tốt lành
trong tay những
vị Chủ Nhân thực sự của nó.
Hội giải trừ được một số
Quả Báo này thì Hội có thể nhắm
đến những mục đích cao xa hơn. Theo lời nói của Bà Blavatsky,
thứ Quả Báo này trục xuất chất chết, nghĩa là những người về
phương diện chân lý đã đạt đến "mức bão hòa" họ không thể tiến
tới được nữa. Trước đây, họ tỏ ra rất hữu
ích, nhưng hiện giờ họ là những chướng ngại cho sự
tiến hóa. Tuy nhiên những người khác trong chúng ta thường
rất tiếc khi mất những người bạn này. Trong cuộc khủng hoảng mới
đây, tôi thấy hình như tôi là một trung tâm của cơn bão tố đó và
nhiều người hiểu lầm tình trạng cần được tha thứ,
nên tôi bạo gan bạch với Đức Văn Minh Đại Đế rằng cuộc thử
thách này rất nặng nề cho họ và cầu
khẩn xin Ngài tha thứ cho họ. Lẽ dĩ nhiên sự mạo muội của
tôi làm cho Ngài nở một nụ
cười bao dung và Ngài hỏi tôi: "Con có bằng lòng chăng, nếu mấy
người này bác bỏ Bà Besant"?
Tôi trả lời: "Vâng, bạch
Đại Đế, chắc chắn con bằng lòng". Tôi cảm thấy chắc họ không làm
như thế. Nhưng vài tháng sau
đó; họ lại chống với bà. Rồi cũng với nụ cười bao dung ấy, Đức
Văn Minh Đại Đế, lại hỏi tôi
rằng: "Con thấy đó. Trong kiếp này mặt trời của họ đã lặn rồi.
Nhưng còn có những kiếp khác và ngày mai, mặt trời sẽ mọc như
cũ".
Không có người nào là
thiết yếu cả; bên Ấn Độ đã xảy ra một Chi Bộ tiến triển chung
quanh một hội viên có uy tín, nhưng khi người ấy đến cư ngụ tại
một đô thị khác, thì chi bộ ấy tan rã. Khi
Bà Blavatsky từ
trần, nhiều người trong chúng ta hằng ngày quen nhận được
một nguồn cảm hứng ở bà, cảm thấy ánh sáng đã xa lìa họ. Rồi
một bậc vĩ
nhân khác lại xuất hiện, đó là Bà Hội Trưởng
của chúng ta hiện nay.
Nhưng tôi chắc chắn bà là người thứ nhất nói với chúng ta rằng
một ngày kia đến lượt bà ra đi, chúng ta không cần
lo sợ cho Hội. Khi những khí cụ thay đổi thể
xác, dưới con mắt của
kẻ vô minh thì chúng dường như chết đi. Nhưng các Đấng Chơn Sư
còn đó. Các Ngài không chết, và bao giờ
các Ngài còn hiện
diện, thì luôn luôn sẽ có
một người nào đó tiếp tục công nghiệp của các Ngài.
Khi con hiến thân cho Ngài, thì con xin nhồi quả cho con. Làm sao
trong một, hai kiếp con trả sạch nghiệp quả của con; không vậy, thì
cả trăm kiếp nữa con mới trả hết. Nhưng muốn lợi dụng cách trả
quả ấy thì con phải bằng
lòng nhận lãnh một cách vui vẻ.
A. B.
–
Cách thức trả quả cũ gây ra một nhân mới. Đừng bao giờ
quên những điều đó.
Nếu bạn biết lợi dụng cái gì dường như Quả xấu, thì bạn sẽ vận
dụng những mãnh lực mới để làm việc thiện. Trái lại, nếu bạn
không sẵn sàng nhận lãnh Quả xấu
ấy, bạn trả quả một
cách miễn cưỡng, thì sẽ xảy ra một hậu quả trái ngược . Bạn hãy
nhớ lại lời Đấng Christ trong một bài thuyết pháp trên
núi: "Con hãy tức khắc hòa hợp với kẻ nghịch của con, trong
khi con cùng đi với hắn"
[82].
Điều rất hay là nên theo lời khuyên này, khi nghịch cảnh hiện đến.
Những sự phiền não, những sự mất mát của bạn, bề ngoại như là
một kẻ thù nghịch của bạn, bạn hãy đón tiếp chúng một cách can
đảm, bạn hãy hòa hợp với chúng một cách mau chóng và như
thế bạn không còn dính dấp đến chúng nữa. Chúng ta có thể
giải trừ Quả Báo xấu của chúng ta mau chóng hơn, nếu trong khi gặt
quả cũ, chúng ta không gieo nhân mới nữa.
C. W. L.
–
Người ta thường nói đến việc hiến mình cho Đức Thầy, rồi người ta
lại lo sợ rằng Ngài đòi hỏi quá nhiều. Đó là
tâm trạng của Ananias và Sapphire. Hai người bất hạnh này có
quyền giữ lại một phần tài sản của mình, nếu họ muốn. Nhưng họ
lầm lỗi, chính vì họ quả quyết rằng họ đã cho ra tất cả. Chúng
ta đang trải qua giai đoạn có đặc tính này: "Tôi có thể cho cái
này; tôi có thể làm việc kia cho Ngài, nhưng tôi không thể hiến
mình mà không để dành lại phần nào cho tôi". Khi hiến thân cho Đức
Thầy, chúng ta phải tự hiến với tấm lòng cao thượng như dâng tặng
một phẩm vật nào khác. Và cũng không được đặt một điều
kiện nào về cách sử
dụng phẩm vật của chúng ta dâng, mà cũng không muốn lấy lại
phần nào. Mỗi người phải tin chắc việc này. Đức Thầy không
đòi hỏi quá nhiều. Nếu chúng ta hiến mình cho Ngài, thì chúng ta
đừng ngạc nhiên và bất bình khi sự đau khổ thình lình xảy đến cho
chúng ta. Đó là dấu
hiệu món quà đã được chấp nhận một phần nào rồi. Thế nhân đã
lầm khi cho những dấu hiệu của sự tiến bộ mau chóng là những sự
đau đớn, khổ não. Lắm khi thay vì tỏ lòng thiện cảm với chúng ta,
nhiều người lại quở trách chúng ta, nhưng thường thường đó là Quả
Báo tốt hơn hết của chúng ta vậy. . . . Bị
ngộ nhận, thấy điều tốt của chúng ta cải trang ra sự xấu,
như lời Ruysbroek đã nói, đó là những điều hình như luôn luôn chờ
đợi chúng ta, khi chúng ta đi gần đến mục đích chót. Trong lịch
sử, đó là kinh nghiệm của tất cả những vị Đại Giáo Chủ của khoa
Huyền Bí Học hay Thần Bí Học. Vui lòng chịu đựng, điều đó sẽ gây
ra quả lành và khai mở được ở nơi chúng ta nhiều đức tánh cao quí
như là nhẫn nại, bền chí, chịu đựng, đại lượng và quyết định.
Như thế
từ nghiệp xấu xưa, chúng ta có thể rút lấy cái tốt đẹp.
Còn một điểm khác nữa: con hãy diệt mọi ý muốn chiếm hữu. Có
thể quả báo sẽ làm cho con mất những vật mà con quí chuộng hơn
hết, cũng có lẽ những người mà con thương yêu nhất. Dù như thế,
con cũng phải sẵn sàng vui lòng chia lìa bất cứ là vật nào, và
bất cứ người nào.
A. B.
–
Bây giờ chúng ta đi đến một điểm khó khăn hơn trước vô cùng, còn
khó hơn việc chịu đựng quả xưa. Phải diệt trừ mọi ý muốn chiếm
hữu, trước hết là đối với
những vật, sau đó là những người. Sự
diệt trừ sau cùng này
là một việc tế nhị hơn. Bạn có thể
từ bỏ ý muốn chiếm hữu đối với những người bạn thương yêu
hơn hết không? Đôi khi người ta tưởng rằng bạn đã thực hiện được
điều này, những cơ hội đến thử thách bạn và thường cho
thấy họ đã lầm. Bạn có
thể để
cho một
sự sống lìa khỏi sự sống của quí bạn không? Sự sống đó
còn quí hơn sự sống của bạn nữa. Bạn có thể gọi sự chia lìa
này là sự thử thách cuối
cùng và khó
khăn nhất về sự sùng tín chân thật của bạn đối với Đức
Thầy về điểm này. Tất cả người chí nguyện phải tự
kinh nghiệm lấy mình; trước khi sự thử thách thật sự do
hoàn cảnh đưa đến, sự tập luyện trước có thể làm giảm sức mạnh
của biến cố. Bạn chớ có diệt tình thương của bạn đối với kẻ
khác, đó là phương thức đặc biệt của những Mãnh Lực hắc ám
[83].
Bạn có thể tập tránh tiếp xúc với một người nào đó trong một
thời gian mà vẫn tiếp tục thương yêu y như trước, bạn
làm một công việc gì bắt buộc phải xa kẻ đã làm ra sự tươi
đẹp của đời sống bạn. Nếu bạn có thể làm như thế một cách hăng
hái và vui vẻ, thì bạn đã chuẩn bị xong để đáp lại lời kêu gọi
khi nó đến với bạn, lời kêu gọi bỏ tất cả để theo Đức Thầy.
Bạn hãy nhớ ý tưởng này
đã được bao lần nhấn mạnh trong những câu chuyện
được lập lại, và truyền đến
chúng ta về những gì
đã xảy ra lúc Đức Di Lạc ở tại Palestine. Tất cả những người
được kêu gọi đều không tỏ ra xứng đáng nắm lấy cơ hội. Tuy
nhiên có vài người được chọn lựa. Những người bỏ tất cả
và theo Ngài thì trở thành những nhà truyền giáo sau khi Ngài bỏ
xác. Còn những người khác
thì chẳng bao giờ được nghe Ngài nói nữa. Bạn hãy nhớ người thanh
niên giàu có kia ra đi trong lòng vô cùng buồn bã, dù rằng người ta
chỉ đòi hỏi chàng việc từ bỏ tài sản mà thôi.
Có vài người tin rằng nếu ở vào địa vị người thanh niên kia
thì họ sẽ tức khắc đáp lại lời kêu gọi. Nhưng tôi không chắc rằng
nhiều người có thể bỏ tài sản to tát của họ để đi theo một vị
giáo sĩ ta bà, vì Đấng Christ đã hiện ra dưới hình thức của một
nhà truyền giáo rày đây, mai đó với vài người vô giáo dục. Sự
thử lòng của vị đệ tử là cái đó: từ bỏ tất cả những vật mà
bạn quí chuộng nhất cũng như những người mà bạn thương yêu hơn hết
và theo Đức Thầy.
C. W. L.
–
Trên phương diện cá nhân,
chúng ta phải hiểu rằng không có cái gì thuộc về chúng ta cả,
những gì mà chúng ta có đây là vật ủy thác cho chúng ta để hỗ
trợ cho sự tiến hóa. Một người
giàu có uy thế, là
vì những sự lợi ích này giúp cho y có cơ
hội để làm việc nhiều hơn trước cho nhân loại. Không có gì
là của riêng của chúng ta, để chúng ta sử dụng chúng một cách
ích kỷ. Chúng ta ở vào địa vị một vị giám đốc hoặc một nhân
viên được tín nhiệm trong sự chi dụng tiền bạc của hãng và phải
hết sức thận trọng như của riêng của mình. Thái độ của người
giàu có và người có uy quyền phải như thế.
Chính Chơn Sư đã sống như
những người đại diện cho nhân loại một cách tốt đẹp phi thường.
Các Ngài tự xem mình như những vị quản lý những quyền năng vô
lượng, vô biên mà các Ngài đang có. Đó là lý do tại sao Đức Thầy
không gây ra Nghiệp Quả nào, dù
tốt hay xấu, có thể buộc trói Ngài vào tình trạng của con
người. Các Ngài hoạt động, các
Ngài thực hiện đến một mức độ cao siêu, nhưng không tạo ra
một Nghiệp Quả nào trói buộc các Ngài, vì các Ngài làm việc
một cách vô tư, không một mảy may ham muốn riêng cho mình. Các Ngài
làm việc giống như một quân nhân chiến đấu giữa chiến trường không
để ý đến một kẻ địch nào ngã gục dưới tay y và nghĩ rằng y
chiến đấu cho chính nghĩa, cũng như một bộ phận
của guồng máy vĩ đại.
Cũng thế đó, các Ngài
làm việc như một phần tử của Đại Đoàn Thể, như những nhân viên
của Quần Tiên Hội và của nhân loại. Và tất cả những công nghiệp
tốt đẹp của các Ngài đều hồi hướng cho loài người, và giúp
nhân loại tiến lên.
Trước hết phải bỏ ý muốn
chiếm hữu đối với vật, kế đó là người, điều
này còn khó khăn hơn nữa. Chúng ta có thể mất họ vì tử
thần đã đem họ đi, như người
ta thường nói hoặc có thể họ phải xa chúng ta để phụng sự nhân
loại. Điều này đúng trong cả ngàn trường hợp lúc Đại Thế Chiến,
người vợ hiến chồng, người mẹ hiến
con trai mình cho cuộc chiến đấu vì lẽ phải. Làm sao chúng
ta lại do dự trong sự làm
việc để phụng sự Đức Thầy như hàng ngàn người khác đã làm để
phụng sự tổ quốc họ. Khó mà dễ xa lìa chúng ta một người mà sự
sống còn quí hơn sự sống của chúng ta. Tuy nhiên, có nhiều người
đã bằng lòng thực hiện việc ấy, kẻ thì ở trong tình cảnh bi ai,
người thì ở trong tình trạng khiến cho sự hy sinh có tính cách
thánh thiện và tốt đẹp.
Những người đi theo con
đường tà đạo đã hủy diệt tình thương và do đó họ tránh được tất
cả những sự đau khổ này. Nhưng những ai tha thiết muốn được gia
nhập vào Quần Tiên Hội thì phải làm cho tình thương không ngớt
phấn khởi, phải hủy diệt hoàn toàn
lòng ích kỷ pha lẫn bên trong. Bạn hãy nhớ đến thanh gươm đâm
thủng trái tim của Đức Mẹ, Thánh Mẫu Đồng Trinh Maria, mà Ngài có
thể tránh thanh gươm đó bằng cách dứt bỏ trong lòng
Ngài mọi kỷ niệm về người con trai của Ngài và quên phứt
đi. Trong nhiều trường hợp, lời của Đấng Christ đã được áp dụng
như sau: "Đừng tưởng rằng Ta đến đây để đem sự hòa bình cho thế
gian. Ta đến chẳng phải đem sự hòa bình mà để đem một thanh gươm"
[84].
Ngài muốn nói rằng giáo lý mới mẻ của Ngài ở nơi này hoặc ở
nơi khác, chỉ được một người trong
gia đình kia chấp nhận, còn những người khác thì chỉ trích
và gây ra chia rẽ, hoặc là người
ấy phải lìa bỏ mái nhà của mình và bạn bè để hoàn thành
công việc đặc biệt. Cũng giống như thế, có nhiều trường hợp trong
một gia đình chỉ có một
người hiểu biết được giáo lý Thông Thiên Học, lại bị mấy người
khác chống đối, bởi đó sinh ra sự đau khổ và chia rẽ. Ngày nay,
thường có người rời bỏ gia đình để đi làm giàu ở cuối chân quả
địa cầu mà không bị ai phiền trách, nhưng nếu có người
làm như vậy để giúp ích nhân loại, y sẽ bị phản đối ngay.
Tinh thần hiện đại vẫn trì trệ như thế.
Bạn hãy nhớ tất cả những
chướng ngại do vua Tịnh Phạn
gây ra khi Thái Tử Tất Đạt Đa muốn hiến mình cho đạo đức. Nhà vua
đã tiêu hao tiền muôn bạc vạn và một phần lớn đời Ngài, hy vọng
con trai Ngài tránh khỏi định mệnh cao cả đang chờ đợi trong tương
lai. Ngài hy vọng làm cho Thái Tử
thành một vị Hoàng Đế lớn nhất ở Ấn
Độ chứ
không phải một vị Đại Giáo Chủ mà thế gian chưa hề biết,
theo lời tiên tri của các chiêm tinh gia. Nhà vua biết rằng nếu con
trai Ngài thành một vị giáo chủ, thì phải chấp nhận sự nghèo
khổ và xả thân vong kỷ; Ngài không hiểu rằng chính hai điều này
đã đưa con Ngài lên cao hơn tất cả những
vị vua chúa trên thế gian. Không phải tên của một vị Đại
Hoàng Đế được lưu lại lâu nhất trong ký ức con người, mà chính là
tên của một vị Giáo Chủ. Vua Tịnh Phạn
mong mỏi con trai Ngài có một quyền lực lớn lao vô cùng và
thanh danh có một không hai
trong lịch sử. Hai điều này đã được chuẩn y, nhưng không hề đúng
như sự mong muốn và dự tính của Ngài. Uy lực của Đức Phật vượt
cao hơn tất cả uy lực của bất cứ vị vua nào trên thế gian và danh
tiếng của Ngài lừng lẫy khắp thế giới.
Đấng Christ đã nói: "Hãy
bỏ tất cả và theo Ta". Khi những bằng hữu Thiên Chúa Giáo của
chúng ta đọc những lời này trong Thánh Kinh Tin Lành, thì họ tin
chắc chắn họ sẽ vâng lời ngay. Điều này không chắc lắm. Chúng ta
thử đặt mình vào địa vị của
những người trong thời ấy. Bạn hãy nhớ người thanh niên rất
giàu có đến tìm Chúa. Tài sản của y chắc chắn ràng buộc y với
những nhiệm vụ
mà y không thể dứt bỏ. Tất cả dư luận, tất cả nghi thức xã
hội, tất cả uy lực chính thống của thời ấy đều liên kết nhau
đặng chống lại Chúa. Ngài chỉ là một Giáo Chủ đáng thương, đi ta
bà, không biết một nơi để tựa đầu nghỉ cho khoẻ. Trước những
nghịch cảnh đó, chúng ta có
muốn theo Ngài chăng? Chúng ta có thật chắc chắn là chúng ta sẽ
bỏ tất cả đặng theo Ngài, người mà những vị đại mục sư và tất
cả những nhà chính thống giáo đều cho là cuồng tín? Chúng ta có
tự hỏi rằng rốt cuộc, chúng ta sẽ bỏ mồi bắt bóng chăng? Điều
này không chắc lắm. Có thể ngày nay sự việc cũng diễn ra như thế,
nhưng có những người trong chúng ta đã bỏ những vật sở hữu khác
để theo Đức Thầy mà họ không hề luyến tiếc chút nào.
Thường thường Chơn
Sư cần truyền thần lực cho kẻ khác
qua trung gian của đệ tử Ngài. Nếu trò ngã lòng, rủn chí
thì Thầy không thể làm chi
được. Vậy tính an phận phải được xem như là một giới luật.
C. W. L.
–
Từ đầu chí cuối, quyển sách này có lập luận làm nền tảng cho
tất cả những qui tắc : đó là Phụng Sự Đức Thầy. Chúng
ta có thể nương cậy vào nhiều lý do
khác để chống lại sự ngã lòng - chẳng
hạn nó có hại cho bản thân chúng ta và tạo cho kẻ khác một
cảm giác khó chịu. Nhưng ta gặp một điểm nổi bật ở đây là Đức
Thầy không thể dùng chúng ta làm một con kinh để
truyền thần
lực, nếu chúng ta tự buông trôi trước sự ngã lòng.
A. B.
–
Đây là lý do cho thấy tính an phận phải là giới luật, vì
một lần nữa ý tưởng
phấn khởi ấy lại được trình bày cho chúng ta biết rằng
Đức Thầy cần sự giúp đỡ của bạn, bạn có thể trở nên
hữu ích cho Ngài! Thần lực của Ngài hoàn toàn vui tươi, vì
nó phát sinh từ thần lực của Đức Thượng Đế, làm sao nó theo được
một vận hà bị sự ngã lòng làm tắt nghẽn.
Dường như kỳ lạ cho rằng
Đức Thầy không thể làm được điều này hay điều khác, nhưng đó là
sự thật. Thỉnh thoảng người ta
nghe Ngài nói; "Ta không thành công". Khi các Ngài làm việc ở
cõi trần, thì quyền năng của các Ngài bị giới hạn do những điều
kiện đặc biệt của cõi vật chất. Thường thường các Ngài không thể
ảnh hưởng đến một người ở cõi trần, nếu không nhờ trung gian của
một người khác. Do đó các Ngài cần sự giúp đỡ mà bạn có thể
hiến cho các Ngài. Không có sự giúp đỡ ấy, vài công việc không
thể thực hiện được và bởi đó, sau này phải dẹp bỏ những chướng
ngại, mà đáng lẽ
chúng không bao
giờ xuất hiện được.
CHƯƠNG
THỨ HAI MƯƠI HAI
�
Y
�
ĐI THẲNG ĐẾN MỤC ĐÍCH DUY
NHẤT
Chỉ có một công việc mà con phải nhớ luôn luôn là công việc của
Đức Thầy. Dù công việc nào
khác có thể đến với con đi nữa, thì
ít ra con không hề quên công việc đó.
C. W. L.
–
Trong đời sống hằng
ngày, việc chú định vào mục đích là điều cần thiết để
được thành công thực sự. Người kiên nhẫn cuối cùng luôn luôn chiến
thắng, vì tất cả quan năng của y đều đồng thời làm việc, trong khi
những người khác nhắm vào nhiều mục đích và thay đổi không ngừng.
Chẳng hạn người quyết làm giàu, y vận dụng tất cả tư tưởng và ý
chí của mình vào mục tiêu ấy, y luôn luôn cẩn thận và thảo kế
hoạch, chắc chắn y gần thành công. Một người kia quyết định để
tất cả thì giờ của mình phụng
sự Đức Thầy với năng
lực không ngừng gia tăng và y chịu gác bỏ tất cả công việc khác,
đương nhiên
y sẽ tiến bộ nhanh
chóng.
Kỳ thật, không có việc gì khác hiện đến được, vì mọi việc hữu
ích và vô tư lợi đều là công việc của Đức Thầy, và con phải làm
cho Ngài. Phải hết sức chú ý vào mỗi phần việc của con làm và
rán hết sức con để làm
việc đó cho khéo léo.
C. W. L.
–
Công việc của người đệ tử, một phần lớn gồm có sự luyện mình
để một ngày kia thực hành cho Chơn Sư một công việc có những
trách nhiệm nặng nề. Và công việc này không phải tất cả đều giúp
ích trực tiếp những ý muốn hiện tại của Đức Thầy. Nó hơi giống
công việc một học sinh trung học khi học chữ La Tinh chẳng hạn, em
không làm gì nổi bật, nhưng em đang mở mang và phải mở mang những
năng khiếu trí thức về những đức tánh để trở nên hữu ích cho đời
em sau này. Đôi khi những bổn phận của đời sống hằng ngày mang đến
hai sự lợi ích này, vì chẳng những nó bảo đảm cho những người
hoàn thành công việc một phương tiện tuyệt hảo để luyện mình và
học hỏi, mà còn mang đến nhiều cơ hội giúp đỡ kẻ khác phát
triển tính tình và lý tưởng của họ. Về điểm cao hơn hết đó là
công nghiệp của Đức Thầy. Mọi hoạt động khác nhau của đời sống
hằng ngày vẫn phù trợ
những sự cố gắng kiên trì của chúng
ta hiến dâng cho công
việc của Đức Thầy, khi chúng ta hoàn thành chúng vì Ngài và nhân
danh Ngài. Công việc của Đức Thầy đối với chúng ta không
phải là một điều đặc biệt và xa lạ với đồng loại của chúng ta.
Khéo dưỡng dục con cái để tới phiên chúng nó, chúng nó phụng sự
Ngài một cách xứng đáng, làm lụng cho có tiền để dùng vào công
việc của Ngài, có quyền
thế để hỗ trợ ý định của
Ngài, mọi việc này đều thuộc về công nghiệp của Đức Thầy. Nhưng
trong khi thực hiện những điều này: chúng ta phải luôn luôn đề
phòng những sự nguy hiểm của ảo ảnh có thể dùng
thanh danh của Đức
Thầy để che đậy một ý muốn ích kỷ đặng chiếm được uy quyền hay
là tiền bạc.
Cũng vị Giáo Chủ vừa rồi có viết như vầy: "Dù con làm việc chi
cũng vậy, con phải vui lòng mà làm, như con làm cho Đức Thượng Đế,
chứ không phải làm cho con người". Con hãy tự hỏi: Con phải làm
việc như thế nào, nếu con biết Đức Thầy sẽ đến xem nó, con phải
làm mọi công việc của con với ý nghĩ đó. Những
người thật
khôn ngoan hơn
hết mới
hiểu được
ý nghĩa của đoạn này. Còn một đoạn khác cũng giống như
thế, nhưng xưa hơn nhiều: "Dù tay con làm việc gì, con cũng phải
hết sức chú ý vào đó".
C. W. L.
–
Trọn cả thế giới đều nằm trong Tâm Thức của Đấng Chúa Tể quả
địa cầu, ấy là Đấng Duy Nhất Thế Tôn Cầm
Quyền Điểm Đạo
[85],
mọi hành động của chúng ta đều diễn ra trước sự Hiện Diện của
Ngài. Do đó mới nảy sinh cái ý niệm xưa của Thiên Chúa Giáo về
sự Toàn Tri, Toàn Thông, Vô Sở Bất Tại
của Đức Thượng Đế mà người ta nói rằng: "Chúng ta sống,
hoạt động và tồn tại trong lòng Ngài". Đây không phải là một sự
tưởng tượng thi vị, mà là một sự kiện khoa học: Chúng ta sống
trong hào quang của một Vị Vua
[86]
của Thế gian, vẫn còn là một vấn đề
nan giải và bất khả tri, đối với chúng
ta. Tuy nhiên, một ngày kia chúng ta sẽ
đi đến vị trí cao tột
đó.
Quan niệm thuở xưa về Trời
làm cho sự Vô Sở Bất Tại của
Ngài có một tính cách khủng khiếp. Người ta cho rằng Trời
luôn luôn tìm kiếm đặng khám
phá những lỗi lầm, Ngài
hăng hái quan sát để xem ai phạm luật của Ngài, đặng Ngài trút cơn
thịnh nộ lên kẻ phạm tội khốn nạn kia. Nhiều đứa trẻ đau khổ ghê
gớm vì chúng nói rằng Trời thấy tất cả những hành vi của chúng.
Chúng cảm thấy hình như không có sự công bình, khi tất cả những
gì thuộc về chúng đều bị vạch trần ra. Đó là điều đặc biệt,
bởi vì đứa trẻ sợ hãi không hề
biết vị dẫn đạo của nó phán xét nó như thế nào về mọi
hành vi của nó. Trái lại khi hiểu được lòng bác ái vô biên của
Trời, người ta bắt đầu thấy rằng sự Vô Sở Bất Tại của Ngài là
một sự bảo hộ và ban ân huệ lớn nhất cho chúng ta.
A. B.
–
Sự thử thách mà Đức Thầy nêu lên ở đây phải được áp dụng cho mọi
hoạt động của chúng ta. Chẳng hạn như bạn viết một bức thư, nếu
bạn biết rằng Đức Thầy sẽ đến và sẽ đọc nó, bạn sẽ viết một
cách thật cẩn thận về cả hai phương diện nội dung lẫn
hình thức. Bất cứ
công việc nào của bạn cũng là công việc của Đức Thầy, nếu bạn
làm hết mình, dù đó là một cố gắng mà Đức Thầy đòi hỏi vì
một mục đích cấp thời hay là để chuẩn bị bạn cho công việc sau
này. Nếu chúng ta thuộc về Ngài, thì mọi việc đều thực hiện
cho Ngài, chứ không thể ai khác. Cầu xin đó là thái độ
tinh thần thường hằng của bạn và bạn sẽ tạo ra một bầu
không khí trong đó việc
chú định
vào đối tượng sẽ phát triển.
Nếu chúng ta thực sự có
một đối tượng, mọi việc sẽ
diễn tiến một cách đẹp đẽ biết bao! Chỉ làm việc để phụng sự
Ngài. Đó là ý tưởng mà tôi luôn luôn duy trì trong trí như những
môn đồ trẻ tuổi hơn tôi đã làm. Tuy nhiên tôi nhờ sức mạnh của
thói quen nhiều hơn ý tưởng đó giúp tôi. Có khi tôi tự
hỏi: "Tại sao tôi trả lời bức thư
này"?, và trong trí tôi liền xuất hiện câu trả lời : "Tôi
gặp công việc này trên
bước đường của tôi, vậy nó chính là công việc của Đức
Thầy".
Bạn hãy tiếp tục dành cho
ý tưởng đó một vị trí quan trọng nhất trong trí bạn suốt cả
thời gian bạn còn làm đệ tử. Mọi người phải tập lấy thói quen
đó và khi đã tập xong phải tăng cường nó. Thói quen ấy đã giúp
chúng ta áp dụng tất cả những phương tiện của chúng ta vào công
việc của chúng ta đang làm bất cứ việc
nào: Tất cả những phương tiện, bởi vì nó có như thế công
việc của chúng ta mới trở
thành một phần của công việc thiêng liêng và là một phương pháp
luyện tập hữu ích cho sự mở mang tánh tình. Bạn hãy tìm sự hoàn
toàn đừng để xảy ra một điều xấu xa nào.
Đi thẳng đến mục đích duy nhất cũng có nghĩa là khi con bước vào
Đường Đạo rồi, thì không có cái chi làm cho con chuyển hướng lìa
khỏi Đạo được, dù chỉ trong chốc lát thôi. Không có sự cám dỗ
nào, thú vui nào ở thế gian, cũng như những sự luyến ái nào trên
cõi đời có thể làm cho con lạc bước. Bởi vì con phải nhập một
với Đạo. Trên quan điểm này, Đạo phải là bản tính của con, con
bước trên Đường Đạo mà con
không cần nghĩ đến Đạo và cũng không thể nào rời Đạo được nữa.
Con là Chơn Thần, con đã
nhất định như thế. Nếu con tự lìa khỏi Đạo, tức là con tự chia
lìa con vậy.
C. W. L.
–
Những bản
Thánh Kinh
khác cũng nói rằng mỗi người phải trở thành "một" với con
Đường Đạo. Đấng Christ đã
nói với các môn đồ của Ngài rằng: "Ta là Đường Đạo"
[87].
Đức Shri Krishna cũng dùng những lời lẽ giống hệt như thế: "Ta
là con đường mà khách lữ hành phải noi theo". Cũng ý niệm
như thế vẫn có trong quyển Tiếng
Nói Vô Thinh, trong đó nói rằng: "Con
không thể đi trên con Đường Đạo trước khi trở thành con đường
đó".
Thật ra, việc đang diễn
tiến là mỗi người đều trở thành Chơn Ngã của mình. Trong định
nghĩa về Yoga, Đức Patanjali có nói rằng: "Khi con người làm chủ
được Cái Trí của mình rồi thì y ngự
trị trong trạng thái của y". Chơn Thần là Chơn Ngã thật sự
của chúng ta, ấy là Đức Thượng Đế ẩn tàng bên trong, nhưng Đức
Thượng Đế ấy phóng xuống cõi trần một cái bóng của mình để tạo
thành Chơn Nhơn, và đến lượt Chơn Nhơn, lại hóa thân một Phàm Nhơn,
thì sự tiến hóa con người phải khá cao, còn trước đó, Chơn Nhơn
chỉ nhìn xuống Phàm Nhơn thôi, cái may mắn được thành công rất ít
cho đến đỗi Chơn Nhơn không làm gì quan trọng cả. Rồi tới cuộc
Điểm Đạo lần thứ nhất là lúc Phàm Nhơn không còn ý chí riêng của
nó nữa, nó chỉ sống để phụng sự Chơn Nhơn thôi, trừ ra lúc nào
nó quên. Bây giờ Chơn Nhơn hoạt động xuyên qua Phàm Nhơn ở các cõi
dưới và bắt đầu thực hiện đời sống
của Chơn Thần và sống theo ý muốn của Ngài. Chơn Thần đã
chọn con đường mà Chơn Nhơn phải noi theo trong khi nó tiến hóa.
Nhưng Chơn Nhơn có thể chọn một con đường khác, vì chính nó trở
thành nguyên bổn và tự giải thoát ra khỏi mọi ràng buộc, dù là
những ràng buộc thuộc về cõi tinh thần
[88].
Trên Đường Đạo người đệ tử phải luôn luôn nghiêng qua bên này hay
nghiêng qua bên kia, nhưng khi y chú định vào đối tượng của mình,
thì cuối cùng y trở
lại con đường tốt đẹp nhất.
A. B.
–
Con người thường quên rằng mình là biểu hiện của Chơn Thần, vậy
thì, tất cả những gì bạn thực hiện dưới thế gian
này đều do ý chí riêng của bạn, chứ không bị ý muốn nào
khác buộc bạn. Ý chí của Chơn Thần là ý chí của bạn. Nhưng dục
vọng của bạn không phải là
ý chí của bạn chút nào. Bạn bị những vật ở bên ngoài lôi cuốn
vì thế này hay thế khác của bạn muốn thỏa mãn cách này hay cách
kia. Không phải bạn muốn thưởng thức sự vui đó, nhưng Tinh Chất Ham
Muốn
[89]
hưởng thụ và kinh nghiệm điều đó. Về
điều này, bạn
phải dùng "Chơn Ngã" của bạn chống
lại nó, Chơn Ngã chỉ nhắm vào chỗ tối thượng không hề lệch
lạc. Chúng ta phải giống như cái địa bàn từ điện cực mạnh, cây
kim có thể đổi hướng, nhưng
luôn luôn nó trở lại đúng vị trí của nó. Bao giờ bạn chưa có đủ
sức mạnh để chống lại mọi
cám dỗ bên ngoài, thì bạn
phải luôn luôn tập luyện đặng trở lại con đường ý chí duy nhất.
Bạn không phải là vật
chất. Bạn phải sử dụng vật chất, bắt nó làm công cụ cho bạn.
Thật vô lý khi bạn tự nép mình trước những vật liệu mà bạn đã
góp nhặt để tạo ra công cụ cho bạn dùng. Thật giống như cái búa
trong tay người thợ làm sườn nhà chọn chỗ đóng đinh vào, mà cái
búa lại đập nát ngón tay người thợ, thay vì phải đóng vào đinh.
Đôi khi xảy ra việc một người thợ tự gây thương tích cho mình, đó
là tại y vụng về. Bạn hãy tập trung thành với quyết định của
bạn, ý chí thật sự của bạn và tới một ngày kia bạn sẽ không
thể tách rời nó được.
Người ta cũng đạt được sự
chú định vào đối tượng bằng cách tập trung tư tưởng. Bạn hãy chú
ý vào một khoảng có giới hạn,
trong một lúc nào đó. Bạn hãy chú ý vào một việc thôi để
làm cho có hiệu quả. Một số khối nước nào đó, nếu chảy vào con
kinh nhỏ hẹp đủ sức tạo nên một dòng nước mạnh, còn nếu người ta
để nó tràn ra một khoảng rộng lớn, thì nó trở thành một vũng
nước thôi. Đối với tinh lực của bạn cũng thế. Hãy tuần tự thực
hiện công việc của bạn. Hãy hoàn thành mỗi việc một cách chính
chắn và cương quyết thay vì
làm tất cả mà không đúng đắn. Nếu bạn theo lời khuyên này một
cách nhẫn nại, chẳng bao lâu bạn sẽ thấy kết quả. Chắc chắn là
có thể rất ít, trong mỗi tuần, nhưng nhiều tuần trôi qua, những
kết quả sẽ được súc tích và không bao lâu, chúng sẽ trở thành
một số lượng to tát của công việc đã được hoàn thành, và cũng
như một số sức lực đã được thâu nhận vậy.
CHƯƠNG
THỨ HAI MƯƠI BA
Con phải có lòng tin cậy Đức Chơn Sư của con và con cũng phải tin
cậy con nữa. Nếu con đã thấy Ngài rồi, thì trải qua nhiều kiếp
luân hồi sinh tử, con cũng vẫn tuyệt đối tin tưởng Ngài, ít ra con
phải cố gắng tưởng tượng Ngài và tin cậy Ngài, bằng không vậy
thì Ngài cũng không thể giúp con được.
C. W. L.
–
Một phần những lời này là của Alcyone, em đang nói về Đức Thầy
của em, nhưng Đức Thầy cũng nói như thế về
các Đấng Cao Cả hơn Ngài. Những gì chúng ta nói và nghĩ
đến Đức Thầy, thì cũng giống như điều mà các Ngài đã nói và
nghĩ đến Đức Phật, Đức Bồ Tát Di Lạc và các Đấng khác cao cả
hơn Ngài. Chúng ta gần như không thể nào hiểu được thực sự một vị
Chơn Sư ra sao. Chúng ta có
thể ướm thử. Chúng ta có thể gợi lên lý tưởng cao cả nhất mà
chúng ta có thể biết, nhưng Chơn Sư tập
trung vào Ngài những sự cao thượng; mà chúng ta không thể
tưởng tượng nổi, ý niệm cao nhất mà chúng ta có thể hình dung về
Ngài cũng không bao giờ đầy đủ. Trong những trường hợp như thế chỉ
có một lẽ phải duy nhất là tin cậy hoàn toàn ở sự Minh Triết
của Ngài.
Niềm tin tuyệt đối này
tùy thuộc một phần lớn ở quá khứ
của chúng ta. Khi đọc
quyển Những kiếp sống của Alcyone,
chúng ta có thể thấy các trường hợp của Alcyone vẫn như thế,
Alcyone đã liên kết chặt chẽ với Sư Phụ của em trong nhiều kiếp
trước. Cũng trong những kiếp trước đó, tôi cũng nhận thấy tôi vẫn
liên kết với Sư Phụ tôi. Và những người khác cũng
trong trường hợp
ấy. Tôi thiết nghĩ tôi
phải kể sự thật này vì đó là lý do khiến tôi khi đọc một trang
sách nói đến Đức Thầy, tức khắc tôi cảm thấy bị một
mãnh lực vô biên lôi cuốn tôi đến với Ngài. Khi tôi được đặc
ân thấy Ngài, thì không có lúc nào tôi mất lòng tin cậy Ngài.
Trong trường hợp như thế,
người ta có thể nói rằng Chơn Nhơn biết, hoặc nó thấy sự hiện
diện của Đức Thầy trên các cõi trên, hoặc nó nhớ lại những tiền
kiếp, thuở nó đã biết Ngài. Đôi khi Chơn Nhơn biết nhưng không thể
truyền sự hiểu biết của nó xuống cõi trần cho Phàm Nhơn. Thỉnh
thoảng sự hiểu biết của nó truyền xuống một cách bất toàn hay
sai lệch. Sau cùng, trong những trường hợp khác thì Chơn Nhơn chỉ
biết thôi. Chơn Nhơn không thể sai lầm. Dường
như nó không hề lầm lẫn. Nhưng không ai cãi được là Chơn Nhơn
còn dốt lắm chuyện. Vả lại
mục đích sự tái sinh
của nó là phá tan sự vô minh này.
Những người không có bằng
chứng nào về sự hiện hữu của các Đấng Chơn Sư ắt sẽ chấp nhận
tính chất hợp lý của quan niệm này và chắc chắn rằng: Nếu con
người tiến hóa và đã trải qua nhiều giai đoạn, thì có những đoạn
tiến hóa khác hơn dành cho con
người trong tương lai. Chúng ta không thể xem mình như là sự
hoàn mỹ của những thời đại! Sau cùng sự hiện hữu của các Ngài
được xác nhận bởi nhiều nhân chứng gặp gỡ các Ngài và hầu
chuyện với các Ngài
[90].
Có nhiều người đã thấy
các Ngài, nhưng về sau họ mất đi một phần tin cậy ở các Ngài.
Quả nhiên, điều đó không thể hiểu được. Chẳng hạn như tôi nhớ rõ
ràng Ông Brown ở Luân Đôn. Vì ông có viết một quyển nhỏ tự thuật
tiểu sử của ông, nên không có chi ngăn cản những điều chúng ta nói
về ông. Ông đến Ấn Độ vào một thuở kia rất lâu, tại đó ông
được đặc ân lạ thường là gặp một trong hai Đấng Chơn Sư đã
thành lập Hội Thông Thiên Học, trong xác phàm của Ngài. Các Ngài
ít khi rời khỏi tịnh thất
[91]
của các Ngài ở Tây Tạng, hai Ngài có đến Ấn Độ lúc phong trào
Thông Thiên Học khởi xướng;
khi đó tôi là hội viên. Trong quyển
Thế Giới Huyền Bí có thuật
lại một sự viếng thăm của Đức Thầy Kouthoumi tại Amritsar, nơi ấy
có một ngôi đền lớn bằng vàng của người Sikhs. Đức Thầy nói: "Ta
thấy có những người Sikhs của chúng ta say sưa nằm trên thềm của
ngôi đền của họ. . . . Ngày mai Ta sẽ trở về tịnh thất của Ta".
Tôi thiết nghĩ, càng ngày
các Ngài càng thấy rằng các Ngài dùng thần lực của các Ngài
một cách tuyệt hảo trên những
cõi cao, các Ngài bèn
giao phó công việc
dưới trần cho những người còn ở tại thế gian hiện nay đã
tụ hợp dần dần chung quanh các Ngài. Ông Brown hồi còn trẻ, trước
hết đã thấy Đức Thầy Kouthoumi trong thể vía của Ngài. Rồi sau
này ông đi du lịch lên miền Bắc Ấn và làm thơ ký cho Đại Tá
Olcott. Lúc ông ngủ
trong chiếc lều của Đại Tá, nhưng khác buồng, thì Đức Thầy
trong thể xác đến thăm Đại Tá. Đức Thầy nói chuyện một lát với
Đại Tá rồi Ngài bước sang qua phòng khác. Tôi không hiểu tại sao
ông Brown lại kéo tấm "ra" trải giường phủ đầu ông, vì ông sợ giáp
mặt với Đức Thầy. Trong trường hợp đó, ai cũng có mặc cảm về
tội lỗi của mình, nhưng lối bắt chước
con đà điểu và dấu
mình dưới tấm "ra" thì
theo tôi, hình như không
ích chi lắm, vì hiển nhiên nó cũng là một vật trong suốt trước
nhãn quang cao siêu. Tuy nhiên, Đức
Thầy vẫn nhẫn nại nói rằng; "Con hãy thò đầu ra khỏi tấm
"ra" đi. Ta muốn con xem coi Ta có phải là người mà con thấy trong
Thể Vía của con chăng? Rốt cuộc Đức Thầy không nói thêm nữa và để
lại một mảnh giấy cho ông, lúc ấy ông mới tỉnh lại. Một cơ hội
mà nhiều người khác phải
trả giá rất đắt đã đến với ông. Dĩ nhiên là ông xứng đáng, nhưng
ông không lợi dụng nó. Sau này, ông đâm ra nghi ngờ sự hiện hữu của
Đức Thầy. Cũng có nhiều người khác được đặc ân thấy Ngài, nhưng
họ lại tìm thế rút lui.
Có nhiều người do sự
khinh nghiệm ở những
tiền kiếp của họ đã tạo cho họ một tính hoài nghi, còn kẻ khác
lại quá nhẹ dạ nên tin càn. Hai thái độ cực đoan này đều không
giúp ích cho sự tiến hóa. Cả hai đều thiếu tinh thần khoa học.
Mỗi người đều có trong trí
sự thấy tổng quát. Nếu có những điều kiện mới mẻ nào được
trình bày cho y phù hợp với sự thấy đó, thì y sẵn sàng nhìn
nhận là đúng chứ không đòi hỏi những bằng chứng rõ ràng, chắc
chắn: "Phải, chúng ta nói, điều này dường như rất đúng. Nó phù
hợp! Chắc chắn nó như thế".
Một mặt khác, nếu người ta nói với một người bình thường những
gì không phù hợp với sự hiểu biết trước của y, thì y tuyệt đối
phủ nhận nó. Nếu chúng ta đã có kinh
nghiệm nghiên cứu khía cạnh bên trong của sự vật, chúng ta
sẽ bỏ ngay thái độ từ chối một việc xác nhận nào đó vì
lẽ nó không phù hợp
với điều mà chúng ta đã biết trước kia. Người ta tập ngưng phán
đoán, không chấp nhận mà cũng không phủ nhận; người ta chỉ nói
rằng : "Theo chỗ tôi thấy, từ đó đến giờ, điều ấy hình như không
đúng lắm. Tuy nhiên tôi không phủ nhận chi cả. Tôi để ý
tưởng ấy qua một bên, chờ đến khi nó được tỏ rõ hơn nữa".
Thật là nông nỗi mà trả lời rằng mọi sự vật mà người ta chưa
thí nghiệm thì không thể có
được. Điều đó chứng tỏ sự dốt nát của mình.
Nói một cách
tổng quát, dưới cõi hồng trần này những người càng biết
ít, thì càng tin nhiều. Trong khoa học, những người nói một cách
vô đoán tự thị là những sinh viên. Những nhà đại thông thái có
thói quen nói rằng: "Tôi đã thí nghiệm sự kiện này, sự kiện kia,
nhưng tôi không tự hào suy ra được đinh luật". Một ngày kia Lord
Chancelier có nói rằng: "Vị trạng sư trẻ tuổi nơi đây cũng không
chắc chắn hơn tôi". Sự chắc
chắn của những người trẻ tuổi do việc họ không học hỏi đặng biết
rằng có nhiều điều có thể
có, họ không hiểu rằng, nên cẩn thận, đừng bày ra định luật quá
rõ ràng. Sau nhiều năm học hỏi, chúng ta tập chọn lựa những danh
từ của chúng ta dùng một cách kỹ lưỡng hơn. Có không biết bao
nhiêu sự thật không ngớt bao phủ chúng ta mà chúng ta không biết.
Nói một cách tổng quát, thế hệ trước đây, người ta chế nhạo và
cho là không thể có được nhiều việc mà ngày nay là chuyện tầm
thường trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Tốt hơn là nhận
thức sự kiện đó từ lúc đầu và chờ đợi những phát minh
mới, luôn luôn có thể xảy ra, việc ấy chứng tỏ sự tiến bộ của
nhân loại.
Điều rất hữu ích cho
chúng ta là được giải thoát ra khỏi những thành kiến, chúng ta là
những người nghiên cứu các vấn
đề cao siêu. Chúng ta phải đủ sức uyển chuyển
để chấp nhận những chân lý có tính cách phá hoại khi chúng
phù hợp với lương tri. Bằng
không, chúng ta chỉ nên gác chúng nó qua một bên và nói rằng chúng
ta chưa tin chắc. Chúng ta
không kết án chúng, cũng không kết án những người cổ vũ chúng.
Chân lý biểu hiện nhiều mặt, thế nên thường thường không phải một
người hay một nhóm người thấy hết những khía cạnh của nó một
lượt. Do đó những gì hôm nay đối với chúng ta dường như phi lý,
luôn luôn có thể chứa đựng
một mảnh chân
lý.
Khốn nỗi nhiều người không
biết chi cả về vấn đề nào đó, mà tưởng rằng mình đã hiểu nó
triệt để. Nhất là về tôn giáo, những người ít hiểu biết lại làm
ồn ào để người khác chấp nhận ảo tưởng đã hiện
ra trong Trí họ. Đôi khi họ nói rằng lương tâm là hướng
đạo của chúng ta.
Nếu trong vài trường hợp
có thể xảy ra như vậy, chúng ta cũng không thể luôn luôn tin cậy
vào lương tâm, vì Chơn Nhơn mà nó là biểu hiện chưa phải là toàn
tri. Lịch sử đã cho thấy rằng vì tuân
theo lương tâm nên người ta mới thiêu đốt, tra tấn đồng loại
của mình. Chơn Nhơn nào xúi dục làm những việc như thế, hiển nhiên
là dốt về những điểm rất quan trọng. Rõ ràng là người ta phải
lắng tai nghe tiếng nói của
lương tâm khi chắc rằng nó nói, nhưng luôn luôn nên nhớ câu trả
lời rất hay của vị Giám Mục South với một người Tin Lành ly khai
như sau: "Chắc chắn là bạn phải theo sự hướng dẫn của lương tâm
bạn, nhưng nên giữ sao cho lương tâm của bạn không phải là lương tâm
của một thằng ngốc".
Sự tin cậy là điều tốt,
tuy nhiên, người ta không thể tự bắt buộc mình phải tin, cũng như
không thể tự bắt buộc mình phải yêu. Chúng ta chỉ quan sát những
đức tánh của một người, rồi chúng ta có thể
dần dần đạt được
những lý do để thương yêu y. Cũng như
chúng ta có thể suy gẫm về những lý do để tin và như thế,
có thể dần dần đi đến đức tin. Nói cho đúng, tự nhiên người ta
không nên tin tất cả, mà chỉ tin những
điều gì là sự
thật mà thôi. Vả lại chơn
lý này đòi hỏi nhiều năm nghiên cứu nếu những tiền kiếp
không mang đến cho chúng ta một sự tin chắc nào.
Phương pháp của những vị
Đại Sư trong các tôn giáo không phải là làm cho mọi việc trở nên
dễ dàng đối với chúng ta. Lần
đầu tiên tôi biết được Huyền Bí Học nhờ Bà Blavatsky. Thỉnh
thoảng bà ban cho những môn sinh của bà vài sự hiểu biết về Huyền
Bí Học, nhưng bà không ngớt đưa đến cho họ những cuộc thử lòng
nghiêm khắc. Bà dùng phương pháp tẩy mạnh. Nhưng
những người nào thật tâm chí quyết vẫn
tiếp tục ở lại với
bà, còn những kẻ khác thì bỏ bà ngay. Bà sửa chữa những thành
kiến của chúng tôi, nhưng đối với những môn sinh của bà có biết
bao sự tự xét mình cần phải thực hiện.
Nhiều người nói rằng bà
đã làm những việc mà một vị Đại Sư sẽ không được phép làm. Ý
kiến riêng của tôi luôn luôn như sau:
"Bà Blavatsky có những sự hiểu
biết về Huyền Bí
Học; và tôi sẽ nhận được những điều đó, nếu bà bằng lòng ban
cho tôi. Ngoài ra tất
cả những gì bà làm đều là việc riêng
của bà. Chính Sư Phụ của bà phán đoán những hành vi của
bà, chứ không phải tôi. Bà có thể
có những lý lẽ riêng để hành động. Như thế những lý lẽ đó
tôi không biết được. Bà hiểu biết mấy việc đó, bà nói về những
vị Chơn Sư ấy - Tôi muốn đạt được những sự hiểu biết như thế, và
nếu sức người có thể làm được, tôi đến quỳ dưới chân các Ngài".
Tôi từ bỏ
tất cả
để theo bà và tôi không bao giờ luyến
tiếc sự tin cậy mà tôi đã đặt nơi Bà Blavatsky. Tánh ưa chỉ
trích là một hiệu quả của
nghiệp báo nó không cho con
người học hỏi mau lẹ
như việc sẵn sàng chấp nhận điều gì hợp lý.
Nên nhớ rằng chúng ta không
thể cho Huyền Bí Học là một trò chơi, hành
động như thế, không có lợi chi cả và chúng ta còn mất ngày
giờ. Nếu Huyền Bí Học không tạo thành sự ích lợi lớn lao hơn hết
trong đời sống, thì nó vô
giá trị. Chúng ta không thể liệt
nó vào hạng thứ nhì, thứ ba, hay hạng thứ mười bảy trong
đời sống, như nhiều người tử tế cố gắng làm. Nó phải chiếm hàng
đầu trong đời sống và nhiên hậu trong tất cả những cái khác phải
tùy thuộc nó. Sự tin chắc rằng Đức Thầy biết đích xác những
điều ta phải làm và những lời nói của Ngài diễn đạt đúng đắn tư
tưởng của Ngài, đó là sự biểu thị lòng tin cậy của ta đối với
Ngài. Vậy nếu trong sách này, Ngài đưa ra vài nguyên tắc chính
xác, thì chúng ta phải hết sức tuân theo. Tôi biết điều đó hình
như khó khăn. Ấy cũng là một điều rất khó bảo người ta chấp
thuận. Người ta nói rằng: "Phải, Ngài đòi hỏi chúng ta phải thân
cận với nhau hoặc cái gì giống như thế". Lời nói của Đức Thầy
diễn đạt tư tưởng của Ngài. Nếu chúng ta không
tin Ngài, chúng ta sẽ thất bại, chúng ta phải tự trách lấy
mình. Trong khoa Huyền Bí Học, chúng ta phải tự
bỏ sự trả giá của cõi trần để đi vào ánh sáng của chân
lý, vượt ra khỏi thế giới của chúng ta để đi vào thế giới của
các Ngài.
Nếu không có lòng tin cậy hoàn toàn, thì tình thương và thần lực
không thể tuôn xuống một cách trọn vẹn.
C. W. L.
–
Nếu còn nghi ngờ về sự hiện hữu của Đức Thầy,
hoặc nghi ngờ chúng ta không bao giờ đi đến Ngài được hay là
không tiến bộ được, thì chỉ một mình sự ngờ vực này cũng đủ
khiến cho những sự rung động chuyển sang một chiều hướng xấu và
người hoài nghi đó không thể thành một vận hà
hữu dụng. Vậy thì đệ tử phải tin cậy Đức Thầy và thương
yêu Ngài. Đồng thời y phải
thương yêu nhân loại với một tình thương hoàn toàn vô tư. Ý muốn
không thay đổi của Đức Thầy là đạt được mục đích mà ít hao tổn
thần lực, hầu Ngài có thể tích trữ nó nhiều đặng dùng vào
những việc khác. Người nào ở trong tình trạng như tôi đã mô tả,
thì không phải là một vận hà tốt; và y không thể hữu dụng cho
Đức Thầy. Thật đáng tiếc cho chúng ta không được Ngài dùng lúc
Ngài cần sự giúp đỡ của chúng ta và những thể của chúng ta rung
động nghịch với ảnh hưởng
của Ngài, thay vì phải đem nó truyền sang cho kẻ khác.
Tôi nhớ đến trường hợp
của một người kia vô cùng mong muốn được là đệ tử của một Đức
Chơn Sư. Y đã phụng sự Ngài bằng nhiều cách và ước muốn lớn lao
của y là được thấy Ngài. Tôi đang ở nơi nhà y
khi Đức Thầy trong xác
thân đến thành phố y
cư ngụ. Tuy nhiên, Ngài
không vào nhà. Tôi gặp Ngài ở ngoài và nói chuyện lâu với Ngài,
nhưng Ngài không thể vào thăm người muốn làm đệ tử của Ngài, vì
đúng lúc ấy Thể Vía của người này đang kích động mãnh liệt vì
bị vài thứ dục tình đê tiện xâu xé. Thế là mất cơ hội duy nhất
của một kiếp sống, mà cũng có thể là cơ hội trong nhiều
kiếp nữa. Nếu
người này biết được Đức Thầy ở gần một bên, tôi chắc chắn
rằng tất cả dục tình sẽ rơi xuống tức khắc. Nếu Đức Thầy dùng
quyền năng của Ngài phá tan dục tình ấy để cho y thấy Ngài, thì
phải tốn nhiều thần lực của Ngài.
Đừng nghĩ
rằng Đức Thầy phiền
trách chúng ta vì
chúng ta không tin cậy hoặc
có những cảm tưởng khác tương tợ, hay vì Ngài tỏ ra khó khăn không
chịu phí thì giờ để phá tan trận bão lòng của người chí nguyện
để giúp y. Ngài chỉ làm những gì hữu ích nhất cho công việc của
Ngài mà thôi. Không có một
lý do tình cảm nào làm cho Ngài thay đổi chiều hướng. Trong những
tình trạng nghiêm trọng, phải dùng người giỏi nhất,
dù y có phải là bạn hữu hay là không phải cũng thế, nếu
gạt người ấy qua một bên để chọn một kẻ kém khả năng hơn vì lẽ y
là bạn thân của chúng ta, thì chúng ta không làm tròn bổn phận.
Chẳng hạn trong một trận đại chiến, muốn điều khiển những cuộc
hành quân hoặc để điều khiển Bộ nào hay Ban nào đặc biệt thì
phải dùng viên tướng giỏi nhất
hay là những người có biệt tài. Đây không phải là lúc dùng
chính sách thân thích để tìm một chỗ cho con
cháu của một nhân vật nào đó. Phải có người làm việc giỏi
nhất, vì quyền lợi tối cao cho mọi người là công việc
phải được thực hiện hoàn hảo, tốt đẹp.
Trong Huyền Bí Học cũng
thế: nếu công việc phải
được hoàn thành thì các Đấng điều khiển nó sẽ dùng người có đủ
tư cách nhất. Nhiều năm làm việc cho Ngài cũng không tạo thành
quyền đòi hỏi được Chơn Sư
giúp đỡ, hoặc được các Ngài để ý đến. Bổn phận của Đức Thầy
là chọn người có thể hoàn
thành công việc, dù y là
người mới đến với Ngài hay
đã phụng sự Ngài nhiều năm.
Bất cứ là ai khi để việc
làm lên trên tất cả lại không vui mừng
khi thấy kẻ khác thực hiện được nó tốt đẹp hơn
mình? Đã lâu lắm rồi Ông Ruskin
có nói về một công việc nào đó như sau: "Dù đó
là công việc của tôi,
việc của bạn hoặc của một kẻ khác, thì có quan hệ gì? Nó đã
thành công". Bạn đừng do dự tuyên bố việc đã thành công, dù chính
bạn thực hiện nó, bạn cũng đừng quên nhìn nhận tác phẩm toàn
hảo hơn do kẻ khác hoàn thành vì cá nhân của tác giả không có gì
là quan trọng. Trong tác phẩm của Ông
Ruskin người ta nhận thấy nhiều đoạn rất đặc sắc. Tôi nghĩ
rằng ông không biết chi về Huyền Bí Học cả; vả lại tôi cũng dốt
về khoa ấy trong thời kỳ tôi biết ông, nhưng nhiều trang trong tác
phẩm ông đã mang thực sự
tính cách của khoa Huyền Bí
Học.
Con cũng phải tin cậy con nữa. Con nói rằng con tự biết con quá rõ
rệt về điều đó ư ? Nếu đó là tình cảm của con, thì con không tự
biết con đâu. Con chỉ biết lớp vỏ bên ngoài thường dính bùn dơ,
còn con, thật con, là một Điểm Linh Quang của Đức Thượng Đế và
Đức Thượng Đế toàn năng ngự trong
mình con, và vì lẽ đó mà không có điều gì con không thể
làm được, nếu con có ý chí. Con phải tự nói: "Điều gì con người
đã làm rồi, thì con người có thể làm lại được. Tôi là con người,
mà tôi cũng là Thượng Đế ở trong con người nữa. Tôi có thể làm
được việc nào đó và tôi muốn làm". Nếu con muốn bước vào Đường
Đạo, thì ý chí của con phải cứng rắn như thép đã trui.
A. B.
–
Khi đem những lời giáo huấn mà chúng ta mới bình luận
trình bày cho vài
người và khuyên họ từ bỏ những sự điên rồ, những sự lầm lạc về
hạnh kiểm của họ thì đôi khi họ đáp lại rằng: "Tôi không thể làm
gì được, đó là bản tính của tôi". Nhiều người dùng lời cáo lỗi
này để né tránh. Nếu bạn viện lẽ như thế, thì bạn
sẽ không thật đúng đắn, nhưng bạn phải thật đúng đắn. Bạn
không thể đùa giỡn với những vấn đề nghiêm trọng đó. Dẫu mục
đích mà bạn chọn lựa thế
nào chăng nữa, sớm hay muộn bạn sẽ đạt được nó.
Nếu bạn nói: "Tôi không
thể làm được điều gì" thì chắc chắn
bạn không làm được, bởi vì tư tưởng này làm tê liệt bạn.
Đó là một lỗi lầm rất tai hại, nó ngăn cản mọi sự tiến bộ và
làm cho bạn đứng yên lại
một chỗ trong nhiều tháng hay nhiều năm. Như thế chẳng khác nào
một người tự cột chân mình vào một sợi dây rồi nói:"Tôi không đi
được". Dĩ nhiên, đúng như thế, vì y đã ra sức
tự trói mình y. Hãy
tháo dây ra, nếu y không muốn ngồi một chỗ, rồi y sẽ sử dụng được
đôi chân khá dễ dàng. Bạn có thể làm được. Bạn hãy từ bỏ tư
tưởng lầm lạc mà bạn đã để nó làm cho bạn tê liệt. Bạn hãy
nghĩ trong trí là bạn có
thể hành động và bạn có thể hành động hữu hiệu, rồi sự tiến
bộ nhanh chóng của bạn sẽ làm cho bạn ngạc nhiên. Nếu bạn không
đồng ý như thế, chỉ vì bạn không đúng đắn, hoặc ít ra không được
đúng đắn như ý Đức Thầy muốn. Bạn chỉ giả vờ là người đúng
đắn. Tôi không nói rằng bạn không cố gắng, nhưng sự cố gắng đó
không có gì đáng kể.
Bạn sẽ hiểu ý tôi khi áp
dụng mấy sự nhận xét trên đây vào những vấn đề thuộc về đời
sống xã hội, vào nghề nghiệp để nuôi vợ con. Bạn biết rất rõ
rằng trong vấn đề này nếu có một chướng ngại nào chận đường
bạn, thì bạn nhất định vượt qua nó tức khắc và bạn sẽ dùng hết
sức mình vào việc đó. Bạn sẽ không ngồi xuống và nói: "Tôi không
thể làm gì được". Bạn hãy lấy một ít sự đúng đắn để áp dụng
vào vấn đề này, bạn sẽ đúng đắn trong tất cả những việc ít
quan trọng. Một công
việc, nếu có vẻ nghiêm trọng là tại người ta làm công việc đó
không thật sốt sắng.
Rất vô ích mà cầu xin Đức
Thầy trợ giúp bạn, nếu bạn không cố gắng thoát ra khỏi sự khó
khăn. Như thế giống như việc bạn
cầm cái tách mà bạn lấy tay đậy kỹ lại rồi cầu xin nước.
Khi nước rót xuống nó chảy trên bàn tay của bạn, rồi tràn ra chung
quanh cái tách, bạn không
hứng được miếng nước nào cả. Bao giờ một người cố gắng làm hết
sức y, tức là y hành động theo cách thức Huyền Bí Học vậy. Có
lẽ kết quả của sự cố gắng không biểu hiện ngay trong ngoại giới,
nhưng y đang súc tích năng lực, cuối cùng nó sẽ qui định
sự thành công.
Điều gì bạn
phải làm vốn đã được hoàn thành rồi và còn có thể thực
hiện lại nữa, khi nào bạn tự cho rằng bạn bất tài, thì bạn thật
sự bất lực. Trái lại, nếu bạn tự nói rằng: "Những việc này
phải làm, tôi sẽ làm", rồi
bạn sẽ thực hiện được. Hãy quyết định như thế. Tư tưởng của bạn
sẽ thành một vị thần hộ mạng luôn luôn ở bên cạnh bạn để bảo
đảm sự thành công. Trái lại, như
người Công Giáo đã nói: Ở kề bên
bạn có một con quỷ do tư tưởng của bạn đã sinh
ra nó. Sinh ra những
con quỷ như thế thật vô ích. Tốt hơn nên sinh ra một vị Thiên Thần,
một hình tư tưởng lớn: "Tôi làm được và tôi muốn làm".
C. W. L.
–
Quả thật là con người có thể hoàn thành tất cả những gì mà y
muốn, nhưng không thể nói rằng y sẽ thành công
tức khắc. Đó chính là điều mà đôi khi người ta lầm lạc. Tôi
biết điều này rất rõ, vì tôi nhận được nhiều bức thư gởi đến cho
tôi do những người lâm vào
những hoàn cảnh khó khăn, nghiêm trọng, thí dụ thành ra nô lệ của
rượu chè hay là những chất ma túy khác, những ám ảnh khác.
Thường thường họ nói với tôi rằng: "Tôi không còn nghị lực nữa.
Nó đã mất rồi. Tôi không thắng nổi những khó khăn của tôi. Phải
làm sao bây giờ"? Phải gặp những trường hợp như thế mới biết được
những nỗi khủng khiếp của những sự mê sa ấy ảnh hưởng đến con
người như thế nào, chúng nó tiêu diệt ý chí con người và không cho
con người làm được việc chi cả.
Trong những trường hợp đó
đôi khi người ta nghĩ đến sự hủy mình. Đó là định kiến rất tai
hại. Một người dù bị cụt tay cụt chân, tàn phế suốt đời, y cũng
phải lợi dụng những dịp may có thể còn lại, phải thu góp toàn
lực và tiếp tục dũng cảm phấn đấu. Sự tự
tử sẽ đem đương sự
trở lại tình
trạng mà y muốn trốn tránh, chưa kể Quả Xấu do hành động
ấy gây ra. Kẻ thất vọng phải tự nói rằng ý chí của mình vẫn
tồn tại, nó là ý chí của Đức Thượng Đế biểu hiện trong mỗi
người. Song nó cần phải được khai thông, phát triển, điều đó có
thể thực hiện dần dần. Sự tân tụy của một người bà con hay một
người bạn thân thật giàu tình thương và nhẫn nại trong một trường
hợp như thế có thể hành động như một ân huệ thật sự.
Người ấy đã làm gì để
rơi vào tình trạng như thế? Có lẽ trọn trong kiếp này, hay có lẽ
trong một hai kiếp trước, y đã tự ý nhượng bộ tinh chất dục vọng,
chiều theo sự cảm dỗ của bản tánh thấp hèn và bằng lòng làm nô
lệ cho nó. Trước nhất, có thể chống
chọi lại, nhưng khi thế lực xấu không gặp sự
kháng cự nào cả, sức mạnh của nó gia tăng đến đỗi y không
thể nào ngăn chận nó lại được tức khắc. Tuy nhiên y có thể bắt
đầu làm việc đó. Chúng ta hãy lấy một thí dụ một người kia đẩy
một toa xe lửa. Trong một
nhà ga ở tỉnh, nơi người ta có đủ thì giờ, bạn có thể thấy một
người phu đẩy một toa xe lửa từ đường rầy này sang đường rầy
khác. Bạn thấy y làm như thế nào? Đồ vật cồng kềnh và nặng đến
hàng tấn, y đẩy liên tục, nhưng ban đầu nó không nhúc nhích. Nhưng
kìa, nó đã bắt đầu chuyển động. Y cứ đẩy luôn và sự chuyển động
tăng dần. Bây giờ người ta lại tìm cách dừng xe lại, nhưng không
thể làm cho nó dừng ngay được. Nếu y
không tránh, thì nó đụng y té nhào và cán nát y. Y tiếp tục cố
sức chống lại nó, và thuận theo chiều của nó, cuối cùng y làm
cho nó dừng lại được. Y đã tiêu hao một số năng lực nào đó mà y
không thể lấy lại được, nhưng y có thể trung hòa nó bằng một năng
lực tương đương.
Người nào tự nộp mình cho
tinh chất dục vọng sẽ rơi vào
tình trạng như
thế. Y đã truyền vào nó một sức mạnh lớn lao, bây giờ y
phải kháng cự lại nó. Người ta sẽ nói: "Sức mạnh này quá lớn".
Đúng thế, nhưng nó không phải là vô biên. Nếu con người có thể
xét việc đó không phải theo tình cảm, nhưng theo quan điểm
trừu tượng như một bài toán, thì y sẽ không nói: Tôi là một con
sâu thấp kém và mãnh lực này quá lớn đối với tôi", nhưng ra sức
chống lại nó. Y có thể tuyệt đối chắc chắn rằng sức mạnh mà y
đã truyền vào tinh chất dục vọng chỉ có giới hạn. Nhưng hiện
giờ, y có một sức mạnh vô
lượng, vô biên dành cho y. Vì chúng ta là những Tia Lửa Thiêng, toàn
lực của Thượng Đế giúp đỡ
chúng ta, chỉ có chút ít lực đó truyền qua chúng ta một lần thôi,
nhưng nó tuôn xuống không ngừng.
Tất cả những điều này
phải được xét theo quan điển của Chơn Nhơn, Chơn Nhơn có thể làm
những chuyện đó và Ngài sẽ làm. Trong địa hạt phát triển Huyền
Bí Học không có công việc nào đáng
làm mà lại có thể
thành đạt ngay được. Âm nhạc
trong tâm hồn trổi lên cũng
chưa đủ, mà lỗ tai và đôi bàn tay phải luyện tập có phương pháp
mới làm cho chúng ta thành
một vận hà thích hợp cho quyền năng của âm nhạc. Vậy Chơn Nhơn
phải bền chí luyện tập những thể của nó.
Đôi khi người ta nói: "Nếu
bây giờ tôi không thắng được thói xấu đó, tôi sẽ chờ đến ngày tôi
thay đổi thể xác khác". Nói như thế là quên rằng xác thân kiếp sau
sẽ có tính khí và tư chất y như xác thân hiện giờ, nếu người ta
không chịu làm gì để sửa đổi nó, và tình trạng đáng
tiếc sẽ tiếp tục trong thể xác kiếp sau đó. Trái lại,
quyết định chiến đấu với chúng bây giờ, và thí dụ chúng
nó thống trị con người đến ngày cuối cùng của kiếp này đi nữa,
trong kiếp tới con người cũng sẽ được một thân xác thật tốt đẹp
hơn. Đối với các cõi cao
cũng giống như thế. Vì hạnh
kiểm xấu xa, một người kia có
thể làm tổn hại Thể
Trí của y nặng nề đến
đỗi nó không phục hồi được tình trạng cũ của nó nữa, tuy
nhiên, nếu nhất quyết phấn đấu chống lại tật xấu, trong kiếp tới
y sẽ được một Thể Trí tốt đẹp, thay vì một thể đầy những tật
xấu đã làm cho y đau khổ. Trong trường hợp này, cũng như trong
trường hợp khác, sự phấn đấu chính yếu vốn ở ngay buổi đầu; sự
tin cậy tăng trưởng và sau đó phát triển.
Nếu có nhiều người muốn
đem yếu tố tình cảm vào sự tương giao giữa họ với Đức Thầy, thì
những người khác lại muốn thoát
khỏi những sự báo ứng của định luật thiên nhiên. Họ muốn
tức khắc được giải thoát mọi tội lỗi, mọi sự khổ nhọc của họ.
Người Công Giáo thuộc hạng đa cảm sẽ nói
rằng: "Chính ngay giờ phút này bạn được
cứu rỗi nhờ máu
của Đức Jésus. Bạn sẽ được tuyệt
đối thoát khỏi mọi phiền não và nó hình như không bao giờ
có đối với bạn. Viễn ảnh ấy có phần hấp dẫn về vài phương
diện, nhưng nó đã sai lầm. Sự thật như thế này: Khi bạn
quay về đường khác,
bạn thuận theo chiều hướng tốt lành của Thiên Ý, thì bạn giải
thoát được tất cả những sự khốn khổ, phiền não trong lòng bạn do
sự chống lại Thiên Ý mà sinh ra. Nhưng không phải vì thế mà những
hậu quả bên ngoài của những
hành động đã qua của bạn được xóa bỏ. Bạn đã hoàn thành sự
biến đổi, bạn là con người đã cải hoán và giờ đây bạn đang dấn
thân vào con đường tốt đẹp.
Nhưng bạn còn phải chịu hậu
quả tai hại do chiều hướng sai lầm của bạn trước kia.
Chỉ trong chốc lát cũng
đủ thay đổi thái độ của bạn. Dĩ nhiên bạn được ân xá rồi. Trên
phương diện tinh thần, không có chi
chống đối lại bạn nữa. Bạn đã được miễn tố. Nhưng một linh
mục chính thống giáo không ngần ngại mà nói với bạn rằng: "Tôi
không tự phụ xóa được hậu quả của những hành vi xấu. Nếu bạn đã
sống một cuộc đời truỵ lạc, nếu bạn đã làm sức khoẻ của bạn
suy kém, tôi không thể
làm gì được. Nhưng hậu quả này vẫn còn lưu lại và sự sám
hối của bạn là sự rán sức bổ chính lại những sự hư hỏng. Điều
mà tôi có thể tu chính lại được là sự phạm tội lỗi. Nói theo
danh từ của Giáo Hội, bạn đã chống lại Đức Chúa Trời; tôi có
thể chấm dứt việc đó. Ở
đây sự ân xá của tôi sẽ đem lại sự lợi ích cho bạn. Đó là quyền
năng của ý chí cao siêu đã thay thế cho dục vọng thấp kém. Nó sẽ
dẫn dắt bạn đến chỗ bạn muốn đến; nó sẽ giúp bạn ở lại trong
con đường chơn chánh. Nhưng những hậu quả vật chất vẫn
tồn tại". Riêng cá
nhân bạn, bạn có thể sửa đổi thái độ của bạn. Vị linh mục có
thể đem bạn về với chánh đạo trên cõi cao hơn, là nơi bạn không có
quyền năng. Tôi không nói chúng ta không thực hiện điều này một
mình được, nhưng chúng ta sẽ làm với một sự cố gắng lớn lao, một
cách vụng về và thiếu khoa học. Đó là ảnh hưởng xâu xa của sự
xá tội. Nhưng nó không thể miễn trừ
cho con người hậu quả của tội lỗi do y đã gây ra. Định luật
thiên nhiên chống đối lại điều đó.
Còn một
nhận xét khác cần phải thêm vào : Bao giờ chúng ta chưa khai
mở được ý chí và tự
chủ được, thì chúng ta chưa thể thực hiện sự hiến mình cho
Đức Thầy. Người ta nói rằng: "Tôi hiến mình trọn vẹn cho Đức
Thầy". Nhưng phải chăng là hiển nhiên người ta không thể nào hiến
dâng hoàn toàn khi một phần nào cái Ngã
đã bị những tánh xấu xâm nhập. Đây còn là một lý do để cho
chúng ta mở mang ý
chí. Đức Thầy nói rằng ý chí phải giống như thép đã trui. Tôi
nhớ rất rõ trong một dịp, vì Alcyone không biết nghĩa mấy chữ
này, nên cần phải cụ thể hóa một chút để giải nghĩa cho em hiểu.
Chẳng phải có một ý chí
như sắt đá, mà phải có một ý chí bằng thép, một ý chí không có
gì lay chuyển nổi. Ý chí đã sẵn sàng; quyền năng thiêng liêng cũng
ở trong mình ta. Chúng ta chỉ cần khai mở và tự điều khiển lấy
mình. Lúc ấy chúng ta mới có thể đặt dưới chân Đức Thầy cái ý
chí đó như một món quà tuyệt đẹp vô cùng vinh quang.
LÒNG TỪ ÁI
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI BỐN
�
Y
�
SỰ GIẢI THOÁT, CÕI NIẾT BÀN VÀ VÒNG SINH TƯ.
Trong tất cả những đức tánh cần thiết, tình bác ái là quan trọng
hơn cả, bởi vì khi nó khá mạnh nơi một người nào thì nó bắt y
phải đạt cho được các đức tánh khác, và nếu không có tình bác
ái, các đức tánh khác cũng không đủ vào đâu. Người ta thường giải
thích tình bác ái như là một ý muốn mãnh liệt được thoát khỏi
vòng sinh tử và hiệp nhất với Đức Thượng Đế. Nhưng giải thích như
thế là xen tánh ích kỷ vào và giải thích có một
phần mà thôi.
C. W. L.
–
Chúng ta đã nói rằng trong quyển sách này những
đức tánh không
được phiên dịch
theo cách thông thường. Trong những sự khác biệt này, có một
chỗ quan trọn hơn hết là
dịch chữ moumoukshatva ra chữ Bác Ái. Cội rễ chữ này là
mouch, có nghĩa
là "phóng thích hay giải thoát". Trong hình thức được mong
cầu, có phần trùng điệp và
những sự thay đổi khác nữa, để thành chữ moumouksh là "muốn
được giải thoát". Moumouksha
là danh từ, có nghĩa là "muốn được giải thoát". Sau cùng
moumoukshatva nghĩa là "tình trạng của người ước mong được giải
thoát". Phần cuối twa gần
giống như chữ Anh là ness, như
trong chữ "eagerness". Từ cội rễ
ấy sinh ra chữ Moksha, là "sự giải thoát","được tự do"
hoặc "sự giải phóng".
Người ta thường hỏi có
phải Moksha đồng nghĩa với Nirvâna, Niết Bàn không? Hai chữ
ấy khác nghĩa nhau, nhưng chúng ta có thể dùng làm thuộc từ cùng
một tình trạng của đời sống hay là cao
hơn tình trạng mà chúng ta gọi là đời sống. Chữ Nirvâna có
cội rễ va, gắn liền
với tiếp
đầu ngữ
nis,
là "thổi tắt" hay "dập tắt bằng
cách thổi". Vậy nó được phiên dịch là "thổi tắt". Moksha là
thoát vòng sinh tử. Nirvâna là do sự thổi tắt tận diệt những gì
thuộc về nhân tánh, tức là những gì chúng ta thường cho là thuộc
về Bản Ngã, đã trói buộc con người vào bánh xe Luân Hồi. Vài
người Ấn Độ quan niệm Moksha như một trạng thái tiêu cực. Họ cố
gắng hủy diệt mọi sự ước muốn cá nhân, mọi quyền lợi của con
người. Như thế không có một sự
quyến luyến những vật nào hoặc những người nào có thể kéo
họ lại đời sống hồng trần. Họ đã thoát khỏi bánh xe sinh tử luân
hồi, trong một thời gian lâu dài. Tuy nhiên, đa số người Ấn lại
nghĩ Moksha như một trạng thái toàn phúc không thể diễn tả, theo
sau trạng thái ảo ảnh của sự chia ly, được gọi là trạng thái
Kaivalya là trạng thái độc lập, là đơn vị tuyệt đối. Đối với vài
người Phật Giáo, Niết Bàn hủy diệt hoàn toàn con người. Trái
lại, đối với vài người khác, Niết Bàn chính là sự nhận được sự
minh triết và sự thụ hưởng phúc lạc, nó xóa bỏ mọi ý niệm xưa
về Bản Ngã và về những kinh nghiệm của cái Ngã, vì nó tuyệt
nhiên không thể mô tả được. Vậy người ta thấy rằng cùng thuộc về
một tôn giáo, con người cũng có nhiều ý kiến khác nhau.
Những
người Thông Thiên Học như chúng ta, đôi khi áp dụng danh từ
Niết Bàn cho trạng thái tâm thức đặc biệt trên cõi Niết Bàn hay
cõi tinh thần, nhưng chúng ta
hiểu Niết Bàn là một trạng thái của bậc siêu nhân hay các vị Chơn
Tiên đạt được năm lần Điểm Đạo. Các Ngài đã chọn một trong bảy
con đường mở ra trước mắt Ngài, con đường ấy rất giống cõi Niết
Bàn thật sự của người Phật Tử - chứ chẳng phải là "Sự thổi
tắt" của Phật Giáo Nam Tông (Tiểu Thừa), nhưng nó là sự
an nghỉ và phúc lạc vô biên của Phật Giáo Bắc Tông (Đại
Thừa).
Vị La Hán là người đã
được bốn lần Điểm Đạo. Vị ấy có thể đem tâm thức lên cõi Niết
Bàn và thực nghiệm sự sống tràn ngập
ở cõi này như tôi đã mô tả trong quyển
The Inner Life (Đời Sống
Nội Tâm) và quyển The
Masters and the Path (Chơn Sư và Thánh Đạo). Tâm thức ấy siêu việt
hơn tất cả những điều mà chúng ta
biết ở dưới trần, cho
đến đỗi người ta ái ngại gọi đó là Tâm Thức. Vị La Hán có một
Tâm Thức mở rộng lớn lắm. Người không còn tánh chia rẽ nào cả.
Không có sự cố gắng nào có thể diễn tả những ý niệm này bằng
lời nói, vì chúng ta không có những danh từ để diễn đạt.
Thật hết sức khó mà dịch
cho đúng nghĩa những tác phẩm chữ Phạn. Người nào mới tiếp xúc
phớt qua Tâm Thức của cõi Niết
Bàn sẽ hiểu hơn những kẻ khác về ý nghĩa của nó và những
tác giả xưa đã mô tả vì
đã có kinh nghiệm rồi. Người ta không thể nhờ
một quyển tự điển giải nghĩa đích xác về những danh từ
ấy. Bạn hãy tưởng tượng một người không biết chi về Thiên Chúa
Giáo, cố gắng hiểu nghĩa một danh từ như chữ "la grâce" (ân trên, ân
huệ). Nếu tra tự điển, y sẽ gặp chữ "gracile" (mãnh mai) hoặc
"gracieux" (kiều diễm), chúng có nghĩa hoàn toàn khác biệt nhau.
Cũng giống như chữ "dispensation" (sự miễn trừ) của Giáo Hội, có
ý nghĩa thật khác xa với dispensation theo ý nghĩa thông dụng ngoài
đời. Mỗi đạo giáo có một
số ngôn ngữ đã mang một ý nghĩa tôn giáo đặc biệt theo thời
gian. Rất khó mà hiểu biết những ý niệm ấy một cách đúng đắn,
trừ phi chúng ta là người theo tôn giáo đó ngay từ thơ ấu và đứng
về phương diện bên trong. Buổi đầu của phong trào Thông Thiên Học,
trong chúng ta không ai biết tiếng Phạn cả. Bà Blavatsky khá thông
thạo về những tôn giáo Ấn Độ,
nhưng bà không biết
chữ Pâli (Nam Phạn) cũng như
Sanscrit (Bắc Phạn). Phương pháp của bà là cố gắng hết sức diễn
tả những gì chính bà thấy
được, rồi hỏi một bạn Ấn Độ nào đang có mặt: "Bạn
gọi điều đó là gì trong hệ thống của bạn"?. Thường thường
người ta không hiểu rõ điều bà muốn nói, nhưng y cho bà một chữ
gần đúng nhất. Lần kế bà cần một danh từ, bà hỏi một người
khác, nhưng bà quên người thứ nhất có thể là người Ấn Giáo và
người thứ nhì là Phật Giáo, hoặc những người Ấn Giáo khác có
thể thuộc về những trường
triết học khác nhau.
Hơn nữa, Bà Blavatsky không
phải là một giáo sư khoa học,
trình bày một lý thuyết, rồi minh chứng bằng những thí
nghiệm thích nghi và đưa ra những bằng cớ lần lượt theo sự diễn
tiến. Bà không làm việc theo một kế hoạch nào hay một khuôn khổ nào, sẵn sàng nhận
lãnh những sự hiểu biết mới. Bà đưa ra nhiều xác nhận, nhưng ngôn
ngữ lại không thể phù hợp với nhau và bà trả lời với những
người xin bà giải nghĩa rành rẽ như sau: "Đừng bận tâm đến sự mâu
thuẫn. Hãy suy nghĩ về những gì tôi đã nói mà thôi". Ý tưởng của
bà minh bạch phi thường và sự hiểu biết của bà không ai chối cãi
được.
Phương pháp của bà trái
ngược với phương pháp của thời đại chúng ta là trước hết giải
thích kỹ lưỡng những từ ngữ rồi sau đó mới qui cho nó một ý
nghĩa cố định. Theo đó, e rằng khoa học và triết học trở thành
một thứ đồ chơi như cờ tướng, mà nước đi của mỗi con cờ đều đúng
theo qui tắc. Đối với bà, ngôn ngữ là những sinh vật sống động
(có thể nói là hình tư tưởng ở cõi trần) dùng để khêu gợi trong
Trí của thính giả những sự hiểu biết có sẵn trong Trí của bà.
Muốn hiểu biết tất cả
những mối liên hệ phức tạp giữa Chơn Nhơn và
Phàm Nhơn, trước hết chúng ta phải biết đích xác những điều
đó là cái gì? Vấn đề này đã được phô diễn rất dài dòng trong
văn chương Thông Thiên Học lúc mới phổ biến giáo lý của Hội, cũng
như trong thời gian gần đây. Tôi đã đề cập đến điều đó trong quyển
Chơn Sư và Thánh Đạo. Để tóm
lược những ý tưởng của chúng ta một cách vắn tắt và giản dị,
chúng ta có thể quan niệm trong con người ba trạng
thái mà Thánh Paul đã nói từ lâu, đó là: thể xác, linh hồn
và tinh thần. Danh từ Thông Thiên Học
tương ứng là: Phàm Nhơn, Chơn Nhơn và Chơn Thần. Chơn Thần vốn
thật là thiêng liêng, nó là tia sáng của ngọn đèn vĩnh cửu, và
về tất cả các phương diện
nó là một phần tử của Đức Thượng Đế. Thật ra, lẽ tự nhiên theo
một ý nghĩa cao hơn hết, tất cả đều là
phần tử của Thượng
Đế; không có gì hiện hữu mà không phải là Ngài và điều này đúng
thật từ vật chất đến tinh thần. Tuy nhiên
một ý nghĩa rất đặc biệt trong đó người ta có thể cho rằng
Chơn Thần như một phần nhỏ của Thượng Đế xuống cõi trần hiện ra.
Tôi biết rất rõ là không đúng với triết lý, không đúng với khoa
học, mà cũng không đúng khi
nói đến một phần của cái
bất khả phân ly nhưng vì chúng ta thiếu ngôn ngữ diễn tả những
trạng thái các cõi cao, nên tất cả điều gì chúng ta có thể nói
đều tuyệt nhiên không thích hợp, do đó còn đưa đến chỗ sai lầm
nữa. Vài tác giả đã cho rằng Chơn Thần là phản ảnh của Thượng
Đế và Chơn Nhơn như một phản ảnh của Chơn Thần, còn Phàm Nhơn là
đại diện của Chơn Nhơn. Về phương diện diễn tả theo ý nghĩa ấy có
những ích lợi của nó, tuy
nhiên tôi thấy dường như nó giải sự liên hệ thật sự
ít đúng hơn định nghĩa sau đây: Chơn Thần có thể được xem như
một phần tử của Thượng Đế,
Chơn nhơn là một
phần tử của Chơn Thần, và đến lượt Phàm Nhơn, nó là một
phần tử của Chơn Nhơn.
Đức Thượng Đế của hệ
thống chúng ta vui lòng
phóng ra một số lượng vĩ đại Chơn Thần từ trong lòng Ngài. Đó là
phần việc của sự phát
triển vô tận. Nếu chúng ta
được phép dùng sự so sánh này với tất cả tấm lòng tôn kính, thì
Chơn Thần tuôn xuống từ Đức Thượng Đế như những tia lửa sau
khi xuyên qua các cõi
vật chất, rồi sẽ trở về với Ngài như vầng Thái Dương vĩ đại rực
rỡ. Mỗi vầng Thái Dương có khả năng ban sự sống và ánh sáng cho
một hệ thống mỹ lệ mà trong đó và nhờ phương thế đó hàng triệu
Chơn Thần khác tới phiên chúng nó, có thể lần lượt phát triển.
Cái cao độ kỳ diệu đó,
nguồn gốc của sự biểu hiện thiêng liêng này được gọi là Chơn
Thần, không thể diễn tả được bằng danh từ của chúng ta trên một
cõi nào. Nhưng dường như cõi thấp nhất mà Chơn Thần có thể xuống
tới trong cuộc vận hành ly tâm của nó là cõi mà chúng ta gọi là
cõi Chơn Thần. Người ta nhớ rằng trong bản danh mục của Bà Hội
Trưởng tôn kính của chúng ta có kể
cõi cao nhất trong bảy cõi mà người ta đã dạy chúng ta,
được gọi là cõi Thiêng liêng. Cõi thứ nhì (đi xuống dưới), là cõi
của Chơn Thần; cõi thứ ba
là cõi Tinh Thần và cõi thứ tư là cõi Trực Giác. Nhưng muốn hoàn
thành Thiên Ý, cần phải đi xuống nữa trong cõi vật chất. Dường như
Chơn Thần không thể xuống thấp nữa
được, song nó có thể
phóng ra và thật sự nó đã phóng ra cái mà chúng ta gọi là một
phần hay một mảnh của Chơn Thần, có thể
đi xuống tới ba cảnh cao của cõi Trí Tuệ. Trên đường đi
xuống, mảnh ấy tự biểu hiện trên cõi Tinh Thần hay cõi Niết Bàn
như là Atma Tam Vị. Từ đó, vị Thứ
Nhất ở lại cõi niết Bàn, trong khi vị
Thứ Nhì đi xuống cõi
Tực Giác và tự bao bọc bằng chất Bồ Đề. Vị Thứ Ba, hay trạng
thái hoặc sự biểu lộ thứ ba, xuống cõi thấp kế đó và ngự
trị tại cảnh cao của cõi Trí Tuệ. Ta gọi đó là Manas
Supérieur
[92].
Vậy Chơn Nhơn (danh từ chỉ mảnh của Chơn Thần phóng xuống) gồm có
Atma, Buddhi và Manas, mà chúng ta dịch
một cách vụng về ra Anh văn là: Ý Chí Thiêng Liêng, Minh
Triết Trực Giác và Trí Thông
Minh Linh Hoạt.
Sau cùng Chơn Nhơn phóng
xuống một mảnh thật nhỏ bé
của nó xuyên qua cõi Hạ Thiên và cõi Trung Giới, rồi biểu lộ trong
một xác thân. Mỗi lần
đi xuống liên tiếp như thế là một hạn chế không thể diễn
tả nổi. Như
thế con người mà chúng ta gặp dưới thế gian trong cõi hồng
trần này, chỉ là một mảnh vụn, là một biểu hiện hết sức bất
toàn về Con Người Thật mà chúng ta không thể quan niệm nổi; dù
bằng ý tưởng mơ hồ nhất, lúc con người sẽ đi đến mức cuối cùng
của cuộc tiến hóa.
Những Chơn Nhơn mà chúng ta
giao thiệp hằng ngày vốn thuộc nhiều giai đoạn khác nhau của con
đường tiến hóa thăm thẳm lạ
kỳ này. Trong tất cả các trường hợp, trước tiên Chơn Nhơn ở tại
cõi của nó như chúng ta đã nói, ấy là ba cảnh cao hơn hết ở cõi
Thượng Giới hay là cõi Trí Tuệ. Ở cõi này, nó hoàn toàn riêng
biệt với sự biểu hiện của nó là Phàm Nhơn. Nó có thể thức tĩnh
đã lâu rồi, ý thức được những gì ở chung
quanh nó và sống một cuộc đời siêng năng cần mẫn. Trái lại,
nó có thể nửa mê nửa tĩnh, hầu như hoàn toàn vô ý thức đối với
những gì ở chung quanh nó. Vì vậy, nếu nó có thể sống một cuộc
đời ít nhiều hoạt động, thì chỉ do Phàm Ngã của nó ở những
cảnh rất thấp thôi. Con người càng nâng tâm thức của mình xuyên qua
những cảnh giới khác nhau, thì y sẽ thấy sự rung động của mỗi
cõi trên nhanh chóng hơn sự rung động của cõi dưới kế nó. Khi nói
rằng Chơn Nhơn đã phát triển trên cõi của nó, chúng ta cũng muốn
nói rằng nó đã đáp ứng với tất cả những sự rung động của cõi
này một cách đầy đủ. Nếu
nó không ý thức đúng mức, thì những rung động thật nhanh sẽ lướt
qua nó và không cảm được nó. Muốn ý thức được, Chơn Nhơn bị bắt
buộc xuống thấp nữa và mượn một thể bằng chất khí nặng nề hơn
mới có thể nhận thức được những rung động của cõi này. Sự thực
tập lâu ngày trong cõi thấp ấy, giúp nó dần dần đáp ứng được
với những rung động cao hơn
ở cõi ấy, rồi theo từng bực một cách thật chậm chạp, nó ứng
đáp được với những sự rung động cõi trên kế đó. Như thế, tâm thức
phải tự khai mở cho nó một con đường từ
bậc này đến bậc khác.
Vậy trong Phàm Nhơn, tâm
thức con người phải không ngớt hướng lên Chơn
Nhơn, và khi tâm thức của Chơn Nhơn nhờ cách đó phát triển
trọn vẹn rồi, thì đến lượt trong lúc đi lên, nó sẽ hướng về Chơn
Thần. Trong toàn thể sự tiến dần xuống thấp để nhập vào vật
chất, bên Ấn Độ gọi là Pravritti Marga hay con đường ra đi. Khi đến
điểm thấp nhất cần đạt được, thì con người đi vào con đường
Nivritti Marga hay con đường trở về. Sự gặt hái trong ngày đã hoàn
tất, con người trở về mang theo những bó lúa. Nói một cách khác,
con người đã có được một tâm thức hoàn toàn thức tĩnh. Tâm thức
ấy làm cho y trở nên vô cùng hữu
dụng trên cõi cao siêu mà y không thể làm được điều
đó, trước khi nhập vào cõi vật chất. Trên đường trở về,
phần thấp thỏi của Chơn Nhơn
luôn luôn bị cám dỗ, nên nó quên mất sự liên lạc của nó với phần
cao siêu, và nó hoàn toàn đồng hóa với sự biểu hiện thấp kém mà
nó ý thức được một cách mãnh liệt hơn. Như thế, chính nó đã tự
bít lối con đường dẫn đến sự biểu hiện cao siêu, vì nó đã tự
lập nghiệp riêng cho nó ở thế gian. Tóm lại, Chơn Nhơn
là một phần tử của Chơn Thần, Chơn Nhơn cũng bị cám dỗ như
thế trên cõi cao hơn
nhiều. Nhưng hiện giờ chúng ta chỉ xét mối liên
hệ giữa Chơn Nhơn và Phàm Nhơn. Hơn nữa chúng ta xét từ
quan điểm của Phàm Nhơn ngước mắt nhìn lên Chơn Nhơn để cố
gắng hợp nhất với nó.
Chơn Nhơn kết hợp với Phàm
Nhơn vì nó khao khát những cảm giác mãnh
liệt. Nó chưa phát hiện trên cõi của nó, nó không
thể ứng đáp với những sự rung động nhanh chóng của cõi ấy.
Những làn rung động chậm chạp của cõi thấp cảm nó nhiều hơn nên
nó trở đi trở lại nhiều lần để thưởng thức. Càng tiến hóa, khát
vọng của nó càng suy giảm dần dần. Đôi khi Chơn Nhơn đã tiến hóa
cảm biết những thú vui và
những hoạt động tại cõi riêng của nó,
nó lại đi từ cực đoan này qua cực đoan khác và bỏ bê Phàm
Nhơn bị giam cầm trong vòng Nghiệp Quả và sa lầy trong những tình
trạng mà Chơn Nhơn vẫn biết mình đã vượt qua khỏi; nên Chơn Nhơn
chỉ thấy những sự buồn bực sầu não thôi.
Sự khát vọng của nó về
mấy cõi dưới cũng bớt dần theo sự tiến hóa của Phàm Nhơn. Khi
trở nên hoàn toàn ý thức trên cõi Trung Giới, nó bắt đầu thấy
đời sống ở cõi hồng trần dường như tương đối lu
mờ. Khi đến cõi Hạ Thiên, thì cõi Trung Giới trở nên ảm đạm
và u buồn đối với nó. Sau cùng cả ba cảnh
thấp nhất này mất cả sức hấp
dẫn của chúng, khi Chơn Nhơn bắt đầu thưởng thức được đời sống
còn mãnh liệt và huy hoàng hơn của Nhân Thể. Nhiều người đã đi
đến mức tiến hóa mà họ có thể di chuyển trên cõi Trung Giới trong
lúc ngủ để hoàn thành những công việc hữu ích tại cõi ấy. Tất
cả những sinh viên Huyền Bí Học đều có Thể Vía mở mang tốt đẹp
và sẵn sàng phụng sự, dù phần đông chưa có thói quen sử dụng nó.
Hạ Trí của họ cũng có trật tự và sẵn sàng hoạt động. Sự tham
thiền thường xuyên làm cho nó phát triển và khiến cho nó biết vâng
lời. Trong giai đoạn này, có thể dạy con người dùng thể ấy. Như
thế trong giấc ngủ, y có thể rời bỏ Thể Vía và xác thịt một
lượt. Khi công việc này đã hoàn tất, sự diễn tiến như thế được
lập lại trên cõi Thượng Thiên. Như thế Chơn Nhơn thức tĩnh trên
cõi riêng của nó.
Những thể thấp là những y
phục tạm thời mà chúng ta khoác
lấy để học hỏi cách dùng thần lực riêng biệt trên cõi của
chúng. Khi chúng ta đã hoàn
tất công việc này rồi và Chơn Nhơn làm việc một cách toàn vẹn
trong Nhân Thể của nó, trong lúc Điểm Đạo
lần thứ tư, thì sự
đầu thai lại trong những cõi thấp không còn cần thiết nữa. Người
nào đã làm chủ được những cõi thấp thỏi này thì bất cứ lúc
nào cũng có thể tạo ra một Thể Vía và một Thể Trí giả tùy
thuộc những sự nhu cầu của y. Đạt đến mức ấy, y sẽ thoát khỏi
vòng sinh tử khổ nhọc và những kinh nghiệm đau buồn. Có thể chúng
ta không luôn luôn thấy trạng thái đó vì cuộc đời cũng
mang đến cho chúng
ta vài lạc thú. Thật thế, nhưng nếu chúng ta
có thể xem xét trạng thái của mình theo quan điểm của Chơn
Nhơn, thì chúng
ta sẽ thấy rõ
những nỗi buồn phiền khôn tả của Tinh Thần vĩnh cửu bị bó
buộc, giam hãm, cầm tù trong một thể xác không được làm điều này
hoặc từ chối làm điều kia. Bao giờ
chúng ta còn bị giam
cầm trong xác thân đó, thì chúng ta phải hết sức lợi dụng nó.
Nhưng xác thân ấy chỉ là một thể tạm thời dùng
để hoạch đắc sự
kinh nghiệm thôi. Chúng ta rất vui lòng vứt bỏ nó,
khi chúng ta đã thuộc bài học của mình.
Người đã có vài kinh
nghiệm tại những cảnh cao của cõi
Thượng Thiên, đôi khi
cảm thấy rõ rệt những sự hạn chế đè nặng
của ba cõi dưới, không có tự do, không có tình thương và chân
lý vô song thuộc về những lãnh vực đặc biệt của Chơn Nhơn. Vì
biết được lý do y xuống đầu
thai trong những cõi tăm tối ấy, sau cùng y có thể tự nói rằng:
"Tôi xóa bỏ ý muốn đó, nó là nguyên nhân đầu
tiên của sự tái sinh của tôi và tôi sẽ chấm dứt Nhân Quả
của tôi bằng cách hành động
mà không quyến luyến". Người nào có thể quyết định như thế là
người đã tiến hóa. Y đã suy nghĩ nhiều về vấn đề ấy; y là nhà
siêu hình học, một triết gia. Y nói một cách quả quyết rằng: "Tôi
muốn diệt trừ sự ham muốn đó. Tôi muốn lập lại sự thăng bằng của
đòn cân Nhân Quả một cách đúng đắn; rồi không
còn cái gì có thể bắt buộc tôi trở lại cõi trần nữa".
Điều ấy có thể làm được khi con người đã đạt được mục đích ấy -
từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, bên Ấn
Độ, đã có nhiều
người thành công - y thoát khỏi vòng sinh tử triền miên. Y sống trên
cõi Thiên Đàng hoặc y có thể lên cõi Thượng Thiên, nhưng thường
thường y không thể vượt lên cao hơn mức độ ấy; y đi đến bậc mà
người ta gọi là Moksha.
Muốn đạt đến cõi đó, con
người phải chế ngự được tất cả những dục tình, tất cả những sự
ham muốn thấp hèn, không vậy, không thể thành công, nhưng trong việc
ấy, y cũng đã quên một khía cạnh
của sự tiến
hóa. Vì đã hiểu biết hoàn toàn cách hành động
của Luật Nhân Quả, y
có thể
tránh nó được, nhưng
nếu y không hoàn toàn hiểu biết luật tiến hóa, y sẽ không tự giải
thoát được. Y giống như một
cậu học trò thông minh, cậu có thể tiến bộ xa hơn các bạn đồng
môn của cậu và đỗ đạt nhiều khoa thi trước chúng, rồi dừng lại
không làm gì cả ở ba bốn năm, trong khi đó thì những đứa trẻ khác
bắt kịp cậu ta. Điều đó
thật giống những gì đã xảy ra cho người đã đạt đến mức độ
Moksha. Y không đạt được mục
đích dành cho nhân loại, vì mức cuối cùng của sự tiến hóa của
nhân loại là cấp bậc Chơn Tiên. Vị Chơn Tiên không những
là người đã thoát khỏi vòng sinh tử, Ngài còn là một
quyền lực linh động nữa. Ngài đã hiệp nhất với Chơn Thần.
Rồi đến lượt Chơn
Thần, nó cũng là một tia sáng của Thượng Đế. Mà phương pháp của
Đức Thượng Đế là nhập vào thể xác, tự ban rải ra bởi
một sự hy sinh tuyệt
đối cho toàn thể hệ thống của Ngài. Người
nào hiệp nhất với Thượng Đế phải thấm nhuần tinh thần hy
sinh ấy. Vị Chơn Tiên làm việc lành hơn bất cứ nhà từ thiện có
danh tiếng nhất và công việc của Ngài được thực hiện không ngừng
nghỉ trên những cõi cao siêu, Ngài làm việc cho nhân loại và Ngài
vốn là một phần tử. Như thế Nhân Quả do sự hoạt động của Ngài
gây ra đều hồi hướng cho nhân loại chớ không thuộc về Ngài. Như vậy
không có chi trói buộc Ngài vào sự tái sinh. Đồng thời toàn thể
nhân loại được một chút lợi ích. Đó không phải là sự lợi ích
thật rõ rệt, nhưng nếu toàn thể Nghiệp Quả ban rải khắp nơi trên
thế giới chia cho mỗi người thì nó không bao nhiêu, nhưng nó cũng
biểu hiện một sự giúp đỡ
không ngừng cho toàn thể. Trong một ý nghĩa nào đó, mỗi người
nhận được nhiều hơn một chút cái mà dường như họ xứng đáng được
hưởng. Tuy nhiên không có gì bất công trong việc ấy. Giống như mưa
đổ xuống trên những người công
bình cũng như trên những kẻ hung ác, việc ban ân vẫn đồng
đều tất cả.
Vậy
khoảng hàng
ngàn hoặc
hàng triệu
năm nữa, người đã đạt đến trạng thái Moksha sẽ thấy rằng
triều lưu tiến hóa đã lên
đến cao điểm của y và bao quanh y một
lần nữa. Sự kiện này bắt buộc y phải trở xuống đầu thai
để tiếp tục con đường tiến hóa của y. Kẻ tìm quả vị Moksha
thường biết rằng sự giải
thoát của y chưa được thiệt thọ, nhưng y tin rằng lúc y phải trở
lại thật còn xa xăm, và khi
ấy chắc chắn thế giới sẽ tiến bộ. Y nói rằng: "Tôi có thể theo
đuổi việc mạo hiểm này. Chắc chắn tôi được giải thoát nhiều ngàn
năm và trong thời gian đó tôi sẽ được sống trong sự hoan lạc trên
cõi Thiên Đàng".
Lý tưởng của chúng ta là
được ý thức hoàn toàn trên cõi cao nhất mà chúng ta có thể đạt
đến. Chúng ta không có ý
muốn được mãn nguyện trên một vị trí nào cả. Mặt khác, chúng ta
không muốn bỏ ý thức của chúng ta hầu đi vào trạng thái xuất
thần như nhiều người đã làm
để đạt đến mức độ cao hơn ý thức của họ trong lúc thức tỉnh. Đôi
khi người ta nói về "đi vào trạng thái Samadhi" hoặc khi người ta
thích Phạn ngữ, lại nói đi vào trạng thái Samadhi trong lúc
tham thiền. Bao giờ chưa khám phá ra nó là một danh từ tương
đối, chúng ta sẽ không biết cho danh từ ấy ý nghĩa nào. Đối với
bất cứ người
nào, Samadhi là điểm tiếp theo cao hơn điểm mà y có thể hiểu
biết được rõ rệt. Nếu ý thức của y trên cõi Trung Giới và không
phải trên cõi Trí Tuệ, thì trạng thái Samadhi của y bắt đầu trên
cõi kế đó, tức là cõi Thượng Giới. Samadhi là trạng thái vượt
cao hơn điểm mà người ta ý
thức được, nó là trạng thái xuất thần
mà từ đó người ta trở về với tất cả những cảm giác rực
rỡ và tốt đẹp, nhưng thường thường thì không ý thức được một
cách rõ rệt. Trong lúc tham
thiền, không nên đi vào Samadhi. Phải giữ ý thức
của mình để khi trở
về nhớ lại được những gì đã xảy ra. Tôi biết có nhiều người đã
đi vào Samadhi, để cảm thấy một sự hoan lạc sâu xa, một sự toàn
phúc. Tuy nhiên, sự kiện ấy không có nghĩa là tiến hóa, vì họ đã
buông thả ý thức của họ và họ không biết đích xác họ đã làm
gì. Điều này luôn luôn có nhiều sự nguy hiểm: Người ta không biết
mình có thể trở về nhập xác được không.
Một ngày kia Bà Bác sĩ
Besant và tôi trông thấy có
một sự sống tuôn xuống dữ dội từ những cõi cao. Ấy là những
lượn sóng vĩ đại từ Đức Thái Dương Thượng Đế phát ra, giống như
mạch nhảy. Bà nói với tôi rằng: "Chúng ta hãy lao mình vào những
lượn sóng ấy xem chúng nó mang chúng ta đến đâu". Chúng tôi
sẽ thực hành, nếu Chơn Sư không can thiệp và cấm chúng tôi làm
điều đó. Về sau Bà
Bác sĩ Besant có hỏi Sư Phụ: "Nếu
chúng tôi lao vào lượn sóng ấy, chúng tôi sẽ
đi về đâu"? Ngài đáp: "Có thể lối một triệu năm sau, các
con bị lượn sóng ấy
đưa đến hành tinh Sirius hay một Thái dương hệ nào khác". Thật hiển
nhiên là không sáng suốt nếu chúng ta lao mình vào những triều lưu
như thế, khi chúng ta không biết đích xác việc gì sẽ xảy ra. Mất
ý thức là điều không nên khuyên. Tốt hơn, nếu có thể, chúng ta hãy
làm chủ các thể thấp và nhìn qua chút ít coi chúng ta đi về đâu,
ngược lại thì chúng ta có
thể mất xác thân và chấm dứt sự hữu dụng tạm thời của chúng ta.
Phương pháp của chúng ta là giữ được hoàn toàn ý thức trên bất
cứ cõi nào chúng ta lên tới
và cố gắng làm việc hữu ích tại đó. Không bao giờ Đức Thầy của
chúng ta nói đến sự trầm mặc hoàn toàn thụ động. Mục đích của
chúng ta không phải là an
nghỉ và thưởng thức những cảm giác tốt đẹp, mà chính là luôn
luôn cần mẫn trong công việc của Chơn Sư.
Đoạn nói về đức tánh cần
thiết thứ tư là Bác Ái, được Đức Thầy đặc biệt nhấn mạnh. Ngài
vượt qua danh từ để tìm nghĩa lý trong đó. Ngài nói: "Vì lý do
nào con muốn được giải thoát? Để có thể phụng sự đắc lực hơn,
con cố gắng hiệp nhất với Thượng Đế.
Thượng Đế là gì? Thượng Đế là Bác Ái. Nếu con khao khát
hiệp nhất với Ngài, con
phải mở
rộng tình Bác Ái. Vậy đức tánh cần thiết là Bác Ái.
Những độc giả của quyển Con
Người Từ Đâu Đến Và Đi Về Đâu
[93]
sẽ nhớ trong tác phẩm ấy có kể lại tại sao vài nhóm người từ
những dãy hành tinh khác đến hành tinh của chúng
ta và vì sao có vài nhóm người trong đó được gọi là đoàn
thể phụng sự.
Hầu hết những Hội Viên Thông Thiên Học đều thuộc
về đoàn thể phụng sự
này. Vậy ý niệm phụng sự đối với chúng ta là một yếu tố rất
mạnh mẽ. Chúng ta biết rằng từ bỏ những ý tưởng bao bọc chúng ta
từ lúc mới ra đời thật khó
khăn biết dường nào. Chẳng hạn như quốc tịch của chúng ta trình
bày nhiều điểm nhỏ thật khó tránh. Đó là quốc tịch của Phàm
Nhơn, nhưng chúng ta có thể nói quan niệm phụng sự là quốc tịch
của Chơn Nhơn, hay có thể là của Chơn Thần. Chơn Thần sinh ra khuynh
hướng ấy và từ đó không ngừng tăng trưởng.
Thật khó cho chúng ta hiểu
rằng có nhiều hạng người khác
cũng có giá trị như nhóm người mà chúng ta vừa đề
cập đến. Đức
Thái Dương Thượng Đế biểu hiện dưới ba trạng thái: "Ý Chí,
Minh Triết và Bác Ái". Đó là danh từ được dùng trong quyển sách
này; bởi vậy, con người
tiến đến gần Ngài bằng cách ấy. Khi mỗi người theo đuổi con đường
làm thỏa mãn hơn hết những nhu cầu của mình thì y phải nhớ rằng
con đường của kẻ đồng loại mình cũng là con đường tốt nhất đối
với họ, và sau cùng tất cả con đường đều hiệp lại với nhau.
Chúng ta phải đạt được khả năng xem một lượt cả ba quan điểm này
và tự nhủ rằng thật ra chúng ta chỉ là một. Theo tín điều Credo
d'Athanase, chúng ta phải dạy về Giáo lý Ba Ngôi đó mà không lầm
lẫn với những ngôi vị và cũng không phân chia bản chất. Sau cùng
chúng ta cũng phải biết rằng luôn luôn chỉ có một Đấng Chí Tôn Duy
Nhất, dù Ngài biểu lộ ra
làm Ba Ngôi.
Dù lúc khởi đầu đã nói
rằng nếu tình bác ái của chúng ta khá
mạnh mẽ, nó sẽ cưỡng
bách chúng ta hoạch đắc những đức tánh khác. Nó thúc đẩy con
người hoạt động tương ứng với năng lực của nó. Chúng ta hãy lấy
một thí dụ về sự kiện tốt
lành và đẹp đẽ nhất này là tình mẫu tử. Hãy xem những dân tộc
còn dã man, đã biểu lộ tình cảm ấy ra sao? Bà thật dốt lắm,
nhưng bà sẵn sàng bảo vệ con và nếu cần, bà cũng hy sinh mạng
sống của bà. Một bà mẹ văn minh của chúng ta sẽ hành động như
thế ấy, trong những trường
hợp giống như nhau. Thỉnh thoảng chúng ta nghe kể lại một người mẹ
đã mạng vong, vì xông vào lửa để cứu con, hoặc thường hơn nữa,
người mẹ bỏ mình vì săn sóc đứa con mắc bịnh truyền nhiễm. Trong
đời sống hằng ngày của chúng ta, tình mẫu tử mạnh mẽ ấy
khiến cho những người mẹ suy nghĩ. Lòng yêu mến thúc đẩy bà tìm
học về vệ sinh, thực phẩm
và những vấn đề thuộc về loại ấy. Như thế tình thương sẽ kích
thích sự hoạt động tinh thần và sự hoạt động vật chất một lượt
với nhau.
Muốn đến với Đức Thầy,
phải có tình thương,
nghĩa là muốn thiết tha
phụng sự. Thánh Jean có nói: "Chúng ta biết rằng chúng
ta đi từ cõi chết đến cõi sống, vì chúng ta thương yêu những
huynh đệ của mình. Kẻ nào không biết thương yêu thì ở trong cõi
chết vậy[94]"
. "Và kẻ không biết thương yêu thì không thể biết được Thượng Đế "
[95].
Tất cả mấy điều này hoàn
toàn đúng. Biết được danh từ
chuyên môn Thông Thiên
Học là việc rất tốt để hiểu triết lý và khoa học của nó,
để biết phân biệt và sử dụng được hai ngàn bốn trăm lẻ một tinh
chất, nhưng chính tình thương mới tạo nên thật là
người Thông Thiên Học.
Tôi nhớ một
kỷ niệm lâu rồi, khi
ông Babu Mohini Mohun Chatterji
- một vị đệ tử Chơn Sư -
đến dạy chúng tôi tại Luân Đôn, lúc đầu ông nói với chúng tôi về
những đức tánh cần thiết, mà trong sách Ông Sinnett không có nói
đến hoặc trong quyển Isis
dévoilée là quyển gần như
độc nhất của chúng
tôi cũng không đề cập đến, ông nói rất rõ ràng với chúng tôi
rằng: Không có đức tánh cần thiết thứ tư này,
thì cái ý muốn mãnh liệt được giải thoát kia (ông diễn tả
như thế), hoặc được hiệp nhất với Đức Thượng Đế và sáu điểm
[96]
thuộc về hạnh kiểm tốt chỉ là "tưới nước trên sa mạc thôi". Chúng
sẽ ở trong trạng thái khô khan và hầu như vô ích nếu thiếu ý chí
nồng nhiệt hiệp nhất với Đức Thượng Đế và hoạt động như
Ngài. Trong thời kỳ đó chúng tôi không biết rõ như
ngày nay rằng đó là vấn đề phụng sự, dù lúc đầu các Đức
Thầy đã nhấn mạnh về tình Bác Ai của các Ngài đối với"vô số
nhân sinh, những kẻ hèn mọn và những người bị khinh bỉ". Nỗi bận
tâm lớn lao của chúng tôi là cố gắng
hết sức để học hỏi
về Thông Thiên Học. Tất cả đều rất mới mẻ, rất thích thú, rất
hấp dẫn, làm say mê, nên chúng tôi dành gần trọn thời giờ của
mình - có lẽ nhiều hơn sự cần thiết - để tìm hiểu. Ấy không phải
là chúng ta cần phải học hỏi; trước khi
có thể thực sự
giúp đỡ
kẻ khác sao?
Cái đó hơn là ý muốn, ấy là ý chí, là quyết định.
C. W. L.
–
Ý chí là đức tánh đặc biệt của Cung thứ nhất đặt dưới quyền cai
quản của Đức Thầy Morya. Đức Thầy Kouthoumi
thuộc về Cung thứ hai, là cung Bác Ái và Minh Triết. Nhưng ở
đây Ngài nói như một người thuộc về Cung thứ nhất. Tôi nhớ một hôm
Alcyone tỏ ý muốn hoạch đắc một đức tánh nào đó, Đức Thầy nói:
"Con đừng muốn chi cả. Sự muốn không có nghị lực. Nếu con muốn
có đức tánh nào, thì con hãy quyết định hoạch đắc nó, và
hãy bắt tay vào việc". Đó chính là quan điểm của Quần Tiên Hội.
Đối với chúng ta, không có gì quan trọng hơn là tìm hiểu thái độ
của Đức Thầy và cách thế nhìn sự vật của Ngài. Đó là
những gì đã đưa Ngài đến cấp bậc hôm nay và chúng cũng có thể
đưa chúng ta đến đó.
Muốn có hiệu quả thì sự quyết định này phải thâm nhập trọn vẹn
bản thể con, cho đến khi không còn chỗ nào để chứa một tình ý
khác nữa. Thật ra, ấy là ý chí muốn hiệp nhất với Đức Thượng
Đế, không phải để thoát khỏi sự mệt nhọc và đau khổ, nhưng để có
thể hành động với Ngài và như Ngài, vì tình thương sâu xa của con
đối với Ngài. Bởi Thượng Đế là Bác ái, còn con nếu con muốn
hiệp nhất với Ngài, lòng con phải hoàn
toàn vô tư lợi và tràn ngập tình thương.
C. W. L.
–
Đệ tử của Đức Thầy chỉ có một ý muốn là phụng sự Ngài mà
thôi. Về điều đó, y phải sẵn sàng hy sinh mọi lạc thú,
mọi tham vọng cá nhân và chỉ làm một guồng máy bé nhỏ
trong bộ máy vĩ đại. Người
tầm thường chưa suy gẫm một cách đúng
đắn cho mục đích cao thượng hơn. Cuộc đời thế nào, y sống
theo thế ấy. Y ít quan tâm đến việc đem đời sống hiện tại đổi lấy
một đời sống cao thượng và tốt đẹp hơn, mà chỉ lo thành công trong
sự nghiệp ở đời. Nếu bạn đòi hỏi y từ bỏ tất cả những gì
mà chúng ta gọi là bản ngã thấp thỏi, thì y sẽ
hỏi: "Nhưng nếu tôi thực hiện việc đó, tôi sẽ còn lại điều
gì"? Trong trường hợp đó, theo thiển kiến
của y, thì không còn lại cho y bao nhiêu, mặc dù sự thật vẫn
còn nguyên vẹn.
Rất khó giải nghĩa cho
một người như thế hiểu những gì mà chúng ta nghe
nói về "sự nhập vào trong Sự Sống Thiêng Liêng". Tôi biết
một người nữa tử tế và thông minh, y đã nghiên cứu kỹ lưỡng
Phật Giáo Bắc Tông
(Đại Thừa). Một hôm y đến tìm tôi và nói rằng: "Tôi không thể rút
được điều gì trong đó. Tôi không nghĩ rằng đáng ra công học hỏi.
Học Phật Giáo cũng thú vị như vấn đề khảo cổ, nhưng mục đích duy
nhất được đề ra hình như là
hợp nhất với Đức Phật. Tôi không
thể thấy điều này có ích lợi gì cho Đức Phật không, nhưng
đối với tôi, chắc chắn là tôi không còn sống
đâu". Đó là quan điểm của người bậc trung. Tuy nhiên tất cả
điều này bao hàm một ý nghĩa chơn chánh, sáng suốt và nồng
nhiệt. Hiểu được nó có thể biến đổi trọn vẹn mọi ý niệm cũ.
Sự mở rộng tâm thức không cướp mất một chút tự do nào, cũng như
làm hư hại cá tính chút nào. Chẳng phải tôi bị tan mất trong vũ
trụ, mà chính vũ trụ thành
ra tôi đây. Người ta nói: "Tôi là Chơn Ngã". Câu này đem áp dụng cho
Phàm Ngã là điều lầm lạc, nhưng nếu câu "Tôi là Thượng Đế", đối
với tôi là sự thật thì lúc đó ý nghĩa "Thượng Đế là Thượng Đế"
không có chút gì ảo tưởng
cả và khi nhận thức rằng điều gì tôi tưởng có thật là sự biểu
lộ của Trời, tôi không lầm lạc. Ảo tưởng là ý niệm cho rằng bất
cứ cái gì đều có thể tồn tại ở ngoài Ngài hoặc chia lìa với
Bản Ngã Duy Nhất.
Đời sống hằng ngày đã cho
thấy những bằng chứng sự thâm nhập của cái nhỏ trong cái lớn.
Một hảng buôn quan trọng thu
nhận một nhân viên trẻ. Ban đầu
chàng thanh niên này
nhìn bàn giấy như một nơi áp bức y. Y cảm thấy thật khó khăn vì
bị bắt buộc đến đúng giờ để hoàn tất mọi công việc của y.
Khoảng vài năm sau, được thăng chức, y bắt đầu nói: "Chúng ta làm
việc này; chúng ta làm việc kia". Và y khởi sự đồng hóa những
lợi lộc của y với những mối lợi của hảng buôn. Y tiến dần
như thế đến địa vị giám đốc và sau đó trở thành một hội viên.
Rồi y luôn luôn nói chuyện cho nhà buôn và trong những công việc làm
ăn, lúc nào y cũng nghĩ đến "xí nghiệp". Chính y vẫn tiếp tục sử
dụng tự do, sáng kiến của mình, nhưng hiện nay chắc chắn là y
dùng ý chí của mình một cách chính đáng. Hảng buôn không bắt
buộc y phải có thái độ đó, vì y đã tập lấy dần dần. Thí dụ
nhỏ này đủ cho chúng ta thấy con người làm như thế nào tự đồng
hóa với một uy lực cao siêu hơn, mà vẫn
giữ được nguyên vẹn ý chí của mình.
Tới một ngày kia, chúng ta
sẽ trở thành Con Đường Đạo, lúc ấy
luôn luôn
những đức tánh cần
thiết sẽ được tăng cường đầy
đủ trong chúng ta, vì chúng đã được chúng ta đồng hóa và
hoàn toàn trở nên thành phần bản tính của chúng ta. Giờ phút nào
chúng ta cũng ở gần Đức Thượng Đế linh thiêng. Vì Ngài luôn luôn ở
trong lòng chúng ta và chung
quanh chúng ta. Tuy nhiên chúng ta phải hiểu điều đó, chúng ta dần
dần nâng cao Tâm Thức và
dùng tất cả phương tiện vừa sức chúng ta, cho đến khi nào chúng ta
có thể làm cho ý niệm này là một thành phần của chúng ta.
Chúng ta phải hiệp nhất với Đức Thượng Đế trong sự biểu
hiện cao siêu nhất của Ngài, trong những sự biểu hiện sâu thẳm của
Ngài, chứ không phải ở trong
hình thái vật chất mà thôi. Chất trong mình chúng ta cũng như
những chất bao bọc chúng ta, là bức màn che bên ngoài của Ngài.
Nhưng không phải chúng ta muốn hiệp nhất với bức màn của Ngài,
mà chúng ta muốn hợp
nhất với Ngài.
Khi chúng ta đạt được mục
đích đó, thì về phần Ngài, Ngài nhận thức điều ấy và dùng
chúng ta như những vận hà có thể
truyền sang Thần lực của Ngài. Ở những cõi thấp chúng ta
thật là những vận hà hiến cho thần lực thiêng liêng, nhưng chúng ta
chỉ trở nên thật đắc dụng
cho Ngài khi chúng ta không còn Phàm Nhơn riêng rẽ có thể chống đối
Ngài. Thượng Đế luôn luôn dùng những
phương tiện như thế và những Đấng Cao Cả đại diện cho Ngài
làm ra Quần Tiên Hội cũng hành động theo lối ấy. Chắc chắn các
Ngài có thể làm ra những
phép lạ bằng cách tác động thẳng trên con người, nhưng làm như thế
phải tiêu hao một phần lớn thần lực của các Ngài một cách
vô ích. Các Ngài chọn
những phương pháp đặc biệt.
Nhiều người không bao giờ
thử tìm hiểu những nguyên lý chi phối sự sống. Họ cho rằng thiên
nhiên phải tuân theo mệnh lệnh
của họ và họ không chịu chấp nhận sự vật theo cách thức
mà chúng nó đã được sắp đặt. Thái độ của họ giống như những
người điều tra những hiện tượng Thần Linh Học, họ muốn qui định
những điều kiện để phát sinh
ra những hiện tượng.
Tâm trạng đó thật phi lý, vì
trên thế
gian này không có một loại khảo sát nào có thể qui định
bổn phận cho những luật tự nhiên. Những người dã man được cho xem
hiện tượng điện khí, họ chỉ thấy đó là một sự phỉnh lừa. Tù
trưởng của họ nói: "Tất cả mấy cái này đều kết hợp với nhau
bằng những sợi dây. Chính nhờ những sợi dây này bạn tạo ra được
hiện tượng đó. Hãy cắt nó đi rồi tôi sẽ tin bạn". Nhà điện học
mỉm cười đáp lại: "Bạn
không hiểu định luật. Những sợi dây để dẫn điện. Không có nó,
điện lực không thể đến". Rồi người dã man nói: "Tôi đã khám phá
được ảo thuật của anh rồi". Người ta cũng
làm như thế trong các buổi nhóm Thần Linh Học. Người ta không
chịu theo phương pháp đã định trước và muốn làm cách khác. Cái
kỳ vọng bắt buộc Trời phải chiều theo ý người có thể
làm hài lòng vài hạng người trí thức. Nhưng kỳ vọng này
thật lạ lùng đối với tôi cũng như trong lúc cầu nguyện người ta
chỉ bảo cho Đức Thượng Đế phải làm điều này điều nọ. Tôi tin
chắc rằng Ngài hiểu biết hơn tôi vô cùng và nếu
do một sự ngẫu nhiên nào hoàn toàn không
giải thích được, mà lời cầu nguyện của tôi thay đổi được ý
định của Ngài, thì tôi biết chắc rằng sự thực hiện Thiên Ý sẽ vô
cùng lợi ích hơn
là sự thực hiện ý muốn của tôi.
Có thể ít người trong
chúng ta hiểu được sự cần thiết của việc hợp nhất với Thượng
Đế, nhưng điều đó rất quen thuộc đối với những huynh đệ Ấn Độ
của chúng ta. Trong tác phẩm
này, Đức Thầy dùng những danh từ đó nhiều lần, khi Ngài nói về
Đức Thượng Đế. Trong một kiếp trước, Ngài là vị cao tăng tên là
Nâgârjuna (tức là
Đức Long
Thọ)
[97]
và trong kiếp ấy, Ngài có
làm nhiều bài thuyết pháp và viết nhiều quyển sách. Trong
những sách vở của Ngài còn lưu lại, Ngài chống đối rất
quyết liệt với ý niệm cho rằng Thượng Đế có một cá tính. Ngài
cũng phản đối cách dùng
chữ cá nhân và Thượng Đế và Ngài luận giải vài vấn
đề Siêu Hình Học sâu xa về phương diện đó. Những người Ấn
Độ hiểu biết toàn thể triết lý của Đức Long Thọ thường
nói:"Trong quyển sách nhỏ này của Đức Thầy chúng
ta có điều rất lạ lùng là thuở xưa, Ngài không cho rằng
Thượng Đế có một cá tính nào, mà hiện nay, Ngài lại dùng
danh từ Thượng Đế.
Đức Phật của chúng ta cũng quyết liệt chống đối ý niệm ấy trong
một ý tưởng như thế". Đây là giải đáp cho dị luận ấy: Trong tác
phẩm này Đức Thầy không đề cập đến vấn đề Vô Cực, Tuyệt Đối.
Ngài không nói đến Đấng Chí Tôn, Đấng Vô Thỉ Vô Chung. Trước hết
Ngài nói cho em bé trai Ấn Độ về Đấng Ishvara, tức là Đức Thái
Dương Thượng Đế, là Chúa tể một ngôi mặt trời và chắc chắn chính
trong ý nghĩa sau cùng ở đây, Ngài dùng danh từ Thượng Đế. Cũng
như Đức Nâgârjuna, Ngài nói với những học giả mà đa số hiểu biết
những hệ thống triết học
Ấn Độ. Do đó, Ngài nghiêm khắc khiển trách mọi khuynh hướng hạ
thấp ý niệm Thượng Đế bằng cách gán cho Ngài một cá tính, như
nhiều huynh đệ Thiên Chúa Giáo hiện nay
của chúng ta quan niệm.
Rồi Ngài nói tiếp, chúng
ta phải tự làm cho mình giống như Đức Thượng
Đế. Điều này đưa đến vấn đề: "Chúng ta hiểu cái
chi về Thượng Đế?" Chúng ta biết rằng Ngài tự biểu lộ qua
ba Trạng Thái. Nhiều người đến
gần Ngài bằng một Trạng Thái này,
hoặc bằng một Trạng thái khác trong ba Trạng Thái đó. Con
đường của chúng ta là con đường của tình thương tích cực, vì
chính đó là con đường mà các vị Sư Phụ của chúng ta đã noi theo.
Ba cung vĩ đại của sự sống thiêng liêng tương ứng với bảy hạng
người. Có ba con đường là: Con đường Sùng Tín, con đường Ý Chí và
con đường Minh Triết. Con người tìm Đức Thượng Đế bằng nhiều cách
khác nhau, nhưng bởi các vị Sư Phụ của chúng ta theo con đường tình
thương tích cực, nên tất cả những ai muốn theo các Ngài thì phải
tự hiến năng lực thuộc về cung đặc biệt của mình để phụng sự
đắc lực Đức Thượng Đế và nhân loại. Chúng ta hãy lấy thí dụ về
lòng sùng tín, mà chúng ta biết có ba thứ hay ba loại. Người
thuộc về loại thứ nhất quỳ
lạy trước đối tượng y tôn sùng và khao khát hiệp nhất với đối
tường ấy. Tôi tưởng trong những giống dân tộc Tây Phương của chúng
ta chỉ gặp hạng người này, trong nhóm nam tu sĩ hay nữ tu sĩ. Họ
chỉ muốn tôn thờ Đức Thượng Đế mãi mãi. Đó là sự sùng tín đáng
khen, nhưng ít ra trong lúc đó, con người không nghĩ đến những kẻ
khác. Y chỉ nghĩ đến việc hợp nhất với Đức Thượng Đế. Nếu bạn
nói với y về những kẻ khác, họ sẽ trả lời với bạn rằng: "Họ
hãy làm như tôi vậy". Tôi
biết một người ở Ấn Độ, ý
niệm duy nhất của y là chiêm ngưỡng Đức Thượng Đế và cố gắng hợp
nhất với Ngài. Đó là mục đích
của y và y sẽ đạt được
nó trong tương
lai. Y sẽ trải qua trọn kiếp sống của y trên
cõi Thiên Đàng, chắc chắn là rất lâu (hàng ngàn năm) trong
sự sùng mộ ngây ngất. Một sự
sùng tín thuần túy như thế làm phát triển những thể khác
của y, và một sự tiến bộ chắc chắn.
Một sự sùng tín khác
xứng đáng với danh từ ấy. Đó là thứ sùng tín thấp thỏi, trả
giá với Đức Thượng Đế "Nếu
Ngài cho tôi được giàu sang, thăng tiến và giúp đỡ tôi một cách
tổng quát, thì về phần tôi, tôi sẽ tôn sùng Ngài thật nhiều".
Người sùng tín thứ ba sẽ
nói rằng: "Tôi thương mến Đấng Cao
Cả này hoặc Đức Giáo Chủ này thật nhiều. Cũng vì lẽ
đó tôi phải giúp những kẻ khác biết và hiểu Ngài. Tôi phải
làm lành nhân danh Ngài". Đó là sự sùng tín rất cao thượng và
rất hữu hiệu. Những người trong chúng ta thuộc về cung sùng tín,
sẽ không phải chỉ sùng tín
mà thôi. Họ cho thấy rằng
sự hoạt động này khêu gợi ở nơi họ ý muốn làm việc vì lòng
sùng tín. Cũng giống như thế, nếu những ai trong chúng ta có khuynh
hướng muốn hiểu biết tất cả, thì họ sẽ có đặc tính ấy trong
bản chất của họ. Có vài người chỉ muốn được khôn ngoan để biết
và để hiểu suông thôi. Đó là một đức tánh đáng phục. Nhờ nó mà
nhiều người tiến bộ rất nhiều. Trái lại, những "người phụng sư"
cảm thấy tình cảm phức tạp này trong
lòng họ: "Tôi muốn học hỏi, nhưng chỉ để hữu ích thật sự
cho kẻ khác thôi". Những người này thấy rất rõ sự sai lầm của kẻ
khác, dù họ thật tình muốn phụng sự, nhưng vì sự phi lý của họ,
mà họ gây ra tai hại hơn là làm lợi. Họ nói rằng: "Hãy để tôi
hoạch đắc sự hiểu biết trọn vẹn rồi tôi mới có thể phụng sự
một cách đắc lực".
Chúng ta muốn hiệp
nhất với Đức Thượng Đế, chẳng phải chỉ để được hòa đồng
với Ngài và được thấm nhuần trong mọi sự vinh quang và hoan lạc,
nhưng để có thể hành động như Ngài. Và hành vi vĩ đại của Ngài
là tự nhập vào vật chất như một sự hy sinh tuyệt
đối để ban cho chúng ta sự sống. Người muốn hợp nhất với
Đức Thượng Đế phải triệt để quên mình hầu giúp ích cho việc hoàn
thành công nghiệp của Ngài, Ngài vốn Đại Từ
Đại Bi. Chỉ một câu sau đây tóm tắt hết Con Đường Đạo: "Nếu
bạn muốn nhập một với
Ngài, thì lòng bạn phải hoàn toàn vô tư
và tràn ngập tình thương". Ý Chí, Minh Triết, Bác Ái, mỗi
đức tánh trong ba đức tánh này được trao dồi hoàn hảo và để dùng
vào việc phụng sự sẽ
kéo theo những đức tánh khác. Vậy thì quả thật: "Bác Ái
là sự hoàn thành Luật Trời".
[98]
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI LĂM
�
Y
�
LÒNG TỪ ÁI TRONG ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY
Trong đời sống hằng ngày, lòng từ ái có hai nghĩa: một là phải
tránh cho khéo đừng làm hại một sinh vật nào cả; hai là phải sẵn
sàng chờ đợi cơ hội để giúp đỡ.
C. W. L.
–
Đây là hai khía cạnh của
một sự việc. Về mặt tiêu cực, thì không làm ác; về mặt tích
cực, thì là làm lành. Đôi khi người ta nói: "Các Tôn giáo Đông
Phương có tính tiêu cực; quan niệm phụng sự
mà chúng ta đưa vào các tôn giáo ấy quả là quan niệm của
Thiên Chúa Giáo". Điều này không đúng. Chắc chắn như vậy. Dù Thiên
Chúa Giáo hiện đại đem ý niệm phụng sự đó
vào hàng nhì đi nữa, nó cũng được trình bày và nhấn mạnh
trong Thiên Chúa Giáo nguyên thủy : "Người lớn nhất trong các con sẽ
là người phụng sự các con vậy".
[99]
Người ta cũng gặp ý
niệm này trong tôn giáo xưa.
Phật giáo luôn luôn bị
người ta cho là tôn giáo tiêu cực nhất. Thật ra nó chỉ cho con
người điều gì phải tránh, nhưng ngũ giới cấm của nó không tiêu
cực hơn mười điều răn của Moi-Sơ (Moise). Phật
Giáo không nói: "Ngươi
sẽ không làm". Mặc dù có bảo tín đồ phải tránh nhiều điều. Nó
dạy như sau: "Tuân giữ giới luật, tôi không sát sinh, tôi không trộm
cắp, (không lấy vật không phải của tôi), tôi không vọng ngữ (không
nói điều thất thiệt), tôi không uống rượu và không dùng các chất
ma tuý, tôi không gian dâm". Đó là hình thức, nó không phải là một
mệnh lệnh nhưng là lời hứa.
Trong một bài kinh tóm
lược cả giáo lý Đức Phật do chính Ngài Thuyết minh, chúng ta thấy
tính cách tích cực của nó:
"Chớ làm điều ác;
"Hãy tập làm lành;
"Rửa lòng trong sạch;
"Đó là giáo lý của Chư
Phật".
[100]
Cũng tính chất đó đã
được trình bày rõ rệt trong Bát
Chánh Đạo. Trong đó chúng ta có: "Chánh kiến, chánh tư duy,
chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm,
chánh định". Hầu hết những điều này rất tích cực.
Trong quyển
Thánh Ca Bhagavad Gita đối với hàng triệu người Ấn như kinh
phúc âm của chúng ta, bạn thấy nó dạy sự hoạt
động tích cực nhất. Đức Thượng Đế trong
đó được mô tả như một
nhà Đại Diễn Viên. Quyển ấy nói rằng kẻ nào không chịu noi theo
gương Ngài và làm việc giúp đời, thì sẽ sống một cách vô ích.
Và hiển nhiên sự bất động có thể là một trọng tội. Quyển
Gita cảnh cáo con người, như
là Bà Blavatsky đã thường cảnh cáo rằng phải sợ tội bỏ sót công
việc cũng như đáng sợ những tội của việc đã được ủy thác. Đối
với người Sannyasi là kẻ đã từ bỏ đời sống vật chất, kinh ấy
dạy rằng: Y phải luôn luôn làm những việc từ thiện, phải hy sinh
và sống khổ hạnh. Trong những Thánh Kinh chánh viết về lịch sử
Ấn Độ chứa đầy chuyện tích của những người tận tụy hy sinh cho
hạnh phúc quần chúng và những vị Giáo Chủ thường được xem như
hóa thân của Đức Thượng Đế dạy dỗ việc phụng sự cho đồng bào.
Không thể nào nhấn mạnh
về công việc phụng sự hơn các tôn giáo này, mặc dù chúng có
những cách trầm tư mặc tưởng riêng,
như Thiên Chúa Giáo trong suốt thời kỳ Trung Cổ. Chỉ trong ít
năm gần đây - do sự
hoạt động mạnh mẽ là đặc tính thuộc giống dân
phụ thứ năm của giống dân chánh thứ năm - chúng ta có khuynh
hướng khinh khi một cách kín đáo những tăng lữ, những người tu
hành mà ca tụng tột bậc những con người hoạt động như
một vị tướng lãnh trong thời chiến, vị Đại Vương hay Chính
trị gia trong thời bình. Tuy nhiên ý niệm tổng quát dùng làm nền
tảng cho những phái trầm tư mặc tưởng, cũng hết sức tốt đẹp.
Những phái tăng lữ hoạt động phải giảng đạo và hoàn thành những
công tác từ thiện - những người thuộc về phái trầm tư mặc tưởng
phải hãm mình, trong tu viện chuyên lo tham thiền và cầu nguyện.
Nói một cách khác, đó là vấn đề tạo nên những tư tưởng tốt
lành, cao thượng và truyền rải nó ra xa với ý định thật rõ rệt
là giúp đỡ người đời. Những vị ẩn tu phải chuyên lo cầu nguyện
và tham thiền thay thế các huynh đệ của họ, vì nhiều lý do, những
người này không thể thực hiện như thế một cách hữu hiệu và hoàn
bị như họ. Theo lý thuyết của tất cả những tôn giáo, những tu sĩ
này là một phần tử của nhân loại, đang cung cấp nhu cầu cho nhân
loại. Họ không phải là những nhà tu biếng nhác tránh sự hoạt
động tích cực. Công việc của họ khó nhọc hơn nhiều, mà kẻ khác
không thể làm được. Công
việc của họ thực hiện trên những cõi cao và thường thường trong
những điều hy sinh và khổ hạnh khiến
người đời cho là rất khủng khiếp.
Nhưng cũng đúng với đời
sống ẩn dật đó, nếu không phải là khổ hạnh như thế, thì nó hấp
dẫn nhiều người thích sống một đời sung sướng và nhàn rỗi. Họ
trốn tránh công việc khổ cực dưới thế gian mà không thay thế được
bằng việc làm trên cõi cao. Trong
những tăng ni Phật Giáo, có những người như thế. Họ
ít được kính trọng. Người ta gọi họ là những "Phạn chúng"
[101]. Họ chỉ làm tăng ni để
bảo đảm đời sống, và nếu đời sống ấy không có gì sang trọng,
thì nó sẽ không bao giờ thiếu thốn khi dân chúng còn có ăn.
Những tu viện trong thời Trung Cổ ở Âu Châu cũng giống như
thế, nhưng có lẽ ở một mức độ cao hơn. Nhiều người vào tu viện
để nương cậy thế lực và ảnh hưởng của nó và trong nhiều trường
hợp bởi vì họ không bận tâm đến những vật sở hữu cá nhân. Dù vị
tăng lữ trên phương diện cá nhân không có một vật nào cả, nhưng tu
viện vẫn thật giàu và có sẵn của cải để cho nhân viên của nó sử
dụng đến một mức độ nào đó.
Trước hết, đừng làm đau khổ. Có ba tội làm hại hơn hết tất cả
mọi việc trên đời. Đó là: sự nói hành, sự hung ác và thói dị
đoan, bởi vì chúng là những tội nghịch với
lòng từ ái.
C. W. L.
–
Khi đặt vấn
đề tội ác nặng nhất,
người ta cứ nghĩ đến tội sát nhân, cướp giựt, vân vân . . ., nên có
lẽ người ta ngạc nhiên thấy những lỗi tương đối thường phạm như
nói hành, hung ác, dị đoan, mà đứng đầu sổ. Đức Thầy lại kể đến
sự tái diễn nhiều lần và hậu quả nghiêm trọng của chúng. Việc
sát nhân và cướp bóc được xem như là những trọng tội nên ai cũng
biết, do đó những người tự trọng đều tránh nó, trừ phi bạn gọi
nó là "giặc
giả". Nhưng sự nói hành xảy ra ở khắp nơi và nếu người ta nghĩ
đến tai hại của nó gây ra luôn luôn trong bất cứ trường hợp cá nhân
nào, nếu người ta nghĩ đến toàn
thể sự đau khổ về tinh thần mà nó có thể tạo ra và việc
nó thường làm hạ giá lý tưởng của con người, rồi đem nhân cái
hậu quả đó cho hàng triệu trường hợp xảy ra mỗi ngày,
thì người ta sẽ nhận thấy ngay rằng sự nói hành gây tai hại
hơn những tội ác khác vô
cùng. Hủy diệt lý tưởng của một người, hạ giá nó, làm nhục nó
và làm cho y có cảm giác rằng chung
quy lý tưởng này cũng không tốt
đẹp, không cao thượng gì như y đã tưởng thì là một điều
đáng ghê tởm. Đôi khi người ta nói rằng tiêu diệt thần tượng là
việc làm thích đáng. Nhưng tiêu diệt thần tượng của một người đang
thờ phượng có thể là điều độc ác nhất mà ta đã xử sự đối với
y. Nếu lý tưởng của y là một đối tượng thấp kém và đáng khinh,
chắc chắn chúng ta có thể chỉ vẽ cho một lý tưởng khác cao
thượng hơn, nhưng không có gì độc ác và tệ hại bằng việc lấy mất
lý tưởng của y, mà không thay vào cho y cái gì cao
đẹp hơn. Bất cứ trong trường hợp nào, bổn phận của chúng ta
cũng không phải là đi tìm những khuyết điểm và
hạ phẩm giá của ai cả.
Chắc chắn nhiều người
trong chúng ta do kinh nghiệm riêng đã biết được việc thiện phi
thường mà Bà Bác sĩ Besant đã
thực hiện. Cả chục ngàn người tìm được ánh sáng qua những
bài diễn thuyết và sách vở của bà. Tuy nhiên, những lời nói hành
về bà đã ngăn cản hàng
ngàn người khác, không cho họ nghe bà và đọc tác phẩm của bà. Họ
nói: "Tôi đã nghe người này, người nọ nhận xét về Bà Besant. Tại
sao phải đọc sách mà tác giả là một người đàn bà như thế? Do
đó, nhiều người đã quay đi
trước những lời có thể cứu
độ họ trong kiếp sống hiện tại. Một mặt khác, hàng ngàn
người viết thơ cho bà hỏi về những nỗi khó khăn xảy đến
cho họ. Mà cũng có nhiều người, bị sự vu khống về bà đã
ngăn cản họ không cho nhờ
đến những lời khuyên
bảo của bà.
Tôi tưởng không ai thường
bị công kích một cách hèn hạ hơn Bà Hội Trưởng cao
cả của chúng
ta. Từ lâu, trước
khi là
người
Thông Thiên Học, bà đã
từng diễn thuyết về sự tự do tư tưởng trước công chúng. Đầu
tiên bà bị công kích,
chê bai, vì bà đã tái bản
một quyển sách nhỏ nhan đề "Knowlton" nói đến vần đề nam nữ, mà
người ta cần phải đề cập đến và nghiên cứu, thay vì giả vờ đức
hạnh mà để qua một bên. Quyển sách này viết đã lâu, trước khi Bà
A. Besant ra đời, nhưng bị sự truy nã đe doạ làm gián đoạn việc
xuất bản. Bà Hội Trưởng của chúng ta lấy một phần của sách đó
để xuất bản, vì bà cho rằng việc thảo luận về vấn đề ấy sẽ
hữu ích và giúp cho kẻ
nghèo có thể áp dụng những điều dạy dỗ trong sách này. Hơn nữa,
tôi nghĩ rằng đó là cách
phản đối sự phủ nhận những sự kiện tự nhiên và bảo vệ quyền tự
do tư tưởng và xuất bản tất cả những gì liên quan đến sức khoẻ
cũng như sự lợi ích chung của quần chúng. Cho tái bản quyển sách
nhỏ ấy, bà muốn phản đối
một đạo luật mà bà cho là bất chánh. Bà báo cho cảnh sát biết
trước là bà sẽ đem bán sách ấy và mời họ đến mua chính
thức một quyển vào giờ nào đó. Chấp nhận lời mời, chính
quyền đến mua tài liệu bị kết tội đó rồi truy tố bà, nhưng sự
việc kết thúc bằng sự trắng án. Sau đó, bà viết một quyển sách
nhỏ về vấn đề ấy với những danh từ chính xác hơn. Dù sao, trên
thế gian, phần thưởng của bà là sự công kích đời tư của bà một
cách tồi tệ nhất. Sau này, bà thu hồi quyển sách nhỏ ấy lại, vì
bà kết luận rằng đó không phải là phương tiện tốt để giải quyết
sự khó khăn của xã hội này. Nhưng tôi chắc chắn rằng không bao giờ
bà hối tiếc đã cố gắng hết sức mình để suy xét đến những sự
kiện như bà đã hiểu biết lúc đó. Sự hy sinh và tánh can đảm như
thế thật hiếm có dưới thế gian.
Những người ganh ghét Bà
Blavatsky cũng vận động để nói xấu bà. Những lời tố cáo bà đều
phi lý và rồ dại đến đỗi chúng
biểu lộ ngay tính cách lố bịch đối với tất cả chúng ta là
những người biết cá nhân bà. Tuy nhiên, những lời buộc tội đó đã
khiến cho nhiều người không
chịu suy xét kỹ lưỡng những chân lý Thông Thiên Học. Bà Blavatsky
đã từ trần năm 1891 nhưng nếu ngày nay bạn nói đến Hội Thông Thiên
Học, thì bạn thường gặp những câu trả lời như sau: "Hà, phải rồi
Hội ấy do Bà Blavatsky sáng lập ra và trò lừa bịp của bà đã bị
phát giác. Chúng tôi không muốn phí thì giờ và năng lực để nghiên
cứu giáo lý của một người gian trá. Làm sao nó có thể chứa đựng
chân lý được"? Do đó nhiều người đã gác bỏ bằng chứng Thông Thiên
Học, mà sự hiểu biết có thể thay đổi cuộc đời của họ.
Những gương này cũng đủ
để chứng tỏ cho chúng ta thấy tai hại khôn
lường có thể xảy ra do lòng oán hận và sự nói hành. Lối
ích kỷ đó làm thương tổn rất nặng nề nạn nhân. Dầu cho người bị
xúc phạm có thật những khuyết điểm trong tánh tình; kẻ nói
hành không tự chữa lời mình
được và cũng không tránh khỏi quả xấu mà y gây ra. Bà Hội Trưởng
của chúng ta không bị ảnh hưởng của những lời nói hành, dù trên
phương diện nào đó, bà có thể bị nhục mạ nhiều hơn
thường lệ, đôi khi bà nói: "Cái đó trở thành buồn tẻ. Tôi
muốn họ làm cái gì khác hơn". Chính tôi cũng bị công kích mãnh
liệt, nhưng sự việc này không hề làm cho tôi trằn trọc mất
ngủ. Vậy, quả báo không liên hệ đến chúng tôi. Nhưng tai hại
gây ra cho kẻ khác bởi những câu chuyện xấu xa đem quả báo đến cho
những kẻ đã nói hành và bán rao. Lãnh đạm trước việc nói xấu thiên hạ là
điều khó khăn hơn. Và tôi
phải thú thật rằng rất khó cho tôi không nổi giận, khi nghe ai nói
xấu, chẳng hạn nói xấu bà Hội Trưởng, hoặc có những tư tưởng đê
hèn hay phạm thượng nữa, đối với các Chơn Sư mà chúng ta đã biết.
Nói hành không phải là phê
bình thực sự. Tiếc thay danh từ
"phê bình" rốt cuộc có nghĩa là "đi tìm lỗi". Nó thoát thai
từ chữ Hy Lạp Krinein, có nghĩa là "xét đoán" và phải xét đoán
với tư cách pháp lý. Hiện nay nghĩa đen này đã bị biến đổi. Sự
công bằng là một trong những biểu hiện của Đức Thượng Đế. Trong
khi xét đoán lời nói và việc làm của một người mà gạt bỏ trạng
huống
[102]
là phạm lỗi và đưa đến
những hậu quả xấu xa. Phải chăng trên đời này không có một
bản Thánh Kinh tốt đẹp nào mà
không trở thành lố bịch, khi
người ta tách rời vài chữ ra khỏi toàn bài và trình bày chúng
một cách riêng biệt? Vậy
chúng ta phải chấm dứt việc làm như thế đối với tư tưởng của kẻ
khác. Một người nào đó đang
phẫn nộ, y thốt ra những lời gắt gao, có thể dữ dội và chúng ta
liền kết luận rằng tính tình y như thế. Chúng ta không hiểu tại
sao y nổi nóng. Có thể y
thức suốt đêm bên giường của một đứa con đau. Một người khác có
thể làm cho y phật ý hay nổi giận vì một lý do nào đó rồi chúng
ta nhận thấy phản ứng của việc đó, chớ thật ra y không có ác cảm
với chúng ta chút nào. Nếu y là một vị Đại Tiên, thì y không hề
bực tức chi cả, nhưng tất cả chúng ta chưa phải là những vị Đại
Tiên, cho nên những việc ấy đã xảy ra.
Khi còn bé tôi đã học
điều này với một ông lão đánh xe. Một hôm, tôi ở gần ông, bỗng có
một người đến nói với ông một cách
thô lỗ cộc cằn. Ông lão đánh xe trả lời dường như không thấy
sự bực tức của người kia. Khi người ấy đã đi xa rồi, tôi mới nói:
"Này ông John, ông đã làm gì khiến cho người ấy nổi giận
với ông như thế"? Ông
lão đáp: "Thưa tiểu
chủ, tôi có làm chi đâu; ông
ta không nổi nóng với tôi. Tôi không làm gì với ông ấy hết. Có thể
ông giận vợ ông hay là những kẻ nào đó". Rồi ông giải thích cho
tôi biết rằng khi một người không thể tự chủ được, thì y thường
gây gổ với người đầu tiên
mà y gặp trên đường đi của y.
Cái ảnh hưởng của lời
phán đoán thiếu hảo ý về tâm trí của một người, sự bền dai và
tánh độc hại của nó sẽ không thể tin được, nếu trước kia chúng ta
không có những bằng chứng về điều đó.
Một người có ý tưởng sai lạc thì tất cả đều
bị nhuộm màu của sự
sai lạc này. Chính quyển sách này đã cho ta bằng chứng về điều
đó. Đã lâu rồi, trước khi quyển sách xuất bản lần đầu tiên, tôi
được hiểu biết về sự nói hành khi nghe giảng dạy cho Alcyone, tôi
đã chú ý nhiều đến sự quan trọng của nó, nên tôi đã nhắc lại
trong nhiều dịp. Tới khi quyển sách xuất bản, vài người căn cứ
vào những điều tôi đã nói trong nhiều tháng trước cho rằng tôi là
tác giả một phần của những trang sách đó.
Tôi đã đề cập đến hai giai
đoạn phát triển ký ức về những
kinh nghiệm trên cõi Trung Giới của Alcyone. Trong giai đoạn
thứ nhất, Alcyone không nhớ được hoàn toàn, tôi đã nhắc lại cho em
giới răn đặc biệt mà Đức Thầy đã dạy em để áp dụng ở ngày kế
đó. Trong giai đoạn thứ hai, em có thể nhớ lại được tất cả mọi
việc. Thế mà ở Bombay, tôi thấy người ta lập lại rằng trọn cả
quyển sách đều do tôi lập
lại. Sự thật, quyển
sách này được viết ra trong giai đoạn thứ nhì, lúc ấy
Alcyone có thể nhớ những lời của Đức Thầy nói rồi chính em viết
lại. Một sự không chính xác thế ấy làm biến tính tất cả. Tôi đã
chịu không biết bao nhiêu nỗi bất công và những sự phán đoán sai
lầm vì những sự việc bị biến đổi như thế. Điều ấy không chút
quan hệ đối với tôi, nhưng nó đã chứng tỏ cho tôi thấy rõ rằng
người ta dễ bị hiểu lầm khi lấy một ý niệm sai lạc làm khởi
điểm. Tôi đã thấy nhiều người phạm
phải những lỗi lầm kỳ dị nhất bởi họ đã nắm lấy tất cả
những biến cố có thể xảy ra để biện hộ (binh vực) cho một ý
niệm hoàn toàn vô căn cứ từ
đầu đến cuối, nó chỉ là một sự tưởng tượng thôi.
Một trong những kinh nghiệm
mà chúng ta phải thực hiện
trên bước đường học
tập về khoa Pháp Môn là tự mình đồng hóa với tâm thức của
vài thứ. Đó chỉ là vấn đề thói quen. Vị đệ tử phải làm công
việc đó để sau này có thể tập áp dụng như thế đối với những
trạng thái tâm thức khác và cao hơn. Chúng ta tự xem mình rất cao
đối với bất cứ con thú nào, và quả thật như thế, vì chúng ta
thuộc về một loại cao hơn. Do đó chúng ta tìm hiểu tâm trạng con
thú ấy không chút khó khăn. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm cá nhân
của tôi, tôi tưởng hầu hết những người chăm lo thú vật lại giải
thích trái ngược ý tưởng và lý do của chúng. Khi bạn thực sự
khám phá được ý nghĩ của
một con thú, bạn sẽ thấy rằng nó có những lý do riêng của nó,
mà bạn không bao giờ ngờ được. Nếu chúng ta không hiểu được con
thú với những ý nghĩ thấp kém và ít oi của nó, thì chắc chắn
chúng ta càng khó hiểu những đồng loại của mình. Quả thật
chúng ta gần gũi với người đời hơn, nhưng tôi rất nghi ngờ rằng con
người không bao giờ hiểu nhau. Sự quả quyết này, dường thể kỳ lạ,
nhưng tất cả chúng ta đều cô đơn, riêng biệt một mình, mỗi người
đều cô lập. Trong một ý nghĩa khác, quả thật rằng chúng ta là
một khối huynh đệ vĩ đại, tuy nhiên, trên phương diện lý trí, mỗi
người trong chúng ta đều sống trong một tháp riêng của mình. Chu vi
cái trí của mỗi người chỉ tiếp xúc với cái trí của kẻ khác ở
một điểm nào thôi và chính điều này cũng còn mơ hồ và không có
gì chắc chắn.
Người nào muốn tấm lòng mình tràn ngập tình thương Đức Thượng
Đế, thì luôn luôn phải giữ mình đừng cho phạm ba tội trên.
C. W. L.
–
Tránh ba tội trên hình như khá dễ, nhưng sự thật không phải thế,
vì khốn thay, chúng nó rất thông thường và quá thâm nhập vào tập
quán, nên ít người nhận biết sự hiện diện của chúng. Chúng là
những nỗi khó khăn đặc biệt của chúng ta, vì trình độ tiến hóa
của chúng ta hiện nay. Chúng ta đã mở Hạ Trí, nó là thể trước
tiên chăm lo việc nêu lên những chỗ dị đồng. Đó là lý do tại sao
trước hết người ta ghi nhận trong những điều xảy ra trước mắt,
những điểm họ không thích. Rồi hầu như luôn luôn kèm theo những
lời phê bình và chỉ trích. Người nào chuyên dùng năng lực
của mình để vạch những khuyết điểm và nhận thức những sự dị
đồng là người chậm tiến trong thời đại của y. Đó là kẻ lỗi thời
vô phương cứu chữa. Hiện nay chúng ta phải học hỏi sự tổng hợp và
phải cố gắng tìm thấy yếu tố thiêng liêng và tốt lành trong tất
cả sự vật, vì chúng ta phải bắt đầu mở Bồ Đề Tâm. Chúng ta phải
cố gắng sống trong ngày mai chứ không phải ngày hôm nay. Vậy chúng
ta chớ để cho triều lưu dốt nát tối tăm này lôi cuốn. Chúng ta
phải luôn luôn giữ vững tinh
thần, nếu không thì dòng nước sẽ bao quanh
và công hãm chúng ta đến
nỗi chúng ta phải lần hồi thụt lại.
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI SÁU
�
Y
�
Con hãy xem coi sự nói hành làm những gì. Nó khởi đầu bằng những
tư tưởng xấu xa, đó là một trọng tội, bởi vì trong mỗi người và
trong mỗi vật đều có cái
tốt; trong mỗi người và trong mỗi vật đều có cái xấu. Chúng ta
có thể tăng cường điều tốt hay điều xấu bằng cách nghĩ đến nó,
và như thế thúc giục hay là trì hoãn sự tiến hóa. Chúng ta có
thể vâng lời Đức Thượng Đế hay chống lại Ngài, nếu con nghĩ đến
điều xấu của kẻ khác thì con làm ba việc quấy một lượt.
C. W. L.
–
Đức Thầy gọi tư tưởng xấu là một tội ác. Khi chúng ta nhớ đến
cách mà Đức Thầy vô cùng thận trọng và ôn hòa trong khi Ngài nói,
thì chúng ta sẽ thấy rõ
rằng tư tưởng ấy phải
thật sự là một trọng tội. Một sự cố gắng tìm hiểu những duyên
cớ của một người khác, theo dõi các cách thức suy luận của y có
thể là rất sai lầm. Vì thế cái điều tối thiểu mà chúng ta có
thể làm lợi cho y là sự
hoài nghi . Nói chung thì người đời đều rất đáng kính và có ý
tốt, vậy chúng ta nên thừa nhận khuynh hướng tốt lành của họ. Nếu
chúng ta lầm lạc, thì ý tưởng hơi tốt hơn mà chúng ta nghĩ về
người nào đó sẽ hoạt động ở nơi y và khiến cho y trở nên thật sự
tốt hơn trước vậy. Khi bạn nghe một sự phê bình bất lợi, bạn hãy
tự hỏi coi bạn có lập lại
sự nói hành đó không, có rêu rao và thêm sức cho chuyện ấy không,
nếu nó dính dấp với đứa con trai hoặc là người anh hay người em
của bạn. Không, chắc chắn bạn không làm như thế. Trước hết bạn
chống đối câu chuyện xấu xa đó và trong bất cứ trường hợp
nào bạn cũng không lập lại chuyện ấy. Tại sao bạn lại xử
sự khác hơn đối với đứa con trai hoặc anh hay em của một người nào
đó?
Một là con sinh ra chung quanh con đầy những tư tưởng xấu xa, chứ
không phải những tư tưởng tốt lành, như thế con thêm sự khổ não cho
đời.
C. W. L.
–
Đối với chúng ta, một
phần lớn cuộc đời do chúng ta tạo ra; nó cũng tùy thuộc
cách chúng ta quan niệm nó. Tư tưởng của kẻ bi quan chỉ là tìm sự
xấu xa, đen tối và tìm dịp để cảm thấy mình bị xúc phạm hay tổn
thương, vì vậy y gặp điều y tìm kiếm. Như
Đức Phật đã chỉ cho thấy rằng điều ác
đã ngự trị thế gian và có nhiều phiền não ở mấy cõi
thấp. Chúng ta có thể cho các điều
ấy những tầm mức khó khăn, nghiêm trọng hoặc có thể suy xét
cuộc đời một cách lạc quan, chúng ta nhất quyết rút lấy mọi ưu
điểm trong một tinh thần an tịnh. Trong trường hợp sau này, chúng ta
sẽ thấy không phải tất cả đều đen tối, rồi với đời sống ngoại
giới cũng như năng lực tinh thần của chúng ta, chúng ta làm cho cõi
đời trở nên vui tươi hơn đối với kẻ khác.
Nhiều người đã thực tập
và tham thiền đều đặn trong nhiều năm. Lẽ dĩ nhiên
là họ phải tập suy nghĩ chính chắn hơn đôi chút so với
người không hề thử tập như thế. Do đó tư tưởng của họ mạnh mẽ hơn
nhiều. Nếu mấy người này có ý nghĩ xấu về kẻ khác, thì hậu
quả sẽ cả ngàn cách trầm trọng hơn sự hành
động của những người thường về điều đó. Trước hết, vì
thông minh hơn, nên họ phạm tội "nghịch với ánh sáng", nói theo danh
từ Thần Học. Thứ hai là tư
tưởng của họ tạo nên những hình dạng rõ rệt và tương đối sống
lâu hơn, chúng gây một ảnh
hưởng thường xuyên và lớn
lao trong chất khí của cõi Trung Giới và cõi Trí Tuệ. Vậy bạn
hãy dùng quyền năng của bạn để mang đến sự tươi sáng và hạnh
phúc cho thế gian. Bạn không tưởng tượng được những gì người ta có
thể làm được chỉ bằng cách
xua đuổi tất cả những tư tưởng buồn phiền, ích kỷ và chứa đầy
trong lòng bạn một tình thương tỏa ra khắp nơi chung quanh bạn.
Hai là: nếu trong người ấy có điều xấu như con nghĩ, thì con nuôi
dưỡng và tăng cường nó. Như thế con làm cho người anh em của con
trở nên xấu hơn trước, thay vì tốt hơn; nhưng thường thường người
ấy không có điều xấu đó, con chỉ tưởng tượng mà thôi. Trong trường
hợp như thế, tư tưởng xấu của con xui giục y làm quấy, bởi vì
nếu y chưa trọn lành
thì con có thể làm cho y
giống như ý con đã tưởng.
C. W. L.
–
Người có thần nhãn thấy được những tư tưởng của người này đi qua
người kia và kêu vo vo chung quanh y như một đàn muỗi. Chúng không
thể xâm nhập y được, khi y lo việc khác, nhưng khi tư tưởng của y
hoạt động chậm lại hoặc lúc y đang tham thiền hay mệt mỏi, chúng
sẽ nắm lấy cơ hội. Rồi hình tư tưởng bám vào hào quang của y như
một hạt ngưu bàng1
và do sự rung động của nó, nó dần dần nhuộm màu chỗ tiếp điểm
là nơi ảnh hưởng của nó truyền đi. Như
thế nó gởi ra một ý niệm hoặc xấu hoặc tốt và nếu có
một yếu tố đồng tính với
nó trong người bị ảnh hưởng, như trường hợp thường xảy ra, thì nó
sẽ làm cho yếu tố đó hoạt động lại.
Một sự đẩy nhẹ vào kẻ
khác đôi khi không đáng kể, nhưng trong vài trường hợp hậu quả nó
thành ra hệ trọng. Trong lúc chạy, học trò chen lấn nhau, lại xảy
ra việc không ngờ chút nào là một trong mấy đứa đó, làm cho bạn
nó rơi xuống hố. Chúng ta không thể biết được lúc con người đang
suy nghĩ, sắp phạm một trọng tội, chỉ cần một tư
tưởng xấu đưa tới y, cũng có thể làm cho y sa ngã. Một
mặt khác, khi con người đang ở trong trạng thái lưng chừng
giữa đều thiện và điều ác, chỉ cần một tư tưởng dũng mãnh cũng
có thể đưa hẳn y về phía
tốt đẹp và giúp y đi theo chiều hướng tiến hóa nhanh chóng.
Tôi đã thấy nhiều trường
hợp một tư tưởng xấu xa hướng về một người làm cho y phạm tội ác
mà hậu quả kéo dài trong nhiều kiếp sau. Điều ác ở trên mặt,
nhưng nó chưa biến thành sự hành động; một tư tưởng ác từ kẻ
khác truyền đến và biến đổi tư
tưởng của người ấy
thành ra hành động, khiến cho y trở nên kẻ phạm một
đại tội. Ngày nào bạn chưa thấy điều này bằng thần nhãn,
thì dường như nó không phải
là sự thật đối với bạn. Chỉ cần thấy mấy việc đó một lần thôi,
thì bạn sẽ luôn luôn thận trọng, vì bạn đã hiểu biết sự ghê tởm
ấy. Điều này đã cho bạn một cảm giác mới về trách nhiệm, một
cảm giác đôi khi có hơi nặng nề. Bạn hãy nhớ lại ý kiến
của Thi sĩ Schiller về
vấn đề thần nhãn. Nhà Thi sĩ khao khát được trở lại tình trạng
mù lòa thuở xưa. Ông nói: "Ngài hãy lấy lại ác phẩm của Ngài.
Ngài hãy lấy lại món quà
ghê gớm ấy đi".
Ba là : con chứa đầy trong trí con những tư tưởng xấu xa chứ không
phải những tư tưởng tốt lành; như thế con trì hoãn sự tiến bộ
của con và phô bày trước mắt những người thấy được nó, một cảnh
tượng xấu xa, khổ não, chớ không phải tốt đẹp và xinh tươi.
C. W. L.
–
Nhiều người rất chú ý về
diện mạo cũng như về duyên dáng và phong cách thuần hậu của mình;
như thế chẳng phải chỉ vì
họ nhắm đến chỗ họ phải trình diện một cách tuyệt đẹp và tạo
một ý tưởng tốt về họ, mà cũng vì đó là bổn phận đối với xã
hội theo quan niệm chung. Đành rằng thuở xưa bổn phận của mỗi
người là dùng mọi cách để nhắm vào sự tận thiện, tận mỹ. Trong
y phục, hình dáng, lời nói, hành vi, con người phải tập cho đúng
đắn, duyên dáng và thích đáng để làm mọi việc. Cá nhân cũng như
đồ bày trí chung quanh mình không những phải có tính chất hữu ích
mà còn xinh đẹp nữa. Nếu một người nào đó muốn cất một ngôi
nhà, thì bổn phận của y đối với những người lân cận là phải xây
dựng một chỗ cư trú xinh xắn, trang nhã, dù không cần phải đắt
tiền. Đồ gốm, hình tượng và tranh ảnh của y cũng phải thật tuyệt
hảo. Hiện nay thường thường
người ta chỉ nghĩ đến sự xây cất rẻ tiền chứ không bận tâm đến
hậu quả xấu xí của nó. Người kia xây
cất một ngôi nhà hoặc
là một cái xưởng to lớn và xấu xí, ai nhạy cảm đều dội ngược
ngay trước nó và tất cả những kẻ nhìn vào đó cũng bị
ảnh hưởng
xấu xa. Người có trách nhiệm trong
việc xây cất này thực sự tạo quả xấu cho y. Người ta có
thể nói với các bạn rằng
việc đó không có quan trọng; nhưng sự thật
thì ngược
lại. Cảnh quang chúng ta phô bày một
tính chất tối hệ trọng. Chắc chắn một linh hồn dũng mãnh
có thể thắng được điều đó, nhưng tại sao chúng ta không trưng bày
chung quanh mình những đồ
vật thuận lợi cho sự cố gắng cho chúng ta, mà lại trang bị những
vật tạo ra ảnh hưởng bất
lợi. Ai cất một ngôi nhà xinh đẹp đều có công lớn đối với đồng
bào; vì người ấy đã phô bày trước mắt thiên hạ một kiến
trúc gây sự tốt đẹp cho những người ngắm xem nó. Cảm giác
thú vị trong khi nhìn ngắm một vật đẹp có giá trị của nó. Tôi
luôn luôn cảm thấy rằng chúng ta nên biết ơn bất cứ người nào mặc
màu sắc tươi đẹp vì lẽ màu sắc này tạo nên hiệu
quả đối với nền văn minh
đen tối đáng sợ của chúng ta.
Tất cả những gì thật sự
đẹp đẽ ở cõi trần thì tự nhiên cũng đẹp đẽ hơn nữa trên
các cõi khác. Người nào tự
bao bọc mình với
một
Cái Vía đẹp đẽ, và tỏa ra khắp chung quanh y, tình thương
và sự sùng tín
thì sẽ xứng đáng được
đồng bào tri
ân. Chúng ta thường có những thính giả trên cõi Trung Giới
nhiều hơn ở cõi trần. Nếu chúng ta tự để cho sự xấu xa biểu lộ
trên cõi Trung Giới, thì có vô số người phẫn
nộ hoặc khó chịu
về hình dáng của chúng ta nhiều hơn ở cõi trần. Chẳng phải
chỉ có những người trên cõi Trung Giới mới thưởng thức được vẻ
đẹp, mà tất cả đều cảm được, cho đến những người không thấy được
nó, cũng vậy. Những sự rung động
này có hiệu lực với họ và mỗi người đều nhận được sự
tốt lành của nó. Người nào nhượng bộ trước những tư tưởng xấu
xa, ích kỷ, tà vạy tức là đang tạo chung quanh y một sự
bất an, một cảnh tượng xấu xa, phiền muộn và khổ não. Ở
dưới cõi trần con người có thể che đậy những nỗi khốn khổ trong
thân mình y, nhưng những
người phong hủi trên cõi Trung Giới sẽ phô bày vết thương của mình
trước mắt mọi người.
Kẻ nói hành đã làm tất cả tai hại này cho y và cho nạn nhân của
y song y chưa vừa lòng, y hết sức kéo nhiều người khác chia sớt
tội ác của y. Y vội vã đem chuyện độc ác của y nói với họ, hy
vọng họ tin theo. Rồi tất cả những người này hiệp nhau rải một
luồng sóng tư tưởng xấu xa vào nạn nhân đáng thương ấy. Và việc
ấy cứ tiếp diễn ngày này qua ngày khác, không phải một người làm
mà cả ngàn người như vậy. Bây giờ con có bắt đầu thấy tội ác ấy
xấu xa và ghê tởm đến dường nào chăng? Con phải tuyệt đối đừng
phạm vào tội ấy. Con đừng nói xấu ai mà cũng chớ nghe người ta
nói xấu kẻ khác, và hãy nói
cho người ta biết một cách dịu dàng như sau: "Có lẽ điều đó
không có thật, và nếu có thật đi nữa, đừng nói đến mới thật có
lòng nhân từ hơn".
C. W. L.
–
Phải có một mức độ can đảm nào đó mới bày tỏ được như thế,
nhưng cần phải có sự can đảm đó để tỏ ý tốt đối với kẻ bị nói
hành, cũng như đối với người bị chỉ trích. Người ta có thể làm
điều ấy một cách dịu dàng bằng lối dùng nhân xưng đại từ "chúng
ta": "Có lẽ tốt hơn chúng ta đừng nói về việc đó nữa". Như thế
chúng ta không có vẻ tỏ ra người trưởng thượng. Điều
này trái với nguyên tắc của Huyền Bí Học và làm cho người
ta tức giận. Người đối thoại với bạn chắc chắn sẽ nghe lời bạn
và ngưng câu chuyện lại.
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI BẢY
�
Y
�
Còn về sự hung ác, thì có thể có hai thứ: cố ý và vô tình. Cố
ý ác là làm cho sinh vật đau đớn. Tội này lớn hơn tất cả những
tội ác khác, đó là việc làm của một con quỷ chứ không phải của
con người. Con sẽ nói con người không thể làm như vậy được, nhưng
nhiều người đã thường làm điều đó và mỗi ngày mỗi làm nữa.
Những vị pháp quan của tòa án tôn giáo xưa làm ác. Nhiều
tín đồ nhân danh tôn giáo mình mà làm ác.
C. W. L.
–
Sự hung ác là việc làm của bọn quỷ hơn là của con người. Đó là
quan điểm của Đức Thầy. Trong đời sống hằng ngày,
lắm khi người ta nói hay làm một việc nào đó để gây khổ cho
kẻ khác. Sự kết tội ấy phải qui về y. Y hành động giống như ma
quỷ hơn là con người. Đó là điều dường như khó tin, nhưng có nhiều
người đã làm.
Nhiều tội ghê tởm đã phạm
nhân danh tôn giáo. Chúng ta hãy đọc đoạn văn tối cổ, như Kinh
Phệ Đà (Védas), sẽ thấy nó làm cho ta suy gẫm thật nhiều về
điều đó - những người Aryen
[103] xâm chiếm đồng bằng Ấn Độ
và chém giết dân xứ ấy. Đối với dân bổn xứ không có gì làm cho
họ ghê sợ hơn. Phải tiêu diệt họ không còn một người nào trên mặt
đất! Tại sao những người Aryen hành động như thế? Chỉ vì một lý
do cũng đủ lắm rồi, bởi vì những lễ bái của họ không giống với
lễ bái của người Aryen. Những người Hồi Giáo rải rác trên một
phần lớn quả địa cầu buộc những dân tộc bị họ chinh phục phải
chọn hoặc quyển Kinh Coran
hoặc lưỡi gươm. Những người Thiên
Chúa Giáo cũng làm như vậy. Một tinh thần như thế gây nên
sự quyết định của những vị pháp quan tòa án tôn giáo thời
Trung Cổ, những sự đối xử tàn nhẫn với người Ấn Độ ở Nam Mỹ
Châu, và còn nữa. Bây giờ đây chúng ta tưởng rằng chúng ta văn minh
hơn, nhưng hiện nay lòng sùng đạo ở vài vùng vẫn còn rất hung bạo
và khắc nghiệt. Người ta thích
nói rằng nếu luật pháp cho phép ngược đãi như thế, nền văn
minh của chúng ta đã tiến xa
quá nên không cho chúng ta tái diễn những sự ghê tởm thuở xưa. Tôi
không chắc điều đó đâu. Tôi biết nhiều vùng ở Anh Quốc nơi đó
những người có những tín ngưỡng không chính thống bị loại ra khỏi
những chức vị xã hội và bị nghi ngờ mọi điều xấu xa. Chúng ta
không đánh họ nhừ tử và không bẻ răng họ như
tổ tiên chúng ta đã làm. Thời đại nào, phong tục nấy! Tôi
không thích thấy uy quyền tuyệt đối ở trong tay giáo phái độc đoán
nào.
Những người giải phẫu sinh thể để thí nghiệm học hỏi, cũng đã
làm ác.
C. W. L.
–
Không thể nào có thể bàu chữa lỗi mình trong việc hành hạ thú
vật có phương pháp. Chúng là những huynh đệ còn non trẻ của chúng
ta, dù chúng chưa tiến đến bậc làm người, nhưng chúng sẽ được làm
người, sau khi trải qua một số kiếp luân
hồi dài hay ngắn. Dùng thú vật thí nghiệm gây ra sự hung ác
thật ghê tởm và thật ra không bao giờ phục vụ cho nhân loại, bởi
vì luật nhân quả không thay
đổi, và con người gieo cái gì y
phải gặt cái đó. Tôi có nghe Bà Bác sĩ Besant tuyên bố rằng
không có sự sống nào nên cứu bằng những phương pháp như thế. Chúng
ta biết rằng bản năng sinh tồn ăn sâu vào lòng mỗi người và mỗi
con thú, đặng cho xác thân
có thể thành ra dụng cụ để phục vụ lâu dài đời sống bên trong,
xác thân do lắm công phu và
khổ nhọc mới tạo ra được. Do đó cần phải cứu mạng con người bằng
những phương tiện chính đáng. Nhưng cứu cánh
không thể biện minh
cho mọi phương tiện. Chúng ta rất có lý và khâm phục những
người thà chết hơn chịu ô nhục. Chắc chắn đó là mọi sự ô nhục
lớn lao đối với những kẻ dùng những phương tiện quái đản như thế
để bảo tồn sự sống của mình. Bà Hội Trưởng của chúng ta nói
rằng bà thà chịu chết hơn là được cứu sống theo cách ấy.
Về vấn đề này, chúng ta
gặp trong Hội Thông Thiên Học những ý kiến khác biệt nhau, mỗi
người đều có quyền tự do tin
tưởng theo ý riêng của
mình, nhưng ý kiến của Đức Thầy đưa ra trên đây thật minh bạch. Dù
sự ghê tởm của chúng ta trước sự hung
ác trong sự giải phẫu hình thể có thế nào đi nữa, chúng ta
cũng phải nhìn nhận rằng
nhiều vị y sĩ và những
người cùng chí hướng đã hối tiếc khi làm việc ấy. Sự hung ác
không làm cho họ vui một chút nào (dù việc làm ấy khuyến khích
vài tinh quái mang lớp người
giữa xã hội chúng ta), nhưng họ nghĩ rằng đó là phương cách duy
nhất để bảo vệ xác thân con
người khỏi đau đớn và chết chóc. Họ đã thành thật tin tưởng rằng
trong trường hợp này cứu cánh sẽ biện minh cho phương tiện. Do đó,
dù chúng ta bất đồng với họ, chúng ta chớ nên lên án kẻ phạm tội
mà hãy lên án sự tội lỗi.
Chắc chắn Luật Nhân Quả sẽ mang đến cho những người giải phẫu sinh
thể nhiều sự đau đớn. Nhiều người tỏ ra tức giận và gần như oán
ghét đối với những người giải phẫu sinh thể, nhưng nếu biết
được sự thật này, thì mấy người ấy sẽ xót thương cho họ.
Không phải những người
giải phẫu sinh thể đều hung ác như nhau. Tôi có biết một nhân viên
trong Hội chúng ta là một nhà giải phẫu nổi tiếng, ông đã thực
hiện việc
giải phẫu sinh thể theo một phương cách đặc biệt. Trong thân
thể con người có vài huyết quản đôi khi bị vỡ. Nó mảnh mai đến
nỗi nếu người ta thử ráp hai đầu ấy, luôn luôn không tránh
khỏi sự kéo da non lành vết thương làm nghẹt huyết quản. Từ lâu,
không thể chữa được trường hợp này. Sau cùng, vị Bác sĩ ấy nghĩ
rằng nếu rạch một đường lớn hơn,
người ta có thể làm cho vết thương lành mà không nghẹt huyết
quản. Ông thực hiện việc ấy bằng cách rạch một đường gần cuối
đoạn đứt và một đường nữa bên cạnh khúc kia rồi đặt hai đường
cắt ấy kế tiếp nhau. Muốn cho sự hiệu nghiệm của phương pháp đó
chắc chắn ông đã thử trên một số chó. Ông nói với tôi rằng ông đã
dùng lối nửa tá chó hoang trong cuộc thí nghiệm ấy. Những con chó
này được nuôi đầy đủ và ở trong tình trạng hoàn mỹ trước khi
giải phẫu. Chúng được dùng thuốc tê và săn sóc kỹ lưỡng cho đến
khi chúng hoàn toàn bình phục. Việc làm đó chứng tỏ cuộc giải
phẫu thành công. Như thế sự chữa trị lành mạnh mà trước kia
người ta cho là tuyệt vọng lại được công nhận dễ dàng. Hiện nay
lối giải phẫu đó được thực
hiện trên toàn thế giới và đã mang tên vị y sĩ đã phát minh ra
nó. Nguyên tắc thì bất chính tuy nhiên không mang tính cách hung ác
đối với thú vật. Chẳng những
chúng không chịu thiệt
hại gì trong thời gian thí nghiệm mà số phần chúng còn được cải
thiện. Vậy cuộc thí nghiệm này hoàn
toàn không giống như những cuộc thí nghiệm thông thường khác
và tôi tưởng rằng công kích vị y sĩ này là điều rất sái quấy
cũng như những kẻ phản đối
sự giải phẫu sinh thể luôn luôn công kích
những người giải phẫu.
Một vài cuộc thí nghiệm
được mô tả trong sách vở thật hung ác và khốc liệt. Chẳng hạn như
cuộc thí nghiệm để ghi nhận xem đến nhiệt độ nào con thú có thể
được nướng chín trước khi vài cơ năng của nó biến mất, chưa kể
đến những điều ghê tởm hãi hùng
khác và hiển nhiên là vô dụng. Hàng ngàn cuộc thí nghiệm
khác được thực hiện một cách vô ích để sinh viên học hỏi một
cách tổng quát và để đạt
những kết quả không có mục đích, vì
sự cấu tạo
cơ thể con người về nhiều
phương diện khác xa so với sự
cấu tạo cơ thể của loài vật. Thí dụ một con dê cái có thể
ăn cây kỳ nam ( jusquiame ) chung
với nhiều
thức ăn khác, mà không
thấy phản ứng gì; nhưng
nếu con người ăn như thế y sẽ bước sang cõi Trung Giới. Chúng
ta phải nói thêm rằng, khi một con thú bị hành hạ và khiếp đảm
thì những khí lực trong thân xác nó cũng biến đổi khiến cho sự
quan sát chúng không còn chính xác nữa.
Dĩ nhiên là thần nhãn
phải thay thế cho tất cả những sự hung ác này. Nếu vị y sĩ có
thể quan sát tổ chức bên trong của người sống khi thân thể còn
nguyên vẹn thì thật hữu ích hơn là giải phẫu sinh thể thú vật,
mà sự cấu tạo khác biệt với con người rồi đưa ra suy luận về cơ
thể con người. Những ai cảm thấy rằng sự giải phẫu
sinh thể là vấn
đề quan trọng, thì họ nên thành lập một cái hội mà những
nhân viên trong hội đồng thí nghiện lẫn nhau. Hội này sẽ cung cấp
cho họ những xác thân con người mà các phản
ứng chắc chắn sẽ hữu
ích hơn là những phản ứng vô dụng của thú vật. Rốt cuộc họ
tránh được những cực hình ghê tởm đối với những sinh vật không có
ai bảo vệ. Đó là điều mà
trong thế
giới do Thượng Đế tạo
ra, họ không có quyền làm. Nhưng tất cả những điều kiện này đều
vô ích, vì một phần mười sự cố gắng, nghiên
cứu và tìm tòi được hiến cho những cuộc thí nghiệm cũng
đủ để tuyển mộ một đạo binh có thần nhãn đáng tin cậy. Tôi sẽ
nói rằng ngay sự chuyên tâm học tập lâu dài của một sinh
viên trung bình, thường thường
cũng thừa đủ để cho
y khai mở thần nhãn.
Một loại hung ác khác đã
đe dọa chúng ta phát sinh từ sự lạm
chiếm quyền hạng của nghiệp đoàn y sĩ chính thống. Chúng ta
không muốn trở nên nô lệ họ, cũng như tổ tiên chúng ta đã nô lệ
giáo đường. Dù những y sĩ đã thực hiện một điều lành, một việc
phước đức bằng nhiều phương cách, nhưng không vì thế
mà họ có quyền thiết lập những cuộc "thẩm xét khoa học"
hoặc áp dụng sự trừng
phạt đối với những ai không chịu khuất phục trước y lý hiện
kim của họ. Chắc chắn chỉ
có luật dân sự mới có thể trừng phạt chúng ta. Những giáo đường
cũng trừng phạt như thế: những người không chịu tin tưởng và vâng
lời bị gởi qua tòa án dân sự với lời cầu khẩn giả dối là "đừng
làm đổ máu". Do đó, nhà cầm quyền thay vì xử trảm nạn nhân, lại
xử thiêu họ. Sự cưỡng bách chủng
đậu đã gây nên việc chống đối. Trong vài xứ chủng đậu còn
bị cưỡng bách mà không minh chứng cho
người ta thấy rằng
phương thức không tệ hơn bịnh mà nó muốn diệt trừ
[104]. Ý kiến về khoa
học rất thường thay đổi trong giới y học, nhưng lúc đương
thời, mỗi lý thuyết đều được những người đồng quan niệm nhiệt
liệt ủng hộ. Lịch sử đã cho thấy rằng quyền lợi của một nhóm
người nắm giữ uy thế thường tạo những sự áp chế khủng khiếp và
những nỗi khốn khổ vô bờ bến. Không, không nên có sự "thẩm xét
khoa học".
Có vài người cố gắng
bàu chữa tất cả những sự hung ác đối với thú vật, theo
lý thuyết cổ của người Do Thái cho rằng
thú vật sinh ra chỉ để phục vụ con người. Chúng ta hiểu
biết hơn điều đó. Thú vật sinh ra đây do ý muốn của Đức Thượng
Đế. Chúng nó là biểu hiện
của những giai đoạn tiến hóa do sự sống của Ngài đã thâm nhập
vào. Tuy nhiên chúng ta có quyền sử dụng thú vật với điều kiện
là giúp cho sự tiến hóa của chúng. Nhờ tiếp xúc
với con người mà chúng nó được tiến bộ. Quả nhiên là chúng
ta chiến đấu với con ngựa rừng khi chúng ta bắt nó, nhưng trên
phương diện khác, nhất là trí não,
nó đã mở mang nhiều trong đời sống bị bó buộc.
Những người khác lại đem
quan niệm xưa của người Do Thái áp dụng vào con cái. Nhiều người
cha mẹ tin chắc rằng con cái
sinh ra chỉ vì họ, để phụng sự họ, làm cho họ vinh hạnh, săn sóc
họ trong lúc tuổi già, vân vân . . . . Đó là nguồn
gốc của ý niệm vô
nhân đạo này: Phải bắt buộc trẻ con trở thành như
ý chúng ta muốn nó như thế nào, mà không để ý đến thiên tư
và quyền lợi đặc biệt của nó thuộc về những tiền kiếp. Điều
này đưa đến sự hung ác tế nhị.
Nhiều vị giáo chức thường làm ác. Tất cả những người ấy cố
gắng bàu chữa sự tàn bạo của họ bằng cách nói rằng đó chính
là tại tục lệ. Nhưng không phải vì lý do có nhiều người phạm mà
một tội ác không còn là tội ác nữa.
Đánh đập trẻ con là một
tục lệ lan tràn. Nhưng không vì thế mà bàu chữa được lỗi mình.
Tuy nhiên tục lệ đó không có tính
cách phổ quát. Tôi thật sung sướng mà thấy vài xứ đã đạt
đến trình độ văn minh về phương diện này. Tôi tưởng nước Nhật Bản
là một trong số đó. Theo kinh nghiệm riêng, tôi biết rằng ở Ý cũng
thế. Tôi ở lâu ngày trong một
thành phố lớn ở Ý, tại một ngôi nhà mà cửa sổ hướng ra
sân một trường Trung Học quan
trọng. Từ nơi đó tôi theo
dõi một cách rất thú vị những mối liên hệ giữa thầy và trò. Cho
hay bản chất của những trò
này dễ bị kích thích và tự
do hơn, nên kỹ thuật áp dụng đối với chúng phải khác với
kỷ luật của nước Anh. Học trò đang sắp hàng, bỗng một em trong
đám chạy đến vị giáo sư, cầm tay ông và
nói một
cách tha thiết. Vị
giáo sư vuốt đầu
đứa bé và mỉm cười, chắc ông chấp thuận lời yêu cầu
của nó hoặc nói đến điều đó. Tất
cả mọi người
đều sống trong tình tương thân tương ái. Còn
một nhận xét khác như sau: mỗi lần những em học sinh trai
này gặp thầy chúng ngoài phố, chúng chạy tới túm lấy tay ông và
cũng đối đãi với ông như một người bạn chí thân, ngoài giờ học.
Đó là dấu hiệu tốt đẹp, vì người được trẻ con thương mến luôn
luôn đúng
là một người tử tế; bản năng của chúng không sai lầm. Bên
Ý, không có một sự hung ác
nào có thể xảy ra như trong các trường học bên Anh Quốc, vì phong
tục của hai nước khác nhau. Xâm phạm đến một cá nhân nào là một
tội lỗi không thể dung tha trong xứ ấy. Điều
này gây ra việc sử dụng dao mác và những cuộc đấu gươm, vân
vân . . . . Như thế, trẻ con được bảo vệ hoàn toàn.
Từ lâu,
sự trừng phạt là một
tục lệ. Nhưng tục lệ này không
làm giảm được tính cách của sự hành phạt, vừa là hung ác,
vừa là vô ích một lượt. Trước hết, sự trừng
phạt không phải là công
việc của chúng ta. Luật Nhân Quả đảm trách tất cả những
việc đó và nó không thể lầm lẫn như chúng ta thường lầm lẫn.
Những sự bất công kinh nhủng của luật pháp đã xảy ra không biết
bao nhiêu lần rồi; những hình phạt vô cùng nặng nề đã giáng xuống
cho những người hoàn toàn vô tội. Kẻ phạm tội làm hại cho nó
nhiều hơn là những kẻ khác, và người ta có thể để cho sự trả
thù đi theo sự lưu hành tự nhiên của nó.
Ngoài điều đó ra, sự
trừng phạt được áp dụng để gây sự sợ hãi trong lòng người phạm
tội về sau này và cũng nhằm nhắc nhở chung cho tất cả những
người khác. Đánh đập trẻ con thật giống sự trừng phạt của luật
pháp đối với tội nhân: luôn luôn đó là ý định trả thù. Dường như
người ta nói rằng: "Anh làm điều này, điều kia rồi anh phải hối
hận về điều đó". Thường thường một ông thầy nổi giận. Sự xúc
động của ông là nguyên nhân của việc trừng phạt,
chứ chẳng phải sự suy xét hợp lý vì quyền lợi của đứa
trẻ. Tôi biết người ta nói
rằng sự trừng phạt của luật pháp nhằm ngăn
ngừa tội lỗi; nhưng chúng hành động một cách khác hẳn.
Trước đây một trăm năm, sự trừng phạt của luật pháp nước Anh rất
nghiêm khắc. Chẳng hạn người ta treo cổ một người vì y đã ăn cắp
một vật nào đó đáng giá một đồng "si-linh" (shilling) và sáu xu.
Tôi nhớ đã đọc ở cửa khám đường Newgate (như người ta cũng đọc ở
nơi khác) như sau: "Kẻ kia bị treo cổ vì đã ăn cắp đôi bao tay (găng)
đáng giá hai hoặc ba đồng si-linh". Trong thời kỳ ban hành những
hình phạt nghiêm khắc như thế, việc phạm tội lại còn nhiều hơn
hiện nay. Hình phạt không ảnh hưởng bao nhiêu đến tội trạng. Đó là
vấn đề giáo
dục tổng quát và văn minh.
Thường thường không có sự
liên quan nào giữa tội trạng đã phạm với sự trừng phạt của pháp
luật hay là nhà trường. Một
người ăn cắp, y bị tống giam một thời gian. Có sự tương quan nào
giữa hai việc ấy? Muốn được hợp lý phải bắt kẻ phạm tội làm
việc để đền bù lại giá
tiền của vật bị đánh cắp và hoàn nó lại cho người chủ bị trộm.
Sự trừng phạt phải hết sức tương xứng với tội trạng. Bỏ tù một
người chỉ vì y đã ăn cắp là một thứ ác mộng. Đối với chúng ta
cũng giống như thế, nếu một đứa trẻ không học bài thì nó bị
đòn. Đâu là sự tương quan
của hai sự kiện ấy?
Người ta có thể nói một cách hợp lý một phần nào như sau: "Em
không học bài, em sẽ bị chậm trễ hơn các bạn học của em. Vậy em
phải ở lại đây học thay vì đi chơi". Nhưng phương pháp áp dụng hiện
thời là vô lý và hoàn toàn sai lầm. Ý định trừng phạt luôn luôn
bất hảo và tất cả những tục lệ trên đời cũng chẳng thay đổi
được điều gì. Cả ngàn
chuyện vô cùng bất hảo và phi lý đều phát sinh theo tục lệ, như
tục bó chân bên Tàu và vài kiểu cách thời thức của chúng ta,
trong những thời đại khác nhau. Không nên tưởng rằng một sự thực
hành phù hợp với phong tục, dù trong nhiều thế kỷ, đều tốt đẹp
và cần thiết, vì thường thường không phải như thế, nó vẫn trái
ngược lại.
Một công đoàn có thể nói
một cách hợp lý với một kẻ tái phạm, như người ta đã làm điều
đó tại xứ Pérou ngày xưa: "Chúng
tôi là những người văn minh. Chúng tôi đã trải qua không biết
bao nhiêu khổ nhọc mới lập
quốc theo một công trình nhứt định, dành cho những người tuân giữ
luật pháp quốc gia cư ngụ. Nếu anh không muốn tuân theo luật, anh
hãy ra đi và đến sống với những kẻ
khác". Chỉ có sự trừng phạt trong xứ đó mà thôi; là đày đi
qua xứ khác. Vả lại, sự lưu
cư đến trong những bộ lạc
dã man là điều
ô nhục lớn nhất và còn kèm theo những sự thiếu thốn. Khi
một người Mã Lai trở nên điên cuồng hung dữ, chúng ta phải ngăn cản
y lại, dù phải diệt trừ mạng sống của y. Nhưng trừ
những trường hợp nguy kịch và bất khả kháng, chúng ta không
có quyền giết chết, không có quyền hành hạ ai bao giờ. Đó là
điều tuyệt đối chắc chắn.
Nếu sự xử trảm là nhằm trả thù, thì sự hung ác của chúng ta
cũng không kém gì kẻ sát nhân, y đã gợi lên cái mà chúng ta gọi
một cách êm tai là sự phẫn nộ chính đáng của chúng ta. Nếu nguyên
tắc của chúng ta có mục đích trừ khử người đó, thì nó vẫn sai
lầm, vì nhà nước có bổn phận đối với tất cả những công dân, chứ
không phải đối với những người bình thường mà thôi.
Hơn nữa phải nghĩ đến
con người thật, chứ không phải nghĩ đến xác thân. Tìm giải pháp
dễ dàng hơn hết bằng cách thủ tiêu kẻ phạm tội là thực sự sát
nhân. Hơn nữa phương cách này rút cuộc vô
ích vì nó khích động
nhiều dục tình thấp hèn và
con người khi đầu thai lại sẽ liên hệ với chúng ta bằng những điều
kiện nghiệp quả không có gì là tốt đẹp. Kẻ sát nhân thật là một
trường hợp bệnh lý (rất hi hữu và phần nhiều những kẻ phạm tội
chịu ảnh hưởng của môi trường bất lợi). Không nên hành hạ và tàn
ác đối với kẻ phạm tội, vì xử sự như thế tức tăng cường khuynh
hướng chống đối xã hội ở nơi y, nhưng với cách đối đãi và một
kỷ luật thật sáng suốt, chúng ta sẽ đưa y trở lại hàng ngũ của
những người công dân bình
thường về phương diện vật chất và tình cảm. Chính phủ chăm lo về
vật chất và tinh thần của mỗi cá nhân bất toàn, nhưng đồng thời
cũng phải săn sóc những tội nhân, nói chung là những người bất
thường về tinh thần hoặc tình cảm. Đó là thái độ bác ái, đó
chính là quan điểm của Đức Thầy.
Lý tưởng phải đạt được
đó vốn là chân thật, hiển nhiên, và thực tế. Kẻ sát nhân và trẻ
con phải được giúp đỡ bằng sự giáo hóa, chứ không phải bị sự sợ
hãi thúc đẩy. Hệ thống
giáo dục làm cho trẻ con kinh sợ tạo ra những hậu quả hết sức tệ
hại. Vì đưa vào đời sống chúng lo sợ, buồn phiền và độc ác,
thường gây ra sự tai hại cho tánh tình và đức hạnh của người công
dân. Dưới một hình thức khác, đó là ý niệm của giáo đường thuở
xưa về hỏa ngục, nhưng chính nơi đây là hỏa ngục và trẻ con tinh
ranh một chút có thể thoát được. Người ta tin rằng có thể cải
thiện con người bằng cách làm cho nó sợ hãi: ý tưởng này tồn
tại được thật là điều kỳ lạ. Một trong những tiểu thuyết gia danh
tiếng đã viết thư cho tôi cách đây ít lâu và nói rằng ông có gặp
một thanh niên tại một trạm nghỉ trên bờ biển, và ông đã trình
bày vài ý niệm Thông Thiên Học với y, giải thích cho y nghe sự phi
lý của lý thuyết về hỏa ngục. Sau đó, mẹ của thanh niên vô cùng
phẫn nộ, đến viếng vị tiểu thuyết gia ấy. Bà nói: "Phương sách
duy nhất mà tôi đã thành công trong việc đem con tôi đi theo con
đường chơn chánh là làm cho nó sợ hãi vì ý niệm hỏa ngục và đe
dọa nó mỗi ngày từ sáng đến tối. Bây giờ ông làm cho nó tin chắc
rằng không có địa ngục, tôi phải chịu bó tay". Nếu sáng suốt hơn
một chút, ban đầu bà sẽ giải thích cho con bà hiểu biết thì việc
dùng đến cách khủng bố không tốt đẹp này sẽ chẳng cần thiết.
Sự tự do và tình thương
là hai yếu tố quan trọng trong sự phát
triển linh hồn con người. Nhiều người sẵn sàng để cho kẻ
khác tự do, với điều kiện những người ấy theo đúng yêu sách của
họ. Nhưng mà sự tự do thật sự là tự do cố gắng theo phương cách
riêng của mình. Thường thường người ta hay xen
vào sự tự do của người khác và sự điều khiển
từ bên ngoài quá nhiều làm giảm sút đời sống hoạt động mà
nó muốn che chở hay giúp đỡ. Người ta nhận thấy điều này trong
sinh hoạt học đường, nơi đây đã đặt ra nhiều điều lệ vô ích, trong
khi sự tự do cá nhân đem lại nhiều cơ hội cho sự tiến bộ. Đó là
một trong những điều dị biệt căn bản giữa chính thể Anh Quốc và
vài quốc gia khác. Tóm lại, nước Anh cố gắng để cho mọi người
công dân có thể được tự do. Những nước khác muốn tránh sự xáo
trộn và nguy hiểm nên giúp đỡ người dân bằng cách bắt họ chịu
mọi hạn chế. Một ngày kia, một viên chức ngoại quốc nói với tôi
rằng: "Này ông, trong một nước cai trị khôn khéo, thì tất cả đều
bị cấm"! Trong những cuộc du lịch vòng quanh thế giới của tôi,
những hình thức luật lệ khác nhau đều gây sự chú ý nhiều với
tôi. Nước này đặt ra những sự nghiêm cấm, nước khác thì đó chỉ
là sự yêu cầu. Vài nước theo phương pháp quân sự, nó chỉ thích
hợp với linh hồn thật ấu trĩ. Những nước khác, kêu gọi lương tri
và ý chí cao đẹp của con người. Chẳng hạn tôi nhớ đã đọc một
yết thị phản đối vài thói quen
phiền toái bằng những lời lẽ sau đây: "Những người lịch sự
không muốn và những kẻ khác không nên làm việc nào đó". Chính là
lời yêu cầu này nêu lên tại Hoa Kỳ, một trong những quốc gia trẻ
trung nhất. Theo cách thức ấy khá hay.
Có những trường hợp, vì
quyền lợi của đoàn thể sự
cưỡng bức trở nên cần
thiết, nhưng tốt hơn luôn luôn nên có sự đồng ý của dân chúng hơn
là sai khiến một cách hống hách, hay là cai trị một cách nghiêm
khắc. Tôi e rằng điều này mới vừa hiểu được trên phương diện giáo
dục. Luôn luôn là những qui luật: "Hãy làm điều
này; đừng làm điều kia". Ngay trong sự dạy dỗ, quyền lợi
của đứa trẻ ít khi được đề cập. Người ta chỉ nói với nó: "Đây
là bài học của
em, phải học thuộc đi".
Theo những phương pháp mới
mẻ hơn, như phương pháp của
Bà Montessori, bài học trở nên thích thú, trí khôn của đứa trẻ con
sẽ khai mở như một đóa hoa. Chỉ có một phương pháp dạy học hữu
ích cho trẻ con là trước hết được chúng hết dạ thương yêu. Rồi
bạn ảnh hưởng chúng bằng một việc làm có tính cách luân lý đạo
đức, bởi vì bạn tỏ ra buồn bực, nếu chúng phạm lỗi. Điều này
hoàn toàn chính đáng, vì
bạn cảm thấy buồn lòng thật sự. Nếu lúc đầu bạn điều khiển
bằng tình thương, thì tình thương nảy nở nơi học trò và bạn sẽ
đạt được sự cố gắng của đứa trẻ. Muốn dạy dỗ trẻ con, phải có
một trí thông minh sắc bén, một tấm lòng tràn đầy tình thương và
một sự kiên nhẫn rộng như biển cả: chúng ta phải hiểu những lỗi
của chúng để có thể chỉ dẫn chúng cách làm việc cho tốt đẹp như
chúng đã hiểu. Nếu bạn lập tức dùng sức mạnh và sự thô lỗ, cộc
cằn, thì bạn chỉ gợi sự hiềm thù chống đối và bạn sẽ không đạt
được điều gì thỏa mãn cả.
Trong
đời sống thường nhật cũng thế. Trong việc kinh doanh, nếu
một người kia muốn thỏa hiệp với kẻ khác về một việc có lợi,
thì y phải nói một cách dịu dàng, y phải cố gắng làm cho người
kia tin rằng công việc mà y đề nghị là mối lợi chung cho cả hai. Y
không có ý nghĩ lấn lướt người đối thoại với y, cách ấy chắc
chắn sẽ làm cho người kia phật lòng và có thể chấm dứt tình thân
hữu nữa. Trẻ con, trai lẫn gái cũng đều là con người cả và bạn
sẽ được lợi khi có chúng bên cạnh bạn hơn là khêu gợi sự chống
đối của chúng lúc ban đầu. Những nhà giáo đều biết điều này nhờ
kinh nghiệm. Không có nhà giáo nào, dù tài giỏi và thông thái đến
đâu đi nữa xứng đáng với danh hiệu thật cao quý ấy, trừ phi gợi
được thiện cảm của trẻ con và được chúng thương yêu. Đó là cách
dạy dỗ của vị Chơn Sư : không bao giờ dùng uy lực, không bao giờ
dùng nhưng qui tắc mà dùng lối chỉ vẽ con đường tốt lành và
khuyến khích chúng ta
bắt chước các Ngài.
Quả báo không hề kể đến tục lệ; và quả báo do sự hung ác gây ra
thì ghê tởm hơn tất cả. Ít ra bên Ấn Độ, không thể nào
bàu chữa những tục lệ hung ác như thế được, bởi vì mọi
người đều biết rõ bổn phận mình không được gây ra sự đau khổ.
C. W. L.
–
Người chọn nghề dạy học để mưu sinh cũng giống như y làm một nghề
khác vậy. Tuy nhiên các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu không xem xét vấn đề
trên phương diện ấy. Khi các Ngài đặt để một người nào trong hoàn
cảnh ấy, tức là các Ngài muốn ban cho y một cơ hội rất tốt đẹp.
Nếu y nhận lấy, làm việc của y rất kỹ lưỡng, khéo léo và thương
yêu, thì trong kiếp tương lai y có triển vọng làm một vị Đạo Sư.
Sứ mệnh ấy sẽ đưa y đến địa vị Đại Thánh, một đại ân nhân của
nhân loại. Nghề giáo dục dắt thẳng đến những phần thưởng cao quý
nhất trên đời. Đó là quan điểm của các
Đấng Nam Tào Bắc Đẩu.
Nhà giáo phải tự nói
rằng mỗi đứa trẻ là một Chơn Nhơn (một
linh hồn) và phải hết lòng giúp đỡ nó mở mang tính
tình. Về điều ấy, dĩ nhiên có nhiều cơ hội, vì những đứa
trẻ được giao phó cho nhà
giáo dạy dỗ, nói tóm lại, sự đào tạo chúng nó tùy thuộc nhà
giáo. Còn về giá trị của ảnh hưởng giáo dục ấy, chúng ta hay
lấy tư tưởng của một nhà tu dòng Gia Tô (Jésuite) nổi tiếng làm
dẫn chứng như sau: "Hãy để tôi săn sóc một đứa trẻ đến mười một
tuổi. Sau đó nó có thể đi
đâu tùy ý nó". Nhà giáo ảnh hưởng đến tuổi trẻ bằng giá trị cá
nhân vàbằng cách hành động cũng như lời nói của mình. Nếu nhà
giáo là người xứng đáng, thì tình thương chiếu ra chung quanh mình
ông thành một ảnh hưởng mạnh mẽ và hữu hiệu. Sau cùng sứ mạng
của ông bao gồm một trách nhiệm lớn lao, bởi nếu
thay vì làm nảy sinh trong lòng các học sinh tình thương và
những tính tốt, ông tạo ra
sự sợ hãi và tính gian
trá, thì ông ngăn trở sự
tiến bộ của những linh hồn ấy và gây ra sự tai hại nghiêm trọng.
Lợi dụng cơ hội như thế
để làm một việc bất chính là một sa ngã ghê gớm của kẻ phạm
tội. Ví dụ như tính hung ác, gây nên những hậu quả khủng khiếp.
Trong vài trường hợp chúng ta nhận thấy sự đau khổ thể xác cân
xứng với việc làm mà thường thường
hậu quả là điên khùng hoặc ít ra là chứng loạn thần kinh
và thần kinh suy nhược. Lại nữa, trong nhiều trường hợp và xét về
mặt xã hội thì sự hung ác là một sự xuống dốc bi thảm đáng lưu
ý. Một người phạm tội hung ác trong khi y chiếm một địa vị
xã hội khá cao, thì hậu quả của việc ấy là y bị rơi xuống lớp
cặn bã của xã hội. Chẳng hạn, như tôi thấy những người Bà La Môn
tái sinh làm người Thủ Đà La (Paria) (thuộc gia cấp hạtiện) vì đã
đối xử tàn ác với trẻ con. Vậy hiển nhiên là các Đấng Nam Tào
Bắc Đẩu áp dụng những đại định luật của vũ trụ giống như quan
điểm của Đức Thầy.
Một cơ hội cũng khá giống
với các nhà giáo dục được giao
cho vị giám đốc một cơ xưởng hoặc người cầm đầu một xí
nghiệp quan trọng nào đó. Người ta xem một địa vị như thế đáng mơ
ước vì có lương cao và cơ hội để vừa bảo đảm những mối lợi lẫn
một vài thế lực nào đó. Nhưng một lần nữa ở đây, các Đấng Nam
Tào Bắc Đẩu thấy một cơ hội giúp đỡ tất cả những người qui tụ
trước uy quyền của y. Thường
thường một vị chủ nhân nhìn những công nhân của mình với một vẻ
thù nghịch kín đáo, y cho rằng những người ấy muốn chiếm đoạt
tiền bạc của y nhiều chừng nào hay
chừng nấy và lợi dụng y bằng nhiều cách. Về phía những
người nhân công, họ tin rằng chủ nhân muốn bốc lột họ, lợi dụng
họ tối đa, và trái lại, trả lương tối thiểu cho họ. Rủi thay, đó
là sự thật, đôi khi cả hai bên nghĩ như thế đều có lý: Vài vị
chủ nhân chắc chắn có tâm trạng ấy. Đa số nhân công cũng xét đoán
chủ nhân như thế. Nhưng người hiểu biết không hề nhìn sự việc theo
quan điểm ấy. Địa vị ban cho một người để y ảnh hưởng đến
những kẻ đồng loại của y một cách tốt đẹp, đó là khía
cạnh duy nhất của vấn đề mà các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu đã kể
đến. Thường thường các Ngài
không nhìn nhận sự vật như chúng ta. Chẳng hạn nhân loại xem sự
chết như là một việc ghê tởm và một hình phạt khủng khiếp, nhưng
lắm khi cái chết được xem là một lối ban thưởng, một sự giải
thoát đưa đến những cảnh ngộ tốt đẹp và thuận lợi hơn.
Số kiếp dành cho kẻ ác cũng giáng xuống cho tất cả những ai viện
lẽ vì mục đích thể thao mà thích sát hại loài vật của trời
sinh.
C. W. L.
–
Có một bài thơ trào phúng của Punch mô tả tình cảnh của miền đông
quê Anh Quốc khá đúng như sau: "Trời đẹp,
chúng ta hãy đi ra ngoài và giết vài con vật". Làm mục sư ở
Anh Quốc trong một giáo khu
thuộc miền quê, tôi đã giao thiệp mật thiết với một hạng người
làm nghề săn bắn, lùng sụt con thịt và đánh cá. Họ làm tất cả
mấy điều đó như công việc
hằng ngày của họ và như đề tài đàm thoại chính của họ. Nhưng
trái với những điều người ta có thể nghĩ về họ, những người này
đối xử với đồng bào của họ một cách dịu dàng và hoàn toàn tử
tế. Họ là những người cha tốt, những người chồng tốt, những vị
quan tòa nhân hậu và những người bạn chân thành, nhưng họ không
thấy sự ác dính dấp với sự giải trí của họ. Một trong những
người ấy bắn nai và trĩ
rất nhiều và một cách hoàn toàn vô tâm, nhưng y thức suốt
đêm săn sóc con chó của y đau; sự kiện này chứng tỏ y có một tấm
lòng nhân từ, dù đối với thú vật, y cũng cảm thấy một thứ tình
huynh đệ. Chung qui, việc hung ác phát sinh từ một sự
mù quáng tinh thần,
Nhiều người không kém thông
minh, nhưng họ không hề suy nghĩ đến
điểm đặc biệt ấy, họ nghĩ rằng thú vật sinh ra để riêng cho
họ dùng và để vui mà giết chúng một cách khéo léo. Những người
ăn thịt cũng suy xét như thế. Hồi còn thanh niên, tôi cũng ăn thịt
và không bao giờ tôi nghĩ đó là sái quấy, cho đến ngày tôi đọc
được một quyển sách luận giải về vấn đề này. Đó là việc xảy ra
rất lâu trước khi thành lập Hội Thông Thiên
Học.
Khi chúng ta tin chắc rằng
môn "thể thao" theo lối đó là một
điều ghê tởm và trong
khi chúng ta săn bắn, chúng ta đã tham gia vào sự tàn sát những
sinh vật của Trời; chúng ta cũng ngạc nhiên
sao chúng ta không thấy điều này sớm hơn. Hàng ngàn người
chưa
mở mắt để nhận biết sự
tai hại. Tục lệ kiềm tỏa họ trong ảo tưởng và họ không hề nghĩ
đến tội hung ác ghê gớm mà họ đang làm. Đối với vài món đồ trang
sức cũng thế. Chẳng hạn như vài thứ lông, chỉ có thể tìm được
bằng cách giết chết cả bầy chim và chẳng những gây đau đớn chết
chóc cho những sinh vật bị sử dụng thôi mà thường thường cho con
cái của chúng nữa. Những người mặc những bộ đồ lông ấy là những
kẻ sát sinh vô tình. Chẳng phải họ là những người hung ác một
cách chai đá. Sự thật khác hẳn, họ chỉ tuân theo tục lệ thôi. Tuy
nhiên luật Nhân Quả vẫn cứ
hành động. Một người đang
chìm đắm trong sự suy tư có thể té xuống một vực thẳm. Sự kiện
chẳng biết mình đi về đâu, không thay đổi được những hậu quả.
Ta biết con không làm như thế và vì thương Đức Thượng Đế, nên khi
gặp cơ hội, con sẽ phản kháng ngay.
C. W. L.
–
Ở đây, chúng ta hãy chú ý đến những chữ: "Khi gặp cơ hội". Vì
chúng ta không muốn bắt buộc kẻ khác nghe theo tư tưởng của mình,
nên thường thường chúng ta chỉ đề cập đến vấn đề này nếu có
người hỏi ý kiến chúng ta, hoặc khi cuộc đàm thoại của chúng ta
tự nhiên rơi vào vấn đề ấy. Dùng uy quyền tỏ bày ý kiến riêng
của chúng ta, có thể là tốt lắm nhưng thường thường
làm hại hơn là làm lợi. Những người hay kích bác mà làm
việc ấy thì luôn luôn gây ra ác cảm. Một người làm quen với bạn
ngoài đường và muốn biết coi bạn có gặp Đức Chúa Jésus không,
hoặc linh hồn bạn có được cứu rỗi chăng? Sẽ không gây cho bạn một
cảm giác tốt đẹp và khiến cho đa số người nghĩ rằng y không
khéo léo; tôn giáo của y thiếu giá trị về mặt thực tế.
Nếu có dịp thuận tiện, bạn có thể cho mượn một quyển sách hay
một tập sách mỏng, hay đàm thoại một cách ôn hòa về vấn đề ấy.
Nhưng bạn thấy mình ở giữa những nhà thể thao, tôi sẽ không khuyên
bạn thốt ra những lời này: "Đó là một việc ghê tởm", dù đây là
sự thật. Nếu có ai hỏi tôi, tôi sẽ nói một cách bình thản như
sau: "Tôi thiết tưởng mọi sự
sống đều thiêng liêng. Những con vật này quả là những đứa em non
trẻ của chúng ta và bạn không có quyền giết chúng để mua vui cũng
như bạn không có quyền giết một con người cũng vì một lý do ấy".
Chắc chắn những người nghe tôi nói sẽ ngạc nhiên. Có thể họ sẽ
cười thầm, chế nhạo, nhưng họ sẽ
không phản đối lại ý kiến ấy như họ sẽ làm, nếu họ bị
tấn công.
Chúng ta là những người ăn
chay, chúng ta thường cảm thấy mất hứng thú nếu phải ngồi chung
bàn với những người ăn thịt, nhưng trong khi du lịch, thường không
thể tránh được điều đó. Tuy nhiên biểu lộ những cảm giác ấy thật
ra không tốt. Đó không phải
là phương cách cải hoán con người. Nhưng nếu họ hỏi ý kiến bạn,
bạn có thể bày tỏ lập trường của bạn bằng những lời được cân
nhắc, minh bạch và bình tĩnh. Nếu làm như thế, rất có thể
người đối thoại với bạn bắt đầu suy nghĩ và sẽ thừa nhận quan
điểm của bạn.
Nhưng có thể có sự hung ác trong lời nói cũng như trong việc làm
và người thốt ra một lời nói cố ý nhục mạ, thì vẫn phạm tội
ác. Điều ấy con cũng đừng làm. Nhưng đôi khi, một lời nói không suy
nghĩ cũng làm hại
như một lời hung ác. Vậy con phải tránh
sự vô ý ác.
C.W. L.
–
Vài người tự hào rằng mình luôn luôn nói lên những điều mình suy
nghĩ, dù có làm tổn thương đến kẻ khác và dường như họ cho rằng
sự thẳng thắng đó là một bản tính tốt. Đức Thầy không bao giờ
dùng những chữ một cách khinh suất. Ngài nói có thể sự thật là
một tội ác nếu lời thốt ra rất hung dữ. Trong một cuộc tranh biện
hay một cuộc thảo luận, chúng ta có thể mạnh dạn phát biểu ý
kiến riêng của mình, nhưng phải nói một cách nhã nhặn và lịch
sự. Vị sứ đồ có nói rằng:
"Mỗi người có một sự tin chắc trong trí mình"[105].
Điều này không có nghĩa là mỗi người phải tìm cách làm cho kẻ
khác tin tưởng, mà chính y phải hiểu đâu là lý do của vài sự tin
chắc riêng của y. Trong trường hợp này, khi cần, y có thể trình
bày ý kiến của mình một cách dịu dàng và ôn hòa.
Có một sự kiện lạ kỳ:
nhiều người không thể không nổi nóng ít nhiều, khi họ có những ý
kiến bất đồng với kẻ khác. Tuy
nhiên, họ biết rằng trên thế gian này có vô số vấn đề thích
ứng với nhiều ý kiến khác nhau, mà quan điểm này cũng không kém
gì quan điểm kia. Một cuộc tranh luận giữa một người Công Giáo và
một người phái Orange
[106] kết thúc bằng những thoi
đấm, chung cục sự kiện ấy không tạo được một luận cứ nào đưa đến
sự tin chắc. Bất đồng ý kiến với kẻ khác bị xem dường như
là thiếu sự kính nể. Mỗi người đều chắc chắn mình rất có
lý, nên kết án kẻ phản đối là có gian ý và suy tính trước. Vậy
chúng ta phải thận trọng khi trình bày quan điểm của mình.
Về Thông Thiên Học, chúng
ta cảm thấy một sự ước muốn
đặc biệt, vì chúng ta tin tưởng vào nền tảng duy lý của nó
và chúng ta chỉ muốn trình
bày điều ấy cho kẻ khác biết, nhưng thường thường kẻ đàm thoại
với chúng ta không thể hiểu. Lập luận dù hoàn toàn hợp lý, bất
tất đã cảm kích được một người thường.
Y không sống bằng lý trí, nhưng lại sống bằng tình cảm. Nếu
người ấy bị cảm kích
bởi một chuyện gì, thì không có lý lẽ
nào có thể thuyết phục y được; chúng ta càng nói nhiều bao
nhiêu, y càng thêm giận bấy nhiêu.
Sự hung ác này thường phát sinh do sự thiếu suy nghĩ. Một người
tham lam và keo kiệt không hề nghĩ đến sự đau khổ do y gây ra cho kẻ
khác bằng cách trả lương quá kém, hoặc y bỏ vợ con bữa đói bữa
no. Một người khác chỉ nghĩ đến thú vui riêng của
mình, và muốn được mãn nguyện, y ít bận tâm đến những linh
hồn và những thân xác bị y làm hư hại. Một kẻ khác nữa,
muốn tránh vài phút buồn phiền, nên đã đúng ngày mà không
phát lương cho nhân công, không đếm xỉa đến những nỗi khó khăn
do y gây ra cho họ. Có không
biết bao nhiêu sự đau khổ
phát sinh do sự vô tư lự, sự quên lửng hậu quả việc làm của mình
đối với kẻ khác! Nhưng nhân quả không bao giờ quên. Nó không quan tâm
đến sự quên lảng của con người. Nếu con
muốn bước vào Đường Đạo, con phải nghĩ đến hậu quả của
những việc con làm, vì
e rằng con mang tội vô ý ác.
C. W. L. – Trả tiền công kém hơn sức lao động, người ta có thể gây ra đau khổ đối với nhân công và vợ con của họ. Một sự giảm bớt vài đồng trong việc trả tiền công nhật có thể làm cho gia đình công nhân thiếu ăn. Tôi biết công việc là công việc, nhưng nếu cần, thì tốt hơn nên lời ít hơn là mang tội lợi dụng người nghèo. Những vị chủ nhân khám phá rằng trả lương cao thì họ được lợi. Đó là kinh nghiệm của Ông Ford, người giàu nhất thế giới hiện nay. Như tôi làm mục sư, tôi thường thăm viếng những người nghèo và đặt mình vào quan điểm của họ. Tôi thường nhận thấy người ta lợi dụng nhược điểm của họ. Ngay cả ở bên An Độ cũng vậy, ở đây đôi khi trẻ con trong những trường học Paria bị rơi vào tình trạng chết đói cho đến khi chúng ta có thể nuôi dưỡng chúng.
CHƯƠNG
THỨ HAI MƯƠI TÁM
Thói dị đoan là một tai hại lớn lao khác. Nó gây ra nhiều sự hung
ác rùng rợn. Người làm nô lệ cho nó khinh khi những kẻ khác khôn
ngoan hơn y và cố gắng lôi cuốn họ làm giống như
y vậy.
C. W. L.
–
Sự mê tín dị đoan không hề kể đến những sự khác
biệt về khí chất của các dân tộc. Nó có một hình thức
tín ngưỡng mà nó muốn ghi vào trí não của tất cả mọi người. Nó
không nhận thức được rằng không thể bắt buộc ai cũng tin tưởng như
vậy, ngoại trừ vài câu chuyện khoa học tầm thường, bởi vì có bao
nhiêu người thì có bao nhiêu quan niệm về đời sống khác nhau.
Phải công nhận là dù bạn
biết được rất nhiều người đi nữa, bạn cũng khó tìm được hai
người có phản ứng giống nhau trong cùng chung một hoàn cảnh. Bạn
có thể đoán trước vài khả năng tổng quát của đại đa số người,
nhưng trước khi hiểu biết họ tường
tận, bạn không thể nói đúng phản ứng của họ trong trường
hợp này hay trường hợp khác. Vậy tựu trung sự dị đoan hàm ý
ngoài những việc khác là sự thiếu hẳn thiện cảm. Người bị thói
dị đoan chi phối không hiểu
rằng cách nhìn của y không phải là đường lối duy nhất.
Sự dị đoan không phải chỉ
phương hại cho người tin tưởng nó thôi. Nếu nó phát triển mạnh, nó
luôn luôn đưa đến việc cưỡng bách kẻ khác bằng uy lực. Qua lịch sử
của tất cả thời đại, sự dị đoan về vấn đề tôn giáo đã tạo ra
những hỗn loạn khủng khiếp. Vì vậy, chính các tín đồ Hồi Giáo
đã bao phen thiêu hủy và làm đổ máu những vùng rộng lớn ở Á
Châu, Âu Châu và Phi Châu, bằng cách trao cho dân chúng "quyển Kinh Coran hoặc thanh
gươm". Như chúng ta đã đề cập phía trước, sự dị đoan đã tạo ra tôn
giáo pháp đình. Những cuộc tàn sát của Thánh Barthélemy
[107], những cuộc sát hại lẫn
nhau giữa những người Tin Lành, Thiên Chúa Giáo và những Vêpres
Siciliennes
[108],
đều là hậu quả tàn khốc của sự dị đoan. Cuộc đổ máu của Vêpres
Siciliennes, một phần do
chính trị, nhưng những cuộc tàn sát trước thì thuộc về vấn đề
"tôn giáo". Lòng thù hận là nguyên nhân chính tạo ra những cuộc
thảm sát ấy của các phái Thiên Chúa Giáo, dù thật sự có xen lẫn
những sự kiện chính trị. Ngày xưa khi Hoàng Đế Constantin
[109]
theo Thiên Chúa Giáo, thì Ngài xem đó là ván bài tốt
đối với tình thế của đế quốc Byzantin.
Cũng vậy, những cuộc viễn
chinh của Thập Tự Quân là một sự dị đoan to tát. Chỉ vì một câu
chuyện mà sự việc không mấy quan trọng liên hệ đến sự Giáng Sinh
và cái chết của Đức Giáo Chủ Jésus mà hai mươi triệu người vong
mạng trong những cuộc viễn chinh của Thập Tự Quân ấy để cố
đem về cho người Thiên Chúa Giáo cái xứ sở mang tiểu sử của
Ngài. Nếu có thể làm cho họ hiểu rằng đó là câu chuyện về đời
sống của tất cả những người được điểm đạo và đời sống đó đã
diễn tiến từ thời đại này qua thời đại khác trên khắp các nước
của quả địa cầu, thì biết bao nhiêu cuộc đổ máu sẽ được tránh
khỏi. Tuy nhiên, có lẽ những biến cố này vẫn có một khía cạnh
tốt, vì sau khi chiến đấu với những người Sarrasins
[110] hiểu biết hơn mà người
Thiên Chúa Giáo mới mang về Âu Châu những kiến thức hữu ích. Một
mặt khác nhờ chọn cái chết cho lý tưởng nên họ được kể là những
người chính trực. Những nơi linh thiêng của mọi tôn giáo nào thì
phải thuộc về những tín đồ của tôn giáo đó thật là tốt đẹp và
hào hùng. Nhưng đối với Thập Tự Quân, thời gian
đã chứng tỏ rằng sự thất bại của người Thiên Chúa Giáo là
một điều may mắn. Nơi Thánh Địa, những chiến sĩ Hồi Giáo phải
giữ sự hòa bình giữa hai phái Thiên Chúa Giáo La Mã và Thiên Chúa
Giáo Hy Lạp, vì họ luôn luôn tranh chấp nhau về sự hiện diện của
lửa thiêng và Thánh Mộ.
Hiẹn nay, một vấn đề
giống như thế cũng được đặt ra cho chúng ta tại Ấn
Độ, nhưng không ai nghĩ đến cách giải quyết theo phương tiện
của Thập Tự Quân. Những nơi linh thiêng của Phật Giáo (Tứ Động
Tâm): nơi Đức Phật sinh ra, nơi Ngài Đắc Đạo, nơi
Ngài Chuyển Pháp Luân và nơi Ngài tịch diệt, tất cả đều
nằm trong tay những người theo Ấn Độ Giáo và tôn giáo của những
người này khác với Phật Giáo. Những Phật Tử hết sức muốn có
những nơi linh thiêng của họ, nhưng không bao giờ những quốc gia Phật
Giáo nảy ra ý nghĩ khai chiến để chinh phục. Chúng ta hãy biết ơn
họ về sự việc đó, vì có đến năm trăm
triệu Phật
Tử. Tôn giáo họ tránh làm mọi điều bất chính. Vài Phật Tử
đã cố gắng mua lại phần Thánh Địa ấy và họ gần thành công với
sự trợ giúp của Hội Thông Thiên Học. Nhưng rủi thay, một phần lớn
tiền bạc bị phí tổn trong những vụ kiện và sự toan tính đã thất
bại.
Phật Giáo là đại tôn giáo
duy nhất không hề có sự ngược đãi kẻ khác. Những nguyên tắc của
nó cấm đoán điều này. Chính những lời của Đức Giáo Chủ bắt
buộc phải có sự khoan dung. Thế nào là một người Phật Tử ?
Đó là người noi theo giáo lý của Đức Phật. Y không phải là
người tin theo điều này hay điều khác, nhưng y là một
người sống theo lời
của Đức Phật dạy, y phải làm như thế. Nếu bạn hỏi một nhà
truyền giáo Cơ Đốc về đời sống
tương lai của một Phật
Tử ưu
tú, thì thường thường
người ấy sẽ trả lời như sau: "Nếu y không tin Đức Christ, thì không
có hy vọng gì cho y". Hoặc
nhà truyền giáo ấy sẽ giao
phó y cho lòng từ ái vô biên của Đức Chúa Trời, nếu y cho ông là
người xứng đáng. Nhưng đối với Phật Tử, bạn cũng đặt cây hỏi ấy
về một người Thiên Chúa Giáo, y sẽ nói với
bạn: "Đó là một người Phật Tử, y tự nhận là người Thiên
Chúa Giáo nhưng y đang tuân thủ giáo lý của Đức Phật. Không có gì
đáng lo cho y cả". Đó là đức khoan dung của nhà Phật, như tôi đã
giảng ở trước đây. Thật ra, tất cả các tôn giáo đều cấm sự bạo
động và bất khoan dung; nhưng sự vô minh và cuồng tín của vài phái
đã khiến cho tín đồ quên sự
kiện rất giản dị này.
Một thứ dị đoan gọi là
"sự căm thù nòi giống" khiến cho dân tộc
này oán
ghét toàn khối dân tộc khác. Tôi nhớ lại những người nông
dân Anh trong những làng xa
thành phố luôn luôn ngờ vực và chế nhạo người ngoại quốc. Đối
với những người dốt nát này,
không có gì đáng tức cười hơn là nghe một người ngoại quốc
nói một thứ tiếng khác hơn tiếng của họ. Về phương diện đó,
những người nông dân các
nước khác ít thô lỗ hơn
những người của nước ta. Tôi luôn luôn cảm nghĩ rằng nếu có một
người ngoại quốc đến viếng nước chúng ta, thì họ là người khách
đối với chúng ta. Bổn phận của chúng ta là làm cho đời sống của
họ được dễ dàng và làm cho họ có cảm giác tốt đẹp về dân tộc
và xứ sở của chúng ta.
Vào thời Nã Phá Luân, bên
Anh Quốc bị một sự dị đoan chi phối dân chúng cho rằng quả thật
tất cả những người Pháp là quỷ,
họ khai chiến với chúng ta, trong khi họ hoàn toàn biết rằng
họ chủ trương việc xấu và trái ngược với ánh sáng. Ngày nay, có
thể những trường hợp trong đó một số đông người bị ám ảnh bởi
một ý tưởng thống trị, đã tạo thành một thứ cuồng tín về quốc
gia. Dưới ảnh hưởng của sự cuồng tín tạm thời đó, người ta đã
gây ra những điều tàn ác, mà ở trường hợp khác, chính những
người này không bao giờ nghĩ rằng họ sẽ làm những việc ấy. Trong
những trường hợp đó cá nhân chỉ chịu trách nhiệm vì cách họ bị
triều lưu ấy lôi
cuốn. Những sự hành động vốn do cơn điên cuồng này sinh ra
hơn là từ những cá nhân. Điều này cũng gần giống như khi một
người nổi giận thốt ra những lời thiếu nhã nhặn. Đó chính
là tiếng nói của cơn giận chứ không phải của con người. Người ấy
đáng trách vì
y để cho cơn giận chi phối y, nhưng chúng ta nên lưu ý rằng
rất có thể y hối hận
nhiều về lời nói của y.
Con hãy nghĩ đến những sự tàn sát khủng khiếp do thói dị đoan
tạo ra, nó đòi hỏi việc giết thú vật để cúng tế.
C. W. L.
–
Đề cập đến việc hy sinh thú vật cho việc cúng tế và những cuộc
hiến dâng khác cũng là nêu lên toàn thể vấn đề liên hệ giữa
Thượng Đế và con người. Về phương diện này chỉ có thể có ba quan
niệm căn bản thôi: Theo quan điểm thứ nhất, Trời sau khi
đã tạo nên vũ trụ rồi, Ngài để nó tự do vận chuyển không
điều khiển và cũng
không lo lắng đến những gì xảy ra cho nó.
Theo quan điểm thứ hai,
Trời đã giữ lại một sự lợi, phải gọi là bất chính của vũ trụ
này, vì Ngài muốn hưởng những cuộc cúng tế dẫy đầy máu huyết
và những thứ hy sinh khác nữa.
Theo quan niệm thứ ba, Trời
bao giờ cũng là Đấng Cha Lành
yêu tạo vật của Ngài vô lượng vô biên.
Thuyết thứ nhất là thuyết
duy vật hiện đại kèm theo ý niệm
về một Đấng Tạo
Hóa kỳ cục.
Thuyết thứ hai mô tả Trời
như một con quái vật khát máu.
Nhiều bản Kinh xưa đã trình bày về Ngài như thế. Trong một
đoạn Kinh Cựu Ước,
những người Do Thái có khoe khoang rằng họ đã giết một trăm hai
mươi hai ngàn con bò để cúng tế. Có lẽ họ đã nói quá lố, như
thói quen của thời xa xưa ấy. Thần Jéhovah đòi hỏi sự cúng tế
sinh vật này, dù phải trả bất cứ giá nào bằng sự đau khổ. Thần
luôn luôn đòi hỏi những lễ vật mới và chỉ hiến cho một mình Ngài
mà thôi chứ không phải cho vị thần nào khác. Ở thời đại chúng ta,
những người Do Thái sẽ thụt lùi trước sự cưỡng bách ghê rợn như
thế, nhưng chắc chắn họ không làm việc đó trong thời David
[111] và Salomon
[112]. Người ta có thể kết luận
về điều ấy như sau: Thần Jéhovah của họ thờ không phải là Đấng
mà chúng ta gọi là Thượng Đế - lúc bấy giờ họ không hiểu
được ý niệm về Thượng Đế - nhưng là những vị Thần do Tinh
Chất cấu thành từ đời Ắt Lăn Tích còn sống sót tới ngày nay
[113].
Những người Do Thái có tiếp xúc với văn minh Ai Cập, nhưng những ý
tưởng vĩ đại của người Ai Cập ít ảnh hưởng đến họ. Chỉ sau này,
khi bị giam cầm ở thành Babylone, họ nghe nói đến một vị Thượng
Đế tối cao. Họ liền đồng hóa một cách thật đặc biệt Đức Thượng
Đế với Thần Jéhovah của
họ. Những nhà tiên tri chót nói về Thượng Đế như một Đấng
Tối Thượng, mặc dù lắm khi những ý niệm cũ còn lưu lại
trong các bản văn
của họ.
Những cuộc tế lễ đầy máu
huyết chỉ thuộc về những giai đoạn tiến hóa xa xưa nhất của con
người. Nó gồm cả tà thuật
cổ sơ của sự thờ cúng loại
Tinh Chất ấy vì chúng nó sống bằng hơi từ trong
máu huyết bay ra. Những sinh vật này muốn được cúng tế, bởi
chúng hút hơi máu hôi tanh mới có khả năng
hiện hình được. Vài bộ lạc miền núi quả quyết rằng nếu
họ không thực hiện những cuộc tế lễ này, thì tai họa sẽ xảy
đến, như mùa màng
bị tiêu diệt, nhà cửa bị hỏa hoạn. Vậy có thể những vị
Thần mà những người ở rừng núi Ấn Độ thờ phượng cũng là những
Tinh Chất lớn thuộc về thời đại Ắt Lăn Tích.
Chúng ta có thể tin chắc
rằng không bao giờ những Đấng Cao Cả chấp nhận những cuộc tế lễ
đó. Chăng hạn, như bên Ấn Độ, trong
phần thiên khải của Kinh
Phệ Đà cổ đại không bao giờ đề cập đến chúng nó, song chúng
nó dính liền với những phong tục dã man còn tồn tại trong một
mức độ nào đó cho đến ngày nay. Đức Phật đã lên án sát sanh thú
vật đặng tế lễ và khiến Vua Bimbisara ra sắc lệnh hủy bỏ tục lệ
ấy trong nước.
Hiển nhiên là chúng ta
không hề thờ phượng một vị Thần nào đòi hỏi những sự cúng tế
bằng máu huyết, trái lại, đó là điều ưa thích của vài loại Tinh
Chất và Tinh Linh trong vũ
trụ. Vậy chúng ta nên xem những phần trong các bản Kinh có đề cập
đến những sự tế lễ này như
một giai đoạn tiến hóa mà chúng ta đã vượt qua
từ lâu. Vài người không thích tuyên bố điều ấy một cách công
khai vì họ tôn kính các Kinh Thánh, nhưng thật ra cho rằng một bản
văn đặc biệt nào đó linh thiêng và chí thánh là một sự dị đoan
hoàn toàn. Dù đối với Thánh Kinh, chúng ta vẫn phải chọn lọc như
mọi việc khác. Nếu đọc một quyển sách, chúng ta thích và sẽ nhớ
những đoạn mà chúng ta cho là đặc biệt hay và bổ ích. Chúng ta
hãy góp nhặt như thế trong tất cả các bản Thánh Kinh những gì
luôn luôn tốt đẹp, cao thượng, hùng tráng và có thể gác bỏ
một cách hữu ích cho mình tất cả những gì thấp hơn lý tưởng của
chúng ta. Dù những cuộc tế lễ bằng máu huyết đã được đề cập
trong Thánh Thi (Psaumes) và trong những chương khác của Thánh Kinh Cơ
Đốc (Cựu và Tân Ước
–
Bible), chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng chắc chắn Trời không thể
đòi hỏi những việc như thế. Những việc ấy luôn luôn thuộc
về các tôn giáo xem Thượng Đế như
một thực thể xấu
xa cần phải xoa dịu.
Vở kịch lớn lao của Thiên
Chúa Giáo chính là việc đem ý tưởng
trên đây xen lẫn vào
giáo lý thuần túy của Đấng Christ nói về Đức Chúa Trời là Đấng
Từ Phụ. Thật ra việc giết thú vật để hiến dâng cho Thượng Đế
không hề làm giảm danh dự
của Thiên Chúa Giáo,
nhưng chính là ý tưởng Đức Chúa Trời đáng sợ - nếu chúng ta không
dâng lễ vật để làm vừa lòng Ngài - còn được
truyền dạy trong những tổ chức lớn của Công Giáo. Ý tưởng
này đã làm nảy sinh lý thuyết quái đản cho rằng Trời đã hy sinh
chính con Ngài, nếu không
thì mọi người phải bị ném xuống hỏa ngục. Thường thường người ta
ít khi tự hỏi một ông Trời
bắt buộc hoặc cho phép tế lễ như vậy là thế nào. Bạn hãy thử
tưởng tượng đến những điều
người ta có thể nghĩ về một vị Hoàng Đế dưới thế gian. Vì ngông
cuồng Ngài đã kết tội một số đông người và cho hành hình họ một
cách ghê rợn, rồi sau đó Ngài trả tự do cho tất cả những người
này, vì chính con Ngài đã đến nói trước Ngài rằng: "Nếu một
người nào đó phải chịu chết, xin cha hãy giết con. Con hoàn toàn
vô tội. Nhưng cha hãy giết con đi để những người ấy được tha". Lý
thuyết này không phải là Thiên Chúa Giáo.
Đại Tá Ingersoll có lý,
khi ông nói rằng một Vị Thượng Đế tốt lành
là một công trình đẹp đẽ nhất của con người. Quả nhiên chỉ
có một quốc gia thật mở
mang mới có
thể quan niệm nỗi một Vị Thượng Đế thật cao cả và vinh
quang. Thật ra tổ tiên chúng ta ngày xưa đi lang thang trong rừng và
sơn xanh thân thể, cũng giống như những người Do Thái hiếu chiến,
và các dân tộc khác, đã có ý tưởng thơ ngây về Thượng Đế. Nhưng
tuyệt nhiên không có một lý do nào mà chúng ta còn duy trì ý
tưởng đó đến ngày nay.
Theo lý thuyết thứ ba,
cũng là giáo lý Thông Thiên Học, thì Trời là Đấng Từ
Bi Bác Ái, Ngài tạo
ra vũ trụ theo một mục đích nhứt định. Vì lẽ ấy nên tất cả
những gì xảy ra cũng đều thuộc về
phần việc của Ngài. Ngài ban cho chúng sinh được tự do ý
chí đến một mức độ nào đó, nên hành vi của họ không hẳn là bao
giờ cũng phù hợp với Thiên Cơ, nhưng ý chí của họ là thành phần
của Thiên Cơ. Chung cuộc tất
cả đều là công trình của Ngài.
Khi chúng ta nói Trời ban
cho con người một mức độ độc lập hay là tự do nào đó, thì chúng
ta phải hiểu thêm rằng nó vừa bị
hạn chế vừa có thể phát triển. Người nào biết sử dụng sự
tự do và năng lực của mình
một cách khôn khéo, thì sẽ nhận thấy chúng
tăng trưởng. Đó chính là phương thức giống như đứa trẻ tập
đi. Người ta cho em này đi thử, em té, rồi lại cố gắng nữa. Nếu
bế em trong tay mãi, em sẽ
không bao giờ bị té, nhưng rốt cuộc em thành người tàn tật. Nhưng
điều người ta tránh là để em tập đi những bước
đầu tiên một mình trên nền đá hoa, trên chót vót cái thang
hoặc ở chỗ nguy hiểm khác. Sau này, thành người lớn, em có thể đi
trên bờ hồ để ngắm phong cảnh, nếu em muốn. Chính bằng phương pháp
đó, Đức Thượng Đế bảo vệ chúng ta, trong khi Ngài huấn luyện
chúng ta. Như thế Ngài
giữ gìn không cho chúng ta
hủy hoại sự sống của mình và tự làm hại mình đến mức không thể
sửa chữa được nữa.
Thuyết thứ ba đang tiến bộ
một cách vững chắc. Từ lâu Thiên Chúa Giáo đã trở nên tốt đẹp
nhiều hơn những tuyên ngôn của nó
và rất nhiều tín đồ Thiên Chúa Giáo có những tư tưởng tự
do hơn việc Giáo Hội đã cho phép họ một cách chính thức. Chẳng
hạn như Giáo Hội Anh Quốc
công thức hóa điều mà Giáo Hội cho là lý thuyết riêng trong một
tài liệu gọi là "Những điều mục của Đức
Tin". Giáo đoàn phải tán đồng, nhưng nếu một người trong
nhóm nói rằng: "Làm sao chấp thuận những điều mục này được.
Chúng mâu thuẩn một cách hiển nhiên". Người ta trả lời với y rằng
trong lúc thảo ra những đề mục ấy, có hai phái không thể hòa giải
được và phải làm sao cho cả đôi bên đều vừa lòng. Rồi người ta
nói tiếp:
"Đức Giám Mục và tất cả
chúng tôi đều ký tên vào đó. Tất cả chúng tôi đều chấp nhận trong
tinh thần triết học này. Theo tôi hình như ông cũng có thể làm như
vậy được". Có thể người trẻ tuổi kia đáp
lại: "Rốt lại, nếu ông bảo đảm với tôi điều
đó không có gì quan trọng, vậy tôi cũng sẽ chấp nhận". Nhưng
thái độ đó không được đúng đắn.
Tôi không hề bác bẻ những
tín điều Thiên Chúa Giáo. Chúng có nền tảng chung của một ý
nghĩa sâu xa hơn mà thường thường những tín đồ không thể ngờ
được
[114].
Nhưng tôi
không thích "Ba mươi chín
điều mục" và "Tuyên
ngôn về đức tin", vì giữa những tư tưởng đẹp nhất, người ta nhận
thấy có xen lẫn những tư tưởng khác tuyệt nhiên không thể chấp
nhận được. Nếu trong sách phần người ta dừng lại ở cuối câu hỏi
thứ nhất và câu trả lời
tuyệt đẹp là: "Đâu là mục
đích chính của con người? Là ca tụng Chúa và hưởng phúc lạc đời
đời".
Thiên Chúa Giáo đã vượt xa
những tín điều và tín ngưỡng của nó. Tôi mới đọc
một đoạn văn chứng tỏ điều ấy khá rõ ràng trong một tác
phẩm của ông khoa trưởng Ripon:"Mục đích của Thiên Chúa Giáo là
làm cho Đấng Christ trong lòng con người phát triển". Rồi ông giải
thích phải hiểu Đấng Christ trong lòng con người là thế nào :"Đó
là một sự khôn ngoan của nhà bác học, tài hùng biện của luật sư,
sự công bằng của vị thẩm phán, vẻ đẹp của nhà nghệ sĩ, tình
thương của nhà từ thiện, vân vân . . ." Thiên Chúa Giáo này, tất cả
chúng ta đều chấp nhận. Người ta cũng
nhận thấy trong quyển Gita
một tư tưởng giống như vậy. Đức Krishna nói: "Đối với kẻ có quyền
lực, Ta là quyền trượng; đối với kẻ tìm chiến thắng, Ta là tài
khéo léo về chính trị, đối với sự bí mật, Ta là sự im lặng;
kiến thức của các nhà thông thái cũng là Ta". "Nên biết rằng tất
cả những gì vinh quang, tốt,
đẹp và những hùng dũng cũng đều phát sinh từ một phần tử huy
hoàng của Ta"
[115]. Vị Khoa Trưởng Thiên Chúa
Giáo hầu như đồng ý với tác giả bộ
Bhagavad Gita, là bản Thánh
Kinh tối cổ, nó còn xưa hơn quyển
Mahabharata, là thành phần của nó. Một phần lớn giáo lý cao
thượng trong bộ Gita đã có từ
lâu trong tay những người Ắt
Lăn sống trên đồng bằng Ấn Độ, trước khi bị người Aryens xâm lăng.
Tôi biết rằng đó không phải là tư tưởng tầm thường, song chúng ta
căn cứ trên vài sự kiện mà cá nhân mình đã nhận biết.
Dĩ nhiên chúng ta có thể
tin tưởng hoàn toàn nơi Thượng Đế, vì Ngài hiểu biết, còn chúng
ta thì vô minh. Chúng ta biết một cách tổng quát vai trò của mình
trong công việc trợ giúp cơ
tiến hóa của Ngài do Ngài muốn, nhưng chúng ta không biết những chi
tiết. Mặc dầu chúng ta biết rằng những chi tiết ấy nằm trong
những bàn tay khéo léo. Chúng ta không hề biết Nhân Quả của mình
sẽ ra sao, nhưng các Đấng
Đại Hùng Đại Lực chăm lo
việc ấy biết rõ tất cả. Do sự sáng suốt, các Ngài quyết định
trong mức độ nào chúng ta
bị bắt buộc phải trả quả ngay bây giờ hay hoãn lại sau này.
Nếu các Đấng Cao Cả có thể nghe theo lời cầu xin của chúng ta,
thay đổi vận mạng của chúng ta theo ý chúng ta muốn bây giờ; việc
đó chắc chắn sẽ bất lợi cho chúng ta. Tôi không nói rằng nguyện
vọng của chúng ta trên phương diện đó là điều vô ích. Trái hẳn
lại, nếu nguyện vọng của chúng ta tốt, nó sẽ tạo nên những yếu
tố mới, có thể làm cho các Đấng Cao Cả thay đổi hình thức
Nhân Quả của chúng ta, có lẽ các
Ngài bắt chúng ta nhồi quả để chóng được
giải thoát. Cũng có thể các Ngài cho chúng ta trả quả trong
những tình trạng khác. Dù việc gì có thể xảy ra đi nữa, đó cũng
là giải pháp tuyệt đẹp không những đối với vài người, mà còn
đối với tất cả thiên hạ. Vậy chúng ta không nên cố gắng sửa đổi
Thiên Ý. Hãy chấp nhận với
tấm lòng biết ơn tất cả những gì xảy đến cho chúng ta và phải
gạn lọc lấy cái tốt đẹp nhất chứ không phải cái xấu tệ nhất.
Chúng ta hãy xem những điều khó khăn của mình như những chướng
ngại cần phải vượt qua, nhưng chúng ta hãy luôn luôn hân hoan, vì
biết rằng đàng sau vạn vật
có sự hiện diện
của Thượng Đế
và Ngài vô cùng nhân từ.
Và còn một điều dị đoan độc ác nữa, nó làm cho con người tưởng
rằng mình cần phải ăn thịt mới sống được.
C. W. L.
–
Quả nhiên đó là một sự dị đoan, vì có hàng triệu
người sống thật khoẻ mạnh và không ăn thịt. Chắc chắn có
vài người là nạn nhân của sự di truyền xấu xa và Nghiệp Quả của
chính họ, mà quả thật họ không thể bắt xác thân họ tiêu hóa
những vật thực tinh khiết hơn, nhưng số người đó rất ít, thật
hiếm. Chính tôi biết trong mấy trăm người Thông Thiên Học, có vài
trường hợp người ta đã thật sự cố gắng lâu ngày để trường
chay, nhưng vẫn thất bại. Còn những người khác, sau khi vượt qua
vài khó khăn ban đầu thì ăn chay và thường đạt được một sức khỏe
dồi dào hơn.
Bằng chứng không thể chối
cãi được là hầu hết mọi người đều có thể giữ gìn sức khoẻ đầy
đủ mà không lo sợ phạm vào tội sát hại thú vật. Trong một trăm
thân xác chỉ có một số rất nhỏ không thể thích hợp với việc ăn
chay thôi. Những người ở trong tình trạng này thật là bất hạnh,
nhưng nếu sau khi cố gắng sửa đổi một cách đúng mức và sáng suốt
cách ăn uống của mình, song vẫn vô hiệu, thì họ phải nhìn nhận
đó là Nhân Quả. Trong trường hợp như thế, không phải luôn luôn khôn
ngoan và đúng đắn mà nói rằng: "Tôi
sẽ bắt xác thân của
tôi phải theo ý muốn của tôi, hoặc tôi bỏ nó. Tôi sẽ sống bằng
thức ăn tinh khiết, hoặc tôi sẽ không sống nữa". Có thể người ta
có bổn phận phải chu toàn đối với kẻ khác, bổn phận đó không
thể làm tròn với một xác thân yếu đuối, nó đòi hỏi một sức
khỏe cường tráng. Tôi thú thật, lời khuyên ấy dùng để bàu chữa
rất dễ dàng cho những người không đủ can đảm tập xác thân cho quen
với lối ăn mới. Tuy nhiên phải nói lên lời khuyên ấy để giúp ích
cho vài người bạc phước cần phải duy trì thói quen cũ kỹ của họ.
Thực phẩm bằng thịt phải
kiêng cử, bởi vì giết thú vật là điều ác, và thịt cũng đem vào
mấy thể của chúng ta những phần tử xấu xa khiến cho chúng trở nên
thô trược và còn khích động thú tánh trong mình chúng ta
nữa. Vả lại còn nhiều lý do khác mà tôi đã tập trung và sắp xếp
có thứ tự trong bài diễn văn
người ta có thể tìm thấy trong tác phẩm
Huyền Bí Học Trong Vài Khoảnh
Khắc ([116])
của tôi. Đó là một trong những đề tài hiếm thấy, mà tất
cả những luận cứ đều thiên hẳn về một phía, vì không còn lý do
nào để bênh vực cho việc ăn thịt, trừ phi người ta thấy nó ngon
miệng. Nếu người ta hỏi ý kiến chúng ta, tôi tưởng, chúng ta có
thể chứng tỏ một cách hết sức minh bạch rằng mọi người đều được
lợi ích nếu cử thịt. Đó chẳng phải chỉ là vấn đề nguyên tắc -
mặc dù quan điểm này cũng đủ cho chúng ta lắm rồi - nhưng sự dinh
dưỡng bằng thực vật bảo đảm cho chúng ta một sức khỏe hoàn
hảo và tránh được vài thứ bịnh ghê tởm. Sau cùng chắc chắn người
ăn chay có một sức chịu
đựng tương đối dẻo dai hơn.
Có vài người phản đối
rằng dù sao chúng ta cũng phải sát sinh để sống và rốt cuộc
những người ăn chay cũng sát sinh vậy. Lập luận này chỉ chứa đựng
một phần sự thật hết sức nhỏ nhít. Có thể người ta cho rằng
chúng đã giết hại đời sống thực vật, nhưng sự sống đó còn sơ
khai hơn nhiều và không có sự nhạy cảm sâu xa như đối với thú vật.
Lý do căn bản của sự bác
bẻ tục lệ sát sinh là sự kiện này ngăn
trở dòng tiến hóa.
Nếu bạn giết chết một
người, thật ra bạn không làm hại người ấy trên phương diện vui thú
và hạnh phúc của y. Thường thường y lên một cõi và nơi đó y sẽ
hưởng một đại hạnh phúc mà y không hề được biết tại thế gian. Sau
cùng, sự hủy diệt xác thân chưa hẳn là một sự hung ác, vì người
bị giết chết thình lình không cảm biết được
điều ấy. Điều
tai hại mà bạn đã gây ra cho y là làm cho y mất những cơ hội
để tiến hóa do xác thân y cung cấp. Những cơ hội đó y sẽ tìm lại
được trong một xác thân mới,
nhưng bạn đã làm mất thì
giờ của y. Về sau đó, cũng vì bạn mà các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu
phải tìm cho người ấy một môi trường tiến hóa khác và một lần
nữa các Ngài phải lo cho y từ
thời kỳ thơ ấu đến tuổi thiếu niên trước khi y tìm lại được
cơ hội để tiến bộ ở tuổi trưởng thành. Đó cũng là lý do cho
thấy giết một người tội nặng nề hơn giết một con thú. Con người
bị bắt buộc phải tạo lại một Phàm Nhơn hoàn toàn mới
mẻ. Còn con thú trở
về hồn khóm của nó và tự nơi đó nó đầu thai lại một cách tương
đối dễ dàng. Tuy nhiên, đối với con thú tiến hóa hơn và tượng
trưng cho một sự biểu lộ phức tạp hơn
thì sự sát sinh gây ra nhiều việc phiền phức cho các Đấng
Cao Cả coi về sự tiến hóa, nếu
chúng ta có thể bày tỏ như thế với tất cả tấm lòng tôn
kính của mình. Chẳng hạn như giết chết một con muỗi, chỉ gây một
hậu quả hết sức nhỏ mọn, vì nó nhập vào hồn khóm của nó rồi
tái sinh trong một thời gian rất ngắn. Việc xáo trộn do sự hủy
diệt các loại côn trùng này, dù cả trăm hoặc là hàng ngàn cũng
không có gì đáng kể nếu so với hậu quả của tội giết một con
ngựa, một con bò, một con mèo hoặc một con chó.
Không
thể tưởng tượng được
một trường hợp giết người vì lý do cá nhân, mà có thể cho
là chính đáng, trừ phi trong tình thế nguy cấp phải bảo vệ sinh
mạng mình hoặc sinh mạng kẻ khác. Nhà Dô Ghi cũng không tự bảo vệ
mình. Y phó thác cho tất cả bàn tay của Nhân Quả. Tuy nhiên tôi tin
rằng chúng ta có quyền bảo vệ sinh mạng của mình trong trường hợp
bị tấn công. Và tôi quả quyết rằng chúng ta có lý do chánh đáng
bảo vệ một người bạn hoặc một đứa trẻ, dù phải giết chết kẻ
bạo động ấy. Nguyên tắc này cũng áp
dụng đối với tất cả loài thú. Nếu một con thú tấn công
bạn, gây nguy hiểm cho tánh mạng hoặc sự an toàn của bạn, tôi tin
rằng bạn có quyền giết con thú ấy, nếu cần. Tất cả đều có thể
thâu gọn vào câu này: "Đâu là tai hoạ to lớn hơn hết". Nếu bạn bị
muỗi quấy rầy, chúng đã bỏ thức ăn thiên nhiên của
chúng để tấn công bạn, truyền nọc độc vào máu huyết bạn
và có thể làm hại một công việc quan trọng của bạn, thì việc
giết muỗi có thể là một tội ác nhỏ mọn. Nếu bạn có thể ẩn
tránh trong mùng, hoặc đuổi chúng đi nơi khác càng hay hơn. Muỗi là
giống ăn thảo mộc, do bản chất và bản năng của nó. Có hàng triệu
con muỗi, không hề nếm máu. Nếu bạn để nó tiếp xúc với người,
chúng có thể thưởng thức món ăn độc hại và bạn sẽ biết kết quả
của việc ấy. Đối với những
loài vật nhỏ bé khác cũng giống như thế. Chúng phải ở đúng chỗ
của chúng, chứ không phải sống gần con người. Không những chúng ta
cảm thấy đau khổ khi bị chúng xâm nhập, mà còn làm cho kẻ khác
bị nhiễm độc; nếu không có
chúng ta, họ sẽ tránh được điều đó.
Dù vô minh, chúng ta cũng
không có đặc quyền giết chết hoặc hủy diệt sinh vật nào mà chúng
ta không ưa. Chắc chắn là hiện
nay có vài hình hài thú vật phải biến mất,
hoặc bởi đã hết thời hạn của chúng, hoặc chúng tượng trưng
những kinh nghiệm làm nảy sinh những giống cao hơn, bởi vậy chúng
không còn cần ích nữa. Người ta có thể tưởng tượng một cách kính
cẩn rằng các Đấng Cao Cả điều khiển sự tiến hóa đang thí nghiệm
đến một mức độ nào đó. Khi lên cầm quyền
Chưởng Giáo nhân loại thế cho Đức Thích Ca đã thành Phật,
thì Đức Di Lạc Bồ Tát đã thử thiết lập vài phương pháp tu tập
mới mẻ, nhưng không thể thành công. Bà Blavatsky đôi khi nói một
cách bóng bảy về vài loài thảo mộc hoặc thú vật như những tạo
vật hư hỏng, tuy nhiên nguồn sống của chúng không bị gián đoạn và
phải biến mất dần. Trong khi chờ đợi, đôi khi chúng được dùng làm
những vận cụ cho những sinh vật thấp kém hơn những sinh vật được
chỉ định lúc đầu và trong vài trường hợp chúng được dùng cho
những sinh vật còn đang nhập thế để tiến hóa. Bà gọi vài hình
thể ghê tởm của sâu bọ và loài bò sát là những "hạ phẩm" và
theo ý bà, sự hủy diệt chúng không giống với sự tiêu hủy hình
hài những sinh vật đang tiến hóa.
Thuyết quí trọng sinh mạng
tuyệt đối đôi khi trở nên quá đáng, chẳng hạn ở vài nơi người ta
không chịu giết giống chí rận, họ chịu làm mồi cho chúng. Không
một người văn minh nào thừa nhận quan điểm ấy. Người kia có một
thư viện chứa đựng nhiều sách hữu ích, đôi khi thấy sách của mình
bị mối, con hai đuôi ăn. Nên
dời những con vật này đi xa, nhưng tốt hơn là giết chúng, đặng
đừng để cho tiêu mất những sách quí có thể hữu dụng cho kẻ khác.
Có nhiều sinh vật nhỏ bé, nếu chúng ta dung dưỡng chúng, chúng ta
không thể sống được. Nhà Dô Ghi là người không bao giờ sát sinh và
luôn luôn nhận được vật thực, nhưng là nhà nông, là người cung cấp
thực phẩm, cần phải bảo vệ mùa màng, tránh nạn sâu bọ. Bên Úc
Châu nông dân phải đặc biệt giết những con thỏ nhập cảng từ Âu Châu
vì chúng sinh sản nhanh một cách dị thường. Nếu không có những
biện pháp chống lại chúng, chúng
sẽ hủy diệt hết mọi dấu vết của mùa màng.
Sự hủy diệt vài thứ sinh
vật có hại ấy được đề ra không những vì thực
phẩm, mà còn là vấn đề bảo vệ, vì khi trồng trọt cây nhỏ,
cây lớn hay những hoa màu, thì chúng ta phải có một trách nhiệm
nào đó đối với sự sống mang các hình thể đó. Trong tất cả
mấy việc này, tôi tưởng phải nghe theo tiếng gọi lương tri của
chúng ta. Dù thế nào, việc giết một con thú để tự vệ chắc chắn
khác với việc giết những con thú rất tiến hóa như
bò, trừu để thỏa mãn vị giác thấp kém.
Con hãy nghĩ đến những sự đau khổ do thói dị đoan đã gây ra cho
những giai cấp bị áp chế trong nước Ấn Độ yêu quí của chúng ta,
và con hãy xem tính xấu này có thể tạo ra biết bao nhiêu sự độc
ác lạnh lùng, ngay cả trong
những người vẫn biết tình huynh đệ.
C. W. L.
–
Những giai cấp bị áp chế bên Ấn Độ, đôi khi được gọi là panchama,
hay là người thuộc về đẳng cấp thứ năm. Thật ra
họ là những người
không giai cấp hay là những người Paria, dòng dõi dân tộc cổ sơ Ấn
Độ, bị người Aryen bắt khi họ vượt núi Hy
Mã Lạp Sơn. Luật giai cấp do Đức Bàn Cổ đặt ra là luật
tuyệt hảo trên phương diện
cải thiện nhân chủng và từ điện thời đó. Luật đó cấm người Aryen
kết hôn với thổ dân, ở chung, và ăn chung với họ. Tuy nhiên những
thổ dân bị đối xử thật tàn ác. Chẳng hạn
người Paria không được
quyền múc nước trong giếng của các đẳng cấp, vì họ sẽ làm dơ
bẩn cái giếng. Do đó người Paria đành phải dùng những giếng thiếu
nước mà họ đã đào hay tìm được. Điều ấy thường tạo ra những sự
thiếu thốn cực khổ, đặc biệt là trong vài vùng những làng của
dân không giai cấp bị đặt vào những mảnh đất cằn cỗi và họ cũng
thường bị cưỡng bách phải dời chỗ ở. Lại mới đây, rất khó cho
một người Paria muốn đạt được một địa vị khả quan, trừ phi y dùng
một phương tiện bất hảo là theo đạo Thiên Chúa hay Hồi Giáo, những
điều này diệt được vài khó khăn trầm trọng nhất của họ về phương
tiện xã hội.
Đó là cách cư xử - và
còn nhiều cách tàn ác hơn nữa - đối với những giai cấp bị áp
chế này, mà nguồn gốc của nó là sự dị đoan của dân chúng, mặc
dù họ tha thiết với ý niệm về tình huynh đệ. Trên phương diện đó,
thói dị đoan làm cho họ quên đi ý nghĩa danh từ này. Chúng ta ước
mong rằng một ngày kia những người
Paria có thể họp lại thành một cộng đoàn trong sạch và
đáng kính. Những tình trạng
hiện đại,như các cuộc gặp gỡ tại nhà ga hay tàu điện sẽ trợ
giúp cho công việc ấy.
Những người Ấn Độ thuộc
giai cấp cao hơn có bổn phận và cũng có trách nhiệm nhân quả phải
nâng đỡ những người không giai cấp mà tổ tiên họ ngày xưa đã chinh
phục. Chính sự quí phái của họ, những đức tánh thiên phú của
người Aryen đã thúc đẩy họ
đảm trách công việc cần thiết này. Nếu một đứa trẻ không sạch
sẽ, thay vì xa lánh nó, chúng ta hãy bảo nó tắm rửa. Cũng thế,
chúng ta đừng xa lánh người Paria mà hãy cung cấp cho họ những
phương tiện để họ có sức khỏe, sạch sẽ và hiểu biết. Thực hiện
các việc ấy không lôi cuốn đến việc cần thiết phải ăn chung, nhưng
bổn phận của chúng ta là phải cư xử
cho tử tế, nhân từ đối với những người huynh
đệ còn non trẻ của chúng ta.
Quả thật sinh ra trong một
đẳng cấp hay một đoàn thể cũng luôn luôn đưa đến
cho con người vài cơ hội đặc biệt, nhưng không
vì lẽ đó mà y lợi dụng được ưu điểm trong việc ấy. Sinh ra
trong một gia đình lương thiện thuộc giai cấp hạ đẳng sẽ được
những cơ hội thuận tiện về
vài phương diện nào đó hơn là sinh ra trong một gia đình Bà La Môn
đê tiện, không xứng đáng. Thường thường con người cố gắng để đạt
được mục tiêu đã chọn, nhưng khi y thành công, y không biết lợi dụng
những cơ hội do mục
tiêu ấy đưa đến. Vậy thì một người Bà La Môn xấu có thể là y mới
sinh vào giai cấp đó lần đầu tiên hoặc là người đã xao lãng những
cơ hội tốt trong một tiền kiếp. Những trường hợp sau đây rất hiếm:
"Kẻ nào chịu cực khổ như một
tên nô lệ có thể sau đầu thai làm một ông Hoàng, nhờ những thiện
đức và những công trình đã gầy dựng. Ai kiếp trước là một vị
Hoàng Đế có thể đi lang thang rách rưới khắp nơi, vì những việc
đã làm và những việc đã bỏ phế ".
[117]
Theo nguyên tắc chung, những
người sinh ra trong gia đình thuộc
giới công nhân sẽ tiến
dần lên giai cấp
trưởng giả, rồi lại tiến lên bực cao hơn. Một phần lớn Nhân
Quả của mỗi người buộc chặt y vào giai cấp xã hội mà y là đoàn
viên và y cần những điều kiện như thế để thành đạt trong một kiếp
khác. Vả lại, vì sự tiến hóa tác động bằng sự tiến bộ liên
tiếp của sự giáo dục và sự tinh luyện cho nên sự vượt bực thình
lình từ một giai cấp thấp thỏi đến một giai cấp cao đẳng thật
sự, hoặc ngược lại, cũng hơi giống như
một cuộc giải phẫu cần thiết cho Nghiệp Quả rất đặc biệt
gây ra. Tuy nhiên, nhân loại là một gia đình duy nhất và bổn phận
của tất cả mọi người phải
cư xử bằng tình huynh đệ với nhau, không có ngoai lệ.
Nhiều tội ác đã phạm nhân
danh Đức Thượng Đế từ bi, do thói dị đoan mộng mị ấy gây ra.
C. W. L.
–
Còn một điểm nữa cần phải ghi nhận. Đối với thói dị đoan, người
nguy hiểm nhất là người có những hảo ý, trung
thành tuyệt đối với Qui Luật. Một người thật sự ích kỷ -
có thể có một số ít người như thế - lo thỏa mãn những ham muốn
riêng của y trước tiên, y
không bận tâm lo cho kẻ khác, trừ phi người ta ngăn trở bước đường
của y, do đó y không làm hại đời nhiều. Thật ra
một người dầu sự khôn ngoan còn thiển cận song có hảo ý
lại nguy hại nhiều hơn, vì y luôn luôn muốn can thiệp vào công việc
của kẻ khác. Những nhà truyền giáo Cơ Đốc thường cho những bằng
cớ về việc này. Tôi không hoài nghi rằng: những giáo sĩ được gởi
đi từ Âu Châu và Mỹ Châu
không thực hiện được nhiều điều tốt đẹp cho người ở Trung bộ Phi
Châu còn dã man và những dân tộc đồng loại với họ. Nhưng bên Ấn
Độ, người công nhân đầu tiên nào mà ta gặp ngoài đường cũng thường
hiểu biết nhiều hơn nhà truyền giáo Cơ
Đốc và triết lý của tôn giáo họ, cũng như về tất cả những
ý niệm rộng rãi cao siêu hơn, mà nhà truyền
giáo dường như lạc điệu một cách buồn cười. Những ý muốn
của nhà truyền giáo thì khá tốt lành, nhưng y làm hại nhiều hơn.
Nhiều trận giặc đã xảy ra vì phương pháp phi lý của các giáo sĩ.
Chính phủ họ phải can thiệp và cứu họ khỏi hiểm họa mà họ gọi
là tuẫn Đạo. Điều này đã trở thành một thông lệ: trước hết là
những nhà truyền giáo; rồi đến những người bán rượu mạnh và
rượu đỏ tùng (genièvre); sau rốt là những đạo binh đi chinh phục.
Tội nghiệp cho những bà già
bên Anh và Mỹ chịu thiếu thốn mọi mặt để nâng đỡ những nhàtruyền
giáo này và họ tưởng rằng làm như thế vì thương Chúa! Họ
không ngờ rằng cả ngàn năm trước khi Chúa ra đời, bên Ấn Độ đã có
một tôn giáo và một triết lý siêu việt và họ nên tìm một chỗ chi
dụng tốt nhất cho tiền bạc của họ trong việc
cải tâm những người ngoại đạo của nước Anh.
Vậy con hãy giữ cho kỹ lưỡng đừng để sự dị đoan lưu lại một dấu
vết nhỏ mọn nào trong lòng con.
C. W. L.
–
Sự nhấn mạnh về điều đó chỉ cho thấy rằng có một sự nguy hiểm
là chúng ta có thể mê tín mà không biết mình mê
tín, chúng ta nên thận trọng. Mọi vấn đề ít ra cũng có hai
mặt. Nhưng không một cá nhân nào thấy được toàn diện, ngay cả nhà
Thông Thiên Học cũng thế. Khi chúng ta chia sớt Tâm Thức của
Đức Thượng Đế trên cõi của Ngài, chúng ta mới thấy được tất cả
những gì bao quanh chúng ta và chúng ta có thể nói: "Lối thấy
của tôi thật đúng", nhưng khi chúng ta đi đến trình độ đó,
thì cách thấy riêng biệt
của chúng ta có thể bao gồm một lối thấy khác
[118], vì hầu như mỗi cách thấy
luôn luôn chứa đựng một mầm mống chân lý.
Phải tránh ba tội ác lớn lao này, bởi vì chúng nó là những tội
nghịch với lòng từ bi, cho nên ngăn cản sự tiến bộ.
C. W. L.
–
Tình thương phải điều khiển đời sống của chúng ta. Nó phải làm
cho tất cả những quan năng của chúng ta hoạt động. Đó là giáo lý
đặc biệt về Cung của Đức Thầy Kouthoumi. Nhiều
người rất thắc mắc tại sao các Đấng Chơn Sư là những Đấng
đã kết hợp được nơi các Ngài những đức tính cao cả nhất, quí
báu nhất mà chúng ta có thể tưởng tượng được, lại có những đức
tính này trội hơn đức tính kia. Đức Thầy Morya, đối với chúng ta,
Ngài tượng trưng cho Cung Thứ Nhất. Đặc tính
của Ngài là Ý Chí và Uy Quyền. Tuy nhiên, nếu cho rằng Ngài
ít Bác Ái hay là Minh Triết hơn các Đấng Chơn Sư khác là điều sai
lầm. Cũng như chúng ta rất lỗi lầm nghĩ rằng Đức Thầy Kouthoumi
kém quyền năng hơn Đức Thầy thuộc về Cung Thứ Nhất. Những sự dị
biệt này vượt khỏi trí khôn
của con người.
Cũng giống
như thế, các
Đấng Cao Cả không đồng bậc với nhau. Đức Bồ Tát cao hơn Đức
Thầy của chúng ta thật xa. Đối với chúng ta, các Ngài đều
cao cả đến nỗi chúng ta không dám cho các Ngài thuộc về cấp
bậc nào. Đối với chúng ta, tất cả
các Ngài là những
vầng Thái Dương chói lọi. Chúng ta không
thể phân biệt được vị nào là Đại Thiên Thần và vị nào là
Chúa Tể các Thiên Thần, mặc dù vị này cao hơn vị kia cả một
giới, một hạng, trọn cả một triều lưu tiến hóa. Đức Thái Dương
Thượng Đế tất nhiên có quyền năng cao hơn các vị Thiên Thần ấy,
các vị là thành phần của chính Ngài, dù đối với chúng ta, uy
lực cao siêu hơn các Đấng
Thiên Thần này là một điều không thể tưởng tượng được. Sự hiểu
biết về quyền năng của Đức Thầy siêu việt đến nỗi đối với chúng
ta, tất cả các Ngài đều hòa lẫn trong một sự vinh quang rực rỡ.
Tuy nhiên vẫn có sự cách biệt.
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI CHÍN
�
Y
�
Nhưng không chỉ tránh việc ác thôi, mà còn phải tích cực làm
lành. Lòng con phải tràn ngập ý muốn quyết liệt phụng sự cho đến
nỗi con không hề quên giúp đỡ tất cả những loài ở chung quanh con,
chẳng những con người mà còn đến cầm thú và thảo mộc nữa.
Con phải giúp ích trong công
việc nhỏ mọn hằng ngày cho có thói quen, hầu gặp cơ hội
phụng sự lớn lao đưa đến, con mới
không bỏ qua.
C. W. L.
–
Thông thường chúng ta có thể để cho dịp may giúp đỡ kẻ khác trôi
qua; nếu chúng ta không có thói quen cẩn thận.
Trái lại nếu chúng ta đạt được thói quen này rồi thì chúng
ta sẽ không bỏ qua nhiều dịp may, vì nó tự biểu lộ ngay ở giữa
những hoàn cảnh ít xảy ra; ngay trong những trường hợp khẩn cấp
nhất. Đó là lý do duy nhất vì
sao các chiến sĩ bị bắt buộc phải luyện tập
dài lâu và khá gian khổ. Chẳng hạn họ biết thật đúng phải
làm thế nào để tuân theo vài mệnh lệnh và vài thói quen cũng
phải thành ra tự nhiên nữa. Ngày xưa, (nếu không phải là bây giờ)
ngoài chiến trường người chiến sĩ gặp một tình cảnh hoàn toàn
mới lạ. Như thế tính
can đảm của y có thể được thử
thách một cách hữu hiệu, dù y có anh dũng thế nào, trong
tình cảnh ấy, sự hốt hoảng cũng dễ được tha thứ. Tuy nhiên, ngay
trong tình trạng giống như thế, thói quen lại mạnh hơn; người chiến
sĩ tuân theo mệnh lệnh và thực hiện một sự cố gắng cần thiết.
Sự tuân thủ về vấn đề
tích cực làm lành dầu sao cũng không nhằm chống lại những người
hoạt động trên mấy cõi khác. Một sự
tuân thủ như thế có thể được dễ dàng áp dụng một cách sai
lầm để chống lại những nam,
nữ tu sĩ thuộc về tông phái trầm tư mặc tưởng, hay là chống lại
giai cấp Bà La Môn bên Ấn Độ. Thuở xưa trên phương diện lý thuyết,
người Bà La Môn là nhà lãnh đạo tinh
thần của quốc gia. Họ được xem như hiến trọn đời để thi
hành việc tế lễ và nghi thức, để học hỏi, giảng dạy và khuyên
bảo hầu đem lại sự lợi ích cho toàn thể xã hội. Những kẻ khác
chăm lo công việc bình thường với ý muốn để làm giàu, họ sẽ cung
cấp nhu cầu cho vị Bà La Môn, vì người đang làm việc tinh thần thay
thế cho họ. Trong những xứ Thiên Chúa Giáo những tu sĩ trong đạo
viện vẫn có một ý niệm, họ luôn luôn cầu nguyện cho người chết.
Trong thời gian vị tu sĩ ấy đảm trách công việc của họ, người ta
nghĩ rằng kẻ chết và người sống làm ra một cộng đoàn duy nhất
và cầu nguyện cho kẻ chết là một lối phụng sự cộng đoàn còn
quan trọng hơn việc trồng lúa mì. Do
đó, những tu sĩ sống nhờ của bố thí mà không cảm thấy hổ
thẹn chút nào và cả những thí chủ nhân từ tự thấy mình rất vinh
hạnh. Tinh thần chung hoàn toàn khác biệt với tinh thần hiện tại.
Sống nhờ của bố thí như thế không hề bị xem như là một sự xấu
hổ. Thật ra, những người sống bằng cách ấy là hiện thân của
những kẻ tiến hóa cao trên phương diện tinh thần.
Họ phát nguyện được sống nghèo nàn, trinh khiết và phục
tòng. Kết án những người sống một cuộc đời như thế quả là phạm
ngay lỗi lầm của những nhà cách mạng Pháp, họ nói rằng: "Một
triết gia hay
một nhà văn là người
biếng nhác và vô dụng; y phải đập đá ngoài đường".
Bởi vì nếu con khao khát được hợp nhất với Đức Thượng Đế, ấy
chẳng phải để riêng cho con, mà để cho con thành một vận hà di
chuyển đức từ bi bác ái của Ngài đến anh em con. Người đi trên
đường đạo không hề sống riêng cho mình, mà chỉ sống cho những kẻ
khác. Y phải quên mình mới có thể phụng sự được.
C.W. L.
–
Mục đích duy nhất của quyển
sách này là giúp cho độc giả có được một thái độ nào đó. Cốt
ý để sống hơn là hiểu biết, đây có nghĩa là sống một đời sống
Thông Thiên Học, ban rải ra
tình thương tràn ngập trong
lòng cho tất cả chúng sinh với một ý muốn nhiệt thành trợ giúp
sự tiến hóa đến nỗi trong khi phụng sự kẻ khác, chúng ta tự quên
mình. Nếu bạn được mục
kích một y sĩ thực hiện
một cuộc giải phẫu quan trọng, bạn sẽ hiểu vì sao một người trong
một tiếng đồng hồ chú tâm mãnh liệt, tận dụng tất cả năng lực
trí óc và thủ thuật tinh xảo, hết sức chăm chú vào công việc,
hầu như tất cả sự sống của y sĩ đều tập trung trên những đầu
ngón tay. Trong khi đang tác chiến cũng thế, người chiến sĩ có thể
hoàn toàn quên mình trong lúc y cố gắng cứu
một người đồng đội bị thương hoặc hoàn thành một công tác
cần yếu song nguy hiểm.
Đức Thượng Đế toàn năng
trong hệ thống của Ngài. Ngài ban thần lực khắp các cõi. Chúng ta
không thể không tin rằng Ngài ban thần lực đó cho trọn cả hệ thống
của Ngài, ở bất cứ cõi nào, và trong một phạm vi nào mà Ngài
đã chọn lựa. Thật ra, Ngài không
làm thế; số lượng thần
lực ban rải ở mỗi
cõi dường như bị giới hạn rõ rệt và chỉ thuộc về một loại nhất
định. Do đó, chúng ta là những tia sáng thuộc về Ngọn lửa của
Ngài, chúng ta có thể hoàn thành vài việc do Ngài làm xuyên qua
chúng ta là những thành phần của Ngài. Chúng ta không thể nói
rằng Ngài không làm được, mà hình như Ngài không làm. Nhờ ở lòng
sùng tín mãnh liệt, nhờ ý chí của chúng ta hòa hợp với ý chí
của Ngài, chúng ta có thể thúc giục thần
lực từ những cõi trên
tuôn xuống, chúng ta biến chất nó, rồi phóng nó ra xa. Theo sự ước
đoán của chúng ta, công việc này sẽ không thành tựu, nếu chúng ta
không thực hiện nó. Người ta nói rằng Đức Thượng Đế trông cậy vào
sự hợp tác của chúng ta. Nhưng công việc ấy cũng tùy thuộc Ngài,
vì không có năng lực nào khác ngoài năng lực của Ngài. Tôi đã
nhiều lần dùng danh từ để so sánh "vận hà (con
kinh)" hay là "ống dẫn" trong khi mô tả thần lực của Đức
Thầy ban rải xuống những cõi thấp xuyên qua một vị đệ tử. Người
ta cũng có thể dùng danh từ biến điện để chỉ việc ấy. Có những
số lượng rất lớn điện khí, điện thế cao, được chuyển đến trạm
biến điện của một thành phố, có thể cách xa nơi phát điện hàng
trăm dặm. Nơi đây những máy biến điện tiếp nhận điện khí, điện
thế cao ấy và biến đổi nó
ra nhiều dòng điện, điện thế thấp, có thể sử dụng trong
việc thắp đèn hoặc nhiều việc khác. Cũng giống như thế, một vị
đệ tử ở Sydney, chẳng hạn, có thể tiếp nhận thần lực của Đức
Thầy ở cõi cao từ Hy Mã Lạp Sơn đưa xuống và biến đổi nó thành
thần lực có thể dùng cho những cõi thấp hơn, hầu phân phát nó ra
chung quanh y hoặc đưa nó đến
những nơi được chỉ định thâu nhận nó.
Vậy mỗi vị được Điểm Đạo
là một cái máy biến đổi thần lực. Xuyên qua y, thần lực đó có
thể tuôn xuống đến một chừng mực, tùy theo trình độ cấp bậc của
y. Thần lực bao bọc chúng ta, như mặt trời luôn luôn chiếu sáng.
Trừ phi lúc nhựt thực, nếu ánh sáng
mặt trời không xuống tới quả địa cầu, ấy tại quả địa cầu
sinh ra những đám mây bay lên che khuất mặt trời. Cũng thế, con
người sinh ra những đám mây ích kỷ và vô minh, chúng chồng chất lên
ở chính giữa con người và Đức
Thượng Đế trong lúc Ngài
đang ban rải nhiều thứ
thần lực khác nhau cho mỗi cõi. Vị được Điểm Đạo đã tiến tới
một bước, nên có thể cung ứng cho những thần lực này một vận hà
hữu hiệu nhất. Không phải chúng không ảnh hưởng đến
con người; chúng luôn luôn hiện diện, nhưng khi ta không sẵn
sàng tiếp nhận chúng thì ta
để cho chúng đi mất.
Do sự loại suy, chúng ta
hãy xem xét sinh lực
hồng trần. Mỗi người
đều hấp thụ sinh lực. Nhưng đôi khi, trong lúc bệnh hoạn, con người
không thể thu dụng nó cho
chính mình, nên chẳng bao lâu
y cảm thấy thiếu nhiều sinh lực. Dù không đủ khả năng biến đổi
sinh lực cho chính mình dùng, song y có thể dùng sinh lực do kẻ
khác biến đổi. Người này nhờ sinh lực dồi dào, có thể truyền
sang sinh lực cho người bệnh và cho y sức mạnh cần thiết để
phục hồi tình trạng bình thường. Cũng giống như thế, vị
được Điểm Đạo sử dụng rất
nhiều thần lực ở mấy cõi trên, Ngài biến đổi chúng, đặng cho kẻ
khác có thể tiêu hóa chúng
dễ dàng. Càng có nhiều người đạt đến trình độ có thể đảm trách
công việc ấy, thì sự tiến hóa chung của nhân loại càng được gia
tăng mau chóng. Nếu chắc chắn là thảo mộc chỉ có thể chịu đựng
mỗi một số lượng ánh sáng có giới hạn, thì cũng đúng là không
thể ban rải cho một người nào đó một số lượng ánh sáng tinh thần
quá to tát.
Tuy nhiên bạn chớ tưởng
rằng những vận hà đó là thuần túy thụ động. Chúng là những con
kinh linh động. Vị đệ tử không hề
bất động và chỉ biết làm vận hà suông mà thôi. Có những
thần lực được ban xuống như thế, và thường thường đệ tử Chơn Sư
ý thức được đặc tính
của luồng thần lực xuyên qua y và y cũng biết nó gởi đến cho ai.
Nhưng một phần lớn thần lực còn lại vẫn để cho y phân phối bất
cứ lúc nào. Y có thể chuyển đi nơi này hoặc nơi khác tùy theo nhu
cầu mà y nhận định. Vậy vị đệ tử đã vận dụng tài thích
ứng, và sự thiệp thế của mình. Y đã tỏ ra có một sự hoạt
động luôn luôn tích cực. Như thế đời sống của y không phải là một
sự phục tòng mù quáng. Trái lại, y bận việc lo lắng, trong khi
những kẻ khác ở không và chỉ nghĩ đến chính mình mà thôi.
Những người thường không
thể dễ dàng sử dụng trong công việc này, vì họ ít phát triển
trên những cõi cao, và nếu Chơn Nhơn
đã khá tiến hóa, thì sợi dây liên lạc giữa Chơn Nhơn và
Phàm Nhơn cũng còn rất mảnh
mai. Chơn Sư có thể dùng vị
đệ tử bởi vì vận hà được khai thông. Cũng y như thế, Đấng Duy
Nhất Chí Tôn Cầm Quyền Điểm Đạo
[119] có thể truyền thần lực
của Quần Tiên Hội xuyên qua những vị đã được Điểm Đạo. Trong
trường hợp đó, con người là
Chơn Ngã cao cả và dù y đang làm bổn phận dưới thế gian, song trong
Trí y luôn luôn có tư tưởng này: "Tôi là Chơn Thần; Tôi là Tia Sáng
Thiêng Liêng; Tôi phải xứng đáng với Thượng Đế". Người ở ngôi vị
cao, không nên khinh xuất. Phải hành động cho thích ứng, cho đúng
với danh dự mình.
Vì sự quan trọng của công
việc, cho nên sự liên quan giữa Chơn Sư và đệ tử
không bao giờ căn cứ trên tình cảm, dù cho sự liên quan này
chan chứa tình thương sâu xa nhất mà người đời có thể hiểu được.
Đức Thầy không thu nhận một người nào làm đệ tử vì y có thân nhân
đã được làm đệ tử hoặc vì Ngài đã biết y trong những tiền kiếp.
Chơn Sư cũng như đệ tử của
Ngài chỉ nghĩ đến công việc
mà người Ai Cập gọi là "công việc bí ẩn", tức là việc
thu nhặt những mảnh vụn thân xác của Osiris bị xé ra rồi
ráp lại thành hình Ngài. Chơn Sư và đệ tử đều biết được "Ánh
Sáng Ẩn Tàng" đang chiếu diệu trong con người, cũng như đã
biết được: "Bửu Châu Trong Hoa Sen"
[120],
chúng luôn luôn giúp đỡ con người, nếu y biết cách kêu gọi chúng.
Đó là công việc của những vị
được Điểm Đạo bên Ai
Cập thuở xưa và cũng là công việc của những người đời nay. Họ sử
dụng quyền năng tạo lập vũ
trụ, lòng từ bi của Đức Thượng Đế, vốn là tình thương vô tư. Không
ai bị bắt buộc phải vào con đường Huyền Bí Học, nhưng nếu có theo
con đường ấy, thì nên chấp nhận câu châm ngôn và tôn chỉ của Quần
Tiên Hội, tức là "không
sống cho chính mình, mà sống cho kẻ khác. Không sống cho sự tiến
hóa cá nhân của mình hoặc hưởng thụ những sự thỏa mãn riêng tư,
mà sống cho công nghiệp thiêng liêng".
Người ấy là một ngòi bút trong tay Đức Thượng Đế, xuyên qua đó, tư
tưởng của Ngài mới có thể tuôn xuống và biểu hiện ra tại
phàm trần; nếu không có người trung gian đó thì không thể thực
hiện việc ấy được.
C. W. L.
–
Hình như Đức Thượng Đế đã dự tính rằng đến một giai đoạn tiến
hóa nào đó, Ngài sẽ sử dụng nhiều ngòi viết như
thế để viết. Theo lời một thi sĩ thì chính Đức Thượng Đế
"cần dùng bạn và tôi". Thiên
Cơ đã qui định sự cộng tác của chúng ta; đó là ý tưởng vĩ
đại và rất hợp lý. Chúng ta thấy ngay rằng nếu chúng ta có thể
đạt đến một mức độ hiểu biết, thương yêu và quyền lực cao hơn bậc
trung bình một chút, chính vì để chúng ta trở nên hữu dụng trong
việc ban rải chúng cho kẻ
khác.
Nhưng đồng thời, y cũng là một bó lửa linh động tỏa ra
khắp cõi trần tình
bác ái thiêng liêng tràn ngập lòng y.
C. W. L.
–
Người ta kể chuyện hai nhà sư kia ở Alexandrie muốn giữ
mình được hoàn toàn tinh khiết, một vị đạt được mục
đích bằng cách tự bao bọc mình với một tư tưởng bảo vệ,
còn vị kia về điểm này thì tràn ngập tình thương của Đức Thượng
Đế cho đến đỗi tình thương
này không ngớt chiếu diệu chung quanh y và giữ cho y được tinh
khiết. Luôn luôn có hai con đường: con đường
của nhà Huyền Bí Học, vị này tiến hóa bằng sự
làm việc trên thế gian
và con đường của nhà Thần Bí, vị này sống với nội tâm. Trong
nhiều trường hợp mục đích duy nhất của nhà Thần Bí là hợp nhất
hoàn toàn với Đức Thượng Đế. Tuy nhiên, không nên cho rằng y ích
kỷ, vì khi theo đuổi mục đích ấy, y đã thực sự ảnh hưởng đến
những người chung quanh y một cách phi thường. Mục đích của chúng
ta là mục đích của Huyền Bí Học. Chúng ta phải tiến lên từ bước
một, từ giai đoạn này đến giai đoạn khác, cho đến lúc chúng ta
đạt được vài trình độ cao của sự Điểm Đạo, thì chúng ta mới có
thể đem tâm thức nhập vào trạng thái Thứ Ba của Đức Thượng Đế ([121]),
rồi đến trạng thái Thứ Nhì và sau cùng là trạng thái Thứ Nhất.
Nhà Thần Bí đắm mình vào sự sống của Đức Thượng Đế ngay bây
giờ, nhưng đó là sự biểu hiện thấp của đời sống thiêng liêng. Y
còn phải phấn đấu để theo đuổi con đường tiến lên cao, hầu cảm
biết một sự hiệp nhất với sự sống trên cõi cao.
Minh Triết làm cho có khả năng
giúp đỡ, Ý Chí hướng dẫn Minh Triết, Bác Ái linh cảm Ý
Chí, đó là những đức tính mà con phải hoạch đắc. ÝChí, Minh
Triết và Bác Ái là ba trạng thái của Đức Thượng Đế, và bạn là
người muốn được trưng dụng vào công việc của Ngài, thì bổn phận
của bạn là phải biểu lộ ba đức tính đó dưới thế gian.
C. W. L.
–
Hỡi các huynh đệ của tôi! Đây chính là một cứu cánh đẹp đẽ tuyệt
vời. Mong rằng huynh đệ đạt được cứu cánh ấy, cũng như Alcyone đã
thực hiện rồi vậy.
mục lục đầu sách cuối sách lời nói đầu phần 1 2 3 4 5
[1] The Lives of Alcyone. T.P.H. 1924.
[2] I Corinthiens 11, 9.
[3] Lời cầu nguyện này trích trong Quyển Brihad Aranyaka Upanisad. (Lời dịch giả)
[4] Thường hằng: Luôn luôn không thay đổi.
[5] En Lui nous avons la vie, le mouvement et l' être – có thể dịch: Chúng ta sống,chúng ta hoạt động, chúng ta vẫn hiện diện trong lòng Ngài. (Lời dịch giả)
[6] Romains XI – 36.
[7] Trong nhiều kiếp trước chớ không phải kiếp này. (Lời dịch giả)
[8] Péripatécien.
[9]1
Cor., II, 6. Trad. Crampon.
[10]
2500 năm trước, Alcyone sinh ra ở Ấn Độ và được Đức Phật Như
Lai thâu làm đệ tử. Alcyone có nguyện với Phật như sau: "Con
quì trước mặt Phật thề rằng: Con vẫn cố gắng thực hiện
cho được nguyện vọng đó. Con muốn theo Phật đặng cứu độ
nhân loại đang rên siết, thở than. Phật đã giải thoát cho con
khỏi sự đau khổ và dắt con đến cõi an tĩnh đời đời. Con
muốn dắt nhân loại đến cõi đó và con xin đem hết những
kiếp lai sinh của con lo lắng việc này cho đến
khi nào con thành một Đấng Cứu Thế như Phật vậy."
Alcyone theo Phật lấy tên là Maitribaladasa nghĩa là Người Phụng Sự Đấng Từ Bi. Đức Phật nói: "Con khéo lựa chọn. Tên này tốt lắm. Nó là lời tiên tri của số kiếp con sau này". Bởi vì Đức Bồ Tát hiện kim là Đức Di Lạc (Seigneur Maitreya). Trong vòng sáu, bảy trăm năm năm nữa, Ngài sẽ là một vị Phật Từ Bi (Bouddha de Compassion). (Lời dịch giả)
[11] Spirilles.
[12] Bhagavad-Gita (trad. Kamensky), II, 59.
[13] Những người sống có điều độ, kỷ luật. (Lời dịch giả)
[14] Kẻ trụy lạc nhất.
[15] Matth. XIX, 17.
[16] Tinh luyện. (Lời dịch giả)
[17] Matth., X 39.
[18] Pôle opposé dịch là đối cực mới đúng, song dùng đối cực thì hơi khó hiểu, nên dịch đối lập cho dễ hiểu. (Lời dịch giả)
[19] Ở đây nói về Khoa Tâm Lý Học Huyền Bí chớ không phải Khoa Tâm Lý Học thường. (Lời dịch giả)
[20] Proverbes, XIV, 16.
[21] Vợ của Lot nhìn lại đàng sau liền hoá ra một cái hình bằng muối. (Sáng Thế Ký 19, 26) – La femme de Lot regarda en arrière, et elle devint une statue de sel. (Genèse 19, 26) (Lời dịch giả)
[22] Matthieu, V, 46.
[23] Luc, VI, 27 - 29.
[24] Pierre, II, 23.
[25] Romains, XII, 19.
[26] Kiểu chính: sửa cho ngay thẳng, sửa cho đúng.
[27] Acrtes, VI, 2.
[28] Xin xem quyển Phật học đại cương của Ông H. S. Olcott, câu 131.
[29] Matth, V, 39. Trad. Crampon.
[30] Matth., XII, 36.
[31] Matth., VI, 5, và XXIII, 14.
[32]
Ánh
Sáng trên Đường Đạo, I, 8.
[33] Bhagavad-Gita (trad. Kamensky), X, 36 : "Je suis le jeu du tricheur".
[34]
Ps., 139, v .8.
[35]
Is., XLV, 7.
[36]
Đây
là Điểm Đạo lần thứ Nhứt. (Lời dịch giả)
[37] Bhagavad Gita (trad. Kamensky), II, 59.
[39] Moksha – Danh từ Phạn ngữ có nghĩa là giải thoát, ở đây có nghĩa là giải thoát khỏi vật chất. (Tự điển Rhéa).
[40]
Jean, II, 16.
[41]
Bảo hoà: Nồng độ cao nhất không thể hoà tan được nữa
(saturation)
–
Lời dịch giả.
[42] Cũng gọi là ngũ hành (Esprits de la nature).
[43]
Bậc trung từ một đến
ba tấc. Xin xem quyển: Các Hạng Thiên Thần của tôi. (Lời
dịch giả)
[48]
Ordre de l'Etoile d'Orient: Etoile d'Orient là Sao Mai cũng là
Sao Hôm tức Kim Tinh (Vénus).
(Lời dịch giả)
[53]
Dân tộc Nhật-nhĩ-man thuở xưa ở Bắc Đức, qua chinh phục Anh
Quốc hồi thế kỷ thứ chín. (Lời dịch giả)
[54] Xin nhớ đây là ý kiến của Ngài. Việc chích ngừa những bệnh truyền nhiễm như đậu mùa, dịch tả, dịch hạch, vân vân . . . rất có hiệu quả. (Lời dịch giả)
[55] Trong quyển nhỏ Aux pieds du Maitre dịch giả có nói Onepointedness không có chữ đồng nghĩa bên Pháp văn, có thể có nghĩa là Fixité de l'Esprit. (Lời dịch giả)
[56] Thượng Đế bên trong chúng ta là Chơn Thần. (Lời dịch giả)
[58] Entités astrales xin tạm dịch là Nhân vật, vì danh từ này chỉ định nhiều thứ nhân vật. (Lời dịch giả)
[59] Nên hiểu nghĩa bóng của câu này: Trong lò luyện kim người ta sẽ biến đổi chì thành vàng. (Lời dịch giả)
[61] Ở đây không phải nằm dài mà có nghĩa là xả gân cốt, muốn xả hơi phải tập để Cái Trí trống không, đừng tưởng chi cả, phải luyện tập vì điều này rất khó, Tiếng Pháp là Faire le vide.
[62] Nguyên văn chữ Anh là namby-pamby dịch ra Pháp văn là maniéré, affecté, minaudi-er, có nghĩa là làm bộ, giả bộ nhỏng nhẻo, nũng nịu. Pháp dịch là: manière un peu enfa-ntine.
[64] Phải lên tới mấy cảnh cao của cõi Bồ Đề và lên tận Niết Bàn mới thấy rõ ràng điều này. (Lời dịch giả)
[66] Vì nó rất thanh bai, tế nhị.
[67] Xin nhớ: Về Hạ Trí là Phân Tử Trường Tồn chớ không phải là Nguyên Tử Trường Tồn. (Lời dịch giả)
[68] Tới đây, mới thấy Ngũ Thường của Đức Khổng Tử dạy hữu ích là dường nào. (Lời dịch giả)
[71] Công việc huyền bí (esotérique) trong đạo đức gọi là Mật. Công việc ngoài đời (exotérique) gọi là hiển. (Lời dịch giả)
[72] Chữ "bigotry" dịch là ngu tín mới đúng – song hai chữ ngu tín nặng lắm. (Lời dịch giả)
[76] Fil sacré: tôi dịch là Kim thằng, nó thuộc về thiêng liêng. (Lời dịch giả)
[85] Ấy là Đức Ngọc Đế. (Lời dịch giả)
[86]
Ấy là Đức Ngọc Đế. (Lời dịch giả)
[88] Theo chỗ tôi hiểu: đây là đổi cung. Sau khi bước vào Đường Đạo rồi, con người có thể xin đổi cung. Thí dụ: Trước kia ở cung thứ năm, bây giờ có thể xin đổi qua cung thứ nhất hay thứ nhì. (Lời dịch giả)
[91] Retraite Thibétaine có nghĩa là chỗ ẩn cư ở Tây Tạng, nhưng chúng tôi để Tịnh Thất cho dễ hiểu. (Lời dịch giả)
[92] Manas Supérieur là ngôi thứ ba – khác với Corps Supérieur – không thể dịch là Thượng Trí được. (Lời dịch giả)
[93]
Nguyên bản Anh văn của C.W.
Leadbeater: "Man: Whence, How and Whither". Bản dịch Pháp
văn: "L'homme: d'òu il
vient et òu il va".
[94] S. Jean, III. 14.
[96] Sáu điểm này gọi là Shatsampatti (sáu tính thuộc về nhóm năng lực trí thức). Xin đọc quyển "Con Đường của Người Đệ Tử". (Lời dịch giả)
" Chư ác mạc tác;
Chúng thiện phụng hành;
Tự tịnh kỳ ý;
Thị chư Phật giáo".
(Lời dịch giả)
[102] Chữ Contexte trong bản văn chữ Pháp có nghĩa là trạng huống tức là tình hình hoặc trọn một bản văn. (Lời dịch giả)
1 Quả có gai, cụm hoa có lông dính (hay bám vào lông thú vật).
[104] Riêng cá nhân tôi, tôi tin rằng sự chủng đậu rất hữu ích, vì nó ngừa được bịnh độc ác này – cũng như thuốc ngừa dịch tả, dịch hạch, nọc chó dại. (Lời dịch giả),Có phải nó không tốt cho những thể xác quá tinh anh chăng ?
[105] Romains, XIV, 5.
[106] Orangisme: Chủ nghĩa phái Quillaume d'Orange ở Anh (1589). Đảng Tân giáo Ái Nhĩ Lan. (Lời dịch giả)
[107] Massacres de la Saint-Barthélemy: Sự tàn sát những người Tin Lành tại Paris, đêm 24 Aout 1572 do mạng lịnh của vua Charles IX theo lời xúi biểu của Cathérine de Médicis. Có 3.000 người chết, trong đó có Thuỷ Sư Đề Đốc Coligny. (Lời dịch giả)
[108] Vêpres Siciliennes: Sự tàn sát những người Pháp tại đảo Sicile (Ý) năm 1282. Ngày thứ hai của lễ Phục Sinh (Pâques) trong lúc chuông nhà thờ reo vang, gọi các tín đồ tới dự lễ, thì người Ý đảo Sicile nổi lên giết những người Pháp ở tại đó. Họ chống lại Charles 1er d' Anjou và có Pierre III d'Aragon ủng hộ. (Lời dịch giả)
[111] David – Vua thứ hai của người Hy Bá Lai (Hébreue) trị vì lối 1015 - 970 trước Chúa Giáng Sinh – Ngài là một nhà thi sĩ và một nhà tiên tri. Ngài lập thành Jésuralem.
[112] Salomon – Con vua David lên kế vị Ngài (970 - 931) trước Chúa Giáng Sinh – Ngài cất Thánh Đường Jésuralem. Ngài tài phép cao cường.
[113] Ấy là một Hình Tư Tưởng do mấy Đại Quỷ Vương Ắt Lăng Tích tạo ra trong khoảng một trăm ngàn năm nay. Mấy Đại Quỷ Vương giỏi cho đến đỗi họ dạy những thú biết nói tiếng người và khôn lắm. Năm 75025 trước Chúa Giáng Sinh, Châu Ắt Lăng Tích bị nhận chìm xuống biển, nhiều Hình Tư Tưởng trốn thoát khỏi và chạy qua Ai Cập, và Ấn Độ rồi ở đó đến ngày nay. (Lời dịch giả)
[116] Some Glimpses of occultism, dịch ra tiếng Pháp là: Echappées sur l'occultism.Some Glimpses of occultism, dịch ra tiếng Pháp là: Echappées sur l'occultism.
[118]
Việc này xảy ra trên cõi Bồ Đề.
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES