|
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES
|
ĐẠO
SIKH
Tác giả ANNIE
BESANT
|
|
Lời
Tựa
Nói về tự
do, tự
do tư
tưởng
có thể
nói là
dự
phần
quan trọng
trong sự
tiến
hóa của
nhân loại
và sự
đau khổ
của
nhân loại
tỉ
lệ
nghịch
với
sự
tiến
hóa. Khi một
cá nhân sinh ra và lớn
lên trong một
gia đ́nh nào đó th́ hầu
như
họ
thường
theo tôn giáo mà cha mẹ
họ
đang theo. Họ
ít có
dịp
khảo
sát tôn giáo
ấy
cặn
kẽ
và mặc
nhiên, mọi
quan niệm
về
nhân
sinh quan, về
cuộc
đời,
cũng như những nhận định của họ
thường
được nh́n qua màu sắc
tôn giáo của
họ.
Nói cách khác là theo định
kiến
tôn giáo của
họ.
Mỗi
tôn giáo đều
có màu sắc
óng ánh của
nó toát ra từ
một
Thực
Tại
Nhất
Như.
Thế
giới
mà nhân loại
đang sống
là thế
giới
vật
chất
hồng
trần,
thuộc
tính của
nó là giới
hạn,
là thế
giới
của
nhị
nguyên.
Do đó tôn giáo cũng không ngoại
lệ,
cũng phải
mang tính giới
hạn
này, nên mỗi
tôn giáo chỉ
thể
hiện
được
một
sắc
thái nào đó mà thôi hay nói một
cách khác đi, bị
những
giới
hạn
riêng của
nó.
Hơn
nữa,
qua thời
gian, mỗi
tôn giáo đều
có nhiều
sự
biến
đổi
làm che khuất
đi chân lư khởi
thủy.
V́ thế
chúng
ta cần
có một
sự
khảo
sát kỹ
lưỡng
tôn giáo mà ḿnh theo đuổi.
Qua những
bài phát biểu
của
bà Annie Besant, chúng ta có dịp
khảo
sát các tôn giáo để
t́m thấy
những
ánh sáng linh diệu
của
các tôn giáo và nhận
ra được
chân lư đích thực
ẩn
trong từng
màu sắc
của
mỗi
tôn giáo. Tuy nhiên, sự
khảo
sát này phải
dựa
trên tinh thần
khoa học
và chúng ta hăy nghe Ali, một
bậc
trưởng
lăo trong Hồi
giáo định
nghĩa về
Khoa học:
"Tinh
hoa của
khoa học
là việc
soi sáng cho tâm hồn,
mục
tiêu chính của
khoa học
là sự
thật,
điều
dẫn
dắt
của
khoa học
là cảm
hứng,
khoa học
chỉ
chấp
nhận
lư trí. Đấng
mang lại
linh hứng
cho khoa học
là Thượng
Đế
và lời
lẽ
của
con người
giúp xiển
dương
khoa học."
(Hồi
giáo, Annie Besant) Trong
tinh thần
khoa học
ấy,
chúng ta bước
vào Tuyển
Tập
Tôn Giáo này.
Như
Hải
-------------------------------------------------------------------------------------------
ĐẠO SIKH
(Một bài thuyết tŕnh trước
Đại hội)
Thưa các Huynh Đệ,
Khi bàn tới đạo Sikh chúng ta giáp mặt với điều có thể
được gọi là một phong trào lưỡng bội. Vốn căn bản là mang tính tôn giáo ngay
từ đầu, do áp lực của hoàn cảnh nó bị cưỡng chế thành ra một tổ chức hiếu
chiến. Khi nghĩ tới đạo Sikh hầu hết mọi người đều liên tưởng đến một chiến
sĩ anh dũng, một chiến binh oanh liệt. Nhưng ta sẽ sai lầm rất trầm trọng
nếu những người nghiên cứu như chúng ta coi y chỉ là và thậm chí căn bản là
một chiến sĩ. Điều đó chỉ bắt nguồn từ áp lực của hoàn cảnh, do
áp lực của môi trường xung quanh; nhưng bản thân của phong trào này
với tính cách trường cửu cơ bản vẫn là một phong trào tôn giáo. Đó là một
phong trào trưởng thành trong ḷng Ấn Độ giáo vốn tưởng niệm tới bậc Giáo
chủ vĩ đại của ḿnh là Đạo sư Nānak có ư niệm kết hợp tín đồ Ấn giáo với tín
đồ Hồi giáo thành một liên đoàn v́ t́nh thương của Thượng Đế và phụng sự cho
con người. Ư tưởng của Đạo sư Nānak – ta thấy nó được biểu hiện chẳng những
qua ngôn từ của ngài mà c̣n hơn thế nữa, qua cuộc đời ngài – là kết hợp
những yếu tố chiến đấu này của dân tộc Ấn Độ trên một nền tảng mà cả đôi bên
đều có thể chấp nhận được.
Nền tảng ấy căn bản là t́nh thương Thượng Đế, Bhakti tức
ḷng Sùng tín: Bhakti đối với Thượng Đế cũng như đối với Sư phụ, v́ chính
tên gọi Sikh có từ nguyên là Śisya, môn đồ, và ư tưởng yêu thương Thượng Đế
cũng như kính ngưỡng sư phụ chính là
nền tảng và gốc rễ của đạo Sikh. Như vậy, đó là một phong trào cơ bản là
sùng tín. Xét về triết lư, nó mang tính cách Ấn giáo; nhưng xét về mặt phong
trào nó có bản chất cải lương, phấn đấu chống lại chủ nghĩa h́nh thức đương
thời, chống lại chủ nghĩa nghi lễ đương thời để mưu t́m cái sự sống ẩn bên
dưới h́nh tướng, mưu t́m cái cốt tủy của sự thật làm linh hứng cho các nghi
lễ. Dưới thời Đạo sư Nānak cũng rất thường xảy ra trong lịch sử thế giới,
một tôn giáo lớn càng ngày càng mang tính h́nh thức và thiên hạ đói khát với
cái lớp vỏ trấu bao bọc hạt gạo hơn là chịu ăn chính hạt gạo. Đạo sư Nānak
ra sức t́m thấy cái hạt gạo ấy, và khi làm như vậy ngài đă dẹp bỏ phần lớn
lớp vỏ trấu; ngài phấn đấu dẫn dắt con người thấu hiểu được thực tại của tôn
giáo, sức sống của tôn giáo, cốt tủy của tôn giáo để hiểu được rằng sức sống
và cốt tủy ấy ở việc yêu thương Thượng Đế và Sư phụ, yêu thương con người là
con của Thượng Đế duy nhất. Các bạn hầu như có thể tổng kết chính cốt tủy
của đạo Sikh qua cụm từ ấy. Bây giờ ta sẽ thấy trong cuộc đời ḿnh, ngài đă
cố gắng ra sao để thu hút những yếu tố mâu thuẫn lại xung quanh ḿnh. Bây
giờ ta sẽ thấy trong cuộc đời ḿnh, ngài đă chứng tỏ đó là một bài ca tán
dương và yêu thương Thượng Đế biết chừng nào, ngài đă luôn luôn mưu t́m Đấng
Tối Cao và sau khi đă t́m thấy Đấng Tối Cao, ngài ra sức dạy cho đồng đạo
làm thế nào mà họ cũng có thể đạt được tri thức ấy qua ḷng sùng tín. Đấy là
tư tưởng mà tôi muốn các bạn nhớ kỹ khi nghiên cứu về đạo Sikh và bây giờ
tôi sẽ cho các bạn thấy điều này được tiến hành ra sao qua các giáo huấn
trong kinh điển đạo Sikh.
Nhưng trước khi làm như vậy và trước khi nói tới cuộc đời
của bậc đại Thánh, tôi phải phác họa sơ lược cho các bạn, có thể nói là bối
cảnh lịch sử của đạo Sikh để cho các bạn có thể hiểu được bằng cách nào mà
một phong trào cốt yếu là Sùng tín, nó lại chuyển sang được đồng nhất hóa
với tinh thần chiến đấu dũng cảm nhất. Và khi làm như vậy, dĩ nhiên tôi
không thể tŕnh bày mọi chi tiết mà bạn có thể tự đọc lấy. Nhưng bao giờ
cũng có nguy cơ là tâm trí của đa số ắt chú trọng quá nhiều tới những chi
tiết trong khi nghiên cứu mà quên đi mất những nét đại cương chỉ có chúng
mới khiến cho ta hiểu được tổng thể. Giáo sư Huxley thường phàn nàn về các
sinh viên khoa học là khi nghiên cứu cây họ quên mất rừng và điều này vẫn
đúng măi. Người ta bù đầu trong mê lộ các tiểu tiết cho nên không lĩnh hội
được những nguyên tắc thống nhất trong lịch sử để thấy được khuynh hướng
chính cũng như diễn tiến và ư nghĩa của các biến cố. Thế mà xét về lịch sử
đạo Sikh, tôi chỉ muốn tŕnh bày với các bạn phần đại cương khiến cho các
bạn hiểu được làm thế nào mà nó lại ra nông nỗi như vậy. Có mười Đạo sư, vị
này nối tiếp vị kia, không gián đoạn, mà Đạo sư Nānak là sơ tổ, người thanh
khiết nhất, thánh thiện nhất và cao cả nhất, là nguồn sống, tâm hồn và linh
hồn của tín đồ. Bây giờ ta sẽ xét tiểu sử của ngài (từ năm 1469 tới năm 1539
sau Công nguyên), tôi tạm thời chỉ đề cập tới hồng danh của ngài. Sau đó là
nhị tổ, Đạo sư Angad (1539-1552) mà ta chẳng có bao nhiêu điều để nói ngoại
trừ việc ngài thu thập nhiều bài hát và nhiều giáo huấn của bậc tiền bối, và
thế là ngài bắt đầu biên soạn kinh điển của đạo Sikh tức Ādi Grantha Sāhab.
Rồi tới tam tổ, Đạo sư Amār Dās (1552-1574) mà có một điều đặc biệt đáng chú
ư là ngài có hội kiến với hoàng đế Hồi giáo, Akbar, về những vấn đề tôn
giáo; điều này cho thấy tinh thần của Đạo sư Nānak đă khống chế ra sao và
người ta toan tính mang lại ḥa b́nh cho hai tín ngưỡng lớn cạnh tranh với
nhau là Ấn giáo và Hồi giáo. Rồi tới Đạo sư kế tiếp, tứ tổ, Rām Dās
(1574-1581) vẫn c̣n giao hảo thân hữu với Akbar có đầu óc phóng khoáng và
quăng đại, vị hoàng đế này ban cho ngài một mảnh đất ở Amritsar, nơi ngài
đào được một cái thùng phi nổi tiếng. Rồi tới ngũ tổ Arjunmal (1581-1606),
ngài xây dựng Đền thờ Hoàng kim nổi tiếng ghi một cột mốc trong đạo Sikh v́
đền thờ này cung cấp cho tín đồ một trung tâm, một nơi tá túc, một nơi tụ
họp. Đền thờ trước hết được hiến cho Hari và được gọi là Hari Mandir, v́ Đạo
sư Nānak đă từng dạy rằng sự giải thoát là nhân danh Hari. Về sau nó trở
thành Darbār Sāhab. Thế là tín đồ đạo Sikh có thể nói là có được nơi chốn
riêng của ḿnh. Họ bắt đầu tụ tập xung quanh đền thờ, họ bắt đầu lập thành
một cộng đồng xác định. Đạo sư Arjunmal trở thành thủ lĩnh của một cộng đồng
tôn giáo có tổ chức xác định được qui tụ lại ở một địa điểm riêng biệt – thế
là tiểu bang Sikh khởi đầu. Lại nữa, công tŕnh vĩ đại của ngài cũng thu
thập giáo huấn của các bậc tiền bối, chính ngài đă biên soạn dứt khoát Ādi
Grantha Sāhab; rồi xuất bản nó, nó bao gồm một phần là các bài hát và các
giáo huấn của những Đạo sư đời trước, một phần cũng là những bài hát của các
vị Thánh trong phong trào Sikh v.v. . .
Bây giờ mới nói tới một chút câu chuyện về cuộc tranh đấu
trong tương lai. Jehangir nối ngôi Akbar, có đầu óc ít phóng khoáng và ít độ
lượng hơn tiên đế. Con trai Jehangir nổi loạn chống lại ông.
Đạo sư Arjunmal – xét theo biểu kiến là chẳng có cớ ǵ hoặc v́ một cớ
thật ra chẳng phải là cớ ǵ cả - bị buộc tội là có thiện cảm với nghịch tử.
Tôi nói là “vô cớ” bởi v́ nguồn gốc của sự buộc tội dường như do ḷng sân
hận và ghen tuông của một vị đại thần quyền uy mà ông từ chối không chịu gả
con trai. Và vị đại thần này kích động ḷng ngờ vực của Jehangir chống lại
Đạo sư, xúi hoàng đế bắt giữ và bỏ tù bậc Đạo sư. Bậc Đạo sư tử nạn v́ chịu
sự hà khắc trong ngục.
Đây là điều khiến cho cộng đồng vốn thuần túy mang tính
tôn giáo và ḥa b́nh bắt đầu được dẫn dắt đi vào con đường biến nó thành một
đoàn thể hiếu chiến do sự gây hấn đối với vị Đạo sư và Thủ lĩnh của ḿnh.
Aurangzib nối ngôi Jehangir và mọi chuyện càng ngày càng tồi tệ dưới quyền
cai trị của nhà cầm quyền cuồng tín. Bậc Đạo sư kế tiếp là lục tổ, Har
Govind (1606-1645) dứt khoát bắt đầu tự vệ qua việc tổ chức tín đồ đạo Sikh;
ngài ràng buộc họ thành một đoàn thể khác với Ấn giáo và Hồi giáo, không c̣n
là một đoàn thể liên kết hai tôn giáo với nhau mà là một đoàn thể ly khai
với cả hai tôn giáo. Tiểu bang Sikh bắt đầu lớn mạnh và giờ đây bắt đầu
chinh chiến với những trận giao chiến, xung đột, giao đấu lẫn nhau, th́ càng
gắn kết tín đồ đạo Sikh thành một đoàn thể chiến đấu. Thất tổ là Đạo sư Har
Rai (1645-1661) mà ta chẳng có bao nhiêu điều nói tới, vốn tịch lặng và hiếu
ḥa nhưng xung quanh ngài càng có thêm đấu tranh, chiến tranh; tranh đấu
ngày càng có thêm tinh thần chiến đấu cho đến khi có thể nói khía cạnh tôn
giáo hầu như ch́m vào trong bối cảnh ngoại trừ sự linh hứng và sức mạnh ràng
buộc mà nó c̣n cung ứng. Rồi tới bát tổ là Đạo sư Har Kisan (1661-1664),
ngài chẳng qua chỉ là một đứa trẻ, một đứa trẻ kế vị năm lên sáu tuổi rồi
qua đời khi được chín tuổi để được kế vị bởi cửu tổ, là Đạo sư Tegh Bahādur
(1664-1675). Cuộc đời của ngài đầy xáo trộn và ngài bị hoàng đế Aurangzib
sát hại một cách dă man để rồi được kế vị bởi con trai là vị tổ cuối cùng,
thập tổ, Đạo sư Govind (1675-1708), ngài mang lại cho tín đồ đạo Sikh tổ
chức quân sự hùng mạnh, kết hợp họ thành đoàn thể dựng nên đế quốc Sikh ở
bang Punjab dưới thời Rangit Singh.
Ta phải dừng lại một chút về vị thập tổ này. Khi chỉ mới
là con nít, ngài phải lưu vong t́m đường sống sau khi cha bị sát hại và
trong ṿng 20 năm ngài vẫn biệt tích chẳng nghĩ ǵ tới sứ mệnh của ḿnh. Dĩ
nhiên ngài vẫn suy gẫm về việc phụ thân tử nạn, dĩ nhiên ngài vẫn cay đắng
đối với kẻ thù giết cha ḿnh, ḷng thù ghét Hồi giáo dường như đă trở thành
một bổn phận cho đứa con trai đảm nhiệm chức Đạo sư và v́ vậy là bổn phận
của tín đồ đạo Sikh. T́nh bạn cố cựu đă biến mất, ḍng máu của cha đă tạo
nên sự hận thù giữa bậc Đạo sư và Hoàng đế Hồi giáo. Như tôi có nói, trong
ṿng 20 năm ngài vẫn ẩn cư biệt tích, suy gẫm về công việc mở ra trước mắt
ḿnh, suy gẫm về công tŕnh như là bậc Đạo sư nhưng vẫn c̣n là một người tổ
chức quân sự nữa. Và cuối cùng ngài xuất hiện khỏi nơi ẩn cư, sẵn sàng công
tŕnh dũng mănh, chuẩn bị cho sứ mệnh của cuộc đời. Ngài quyết tâm tâm tách
biệt tín đồ đạo Sikh ra khỏi mọi khả năng lẫn lộn với những người thuộc bất
kỳ tín ngưỡng nào khác. Ngài triệu tập năm tín đồ thuần thành xung quanh
ḿnh, với năm người này và ngài là trung tâm điểm, ngài lập nên nghi lễ
Pahul, là lễ nhập môn, đơn giản, giống như chiến sĩ. Ngài lấy nước và vợ
ngài ngẫu nhiên đưa năm loại thịt và ngài lấy năm loại thịt sống ấy mỗi thứ
một chút bỏ vào trong nước. Ngài khuấy nước lên bằng con dao hai lưỡi; ngài
vẫy nó lên năm người xung quanh ḿnh, đưa cho mỗi người uống, đến lượt họ
vẫy lên người ngài, đưa cho ngài uống và ngài tuyên bố họ là Khālsā tức là
kẻ thanh khiết, rồi ra lệnh cho họ thêm h́nh dung từ Singh vào tên gọi của
ḿnh, Singh nghĩa là con Sư tử. Đây là những môn đồ đầu tiên được nhập môn,
được đặc trưng với mọi môn đồ khác qua dấu hiệu đặc biệt mà mọi tín đồ Sikh
đều mang theo ḿnh. Tóc dài để phân biệt với tín đồ Ấn giáo cạo trọc, cái
lược, con dao găm hai lưỡi, cái ṿng bằng thép, quần sọt xuống tới đầu gối.
Đây là năm dấu hiệu mà họ gọi là 5 K, bởi v́ mỗi dấu hiệu đều bắt đầu bằng
chữ K trong thỗ ngữ, nhờ đó ngài tách biệt mỗi tín đồ đạo Sikh chân chính
c̣n mang theo đến tận ngày nay. Đó là nghi lễ mà ngài đặt ra như là lễ nhập
môn và ở đâu có năm tín đồ đạo Sikh tụ tập lại th́ ở đó theo lời ngài ắt có
tinh thần của ngài và ở đó có khả năng nhập môn. Ngài là vị Đạo sư cuối
cùng, sau ngài không c̣n Đạo sư nào quang lâm nữa, quyền lực được giao phó
cho các Khālsā được vận dụng qua hội đồng thủ lĩnh, Guru Mātā mà thẩm quyền
đối với tín đồ đạo Sikh vốn ở trong quyển thánh thư do Đạo sư Govind hoàn
tất sau này.
Giờ đây ngài là chiến sĩ lănh đạo và tín đồ đạo Sikh qui
tụ xung quanh soái kỳ của ngài. Ngài chiến đấu, đấu tranh xây dựng quân đội
hùng mạnh, quân lính của ngài nổi tiếng nhờ ḷng quả cảm nhiệm mầu qua cách
thức họ đương đầu với nghịch cảnh trên chiến trường, ta thấy nơi chiến sĩ
đạo Sikh cũng có ḷng đam mê làm linh hoạt người Hồi giáo trong đời sinh
hoạt theo gót bậc Đại Đạo sư đi chinh phục thế giới và họ vui ḷng chết cũng
giống như những người khác hân hoan sống. Chẳng lấy ǵ làm lạ khi thoạt đầu
họ đă mang theo tất cả trước mắt ḿnh thế nhưng sau nhiều phen chiến đấu rốt
cuộc chỉ c̣n lại một ít trong đám ba quân, ta thấy họ bị đánh bại trên chiến
trường khi họ chiến đầu dũng cảm chống lại quân địch áp đảo về mặt số lượng
v́ thiểu số này đă quyết tâm chống lại đế quốc Hồi giáo hùng mạnh ở phương
Bắc.
Họ chỉ là một ít người chống lại đại đa số, nhưng họ chưa
bao giờ ngă ḷng, khiếp sợ, chán nản; bậc Đạo sư theo cùng họ ở bất cứ nơi
đâu họ đi tới và họ tin vào ngài – ngài đă bị đánh bại cho đến cuối cùng qua
một nỗ lực oanh liệt, ngài chuyển bại thành thắng và đẩy lùi quân địch; quân
địch không dám truy kích ngài nữa. Nơi ấy được gọi là Giếng Cứu Độ, nơi trận
chiến cứu chuộc đă được giao tranh.
Chính sau khi ấy, để khích lệ ba quân ngài đă xuất bản
Kinh điển cuối cùng của đạo Sikh là
Thánh thư của bậc Thánh vương thứ Mười,
Daswen Pādsāhī, để hoàn tất Ādi
Grantha Sāhab.
Rồi th́ cũng tới lúc kết liễu. Ngài bị một kẻ tên là
Pathan tấn công, y căi cọ với ngài về vấn đề buôn bán, chỉ là những chuyện
vặt thôi nhưng kẻ ấy đe dọa mạng sống của ngài và bậc Đạo sư chiến sĩ đă
quật ngă y. Y chết đi. Các con trai của người ấy kéo tới và ngài ngỏ lời với
họ một cách ôn tồn tử tế đầy ḷng ưu ái v́ nhớ rằng ḿnh đă giết hại cha của
chúng, cho nên ngài thương cảm những đứa con trai mà ḿnh đă khiến cho chúng
mồ côi cha; ngài thu nạp chúng để phục vụ cho những chuyện tin cẩn và khi
ngài biết rằng ḿnh đă tới số th́ có một vở tuồng kỳ lạ xảy ra. Ngài nói với
một trong những đứa con trai về bổn phận phải trả thù, về việc phải giết kẻ
đă giết hại thân bằng quyến thuộc của ḿnh, cho đến lúc cuối cùng ngài kích
động y giáng cho ngài một đ̣n chí tử. Ngài cứu thanh niên ấy khỏi sự giận dữ
của các tín đồ khi bảo rằng y chỉ trả thù cho nợ máu của cha ḿnh và y phải
được tha bổng. Ngài ra lệnh cho tín đồ phải theo Kinh điển, phải trung thành
với Khālsā, rồi từ trần.
Thế là sau khi ngài qua đời, không c̣n bậc Đạo sư nào
nữa; nhưng như tôi có nói, thẩm quyền thực sự chính là Ādi Grantha Sāhab với
hội đồng trưởng lăo và Khālsā là toàn thể cộng đồng tín đồ đạo Sikh, trong
đó không có sự khác nhau về giai cấp, không có sự phân biệt giữa người và
người, tất cả đều là huynh đệ và b́nh đẳng.
Rồi tới câu chuyện oanh liệt về cuộc đấu tranh quân sự và
khải hoàn quân sự, đỉnh cao cuối cùng là chiến công lừng lẫy của Ranjit
Singh, Con Sư tử ở Panjab (1797). Ông đă biến Panjab thực tế thành đế quốc
của đạo Sikh. Ông băng hà năm 1839. Thế rồi tiếc thay là câu chuyện đáng
buồn nhất về sự phản bội, bội bạc, về những chiến sĩ dũng cảm và anh hùng bị
lừa gạt và bán đứng, tuyệt vọng chiến đấu chống lại mọi người. Đây là câu
chuyện đáng buồn nhất nhưng là chuyện cứ xảy đi xảy lại ở Ấn Độ nơi mà huynh
đệ bán đứng huynh đệ, bạn bè bán đứng bạn bè, người dân Ấn phản bội người
dân Ấn – mọi chuyện ấy cũng được lập lại trong câu chuyện suy vong của Đế
quốc Sikh. Chưa bao giờ có một câu chuyện anh hùng hơn, chưa bao giờ có một
câu chuyện thê thảm hơn khi những người quả cảm chiến đấu chống lại nghịch
cảnh đè bẹp, đến nỗi ngay cả ḷng anh hùng của họ cũng không cứu được họ cho
đến khi Đế quốc hoàn toàn tan ră và vùng Panjab chuyển sang tay quân đội Anh
vào năm 1849. Đó là bối cảnh bên ngoài.
Bây giờ ta hăy bỏ qua điều ấy để xem đâu là tín ngưỡng,
đâu là sức sống đă mang lại cho đạo Sikh cái khả năng ràng buộc, cái chủ
nghĩa anh hùng mầu nhiệm, cái sức mạnh hoành tráng ấy. Đó chính là cuộc đời
và giáo huấn của Đạo sư Nānak, bậc có tính t́nh ôn ḥa nhất và là con người
thánh thiện nhất.
Ngay từ thời tấm bé cũng giống như đặc trưng của mọi bậc
Đạo sư, cậu bé Nānak đă nổi bật lên, khác hẳn những người đồng loại. Câu
chuyện thời thơ ấu của ngài không có nhiều sóng gió lắm nhưng thật là cảm
động và rất kỳ quặc. Kỳ quặc là ở chỗ v́ ngài sinh ra trong một gia đ́nh
những người tốt bụng, có phẩm chất tầm thường nhất, giống như con chim ưng
sinh ra trong tổ chim sẻ, đám chim sẻ không hiểu được chim ưng cho nên cũng
chẳng hiểu cái tạo vật này là cái loại ǵ. Ngài tính t́nh vốn tịch lặng, dè
dặt, kín miệng, thích lẻn đi tham thiền khi những đứa trẻ khác đang đùa
nghịch; ngài là một đứa trẻ kỳ lạ không chịu học như bao nhiêu những đứa trẻ
khác, không chịu chơi đùa như bao nhiêu những đứa trẻ khác; khi ngài tiến
tới thầy để hỏi cho biết rơ ư nghĩa thần bí của những chữ viết th́ ngài đă
chọc giận vị học giả Bắc phạn khi hỏi những câu cắc cớ mà thầy không trả lời
được. Ngài luôn luôn va chạm với môi trường xung quanh v́ ngài muốn biết
điều ẩn tàng bên trong và không thỏa măn với điều lồ lộ ra bên ngoài. Và c̣n
ǵ khó chịu hơn cho một người nam nữ b́nh thường khi bị vặn hỏi về thực tại
trong lúc ḿnh hiu hiu tự đắc trên cái gối đệm an toàn của những công thức
cũ rích; thế là Nānak ngay từ khi c̣n nhỏ đă là một thử thách lớn cho cha
ḿnh. Chắc hẳn là cậu bị điên v́ cậu ngồi hằng giờ tham thiền mà chẳng ăn
uống ǵ cả; cậu ắt lên cơn sốt. Người ta đưa bác sĩ tới khám bệnh cho cậu.
Nānak hỏi bác sĩ liệu ông có thể chữa được bệnh của linh hồn không. Cái loại
bệnh nhân nào mà dám chào đón bác sĩ theo kiểu ấy? Hoặc ông phải khám bệnh
khi nghi lễ dùng sợi chỉ linh thiêng được thực hiện. Câu chuyện này đặc
trưng đến nỗi tôi sẽ tŕnh bày với các bạn và ở đây tôi xin nói tất cả những
câu trích dẫn của ḿnh đều tùy thuộc vào những người bạn theo đạo Sikh của
tôi, họ tử tế đến nỗi dịch chúng ra cho tôi trong những sách vở riêng của họ
để cho tôi có cơ sở đứng vững trên đấy.
“Khi mọi chuyện đă sẵn sàng và vị Purohit (vị lễ sư dành
cho gia đ́nh) sắp sửa cử hành nghi lễ th́ Nānak quay sang hỏi: ‘Thưa
Panditji, xin ngài cho con biết sợi chỉ này dùng để làm ǵ? Đâu là bổn phận
của người thắt sợi chỉ? Tại sao cần phải thắt sợi chỉ?’
Vị Purohit vốn chỉ là một học giả quê mùa và không biết ư
nghĩa bí mật của sợi chỉ linh thiêng trả lời: ‘Không ai thực hiện một nghi
thức hiến tế nào mà lại không đeo sợi chỉ, sợi chỉ này tẩy trược cho người
đeo nó và giúp cho y có thể tham dự và thực hiện mọi nghi lễ’.
Nānak hỏi: “Nếu người nào đă đeo sợi chỉ linh thiêng này
mà vẫn chứng nào tật nấy, vẫn sống một cuộc đời ô uế th́ liệu sợi chỉ ấy có
tẩy trược được cho y và rốt cuộc có giúp ích ǵ được cho y chăng? Chẳng lẽ y
không gặt quả báo của ḿnh?”.
Vị Purohit trả lời: “Ta cũng chẳng biết, nhưng trong kinh
điển ra lệnh như vậy và chúng ta phải tuân theo tổ tiên”.
Nānak trả lời: “Từ lớp bông từ bi mới dệt ra được sợi chỉ
bác ái, thắt nút nó qua sự tiết dục và chân lư; mong sao tâm trí của ngài sẽ
đeo lấy sợi chỉ này, nó sẽ không bị đứt, không bị ô uế, không bị thiêu cháy,
không bị mất đi. Đáng khen thay cho kẻ nào đeo sợi chỉ này”.
Vị Purohit nói: “Ngươi nói hay lắm, nhưng cứ nh́n vào chi
phí và sự lao tâm lao lực mà cha ngươi đă đặt vào đấy, hăy nh́n xem thân
bằng quyến thuộc của ngươi, họ sẽ thất vọng xiết bao nếu ngươi không chịu
đeo sợi chỉ này”.
Nānak trả lời: “Con rất lấy làm tiếc là không thể chiều
theo ư ngài. Con không thể đeo sợi chỉ và con cũng khuyên ngài nên nghĩ về
cốt tủy của sự việc nhiều hơn là nghĩ tới h́nh thức của nó. Chỉ khi xác tín
th́ người ta mới được kính trọng và nhờ tán dương Thượng Đế, sống theo chân
lư th́ con người mới đạt được sự toàn bích”.
Rốt cuộc th́ thân mẫu ngài năn nỉ
ngài xin v́ bà mà đừng làm bà thất vọng. Bấy giờ Nānak mới nói gọn lỏn:
“Thưa mẹ, con xin vâng lời”, rồi ông cầm lấy sợi chỉ và đeo nó vào người
[[1]].
Ta có một câu chuyện rất đặc trưng về người thiếu niên
này với những đặc điểm mang dấu ấn của một bậc Đạo sư bao giờ cũng mưu t́m
sự thật nội giới qua những sự tŕnh diễn ở bên ngoài.
Ông lớn lên và trở thành một đứa con trai đáng thất vọng
nhất đối với một người cha tốt bụng nhưng khù khờ, v́ ông không nối nghiệp
canh nông, không có cửa hàng buôn bán, cũng chẳng đi giao dịch kinh doanh.
Công việc của ông chỉ cốt ở việc bố thí hoặc đúng hơn là cấp dưỡng cho các
tu sĩ Samnyāsi mà cha ông cho rằng đây không phải là một thương vụ có lợi v́
thấy nó không thỏa đáng bao nhiêu mặc dù Nānak nghĩ rằng đó là công việc tốt
nhất mà ông có thể làm được. Cha ông đă thực hiện một điều đối với một thiếu
niên là gửi ông tới cho một người chị và chồng bà rất yêu thương ông. Ông
phục vụ dưới quyền của một Nawāb và phụng sự rất trung thành tận tụy; nhưng
ông bao giờ cũng bố thí và cuối cùng khi chán chường với thế gian, ông quyết
định không phục vụ nữa, từ bỏ cuộc sống nơi gia đ́nh mà ông đă tham gia vào
để đi lang thang mưu t́m Thượng Đế, để thực chứng được t́nh thương của Ngài.
Rồi tới một vở tuồng đặc trưng khác với vị Nawāb sau khi ông không phục vụ
nữa. Vị Nawāb cho vời người thiếu niên mà một lúc sau ông mới tới. Vị Nawāb
giận dữ v́ ông không đến tŕnh diện ngay tức khắc.
Nānak trả lời: “Thưa ngài Nawāb Sāhab, con không c̣n phục
vụ cho ngài nữa. Giờ đây con phụng sự cho Thượng Đế”.
“Liệu con có tin vào một Thượng Đế duy nhất hay con tin
có nhiều Thượng Đế?”, Nawāb cật vấn.
Nānak
trả lời: “Chỉ có một đấng duy nhất mà con tin ngài là Thượng Đế đáng tôn thờ
thấm nhuần vạn vật, không thể phân chia được, tự tại và không ai hiểu được”.
“Thế th́ bởi con tin vào một Thượng Đế duy nhất và ta cũng tin như vậy cho
nên Thượng Đế của con phải giống như Thượng Đế của ta; vậy th́ nếu con tin
chắc như vậy, con hăy đi cùng ta đến đền thờ Hồi giáo để cùng cầu nguyện với
chúng ta”.
Nānak trả lời: “”Con xin sẵn sàng”.
Cha vợ của ông sững sờ câm lặng và ngay tức khắc rời bỏ
nơi ấy v́ tin rằng Nānak đă theo Hồi giáo. Hôm đấy ngày thứ sáu, và đó là
lúc cầu nguyện cho nên Nawāb đứng lên đi tới đền thờ Hồi giáo có Nānak đi
kèm. Khi vị Kāzi bắt đầu lập lại lời cầu nguyện th́ Nawāb và đoàn tùy tùng
bắt đầu trải qua nghi lễ cúi đầu thông thường, nhưng Nānak vẫn đứng im như
trời trồng. Khi buổi cầu nguyện qua rồi, Nawāb quay sang Nānak và công phẩn
hỏi: “Tại sao con không tuân theo những nghi lễ thông thường? Con nói láo và
chỉ giả vờ. Con đâu có tới đây để đứng im như khúc gỗ”.
Nānak nhận xét: “Ngài phủ phục xuống đất trong khi tâm
trí ngài lại bay tít lên trời; ngài đang nghĩ tới việc đi tậu những con ngựa
ở Candahār chứ có cầu nguyện ǵ đâu; và thưa ngài lễ sư, trong khi ngài tự
động tuân theo tiến tŕnh khấu đầu qú lạy th́ ngài lại chỉ đang nghĩ tới sự
an toàn của con ngựa cái nó vừa mới đẻ ngày hôm kia. Làm sao tôi có thể cầu
nguyện với những kẻ trải qua nghi lễ phủ phục theo phong tục và lập lại lời
cầu nguyện như con vẹt?”
Vị Nawāb công nhận rằng ông quả
thật có nghĩ đến việc đi tậu ngựa và suốt trong buổi cầu nguyện th́ tư tưởng
ấy cứ dằn vặt ông, nhưng vị Kāzi rất bất măn quay sang Nānak tuôn ra một
tràng cật vấn”
[[2]].
Thế rồi lại xuất hiện tinh thần của người mưu cầu thực
tại. Ông bắt đầu đi lang thang. Ông cứ đi lang thang, hát ḥ với
một nhạc sĩ và một người bạn đi theo ông, đó là Mardāna và Bālā, rồi ông tới
một ngôi làng nơi ông cần có thức ăn uống. Có một người nghèo là Lālu, làm
nghề thợ mộc, người này sống cuộc đời thanh bạch đă nghênh đón vị tu sĩ đi
khất thực; dành cho ông giường ngủ, dâng cho ông đồ ăn nóng sốt và Nānak thọ
thực. Ngày hôm sau có một chủ ngân hàng giàu có ở thị trấn mở đại tiệc khoản
đăi người Bà la môn và mời Nānak đến dự tiệc với ḿnh. Nānak đi nhưng không
thọ thực. Người chủ nhà hỏi: “Tại sao ngài không thọ thực của tôi?” Nānak
trả lời: “Bởi v́ đồ ăn của ngài không trong sạch, v́ ngài nấu thức ăn để
khoe khoang bản ngă, đó là một tặng vật mang tính tāmas cho nên không trong
sạch”.
“Ngài bảo thức ăn của tôi không trong sạch trong khi đồ
ăn của kẻ hạ lưu Lālu trong
sạch? Sao vậy nhỉ?” Rai Bhag thắc mắc một cách khinh thường.
Nānak trả lời: “Ngài đối xử một cách thất kính và khinh
bỉ thực khách, điều ấy chứng tỏ mục tiêu tāmas của ngài. Tôi ăn thực phẩm do
Lālu nấu v́ nó được nấu bằng t́nh thương và dâng lên một cách kính cẩn mà
không mong muốn được đền đáp lại. Ngài phải học bài học ấy từ Lālu khiêm hạ.
Thực phẩm của ngài đầy máu”.
Rai Bhag hỏi một cách giận dữ: “Ngài có bằng chứng ǵ là
thực phẩm của tôi không trong sạch”.
Nānak một tay cầm thực phẩm của Rai
Bhag c̣n tay kia cầm thực phẩm do Lālu nấu. Và khi ông ấn vào mỗi món ăn th́
từ thực phẩm của Rai Bhag rịn ra những giọt máu trong khi từ thực phẩm của
Lālu ứa ra những giọt sữa
[[3]]
.
Đó là cách thức mà Đạo sư Nānak giảng dạy bao giờ cũng
liên quan tới thực tại và lật tẩy màn tŕnh diễn. Ngài theo Ấn giáo chăng?
Thiên hạ căi nhau xem ngài là ai v́ ngài vượt lên trên những sự phân biệt do
tín điều bề ngoài, ngài yêu thương mọi người và không tự xưng là ǵ cả. Khi
đă đến lúc ngài từ trần sau 70 năm sống cuộc đời cao thượng với những giáo
huấn vô giá, môn đồ của ngài c̣n tranh căi xem ngài thực sự thuộc tín ngưỡng
nào, nên thiêu ngài như một tín đồ Ấn giáo hoặc nên chôn ngài như một tín đồ
Hồi giáo? Và trong khi họ đang căi nhau th́ một người nhấc tấm khăn liệm xác
lên và xác ngài biến mất để cho khỏi bị thiêu cũng chẳng bị chôn.
Đó là tinh thần của bậc đại Đạo sư
được thể hiện qua cuộc đời và cách hành xử của ngài, qua giáo huấn mà ngài
c̣n truyền lại. Giáo huấn ấy cho thấy cái tinh thần làm ngài vận động, đó là
ḷng sùng tín sâu sắc với Đấng Tối Cao, t́nh thương Thượng Đế mà người trần
tục gọi là điên khùng, cái sự đam mê và sùng tín mà chư Thánh trong mọi thời
đại và mọi tôn giáo đều cảm thấy. Xét về mặt triết lư, ngài là một tín đồ Ấn
giáo, ngài chuyên môn sùng tín sâu sắc và ngài rất ghét sự giả vờ. Ta hăy
xét giáo huấn của ngài cũng như giáo huấn của những vị kế nghiệp v́ ở đây ta
không cần phân biệt để xem các ngài dạy những ǵ và xem tinh thần của giáo
huấn ấy. Ở đây ta có một số lớn những đoạn trích ra từ Ādi Grantha Sāhab
được phân loại theo một vài đề mục mà tôi đă yêu cầu cho giáo huấn chuyên
biệt đạo Sikh để tôi có thể tŕnh bày với các bạn phác họa đầy thẩm quyền về
giáo huấn ấy và tôi xin rút ra những đoạn trích từ những bản dịch về đạo
Sikh này để cho các bạn thấy chính xác bản chất của các giáo huấn
[[4]].
Trước hết là về Đấng Tối Cao:
Con là Ta và Ta là Con. Có ǵ khác nhau đâu?” “Đấng Nhất
Như bao hàm trong mọi thứ mà ngài ngự nơi ấy”. “Bản thân ngài là Nhất Bổn và
chính ngài cũng là Vạn Thù. Ngài không chết mà cũng chẳng tiêu vong. Ngài
chẳng đến mà cũng chẳng đi. Nānak bảo rằng ngài luôn luôn được bao hàm trong
vạn vật.”
Ta có thể nắm bắt được dư âm của Áo Nghĩa Thư được tŕnh
bày qua một ngôn ngữ b́nh dân hơn, cái tư tưởng sâu sắc của triết học Ấn Độ
khoác lấy một h́nh thức mà dân gian sử dụng được.
Đấng Nhất Như Omkāra là Hồng danh chân chính, là Đấng Tạo
Tác, Tinh Thần, là H́nh tướng vô úy, phi thời gian, không có ác ư. Ngài
không từ một tử cung nào sinh ra, ngài vốn tự tại, cực lạc (hoặc do hồng ân
của sư phụ mà được thực chứng). Hỡi Nānak, ngài chân thực ngay từ đầu, ngài
chân thực trước khi có thời gian (các Yugas); hiện thực và là thực tại.
[Japa I.]
Ngài không có dấu ấn để cho không điều ǵ có thể vượt
qua, không đạt tới được (hoặc
không ai biết được); không phải đối tượng (của các giác quan), không chịu
tác động của thời gian; có bản chất vô sinh, không sinh ra từ tử cung nào,
tự tại; vô điều kiện; không nao núng. Mong sao con sẽ là vật hiến tế cho
Thực tại Chân thực này. Ngài không có h́nh tướng, không có màu sắc, không
nét phác họa, ngài được vạch ra qua Linh từ Chân thực. Ngài không có mẹ,
cha, con trai, không có người thân quyến, không tham dâm, không có vợ, không
có bè phái. Ngài không nhuốm màu hăo huyền, ngài không bị siêu việt, ngài
cao hơn cả điều cao nhất, ngài là Ánh Sáng của vạn vật, là Brahma ẩn trong
mọi vật chứa, Ánh Sáng của ngài hoàn chỉnh trong mọi dẫn thể (tâm hồn). Nhờ
giáo huấn của Sư phụ, Cánh Cổng cứng rắn hé mở và cái nh́n vô úy đăm đăm
không chớp mắt. Sau khi đă tạo ra vạn vật, ngài đưa thời gian vào đấy (sự
chết) rồi kiểm soát mọi sự điều tiết. Nhờ phụng sự Sư phụ, ta t́m thấy được
của cải chân thực, nhờ làm theo lời ngài ta có được tự do. Chân lư chỉ có
thể sống trong vật chứa trong sạch (tâm hồn), hiếm khi nào người ta cư xử
trong sạch. Bản thể trong Bản thể cao nhất đă ḥa lẫn rồi; hăy qui y với
Nānak nơi bản thân các con.
[Sorath I.]
------------------------
Sự kiểm chứng những điều tham chiếu có thể trở nên dễ
dàng hơn qua sự mô tả đính kèm theo đây nội dung của Ādi Grantha Sāhab được
rút ra từ tác phẩm Lịch sử tín đồ đạo
Sikh của J. D. Cunningham, ấn bản lần thứ nh́ trang 368, 371.
Ādi Grantha Sāhab được chia thành những bộ phận sau đây:
Japji tức Thần chú của Sư phụ, của đạo sư Nānak.
Sodur Reih Bas, của đạo sư Nānak có thêm thắt.
Kīrit Sohila, của đạo sư Nānak có thêm thắt.
31 tiết dưới dạng thi ca:
--------------------------------
Hỡi đấng Omkāra, con cúi lạy (hoặc tôn vinh) Đấng Bản Sơ.
Ngài đă mở rộng nước, đất và bầu trời;
Tinh thần bản sơ, vô hiện, bất diệt;
Ánh sáng của nó chiếu soi cho 14 cơi,
Ở nơi con voi cũng như nơi con kiến; nó coi người cai trị
cũng như kẻ nghèo hèn b́nh đẳng với nhau;
Từ h́nh tướng nhị nguyên, Tinh Thần không dấu vết, trực
giác, là người kiểm soát nội giới của mọi dẫn thể (tâm hồn).
[Đạo
sư]
Bản thân ngài là Đấng Vô sắc tướng và Hữu sắc tướng; Đấng
Nhất Như không có phẩm tính và có phẩm tính; hỡi Nānak chỉ có mỗi ḿnh ngài
được nhắc đến thôi. Chỉ có mỗi ḿnh ngài là vạn thù.
[Đạo sư v.
Bavanakhhri]
Hỡi Đấng Tối Cao, Parabrahman, ngài không sinh ra để nhập
vào tử cung.
Ngài tạo ra vạn vật bằng linh từ và sau khi tạo ra nó,
ngài lại thấm nhuần nó.
H́nh tướng của ngài không thể nh́n thấy được th́ làm thế
nào con tham thiền về ngài được?
Ngài hoạt động trong mọi vật; quyền năng của ngài chứng
tỏ điều này.
T́nh thương của ngài làm đầy những kho báu không bao giờ
cạn kiệt.
Những viên ngọc quí (thanh b́nh . . . ) thật là vô giá.
[Đạo sư v.
Var Maru]
Ngài đă tạo ra vô số Hóa thân của Vishnu.
Thiên luật của ngài là nơi chốn cho vô số Brahmāndas.
Vô số Mahesvaras đă được tạo ra và hấp thụ.
Ngài đă h́nh thành vô số thế giới của Brahmā
Như vậy Đấng Chúa Tể của ta thật là phong phú.
Ta không thể nói tỉ mỉ về những phẩm chất lớn của ngài mà
vô số māyas đều tham gia.
(Tâm hồn) của vô số chúng sinh là nơi yên nghỉ của ngài.
Vô số tín đồ ôm ấp lấy (theo sát nghĩa là bị thu hút tới
gần) tay chân của ngài (được nhân cách hóa để thờ phụng).
Vô số tín đồ cùng ở với Hari.
Vô số Vua (Đấng Chúa Tể của những cái Lọng) tôn vinh
ngài.
Vô số Đấng Indras đứng trước cửa ngài,
Vô số cơi Trời trong tầm liếc nh́n của ngài,
Ngài có vô số Hồng danh vô giá,
Vô số tiếng vang của ngài trổi lên.
Vô số cuộc du hành với những hành động nhiệm mầu.
Vô số Saktis và
Vô số chúng sinh mà ngài bảo dưỡng.
Dưới chân ngài là vô số Tirthas (nơi chốn linh thiêng),
Vô số kẻ thanh khiết lập lại hồng danh thân thiết của
ngài.
Vô số tín đồ thờ phụng ngài,
Lănh thổ của ngài là Vô biên, độc nhất vô nhị,
Với vô số vinh quang trong sạch và không có t́ vết,
Vô số Brahmā Rishis ca ngợi ngài,
Trong một chớp mắt có vô số cơ sáng tạo và hấp thu,
Vô số phẩm tính của ngài không tài nào đếm nổi,
Vô số kẻ khôn ngoan tuyên bố về tri thức của ngài,
Vô số người tham thiền, thiền định về ngài,
Vô số tu sĩ khổ hạnh tu phép khổ hạnh,
Vô số vị Munis ngồi im lặmg,
Hỡi Đấng Chúa Tể vô hiện, hỡi bậc thầy không ai nhận biết
được,
Xin ngài hăy tràn ngập mọi tâm hồn để kiểm soát từ bên
trong,
Bất cứ nơi đâu mà con thấy ngài ngự trong đó, đều có Sư
phụ tức đấng cao cả Nānak đă giác ngộ cùng với tri thức này.
[Đạo
sư v. Bharon]
Ngài không có cái đĩa ném, không dấu vết, không giai cấp,
không tầng lớp cũng không có tầng lớp chia nhỏ.
Người ta không thể nói ngài là: “Ngài có h́nh tướng, có
màu sắc, có dáng vẻ phác họa hoặc có quần áo?
H́nh tướng bất di bất dịch chói sáng qua Anubhāva (nhận
thức trực tiếp về tâm thức tinh thần sâu kín nhất),
Ta có thể gọi ngài là đấng Indra (Chúa Tể) của vô số
Indras, Vua của các v́ vua.
Tam giới, các vị Chúa Tể trên trần thế, chư thần linh,
chư thiên, loài người, loài thần quỉ và cỏ cây trong rừng đều đang nói neti,
neti (không phải cái này, không phải cái này).
Ai dám thốt lên mọi hồng danh của ngài? Kẻ minh triết chỉ
tuyên cáo những hồng danh theo chức năng của ngài thôi.
[Đạo sư
x. Japa]
Hỡi bạn hữu, theo mọi cách thức mà tôi nói th́ không c̣n
cách nào khác.
Ngài ngự trong mọi lục địa và mọi đảo (châu),
Ngài tràn đầy mọi cơi.
[Đạo sư v.
Devagandhāri]
Kinh Phệ đà cũng không biết sự cao cả của ngài;
Đấng Brahmā cũng không biết được điều Bí nhiệm của ngài;
Các Hóa thân cũng không biết được giới hạn của ngài;
Đấng Tối Cao, Parabrahm là vô biên.
[Đạo sư v.
Rāmkali]
Mọi thứ đều có thể phạm sai lầm, chỉ có Đấng Tạo Tác là
không sai lầm.
[Đạo sư i.
Sri Rāga]
Thế rồi tới việc thờ cúng, mọi tín đồ Ấn giáo đều biết
Ārati và cách thức mà ánh sáng, rồi hết thứ này tới thứ kia, được dâng lên
cho h́nh ảnh của đấng Thượng Đế được tôn thờ. Đạo sư Nānak không coi trọng
việc sử dụng các ảnh tượng để thờ cúng và theo Ārati của riêng ngài th́ ngài
hiến dâng toàn thể vũ trụ để tôn thờ Đấng Tối Cao Brahman.
Chính không gian là kẻ cứu chuộc ngươi; mặt trời và mặt
trăng là những ngọn đèn của ngài;
Thưa Cha, vị chủ nhân ông có đầy sao là những ngọc trai
của ngài.
Ngọn gió hiu hiu thơm ngát ở rặng
Gió làm rúng động các chawri lên trên ngài;
Hỡi Ánh sáng, mọi thực vật trong rừng (nghĩa là giới thực
vật) đều là các đóa hoa.
Hỡi Đấng Tiêu Diệt điều sợ hăi (tức ṿng luân hồi). Ārati
tức bài thánh ca tán tụng thật là hoan hỉ xiết bao, Anāhat Sabda (âm thanh
không được trổi lên hoặc vô thanh) vang lên thành tiếng trống chiêng của
ngài.
Cả ngàn người là mắt của ngài; không đâu! không đâu! Ngài
không có mắt;
Cả ngàn người là h́nh tướng của ngài; không đâu! không
đâu! Ngài không có h́nh tướng.
Cả ngàn người là bàn chân thánh thiện của ngài; không
đâu! không đâu! Ngài không có bàn chân;
Ngài không có lỗ mũi (nghĩa đen là khứu giác), thế nhưng
ngài có ngàn lỗ mũi.
Cách vận hành mầu nhiệm này của ngài làm cho ta bối rối.
Hỡi điều Vinh quang, Ánh sáng của ngài ở trong vạn vật.
Ánh sáng của Ánh sáng ấy chiếu soi nơi mọi người.
Ánh sáng ấy tỏa chiếu qua sự hiện diện của Sư phụ (hoặc
qua giáo huấn của bậc Đạo sư).
Điều hoan hỉ (Ārati) làm vừa ḷng ngài xiết bao.
---------------------
Đó là giáo huấn của ngài. Nó toát ra tinh thần sùng tín
thuần khiết, vượt qua khỏi mọi t́nh huống để tới tận Đấng Nhất Như Vô sắc
tướng; và thỉnh thoảng ta lại thấy có một tâm hồn cảm được ḷng đam mê lớn
hơn về sùng tín v́ lư tưởng Đấng Nhất Như hơn cả đấng ngự nơi bất kỳ h́nh
tướng nào mà ngài biểu lộ qua đấy. Đạo sư Nānak không hề chối bỏ mọi h́nh
tướng mà Đấng Tối Cao biểu lộ qua đấy, nhưng ngài xét theo quan điểm của Áo
Nghĩa Thư cho rằng có một đấng Brahman duy nhất, tối thượng mà mọi Thần linh
chẳng qua chỉ là những biểu lộ riêng phần của ngài, và những h́nh tướng cao
siêu nhất chẳng qua chỉ là những phản ánh vẻ Mỹ Lệ của ngài.
Khi người ta hỏi chúng tôi ngài dạy những ǵ về cơ sáng
tạo th́ chúng tôi thấy rằng đó là giáo huấn thuần khiết của phái Vedanta,
theo đó sự sáng tạo chẳng qua chỉ là Hăo huyền và do quyền năng của đấng
Ishvara cũng như Hăo huyền mà vạn vật đều xuất lộ.
Nhờ vào ư chí (nghĩa đen là trật tự), h́nh tướng bèn xuất
lộ.
[Đạo sư i.
Japa]
Đức Mẹ Duy Nhất (Māyā, hăo huyền) hiệp nhất với Thượng Đế
sinh ra ba đứa con có thể chấp nhận được (theo sát nghĩa là các môn đồ);
Một trong những môn đồ ấy phóng ra Samsāra tức ṿng luân
hồi, môn đồ kia cung ứng và môn đồ thứ ba thường giải tán.
V́ nó làm cho Ngài vừa ư xiết bao cho nên Ngài điều khiển
chúng theo ư chí của ḿnh.
Ngài lặng ngắm những ai nh́n thấy ngài; sự mầu nhiệm thật
là lớn lao; Hoan nghênh ngài, Hoan nghênh ngài.
Đấng bản sơ, vô nhiễm, vô thủy, bất diệt trong mọi thời
đại đều có cùng một lớp vỏ.
[Đạo sư i.
Japa]
Khi Đấng Tạo Tác gây ra sự phân thân (tức là sự bành
trướng),
Th́ cơ sáng tạo có được vô vàn cơ thể;
Bất cứ khi nào Ngài thu hút;
Th́ mọi vật được thể hiện bèn ḥa lẫn vào Ngài.
[Đạo sư x.
Chaupai]
Có hàng trăm ngàn Ākāsa và Pātālas.
[Đạo sư i.
Japa]
Ta không thể biết được giới hạn trong cơ sáng tạo của
Ngài.
[Đạo sư i.
Japa]
Thế giới này là trụ xứ của Đấng Chân Thực, Đấng Chân Thực
ngự trong đó.
[Đạo sư ii.
Asawar]
Thế giới này là đền thờ Hari, nhưng sự tối đen gây khiếp
đảm v́ không có bậc Đạo sư.
Những người nào bị cái trí dẫn dắt (nghĩa đen là cái trí
xỏ mũi) th́ những người ấy mù quáng và quê mùa tôn thờ ngài là riêng rẽ
(nghĩa đen là một người khác).
[Đạo sư
iii. Prabhati]
Đây là câu hỏi của Siddhā; Hỡi con người, thế giới được
tạo ra như thế nào và làm cách nào tiêu diệt được sự đau khổ?
Đạo sư Nānak trả lời: “Thế giới sinh ra do Ngă chấp,
chúng ta đau khổ v́ quên mất hồng danh của Ngài.
[Đạo sư i.
Sadgost]
C̣n về phần Jīva, ngài dạy rằng Jīva có cùng bản thể với
Đấng Tối Cao và do sự luân hồi cũng như nghiệp báo, Jīva có thể ngộ ra được
ngài và biết rằng không có sự khác nhau. Ngài nói tới việc sinh ra vô tận và
ngài nhắc lại rằng chúng ta thấy tín đồ Kỳ Na cũng như tín đồ Ấn giáo đều
cho rằng nhân thân Nānak và chỉ có sinh ra làm người th́ ta mới giải thoát
được.
Jīva này sẽ không bị diệt vong.
[Đạo sư v.
Gauri]
Trong cơ thể là tâm trí, trong tâm trí là Đấng Chân Thực.
Người
ta ḥa lẫn Đấng Chân Thực ấy (khi hiệp nhất với) Đấng Chân Thực th́ người ta
bị hấp thu.
[Đạo sư i.
Rāg Dhanasri]
Cũng điều ấy vốn ở trong cơ thể th́ nó ở nơi Brahmānda,
bất cứ ai t́m kiếm th́ sẽ t́m thấy.
[Pippa
Bhakta Dhanasri]
Người ta không cần thắc mắc về giai cấp hoặc sự sinh
trưởng, người ta chỉ điều tra nơi Ṭa Nhà Sự Thật. Giai cấp và chốn sinh
trưởng là tùy theo hành động của ḿnh.
[Đạo sư i.
Prabhati)
Con người hoàn thành những hành vi tốt đẹp th́ người ấy
được gọi là Thiên trong thế giới này.
Con người làm điều ác trong thế giới này th́ thiên hạ gọi
y là A tu la (quỉ thần).
[Đạo sư x.
Vicitra Nātak]
Giáo huấn về nghiệp quả rất minh bạch.
Kẻ nào gieo thứ ǵ th́ sẽ gặt thứ nấy.
[ Đạo sư i.
Japaji]
Trong môi trường nghiệp báo th́ kẻ nào gieo cái ǵ ắt sẽ
gặt cái nấy.
[Đạo sư v.
Baramah Majh]
Ta đừng khiển trách bất cứ ai,
Bất cứ điều ǵ ta hành động th́ ta sẽ vui hưởng (và đau
khổ);
Nghiệp báo (tác động) là của ta, sự ràng buộc cũng là của
ta.
Đến và đi là hoạt động (công việc) của hăo huyền Māyā.
[Đạo sư v.]
Trong nhiều kiếp sinh ra ta đă trở thành côn trùng và
loài mối;
Trong nhiều kiếp sinh ra ta đă trở thành voi, cá và hươu
nai;
Trong nhiều kiếp sinh ra ta đă trở thành chim và rắn;
Trong nhiều kiếp sinh ra ta phải đeo ách giống như loài
ngựa và loài trâu ḅ;
Ta hăy mưu t́m Đấng Chúa Tể! Đó là cơ hội chắc chắn nhất
để ta mưu t́m sau khi thân xác con người này đă đạt tới những thời kỳ dài
dằng dặc.
Có nhiều kiếp chúng ta đă lang thang trên núi;
Có nhiều kiếp chúng ta đă bị sảy thai ra khỏi tử cung;
Có nhiều kiếp chúng ta đă được tạo ra làm loài cây cỏ.
Chúng ta đă được tạo ra để đi lang thang qua 84 vạn tử
cung.
Sự kết hợp của điều thiện đă đưa ta tới kiếp sống này.
Hari nói con hăy phụng sự tận tụy. Đó là giáo huấn của
Đạo sư.
Nếu kẻ nào dẹp bỏ được ḷng hiếu danh, sự giả vờ và ḷng
kiêu ngạo;
Và chết khi c̣n sống th́ y sẽ được chấp nhận ở nơi chốn
ấy (nghĩa là nơi chốn hiện diện ấy).
[Đạo sư v.
Guri Rāg]
Cũng giống như sắt để trên đe được rèn thành ra h́nh
dạng;
Cũng thế, một linh hồn si mê (hoặc vô minh) lao vào tử
cung để rồi đi lang thang sao cho nó có thể uốn cong hoặc quay sang Con
đường Đúng đắn.
[Đạo sư i.
Suhi Rāg Kafi 4.]
Đây là một sự mô tả mỹ lệ về đấng Jivanmukta.
Kẻ nào trong tâm trí ḿnh biết được ư chí của Đấng Chúa
Tể th́ kẻ đó là dành cho người tốt nhất;
Ngài quả thật được gọi là đấng Jinanmukta.
Đối với ngài th́ vui cũng giống như buồn.
Ngài bao giờ cũng đầy phúc lạc; không có sự ngăn cách đối
với ngài.
Đối với ngài vàng cũng giống như đất sét.
Đối với ngài nước
Đối với ngài vinh và nhục cũng đều như nhau.
Đối với ngài kẻ nghèo hèn cũng như bậc quân vương đều
b́nh đẳng.
Bất cứ điều ǵ được Đấng Chúa Tể khiến cho xảy ra th́
cũng điều ấy (ngài xét thấy) là thích hợp và chính đáng.
Hỡi Nānak, một người như thế được gọi là đấng Jivanmukta.
[Đạo sư v.
Sukhmani]
Và ở đây là một bài thơ
rất hay về Brahmajñāni:
Brahmajñāni bao giờ cũng vô nhiễm giống như đóa hoa sen
không bị nước làm ướt.
Brahmajñāni cũng không bao giờ bị mắc lỗi lầm (hoặc bị
phạm điều ác), cũng giống như mặt trời làm khô rang vạn vật.
Brahmajñāni coi mọi người đều b́nh đẳng cũng giống như
gió chạm tới đức vua lẫn kẻ nghèo hèn.
Brahmajñāni chịu đau khổ, nhẫn nhục như nhau, giống như
đất do một số người đào lên và bị những người khác dùng gỗ giáng hương làm
cho bị t́ vết.
Đó là phẩm tính của Brahmajñāni v́ quyền năng thiêu rụi
của lửa vốn bẩm sinh.
Brahmajñāni vốn tinh khiết hơn điều tinh khiết cũng giống
như sự ô trược không chạm được tới nước.
Ánh sáng chiếu soi trong tâm hồn của Brahmajñāni cũng
giống như bầu trời (chiếu soi) trên mặt đất.
Brahmajñāni coi bạn và thù là như nhau, Brahmajñāni không
ngă mạn.
Brahmajñāni cao quí hơn kẻ cao tột nhưng lại nghĩ ḿnh
thấp hơn mọi người.
Hỡi Nānak, những người ấy trở thành Brahmajñāni mà chính
Đấng Chúa Tể đă khiến cho như vậy.
Brahmajñāni là đất bụi dưới chân mọi người;
Brahmajñāni
đă
thu thập (hoặc biết được)
bản thể của Ātmā.
Brahmajñāni vốn từ bi đối với mọi người; không điều ác
nào xảy ra cho Brahmajñāni.
Brahmajñāni luôn luôn coi vạn vật là b́nh đẳng, khi ngài
nh́n tới bất cứ điều ǵ th́ ngài tuôn ra nước
Brahmajñāni thoát khỏi sự ràng buộc, khoa yoga của
Brahmajñāni thật là thuần khiết.
Hỡi Nānak, Brahmajñāni có thực phẩm
là minh triết, c̣n sự tham thiền của Brahmajñāni
là về đấng Brahmā.
Brahmajñāni an trú niềm hi vọng nơi Đấng Nhất Như,
Brahmajñāni chẳng bao giờ bị diệt vong.
Brahmajñāni thấm nhuần ḷng khiêm tốn, Brahmajñāni vui
sướng khi làm điều thiện cho những người khác.
Brahmajñāni thoát khỏi sự hoạt động (của ba Gunas).
Brahmajñāni đă điều khiển được tâm trí của ḿnh.
Bất cứ điều ǵ xảy ra cho một Brahmajñāni th́ y coi nó là
tốt cả,
Những phẩm tính thiêng liêng đơm hoa kết trái nơi một
Brahmajñāni.
Hỡi Nānak, vạn vật đều được nâng lên cùng với
Brahmajñāni; toàn thể thế giới lập lại hồng danh của Brahmajñāni.
Brahmajñāni có một sắc thái duy nhất (trạng thái tâm trí
duy nhất nghĩa là T́nh Thương). Đấng Chúa Tể ngự nơi Brahmajñāni.
Brahmajñāni được nâng đỡ bởi hồng danh. Hồng danh của
Brahmajñāni ở mọi vật đều như nhau.
Brahmajñāni bao giờ cũng tỉnh thức nơi điều Chân Thực.
Brahmajñāni dẹp bỏ mọi điều ngă chấp.
Trong tâm hồn Brahmajñāni có điều phúc lạc cao nhất;
trong nhà của Brahmajñāni bao giờ cũng có sự yên b́nh.
Brahmajñāni ngự trong hạnh phúc; Hỡi Nānak, không có sự
hủy diệt nào dành cho Brahmajñāni.
Brahmajñāni là người biết được đấng Brahmā, Brahmajñāni
bao giờ cũng yêu thương Đấng Nhất Như.
Brahmajñāni không hề lo âu, đức tin của Brahmajñāni thật
là trong sạch.
Brahmajñāni là đấng mà chính Đấng Chúa Tể đă tạo ra như
vậy, sự vinh danh của Brahmajñāni thật là lớn lao.
Một người rất may mắn có thể gặp một Brahmajñāni.
Chúng ta nên dâng ḿnh hiến tế (nghĩa là đi ṿng tṛn)
một Brahmajñāni.
Hỡi Nānak, đấng Mahesvara (Siva tức Chúa Tể cao cả) mưu
t́m một Brahmajñāni
Brahmajñāni chính là Đấng Chúa Tể Tối Cao.
Brahmajñāni là một kho tàng vô giá.
Vạn vật ở trong tâm Brahmajñāni khi người nào biết được
điều bí nhiệm về đấng Brahmajñāni.
Ta bao giờ cũng nên chào đón đấng Brahmajñāni; ta không
thể thốt nên một nửa chữ về đấng Brahmajñāni.
Brahmajñāni là Đấng Chúa Tể của vạn vật; ai có thể đo
lường được trong ngôn ngữ đấng Brahmajñāni?
Chỉ có một đấng Brahmajñāni
mới biết được Mục Tiêu
của đấng Brahmajñāni.
Không có giới hạn cũng như chẳng có bờ bến khác (bỉ ngạn)
dành cho đấng Brahmajñāni. Hỡi Nānak, chúng ta bao giờ cũng chào đón đấng
Brahmajñāni.
Brahmajñāni là đấng tạo ra mọi cơ sáng tạo. Brahmajñāni
là đấng ban ra mukti, yoga và sự sống.
Brahmajñāni là trọn cả Tinh thần (Purusha) và đấng an
bài.
Brahmajñāni là người che chở cho kẻ không ai bênh vực,
Brahmajñāni canh chừng mọi người.
Mọi thứ này đều là h́nh tướng của Brahmajñāni.
Brahmajñāni là Chơn ngă Tối cao Vô H́nh tướng.
Sự huy hoàng (hoặc hồng ân) của Brahmajñāni chỉ thích hợp
với một đấng Brahmajñāni thôi. Brahmajñāni là Kho báu của vạn vật.
[Đạo sư v.
Sukhmani]
Người nào không khiến cho người khác sợ ḿnh và cũng
chẳng sợ ai.
Th́ Nānak nói! Hỡi tâm trí của ta, nghe đây! Hăy gọi
người ấy là bậc Jñāni (bậc minh triết).
[Đạo sư ix]
Đây là một số câu kinh
bàn về ḷng sùng tín đối với bậc Gurudeva.
Hỡi Nānak! Nên biết rằng là bậc Đạo sư chân chính th́
ngài sẽ hiệp nhất với vạn vật, hỡi con yêu quí của ta.
[Đạo sư i.
Shri Rāg]
Mỗi ngày tôi sẽ hiến tế 100 lần cho Sư phụ của ḿnh;
Ngài biến tôi ra thành Thượng Đế và ngài không mất nhiều
thời giờ để làm được điều ấy.
[Đạo sư i.
Vara Asā]
Nếu 100 mặt trăng và 1000 mặt trời mọc lên;
Và có biết bao nhiêu ánh sáng mà không có bậc Đạo sư th́
ắt c̣n sự u mê tệ hại.
[Đạo
sư ii. Āsavara]
Hỡi Sư phụ chân chính của con, ngài thật là chí phước v́
ngài biết Hari.
Ngài cho chúng con thấy bạn và thù đều b́nh đẳng theo
quan điểm của ḿnh.
[Đạo
sư iv. Vara Vadhans]
Gurudeva là mẹ, Gurudeva là cha, Gurudeva là Đấng Chúa Tể
Tối Cao;
Gurudeva là bạn, là kẻ tiêu diệt vô minh, Gurudeva là
huynh đệ tương đối và chân thực.
Gurudeva là đấng ban cấp và giảng dạy về hồng danh của
Hari.
Gurudeva đă thực chứng được thần chú.
Gurudeva là hiện thân của yên b́nh, sự thật và sự giác
ngộ; sự tiếp xúc của Gurudeva vốn cao hơn sự tiếp xúc của điểm kim thạch.
Gurudeva là Tirtha (nơi hành hương) là bồn nước
Gurudeva là đấng tạo tác, đấng tiêu diệt mọi điều ác.
Gurudeva là đấng tẩy trược cho mọi thứ sa đọa.
Gurudeva là các thời đại bản sơ trước kia; nhờ lập lại
Hari-Mantra của ngài, chúng ta được cứu rỗi (nghĩa đen là được cứu thoát
khỏi ṿng sinh tử luân hồi).
Hỡi Đấng Chúa Tể, xin ngài hăy gia ơn cho con đi cùng với
Gurudeva sao cho việc liên kết (gắn bó) với ngài, chúng ta là những kẻ tội
lỗi si mê có thể bơi qua đấy.
Gurudeva, bậc Đạo sư chân chính, là đấng Parabrahman,
Đấng Chúa Tể Tối Cao, Nānak cúi đầu lạy đấng Gurudeva Hari.
[Đạo sư v.
Bavanakhhri]
Mẹ ơi! Con sung sướng xiết bao v́ con đă t́m ra được bậc
Đạo sư chân chính.
[Đạo sư
iii. Rāmkali]
Chúng ta hăy ghi tâm khắc cốt lời của bậc Đạo sư và đừng
bám víu lấy ngũ trược (ham muốn, giận dữ v.v. . . )
Ta hăy giữ cho 10 cơ quan được khống chế th́ nhiên hậu
ánh sáng của Chơn ngă sẽ chiếu soi.
[Đạo
sư i. Gauri]
Để kết luận những thứ này có lẽ cũng là quá nhiều lời
trích dẫn. Tôi xin đưa ra một số lời trích dẫn linh tinh hay ho xiết bao:
Con hăy nghĩ tới những phẩm tính cao cả của Hồng danh
chân chính vào lúc hừng sáng.
[Đạo sư i. Gapa]
Cho dẫu chúng ta dùng nước tắm gội cơ thể th́ hỡi huynh
đệ nó vẫn c̣n không trong sạch;
Hỡi huynh đệ, ta hăy tắm ḿnh trong nước dũng mănh của
tri thức sao cho tâm trí và cơ thể được tẩy trược.
[Đạo sư i.
Sorath]
Hỡi kẻ thiện tâm! Hăy yêu thương Hari như hoa sen yêu
thích nước.
Nó gợn sóng lăn tăn nhưng những cánh hoa t́nh thương lại
mở ra.
[Đạo sư i.
Shri Rāga]
Ta quên mất mọi điều phân biệt (nghĩa đen là điều khác
đi) hoặc ta đă hoàn toàn quên mất ai là kẻ khác.
V́ tôi thu được những điều đi kèm theo điều thiện, cho
nên không có kẻ thù, không có người xa lạ, tôi làm ḥa với mọi người.
[Đạo
sư v. Kānara]
Mọi sinh linh đều thuộc về Ngài, Ngài thuộc về mọi sinh
linh.
Chúng ta có dám chê trách ai chăng (hoặc bảo ngài thấp
hèn)?
Nếu một người khác nữa th́ chúng ta có thể làm được như
vậy.
[Đạo
sư iii. Āsa]
Hăy dừng lại một lúc với suy tư nếu chỉ có một Tự ngă duy
nhất trong vạn vật, th́ c̣n chỗ nào cho sự thù ghét?
Nếu chỉ có một Hari duy nhất trong vạn vật th́ c̣n chỗ
nào cho sự khinh thường?
Nếu c̣n nhiều hơn Đấng Nhất Như, nếu không phải là Đấng
Độc Nhất Vô Nhị, th́ con người có thể khác với con người và có thể căi cọ
với huynh đệ của ḿnh; nhưng nếu cũng vị Thượng Đế ấy ngự trong mọi tâm hồn,
nếu cũng Tự ngă ấy làm linh hoạt mọi hiện thể th́ c̣n chỗ nào cho sự hận thù
hoặc khinh thường? Chỉ có một Đấng Nhất Như trong vạn vật.
Hỡi Nānak, hăy lập lại Soham, Hamsa; bằng cách lập lại
điều này, ba cơi sẽ được hấp thu vào Ngài.
[Đạo sư i.
Var Mārū]
Hăy gọi họ đang rửa ráy cơ thể ḿnh và ngồi ở đây là
những kẻ không trong sạch.
Hỡi Nānak! Chỉ những kẻ nào có tâm hồn trong sạch th́
ngài mới ngự nơi tâm hồn họ.
[Đạo sư i.
Var Āsa]
Những kẻ nào thực hành sự an phận th́ những kẻ ấy sẽ tham
thiền về Đấng Nhất Như chân chính.
Họ không dấn thân vào điều ác, họ làm điều thiện và đạt
được đức hạnh.
[Đạo sư i.
Āsa]
Samnyāsi là bậc phụng sự Đạo sư chân chính và diệt ngă
chấp từ bên trong;
Đừng ham muốn đồ mặc, thức ăn, mà hăy chấp nhận những ǵ
đến với ḿnh, đừng suy nghĩ ǵ cả hoặc đ̣i hỏi ǵ cả.
[Đạo sư i.
Mārū Rāga]
Ít người đạt được ân sủng của Đạo sư và tập trung vào
trạng thái thứ tư.
[Đạo sư
iii. Majh]
Trong số những điều cần xả bỏ th́ những ǵ cần xả bỏ nhất
là tham dục, thù ghét và hà tiện.
Các con ơi hăy nghe đây! Hăy tham thiền về hồng danh của
Hari, ngài nhân từ với vạn vật.
[Đạo sư v.
Majh]
Nếu không thực hành đức hạnh th́ ḷng sùng tín không thể
có được.
[Đạo sư i.
Japa]
Ta t́m được niềm phúc lạc bẩm sinh nơi nhà của chính ḿnh
và dinh thự của ḿnh; nhờ vậy ta sẽ không c̣n trở lại nữa (bất lai).
[Đạo sư v.
Gauri]
Hỡi tâm trí! Hăy thực hành sự xả bỏ như thế: hăy coi mọi
nơi ở là rừng rú, tâm hồn như như bất động; hăy giữ những cái tư thế ngồi tự
chủ, hăy tắm rửa bằng pháp yoga, hăy cho móng tay Nyama (ngũ giới) mọc dài
ra.
Hăy hiểu biết tri thức của Thượng Đế, coi đó là Thầy của
ḿnh th́ ḿnh mới trở thành Đạo sư.
Hăy dùng lớp tro của Hồng danh để bôi bác chính ḿnh.
Điều thiện và điều tốt đẹp cho cơ thể cốt ở việc ăn ít,
ngủ ít, từ bi, tha thứ.
Hăy thực hành bẩm tính tốt, sự an phận, siêu việt được ba
Gunas.
Đừng để cho tham dục, giận dữ, ngă mạn, hà tiện, bướng
bỉnh và sự si mê bám víu chinh phục ḿnh.
Thế rồi con hăy chiêm ngưỡng thực tại (bản thể) của Tự
ngă và con sẽ đạt tới Tinh Thần Tối Cao.
[Đạo sư x.
Shahda Hazam]
Đừng trễ năi việc thiện mà hăy tŕ hoăn việc ác.
[Đạo sư v.]
Những kẻ ưa nói xấu làm cho ḿnh c̣ng lưng gánh nặng vô
số tội lỗi vu khống.
Nếu con mưu t́m điều tốt cho chính ḿnh th́ con hăy làm
điều thiện và chấp nhận người ta coi thường ḿnh.
[Đạo
sư i. Āsa]
Kẻ nào đem cái cân ra cân nhắc th́ người nào biết khiêm
hạ là đáng quí.
[Đạo sư i.
Suhi]
Tôi không tốt nhưng cũng chẳng ai khác nữa là xấu.
[Đạo
sư i. Suhi]
Nếu người ta trở thành một tên nô lệ của các nô lệ và dẹp
bỏ bản ngă th́ người ta sẽ t́m thấy Hari.
[Đạo sư
iii.]
Cũng giống như cá không thể sống mà không có nước;
Cũng giống như một con chim cu không thể thỏa măn nếu
không có mưa;
Cũng giống như một con hươu (bị đâm xuyên, bị xúc động
hoặc mê mệt) bởi tiếng cồng chiêng bèn chạy ùa tới đó;
Cũng giống như một con ong đen khao khát hương hoa, t́m
được nó th́ thấy ḿnh bị giam hăm;
Cũng vậy, chư thánh yêu thương Thượng Đế và thỏa măn khi
nh́n thấy Ngài.
[Đạo sư v.
Jaitsari]
Chẳng có kẻ nào không căi cọ và chống đối; cứ chỉ rơ
những người ấy cho ta th́ ta sẽ ngợi ca họ.
[Đạo sư i.
Mārā]
Tín đồ và những
người thế tục ít khi nào đồng ư với nhau.
[Đạo sư i.
Majh]
Do ân sủng của Sư phụ, hăy thực hành Rāja Yoga.
Có ít người tiêu diệt óc nhị nguyên (ư thức chia rẽ), mà
có tiêu diệt được nó th́ mới thực hành được Rāja Yoga.
[Đạo sư v.
Gauri]
Kẻ nào đă nhỏ mắt bằng thuốc nhỏ mắt Tri thức của Thượng
Đế th́ kẻ ấy chứng kiến được vạn vật đều huy hoàng.
Trong u mê của sự vô minh, y chẳng thấy ǵ hết và cứ tái
sinh luân hồi măi măi.
[Đạo sư v.
Sorāth]
Tôi t́m thấy Ngài trong 10 khu phố; tôi t́m thấy ngài
trong nhà.
Tôi gặp gỡ được Ngài khi Đạo sư chân chính đưa tôi tới
giáp mặt với Ngài.
[Đạo sư i.
Omkār]
Khi sự si mê trong tâm hồn đă mất đi th́ đối với tín đồ
Ấn giáo và tín đồ Hồi giáo đều như nhau.
[Đạo
sư x.]
Người nào đă trở thành một vị Samnyāsi thế phát, c̣n
người kia là một đạo sĩ yoga, một Brahmacāri, một Yati đều được coi như vậy;
một tín đồ Ấn giáo, một người Thổ nhỉ kỳ (Hồi giáo), một Rafazi, Imāmshafi.
Nhưng con hăy hiểu nhân loại chỉ là một. Đấng Tạo Tác, Đấng Từ Bi đều như
nhau, Đấng Nuôi Dưỡng và Đấng Tử Tế cũng giống nhau; đừng phạm phải sai lầm
và si mê của sự phân biệt theo nhị nguyên th́ ta mới phụng sự được cho Nhất
Nguyên; bậc Gurudeva của vạn vật chỉ có một; một là Thiên Nhiên và nên biết
Ánh Sáng chỉ có một. Đền thờ và đền thờ Hồi giáo đều như nhau, Pūja và Nimāz
(lời cầu nguyện của Hồi giáo) đều như nhau, mọi người đều là một (nhất bổn)
nhưng khi biểu lộ th́ là vạn thù; do đó chư Thiên và chư Thần quỉ chỉ là một
cũng như Dạ xoa và Khẩn na la. Người Ấn Độ và người Thổ nhỉ kỳ là do bản
chất khác nhau của y phục thuộc nhiều xứ khác nhau. Mắt, tai, thân thể, cơ
quan hành động đều giống nhau, là tổ hợp của đất, nước, gió lửa; Đấng Allah
vô h́nh đều giống nhau; kinh Purānas và kinh Qurān là như nhau; đấng này là
thiên nhiên c̣n đấng kia là nhân tạo.
Cũng giống cả triệu điểm linh quang bắt nguồn từ một lửa
duy nhất rồi sau khi chia rẽ ra lại hợp nhất thành cùng một lửa; cũng giống
như từ một đống bụi, nhiều hạt lấp đầy bầu trời và những hạt này lại biến
mất trong cùng một hạt; cũng giống như trong cùng một ḍng sông có nhiều đợt
sóng lăn tăn được h́nh thành, nhưng các đợt sóng nước này chẳng qua đều được
gọi là nước; cũng như vậy, từ H́nh Tướng Đại Đồng Vũ Trụ, các thực thể hữu
thức và vô thức mới biểu lộ ra, nhưng chúng sẽ đắm ḿnh vào trong Điều mà
chúng từ đó xuất hiện ra.
[Đạo sư x.
Kavitu]
Chắc chắn chẳng có điều ǵ trong tất cả những điều mà tâm
hồn của mọi người chúng ta đều không thể hưởng ứng được, mà tâm hồn của mọi
người chúng ta đều không thể vang vọng được, chỉ có điều ta hăy nghĩ rằng ta
có cùng một sự đam mê và ḷng sùng tín, và chỉ có điều ta hăy trông ngóng
rằng ḷng sùng tín của ḿnh có thể trong sáng giống như ngài.
Đó là giáo huấn và đó là tâm hồn của đạo Sikh. Liệu có
bất cứ điều ǵ trong đó có thể được dùng để kết hợp lại, để thu hút tâm hồn
gần gũi lại với nhau, để gắn bó mọi người lại với nhau trong t́nh thương yêu?
Khi bạn nghĩ tới Đạo sư Nānak hăy nghĩ tới một trong
những bậc đại Đạo sư yên b́nh, do t́nh thương tối cao đối với Thượng Đế,
ngài ắt thu hút được quả báo thánh vị là t́nh thương đối với con người; thế
rồi bạn ắt thấy rằng các huynh đệ đạo Sikh đang trợ giúp vào việc kiến tạo
một quốc gia duy nhất từ Ấn Độ mà không căi cọ với bất cứ ai, không thù ghét
bất cứ ai, không tranh đấu để chia rẽ họ đối với một tín ngưỡng khác. Nếu họ
trung thành với giáo huấn của bậc Đạo sư th́ họ ắt là bạn và thống nhất ở
bất cứ nơi đâu họ đi tới, kiến tạo và xây dựng sinh hoạt quốc gia. Chúng ta
ắt chẳng sai lầm nhiều nếu bảo rằng trong tôn giáo thuần túy Bhakti này về
t́nh thương đối với Thượng Đế và con người, ta có một trong những kẻ tiền
phong của cái Minh Triết Thiêng Liêng cổ truyền mà thời sau này Chi bộ cao
cả đă ban cho con người; v́ đây
cũng là một đấng thống nhất, một người bạn và một huynh đệ; đây cũng là một
người yêu thương và một người hàn gắn những kẻ c̣n ưa tranh chấp. Khi chúng
ta nói tới hồng danh của Đạo sư Nānak, ta nói tới hồng danh về sự yên b́nh
và có thể Đấng giám sát cộng đồng của chính ḿnh biến nó thành một trong
những yếu tố để xây dựng Ấn Độ.
------------------------
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES