Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME  NHẬP MÔN  sách   TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  QUEST  MAGAZINES

 

ANNIE BESANT

CON ĐƯỜNG CỦA NGƯỜI ĐỆ TỬ
Dịch giả Cao thị Lan
Đánh máy  Như Khuê Tiểu Hoa Nhi

CON ĐƯỜNG CỦA NGƯỜI ĐỆ TỬ

 

MỤC LỤC

đầu sách  cuối sách  chương 1 2 3 4

Bài tựa của dịch giả H. Demergian

Bài tựa của dịch giả Cao Thị Lan

1- Những bước đầu tiên
        Con Đường hành động
        Phép tin luyện
        …………..

2- Những đức tính cần thiết
         Kiểm soát tư tưởng
         Tham thiền
         Lập hạnh
          …………………….

3- Đời sống của người đệ tử
          Con đường nhập môn
          Bốn bực điểm đạo
          …………………..

4- Sự tiến bộ vi lai của Nhân Loại

 

BÀI TỰA CỦA DỊCH GIẢ H. DEMIRGIAN

Từ Anh Văn ra Pháp văn.

Trong số những bài diễn văn rất nhiều và rất bổ ích mà thế gian đă thọ lănh của bà Annie Besant nhờ năng lực vô biên và sự tận tâm tuyệt đối của bà trong sự hoàn thành cái nhiệm vụ cao cả mà v́ đó bà đă hy sinh đời bà, có lẽ không có những bài nào đáng chú ư và có ích cho người học Đạo hơn là bốn bài thuyết tŕnh tại Adyar năm 1895, nhân dịp lễ kỷ niệm năm thứ 20 của ngày thành lập Hội Thông Thiên Học và được gom lại thành một quyển sách với nhan đề là "CON ĐƯỜNG CỦA NGƯỜI ĐỆ TỬ" (The Path of Discipleship).

        Những bài thuyết pháp cao siêu này đă gây cho chúng tôi một sự xúc cảm sâu xa và lành mạnh khiến chúng tôi đă không ngần ngại dịch ra Pháp văn, hy vọng rằng một ngày kia sẽ in được ra thành sách để những đồng bào không quen đọc Anh văn có thể được hưởng thụ được những kho tàng quư báu vô giá chứa đựng trong những bài này.

        Xin quư vị độc giả nhớ cho rằng những bài này được thuyết tŕnh trước một cử tọa Ấn Độ.

        Như vậy, người ta sẽ không thể ngạc nhiên về quan niệm mà bà Annie Besant tự chọn cũng như về những từ ngữ tiếng Phạn rải rác trong bài diễn văn.

                                                                            H. DEMIRGIAN

___________________

BÀI TỰA

Của dịch giả Cao Thị Lan từ Pháp Văn ra Việt Văn

Cũng v́ những lư lẽ mới kể ra trên đây và để giúp ích cho đồng bào, chư thiên tín không quen thuộc với Anh Văn và Pháp Văn, chúng tôi cố dịch quyển này ra Việt Văn. Xin độc giả thứ cho những câu dịch không được suông sẻ, đó chỉ tại Anh Văn và Pháp Văn có những điều và những biệt ngữ dịch ngay ra Việt Văn th́ nghe rất chướng tai. Chúng tôi phải cố gắng châm chước thế nào cho:

1-    Không mất ư nghĩa câu văn của diễn giả,

2-    Mà cũng không mất cách hành văn của người Việt.

Cao Thi Lan

--------------------------------------------------------

 I

 NHỮNG BƯỚC ĐẦU TIÊN

đầu sách  cuối sách  chương 1 2 3 4

Con đường hành động- Phép tinh luyện

        Thưa quư huynh,

        Hai năm trước đây, cũng tại giảng đường này tôi đă xin quư huynh chú ư đến sự tạo lập Vũ trụ một cách khái quát, đến những giai đoạn tấn hóa của nó, và những phương pháp được áp dụng trong sự tiếp diễn đại quy mô của những hiện tượng. Năm ngoái, tôi đă thuyết tŕnh về sự tiến hóa của Chơn linh, cái Chơn linh trong con người hơn là cái Chơn linh nơi Vũ trụ, và tôi đă cố gắng diễn giải cho quư huynh rơ Chơn linh đă thu góp kinh nghiệm như thế nào xuyên qua các thể của nó để rốt ráo làm chủ hoàn toàn được những thể thấp của ḿnh(1).   [i]Đối với con người cũng như đối với Vũ trụ, đối với cá nhân cũng như đối với càn khôn, mục đích chỉ có một: ấy là một sự cố gắng bền bỉ để hợp nhất với Chơn linh, tức phản bổn hoàn nguyên vậy. Tuy nhiên, thỉnh thoảng người ta có nói với tôi, trong những cuộc thảo luận về những đề tài cao cả này rằng:

        Cái đó có liên quan ǵ với kiếp sống của con người tại thế gian này, trong khi con người bị chia phối bởi những nhu cầu của đời sống hằng ngày, những náo động quay cuồng của hiện tượng giới làm cho con người không thể có một tư tưởng nào về Chơn linh, v́ luôn luôn bị nghiệp quả lôi cuốn vào mọi nghành hoạt động của thế gian? Có một  sự liên quan nào giữa giáo lư cao siêu với đời sống của con người, và do cách nào con người giữa thế gian này có thể tiến lên khá cao để thực hiện được một đời sống tinh thần siêu việt?” Năm nay tôi cố gắng giải đáp câu hỏi này.

        Tôi sẽ ráng giải nghĩa cho quư huynh hiểu bằng cách nào một người ở thế gian này, bị bó buộc trong những phận sự gia đ́nh, những bổn phận xă hội và vô số hoạt động của đời sống, có thể tự chuẩn bị cuộc đời tu hành và đặt những bước đầu tiên trên con đừng Đạo Duy Nhất Vô Thượng. Tôi sẽ ráng tả cùng quư huynh những sự tiến bộ phải thực hiện trên con đường này, tôi bắt đầu bằng đời sống của bất cứ một người nào đó, tôi đi từ cái vị trí của đa số quư huynh hiện giờ, như thế quư huynh có thể nhận định được rằng có một mục đích phải đạt cho được, có một con đường phải đi qua- con đường nầy có khởi điểm, nơi đây, ở trong đời sống gia đ́nh, đời sống xă hội, quốc gia, và cái mục phiêu của nó ở một nơi xa xăm không ai tưởng tượng nổi; con đường nầy sau rốt sẽ dẫn người lữ khách đến nơi trú ngụ vĩnh viễn của y. Đó là mục đích của bốn buổi thuyết pháp này, đó là những nấc thang mà tôi chắc chắn rằng quư huynh sẽ vui ḷng trèo lên với tôi.

        Để hiểu rơ đề tài, chúng ta hăy xem xét một cách nhanh chóng quá tŕnh của cơ tiến hóa, ư nghĩa và mục đích của nó để cho cái nh́n ngay thẳng về tổng quát khiến ta có thể thưởng thức được đề tài và hiểu được sự thích nghi của con đường thẳng tiến mà chúng ta sắp bước theo từng bước một.

        Chúng ta nhận thức rằng cái Duy Nhất biểu lộ ra thiên h́nh vạn trạng. Chúng ta hăy nh́n lại dĩ văng và xem những cơi u minh nguyên thủy bao trùm vạn vật; chúng ta sẽ nghe như một tiếng th́ thầm từ những cơi u minh ấy vọng ra.”Ta sẽ tự sinh sôi nẩy nở”. Sự biểu lộ thành thiên h́nh vạn trạng ấy chính là sự tạo lập vũ trụ cùng những sinh vật sống trên đó. Trong cái ư chí tự sinh sôi nảy nở này, do “Đấng Độc Nhất Vô Nhị” biểu lộ ra, chúng ta trông thấy nguồn cội của mọi sự biểu hiện, và như thế chúng ta nhận biết được cái mầm nguyên thủy của Vũ Trụ Càn Khôn.

        Và khi mà chúng ta hiểu rằng Vũ Trụ đă khởi nguyên bằng cách nào, khi mà chúng ta nhận định được cài phức tạp và cái hằng hà sa số nảy sinh từ cái đơn thuần và cái duy nhất nguyên thủy, chúng ta sẽ hiểu được rằng mỗi sự biểu lộ trong hiện tượng giới đều có tính cách bất toàn, và nội cái việc mà một hiện tượng chỉ có thể phát sinh với điều kiện bị giới hạn, cũng đủ là một bằng cớ hiển nhiên để chứng minh rằng cái hiện tượng ấy c̣n thấp kém hơn Đấng Duy Nhất và lẽ cố nhiên nó không được hoàn hảo. Điếu ấy làm cho ta hiểu lư do của biến tính và đặc tính hằng hà sa số người và vật. Lúc đó, chúng ta mới bắt đầu hiểu rằng sự hoàn thiện của Vũ trụ hữu h́nh là do chính ở cái sự biến dị ấy; rằng ở chỗ nào không những chỉ có Đấng Duy Nhất mà c̣n có cái ǵ thêm nữa, th́ cái hằng hà sa số ấy là cần thiết để Đấng Duy Nhất cũng giống như một vầng Thái Dương mănh liệt ban rải những ánh sáng huy hoàng ra mọi phía, có thể ban rải chúng khắp mọi nơi, và chính sự hoàn thiện và sự quang minh của thế gian ngự trị trong sự tổng hợp của tất cả những tia sáng ấy. Những sự vật càng nhiều, càng đẹp đẽ và càng khác nhau th́ cái phản ảnh của Đấng Duy Nhất trong Vũ trụ của Ngài sinh ra càng rơ rệt, tuy rằng vẫn luôn luôn chưa được hoàn thiện.

        Sự cố gắng đầu tiên của cơ tiến hóa - là tạo ra nhiều mạng sống riêng biệt- ít ra riêng biệt về bề ngoài- để khi nh́n từ ngoại cảnh, chúng nó có vẻ đông đúc, nhưng nếu nhận xét về tinh hoa của chúng th́ chúng ta thấy rằng cái Chơn linh của mọi vật th́ chỉ là Một. Khi chúng ta nhận định được điều nầy, chúng ta hiểu rằng trong khi nhập thế nhiều lần, cá nhân tự biểu lộ như là một phản ảnh chiếu yếu ớt và bất hoàn hảo của Chơn linh. Chúng ta cũng bắt đấu hiểu rằng Vũ trụ nầy sẽ đi đến đâu, tại sao sự tiến hóa của vô số cá nhân ấy lại cần thiết, tại sao sự chia rẽ khác biệt ấy lại đóng một vai tṛ khẩn yếu trong sự tiến hóa của toàn thể. Quả vậy, chúng ta hiểu rằng Vũ trụ nầy phải có mục đích đào tạo vị Thượng Đế của một Vũ trụ khác, những vị Đại Thiên Thần, hướng dẫn mọi quyền lực của Vũ trụ nấy, cùng các vị Thánh Sư có bổn phận giáo hóa nhân loại sơ sinh trên Vũ trụ mới đó. Tất cả những thế giới nấy đây, những sinh vật bây giờ đều theo một triều lưu tiến hóa vững chắc và bất biến, do đó mỗi Vũ trụ mới có thể chu cấp cho mỗi Vũ trụ tương lai vị Thượng Đế, các Thiên Thần, các vị Bàn Cổ Đầu Tiên, cùng tất cả các Đấng Cao Cả có oai lực cần thiết để xây dựng, cấu tạo, quản trị và giáo huấn cái Vũ trụ chưa nảy sanh đó.

        Như thế, các Vũ trụ đều liên lạc với nhau, những Đại Kiếp ( Manvantara) nối tiếp nhau, những kết quả thâu nhập được ở Vũ trụ này sẽ dùng làm hạt giống cho Vũ trụ sinh sau. Ở trong đám hằng hà sa số ấy có một đơn vị rộng lớn hơn đang tiến hóa và để làm nồng cốt cho Vũ trụ sắp nẩy sanh, nó sẽ là cái Uy lực chưởng quản, cai trị của Vũ trụ tương lai.

        Đến đây, một câu hỏi được nêu lên- tôi biết câu hỏi nấy sẽ làm bận trí nhiều khối óc, v́ ở Đông phương cũng như ở Tây phương người ta đă bao lần hỏi tôi như thế - tại sao sự tiến hóa lại có nhiều khó khăn như vậy? Tại sao sự tạo tác lại để lại dấu vết của biết bao lần thất bại bề ngoài? Tại sao con người lại cư xử sái cách trước khi cư xử đúng đắn? Tại sao họ lại theo điều ác nó làm cho họ đê hèn thay v́ tha thiết với điều thiện nó sẽ đưa họ lên cao? Vậy Đức Thượng Đế của Vũ trụ ta cùng các nhân viên của Ngài là các Thiên Thần cùng các vị Bàn Cổ cao cả đă giáng trần để d́u dắt những bước đầu  tiên của nhân loại há lại không có phương thế nào để tránh cho công tŕnh tạo tác khỏi bị những thất bại bề ngoài hay sao? Các Ngài há lại không có thể điều khiển thế giới cách nào để cho con đường đi được ngay hàng thẳng lối, thay v́ xa xôi và cng queo như thế ru? Chúng ta đi đến một giai đoạn mà sự tiến hóa của nhân loại trở nên cực kỳ khó khăn, chỉ v́ mục đích phải đạt cho được.

        Thật rất dễ mà uốn nắn một nhân loại hoàn toàn và hướng dẫn những năng lực khởi sanh của nó về một phía làm cho nó đi măi về nẻo thiện, không bao giờ để cho nó quay về phía ác. Nhưng một công nghiệp dễ dàng như vậy th́ có cái đặc biệt ǵ? Chắc chắn là nó biến con người thành một cái máy tự động bị một sức mạnh bên ngoài thúc đẩy và nó bắt buộc con người phải tuân theo một luật lệ cưỡng áp, không sao thoát khỏi. Thế giới của khoáng chất phải chịu một định luật như vậy. Những sự tương quan kết hợp những nguyên tử đều phục tùng cái động lực thúc bách ấy. Nhưng khi chúng ta tiến hóa dần dần, chúng ta tuần tự thấy nảy nở ra một sự tự do càng ngày càng lớn hơn, cho đến khi chúng ta nhận thức được nơi con người một năng lực đột khởi tự nhiên, một sự tự do lựa chọn, nó chính là lúc khởi đầu sự biểu lộ của Thượng Đế hay Chơn linh bắt đầu xuyên qua con người. Cái mục tiêu thật sự, cái mục đích phải đạt được không phải là xây dựng những người máy để theo một cách mù quáng một con đường đă vạch sẵn cho họ, nhưng là xây dựng cái phản ảnh của Đức Thượng Đế, tạo thành một nhóm người có uy lực, sáng suốt và hoàn toàn, có thể ưa chuộng điều thiện v́ nhận định và hiểu biết được điều này, và họ có thể xua đuổi điều ác, sau khi do kinh nghiệm mà biết được rằng điều ác bất lực và dẫn đến những mối đau khổ. Như vậy, giữa những Đấng Cao Cả sẽ lănh đạo Vũ trụ vị lai, cũng như giữa các Vị đang lănh đạo Vũ trụ hiện tại, có một sự nhất quyết do sự quy hợp của tất cả ư chí làm một, nhờ sự hiểu biết và sự tự do chỉ định các ư chí ấy phấn khởi bởi một ư muốn duy nhất do ở sự thông hiểu tất cả mọi việc, các ư chí ấy đă hợp nhất với Định luật v́ đă biết rằng Định luật chí công, các ư chí ấy muốn ḥa ḿnh với Định luật không phải do một động lực bên ngoài thúc đẩy mà do một sự tự do đồng ư bên trong. Ở cái Vũ trụ vị lai này, Định luật chỉ có Một, cũng giống như ở Vũ trụ hiện tại, và sẽ được thi hành do các Đấng làm tiêu biểu cho Định luật ấy, v́ các Ngài có những quan niệm đồng nhất, những kiến thức đồng nhất, cùng những uy lực đồng nhất; Định luật này sẽ không mù quáng và vô tâm, nó sẽ là kết quả của ư chí của một nhóm người v́ đă vào bực Siêu Phàm cho nên thành hiện thân của Định luật vậy.

        Không có con đường nào khác giúp ta có thể đạt được mục đích như thế, giúp cho tự do ư chí của đa số hợp nhất được với Thiên nhiên cao cả và duy nhất, hợp nhất được với Định luật cao cả và duy nhất; vâng, không c̣n có con đường nào khác ngoài cái Định Luật nơi đó kinh nghiệm được thâu thập, nơi đó người ta biết được sự ác cũng như sự thiện, người ta biết được sự thất bại cũng như sự thành công. Chừng đó con người trở thành những vị Thiên đế, và do những kinh nghiệm thâu hoạch được, các Ngài đều mong muốn, đều cảm xúc  và đều có uy lực giống hệt nhau.

        Trong khi cố gắng để đạt tới mục đích này, các vị Chân sư và các vị lănh đạo nhân loại chúng ta đă đặt nền móng cho nhiều sự văn minh; tất cả đều cấu tạo để đạt mục đích đă ấn định. Tôi không đủ thời giờ để lập lại nền văn minh cao cả của Giống Dân chánh thứ tư đă có trước khi nảy sinh giống dân Aryen oai hùng. Tôi chỉ nói phớt qua rằng một nền văn minh cao cả đă được đem ra thí nghiệm và trong một thời gian đă cho những kết quả tốt đẹp dưới sự lănh đạo của những vị Chấp Chánh khác nhau. Rồi các Vị này rút lui, không trực tiếp lănh đạo nữa, cũng như một người mẹ không nâng đỡ đứa con khi nó học điđể xem nó có thể tiến bước và sử dụng tứ chi của nó mà không cần đến cánh tay của bà mẹ chăng. Cũng v́ lư do ấy, các đấng Thánh Sư, các vị Chấp Chánh Thiêng Liêng ẩn ḿnh để coi nhân loại ấu trĩ khi tập đi, sẽ đi được vững hay không. Và nhân loại ấu trĩ này đă vấp ngă,  và cái nền văn minh cao cả, oai hùng và hoàn toàn trong những tổ chức xă hội của nó, cái nền văn minh vinh quang v́ đă được tạo thành bởi uy quyền và sự hiểu biết, liền sụp đổ dưới sức nặng của ḷng ích kỷ của con người, dưới sức nặng của những dục vọng thấp hèn mà nhân loại chưa ngự trị được. Lại phải thử thí nghiệm một lần nữa, và giống dân Aryen cao cả được tạo lập- luôn luôn với những vị Chấp Chánh Thiêng Liêng, luôn luôn với những vị Lănh Đạo Thiêng Liêng; với một Đức Bàn Cổ. Ngài ban cho luật pháp, xây nền móng văn minh, phác họa hiến pháp, với các Đấng Thánh Sư tụ họp xung quanh Ngài, trông nom sự thi hành pháp luật và d́u dắt nền văn minh ấu trĩ. Như vậy, một gương sáng lại được nêu lên một lần nữa cho nhân loại, một kiểu mẫu mà nhân loại phải tiến theo lại được đưa ra. Rồi những vị Đại Giáo Chủ lại rút lui đi trong một thời gian, để cho nhân loại có thể thử sức ḿnh, xem có thể tự lực bước đi một ḿnh không, và chỉ tự tin nơi ḿnh, nhờ Chơn linh bên trong điều khiển, chớ không do những sự biểu hiện bên ngoài. Như chúng ta đă biết, lần này cũng như lần trước, sự thí nghiệm cũng hoàn toàn thất bại. Như chúng ta có thể nhận định lấy bằng cách nh́n về dĩ văng, lần này chúng ta cũng trông thấy cái nền văn minh có nguồn gốc thiêng liêng kia dần dần trụy lạc dưới sức mạnh của những bản ngă thấp hèn mà con người chưa học được cách ngự trị, nền văn minh này nhất thời sụp đổ dưới áp lực của những dục vọng bất trị của nhân loại.

        Chúng ta hăy trở về với nước Ấn Độ thuở xưa, chúng ta thấy sự cấu tạo hoàn toàn của nó, cái tinh thần thiêng liêng kỳ diệu của nó, và chúng ta lấy con mắt mà theo dơi sự suy đồi của nó từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, khi bàn tay thiêng liêng d́u dắt tự rút ra khỏi tầm mắt con người. Ở mỗi trường hợp, chúng ta nhận thấy rằng sự cố gắng thực hiện cái lư tưởng thiêng liêng đều đưa đến sự thất bại.

        Chúng ta hăy nh́n vào thế giới hiện kim và chúng ta trông thấy cái bản năng thấp hèn của con người đă thắng cái lư tưởng thiêng liêng đến mức nào,  lư tưởng này đă được nêu lên làm gương mẫu cho con người ngay từ khi khởi đầu của gịng giống Aryen.

        Chúng ta thấy rằng ở thời đại ấy, cái lư tưởng của phái Bà la môn, một lư tưởng mà người ta có thể mô tả như là của một tâm hồn sắp được giải thoát, không đ̣i hỏi ǵ đến những của cải thế gian, không ham muốn những thú vui xác thịt nữa, không ham muốn giàu có, quyền thế, uy lực cùng những lạc thú của cuộc đời; cái đặc điểm của người Bà la môn là nghéo mà sáng suốt, c̣n như bây giờ chúng ta thường quá thấy ở nơi người mang danh từ Bà la môn sự giàu có và sự vô minh thay v́ sự thanh bạch và sự minh triết. Đó, trong giai cấp này các bạn đă thấy một trong những bằng cớ của sự suy đồi của thế hệ cũ, và ở mỗi giai cấp khác th́ cũng thế.

        Bây giờ chúng ta thử xem bằng cách nào các đấng Giáo Chủ đưa con người đến chỗ tự do, chọn lựa cái lư tưởng đă đưa ra cho họ- mà họ đă rời bỏ- bằng cách nào các vị Đại Giáo chủ đă cố gắng hướng dẫn sự tiến hóa chưa hoàn toàn của nhân loại đến cái lư tưởng hoàn toàn đă được biểu lộ lúc tiến hóa đă không đạt nó được là do sự yếu đuối và sự non dại của con người.

        Để có thể thu thập được kết quả đó trong thời gian của nhiều thế kỷ, người ta dạy con người “Con đường hành động” (Karma yoga). Đó là pháp môn tu luyện để hợp nhất với Thượng Đế bằng sự hành động. Đó là phép tu thích hợp với những người sống giữa chốn phồn hoa đô hội, bị những hoạt động của đời sống vây khốn, ám ảnh, khuấy nhiễu, nhưng mà chính là nhờ những hoạt động này đào tạo và huấn luyện, mà con người có thể bước những bước đầu tiên dắt họ đến sự “hợp nhất”. Và v́ đó mà “Con đường hành động” được quy định để huấn luyện con người.

        Xin quư huynh chú ư đến sự liên kết của những chữ “hành động” và “hợp nhất”, sự hành động thực hiện lấy ảo tưởng làm kết quả, và sự hành động được hướng dẫn để phát sinh sự hợp nhất. Chúng ta phải nhớ rằng chính là những hoạt động của chúng ta nó chia rẽ chúng ta, nó ngăn cách chúng ta; chính là sự hoạt động thiên h́nh vạn trạng và luôn luôn biến chuyển nầy nó lôi cuốn chúng ta và làm cho chúng ta bị cô lập. Vậy nói về sự hợp nhất, do sự hành động, nói về sự hợp nhất nhờ cái điều đă sinh ra sự chia rẽ th́ h́nh như mâu thuẫn. Nhưng sự Minh Triết của các Chơn Sư xứng đáng với nhiệm vụ cao cả của các Ngài, cái nhiệm vụ dung ḥa, giải lư điều mâu thuẫn bề ngoài nầy. Chúng ta hăy chú ư theo lời giải và xem coi nó ra thế nào.

        Dưới ảnh hưởng của ba năng lực của tạo hóa, những “gunas”, những trạng thái của sự vật(1)[ii] con người sớn sác chạy khắp mọi phía: Chơn nhơn giam ḿnh trong xác thịt bị những trạng thái ấy chi phối. Những năng lực này làm việc, chúng nó hoạt động và tạo thành Vũ trụ hữu h́nh, và con người tự đồng hóa với những hoạt động ấy. Y tưởng y hành động, trong khi thật ra chính những năng lực ấy hoạt động. Y tưởng y mắc bận việc, trong khi thật ra chính những năng lực ấy tạo ra những kết quả. Sống giữa chúng, bị chúng làm cho mù quáng, phải chịu phục tùng những ảo ảnh của chúng tạo ra, con người hoàn toàn mất sự tự hiểu biết và bị lôi kéo phía bên nầy, phía bên kia, bị thúc đẩy đi nơi này, đi nơi nọ, bị những triều lưu lôi cuốn đi, v́ thế cho nên tất cả những điều mà con người thấy trong đời sống chỉ là những sự hoạt động của ba trạng thái của sự vật mà thôi. Lẽ cố nhiên, trong những trường hợp ấy, y không thể thực hành những giai đoạn cao siêu của phép Yoga, lẽ cố nhiên khi mà những ảo tưởng này chưa được tiêu tan đi, ít nhất là một phần, th́ những mức cao nhất của con đường Đạo hăy c̣n xa vời đối với y. Y phải bắt đầu hiểu ba trạng thái của sự vật, phải tự ly khai ra khỏi những hoạt động đó của thế giới hữu h́nh. Và những kinh sách của pháp môn Yoga này- v́ chúng ta có thể dùng danh từ đó- những kinh sách của con đường hành động này, đó là những điều đă được Đức Krishna công bố trên chiến trường Kurukshetra, khi Ngài dạy pháp môn ấy cho hoàng tử Arjuna, một chiến sĩ, một người phải sống trong xă hội, phải chiến đấu trong trường đời, phải cai trị quốc gia, và phải dự phần vào mọi hoạt động bên ngoài; chính ở đó là bài học ngàn đời cho những ai sống trong thế gian này, bài học dạy họ tuần tự vượt lên cao khỏi tầm những trạng thái của sự vật (gunas), và như thế để đi đến sự hợp nhất với Thượng Đế.

        Trước hết, “Con đường hành động” này làm cho những tác động kể trên được thuần lại và có quy thức. Như các bạn đă biết, có ba trạng thái của sự vật là: Động (Rajas), Tĩnh(Tamas) và Thăng bằng(Sattva). Do ba trạng thái này mà mọi vật xung quanh chúng ta được xây dựng, kết hợp, ḥa hợp muôn ngàn cách. Trạng thái này tác động nơi đây, trạng thái kia làm việc ở mọi hướng. Phải ngự trị chúng, phải bắt buộc chúng giữ cho được quân b́nh. Chơn nhơn nhập thế, người chủ của xác thân, phải là chủ nhân có uy quyền và phải lập một sự phân biệt giữa y và những trạng thái của sự vật, những “gunas”. Cái việc phải làm là tự giảng giải những nhiệm vụ của chúng, kiểm soát và hướng dẫn những hoạt động của chúng. Ta không thể đương nhiên vượt khỏi tầm của chúng hay làm trái ư chúng- cũng như một trẻ nít không thể làm công việc của người lớn. Trong cái trạng thái tiến hóa chưa hoàn

toàn này, nhân loại có thể đạt đến chỗ tuyệt đích của pháp môn Yoga được không? Không, v́ nếu con người ráng tập thử th́ thiệt là không khôn ngoan th́ không những em nhỏ làm không nổi mà, trong khi thử làm, em sẽ vượt cái mức của sức em, và điều này sẽ đưa đến sự thất bại, trong tương lai cũng như hiện tại, v́ cái nhiệm vụ quá nặng nề đối với sức lực của em sẽ làm cho sức lực ấy kém suy và ṃn mỏi. Trước khi có thể thành công, người ta phải tập rèn sức của ḿnh đă, cũng như con nít phải đến tuổi trưởng thành trước khi có thể làm một công việc của người lớn.

                                           TAMAS

        Ta hăy xem xét trong chốc lát cái nhiệm vụ của trạng thái Tĩnh (Tamas) mà người ta dịch bằng những danh từ: tối tăm, biếng nhác, bất động, trễ năi v.v… Nếu người ta dùng trạng thái này để giúp sự tiến hóa của nhơn loại, thí nó có thể làm cái nhiệm vụ nào? Về phương diện phát triển con người và giải thoát linh hồn th́ trạng thái Tĩnh này có ích lợi ǵ? Trong con Đường Hành Động, trạng thái nầy chỉ được dùng như là một sức mạnh mà người ta phải đương đầu và phải thắng nó, để phát triển sức lực trong sự đấu tranh, để làm nảy nở sức mạnh của ư chí trong sự cố gắng nầy, tập lấy sự tự chủ và kềm chế bản thân. Người ta có thể nói rằng trạng thái nầy có ích cho sự tiến hóa của con người, cũng như những quả tạ trong sự tập dượt của người lực sĩ. Người nầy sẽ không thể làm tăng sức bắp thịt của ḿnh nếu không có dụng cụ để luyện tập. Y sẽ không có những bắp thịt mạnh mẽ nếu chúng không cứng rắn lại trong khi cố gắng đễ nhấc bổng những quả tạ. Cái quan hệ không phải là sức nặng của những quả tạ mà là việc sử dụng những quả tạ ấy, và nếu một người muốn cho những bắp thịt của thân thể y, như những bắp thịt của cánh tay chẳng hạn, trở nên thiệt mạnh, cái điều tốt nhất mà y có thể làm, là lấy một quả tạ và luyện tập hằng ngày để chống lại với cái sức mạnh kháng cự. Do cách đó, mà trạng thái Tĩnh, nghĩa là sự trễ năi hay sự tối tăm, có nhiệm vụ trong sự tiến hóa của con người. Y phải thắng trạng thái nầy và phát triển sức lực của ḿnh trong khi chiến đấu, những bắp thịt của tâm hồn sẽ mạnh khi y làm chủ được tánh trễ năi, tánh lười biếng, tánh lănh đạm, nghĩa là những tánh của trạng thái Tĩnh có sẵn trong bản chất y.

        Quư huynh sẽ nhận thấy rằng những lễ bái nghi thức của tôn giáo được đặt ra là để ngự trị những tính chất của trạng thái Tĩnh đó, ít nhất một phần nào, mục đích của chúng là giúp cho con người thắng sự chậm chạp, sự lười biếng và sự uể oải thuộc bản thể thấp thỏi của y, và để cho y phải làm một vài bổn phận trong một lúc nhất định, dù lúc đó y muốn làm hay không muốn làm, dù lúc đó y hoạt động hay lười biếng- tôi nói là để cho y đứng trước những bổn phận phải làm trong một lúc nhất định, nghĩa là luyện tập cho y chế ngự sự chậm chạp, sự khinh xuất hay là sự bướng bỉnh của cái bản thể thấp thỏi của y và bắt y theo con đường mà người ta đă muốn vạch sẵn cho y.

                                                 RAJAS

        Nhưng nếu chúng ta xét trạng thái Động (Rajas) th́ cũng thế. Quư huynh sẽ thấy rằng trong Con Đường Hành Động (Karma Yoga), những hoạt động của con người được hướng theo một vài nẻo nhất định mà tôi sắp theo dơi cùng với quư huynh để quư huynh có thể hiểu bằng cách nào những hoạt động ấy, luôn luôn được tác dụng trong thế giới hiện kim, nó tự biểu lộ trong mọi phương hướng, nó đưa đến sự vội vàng, sự chuyển động và sự luôn luôn cố gắng, dể được thành công trong đời sống thấp thỏi và thâu được những kết quả, những hiện tượng vật chất; bằng cách nào những hoạt động ấy được dần dần hướng dẫn, luyện tập, tinh luyện, cho đến khi chúng không có thể ngăn cản sự biểu lộ của Chơn linh nữa.

        Cái mục đích của Con Đường Hành Động (Karma Yoga) là lấy bổn phận thay thế cho sự sung sướng cá nhân. Con người hành động để thỏa măn những dục vọng thấp hèn của y; y hành động là v́ y muốn có một vật ǵ; y hành động để được lợi, để được một vật mà y muốn, để được một phần thưởng. Y làm việc v́ y muốn có tiền để t́m kiếm cho ḿnh những sự thích thú. Y làm việc v́ y ham muốn quyền tước, nó sẽ làm thỏa măn bản ngă thấp thỏi của y. Những hoạt động, những tánh chất “Động” ấy được vận chuyển để giúp những bản năng thấp hèn của y. Muốn khép những hoạt ấy vào kỷ luật và điều ḥa chúng nó, ngơ hầu được xử dụng cho những mục tiêu của Chơn Linh cao cả, th́ phải làm cho con người biết lấy bổn phận mà thay thế cho sự sung sướng riêng tư; làm việc v́ công việc là một trong những bổn phận của y, phải hoạt động giúp đời, v́ đó là nhiệm vụ của y, và để có thể làm cái điều mà Đức Krishna đă tuyên bố chính Ngài cũng đă làm. Ngài hành động không phải v́ Ngài có một vật ǵ cần phải kiếm ở cơi đời nầy hay ở cơi khác đâu, nhưng v́ nếu Ngài không hành động th́ thế giới sẽ tận diệt, v́ nếu không có sự hành động của Ngài th́ bánh xe tạo hóa sẽ không quay nữa. Và những ai tu luyện theo phép Yoga đều phải hành động trong một tinh thần giống như Ngài, hành động cho toàn thể chớ không phải cho phần tử, hành đông để thực hiện Thiên Ư trong Vũ trụ chớ không phải để làm vui thích một cá nhân riêng biệt nó tự cho là độc lập, nhưng thật ra nó phải làm việc dưới Thiên Lệnh. Người ta sẽ đạt được mục đích ấy bằng cách nâng cao dần dần cái phạm vi hoạt động của ḿnh. Bổn phận phải thay thế cho sự sung sướng cá nhân, và những lễ nghi tôn giáo và những sự cúng kiến được đặt ra để dắt dẫn con người lần lần đến cái đời sống thật sự mà họ phải sống. Mọi sự hành lễ có tính cách tôn giáo chỉ là một phương tiện để dẫn con người đến đời sống thật sự, đời sống cao siêu.

        Một người bắt đầu tham thiền sáng sớm và khi mặt trời lặn, rồi sau cùng cả cuộc đời của y chỉ là một sự tham thiền dài vô tận. Y tham thiền trong một giờ để tự chuẩn bị tham thiền măi măi. Mọi hoạt động sáng tác đều là kết quả của sự tham thiền, và quư huynh sẽ không quên rằng tất cả những thế giới được tạo nên là do sự tham thiền vậy. Để con người có thể đạt được cái uy lực sáng tác cao cả ấy của sự tham thiền, để y có thể xử dụng cái sức mạnh thiêng liêng ấy, y phải được luyện tập nhờ những lễ nghi tôn giáo, nhờ sự tham thiền từng lúc. Sự tham thiền có giờ khắc là bước đầu tiên để đi đến sự tham thiền bất tuyệt; nó thu hút một phần của đời sống hằng ngày, với mục đích rốt ráo là thấm nhuần trọn kiếp sống, và người ta tham thiền hằng ngày để sự tham thiền có thể dần dần kéo dài suốt đời.

        Rồi tới một lúc kia, người hành giả (Yogi) không c̣n có th́ giờ nhất định để tham thiền nữa, v́ đời y chỉ là một sự tham thiền dài ḍng. Dù y làm một việc ǵ ở ngoại cảnh y cũng tham thiến, và luôn luôn y quỳ dưới chân Sư Phụ y, dù cho khối óc và xác thân y hoạt động trong thế giới loài người. Đối với những loại hoạt động khác cũng thế, con người thoạt đầu học làm một việc như một sự hy sinh cho bổn phận, một sự trả nợ đối với thế gian nơi đó y sống, như sự đền bù lại cho mọi phần tử của Tạo Hóa về những điều mà chúng nó đă chu cấp cho y. Rồi sau này, sự hy sinh vượt khỏi tính cách một sự trả nợ, để trở thành sự hiến dâng vui vẻ tất cả những ǵ mà con người có thể đem tặng. Sự hy sinh một phần, đó là món nợ được trang trải, sự hy sinh hoàn toàn, đó là sự hiến dâng tất cả. Một người tự hiến dâng tất cả những hoạt động của y, với tất cả những khả năng của y, không những chỉ bằng ḷng bỏ ra một phần cái ǵ thuộc về phần sở hữu của y, như người ta trả một món nợ, nhưng y nộp tất cả như người tiêu pha rộng răi. Khi người ta đi đến mức này, phép tu Yoga đă hoàn tất và bài học của Pháp Môn Hành Động (Karma Yoga) đă thuộc làu.

                                    NĂM SỰ HY SINH HẰNG NGÀY

        Quư huynh hăy coi “năm sự hy sinh hằng ngày” như là một bước dắt đến mục đích nói trên; ít ra danh từ của năm sự hy sinh này đă quen thuộc đối với quư huynh và quư huynh đă nhận định được lư do của mỗi sự hy sinh. Mỗi sự hy sinh là một cách trả nợ, ấy là sự biết ơn của con người, với tư cách cá nhân, v́ con người c̣n mắc nợ của toàn thể trong hoàn cảnh mà y đang sống. Và nếu quư huynh phân tách riêng những sự hy sinh này ra, dù có phân tách rất nhanh chóng, quư huynh sẽ thấy rơ ràng mỗi sự hy sinh là một sự trả nợ thật sự.

   1.-SỰ CÚNG TẾ CÁC ĐẤNG THẦN MINH.Chúng ta hăy nói về sự hy sinh đầu tiên: “Sự cúng tế các đấng Thần Minh”. Tại sao có sự cúng tế này? V́ con người phải hiểu biết rằng y mắc nợ thế gian và những vị Thần Linh chỉ huy những tác động trong thiên nhiên nhờ đó quả Địa Cầu mới có cây trái và cho con người thực phẩm. Con người đă lấy được để ăn, để nuôi sống xác thân, th́ muốn trả nợ, con người phải hoàn lại cho Tạo Hóa một cái ǵ tương đương với thứ đă được chu cấp cho y, nhờ sự hợp tác của những Thần Linh trong vũ trụ, những vị Thiên Thần d́u dắt những động lực của Hạ Giới. Người ta đă dạy con người rằng y phải rải rác món đồ hy sinh của y trong lửa.Tại sao? Câu trả lời để giải đáp là: “Agni, Hỏa Đức Tinh Quân, là miệng của những Thần Linh”, và mọi người lập lại câu nói đó mà không t́m hiểu cài nghĩa của nó, không t́m cách vượt khỏi cái danh từ Thiên Thần để có thể hiểu nhiệm vụ của Ngài trong thế gian. Nghĩa thiệt của câu này là chung quanh ta, khắp mọi nơi, đều có những cộng sự viên có ư thức và tiềm thức của Tạo Hóa, sắp lại thành những hệ thống, với một vị Đại Thiên Thần của Vũ Trụ cầm đầu mỗi hệ thống ấy. Như thế, dưới quyền của vị Thiên Thần cai trị lửa, không khí, nước và đất (bốn chất Địa, Thủy, Hỏa, Phong) có vô số những vị Thần nhỏ có những nhiệm vụ hoạt động khác nhau để phát động những mănh lực thiên nhiên của Vũ Trụ, như mưa gió, những khả năng sinh sản ra cây trái của đất và các thứ ảnh hưởng làm cho đất đai ph́ nhiêu. Vậy cái hy sinh mà chúng ta nói đây có mục đích nuôi những nhân viên thấp thỏi ấy, cung cấp đồ ăn cho họ qua ngọn lửa và lửa được gọi là “miệng của những Thần Linh”, v́ nó làm tan ră, v́ nó biến đổi những chất đặc và lỏng ném vào đó ra chất hơi và những chất nhẹ hơn, cuối cùng, những chất này thành ra dĩ thái, và dưới h́nh thức ấy, để dùng làm thực phẩm cho những tinh linh thấp thỏi (âm binh)(1)[iii] chúng nó thi hành những mệnh lệnh của những Thiên Thần. Con người trả nợ Thần Linh như thế đó, và để đền đáp lại mưa rơi xuống những miền ở dưới lớp không khí bao bọc trái đất, trái đất mới sinh cây trái và con người mới có đồ ăn. Đó là điều mà Đức Krisna muốn nói, khi Ngài dạy con người rằng: “Ngươi hăy nuôi những Thần Linh th́ những Thần Linh sẽ nuôi lại ngươi”. Đó là cái sự tuần hườn hạ cấp của sự nuôi dưỡng mà con người phải học cho biết. Thoạt đầu, y coi điều đó như là một giáo lư, rồi đến một lúc kia y coi đó như là một sự mê tín dị đoan, khi y chưa hiểu những nguyên do thật sự v́ y chỉ mới thấy bề ngoài. Về sau mới hiểu biết một cách sâu xa hơn, khi mà khoa học, trước kia hướng về phần duy vật rồi dần dần, nhờ một sự nghiên cứu thâm sâu hơn, mà đi đến sự hiểu biết vế địa hạt tinh thần. Khoa học khởi sự giải nghĩa bằng những danh từ khoa học để diễn tả những điều mà các Thánh Sư đă thuyết bằng những danh từ thần bí, điều đó có nghĩa là con người có thể hướng dẫn và điều ḥa sự tác động của những mănh lực hạ cấp thiên nhiên bằng những hành vi của y. Như vậy khoa học tân tiến đang cho những giáo lư cổ truyền là hữu lư và chứng minh cho trí khôn thấy cái điều mà người phi phàm trông thấy bằng trực giác, bằng nhăn quang siêu linh.

   2.-Sự thờ phụng tổ tiên. Rồi đến sự thờ phụng tổ tiên. Ấy là sự biết ơn những bậc tiền bối trên thế gian; ấy là sự trả nợ cho thế gian; ấy là sự trả nợ cho những ai đă làm việc trên thế gian trước khi con người sinh ra; ấy là ḷng biết ơn và sự tôn kính dành cho những bậc tiền bối đă góp phần tạo nên thế giới hiện kim cho chúng ta và đă đem vào đó những sự cải thiện mà chúng ta thừa hưởng. Công ấy là một món nợ ân nghĩa mà ta phải mang, đối với những vị đă đến trước chúng ta trong trường tiến hóa của nhân loại; các Ngài đă dự một phần vào sự tiến hóa này trong lúc Ngài c̣n sống trên thế gian, và đă để lại cho chúng ta cái kết quả những công việc của các Ngài đă thi hành. V́ chúng ta hái cái quả của những việc các Ngài đă làm, nên chúng ta trả nợ bằng cách bày tỏ ḷng biết ơn đối với các Ngài. V́ vậy mà một trong những sự hiến dâng hằng ngày là sự nhận biết món nợ ân nghĩa mà chúng ta c̣n thiếu của những người đă khuất bóng.

   3.-Sự hiến dâng kiến thức. Dĩ nhiên, kế đó là “sự hiến dâng kiến thức” “sự hiến dâng sự học hỏi”, để mà nhờ sự nghiên cứu những Thánh Kinh mà con người có thể: một là, giúp đỡ và huấn luyện những kẻ ngu dốt hơn ḿnh và hai là, làm cho họ phát triển cái sự hiểu biết cần thiết cho sự biểu lộ của Phàm nhơn.

   4.-Sự hy sinh cho nhân loại. Thứ tư là “sự hy sinh cho nhân loại”, sự làm tṛn nhiệm vụ của ḿnh đối với nhân loại, sự nuôi sống một người nào đó để tuyên bố rằng mọi người phải giúp đỡ lẫn nhau, thân thiện cùng nhau về đủ mọi mặt ở cơi đời vật chất, phải cưu mang nhau như anh em ruột thịt. Sự hy sinh cho nhân loại là sự nhận biết hẳn ḥi về nhiệm vụ nầy, và khi nuôi những kẻ đói, khi thiết đăi những kẻ cần được nuôi nấng, dẫu rằng quư huynh chỉ nuôi có một người, thật ra, về phương diện lư tưởng, và do theo ư tốt của quư huynh, chính quư huynh đă nuôi tất cả nhân loại vậy. Khi huynh cho một người đi qua cửa thức ăn và chỗ ở, th́ huynh mở cửa ḷng huynh cho tất cả nhân loại như là một đại thể; khi huynh giúp đỡ và cho một người trú ngụ th́ huynh đă giúp đỡ và cho tất cả nhân loại trú ngụ vậy.

   5.- Sự nuôi dưỡng loài vật. Đối với sự hiến dâng cuối cùng, sự nuôi dưỡng loài vật th́ cũng thế. Người chủ gia đ́nh phải để đồ ăn dưới đất, đặng cho bất cứ con vật nào đi qua cũng có thể ăn được. Đó là bổn phận của huynh đối với loài vật thấp kém, v́ huynh phải giúp đỡ, nuôi nấng và dạy dỗ chúng. Sự nuôi dưỡng loài vật có mục đích in vào trí nhớ chúng ta rằng chúng ta xuống thế gian này để dạy bảo, hướng dẫn và giúp đỡ những sinh vật thấp kém, nghĩa là tất cả những loài nào c̣n thấp kém hơn chúng ta trên nấc thang tiến hóa. Mỗi khi chúng ta phạm lỗi, hung bạo, cộc cằn, ác độc, với loài vật,  thiệt ra chúng ta có lỗi đối với Đấng ngự trong ḿnh chúng, bởi v́ chúng là những biểu lộ thấp thỏi của Ngài. Con người phải nuôi dưỡng cho loài vật, không phải nuôi dưỡng cho cái h́nh thể bề ngoài, mà cho Thượng Đế ẩn tàng bên trong, để tập phân biệt được cái ǵ tốt lành ở nơi loài vật, để y có thể hiểu rằng Đức Krishna ngự nơi súc vật thấp thỏi, mặc dầu Ngài ngự nơi đó dưới một h́nh thức được che kín hơn là ở con người. cái cách duy nhất để chúng ta nuôi dưỡng cho loài vật là cư xử với chúng cho tử tế, dịu dàng và từ ái, dạy dỗ chúng, giúp chúng tiến hóa thay v́ xô đuổi chúng một cách tàn bạo, ác độc như chúng ta thường trông thấy xung quanh.

        Như thế, con người nhờ những lễ nghi cúng kiếng bề ngoài, mà học được những chân lư thiêng liêng để chúng nó thấm nhuần đời y. Và sau khi đă làm đầy đủ năm sự hiến dâng, con người phải đi vào trong xă hội loài người để hiến dâng nữa những hành động thuộc một loại khác, để hiến dâng bằng cách làm đầy đủ bổn phận hằng ngày. Và mỗi ngày của y bắt đầu bằng năm sự hiến dâng, được Thánh hóa và trôi qua trong đời sống ngoại cảnh của xă hội. Trong đời sống ngoại cảnh nầy, sự cẩu thả không lo tṛn nhiệm vụ đă tăng lên cúng một lúc với sự hững hờ đối với năm sự hiến dâng này. Không phải chính sự hiến dâng đó là cần thiết, v́ tới một lúc kia, con người sẽ vượt khỏi chúng nó; nhưng quư huynh hăy nhớ điều này: con người chỉ vượt khỏi năm sự hiến dâng này khi nào tất cả cuộc đời y đă biến thành một sự hiến dâng trường kỳ. Từ đây cho đến lúc đó, sự nhận thức rơ ràng về những bổn phận của y là cần thiết để y có thể làm cho đời sống của ḿnh cao thượng hơn. Nhưng đáng thương thay, tại Ấn Độ bây giờ, người ta rất ít quan tâm đến những sự hiến dâng này, không phải v́ người ta đă vượt khỏi chúng nó, cũng không phải v́ đời sống của người ta đă khá trong sạch, thiêng liêng và cao thượng để họ không c̣n cần đến sự giáo dục sơ cấp và sự nhắc nhở luôn luôn, nhưng là bởi v́ người ta đă bơ thờ, duy vật và đă xuống thấp hơn cái lư tưởng của Đức Bàn Cổ đă dạy họ. Họ từ chối, không công nhận những món nợ mà họ c̣n thiếu đối với những thần lực cao hơn họ, và v́ vậy, họ không làm những bổn phận của họ đối với những người xung quanh.

        Bây giờ, chúng ta hăy xem xét đời sống ngoại cảnh hằng ngày hay là bổn phận của con người trong xă hội. Dù y là người thế nào, y cũng sinh trưởng trong một gia đ́nh riêng biệt; điều nầy tạo nên những bổn phận của y đối với gia đ́nh. Y thuộc về một nhóm trong xă hội: do đó y có những bổn phận đối với xă hội. y là một phần tử của một quốc gia: điều nầy buộc y có những bổn phận đối với quốc gia. Giới hạn những bổn phận của mỗi người được ấn định bởi hoàn cảnh nơi đó y đă ra chào đời, hoàn cảnh nầy do Định Luật, do sự thúc đẩy của nghiệp quả đối với mỗi người mà thành một cái trường hoạt động, một cái sân để luyện tập, trong đó y phải học hỏi. Ví vậy người ta mới nói rằng: mỗi người phải làm đầy đủ bổn phận của chính ḿnh, dù một cách chưa hoàn toàn đi nữa cũng c̣n hơn là kiếm cách làm một nhiệm vụ cao cả của kẻ khác, bởi v́ cái nhiệm vụ do giai cấp của huynh ấn định chính là điều mà huynh cần đến, và đó là cái trường hoạt động tốt nhất của huynh.

        Huynh hăy làm bổn phận ḿnh mà không âu lo đến những kết quả, và huynh sẽ học được bài học của đời sống, huynh sẽ đi vào con Đường Đạo. Lúc thoạt đầu, mỗi hành động dĩ nhiên sẽ thực hiện để có kết quả. Con người hành động v́ muốn hưởng một sự ban thưởng. Điều nầy làm cho huynh hiểu những lời giáo huấn đầu tiên mà con người đă nhận được, khi người ta đă dạy y hành động với mục đích thâu những kết quả ở cơi Thiên Đường. Sự phát triển của con người ấu trĩ được thực hiện bằng sự hứa hẹn ban thưởng xứng đáng. Người ta chỉ cho y Thiên Đường là cơi phải đạt được do việc làm; khi làm đầy đủ bổn phận về tôn giáo, con người sẽ được ban thưởng ở cơi Thiên Đường. Theo cách đó, y dần dần thực hành đạo đức, giống hệt như huynh d́u dắt một đứa trẻ nít học bài bằng cách hứa cho em một sự ban thưởng. Nhưng nếu ta muốn lấy Đạo (Yoga) làm mục đích, chứ không phải một phần thưởng nào cả th́ ta phải hành động như khi ta thực hiện một bổn phận.

        Quư huynh hăy thử xét qua bốn giai cấp lớn(1)[iv] và nhận định cái mục đích mà người ta đă nhắm khi lập ra những giai cấp ấy.

   I.-Người Bà la môn. Người bà la môn có bổn phận dạy dỗ, làm những bậc thấy sáng suốt để d́u dắt sự tiến hóa của ṇi giống. Y không được học hỏi để kiếm tiền, để có quyền thế, để thâu thập bất cứ một cái ǵ cho bản thân y; y phải học hỏi để làm đầy đủ nhiệm vụ ḿnh,y phải có sự hiểu biết để có thể truyền nó lại cho kẻ khác. Như vậy, một quốc gia được thành lập một cách hoàn hảo luôn luôn phải có những bậc thầy để dạy bảo, những bậc thầy để có thể hướng dẫn, khuyên răn và không bao giờ đuổi theo một mục đích ích kỷ. Theo cách đó, ông Thầy không được kiếm chác cho riêng ḿnh, nhưng phải làm điều lợi lộc cho toàn dân, và hành động như vậy, ông làm đầy đủ cái thiên chức của ḿnh và linh hồn được giải thoát.

   II.-Người chiến sĩ. (Kshattriya: Sài-đế-lị). Rồi đến con Đường Đạo dành cho con người đầy hoạt động, có bổn phận cai trị và ǵn giữ trật tự, con Đường Đạo dành cho giai cấp thống trị, giai cấp các chiến sĩ(Sài-đế-lị). Người chiến sĩ(Kshattriya) phải cai trị. Tại sao vậy? Không phải để làm thỏa măn ḷng khao khát uy quyền của ḿnh, nhưng để thực hiện sự công bằng, để cho kẻ nghèo được an toàn và để kẻ giàu không được áp chế, bạo ngược, để làm nổi bật sự chân chánh và công b́nh trong cơi thế gian đấy những sự tranh đấu không ngừng này. Và như vậy,  là v́ ở chính giữa cơi đời đấy những sự chiến đấu, những sự căm hờn, những sự tranh chấp này, nơi đó con người t́m cách thỏa măn ḷng ích kỷ của họ thay v́ theo đuổi quyền lợi công, phải dạy cho họ biết rằng sự công b́nh phải được thực hiện; nếu người khỏe mạnh lạm dụng sức mạnh của ḿnh, th́ chánh quyền vô tư sẽ đàn áp sự lạm dụng bất chánh ấy, và kẻ yếu đuối không thể bị chà đạp, đè nén. Và bổn phận của ông Vua là ban rải sự công b́nh cho mọi người để họ có thể coi ngôi báu như là nguồn cội của sự công b́nh thiêng liêng. Đó là lư tưởng của vị Thánh Đế, của vị Đế Vương thay Trời trị dân. Đức Rama  đă giáng trần để dạy lư tưởng nầy. Đức Krishna cũng đă giáng trần để dạy lư tưởng nầy, nhưng con người mê muội tối tăm đến đỗi không muốn học bài học đó. Người chiến sĩ (Sài-đế-lị)l ại dùng uy quyền ḿnh để tự làm thỏa măn dục vọng và để đàn áp kẻ khác. Y chiếm đoạt của cải của người ta và bắt người ta phải làm việc cho y. Y đă quên mất cái lư tưởng của vị Vua thay Trời trị dân, lư tưởng này hiện thân của sự công b́nh trên thế gian đầy những sự tranh đấu giữa loài người. Nhưng cái lư do duy nhất của đời sống y là lấy sự thực hiện cái lư tưởng này làm mục đích trọn một kiếp của ḿnh, và v́ vậy bổn phận của y là cai trị đất nước làm sao được lợi lộc cho cả xứ sở, chớ không phải để có lợi riêng cho ḿnh. Khi y được gọi đi làm nhiệm vụ một quân nhân, th́ cũng thế. Dân chúng phải có thể làm ăn trong cảnh thái b́nh. Những người nghèo khổ và hiền lương phải có thể sống trong sự an ninh, giữa gia đ́nh sung sướng và đông đúc của họ. Người thương gia phải có thể yên tâm mà lo việc buôn bán. Mọi công việc của thế gian nầy phải được thực hiện mà không phải lo sợ về những sự tấn công, cướp bóc. V́ vậy, người ta dạy người chiến sĩ rằng khi y phải chiến đấu th́ đó là nhân danh người bảo vệ cho những kẻ yếu đuối; nếu y tự do hy sinh đời sống của ḿnh th́ đó là để cho những kẻ yếu đuối có thể sống an ổn.Y không được chiến đấu v́ muốn có tiền, cũng không được chiến đấu để chiếm đoạt đất đai. Y không được chiến đấu v́ ham quyền tước hay là ham ngôi báu. Nhiệm vụ của y là làm một bức tường thành cứng như thép xung quanh guốc gia để cho mọi sự tấn công đều tan vỡ khi chạm vào thân thể y, và để cho ở phía trong cái ṿng tṛn mà y đă vẽ, người ta có thể sống sung sướng trong cảnh thái b́nh và an lạc. Muốn đi con Đường Đạo, th́ trong khi làm cái nhiệm vụ chiến sĩ, y phải tự coi ḿnh như là nhân viên của Thượng Đế và v́ thế mà Đức Krishna đă dạy rằng Ngài đă làm tất cả những điều đó và Arjuna chỉ lập lại cái hành động ấy trong thế giới loài người mà thôi. Và mỗi khi người ta t́m thấy Thượng Đế trong mỗi hành động của con người th́ con người có thể hành động như làm bổn phận thôi, không mong mỏi cái ǵ khác, và những hành động của y không c̣n có thể ràng buộc y được nữa.

  III.-NGƯỜI THƯƠNG GIA (Vaishya: Tỉ xá). Đối với người thương gia (Vaishya: Tỉ xá) có nhiệm vụ thu góp, chất chứa những của cải th́ cũng thế. Y làm việc này không phải để thỏa thích sự thỏa măn riêng của ḿnh, mà để nuôi dưỡng quốc gia. Y phải giàu có để mọi ngành hoạt động cần đến của cải th́ có liền tay, và để có thể phát triển về đủ mọi phương diện, để có khắp mọi nơi những chỗ ở cho kẻ nghèo nàn, những nhà nghỉ chân cho khách lữ hành, những bệnh viện cho con người cũng như cho loài vật, những đền miếu để thờ phụng và sau cùng, để có khắp nơi những tiền của cần thiết để tiêu dùng về những hoạt động của một quốc gia hoàn hảo. Cái nghiệp của y là thu góp những của cải trong sự ích lợi chung, chớ không phải để thỏa ḷng riêng tư của ḿnh. Theo cách đó, y cũng có thể đi trên con Đường Đạo, và do con Đường Hành Động, y tự chuẩn bị sống một cuộc đời cao siêu.

   IV.- Người tôi tớ. (Shudra: Su-Tra). Đối với người tôi tớ phải làm đầy đủ nhiệm vụ ḿnh cho sự ích lợi công cộng th́ cũng thế. Y có thể ví như bàn tay của quốc gia, mang đến cho sứ xở điều ǵ cần thiết và làm những công việc gia sự. Đạo của y, nếu y thực hành nó, là phải vui vẻ làm bổn phận ḿnh, bổn phận mà y phải làm, chớ không phải để được ban thưởng xứng đáng với công việc đă làm.

        Thoạt đầu, con người chỉ hành động để tự thỏa măn ư thích riêng tư, và kinh nghiệm của y chỉ đem đến sự tiến bộ; về sau y tập hành động v́ bổn phận, và bắt đầu hành đạo trong đời sống hằng ngày; sau cùng y hành động v́ tinh thần hy sinh vui vẻ, không đ̣i hỏi sự ǵ bù đắp lại, mà trái lại c̣n đem hết sức lực của ḿnh để làm đấy đủ nhiệm vụ. Sự Hợp Nhất với Thượng Đế được thực hiện theo cách đó.

        Chúng ta hiểu nghĩa chữ “tinh luyện”; khi chúng ta xem xét những giai đoạn nối tiếp của sự sung sướng cá nhân, của việc làm bổn phận v́ bổn phận, và sau cùng sự hiến dâng trọn vẹn tất cả những ǵ ta có, dưới h́nh thức của sự tự ư hy sinh. Đó là những giai đoạn mà người ta phải trải qua trên con đường tinh luyện. Nhưng bằng cách nào để đạt được một thứ tinh luyện nó dắt ta đến những mức độ cao siêu, nó ban cho ta cái địa vị đệ tử mà tất cả những hoạt động của thế gian nầy phải dùng để đào luyện. con người phải được tinh luyện toàn diện, về thể chất cũng như về trí thức. Tôi không có th́ giờ nhấn mạnh về sự tinh luyện xác thân, nhưng tôi cần nhắc quư huynh nhớ lại nhựng giáo lư của kinh “Thánh Sư Ca” (Bhagavad gita). Những giáo lư đó nói rằng người ta có thể đi đến sự tinh luyện ấy bằng sự điều độ ở mọi sự, chớ không phải bởi một sự khổ hạnh nó hành hạ xác thân và hành hạ cả Thượng Đế ngự nơi đó, như Đức Krishna đă nói. Con Đường Đạo được thực hiện bằng cách kiểm soát bản thân một cách điều ḥa, bằng cách chế ngự những dục vọng thấp hèn của ḿnh, bằng sự lựa chọn một cách điềm tĩnh thức ăn tinh khiết, bằng sự luyện tập có chừng mực tất cả những hoạt động về thể xác để có thể huấn luyện một cách điều ḥa và giữ cho có chừng mực những cơ năng của cả thân thể, cho đến khi người ta có thể đặt xác thân dưới sự kiểm soát của Ư Chí và Chơn Linh. V́ vậy cho nên đời sống gia đ́nh được ấn định, v́ trừ một vài trường hợp hiếm có, con người chưa có thể theo con đường độc thân khó khăn. Sự độc thân của người Bà la môn giáo (Brahmacharya), không phải là dành để cho tất cả mọi người. Do đời sống gia đ́nh, con người tập cho ḷng dục của ḿnh có điều độ, chớ không phải là tuyệt dục- một sự mà đa số người ta không thể thực hành được, và nếu người ta cứ thử cố gắng trừ tuyệt nó bằng một sự quyết chí khinh suất, th́ việc ấy sẽ gây ra một phản động lực xô đẩy kẻ dại dột vào hố trụy lạc và sống một đời cuồng loạn- Vậy th́ không phải cố gắng để nhổ tận gốc rễ hay trừ tuyệt sự ái ân một lần một, mà là cố gắng tập luyện dần dần cho có điều độ bằng cách từ bỏ những thú vui trong ḷng,nơi đó những dục vọng thấp hèn phải được tiết chế và có thói quen để cho những bản năng cao siêu điều khiển. Chúng nó phải từ bỏ cách hoạt động cuồng loạn để rồi hoàn toàn phục ṭng Đấng Duy Nhất. Con Đường Hành Động này khởi đầu như sau đây: Người chủ gia đ́nh phải dần dần học cách tự kiểm soát, bằng cách giữ cho có chừng mực trong mọi việc, y đem để những dục vọng thấp hèn của ḿnh ở dưới quyền sai khiến của những bản năng cao siêu, và tự rèn luyện như vậy hằng ngày cho đến khi những bản năng ấy hoàn toàn tuân theo mạng lệnh của ư chí. Như vậy y tự tinh luyện xác thân và có thể tiến lên những mức cao siêu của con Đường Đạo. Rồi y lại phải hoàn toàn tinh luyện những dục vọng thấp hèn của y.

                                   1.- SỰ NÓNG GIẬN

        Chúng ta hăy lấy vài thí dụ- Tôi muốn cho quư huynh ba thí dụ để quư huynh có thể áp dụng chúng trong đời sống. Chúng ta hăy thí dụ tật hay giận dữ và thử xem xét tánh này có thể biến đổi cách nào trên Con Đường Hành Động để trở thành một tánh tốt. Sự giận dữ là một sức mạnh, một sức mạnh tuôn ra tự con người để sinh ra những ảnh hưởng xung quanh nó. Ở con người kém mở mang và ít luyện tập sự tức giận này là cuồng tính. Nó lấy nhiều h́nh thức khác nhau làm đổ vỡ những ǵ chống đối với nó, và rất ít lo đến những phương tiện mà nó sử dụng, nó chỉ cốt xua đuổi tất cả những ǵ chống đối với sự thỏa măn ư muốn của nó. Ở trong trạng thái này, cái sức mạnh thiên nhiên đó có tính cách vô trật tự và tàn phá, và ai muốn đi theo Con Đường Hành Động chắc chắn là phải chinh phục nó. Vậy y phải chinh phục và huấn luyện sự giận dữ này bằng cách nào? Thoạt đầu y phải loại ra mọi yếu tố cá nhân. Khi y bị nhục mạ, hay phải chịu một sự thiệt hại cá nhân, th́ y tập không cảm thấy sự nhục mạ hay sự thiệt hại đó. Ấy là cái điều mà đa số quư huynh phải làm. Nếu một người nào cư xử không phải hay bất công với huynh, th́ huynh sẽ làm ǵ? Có thể huynh tự để cho sự tức giận lôi cuốn ḿnh và đánh người ấy. Một người đă lường gạt huynh ư? Để trả thù, huynh t́m cách làm cho y bị thiệt hại và sẽ lợi dụng y. Y phản bội huynh ư? Huynh cũng sẽ tấn công y ở phía sau và t́m cách làm hại y. Theo cách ấy, sự giận dữ sinh ra những sự tai hại, và ở mọi phía, người ta chỉ trông thấy sự tàn phá trong xă hội loài người, chớ đáng lẽ ra xă hội phải tốt đẹp nhiều hơn nữa. Phải tinh luyện tật xấu này bằng cách nào? Tất cả các Vị Đại Sư đă trả lời câu hỏi nầy khi các Ngài dạy Con Đường Hành Động; các Ngài đă chỉ bảo bằng cách nào những hành động thực hiện trong thế giới loài người có thể phụng sự Thiên Ư. Huynh hăy nhớ rằng sự tha thứ khi bị nhục  mạ là một trong mười bổn phận mà Luật của Đức Bàn Cổ bắt buộc chúng ta phải theo(1).[v] Huynh hăy nhớ đến lời nói của Đức Phật khi Ngài dạy: “Lấy ân đáp oán cái oán mới tiêu. Lấy oán đáp oán cái oán không dứt”. Huynh cũng nhớ rằng Đức Gia Tô cũng lấy cảm hứng ở tư tưởng ấy khi Ngài nói: “Các con đừng để cho điều ác làm chủ ḿnh, nhưng các con hăy lấy điều thiện mà thắng phục điều ác”. Đó là Con Đường Hành Động. Huynh hăy tha thứ khi bị nhục mạ, hăy mang t́nh thương yêu mà đáp lại oán thù, hăy ngự trị điều ác bằng điều thiện. Bằng cách đó, huynh sẽ loại bỏ ra ngoài cái yếu tố cá nhân; huynh sẽ không giận dữ nữa khi người ta làm thiệt hại ḿnh; một khi huynh đă loại trừ cái yếu tố cá nhân đi rồi, th́ ở ḷng huynh, sự giận dữ không c̣n mang cái h́nh thức thấp thỏi ấy nữa. Nhưng một thứ giận dữ khác, có tính cách cao thượng hơn có thể c̣n sót lại. Huynh thấy người ta hành hạ một con vật và huynh bực tức đối với ai đă độc ác như vậy; huynh thấy người ta hà hiếp một kẻ đáng thương và huynh tức giận kẻ hà hiếp. Đó là sự tức giận vô tư kỷ, sự tức giận này cao thượng hơn sự tức giận v́ yếu tố cá nhân và là một giai đoạn cần thiết trong sự tiến hóa của nhân loại. Cảm thấy một sự tức giận dối với người làm ác, như vậy c̣n cao thượng hơn, tốt đẹp hơn một ngàn lần sự thản nhiên lạnh lùng viện cớ rằng sự đau khổ mà người ta phải chịu đựng không gợi ḷng thiện cảm của ḿnh. Sự tức giận vô tư kỷ này, với một tính cách cao thượng, thiệt là thanh cao hơn sự lănh đạm thờ ơ, nhưng đấy chưa phải là cái h́nh thức cao cả nhất của nó. Đến lượt nó phải được biến dổi thành một tâm tánh tự nhiên khiến cho huynh xử sự công b́nh đối với kẻ mạnh cũng như đối với kẻ yếu, khiến cho huynh phàn nàn giùm kẻ cường bạo cũng như kẻ bị hà hiếp làm huynh hiểu rằng kẻ cường bạo đă tự làm hại ḿnh, nhiều hơn là làm hại kẻ bị hà hiếp, khiến huynh thương giùm y cũng như thương giùm nạn nhân của y, nó làm cho huynh thương xót và đối xử công b́nh với kẻ áp chế lẫn kẻ bị áp chế.

        Người tinh luyện tật giận dữ đến mức đó đă diệt trừ được sự ác, v́ làm chấm dứt sự ác là bổn phận y, nhưng y c̣n từ bi đối với kẻ làm ác v́ kẻ này cũng cần được giúp đỡ và dạy đỡ. Như vậy một sự tức giận muốn trả thù một sự nhục mạ cá nhân trở thành một sự công b́nh nó chấm dứt mọi điều ác, nó che chở cả kẻ mạnh lẫn kẻ yếu. Đó là sự tinh luyện trong thế giới, của những hành vi, đó là những sự cố gắng hằng ngày nhờ đó mà cái bản tính thấp hèn được tinh luyện để cho sự Hợp Nhất có thể thực hiện được.

                                          2.-T̀NH YÊU

        Rồi chúng ta lấy t́nh yêu làm thí dụ. Thoạt đầu, ta thấy nó ở trong cái h́nh thức thấp thỏi nhất, thô kệch nhất, đó là dục vọng tầm thường theo thú tánh giữa hai giống, nam và nữ. Cái ḷng dục nầy không đếm xỉa ǵ đến tính nết của người được thương yêu, không kể ǵ đến cái vẻ đẹp trí thức và đức hạnh, nhưng chỉ tŕu mến vẻ đẹp của thể xác, chỉ nhớ tới sự hấp dẫn và thú vui xác thịt. Đó là ḷng dục dưới cái h́nh thức thấp thỏi nhất của nó. Người ta nghĩ đến ḿnh, và chỉ nghĩ đến ḿnh thôi.

        Người đi theo Con Đường Hành Động tinh luyện ḷng dục này. Y biến đổi nó thành ra thứ t́nh yêu thúc đẩy y tự hy sinh cho người yêu. Y làm đầy đủ bổn phận gia đ́nh, coi sóc vợ con, và làm đủ mọi việc mà y có thể làm cho vợ con y, bằng cách hy sinh sự vui thích riêng của ḿnh, hy sinh cả những lúc nhàn rỗi cùng sự thỏa măn riêng tư của ḿnh. Y làm việc để nâng cao t́nh trạng gia đ́nh để có thể tự y chu cấp cho gia đ́nh những thứ cần thiết. Ở ḷng y t́nh thương yêu không phải chỉ hạn định trong sự t́m kiếm thú vui riêng tư, nhưng là sự cố gắng giúp đỡ những người mà y yêu mến hứng chịu lấy những sự không may hăm dọa họ, để họ được che chở, dung thứ và cứu rỗi. Khi theo Con Đường Hành Động, con người tinh luyện t́nh thương yêu của ḿnh, lọc sạch hết mọi yếu tố ích kỷ, và cái sự trước kia chỉ là một ḷng dục có thú tính đối với người khác giống, nay thành t́nh yêu của người chồng, của người cha, của người anh cả, của người họ hàng, làm bổn phận ḿnh bằng cách làm việc cho những kẻ mà ḿnh thương yêu, để cho đời sống của họ có thể trở nên êm ấm hơn, sung sướng hơn.

        Đến đây mới bắt đầu giai đoạn cuối cùng, mà t́nh yêu được gột bỏ mọi tính cách vị kỷ và ban rải cho tất cả mọi người. Nó không c̣n chỉ ban rải trong cái ṿng gia đ́nh chật hẹp, nhưng ở mỗi người mà nó gặp, nó trông thấy một kẻ phải giúp đỡ; ở mỗi người đói khát nó trông thấy một huynh đệ phải nuôi dưỡng; ở mỗi người phụ nữ bị ruồng bỏ, nó trông thấy một người em gái phải cứu vớt. Con người được tinh luyện như vậy trở thành người cha, người anh, người bạn của tất cả những kẻ cô độc, không phải v́ y thương yêu họ một cách vị kỷ, nhưng v́ yêu thương họ trong lư tưởng, và y chỉ t́m cách ban rải t́nh yêu v́ t́nh yêu, chớ không phải v́ sự vui được người ta thương yêu lại. T́nh yêu trong sự biểu lộ cao thượng nhất của nó, t́nh yêu phát sinh ra trong Con Đường Hành Động không đ̣i hỏi một sự ǵ để đổi chác lại điều nó đă cho ra. Nó không t́m kiếm sự biết ơn, nó không mong muốn được người ta nhận biết, nó muốn tự dấu ḿnh đi; khi tự trong bóng tối ban rải ra để người ta không nhận thấy, th́ nó sung sướng hơn là khi hành động để người ta chú ư đến và khen ngợi.

        Sau cùng, t́nh yêu được tinh luyện hoàn toàn khi nào nó trở thành một thứ T́nh Thiêng Liêng, khi nó cho ra là v́ bản chất nó là ban rải hạnh phúc, nó không c̣n đ̣i hỏi ǵ cho chính ḿnh nữa, nhưng chỉ t́m cách làm cho kẻ khác được sung sướng.

                                           3.-SỰ THAM LAM

        Về tật thèm muốn và tham lam th́ cũng thế. Con người làm ra tiền để có thể tự kiếm cho ḿnh những sự sung sướng. Họ mong muốn có tiền để trở nên có thế lực, họ ráng kiếm tiền để tiến lên cao trong xă hội. Thoạt đầu, họ tinh luyện cái h́nh thức thứ nhất của tật thèm muốn ấy và mong mỏi có tiền bạc để gia đ́nh đước hạnh phúc hơn, để địa vị gia đ́nh được tốt đẹp hơn, để gia đ́nh khỏi bị đau khổ và thiếu thốn,  như vậy họ bớt ích kỷ hơn khi trước. Họ c̣n đi xa hơn nữa và tham vọng tăng thêm phương tiện của ḿnh để có thể dùng vào việc thiện, để có thể làm điều ích lợi trong một phạm vi rộng hơn gia đ́nh, và sau cùng, cũng như ở trường hợp của t́nh yêu, họ tập cho ra mà không thu nhận cái ǵ để bù lại. Họ tập muốn có trí thức và của cải, không phải là để giữ lấy, mà để ban rải, không phải để hưởng thụ, mà để phát ra khắp nơi. Bằng cách ấy, tánh ích kỷ được diệt trừ.

        Có bao giờ quư huynh tự hỏi rằng tại sao Đấng mà người ta gọi là “Mahadeva” (Đại Thiên Thần)(1)[vi] lại ở môt xứ nóng như lửa. Người ta phải nghĩ rằng thật lạ kỳ mà Đấng Tối Cao là tượng trưng của sự Tinh Khiết lại ở một nơi như thế! Câu nói bóng gió: “miền viêm địa” có ẩn ư về: “Đời sống con người” và tại miền viêm đại nầy là nơi Đức Thượng Đế Shiva ngự trị; tất cả những ǵ thấp hèn trong đời sống con người đều bị lửa đốt cháy rụi. Nếu Thượng Đế Shiva không ngự nơi nầy, mọi cặn bă của đời sống thế gian c̣n lại sẽ śnh ươn lên, thối nát đi để thành nguyên nhân của mọi sự nguy hại, lan tràn khắp mọi nơi, sinh ra bệnh tật và sự thối tha. Nhưng trên miền viêm địa của Ngài ở, những ngọn lửa của Ngài xuyên qua từ đầu nầy đến đầu kia, tất cả những ǵ ích kỷ, tất cả những ǵ tư riêng, tất cả những ǵ có bản chất thấp hèn đều bị cháy rụi. Người hành giả được tinh luyện do những ngọn lửa hồi sinh ấy, không c̣n mang dấu của yếu tố cá nhân, v́ những ngọn lửa thiêng liêng đă đốt tiêu những dục vọng tấp hèn, và không c̣n để lại một sự ǵ có thể nhiễm độc hay là làm cho đau ốm. V́ vậy, người ta gọi Ngài là Đấng Phá hoại, phá hoại mọi sự ǵ ti tiện, để sự phục sinh có thể thực hiện được, v́ lúc nguyên thủy, linh hồn sinh ra tự những ngọn lửa của Ngài, và chính tại nơi “miền viêm địa” ấy mà Chơn linh được tinh luyện,

        Theo cách đó, những bước đầu tiên nầy dẫn huynh đến cái địa vị thiệt thọ của người đệ tử, huynh đă t́m Sư Phụ trong Linh Điện, nơi linh thiêng nhất trong mọi nơi linh thiêng, Đức Sư Phụ của Nhân Loại ngự tại nơi đó. Ấy là những nấc thang đầu tiên mà huynh phải trèo, ấy là con đường mà huynh phải theo. Quư huynh là những người sống giữa xă hội, bị những giây chướng ngại ràng buộc, bị chi phối bởi những nhu cầu của đời sống xă hội, chính trị, và tuy vậy, tự nơi đáy ḷng, quư huynh vẫn mong ước đến Con Đường Chân Chánh, đến sự hiểu biết thuộc về đời sống vĩnh viễn trường tồn chớ không phải vế đời sống phù du giả tạm. Nếu mỗi người tự ḍ xét kỹ nơi thâm sâu của ḷng ḿnh, th́ sẽ t́m thấy ở đấy sự nồng nhiệt muốn học hỏi thêm măi, muốn sống cao thượng hơn là nếp sống từ trước đến giờ. Huynh có thể h́nh như quyến luyến sự vật ở thế gian và tŕu mến chúng thật t́nh, do cái bản ngă thấp thỏi của huynh, nhưng trong ḷng của mỗi người Ấn Độ chơn chánh chưa hoàn toàn từ bỏ tôn giáo và xứ sở của ḿnh, luôn luôn có một hoài vọng về một lư tưởng cao thượng hơn là cơi đời nầy, một ư muốn dù yếu đuối đến đâu mặc dầu, dù đó chỉ do những tục lệ cổ truyền của dĩ văng, một ư muốn được trông thấy xứ Ấn Độ trở nên cao quư hơn hiện giờ, và dân tộc Ấn xứng đáng hơn với dĩ văng của họ. Đó là con đường mà quư huynh phải bắt đầu noi theo. Một quốc gia chỉ có thể cao cả nếu con dân của quốc gia ấy cao cả, một dân tộc không thể nào hùng cường nếu những cá nhân trong dân tộc nghèo hèn và sống một đời ích kỷ. Quư huynh phải khởi hành tự cái điểm của quư huynh đứng hiện giờ, từ cuộc đời mà quư huynh đang sống hiện giờ, và quư huynh sẽ tiến đến gần Đường Đạo bằng cách tuân theo cái lối sống mà tôi vừa tả qua loa cho quư huynh thấy.

        Quư huynh hăy để cho tôi chấm dứt bằng cách nhắc cho quư huynh rơ Con Đường Đạo sẽ dẫn ta tới đâu, tuy rằng trong những bài diễn văn sau nầy đọc trước quư huynh, tôi phải cùng quư huynh tiến đến gần nó.

        Con Đường Đạo dẫn đến sự Hợp Nhất. Con Đường Hành Động mà chúng ta vừa học dẫn đến sự Hợp Nhất do những sự hành động. C̣n các nấc thang khác phải vượt qua. Nhưng trước hết, Hợp Nhất nghĩa là ǵ? Quư huynh c̣n nhớ Đức Krishna miêu tả con người đă thoát khỏi những đặc tánh của vật chất,  (gunas), đă xứng đáng uống nước cam lồ, trường sinh bất tử, và sẵn sàng hiểu biết Đấng Tối Cao, sẵn sàng hợp nhất với Ngài. Y chỉ biết có một yếu tố duy nhất là những gu na, nhưng y biết trên cao kia c̣n có cái ǵ nữa. Y trông thấy những gu na tác động, nhưng khi không có chúng, y cũng không muốn có chúng làm ǵ, mà khi có chúng, y cũng không xua đuổi chúng. Y vẫn hoàn toàn thăng bằng giữa bạn và thù, hoàn toàn thăng bằng trước sự khen ngợi hay chê bai; tự tin, y coi mọi vật như nhau, y nh́n một cục đất cũng như một đống vàng, nh́n bạn cũng như nh́n thù. Y cư xử với mọi người cùng một cách, v́ y đă vượt khỏi những gu na và không thể c̣n mắc vào những ảo ảnh của chúng nữa. Đó là cái mục đích mà chúng ta đang t́m kiếm. Đó là những nấc thang đầu phải trèo để tới Con Đường Đạo nó dẫn chúng ta lên cao nữa. Khi chưa vượt qua những mức nầy th́ không thể có một sự tiến bộ nào cả, nhưng khi người ta vượt khỏi rồi, th́ sự Nhập Đạo thiệt thọ càng ngày càng rơ rệt.

 II

NHỮNG ĐỨC TÁNH CẦN THIẾT

đầu sách  cuối sách  chương 1 2 3 4

KIỂM SOÁT TƯ TƯỞNG- THAM THIỀN- LẬP HẠNH

Thưa quư huynh,

        Cái khía cạnh đặc biệt của vấn đề mà chúng ta phải giải quyết hôm nay có liên quan đến những đức tánh cần thiết để thành một người đệ tử. Tôi sẽ bắt đầu diễn giải cho quư huynh rơ luật luân hồi và những phương tiện khiến cho mỗi người nhận định được cái ǵ là đức tính của người đệ tử và chọn lấy mục đích ấy cho đời sống vị lai của ḿnh. Quư huynh hăy nhớ những đều tôi đă nói hôm qua, về những giai đoạn khác nhau của sự hành động: một người bắt đầu hành động với mục đích làm thỏa măn những dục vọng thấp hèn của y và để thâu hoạch được những lợi lộc thế gian, rồi thế nào, sự thực hành Con Đường Hành Động dần dần dạy y hoạt động không phải với mục đích được lợi lộc cho bản thân, nhưng chỉ để làm bổn phận ḿnh, như vậy là hợp nhất với Định luật, và như thế tham dự một cách có ư thức vào cái công tŕnh vĩ đại của thế gian. Sau lại tôi đă nói với quư huynh rằng có một giai đoạn cao hơn những giai đoạn nầy, một giai đoạn trong đó sự hy sinh được thực hiện, không phải như một bổn phận mà thôi, mà là một sự hiến dâng vui vẻ tất cả mọi cái ǵ mà con người đang có. Lẽ cố nhiên là khi nào con người t́m cách đi đến giai đoạn này, khi y làm một việc không phải chỉ v́ đó là bổn phận của y phải làm, nhưng v́ y muốn hiến dâng tất cả thân thế và tài sản để phụng sự Đấng Tối Cao; lẽ cố nhiên, chỉ lúc ấy y mới có thể dứt khoát với những sự ràng buộc của dục vọng và được giải thoát, khỏi ṿng luân hồi. Cái điều nó lôi kéo con người và bắt con người phải luân hồi xuống thế gian, đó là ư muốn; ư muốn thụ hưởng những của cải mà người ta có thể t́m thấy ở thế gian, ư muốn làm được mọi việc mà người ta có thể làm ở nơi đó. Bất cứ ai có những tham vọng hồng trần, bất cứ ai đặt một mục đích hồng trần cho đời ḿnh, th́ lẽ cố nhiên là bị những ư muốn ấy buộc chặt. Khi mà những dục vọng con người c̣n nhắm vào những điều mà cơi Hồng trần có thể cung cấp cho y th́ y c̣n phải xuống thế gian để thỏa măn những dục vọng ấy. Khi mà chỉ một nỗi vui hay một vật thuộc về đời sống phù du, đời sống vật chất ở thế gian c̣n có quyền lực lôi cuốn y, th́ nó cũng có quyền lực trói buộc y. Nói một cách khác, mọi dục vọng đều trói buộc linh hồn và dẫn linh hồn đến nơi nào mà nó phải được thỏa măn.

        Bản chất của con người vốn thiêng liêng và con người giống như một vị Thượng Đế, cho đến đỗi cái sức mạnh tự ư phát ra (mà chúng ta gọi là dục vọng, có quyền lực tự thỏa măn. Nó muốn điều ǵ là được điều nấy, nó muốn cái ǵ th́ Tạo Hóa cho nó cái nấy, đúng lúc thích nghi, khi đến giờ, đến lúc. V́ thế cho nên, như người ta thường nói, con người làm chủ số kiếp của ḿnh, và tất cả những ǵ mà y đ̣i hỏi nơi Vũ trụ, Vũ trụ sẽ cho y. Lẽ đương nhiên, y sẽ hái được kết quả của những điều y muốn tại cảnh giới của Vũ trụ nơi đó chúng ta đă nảy sanh. Như vậy, nếu những dục vọng của y thuộc về cơi Hồng trần, th́ y phải trở lại cơi Hồng trần để dục vọng y có thể được thỏa măn. Con người cũng bị trói buộc vào ṿng luân hồi bởi những dục vọng chỉ có thể được thỏa măn trong những cảnh giới phù du thoảng qua ở bên kia cửa tử. Những cảnh giới phù du ở bên kia cửa tử, như chúng ta biết, đều dẫn dắt chúng ta đến sự luân hồi tại thế gian này, cho nên nếu những sự ước vọng của con người nhắm vào nỗi vui của Thiên Đường, nếu y mong mỏi hái, tại một cảnh giới cũng phù du như y, những kết quả của đời sống tại thế gian nầy, và nếu y khước từ những thú vui Hồng trần với mục đích nhất định là đạt được những sự vui ở Thiên đường, th́ những sự vui nầy sẽ là phần thưởng do những cố gắng ấy mà có, và phần thưởng nầy sẽ ban cho y, vào lúc thích hợp đúng kỳ. Nhưng v́ rằng Thiên Đường cũng là cơi giả tạm phù du, cho nên y rút cục cũng chỉ chọn con đường gọi là con đường ảo mộng (con đường của mặt trăng) dẫn đến sự luân hồi. Quư huynh cũng nhớ câu: “Mặt trăng là cửa dẫn đến Thiên Đường”- như vậy, khi từ giă Thiên Đường, linh hồn con người lại trở lại cơi Hồng trần của thế nhân. Do đó mà dục vọng- dù có được thỏa măn ở cơi nầy hay cơi khác cũng phù du, giả tạm như nhau- trói buộc linh hồn vào bánh xe luân hồi, và v́ lư do ấy mà Kinh sách đă viết rằng linh hồn chỉ có thể giải thoát khi “những giây trói buộc của ḷng bị cắt đứt”.

        Sự giải thoát, hoàn toàn trong một thời gian, có thể đạt được do sự tuyệt trừ những dục vọng ấy. Không cần làm một việc ǵ có tính cách thật cao thượng, không cần phải đạt đến một mức rất cao trong sự tiến hóa của linh hồn, không cần phải phát triển mọi năng khiếu thiêng liêng ẩn tàng trong lương tri con người, không cần phải lên đến chót đỉnh cao cả nơi đó có các Đấng Giáo Chủ và các Vị Hộ Tŕ của nhân loại ngự trị; nếu muốn, con người có thể được hưởng một sự giải thoát thiệt ích kỷ, nó đem y lên cao hơn cơi thế gian đau khổ này, nó cắt đứt mọi giây trói buộc y vào cái cảnh giới sinh tử này, nhưng y không giúp đỡ người khác, không cắt đứt giây trói buộc cho họ, không giải thoát họ. Đó là một cách giải thoát có lợi cho cá nhân chớ không phải cho toàn thể, một sự giải thoát do đó cá nhân từ bỏ nhân loại, để mặc nhân loại tự vạch lấy con đường mà đi. Tôi biết rằng rất nhiều người không có ước vọng nào cao hơn thế, rất đông là những người chỉ t́m sự giải thoát cho ḿnh, không nghĩ đến người khác. Như tôi đă nói cái mục đích ấy rất dễ đạt được. Muốn như vậy, chỉ cần nhận định được cái tính chất phù du giả tạm của sự vật tại thế gian, cái tính cách mộng ảo của những tham vọng mà thế nhân vuốt ve hằng ngày, nhưng rốt cuộc sự giải thoát ấy chỉ dài được một thời, có lẽ một Đại Kiếp(1)[vii] rồi sau con người vẫn bị bắt buộc phải trở lại. Như thế, tuy đă ĺa bỏ cơi thế gian nầy, nhưng linh hồn vẫn c̣n phải trở lại trong một cuộc tuần hoàn vị lai, để tiến lên một bước nữa cho đúng với kiếp số thiêng liêng, thật sự của con người; ấy là sự tiến hóa của lương tri nhân loại trong cái đại Lương Tri của Vũ Trụ mà nhiệm vụ là giáo huấn, phù trợ và điều khiển những thế giới vị lai.

        Bây giờ, tôi xin nói đến những linh hồn khôn ngoan và đại lượng hơn họ tuy muốn cắt đứt những giây trói buộc của dục vọng, nhưng không phải để chính ḿnh thoát khỏi những khó khăn của đời sống hồng trần, mà để có thể theo đuổi con Đường cao siêu, cao thượng, gọi là con đường của kẻ chí nguyện muốn làm đệ tử, để theo những Đấng Cao cả, các Ngài đă đặt con đường ấy vừa tầm sức của nhân loại. Những linh hồn này t́m những vị Chân Sư sẵn sàng thâu nhận những ai đủ tư cách để theo con đường ấy, không phải với mục đích duy nhất là tự giải thoát, không phải để thoát khỏi mọi lo Sư và những Đấng Cứu Thế. Những linh hồn nầy hoàn lại cho toàn thể thế giới những ǵ mà con người đă nhận được của các Chân Sư Tiền Phong. Cái địa vị đệ tử này được ghi trong những Đại Thánh Kinh của thế giới. Sự t́m một Sư Phụ giáo huấn loài người, là một lư tưởng của những linh hồn cao thượng và tiến hóa nhất; họ đă t́m cách thực hiện Thiên Ư ở thế giới ngoại cảnh nầy. Quư huynh hăy lấy bất cứ Thánh Kinh nào và hăy xem coi cách giải bày về vấn đề nầy ra sao. Quư huynh hăy coi hết kinh Upanishads nầy cho đến kinh Upanishads khác, và hăy coi ở đấy người ta nói về Sư Phụ làm sao, và người chí nguyện muốn làm đệ tử được khuyến khích để kiếm và t́m thấy Ngài bằng cách nào. Đó là điều mà hôm nay tôi muốn nói với quư huynh, nói về các đức hạnh cần phải có để trở thành một người đệ tử, nói về những sự ǵ phải làm trước khi được thu nhận làm đệ tử, về những điều ǵ phải hoàn tất trước để cho việc đi t́m Chơn Sư có thể may ra thành công; về những việc ǵ phải làm ở thế gian, trong đời sống tầm thường của mọi người, bằng cách xem cuộc đời như một trường học, như là một nơi ở đó người ta học những bài yếu lược, như là một nơi để cho con người học những đức tính cần thiết để xứng đáng đi đến chân các Vị Đại Sư. Các Ngài sẽ ban cho y sự phục sinh thật sự, sự phục sinh nầy được tượng trưng trong mọi tôn giáo công truyền bởi một nghi lễ nào đấy, tự nó th́ chẳng có ǵ thiêng liêng, nhưng rất thiêng liêng ở cái điều mà nó tượng trưng vậy. Huynh sẽ thấy trong Ấn Độ ngữ danh từ “được sinh ra hai lần” có hàm nghĩa là người ta không phải chỉ được sinh ra do một người cha và một người mẹ xác thịt, mà c̣n được sinh ra lần thứ hai nữa, lần này do Chơn Sư ban cho linh hồn. Điều nầy được tượng trưng bởi sự Điểm Đạo cho người con trai, do vị Thầy của gia đ́nh hay do người cha; điều nầy khiến cho ở thế gian người ta gọi y là người sinh hai lần, nhưng ở những thời xưa - cũng như ở thời nay - đă có và hiện đang có một sự Điểm Đạo thật sự nó sinh ra mọi nghi lễ bề ngoài. Có một sự Điểm Đạo thiệt thọ nó không phải chỉ là sự thu nhận vào một giai cấp bề ngoài, nhưng nó cho ta một sự phục sinh thiêng liêng thật sự, sự Điểm Đạo do một vị Đại Sư thay mặt cho Đấng Tối Cao, Đấng duy nhất được phép Điểm Đạo cho nhân loại. Chúng ta thấy những kinh sách có thuật lại những cuộc Điểm Đạo ấy, chúng ta biết rằng những sự Điểm Đạo ấy hiện giờ vẫn c̣n. Toàn thể Lịch Sử chứng minh sự ấy có thiệt.

        Ở Ấn Độ có những đền đài mà phía dưới đất lại có những Thánh Điện để dùng cho những cuộc Điểm Đạo cổ thời mà hiện nay dân chúng không biết đến; Chỗ nầy được dấu kín, để tránh những cặp mắt ṭ ṃ của người trần. Những Thánh Điện ấy hiện giờ vẫn c̣n và những kẻ xứng đáng vẫn c̣n có thể bước qua ngưỡng cửa các nơi đó. Mà không phải chỉ ở Ấn Độ mới có những Thánh Điện kiểu ấy; nước Ai Cập cổ thời cũng có những hầm kín dùng để Điểm Đạo và những Kim Tự Tháp hùng vĩ, trong một vài trường hợp, bao phủ Thánh Điện cổ thời, nay được che kín, không cho con mắt của người đời thấy được. Những cuộc Điểm Đạo cuối cùng mà quư huynh thấy ghi ở lịch sử Hy Lạp và lịch sử xứ Ai Cập, như là sự Điểm Đạo của các nhà hiền triết đều diễn ra tại các đền đài phía ngoài mà dân chúng biết; những đền đài này bao phủ những Thánh Điện chánh thức của sự Điểm Đạo. Không phải nhờ khoa học bề ngoài mà được quyền bước qua ngưỡng cửa những Thánh Điện thiệt thọ nầy. Thí sinh bắt buộc phải có đủ những điều kiện nêu ra từ ngàn xưa và bây giờ cũng c̣n y như ở thời trước vậy; và nếu toàn thể lịch sử chứng minh rằng sự Điểm Đạo có thiệt, th́ cũng chứng minh rằng người được Điểm Đạo có thiệt. Đứng đầu của bất cứ tôn giáo lớn nào cũng có những Vị Siêu Phàm cao hơn người trần tục, những Vị đă viết ra những Thánh Kinh cho các dân tộc, mà lịch sử đă miêu tả như vượt khỏi những kẻ đồng thời bởi sự hiểu biết sâu xa những vấn đề tinh thần- sự hiểu biết nầy đă bao quanh các Ngài một ṿng hào quang; nhờ huệ nhăn các Ngài thấy được và chứng minh được những điều các Ngài đă thấy. Quả vậy, có một điều mà chúng ta thường thấy ở những Đại Chơn Sư mà các Ngài không chủ trương, mà các Ngài quả quyết, các Ngài không thảo luận mà các Ngài tuyên bố các Ngài không đi đến kết quả bằng những phương pháp lư luận mà bằng trực giác thiêng liêng. Các Ngài hiện đến và nói ra một cách có uy tín một uy tín được chứng minh bằng chính những lời nói của các Ngài, và ḷng con người nhận biết được chơn lư của những điều các Ngài giáo hóa, dù các Ngài có vượt lên đến những cảnh giới cao siêu mà trí thông minh của con người không hiểu nổi. Ở trong ḷng mỗi người luôn luôn có cái động lực thiêng liêng má các Thánh Sư không ngớt gợi đến, nó tiếp đón sự dậy dỗ về tinh thần, mặc dầu trí thông minh không đủ sức để có thể phân biệt cái chơn lư mà tinh thần nhận thấy. Những vị Thánh Sư nầy đă được ghi trong lịch sử như là Những Bậc Thầy Cao cả, cùng với những vị mà lịch sử nói đến như là những nhà Đại Hiền Triết. Các Ngài toàn là những Vị đă được Điểm Đạo, đă vượt lên cao hơn những người thường; các Vị nầy bây giờ hiện c̣n sống cũng như các Ngài đă sống tự ngàn xưa. Thiệt vậy, sự chết làm sao có thể xâm phạm đến các Vị đă thắng được cả sự sanh lẫn sự tử, đă làm chủ được cà cái bản năng thấp hèn. Sự tiến hóa của các Ngài đă đưa các Ngài lên mức cao tột trong những thế kỷ đă qua, có những vị thuộc về nhân loại chúng ta, có những vị thuộc về những nhân loại sinh trước chúng ta. Vài Vị trong số các Ngài, từ những Thế Giới hay là những hành tinh khác mà đến cơi trần, trong thuở nhân loại chúng ta hăy c̣n ở vào thời kỳ ấu trĩ. Những Vị khác đă trưởng thành khi nhân loại nầy đă đi được một đoạn khá dài trên con đường tiến hóa để có thể tự sản xuất cho ḿnh những Vị được Điểm Đạo, những Vị Thánh Sư của ṇi giống chúng ta, để giúp cho nhân loại tiến tới mà chính các Ngài là những phần tử trong đó. Khi một người đă đi hết con đường Đạo và đă tới mục đích nầy, th́ sự chết không c̣n có một quyền năng ǵ đối với Ngài, v́ Ngài đă đạt đến cơi Trường Sinh bất tử vậy. Chỉ một việc lịch sử nói đến các Ngài là một sự bảo đảm về đời sống hiện tại của các Ngài rồi, điều nầy đủ để chứng minh rằng các Ngài vẫn c̣n, không cần đến sự làm chứng càng ngày càng nhiều của những ai đă t́m thấy và đă biết các Ngài, đă được các Ngài dạy bảo, và đă học hỏi dưới chân các Ngài. Thật vậy, trong thời đại của chúng ta hiện giờ, người học Đạo vẫn t́m thấy, hết người nầy đến người khác, con Đường Đạo cổ thời; đến bây giờ họ vẫn c̣n t́m thầy, kẻ trước người sau, cái con đường Đạo gay go, mỏng như lưỡi dao cạo, nó nâng cao con người lên và khiến y có thể đi vào con đường của người chí nguyện muốn làm đệ tử. Khi một người trong bọn họ khám phá ra con đường nầy, y thành một nhân chứng có thể tuyên bố sự xác thực của những kinh sách ngày xưa, và sau khi y đă đi vào con đường nầy rồi, y có thể vượt qua tất cả mọi giai đoạn của nó.

        Bây giờ chúng ta hăy xác định đức tính cần thiết để có quyền bước vào con Đường Đạo. Trong những đức tính nầy, đức tính thứ nhất phải được phát triển ít nhất cũng đến mực thật cao trước khi con người có thể khởi sự ước ao được thu nhận làm đệ tử. Cái đức tính đầu tiên ấy người ta gọi nó là sự kiểm soát cái trí, và nhiệm vụ đầu tiên của tôi là giải nghĩa cho quư huynh một cách rất rơ rằng sự kiểm soát cái trí là ǵ, cái trí (mà ta phải kiểm soát) là ǵ, và lấy cái ǵ mà kiểm soát nó. Chúng ta đừng quên rằng đối với đa số quần chúng, cái trí tức là con người. Khi người ta nói đến ḿnh th́ người ta nói đến cái trí của người ta vậy. Khi người ta nói: tôi, th́ người ta đồng hóa cái “Tôi” ấy với cái trí, cái thức thông minh hiểu biết vậy. Và khi con người nói: “Tôi nghĩ, tôi cảm xúc, tôi biết”, nếu huynh t́m kiếm một cách cẩn thận mà y gán cho những chữ đó, th́ huynh sẽ thấy rằng ư nghĩa nầy không vượt qua giới hạn của trạng thái tâm thức y khi y c̣n thức dậy. Đó là điều mà y thường hiểu về chữ: “Tôi”. Thật vậy, những ai học hỏi chính chắn đều biết rằng cái “Tôi” ấy là ảo tưởng cho đến mức nào, nhưng tuy biết như vậy, dưới h́nh thức một định lư trí thức, họ không lấy đó làm một trong những chơn lư thực tế của đời sống. Với tư cách của nhà triết học, họ thừa nhận định lư nầy, nhưng họ không lấy đó làm căn bản của đời sống của họ ở thế gian. Để chúng ta có thể hiểu một cách rơ ràng sự kiểm soát cái trí là ǵ, và chúng ta có thể kiểm soát nó bằng cách nào, chúng ta hăy thử xét cái việc mà người ta gọi là sự tự chủ, khi ta nói về một người ở trong thiên hạ; chúng ta sẽ thấy rằng sự tự chủ nầy cón thiếu sót đến đâu khi ta so sánh nó với cái đức tính cần phải có của người chí nguyện muốn làm đệ tử. Khi ta nói rằng một người tự chủ được, ta muốn nói rằng cái trí của y mạnh hơn những dục vọng của y; nếu ta lấy cái bản thể thấp thỏi của y, những dục vọng và những cảm xúc của y, rồi ta đem cái bản chất trí thức của y, sự thông minh của y, cái ư chí và cái quyền năng lư luận của y mà chống chọi lai, th́ những năng khiếu sau nầy sẽ thắng những dục vọng nói trên: nói tóm lại, trong lúc bị quyến rũ hay đứng trước một sự khêu gợi dục vọng ḿnh, y có thể nói rằng: “Không, tôi không muốn nhượng bước; tôi sẽ không để cho những dục vọng của tôi lôi cuốn tôi, tôi sẽ không để cho những giác quan của tôi ngự trị; những giác quan nầy chỉ là những con ngựa kéo cái xe của tôi, trong khi đó tôi là người đánh xe và tôi sẽ không để cho chúng phóng nước đại trên đường lộ mà chúng nó lựa chọn”. Như thế, chúng ta nói rằng người nầy tự chủ. Đó là cái ư nghĩa thông thường của những chữ nầy, và chúng ta hăy ghi nhớ, sự tự chủ nầy là một đức tính rất đáng khen. Nó tượng trưng một giai đoạn mà mọi người phải trải qua. Con người phóng đăng, không kỷ cương, hoàn toàn ở dưới sự chế ngự của giác quan, dĩ nhiên là phải cố gắng nhiều lắm trước khi có thể đạt được cái tính tự chủ nầy, nhưng c̣n phải cố gắng nhiều, nhiều hơn thế nữa. Khi ta nói đến một người có ư chí cương quyết và một người có ư chí yếu đuối, ta thường muốn nói rằng: người cương quyết là người đứng trước những sự quyến rũ và những nỗi khó khăn thường t́nh của cơi đời nầy, sẽ dùng đến lẽ phải và sự suy luận trước khi chọn con đường của ḿnh và sẽ để cho cái kư ức của dĩ văng nó d́u dắt cùng với những lời kết luận do kư ức đó sinh ra. Như vậy, chúng ta nói rằng y có một ư chí cương quyết, v́ y không để cho những trường hợp đẩy đưa, v́ y không tuân theo những sự đột phát của cảm xúc, và không giống như một con thuyền bị gịng sông lôi cuốn đi, bị đưa trôi đến nơi nầy nơi khác, tùy theo chiều gió thổi. Y giống như một cái thuyền do một người thủy thủ lành nghề điều khiển, y biết lợi dụng những ngọn gió và những gịng nước để lái con thuyền về phía của y muốn, biết dùng ư chí như một bánh lái để giữ con thuyền trên con đường mà chính y đă lựa chọn. Có được một ư chí cương quyết thay v́ một ư chí yếu đuối, đó là dấu hiệu sáng tỏ nhất về sự phát triển tuần tự của con người và của sự tăng trưởng của cá tính y. Tôi nhớ rằng bà H.P.Blavatsky có nói trong một bài về cá tính rằng người ta có thể nhận biết sự hiện hữu của cá tính ở con người và sự khiếm diện của nó ở loài vật bằng lối chiêm nghiện cách cư xử của người và vật trong một vài trường hợp. Quư huynh hăy lấy một số thú rừng và hăy đặt chúng trước những trường hợp giống nhau, quư huynh sẽ thấy tất cả chúng đều theo một cách cư xử in như nhau. Cách hành động của chúng do hoàn cảnh của chúng định đoạt, mỗi con vật không t́m cách hành động  để thay đổi t́nh thế, không đem những trường hợp này đối chọi với những trường hợp kia để t́m lấy một con đường lựa chọn. Tất cả chúng nó đều hành động giống nhau. Nếu huynh biết bản tính của con vật, cũng như biết tánh cách những hoàn cảnh của chúng, từ khi mà huynh biết cách hành động của một hai con vật cùng một loại, th́ huynh có thể  suy luận ra cách hành động của cả bầy nó. Đó là bằng cớ tuyệt đối của sự thiệt không có cá tính trong loài vật. Nhưng nếu huynh lấy một số người, huynh không thể kết luận trước rằng họ sẽ hành động tất cả cùng một lối, v́ cái cách họ hành động khác nhau trước những trường hợp giống nhau sẽ tùy theo cái tŕnh độ tiến hóa của mỗi người. Những cá nhân đều giống nhau, và do đó mà hành động khác nhau; mỗi người có ư chí riêng biệt, v́ vậy y có thể lựa chọn tùy theo ư muốn. Ngưới mà ư chí yếu đuối th́ cá tính không được mạnh, kém phát triển và chưa đi xa trên con đường tiến hóa.

        Nhưng con người có thể làm nhiều hơn nữa và thay v́ chỉ lo cho bản tính cao thượng của ḿnh kiểm soát bản tính thấp hèn, y có thể bắt đầu nhận thức về cái sức mạnh sáng tạo của tư tưởng. Muốn làm được điều nầy con người cần có một phạm vi tư tưởng rộng hơn phạm vi của người thường, con người cần phải có một số kiến thức về triết học. Tỉ dụ nếu y đă học những kinh sách chánh đại của Ấn Độ, y sẽ có một quan niệm trí thức rất sáng suốt về sức mạnh sáng tạo của tư tưởng; nhưng một khi y nhận biết được điều nầy, y sẽ kết luận rằng c̣n có một cái ǵ cao hơn cái trí của y, v́ nếu có một sức mạnh phát sinh ra tư tưởng, nếu do sự trung gian của cái trí ḿnh mà con người có thể tạo ra tư tưởng, th́ những tư tưởng nầy phải được phát sinh ra do một cái ǵ ẩn tàng phía sau cái trí đă sinh ra chúng nó. Sự hiện hữu của sức mạnh sáng tạo của tư tưởng và nội cái việc con người có thể dùng nó để rèn luyện cái trí của ḿnh cũng như cái trí của người khác, cũng đủ chứng minh rằng cón có một cái ǵ cao hơn cái trí; có thể nói được rằng đó là một cái ǵ không tùy thuộc cái trí mà lại có thể xử dụng cái trí nầy như một dụng cụ. Người học Đạo t́m cách tự hiểu ḿnh,bắt đầu nhận thấy rằng y có một cái trí rất khó điều khiển, và những tư tưởng vẫn đến, mặc dầu y không t́m kiếm; có thể nói rằng chúng tủa ra, mà không cần có sự tác dụng của ư chí. Khi y bắt đầu xem xét những sự hoạt động của cái trí, y nhận thấy rằng những tư tưởng ào tới nó tuy y không kêu gọi chúng; y nhận thấy rằng y bị những ư kiến không tốt, khuấy rối y ngoài sự mong muốn của y. Cái trí của y bị mọi sự ngông cuồng xâm chiếm, y muốn đuổi chúng đi, nhưng y như bị tước khí giới và không thể diệt trừ chúng được… Y tự thấy ḿnh bị bắt buộc phải nghiền ngẫm những tư tưởng ngự trị trong trí y, chúng không tuân theo lời kêu gọi hay uy quyền của y chút nào. Lúc đó y bắt đầu nghiên cứu những tư tưởng ấy. Y tự hỏi: chúng ở đâu đến? chúng tác động như thế nào? Người ta có thể làm chủ chúng bằng cách nào? Và dần dần y hiểu được rằng nhiều tư tưởng xâm chiếm trí y bắt nguồn từ trong trí của  người khác, và tùy theo cái đường lối tư tưởng đặc biệt của y, y thu hút những tư tưởng của người khác, ở thế giới tư tưởng bên ngoài. Đến lượt y, y lại ảnh hưởng đến tư tưởng của kẻ khác bằng những tư tưởng của ḿnh phát ra, và y bắt đầu hiểu rằng cái trách nhiệm nầy quan trọng hơn là việc xưa kia y chưa từng nghĩ tới. Từ trước đến giờ y vẫn tưởng rằng chỉ khi nào y nói th́ y mới có thể gây ảnh hưởng đến cái trí của kẻ khác, cùng là chỉ có những hành động của y mới có thể được coi như một gương mẫu và làm thay đổi cách hành động của kẻ đồng loại; nhưng khi sự hiểu biết của y tăng trưởng dần dần, y bắt đấu cảm thấy một mănh lực huyền bí tỏa ra tự con người đang tư tưởng và cảm đến cái trí của người khác. Khoa học đă có đề cập đến vấn đề nầy và đă đi đến những kết luận cũng giống như vậy. Nhiều cuộc thí nghiệm đă chứng minh rằng một tư tưởng có thể chuyển đi được từ khối óc nầy đến khối óc kia, không cần phải nói một lời, không cần phải viết một chữ, và trong tư tưởng có một vật ǵ cụ thể có thể nhận xét được, giống như một luồng rung động làm rung động những vật khác, không cần phải nói lên một lời, không cần phải phát ra một âm thanh. Khoa học đă khám phá rằng tư tưởng có thể truyền từ người nầy qua người khác, trong sự im lặng thâm sâu nhất, không cần một phương tiện giao thông nào ở bên ngoài- hay là như giáo sư Lodge đă nói, không cần có những phương tiện vật chất để giao thông- vật chất đây có nghĩa là vật chất hữu h́nh Hồng trần- một cái trí có thể ảnh hưởng đến một cái trí khác.

        Nếu như vậy, chúng ta đều ảnh hưởng lẫn nhau bằng tư tưởng, không cần dùng đến lời nói hay sự hành động, v́ một đàng, những tư tưởng mà chúng ta phát ra rải rác khắp thế gian và tác động trong cái trí của những người khác, và một đàng, những tư tưởng của người khác phát ra sáp nhập vào trí óc ta, và cảm đến cách suy nghĩ của ta. Như vậy, chúng ta nhận thấy rằng sự suy nghĩ thường chiếm một chỗ rất nhỏ trong đời sống chúng ta; cái sự mà ta gọi là suy nghĩ thật ra chỉ là cái phản ảnh của những tư tưởng kẻ khác. Thật vậy, cái trí của con người rất giống như cái quán trọ nơi đó khách lữ hành dừng chân nghỉ ban đêm; ít ra cái trí của một số người chỉ là thế mà thôi. Một tư tưởng đi vô rồi đi ra, con người thêm rất ít vào cái tư tưởng nó tới với y. Y nhận nó, cho nó trú ngụ rồi nó ra đi. Nhưng cái điều mà chúng ta có bổn phận phải làm là tự ḿnh suy nghĩ một cách có ư thức với ư định thực hành cái điều mà ta đă nhất quyết làm.

        Tại sao phải liểm soát cái trí, phải kiểm soát tư tưởng, phải bắt tư tưởng ngừng nghỉ, và phải từ khước không cho tư tưởng của kẻ khác trú ngụ trong trí ta? Tại sao những việc nầy lại quan hệ như thế? Tại sao tất cả  những điều nầy lại làm thành một điều kiện tất yếu phải hoàn thành xong xuôi trước khi được thâu nhận làm đệ tử. V́ những tư tưởng của một người được làm đệ tử sẽ vô cùng mănh liệt, v́ cái cá tính của ai đă thành đệ tử đều phát triển, tăng trưởng mạnh mẽ hơn trước, và v́ mỗi tư tưởng của y có một sinh lực và một năng lực lớn hơn và cảm hóa một cách mạnh mẽ hơn đến xă hội loài người. Tư tưởng của con người có thể giết chết người, tư tưởng con người có thể chữa bệnh; nó có thể cảm hóa quần chúng; nó có thể tạo ra một ảo tưởng mắt trông thấy được để có thể gạt gẫm kẻ khác và làm cho họ đi lạc đường. Bởi v́ tư tưởng trở nên mănh liệt như thế khi cá tính càng phát triển và tăng trưởng, và bởi v́ cái địa vị đệ tử bắt buộc cá tính phải phát triển nhanh chóng và phải tăng trưởng cấp bách để cho con người chỉ nội trong vài kiếp có thể sở đắc được những ǵ mà người thường chỉ có thể hoàn thành được trong hàng chục ngàn năm; cho nên trước khi sự tăng gia quyền lực nầy được giao phó cho y, y cần phải học cách kiểm soát tư tưởng, trừ bỏ những ǵ xấu xa trong tư tưởng, và chỉ thu những tư tưởng tinh khiết, từ thiện và hữu ích. Việc Chơn Linh kiểm soát tư tưởng đă được nêu ra như là điều kiện đối với người chí nguyện làm đệ tử, v́ trước khi con người nhờ những lời dạy dỗ của Chơn Sư mà mở thêm được quyền năng, th́ y phải làm chủ cái dụng cụ phát sinh ra tư tưởng, để cho dụng cụ nầy chỉ làm cái điều mà y đă quyết định, và không phát sinh ra cái ǵ mà y không ưng thuận.

        Tôi biết rằng công chúng sẽ khó mà hiểu được điều nầy. Công chúng sẽ hỏi rằng: “Cái cá tính luôn luôn tăng trưởng ấy là ǵ? Cái cá tính nó phát triển quyền năng của ư chí và quyền năng kiểm soát cái trí ấy là cái ǵ? Mà bà nói rằng cá tính ấy không phải là cái trí, mà c̣n cao hơn cái trí nữa ḱa?” Tôi xin dùng một h́nh ảnh mượn ở đời sống tại cơi trần nầy để giúp quư huynh hiểu cái cá tính nảy sinh và phát triển cách nào. Hăy tỉ dụ rằng quư huynh đi vào trong một bầu không khí đầy hơi nước, nhưng khá nóng để cho hơi nước ở được lưng chừng nơi đó con mắt không thấy được, và nơi đó đối với quư huynh như trống rỗng. Quư huynh sẽ nói: “Ở đây chẳng có ǵ cả, chỉ có không khí thôi”. Tuy nhiên, quư huynh biết rằng nếu một nhà hóa học lấy một chút không khí đầy hơi nước nầy, nhốt nó trong một cái ve và làm cho nó dần dần lạnh đi, th́ quư huynh sẽ trông thấy một chút sương mù nhẹ, một vệt mây hiện ra ở chính giữa khoảng mà thoạt đầu ta tưởng là trống không ấy. Quư huynh sẽ thấy rằng đám sương nầy càng ngày càng dầy đặc cho đến lúc sự lạnh càng tăng và quư huynh sẽ thấy hiện ra một giọt nước ở cái chỗ mà trước kia quư huynh không trông thấy ǵ cả. Chúng ta có thể coi cái tỷ dụ nầy như là một h́nh ảnh vật chất thô sơ, có thể dùng để giải nghĩa sự cấu tạo cá tính. Tự trung tâm Đấng Vô H́nh, tức là Đấng Duy Nhất sinh ra vạn vật, có một đám mây mỏng bay bốc lên, thấy rơ ràng; ấy là một đám sương mù nhẹ đặc lại, tự rời xa cái đám mây vô h́nh bao bọc xung quanh nó, và nó dần dần đặc lại, cho đến khi thành cái giọt nước cá nhân mà chúng ta coi như một đơn vị. Từ trung tâm cái Đại Thể, bỗng xẹt ra cái mảnh riêng biệt mà bản chất giống hệt bản chất Đại Thể, tinh hoa của nó cũng giống như tinh hoa của Đại Thể, nhưng mảnh nhỏ nầy khác Đại Thể bởi những đặc tính  của nó và thành một cá nhân riêng biệt. Theo cách đó, linh hồn riêng biệt của con người phát sinh từ cái Đại Hồn Duy Nhất và mỗi ngày đều thêm nhiều kinh nghiệm. Nó lớn lên và phát triển dần dần trải qua hàng trăm kiếp luân hồi tại thế gian, từ kiếp nấy sang kiếp khác, từ thời đại nầy qua thời đại kia, và cái mà chúng ta gọi là cái trí chỉ là một trong những cái mầm nhỏ của nó trong thế giới hữu h́nh. Cũng giống như con trùng a míp (amibe) (1)[viii] khi cần đồ ăn th́ đẩy một phần tử của thân h́nh nó nhô ra phía ngoài, chiếm lấy một miếng nhỏ chất bổ, rồi lại thu vào phía trong cái phần tử đă cho nhô ra, tự nuôi thân bằng cái chất đă lấy được; cũng theo cách ấy, cá tính ném ra ngoài cơi đời, cơi Hồng trần, một bàn tay của Chơn Linh, có nhiệm vụ thu thập kinh nghiệm cũng như một thứ đồ ăn, rồi lại thu cái bàn tay ấy vào lúc mà ta gọi là bỏ xác, Chơn Linh tiêu hóa cái kinh nghiệm ấy để nuôi dưỡng sự phát triển của ḿnh. Cái trí chính là cái bàn tay ấy trong cảnh giới Hồng trần, đó là một phần của cá tính, một phần của linh hồn. Cái tâm thức tức là quư huynh vốn cao hơn cái trí, cao hơn cái mà quư huynh gọi là trí tuệ. Tất cả dĩ văng, tất cả kinh nghiệm mà quư huynh thu thập được đều ẩn tàng nơi tâm thức. Tất cả cái kiến thức mà quư huynh đă đồng hóa được với ḿnh đều gom trong cái tâm thức nó chính là quư huynh đó. Khi ra đời, quư huynh ném ra ngoài một phần nhỏ của ḿnh, nó có nhiệm vụ thu thập một số kinh nghiệm mới để làm cho tâm thức được phong phú hơn nữa; linh hồn đồng hóa kinh nghiệm ấy để tự phát triển và ở mỗi kiếp mới nó gắng sức dùng cái Tâm Thức đă mở mang để hướng dẫn cái bàn tay.” Cái mà chúng ta gọi: “Tiếng nói của Lương Tâm” chính là tiếng của Chơn Linh Cao Cả nói với cái bản ngă thấp hèn để t́m cách d́u dắt sự vô minh của bản ngă này nhờ cái kiến thức mà Chơn linh đă thu thập được trong những kiếp sống liên tiếp. Chúng ta biết rằng cái trí, cái bản thể thấp hèn mang đến cho ta những sự khó khăn. Quư huynh có nhớ lời Arjuna nói với Đức Krishna, khi bàn về sự kiểm soát hạ trí mà ta xét luận đây không. Quư huynh có nhớ Arjuna nói với Đức Thượng Đế Sư Phụ của Ngài rằng hạ trí của Ngài cuồng loạn đến mức nào chăng? Arjuna nói: “ Hỡi Krishna, cái trí thật là loạn động, buông lung, mănh liệt và khó mà uốn nắn, tôi tưởng khó mà kiềm hăm nó cũng như khó mà kiềm hăm gió vậy”. Và thật vậy, kẻ nào muốn kiềm chế cái trí đều biết điều nầy. Ai ráng kiểm soát cái trí đều biết nó buông lung, mănh liệt, hung hăng, khó trị là dường nào. Nhưng quư huynh có nhớ câu trả lời của Đức Thượng Đế Krishna khi Arjuna thưa với Ngài rằng cái trí khó trị như gió chăng. Ngài nói rằng: “Lẽ cố nhiên là cái trí nghịch ngợm và khó trị, hỡi người chiến sĩ vơ trang đầy đủ, nhưng mà người ta có thể thắng phục nó nhờ một sự luyên tập không ngừng và nhờ tính lănh đạm”! Không c̣n có cách nào khác nữa. Một sự luyện tập không ngừng, không một ai có thể làm việc nầy thay thế cho quư huynh, không một Chơn Sư nào có thể luyện tập giùm cho quư huynh. Quư huynh phải chính tự ḿnh làm công việc nầy, và khi nào quư huynh chưa thực hành điều đó th́ chưa có thể gặp Chơn Sư. Tuyên bố rằng quư huynh muốn t́m thấy Ngài, rất là vô ích nếu quư huynh không chịu uốn ḿnh theo những điều kiện mà tất cả các Vị Đại Sư bắt buộc phải tuân theo để dẫn quư huynh đi đến dưới chân các Ngài. Đây, một Vị Đại Sư, một Vị Thượng Đế giáng trần(1)[ix] chỉ bảo điều cần phải làm và tuyên bố rằng điều đó có thể thực hiện được. Và khi một Vị Thượng Đế giáng trần nói như vậy th́ cái đó chứng tỏ rằng ai có ư chí cương quyết đều có thể đạt được kết quả nầy, v́ Ngài biết rơ quyền lực của những người mà Ngài đă thấy, và với tư cách là Đấng Tối Cao, Ngài đă đặt để họ trong thế gian nầy. Và khi lời nói thiêng liêng của Ngài quả quyết với chúng ta rằng có thế thành công th́ chúng ta há dám nói nghịch lại, nghĩa là phủ nhận lời của Đức Thượng Đế đă nói hay không?

        Chúng ta sẽ đạt được kết quả nầy bằng cách nào?. “Bằng một sự luyên tập không ngừng”. Đấng Cao Cả đă nói như thế, nghĩa là trong đời sống hằng ngày của quư huynh, trong cái đời sống hoạt động của quư huynh, quư huynh phải bắt đầu rèn luyện cho thuần thục cái trí lung lăng của ḿnh và bắt đầu tuân theo ư chí ḿnh. Quư huynh hăy thử suy nghĩ đàng hoàng một lát. Quư huynh sẽ nhận thấy rằng những tư tưởng của ḿnh bay nhảy lung tung. Vậy quư huynh sẽ làm ǵ? Quư huynh sẽ dẫn dắt chúng về vấn đề mà quư huynh muốn chúng phải tập trung vào đó. Quư huynh hăy chọn một đề tài và hăy chú ư vào đó một cách hoàn toàn và không gián đoạn. Quư huynh nên nhớ rằng quư hunh có một ưu điểm rất lớn về sự huấn luyện cái trí này, quư huynh có những tập tục cổ truyền Ấn Độ; sự truyền thống về thể xác đă được uốn nắn theo những tập tục đó, và nền giáo dục trong thời thanh niên của quư huynh đă làm cho quư huynh quen thuộc với sự luyện tập cái trí. Đối với một người Tây Phương, làm chủ được sự hỗn loạn của cái trí th́ khó hơn là đối với quư hunh, v́ ở Tây Phương, sự kiểm soát cái trí không được truyền dạy trong khuôn khổ Đạo Giáo như ở tại đây. Ở Tây Phương con người có xu hướng đi từ vấn đề nầy sang vấn đề khác một cách không mạch lạc. Cái thói quen luôn luôn đọc nhật báo- tôi chỉ lấy một thí dụ tầm thường- mỗi ngày đọc đến ba bốn tờ, là một trong những điều nó khiến cho sự kiểm soát cái trí rất khó khăn. Quư huynh nhảy từ vấn đề nầy đến vấn đề kia; đây, thoạt tiên một vài điện tín nó làm đảo lộn cái trí, từ nước Anh đến nước Pháp, từ nước Y pha nho đến mũi “Kam Tchatka”, từ Tân Tây Lan đến Mỹ Châu. Khi quư huynh đă đọc một cột báo hay nửa cột báo, quư huynh sẽ thấy một thứ tin tức khác. Đó là những tài liệu về cách sinh hoạt của một dân tộc quen biết, những bài tường thuật về những buổi hát ban đêm, hay những phiên xử ở ṭa án. Nh́n xuống nữa, một cuộc đua thuyền hay một cuộc chạy bộ, những chi tiết về thể thao hay điền kinh v.v… Tất cả quư huynh đều biết phần nội dung rất khác nhau của các nhật báo. Người ta không hiểu cái tổn hại gây cho họ bằng cách phung phí năng lực của trí năo, như họ vẫn thường làm, về những vấn đề tầm thường và ít quan hệ như thế. Tôi biết rơ ở Tây Phương có người, tôi dám chắc, mỗi ngày đọc năm sáu tờ nhật báo, trong lúc họ đọc như vậy, họ phung phí bao nhiêu năng lực của cái trí, v́ khi họ hoang phí năo lực như thế hằng ngày, và một khi điều đó trở thành một thói quen họ không c̣n có thể tập trung tư tưởng một cách dễ dàng vào một ư nghĩ nữa, ngoài ra c̣n mất một thời gian quư báu có thể dành cho những vấn đề cao thượng hơn nhiều. Tôi không nói rằng sống trong xă hội, quư huynh không nên biết đến những điều xảy ra xung quanh ḿnh, nhưng chỉ đọc một cách yên tĩnh trong vài phút một tờ nhật báo nói đến những vấn đề quan trọng nhất, như vậy là đủ lắm rồi. Nếu quư huynh biết cách đọc, th́ thế là vừa đối với những việc ở cơi đời nầy.

        Để quư huynh có thể chống lại với cái xu hướng phung phí tư tưởng ở thời đại nầy, quư huynh phải tập cái thói quen hằng ngày suy nghĩ một cách liên tiếp, và tập trung sự chú ư của ḿnh, trong một thời gian vào một vấn đề. Để rèn luyện cái trí của ḿnh, quư huynh hăy tập mỗi ngày đọc một vài trang của một cuốn sách bàn về những điều quan trọng của đời sống, về những điều vĩnh cửu trường tồn hơn là về những điều phù du mộng ảo, và quư huynh hăy tập trung cái trí của ḿnh vào điều ḿnh đang đọc. Quư huynh đừng cho nó đi vơ vẩn, tự tiêu hao sức lực vào những điều hoàn toàn vô ích. Nếu nó đi xa, quư huynh hăy kéo nó trở về, hăy bắt nó suy nghĩ lại bắt đầu làm chủ nó; nhờ một sự luyện tập liên tiếp, quư huynh sẽ học cách kềm chế nó, và bắt nó phải theo con đường mà quư huynh đă lựa chọn cho nó. Dù đối với những việc thế gian, cái khả năng nầy cũng cho ta những lợi ích lớn lao. Không những nó chuẩn bị cho quư huynh sống một đời sống cao siêu mở rộng ra trước mặt quư huynh, mà người nào có thể tập trung tư tưởng vào một mục đích c̣n là người thành công nhất trong những sự việc của đời sống hằng ngày. Người có thể tư tưởng một cách liên tiếp, sáng suốt và rơ ràng, là người biết cách tự vạch con đường đi của ḿnh, dù là trong đời sống Hồng Trần. Sự luyện tập liên tiếp cái trí sẽ hữu ích cho quí vị trong những sự nhỏ nhặt cũng như trong những sự cao thượng, và quư huynh sẽ dần dần phát triển cái quyền năng kiểm soát, nó là một trong những đức tính của người Chí Nguyện làm Đệ Tử.

        Nhờ sự tập rèn cái trí của ḿnh như vậy, quư huynh có thể đi đến một kết quả khác- đó là sự tham thiền. Sự tham thiền là cái cách luyện tập cho cái trí quen định lại, trụ lại trên một tư tưởng, tùy ư ḿnh và không bao giờ gián đoạn. Quư huynh phải luyện tập như vậy hằng ngày, v́ làm như thế ngày qua ngày, huynh sẽ nhờ thói quen của xác thân và cái trí giúp sức. Điều mà quư huynh làm hằng ngày sẽ trở thành một thói quen, chẳng bao lâu quư huynh sẽ làm được nó mà không phải khó nhọc ǵ; cái điều thoạt đầu khó khăn sau trở nên dễ dàng nhờ sự thực hành. Người ta phân biệt hai cách tham thiền: tham thiền có tính cách sùng bái và tham thiền có tính cách mở mang trí thức, và con người Đạo Hạnh có ước vọng làm đệ tử sẽ tập tham thiền cả hai cách. Y tập định trí và để tư tưởng ḿnh trụ trên lư tưởng thiêng liêng, trụ vào Sư Phụ mà y chưa biết nhưng y hy vọng một ngày kia sẽ gặp. Luôn luôn có cái lư tưởng hoàn toàn ấy trước mắt, y sẽ lấy đó làm mục tiêu của cái trí y, trong những giờ tham thiền, làm mục đích của những ước vọng kiên cố bất biến và không hề lay chuyển của ḿnh. Khi cái trí càng phát triển, th́ điều vừa nói trên lại càng dễ dàng: lấy lư tưởng đó làm đối tượng của những sự tham thiền liên tiếp của ḿnh, sau cùng y sẽ là phản ảnh của lư tưởng ấy và sẽ lần lần giống in nó. Đó là một trong những khả năng sáng tạo của cái trí- con người sẽ tiến tới lư tưởng mà y luôn luôn nghĩ th́ sau nầy chính y cũng đạt được nó. Dần dần khi quả quyết định trí ḿnh vào cái lư tưởng ấy, khi ước vọng đạt được nó, khi muốn tiếp xúc với nó, th́ con người sẽ nhận thấy rằng trong những giờ tham thiền nầy, cái Hạ Trí lắng yên và ch́m đắm trong một trạng thái yên tĩnh; y không c̣n có những cảm giác của thế giới bên ngoài, và cái trạng thái cao cả của Lương tri sáng chói rực rỡ như một ánh lửa bên trong, cái trạng thái cao cả của Lương tri cá nhân đă nhận định được ḿnh là thế nào. Khi cái Hạ Trí lắng yên như thế, khi sự cuồng loạn của nó đă bị kiềm chế, th́ nó trở thành một cái hồ êm ả, không một ngọn gió nào có thể làm xao động được, không một ḍng nước nào có thể làm rung chuyển được. Cái hồ nầy giống như một tấm gương, mặt trời phản chiếu cái vẻ huy hoàng của những tia sáng trên diện tích trong sáng và yên tĩnh của cái gương nầy và soi h́nh trên những ḍng nước êm ả của nó. Cũng giống như thế, cái trạng thái cao cả của Lương tri soi ḿnh trên gương của Hạ trí yên tịnh. Lúc đó con người hiểu biết do sự kinh nghiệm riêng biệt của ḿnh, chớ không phải do lới ai thuật lại, rằng chính y là một cái ǵ cao hơn cái trí mà y đă khảo cứu để biết rơ như là trí thức, và cái trạng thái Lương tri của y cao hơn cái trạng thái ư thức phù du của cái trí. Lúc đó có thể y bắt đầu hợp nhất với cái ǵ cao cả ở nơi y và y trông thấy thoáng qua, dù chỉ trong chốc lát, sự huy hoàng của Chơn Linh. Thật vậy, quư huynh đừng nên quên rằng Thánh Kinh luôn luôn dạy rằng chính quư huynh là cái tinh hoa cao cả chớ không phải là cái thấp hèn. Lời tuyên bố mà chúng ta đọc được trong kinh Chhandogyapanishad và trong nhiều sách khác nữa: “Ngươi là Brahma”, “Ngươi là Thượng Đế” và người mà những người Phật tử đều nhắc lại: “Ngươi là Phật” có ư nghĩa ǵ? Điều nầy sẽ không bao giờ là một sự thực đối với tâm thức quư huynh, dù về phương diện trí thức, quư huynh nhận định được nó một cách hoàn toàn đến đâu mặc dầu, cho đến khi quư huynh có thể do sự tham thiền mà biến đổi được cái Hạ trí thành một tấm gương để phản chiếu Thượng trí. Rồi một giai đoạn mới của sự tham thiền sẽ làm cho quư huynh đi đến sự hợp nhất với Thượng trí một cách có ư thức, và lúc đó quư huynh sẽ biết cái điều mà tất cả các vị Đại Sư đă muốn diễn tả bằng cái câu bất hủ nói trên, nó nhận định cái yếu tố thiêng liêng có sẵn ở trong con người.

        Khi người ta áp dụng hằng ngày những nguyên tắc nầy, trong nhiều tháng và nhiều năm không ngừng, sau cùng chúng nó sẽ thấm nhuần cả đời sống và trở thành vĩnh viễn, chớ không phải chỉ có từng lúc, từng hồi mà thôi. Thoạt đầu, chỉ hạn chế trong những giờ tham thiền, sau chúng sẽ lan rộng đến đời sống của con người trong xă hội. Quư huynh có thể nói: “Tôi làm sao nhận biết được điều nầy trong khi tôi phải bận rộn trong đời sống vật chất? Tôi làm sao luôn luôn nhận thức được Thượng trí, trong khi Hạ trí đang hoạt động mạnh? Vậy chớ quư huynh không biết rằng khi quư huynh đến nghiêng ḿnh trước bàn thờ, xác thân huynh có thể bận dâng hoa, trong khi mà trí của quư huynh vẫn tập trung vào Đấng Thiêng Liêng. Cái h́nh hài vật chất của quư huynh thật đang hoạt động, trong khi tư tưởng của quư huynh không trụ vào những bông hoa của quư huynh hiến dâng, mà lại trụ vào Đấng mà quư huynh kính dâng bông hoa. Bàn tay làm hoàn toàn cái phận sự dâng hoa, tuy lúc đó tư tưởng của cái trí tập trung vào Đấng Thiêng Liêng. Ở xă hội vật chất của loài người th́ cũng vậy, quư huynh có thể dâng những bông hoa của bổn phận bằng cách sống một cuộc đời luôn luôn hoạt động, một đời sống khó nhọc hằng ngày; quư huynh có thể hiến dâng những bông hoa nầy một cách cụ thể và thành tâm bằng cách hết ḷng làm đầy đủ nhiệm vụ của ḿnh, ở cơi đời vật chất, trong khi quư huynh luôn luôn đắm đuối trong sự tham thiền và sự tôn sùng. Quư huynh hăy học phân tách cái lương tri cao cả với cái lương tri thấp thỏi của ḿnh, và sau cùng, quư huynh sẽ có được cái năng khiếu hoạt động về trí năo mà không quên cái “Chơn Ngă” thiệt thọ; cái trí làm đầy đủ những nhiệm vụ của ḿnh, trong khi Chơn Linh ngự trên một cảnh cao hơn.

        Quư huynh sẽ không bao giờ rời bỏ Thánh điện nội tâm, dù ở trong xă hội loài người, quư huynh hoạt động cách nào trong đời sống vật chất. Chính theo cách ấy mà một người tự chuẩn bị để thành Đệ Tử.

        Chúng ta c̣n phải xét qua một cách mau lẹ một giai đoạn khác nữa; đó là cái giai đoạn mà tôi gọi là cái khía cạnh trí thức của sự tham thiền, có liên quan đến sự lần lần xây dựng tính nết. Chúng ta hăy trở lại với cuốn đại luận “Con Đường Hành Động”, với những giáo lư của Đức Krishna trong Thánh Kinh Bhagavad Gita. Khi đọc chương 16, ta thấy bản danh sách dài kể những đức tính mà một người phải mở mang để một kiếp sau có sẵn chúng nó trong ḿnh. Người ta gọi chúng là những “Năng khiếu thiêng liêng” và Sư Phụ nói với Arjuna: “Người sinh ra với những năng khiếu thiêng liêng hỡi  những kiếp vị lai, quư huynh phải phát triển chúng trong kiếp hiện tại. Để có thể mang chúng theo khi quư huynh  ra đời, quư huynh phải dần dần đào tạo chúng trong những kiếp liên tiếp, và con người ở thế giới này muốn biết ḿnh có thể xây dựng tính cách nào th́ không có ǵ hơn là coi cái bản danh sách kể những đức tính cần phải có ấy, những “Năng khiếu thiêng liêng” cần thiết cho người đệ tử, và mở mang từng đức tính một trong đời sống hằng ngày của ḿnh theo phương pháp song đôi, vừa Tham Thiền vừa Hành Động.

        Tính trong sạch- Thí dụ một trong những đức tính ấy là sự Trong Sạch. Sự Tinh Khiết bằng cách nào con người có thể phát triển tính Tinh Khiết nơi ḿnh? Bằng cách đem đức tính đó vào trong số những đề tài mà y phải tham thiền mỗi buổi sáng và bằng cách nhận định rơ ràng “Tinh Khiết” nghĩa là ǵ? Không một tư tưởng ô trọc nào được chạm phớt qua nơi y; không một hành động đê tiện nào được làm nhơ bẩn y; y phải tinh khiết theo ba khía cạnh: tư tưởng , lời nói và việc làm. Đó là ba bổn phận mà một ngày trước đây tôi đă nhắc nhở quư huynh, ba sợi dây mà người Bà la môn luôn luôn mang theo ḿnh là biểu hiệu của chúng nó. Buổi sáng, con người phải nghĩ đến tính Tinh Khiết như là một sự đáng ước ao phải đạt được, rồi giữ cái cảm giác của lúc tham thiền buổi sáng ấy khi y đi làm công kia, việc nọ. Y phải coi chừng những hành động của y, y sẽ không để cho một hành động quấy quá nào làm nhơ bẩn thể xác của y, suốt ngày y sẽ không phạm tới một việc hèn mạt nào, v́ y ḍ xét mỗi hành động của ḿnh để không có một sự tiếp xúc xấu xa nào có thể nhiễm y. Y phải coi chừng lời nói và không thốt ra  một lời thô tục nào; trong khi nói chuyện y không nói xa gần đến một đề tài bẩn thỉu nào, không bao giờ y tự làm dơ dáy miệng ḿnh v́ một câu nói có ẩn ư khiếm nhă. Tất cả những lời nói của y sẽ khá trong sạch để nếu cần, y có thể kính cẩn thốt ra trước Sư Phụ; mắt Ngài thấy rơ cái dấu vết nhơ nhớp mà mắt con người thường không nhận ra. Y sẽ làm thế nào để mỗi lời nói của y sẽ là lời trong sạch nhất mà y có thể thốt ra được, và y sẽ không bao giờ tự làm hoen ố ḿnh hay làm hoen ố kẻ khác bởi một tiếng hay một câu có ẩn ư ô trọc. Tư tưởng của y sẽ luôn luôn Tinh Khiết. Không bao giờ y dung thứ cho một tư tưởng nhơ nhớp chiếm giữ trí ḿnh, và nếu tư tưởng ấy có đến, y sẽ xua đuổi nó đi ngay tức khắc. Ngoài ra, biết rằng tư tưởng đó không thể đến được nếu trí ḿnh không chứa đựng một cái ǵ để thu hút nó, y sẽ ân cần tinh luyện cái trí để không một tư tưởng ô trọc nào, dù từ đâu đến, cũng không thể dùng áp lực mà vào được. Sự kiểm soát sẽ tác động như vậy, ở cái điểm đặc biệt ấy, suốt cả ngày.

        Tính chơn thật.- Rồi y sẽ lấy tính Chơn Thật làm đề tài tham thiền buổi sáng. Y nghĩ đến sự Chơn Thật, y tưởng tới sự quan hệ của nó ở đời, trong xă hội, trong tính t́nh y, và khi y đi đến chỗ đông người, không bao giờ y phạm vào một hành động có thể lường gạt, không bao giờ y nói một tiếng diễn tả một tư tưởng sai lầm. Không những y không nói dối mà thôi, y c̣n không nói một điều ǵ không đúng, bởi v́ làm như vậy cũng là phô diễn một sự sai lầm. Thuật lại một cách không đúng điều mà ḿnh đă trông thấy, thế cũng là nói dối. Người muốn làm đệ tử th́ mọi sự nói quá đáng, thêm nhân thêm nhị trong một câu chuyện, tất cả những ǵ không hoàn toàn đúng với những sự xảy ra, như y biết, đều phải gạt bỏ một bên. Những tư tưởng của y cũng phải phù hợp với sự thật. Y phải coi chừng cho mỗi tư tưởng đều được đúng với sự thật, nhiều chừng nào tốt chừng nấy, để cái trí y không bị nhiễm cái bóng tối của sự sai lầm.

        Tính Từ Bi.-Về đức tính Từ Bi cũng thế; buổi sáng y sẽ tham thiền về đức tính nầy và ráng thực hành nó suốt ngày. Y sẽ tỏ ra hết sức từ ái đối với những người xung quanh, y sẽ giúp đỡ tất cả mọi việc mà y có thể làm, đối với gia đ́nh, bằng hữu và xóm giềng. Y sẽ ráng nâng đỡ những ai túng thiếu; y sẽ ráng an ủi những người mà y biết đang ở trong cảnh buồn rầu; y sẽ làm thế nào cho những nỗi đau khổ mà y ặp sẽ được nhẹ nhàng. Không những y nghĩ đến đức từ ái, mà y c̣n sống một cuộc đời hoàn toàn từ ái, để khiến đức hạnh nầy thành một thành phần của tính t́nh y.

        Sức mạnh của linh hồn.- Về sức mạnh của linh hồn cũng vậy; y sẽ tham thiền về sự cao thượng của con người có chí khí mà không một sự gí xảy ra có thể làm cho nản ḷng hay khiến cho kiêu hănh. Thành công cũng chẳng vui mừng, thất bại cũng chẳng khổ sở; người có chí khí không để cho hoàn cảnh lôi cuốn; ngày hôm nay không buồn rầu v́ t́nh thế khó khăn, và ngày hôm sau không vui vẻ v́ mọi việc đều tốt đẹp. Y sẽ t́m cách để luôn luôn giữ vững thăng bằng và có nghị lực và sẽ thực hành nguyên tắc nầy trong mọi trường hợp ở đời. Nếu y đứng trước những sự lo lắng, y sẽ nghĩ đến những việc trường tồn trong đó không có những sự bận tâm; nếu y bị hao tài tốn của, y sẽ nghĩ đến những kho tàng kiến thức của y mà không một sự ǵ làm cho mất được; nếu Tử Thần cướp mất của y một người bạn, y sẽ nhớ rằng không có một linh hồn nào có thể chết được; cái h́nh hài đă thác chỉ là một thứ y phục mà người ta cởi bỏ ra khi nó hư nát, để mặc một cái khác vào, và một ngày kia y sẽ gặp lại bạn y.

        Đối với tất cả những đức tính khác cũng vậy, như sự tự chủ, sự Điềm tĩnh,ḷng Can đảm, y sẽ tham thiền về những đức tính đó và cố gắng thực hành. Không phải tham thiền và thực hành một lượt tất cả những đức tính ấy. Không một ai sống ở cơi đời này mà có đủ thời giờ để ngày nào cũng tham thiền về mỗi đức tính ấy, nhưng y sẽ tập dần dần từng đức tính một, và sẽ hợp nhất tính t́nh ḿnh với nó. Quư huynh hăy làm việc không ngừng, đừng nản chí trước cái thời gian phải dành cho công việc này; chớ sợ hăi cái sự khó khăn mà việc nầy có thể đem lại cho ḿnh. Cái điều mà quư huynh xây dựng, quư huynh xây dựng cho thời gian trường tồn bất diệt và quư huynh có thể tỏ ra kiên nhẫn khi thời gian trường cửu ấy mở ra trước mặt ḿnh. Tất cả những ǵ mà quư huynh thâu hoạch được, th́ quư huynh thâu hoạch được măi măi. Nhưng nếu chỉ tham thiền không mà thôi, hay chỉ thực hành không mà thôi, th́ không đủ để xây dựng tính t́nh. Cả hai phương pháp đều phải đi đôi với nhau, cả hai đều phải dự phần vào đời sống hằng ngày, và khi đó, kết quả  là sự tạo tác nên một tính t́nh cao thượng.

        Con người đă tự huấn luyện như thế, con người đă hết sức cố gắng như vậy, đă dành thời giờ, tư tưởng và công lao của ḿnh để tự làm cho ḿnh xứng đáng gặp được Chơn Sư, th́ chắc chắn thế nào cũng t́m được Ngài, hay nói cho đúng hơn th́ thế nào Ngài cũng t́m y và tự hiện ra cho linh hồn y biết. Trong sự mù quáng và vô minh của ḿnh, dễ thường quư huynh tưởng rằng các vị Chơn Sư muốn ẩn ḿnh ư? Quư huynh nhầm lẫn đến nỗi nghĩ rằng các Ngài tự ư trốn tránh cặp mắt loài người để cho nhân loại vấp ngă mà không ai cứu trợ, và các Ngài không muốn giúp đỡ và d́u dắt nhân loại chăng? Tôi nói với quư huynh rằng, thật sự, cái ư nguyện t́m Chơn Sư của quư huynh có thể mạnh mẽ đến đâu, th́ việc Ngài quyết ư muốn t́m quư huynh để giúp đỡ quư huynh c̣n gấp ngàn lần mănh liệt hơn nữa. Nh́n xuống cơi trần này, các Chơn Sư nhận thấy rằng các Ngài cần phải có nhiều người giúp việc, và hiện giờ các Ngài có rất ít những người như thế. Cả đám quần chúng thác v́ vô minh, họ cần có những người dạy dỗ, và họ chết hằng hà sa số v́ không có ai giúp đỡ họ. các vị Đại Sư cấn có những đệ tử sống trong cơi trần nầy, và sau khi được các Ngài huấn luyện, đi cứu giúp những ai đau khổ, dạy dỗ những ai trí tuệ c̣n u ám. Các Ngài luôn luôn t́m kiếm trong đời một linh hồn muốn được giúp đỡ và sẵn sàng để để các Ngài giúp đỡ. Các Ngài luôn luôn nh́n xuống thế gian để có thể trả lời ngay với tiếng gọi của những linh hồn sẵn sàng tiếp rước các Ngài và không xua đuổi các Ngài, bởi v́ tấm ḷng của chúng ta đă bị khóa chặt trong ba lớp cửa để ngăn các Ngài vào, và các Ngài không thể dùng cường lực để tống cửa mà vô. Nếu một người khóa cửa lại sau khi đă chọn đường đi xong xuôi, th́ chỉ có y mới vặn khóa mở cửa được mà thôi. Chúng ta bị giam nhốt trong ṿng những dục vọng thế tục, trong ṿng sự thèm khát những vật Hồng Trần, chúng ta bị giam hăm dưới ba lớp cửa của tội lỗi, của sự lănh đạm và của sự lười biếng. Và Sư Phụ đợi mở cửa ra, để Ngài có thể bước qua ngưỡng cửa và soi sáng trí ta.

        Quư huynh sẽ hỏi tôi rằng: “Các Ngài làm thế nào mà phân biệt giữa bao nhiêu người, linh hồn nào làm việc cho các Ngài và tự sửa soạn để đón tiếp các Ngài? Câu trả lời đă được đưa ra dưới h́nh thức bóng dáng: Tỉ dụ như một người ở đỉnh núi nh́n xuống những thung lũng xung quanh. Người ấy nhận thấy một ánh sáng lấp lánh trong một cái nhà, v́ ánh lửa ấy nổi bật lên giữa những chốn tối tăm bao phủ nó. Cũng giống như thế, linh hồn tự chuẩn bị cũng chói sáng ở giữa những cảnh hắc ám trần gian, làm cho Ngài đứng trên đỉnh núi canh chừng chú ư đến. Quư huynh phải soi sáng linh hồn ḿnh, để Chơn Sư có thể nhận thấy được nó. Ngài canh chừng luôn luôn, nhưng quư huynh phải ra dấu hiệu để Ngài có thể thành Sư Phụ của quư huynh và d́u dắt những bước của quư huynh trên Đường Đạo. Quư huynh có  lẽ sẽ hiểu rằng điều nầy, cần thiết đến mực nào, sau khi sự học hỏi của chúng ta chấm dứt, sau khi tôi tả xong với quư huynh cái công việc của người đệ tử và giải nghĩa cho quư huynh biết những điều mà y có thể làm được; nhưng sáng hôm nay tôi xin từ giă quư huynh với cái tư tưởng sau nầy mà tôi muốn ghi khắc vào trí của quư huynh: “Sư Phụ canh chừng và chờ đợi. Ngài muốn t́m đến quư huynh và huấn luyện quư huynh. Quư huynh có quyền lực hấp dẫn Ngài tới ḿnh, và chỉ có quư huynh mới có quyền cho phép Ngài giúp đỡ quư huynh, Ngài có thể gơ cửa ḷng của quư huynh, nhưng chính quư huynh phải thốt ra những lời mời Ngài vào. Nếu quư huynh theo con đường mà tôi đă vạch rơ sáng hôm nay, nếu quư huynh dần dần kiểm soát cái trí, học tham thiền và xây dựng tính t́nh, th́ đó là quư huynh đă thốt ra ba tiếng khiến cho Sư Phụ nhận lời cầu khẩn của quư huynh. Khi quư huynh van vái lầm thầm trong sự yên lặng của tâm hồn, th́ Sư Phụ sẽ hiện ra. Linh hồn sẽ quỳ dưới chân Chơn Sư mà nó đă t́m từ lâu.”

III

ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI ĐỆ TỬ

đầu sách  cuối sách  chương 1 2 3 4

CON ĐƯỜNG NHẬP MÔN- BỐN BỰC ĐIỂM ĐẠO

        Thưa quư huynh, công việc của chúng ta sáng hôm nay rất là khó khăn. Trong hai bài thuyết tŕnh trước, như tôi đă nói đến đời sống thường ngày của những người trong trần thế nầy và tôi đă chỉ cho quư huynh thấy bằng cách nào họ có thể vừa sống cuộc đời của họ theo thói quen, vừa tự chuẩn bị để tuần tự đi đến những giai đoạn cao cả của sự tiến hóa, bằng cách nào họ có thể tự luyên tập lần lần để tiến triển một cách nhanh chóng hơn. Hôm nay trái lại, chúng ta phải tự vươn lên cao hơn cái đời sống tầm thường ấy; nói như thế không phải chỉ đứng về phương diện bên ngoài, nhưng có nghĩa là chúng ta sẽ học hỏi về cái chân tính của đời sống của nội tâm.

        Những giai đoạn của sự tiến bộ của nhân loại sắp nói đây là những giai đoạn rơ ràng và xác định, nó dẫn con người vượt khỏi đời sống của cơi thế gian nầy để nâng y lên đến đời sống trên những cảnh giới cao siêu, nó làm cho y tách ra khỏi nhân loại tầm thường để nhập vào một nhân loại hoàn toàn siêu phàm nhập thánh.

        Chính v́ sự học hỏi về những giai đoạn nầy bắt buộc chúng ta phải vượt qua giới hạn của những sự hiểu biết thông thường, như tôi đă nói với quư huynh, công việc trở nên khó khăn hơn, khó khăn cho quư huynh đang nghe đây, cũng như khó khăn cho tôi đang biện giải. Thật thế, muốn bàn luận về những vấn đề cao siêu và những ai có đủ tư cách nhất để theo dơi những giáo lư cao thượng nầy là những người đă cố gắng tinh luyện đời sống của ḿnh một phần nào và xây dựng tính nết ḿnh theo như hai bài thuyết tŕnh trước đă nói.

        Hôm qua tôi đă dẫn quư huynh đến cái mực của một người sau khi cố gắng cải thiện đời sống của ḿnh và kiểm soát tư tưởng để tự chuẩn bị đi đến địa vị một người đệ tử, đă làm cho một Vị Đại Sư chú ư đến và y đủ sức trải qua những giai đoạn đầu tiên của đời người đệ tử. Sáng nay, chúng ta sẽ cũng phải ráng miêu tả chu tất cái đời sống của người đệ tử. Người ta thường gọi những giai đoạn đầu tiên là “Con đường nhập môn” nghĩa là giai đoạn Thử ḷng để phân biệt với giai đoạn được thu nhận làm đệ tử Thiệt thọ. Trong thời gian thử thách, chúng ta nhận thấy vài sự tiến bộ và sự hoạch đắc vài đức tính xác định; những sự tiến bộ nầy chưa được rơ rệt bằng khi đi trên con đường đạo thiệt thọ, trên con đường của người đă được Chơn Sư nh́n nhận và thâu nhận làm đệ tử. Trên con đường Đạo thiệt thọ, trên con đường mà không những người đệ tử được Sư Phụ nh́n nhận mà chính y cũng biết được Ngài, y trải qua bốn giai đoạn hoàn toàn riêng biệt, mệnh danh khác nhau và được ngăn cách nhau bởi những sự Điểm Đạo đặc biệt. Người ta có chỉ những giai đoạn trong quăng đường của vị tân tín đồ nhập môn, nhưng không phân biệt một cách rơ ràng như ở đây. Người ta có thể coi những giai đoạn ấy như là diễn ra cùng cả một lúc với nhau hơn là đoạn nọ nối tiếp đoạn kia. Người đệ tử tạm thời, ta có thể gọi như vậy bất cứ người nào đi vào trong những đoạn đường nầy, không bị bắt buộc phải làm một cách hoàn toàn tất cả những ǵ mà y bắt đầu thực hành. Người ta muốn y làm thử, nhưng người ta không đ̣i hỏi ở y một sự thi hành hoàn hảo. Y chỉ cần phải thành thực và luôn luôn cố gắng, đừng thay đổi ư kiến và đừng lăng quên cái mục đích mà y tự vạch ra cho ḿnh. Y sẽ được nhiều sự dễ dàng, cũng như chúng ta thường nói về những công việc ở thế gian nầy, bởi v́ con người dễ lầm lỗi và yếu đuối và bởi v́ sự vô minh ngăn cản không cho y tiến bước. Những sự khó khăn mà y phải chịu đựng, những sự thử thách mà y phải trải qua là những sự khó khăn và thử thách mà người ta gặp trong đời sống hằng ngày; những sự khó khăn đủ mọi loại, đủ mọi thứ, mà lát nữa tôi sẽ nói qua vài lời, nhưng chúng không giống chút nào với những sự khó khăn gặp trên Đường Đạo thiệt thọ. Những giai đoạn của “Con Đường Nhập Môn” nếu tôi nhớ đúng, đă được mô tả cách đây vài năm, theo những giáo lư rất quen thuộc đối với những người Ấn Độ- do một người Bà la môn, anh là Hội Viên Thông Thiên Học, tên là Mohini Mohun Chatterji, người Calcutta, lúc đó anh đang cư trú bên Anh cát lợi (anh quốc). Anh đă mô tả những điều mà người ta gọi là những sự tiến bộ đầu tiên mà con người bắt buộc phải hoàn thành; họ nhờ các Tôn Sư của họ giúp đỡ một phần nào, nhưng thường thường họ không biết được việc đó nghĩa là khi ở trong trạng thái thức tỉnh b́nh thường th́ người đệ tử tưởng rằng y đă vượt qua quăng đường một ḿnh, và y đă có thể tin cậy ở sức lực và năng lực của ḿnh mà thôi. Tôi không cần nói rằng đó là một ảo tưởng do sự mù quáng và vô minh của y mà ra, v́ Sư Phụ y coi chừng y, tuy trong lúc c̣n ư thức không biết điều đó, và một sự giúp đỡ liên tiếp ban rải cho y từ những cảnh giới cao cả của Chơn Linh; sự giúp đỡ nầy biểu lộ trong đời sống của y, mặc dầu trí của y không thấy việc đó rơ ràng.

        Giờ đây, chúng ta sẽ thấy rằng những đức tính cần phải có, mà chúng ta đă nói đến như là những đức tính chuẩn bị, theo cái nghĩa đại cương của nó, sẽ có một h́nh thức rơ ràng hơn trong Con Đướng Nhập Môn.

        Đức tính thứ nhất Viveka (Tính Phân Biện).

        Cái đức tính thứ nhất là kết quả của những sự thử thách mà con người đă trải qua; chúng làm nẩy nở nơi y tính phân biện (Viveka) cái năng khiếu phân tách sự chân thật và ảo tưởng, sự trường tồn và sự phù du. Y sẽ bị ràng buộc ở Hồng Trần v́ sự vô minh; và những sự vật ở thế gian nầy sẽ triệt để quyến rũ y, làm mê hoặc y cho đến khi nào y có được tính phân biện. Y phải mở mắt ra và phải vượt qua bức màn của ảo tưởng, ít nhất trong một mức khá đủ để nhận đúng chân giá trị những sự vật của Hồng Trần, và do tính phân biện (Viveka) phát sinh ra đức tính thứ hai.

        Đức tính thứ nh́ Vaĩrâgya (Tính Dứt Bỏ hay là Đoạn Tuyệt), - Tôi đă làm cho quư huynh chú ư rằng con người phải khởi đầu bằng cách tự luyện tập hầu không c̣n để ư đến những lợi lộc do hành động của y có thể mang tới cho y. Y phải tự luyện để hành động như người ta làm một bổn phận, luôn luôn không hề hoài vọng đến một mối lợi tư riêng nào. Chúng ta tỉ dụ rằng một người đă luyện tập như vậy trong nhiều kiếp, trước khi người ta đ̣i hỏi ở y cái điều y phải hoạch đắc được, trong một phạm vi rất rộng, trước khi y có thể được Điểm Đạo, nghĩa là một sự Lănh đạm hoàn toàn đối với những sự vật Hồng trần. Nói tóm lại, Vaĩrâgya, tính dứt bỏ, là đức tính thứ hai mà người chí nguyện làm đệ tử phải có trên Con Đường Nhập Môn. Y đă phát triển được tính phân biện ( Viveka), và như chúng ta đă thấy, đó là cái năng khiếu phân biệt được sự chân thật với sự ảo mộng, sự phù du với sự vĩnh cửu. Và khi cái cảm giác chân thật và vĩnh cửu xâm nhập vào cái trí của con người thí lẽ cố nhiên những sự vật ở cơi thế gian nầy không c̣n quyến rũ được y nữa; đối với chúng, y chỉ c̣n sự lănh đạm mà thôi. Khi người ta đă nhận thấy sự chơn thật rồi, th́ ảo tưởng thật là không c̣n thấm thía vào đâu. Khi người ta đă phân biệt được sự trường tồn, dù chỉ trong chốc lát thôi, th́ sự phù du h́nh như không đáng theo đuổi chút nào. Trên Con Đường Nhập Môn, tất cả những sự vật bao vây chúng ta đều mất cả cái mănh lực quyến rũ của chúng, và con người không cần phải ráng sức để lánh xa chúng, từ nay y không c̣n cần phải cố ư kêu gọi đến ư chí để tự răn ḿnh không nên hành động với mục đích được lợi lộc. Những sự vật, tự chúng nó đă mất tất cả những mănh lực quyến rũ; những cội rễ của dục vọng lần lần bị tiêu rụi, và như Thánh Kinh Bhagavad-Gita đă nói, mọi vật đều lánh xa vị Chơn Nhơn hoàn toàn tiết dục đương ngự ở xác thân. Không phải v́ y tự ư kiêng cữ, nhưng chính v́ mọi sự ấy đă mất mọi quyền lực làm thỏa măn y một cách nào đó. Tất cả những ǵ làm cho giác quan ưa thích đều lánh xa y, do cái sự luyện tập mà chúng ta đă nói trên và y đă trải qua.

        Từ nay, nh́n thấy sự vật dưới cái khía cạnh phù du của nó, lẽ dĩ nhiên sự lănh đạm của y đối với sự vật sẽ phát sinh ra cái đức tính mà y đă cố gắng hoạch đắc từ lâu, tức là sự lănh đạm đối với những kết quả, bởi v́ chính những kết quả ấy cũng chỉ là những sự vật mà thôi. Những kết quả đều gồm trong những sự vật mà y thấy rơ bản tính phù du và ảo tưởng, từ khi y nhận biết được sự chân thật và sự trường cửu.

        Đức tính thứ ba Shatsampatti (Sáu đức tính thuộc về nhóm năng lực trí thức). Phải thấm nhuần cái đức tính thứ ba cần phải có trên Con Đường Nhập Môn, Shatsampatti, cái nhóm gồm sáu năng khiếu thuộc về cái trí, hay những phẩm tính của cái trí, chúng biểu lộ trong đời sống của những kẻ mà chúng ta gọi là thí sinh đệ tử. Y đă chiến đấu từ lâu để có thể làm chủ tư tưởng của y. Y đă thực hành tất cả những phương pháp mà chúng ta đă nói hôm qua, để có thể tự chủ, để quen tham thiền và để làm việc xây dựng tính t́nh. Từ nay, sự thực hành nầy giúp y bộc lộ được trong con người thiệt thọ của y- v́ chúng ta đây bàn luận về con người thiệt thọ, chớ không phải về cái vẻ bề ngoài, ảo mộng, đức tánh đầu tiên của Shatsampatti là:

a)    Shâma. Shâma tức là sự kiểm soát cái trí, cái kỷ luật nghiêm nhặt

Của những tư tưởng, sự hiểu biết minh bạch về những hậu quả của tư tưởng và những mối liên quan mà chúng thiết lập giữa y và xă hội xung quanh tùy theo chúng hướng về điều thiện hay điều ác, bởi một sự kiện chắc chắn là y có quyền lực giúp đỡ hay phá rối đời sống kẻ khác do những tư tưởng của y; y có quyền lực làm cản trở hay làm cho dễ dàng sự tiến hóa của ṇi giống, y trở thành một người hữu tâm cộng tác với sự tiến bộ của nhân loại và tất cả những sinh linh đang tiến hóa trong giới hạn của cơi đời mà y đang sống đây. Và cái kỷ luật của những tư tưởng- nó từ nay là cái trạng thái b́nh thường của cái trí y- chuẩn bị cho y trở thành một người đệ tử thiệt thọ, như các bạn sẽ thấy; tất cả những tư tưởng của người đệ tử nầy đều phải được xử dụng cho công việc Chơn Sư; cái trí của người đệ tử nầy phải theo dơi một cách tự nhiên những con đường mà ư chí đă vạch sẵn cho y.

b)    Đức tánh thứ nh́ là Dâma. Do cái kỷ luật của tư tưởng bây giờ đă

Được xây dựng chắc chắn, tự nhiên sẽ nẩy sinh ra Dâma, sự kiểm soát giác quan và xác thân hay là cái kỷ luật của hạnh kiểm. Quư huynh có để ư rằng, khi ngưới ta bàn luận những vấn đề theo quan điểm huyền bí, th́ chúng nó bị hiểu ngược lại đối với cái quan điểm hồng trần. Mọi người ở thế gian nầy th́ chú trọng đến hạnh kiểm hơn là chú trọng đến tư tưởng. Trái lại, những nhà huyền bí học để tư tưởng lên trên hạnh kiểm. Nếu tư tưởng chơn chánh th́ lẽ tự nhiên phẩm hạnh sẽ được thanh cao. Nếu tư tưởng có kỷ luật th́ chắc chắn hạnh kiểm sẽ được kiểm soát kỹ lưỡng và được hướng dẫn trúng cách. Cái trạng thái hữu h́nh, tức là sự hành động chỉ là sự phô diễn của tư tưởng thầm kín nó khoác cái lớp áo bề ngoài mà chúng ta gọi là sự hành động trong thế giới hữu h́nh nầy; nhưng cái bản chất của nó là sản phẩm của đời sống nội tâm, và cái h́nh hài của nó được đóng trong cái khuôn do tinh lực làm ra, mà tinh lực mới là kẻ thiệt thọ tạo h́nh hài đó. Thế giới vô h́nh, cơi Thượng Thiên, là thế giới của những nguyên nhân, c̣n thế giới hữu h́nh, cơi Hạ thiên, chỉ là thế giới của những hiệu quả. V́ vậy sự giữ ǵn tư tưởng cố nhiên phải phát sinh ra cái hiệu quả là kỷ luật của hành động,  hành động chỉ là sự biểu hiệu tự nhiên và không tránh khỏi của tư tưởng.

        c) Đức tính thứ ba là Uparati (Khoan dung). Cái phẩm tính thứ ba biểu thị cái trạng thái của con người nội tâm là “Uparati” nếu dịch một cách đúng nhất th́ là một sự khoan dung rộng răi, cao thượng và bền bỉ- tôi dùng chữ khoan dung với ư nghĩa rộng răi nhất mà quư huynh có thể cho nó được- một sự khoan dung với tất cả mọi vật xung quanh, một tính kiên nhẫn cao cả có thể đợi chờ và thông cảm, do đó nó không đ̣i hỏi ở ai cái ǵ quá sức họ. Điều nầy cũng là một sự chuẩn bị đến một giai đoạn rất đặc biệt trên con đường của người Đệ tử thiệt thọ. Cái thái độ đầy khoan dung nầy khiền y có thể tạo ra những sự dễ dàng cho mỗi người và mỗi vật; khiến y nh́n mọi người không theo cái vẻ bề ngoài của họ, nhưng theo cái vẻ bên trong; khiến y có thể phân biệt được những hoài vọng của họ, những ư muốn và những nguyên do của họ, chớ không phải chỉ nhắm vào những vẻ thô tục và thường thường mâu thuẫn mà họ đă khoác trên con người họ trong thế giới hữu h́nh nầy. Con người học tập khoan dung về tín ngưỡng đối với tất cả những tôn giáo, học chịu đựng đủ thứ tập quán cùng những phong tục khác nhau của người đời. Y hiểu rằng đó chỉ là những giai đoạn nhất thời mà con người sẽ vượt qua, và y không vô lư đến nỗi trông đợi ở nhân loại, hăy c̣n ở thời kỳ ấu trĩ, cái tầm mắt rộng răi và cao xa, cái tính kiên nhẫn đầy vẻ uy nghi là cái nét đặc biệt của nhân loại trong cái giai đoạn trưởng thành chớ không phải trong những giai đoạn phát triển đầu tiên. Người sắp được điểm đạo luôn luôn giữ ǵn thái độ của tư tưởng như thế, và y phải có được cái tính khoan dung ấy nhờ sự hiểu biết sâu xa về Chơn Lư; y c̣n phải phân biệt Chơn Lư đó ở tận dưới lớp màn phỉnh phờ của những h́nh thức bề ngoài. Quư huynh có để ư rằng trên con đường Nhập Môn, sự thay đổi lớn lao được thực hiện nơi con người chỉ là buổi b́nh minh của ư niệm về sự thật hay không? Y không bị những vẻ bề ngoài gạt gẫm như xưa nữa. Dần dần với sự phát triển của y, y nhận thấy sự thật rơ ràng hơn và lần lần cởi bỏ được ảo tưởng. Y tự giải thoát ra mọi sự lệ thuộc của h́nh dáng bên ngoài và nh́n nhận được Chơn Lư cho dù nó ẩn trong một h́nh thức ảo mộng.

        d) Đức tính thứ tư là titiksha, tính Chịu Đựng (Kiên nhẫn) tức là cái khả năng chịu đựng một cách kiên nhẫn tất cả những sự ǵ xảy ra mà hoàn toàn không hề thù oán. Quư huynh hăy nhớ lại: tôi đă khiến quư huynh chú ư đến khả năng nầy như là một năng khiếu mà người ta phải cố gắng mở mang, tôi đă giảng giải với quư huynh rằng con người phải tự giải thoát ra khỏi mọi khuynh hướng tự cảm thấy ḿnh bị sỉ nhục; y phải phát triển nơi y ḷng bác ái, sự xót thương và sự tha thứ, và sự phát triển nầy sẽ có kết quả: đó là một trạng thái vững chắc và nhất định của cái trí. Như vậy con người nội tâm tự giải thoát khỏi mọi sự oán thù, bất cứ là oán thù sự ǵ, đối với người, đối với thời cuộc, đối với mọi vật xung quanh y trong đời sống. Tại sao? V́ y đă thấy Chơn Lư và biết Định Luật; bởi v́ y trông thấy hiệu quả của Định luật chí thiện; trong những hoàn cảnh bao quanh y, mặc dầu những hoàn cảnh ấy thế nào; y biết rằng những thế nhân, mặc dầu họ đối đăi với y cách nào, cũng chỉ là những nhân viên vô tâm của Luật Quả Báo. Y biết rằng tất cả những ǵ có thể xảy đến cho y kiếp nầy là do y tạo ra trong dĩ văng. Cho nên cái thái độ đặc biệt của y là không hề oán ghét thù hiềm. Y đă có được cái quan niệm của sự công bằng và không một điều ǵ cón có thể làm cho y nổi giận, v́ không một sự ǵ đến với y nếu y không xứng đáng thọ lănh; không một chướng ngại nào có thể hiện ra trên con đường y đi, nếu ở những tiền kiếp, chính y không tự tay tạo ra nó. Như vậy, chúng ta thấy rằng không c̣n một sự vui hay một sự buồn nào c̣n có thể làm cho y ra khỏi đường của y đi, không một sự cản trở nào trên con đường của y có thể làm cho y đổi hướng. Y trông thấy con đường và y theo nó. Y trông thấy mục đích và cố đạt được. Y không c̣n theo một phương hướng mờ mịt và không nhất định, lúc đi phía nầy, lúc đi phía kia, nhưng với những bước chân vững vàng và quả quyết, y theo con đường mà y đă chọn. Sự vui thích không thể làm cho y xa con đường ấy được; sự đau khổ cũng không thể làm y bỏ con đường ấy được. Y sẽ không tự để cho ḿnh thối chí, hoặc v́ buồn rầu, hoặc v́ sự trống rỗng v́ hư vô; không một tiếng gọi nào khiến y ĺa con đường ấy, trừ tiếng gọi của Chơn Sư mà y t́m cách đến quỳ dưới chân Ngài. Không thể nào tự để cho ḿnh bị lôi kéo, có sức mạnh để chịu đựng tất cả; Ôi, thật đó là những đức tính mà y cần phải có trên Con Đường Nhập Môn. Quả nhiên tôi đă nói đến những sự thử ḷng rải rác trên con đường của y đi, và tôi cần phải cho quư huynh hiểu lư do của những sự khó khăn ấy. Người tự dấn ḿnh vào con đường nhập môn định thực hiện trong số ít kiếp sống cái công việc mà người thường ở thế gian nầy phải mất hàng trăm kiếp mới làm xong. Y hành động như người muốn lên đỉnh núi mà không lần theo con đường khu ốc và tự nhủ rằng: “Tôi sẽ đi thẳng băng lên sườn núi. Tôi không muốn mất th́ giờ đi trên con đường vạch sẵn nhưng ngoằn nghoèo và dài ḍng như thế nầy, trên cái đại lộ rộng răi bằng thẳng và thuận tiện mà gần hết lộ trường đă mang dấu vết của muôn ức bàn chân dẫm lên. Tôi sẽ theo con đường ngắn nhất, đi mau nhất, thẳng băng trên sườn núi. Bất cần những sự khó khăn, tôi sẽ leo núi. Dù những sự cản trở có là thế nào đi nữa, tôi cũng sẽ tiến đến trước; nếu tôi thấy những hố sâu, những tường thành bằng đá tảng, tôi sẽ vượt qua; nếu có những trở ngại hay những khối đá trên con đường của tôi, tôi sẽ thu xếp cách nào để vượt chúng hay đi ṿng quanh; nhưng tôi nhất định leo lên sườn núi nầy”. Kết quả của điều nầy sẽ ra sao? Y sẽ bị cả ngàn khó khăn nổi lên bao vây y. Cái thời gian mà y sẽ rút ngắn được, y phải trả bằng cách chịu đau khổ để thắng những nỗi khó khăn của nhiệm vụ y. Ai tự dấn thân vào Con Đường Nhập Môn th́ giống như người đă chọn con đường ngắn nhất để đi lên đỉnh núi, và y lôi kéo vào bản thân tất cả cái nghiệp quả mà y đă tích trữ xưa nay, mà y cần phải trả một phần lớn, trước khi xứng đáng được Điểm Đạo. Những vị Nam Tào Bắc Đẩu, cầm cán cân của Luật Nhân Quả, mà có khi người ta gọi là những Vị Bảo Thủ Văn khố của Nghiệp Quả, hay những Vị Trông Coi Văn Khố của chất Tiên Thiên Khí (Akasha) trong đó có ghi chép tất cả những tư tưởng và những hành động quá khứ của con người; những Vị Đại Thiên Tôn, những Đấng Thiêng Liêng ấy, cao siêu hơn chúng ta tột bực; cái oai lực cao cả của các Ngài vượt khỏi cái tầm hiểu biết của chúng ta xa không biết bao nhiêu mà kể, đến nỗi lư trí của chúng ta không sao hiểu nổi những Đấng Cao Cả, ấy mà những Đấng Thiêng

 

Liêng ấy như có một cuốn sổ cho mỗi người. Dưới những con mắt vạn năng của các Ngài, các Ngài thấy công và tội của mỗi đời sống, và số công và tội này cần phải được thanh toán một phần lớn trước khi vượt qua ngưỡng cửa của sự Điểm Đạo. Và khi một người chí nguyện thành thực dấn ḿnh trên Con Đường Nhập Môn, khi y tự động đặt chân lên đó, th́ chính việc ấy là một lời cầu khẩn các Vị Nam Tào Bắc Đẩu, để xin các Ngài thanh toán những món nợ của y và đưa ra cho y cái số lượng nghiệp quả mà y phải trả. Trong  khăn. Cái món nợ nghiệp quả phải trả trong hằng trăm kiếp sống nay phải thanh toán trong vài kiếp, có khi chỉ trong một kiếp thôi, và lẽ cố nhiên là con đường phải đi sẽ khó khăn vậy. Con người sẽ bị những sự buồn rầu về gia đ́nh quấy rối, những nỗi khó khăn trong công việc làm ăn dồn dập tới, bị những sự đau đớn về tinh thần hay thể xác dày ṿ. Vậy th́ quư huynh có ngạc nhiên không khi tôi nói rằng y phải quả quyết để tiếp tục tiến trên Con Đường Nhập Môn, thay v́ đi lùi trở lại, và đừng nản ḷng. Tất cả h́nh như âm  làm cho mọi sự được tốt đẹp nhất, th́ sao y lại phải chịu được tất cả những ǵ nặng nhọc đau khổ nhất? Tại sao y lại bị tất cả những nỗi khó khăn và đau khổ quấy nhiễu khi y sống một cuộc đời tốt đẹp hơn những kiếp trước của y? - điều nầy có vẻ bất công, tàn ác, khi tự thấy ḿnh bị Số Phận bạc đăi hơn bao giờ hết, đúng vào lúc ḿnh đang sống một cách cao thượng nhất từ xưa tới nay. Y phải chiến thắng sự thử ḷng và không cho rằng: thế là bất công. Y phải tự nhủ: “Đó là kết quả của điều mà tôi đă làm. Tôi đă xin trả quả. Nay tôi đă được trả quả đó th́ thật không có ǵ là lạ lùng cả”. Ngoài ra y c̣n có thể tự an ủi bằng cách nghĩ rằng cái món nợ mà y đang trả đây nay được thanh toán vĩnh viễn, và một khi đă thanh toán rồi th́ nó không c̣n bao giờ đến quấy rầy y nữa. Mỗi món nợ nghiệp quả mà y trả đều được xóa bỏ vĩnh viễn trên cuốn sổ bộ đời của y. Ít nhất y cũng đă trả sạch món nợ đó. Như thế, nếu bệnh tật vật ngă y th́ y nghĩ rằng nên thoát khỏi sự lo lắng lớn lao đó; nếu y bị sự đau khổ và sự lo âu quấy rầy, y nhận những cách thử ḷng đó và tự nhủ: “Điều nầy là thuộc về dĩ văng của tôi, ở sau lưng tôi, chớ chẳng phải ở tương lai của tôi trước mặt tôi đâu”. Đó v́ vậy mà y tràn ngập sự vui vẻ ở giữa những nỗi lo buồn, tràn ngập hy vọng ở giữa những sự nản ḷng, y thơ thới ở giữa những sự đau khổ, v́ con người nội tâm hài ḷng với Nghiệp Quả, sung sướng v́ lời cầu xin của ḿnh đă được chấp thuận. Nếu không có sự đáp lời, th́ như vậy có nghĩa là tiếng nói của y không lên đến tai các Đấng Cao Cả, nghĩa là lời y cầu nguyện đă rơi xuống đất, v́ những nỗi lo  tranh đấu, những nỗi khó khăn, những sự cố gắng nầy, y có thể đạt được cái đức tính thứ năm của thể trí, đó là: Shraddha.

        e) Đức tính thứ nămshraddha là Đức Tin (ta cũng có thể gọi là lóng Tin cậy; tin cậy nơi Sư Phụ và tin cậy nơi ḿnh nữa). Quư huynh hiểu dễ dàng làm sao Đức tin là kết quả của một sự tranh đấu như thế. Quư huynh sẽ tự giải thích một cách dễ dàng tại sao mà sau cơn chiến đấu, ḷng tin cậy phải nảy sinh, giống như một cái bông nở ra dưới ảnh hưởng hỗn hợp của ánh sáng mặt trời với trận mưa. Con người đă tập tin cậy nơi Sư Phụ y v́ Ngài đă giúp y vượt được quăng đường chông gai và đă dẫn y đến phía bên kia, nơi đó có những cửa Điểm Đạo hé mở trước mặt y. Y cũng đă tập được tự tin nơi ḿnh, không phải tin nơi bản ngă thấp thỏi, mà y đă chế ngự được tính yếu đuối, nhưng tin cậy nơi Chơn Thần Thiêng liêng của y mà y bắt đầu nhận thấy uy lực. Từ nay, y hiểu rằng mỗi người đều thiêng liêng và ngày nay Sư Phụ y thế nào th́ một ngày kia, trong những kiếp lai sinh y sẽ giống in như Ngài vậy. Y tin cậy nơi quyền lực của Sư Phụ, Ngài dạy bảo và hướng dẫn y; tin cậy nơi kiến thức của Ngài, Ngài có thể d́u dắt và dạy dỗ y; tự nơi y, y cũng có một tấm ḷng tự tín, rất khiêm nhượng, nhưng rất mạnh mẽ, nó làm cho y tin chắc rằng ḿnh có cái quyền năng tự cải thiện, v́ chính y là bản chất thiêng liêng; và cái uy lực ở nơi y là uy lực của Thượng đế; ḷng tin nầy có đủ sức khiến y có thể vượt qua mọi nỗi khó khăn, để y có thể chịu đựng mọi sự thử ḷng và đắc thắng, mặc dầu những sự khó khăn phải chiến thắng lớn như thế nào.

        f) Đức tính thứ sáu là Samâdhânâ (sự Điềm Tĩnh).Cái đức tính thứ sáu thuộc vế trí là “samâdhânâ”, sự điềm tĩnh, điềm đạm, sự an tĩnh của cái trí: sự thăng bằng và ḷng quả cảm nầy là kết quả của những đức tính đă đạt được ở trên kia. Sau khi đă thực hiên được cái đức tính cuối cùng nầy, Con Đường Nhập Môn đă được vượt khỏi, người thí sinh đệ tử thấy ḿnh đứng trước cửa ngơ, và không cần phải cố gắng thêm nữa, cái Đức Tính thứ Tư Mumuksha đương nhiên sẽ hiện ra.

        IV.-Mumuksha. “Mumuksha” ư muốn được giải thoát, ta có thể xem nó như là sự kết liễu của những sự cố gắng lâu dài của thí sinh, khiến y thành một vị Adhikari (1)[x] sẵn sàng để được Điểm Đạo. Y đă bị thử thách và không bị coi như là không xứng đáng; sự phân biện của y thật tế nhị; sự lănh đạm của y không phải là một sự chán nản nhất thời do một sự bất đắc chí mà ra; cái trạng thái đạo đức và trí thức của y vốn Cao thượng; y đă đúng bực, sẵn sàng để được Điểm Đạo. Người ta không đ̣i hỏi ở y một điều ǵ nữa, từ nay y xứng đáng được đối diện với Sư Phụ y, xứng đáng đương đầu với cái đời sống mà y đă t́m kiếm bấy lâu.

        Quư huynh hăy lưu ư rằng trước khi chúng ta vịn được cánh cửa Điểm Đạo, mỗi năng khiếu phát triển trên Con Đường Nhập Môn chỉ là một sự chuẩn bị để sau nầy phải được hoàn thiện. Chính những năng khiếu đạo đức và trí huệ là điều bắt buộc phải có, chớ chẳng phải những tài phép, chẳng phải một sự phát triển linh năng bất thường, gọi là những phép thần thông đâu. Những phép thần thông nầy không hề bắt buộc phải có, hay là phải tŕnh bày. Một người có thể đă phát triển một vài phép thần thông, nhưng vẫn chưa sẵn sàng để được Điểm Đạo. Y phải có những phẩm tánh đạo đức. Những phẩm tánh nầy bắt buộc phải có một cách gắt gao không có chi làm lay chuyển quyết định đó được. Xin phép quư huynh cho tôi nói phớt qua sự gắt gao nầy; đó chính là kết quả của sự kinh nghiệm vậy. Những Vị Đại Sư, từ những ức triệu năm rồi, không ngớt huấn luyện dần dần nhơn loại. Với những kinh nghiệm sâu xa của các Ngài. Các Ngài biết rằng những đức tính cần thiết để trở thành một người Đệ tử thiệt thọ phải căn cứ trên sự mở trí và trên những điều kiện đạo đức, chớ không phải trên sự phát triển năng khiếu thần thông; sự phát triển thần thông nầy sẽ được thực hiện vào lúc thích nghi. Muốn thành một đệ tử được thâu nhận th́ Thể Trí và trạng thái Đạo Đức phải sẵn sàng tŕnh bày dưới mắt của Chơn Sư. Những đức tính mà Ngài bắt buộc phải có là những đức tính mà chúng ta vừa mô tả, và những đệ tử của Ngài phải mang những đức tính đó đến với Ngài trước khi nhận được sự Phục Sinh mà chỉ có Ngài mới ban cho họ được mà thôi. Những đức tính nầy bao hàm sự hiểu biết và ḷng sùng đạo- sự phát triển kiến thức nó giúp cho con ngưới thấy được, và nếu không có sự phát triển của ḷng sùng đạo th́ con người không sao vượt nổi quăng đường. V́ thế mà chúng ta đọc trong Thánh Kinh “Upani shads” rằng sự Hiểu Biết mà không có ḷng Sùng Đạo th́ không đủ, và chỉ một ḷng Sùng Đạo không thôi, th́ hăy c̣n thiếu. Cả hai đức tính nầy đều cần thiết, v́ chúng là những cánh giúp cho người Đệ tử lấy đà mà bay lên.

        Bây giờ chúng ta đi đến Con Đường Đạo chính thức. Thỉnh thoảng trong cơi Hồng Trần có một vài tiếng, tự miệng các Vị Chơn Sư thốt ra, về những Sự Đại Điểm Đạo nó đánh dấu những giai đoạn của Con Đường Đạo, sau khi người Đệ Tử đă được Sư Phụ thu nhận, và sau khi Ngài đảm nhiệm cái việc hướng dẫn, dạy bảo và coi chừng Đệ tử Ngài.

        Chúng ta có thể t́m thấy ở nơi nầy hay ở nơi khác những câu nói bóng gió gián tiếp, sau nầy được chứng minh bởi sự kinh nghiệm của những ai đă bước vào cửa Đạo; những lời bóng gió nầy được phép loan truyền trong một phạm vi nhỏ hẹp, không phải để làm thỏa măn một sự ṭ ṃ tọc mạch vô ích, mà để dạy bảo những ai muốn tự ḿnh chuẩn bị tiến đến cái tŕnh độ cao siêu ấy. Tất cả những ǵ mà người ta có thể nói về những cuộc Điểm Đạo nầy, lẽ cố nhiên là c̣n thiếu sót; những điều được phép tiết lộ ra với thế giới loài người về những sự huyền bí cao siêu ấy, chỉ là những tài liệu không đầy đủ. Nhiều câu hỏi phát sinh ra ở trí óc quư huynh, khi tôi dần dần gom góp những khái niệm ấy để làm thành một đại thể tuy mỏng mảnh nhưng đồng nhất; nhiều câu hỏi sẽ làm bận trí quư huynh, mà sự cẩn mật không cho phép trả lời. Như tôi đă nói với quư huynh, những tài liệu nầy được trưng ra không phải là để làm thỏa măn sự ṭ ṃ tọc mạch, hoặc để cho quư huynh có dịp đặt một loạt câu hỏi và nhận được một câu trả lời cho mỗi câu hỏi ấy. Những khái niệm nầy chỉ dành riêng cho những người chí nguyện chân thành; cho những người muốn biết để có thể tự ḿnh chuẩn bị; cho những ai muốn hiểu để có thể thi hành. V́ vậy cho nên thỉnh thoảng những lời bóng gió gián tiếp được nói ra, thổ lộ một phần tài liệu vừa đủ để chỉ dẫn nhưng không có tính cách làm thỏa măn một tính hiếu kỳ vô ích thuộc về thế tục.

        Hai vị Đại Sư có tên trong lịch sử đă cho những lời chỉ giáo về vấn đề nầy nhiều hơn là những vị khác. Mỗi vị nầy là Giáo Chủ của một tôn giáo rộng lớn như thế gian. Tôi dùng những tiếng “rộng lớn như thế gian” không phải với ư nghĩa của diện tích rộng răi, mà với ư nghĩa ảnh hưởng của tôn  Sư ấy là Vị Sáng Lập ra Phật Giáo, tức là Đức Phật; Vị Chơn Sư thứ hai là Đức Shri Shankarâchârya, Ngài đă làm cho Ấn Độ giáo cái việc mà Đức Phật đă làm cho những xứ ở ngoài phạm vi của Ngài, bằng cách sáng lập giáo lư công truyền(1)[xi]. Về con đường Đạo phải đi theo. Giáo lư của hai Ngài giống hệt nhau, cũng như giáo lư của những Vị đă được Điểm Đạo bực cao. Mỗi Ngài đều ấn định những giai đoạn giống nhau: mỗi Ngài đều phân chia những giai đoạn nầy bằng những cuộc Điểm Đạo đặc biệt ngăn cách những giai đoạn đă qua cũng như những giai đoạn sắp tới. Giáo lư của hai Ngài cũng hoàn toàn in nhau; nếu có khác th́ chỉ khác cách hành văn thích nghi cho mỗi tôn giáo. Đó cũng là một trường hợp để cho con người tập phân biệt Chơn Lư dưới mọi h́nh thức và mọi phương diện của nó; thay v́ căi nhau về những h́nh thức bề ngoài, con người nhận định được rằng dưới những danh từ khác nhau, những nhăn hiệu bên ngoài đều có ẩn tàng những Chơn Lư  

        Tôi nói có Bốn giai đoạn khác nhau, và mỗi giai đoạn đều có sự Điểm Đạo đặc biệt. Bây giờ đây, sự Điểm Đạo nghĩa là ǵ. Điểm Đạo nghĩa là sự nẩy nở kiến thức thâu thập được do sự can thiệp nhất định của Chơn Sư; Ngài hành động với tư cách Đại Diên của Đấng Duy Nhất Chí Tôn cầm quyền Điểm Đạo cho nhân loại và Nhân Danh Đấng Cao Cả nầy mà cho ta Phục Sinh. Có thể nói rằng sự nảy nở kiến thức là cái đặc điểm của sự Điểm Đạo,  Đạo thấy những chân trời mới mẻ về kiến thức và quyền năng. Nó đặt trong tay y cái ch́a khóa mở những cửa của Thiên Nhiên. Như thế để làm ǵ? Nói một cách tổng quát để người được Điểm Đạo có ích cho đời hơn trước; để cho cái quyền năng phụng sự nhân loại của y được tăng thêm; để y có thể hợp với một nhóm ít người đă hiến thân cho nhân loại và đă từ bỏ cái bản ngă thấp thỏi của ḿnh; họ chẳng ước mong điều ǵ hơn là việc phụng sự Chơn Sư và nhân loại; họ biết rằng việc phụng sự Chơn Sư và việc phụng sự nhân loại chỉ là một; họ đă dứt khoát với thế gian và với tất cả những ǵ mà thế gian có thể mang đến cho họ; sau cùng họ đă vĩnh viễn tự hiến dâng để phụng sự những Đấng Cao Cả, để làm những dụng cụ cho các Ngài, làm những đường vận hà cho các Ngài ban rải xuống Hồng Trần ân huệ và sự cứu giúp.

        Ở giữa hai cuộc Đại Điểm Đạo, vài kết quả đă ấn định phải xuất hiện- những sự thay đổi ở con người bên trong- nhưng rất khác hẳn với những sự thay đổi mà chúng ta đă học từ trước đến giờ. Khi một người đă qua được một lần Điểm Đạo, mỗi việc mà y làm, phải được thực hiện trong sự toàn mỹ; mỗi công tŕnh phải hoàn toàn thành tựu, mỗi dây xiềng xích phải nhất quyết chặt đứt. Không c̣n công việc nào là bất toàn; người Đệ tử không thể tiến lên hơn nữa trước khi thật hành, trong sự toàn mỹ, công việc của trong giai đoạn mà y phải trải qua. Trạng thái nầy có đặc điểm nhất định- mà người ta không t́m thấy ở nơi nào khác trong đời sống- ấy là sự hoàn tất mỗi giai đoạn trước khi bước sang giai đoạn kế tiếp. Một việc làm nửa chừng, một công tŕnh c̣n khuyết điểm sẽ không được chấp thuận. Mặc dầu phải mất bao nhiêu thời giờ, công việc phải hoàn tất xong xuôi, trước khi người ta có thể tiến thêm một bước nữa. Nói theo lối chuyên môn, điều nầy được gọi là “phá tan xiềng xích” do đó mà vài sự vật c̣n làm trở ngại cho linh hồn. Ở đoạn chót của Con Đường Đạo là giai đoạn Jivanmukti” (giai đoạn của Người Thành Đạo). Đă trải qua Đường Đạo tức là đă tiến đến giai đoạn mà nơi đó đời sống được tự do; như vậy phải phá vỡ hoàn toàn những xiềng xích

        Theo Đức Shri Shankarâchârya th́ sự Đại Điểm Đạo lần thứ Nhất làm cho con người thành một vị “Parivra Jaka”, c̣n Đức Phật gọi là “Shrotapatti”, (Tu Đà Hườn). Danh từ Phật giáo nầy thường dùng dưới h́nh thức Pâli của nó, có nghĩa là “Kẻ đă nhập lưu” nó ngăn cách y với thế gian. Y không c̣n thuộc về cơi Hồng trần nầy nữa, tuy y c̣n có thể sống trong đó; ở đó y không c̣n giữ một địa vị nào; không cón có cái ǵ có thể cầm y lại được nữa. Đồng nghĩa đó là chữ “Parivra Jaka”, “Người đi ta bà, Vô trú” tức là người không có chỗ ở nhất định. Không phải nhất định là đi ta bà bằng xác thân, hay không có nhà ở cho xác thân- như sau nầy người ta đă dịch ra theo ngôn ngữ công truyền- mà chính là con người, trong đời sống nội tâm, đă tách ra khỏi nội tâm nầy, y không có nơi chốn, không có chỗ ở nhất định trong cơi đời giả tạm nầy, nơi đây chốn nào cũng như chốn nấy. Y sẵn sàng đi chỗ nầy chỗ kia, đi khắp mọi nơi mà Sư Phụ y muốn sai y đến. Không một chỗ nào có thể cầm giữ y lại, y không quyến luyến một nơi nào, v́ y đă phá tan xiềng xích nó trói buộc y vào một chỗ đặc biệt. V́ vậy, y được gọi là “Con người ta bà, Vô trú”. Lẽ cố nhiên tôi biết, cũng như quư huynh biết rằng: ngày nay người ta gán cho cái giai đoạn ấy một nghĩa eo hẹp theo công truyền, nhưng tôi quan niệm nó chính theo cái ư nghĩa bí truyền bên trong, theo cái nghĩa mà các Đấng Cao cả đă đặt ra cho giai đoạn ấy. Than ôi! Chúng ta biết rằng đă có bao nhiêu sự thay đổi tự xưa đến giờ; cái điều xưa kia là một trong những sự thật của đời sống, th́ ngày nay đă trở thành một vấn đề danh từ và h́nh dáng bên ngoài. Nhưng tôi muốn cho quư huynh biết Bốn giai đoạn của Con Đường Đạo, như đă được mô tả trong Ấn Độ giáo v́ mọi người đă tưởng lầm rằng chính Đức Phật đă tiết lộ những giai đoạn ấy trong khi Ngài chỉ mô tả lại cái Con Đường Đạo cổ kính, gay go mà mỗi Vị đă được Điểm Đạo của Hội Quần Tiên Duy Nhất đă trải qua, đương trải qua, và sẽ trải qua trong tương lai.

        Chúng ta hăy khởi đầu bằng sự thực tế. Tôi đă nói rằng Con người Nhập Lưu đă hoàn toàn cách biệt với thế gian. Người không c̣n lo nghĩ đến là để thi hành nơi đó những mệnh lệnh của Sư Phụ người. Đó là cái đặc điểm của Sự Đại Điểm Đạo đầu tiên của con người,đă được tái sinh một lần nữa, lần thứ hai. Trong đa số những trường hợp, sự Phục Sinh nầy được ban cho con người ở ngoài xác thân, nhưng trong một trạng thái hoàn toàn thức tỉnh, nghĩa là người ta thường được Điểm Đạo trong khi ở trong thể vía, với lương tri sáng suốt, lúc đó xác thân ở trong trạng thái xuất thần mê man. Thỉnh thoảng, một người Đệ tử được Điểm đạo, mà khi thức tỉnh, y không được phép biết sự đó trong ít lâu. Nhưng trong hai trường hợp nầy, cái ǵ đă thâu hoạch được th́ không thể mất đi nữa; con người không thể trở lại cái trạng thái xưa kia của y đâu. Đứa trẻ sơ sinh có thể trong một thời gian không biết được cái hoàn cảnh mới mẻ của ḿnh, nơi đó nó sống,  nhưng nó không thể nào chui vào nằm trong bụng mẹ như khi trước được nữa; nó không thể trở về cái vị trí cũ của nó, khi nó chưa sinh ra đời. Cũng như thế, người được Điểm Đạo đă trải qua một sự Phục Sinh,  không thể nào trở lại cái trạng thái cũ của ḿnh, khi y chưa được Phục Sinh, và y không thể dự phần vào trong đời sống ở thế gian nầy, giống như những ai chưa được Phục Sinh vậy. Y không thể chần chừ trên con đường tiến hóa, y có thể tiến chậm chạp, y có thể dùng nhiều thời giờ hơn thường lệ để cởi bỏ những xiếng xích c̣n trói buộc y; nhưng không thể nào trở thành một người chưa được Điểm Đạo; cái ch́a khóa không thể thoát khỏi tay y nữa. Y đă Nhập Lưu. Y thoát khỏi thế gian, y phải tiến lên, dù có chậm chạp đến đâu, dù y có phải dành cho việc nầy biết bao nhiêu là kiếp sống.

        Người ta đă hỏi, giữa tŕnh độ nầy và sự giải thoát cuối cùng, sự hoạch đắc được quả “Jivanmukti”(1),[xii],phải cần bao nhiêu kiếp sống. Tôi nhớ có về nguồn dư luận thông thường cho rằng vị thí sinh Đệ tử phải tu luyện trong bảy kiếp mới được giải thoát, làm một vị Chơn Tiên. Ngài nói lên một câu rất đúng và rất có ư nghĩa như sau đây: “Có thể phải cần đến bảy kiếp cũng như bảy chục kiếp, cũng như có thể chỉ cần đến bảy ngày hay bảy giờ thôi”. Như thế có nghĩa là đời sống của linh  hồn không thể đánh giá bằng năm tháng ở cơi Hồng trần. Sự thành công là tùy theo khí lực, sức lực và ư chí của linh hồn ấy. Một người có thể phung phí thời giờ hay dùng nó một cách hết sức hữu ích, và những sự tiến bộ mà y có thể thực hiện được sẽ tùy theo sự kiện nói trên đây. Nhưng trong cái giai đoạn nầy, nó bắt đầu từ lúc được Điểm Đạo lần thứ Nhất và chấm dứt vào lúc được Điểm đạo lần thứ Hai, có ba việc khác nhau mà con người phải hoàn toàn cởi bỏ trước khi có thể vượt qua ngưỡng Cửa thứ Nh́. Cái việc đầu tiên là Ảo tưởng về Bản ngă. Cái bản ngă nầy phải được diệt trừ, không phải chỉ chế ngự nó, làm giảm bớt nó đi hay ḱm hăm nó là đủ. Phải diệt nó, phải vĩnh viễn trừ nó đi. Cái ảo tưởng về bản ngă cá nhân riêng biệt phải mất đi. Người Đệ tử phải nh́n nhận rằng y chỉ là một đối với những người khác, v́ Chơn Linh của vạn vật vẫn duy nhất. Y phải nhận định rằng tất cả những ǵ bao quanh y, con người, thú vật, thảo mộc, những h́nh thức khoáng chất và tinh chất của đời sống cũng chỉ là một người mà thôi. Y phải thoát ly cái Ảo tưởng về bản ngă. Quư huynh thấy sự phát triển kiến thức có thể giúp đỡ ḿnh biết bao nhiêu ở điểm nầy; bỏ những sự sai lầm; sự nhận thức được cái chân giúp ta biết bao nhiêu vào sự loại trừ cái giả; theo cách đó, cái ảo tưởng về bản ngă có thể diệt trừ hoàn toàn. Tại sao? V́ mắt con người đă mở rộng, và tầm mắt của y đă vượt khỏi cái ṿng ảo tưởng. Như thế, y đoạt được sự tự do và thoát khỏi những xiềng xích mà người ta gọi là “ảo tưởng về bản ngă”.

        Kế đó, người đệ tử phải trừ tuyệt tính Hoài nghi hay là Mơ hồ. Đó là sự trở ngại thứ hai nó ngăn cản không cho y tiến xa hơn nữa. Y phải vượt qua sự trở ngại nầy bằng cách đă được định rơ tức là hoạch đắc sự hiểu biết. Những sự vật ở cơi vô h́nh đối với y, không c̣n là những vấn đề lư thuyết nữa; những chơn lư cao siêu của tôn giáo, đối với y, không phải chỉ là những tư tưởng triết lư mà thôi. Y phải công nhận những điều đó như là những sự thật. Y không cần phải tự hỏi: “Tại sao?” hay “Bằng cách nào?” bất cứ về điều ǵ. Có những chơn lư căn bản về đời sống mà y không c̣n có thể nghi ngờ ǵ được nữa. Trước khi tiến lên một bước nữa, y phải có ḷng tin tưởng gần như tuyệt đối về vấn đề Đại Chơn Lư Luân Hồi, không một mảy hoài nghi. Cái Chơn lư tối đại về Nhân Quả đă được hoàn toàn chứng minh đối với y; y phải có một ḷng tin chắc chắn mà không có ǵ lay chuyển nổi về một Chơn lư trọng đại khác nữa, đó là sự hiện hữu của những bực Siêu nhân, những vị jivanmuktas, các Ngài là những Chơn Sư của nhân loại. Về những điểm đó, sự hiểu biết của y không c̣n là những lư thuyết suông mà thôi, mà phải là những hiểu biết thật sự, thực tế, để không có một mảy hoài nghi nào có thể làm mờ ám cái trí của y; cái trường hợp duy nhất có thể cho ta ḷng tin nầy, ấy là cái trường hợp nơi đó sự hiểu biết thay thế cho lư thuyết, nơi đó sự tiếp xúc hoàn toàn với thực tại từ nay khiến cho ta không c̣n có những nỗi thất vọng sinh ra v́ những ảo tưởng của cơi đời vật chất.

        Cái xiềng xích cuối cùng mà ta phải chặt đứt hoàn toàn trong giai đoạn nầy là Tính Dị Đoan. Quư huynh hăy nhận rơ điều nầy muốn nói ǵ và quư huynh sẽ hiểu rơ tại sao Đức Shri Shankarâchârya và Đức Phật đă dùng những danh từ như nhau để chỉ định giai đoạn đó trong đời sống của người đệ tử. Mê tín, dị đoan theo cái ư nghĩa chuyên môn của danh từ, nghĩa là sự tin cậy ở những lễ nghi bề ngoài của những giáo phái để được giúp đỡ tinh thần. Nói về cái tính chất bề ngoài của những lễ nghi nầy, con người nhận thức được, qua cái sắc tướng, cái chơn lư chứa đựng bên trong, và nếu chơn lư thiệt ở nơi đó, th́ cái giá trị của h́nh thức bề ngoài sẽ tùy theo sự thích nghi nhiều hay ít đối với cái thế giới vô minh và ảo tưởng nầy. Con người đă vượt khỏi những h́nh thức bề ngoài công truyền và những lễ nghi, nhưng quư huynh đă quen thuộc với cái quan niệm ấy trong đời sống hàng ngày rồi. Người Sannyasi (1)[xiii] được coi như là đă vượt khỏi những lễ nghi, người ta không đ̣i hỏi nơi tu sĩ mấy việc đó nữa. Tại sao vậy? Vị tu sĩ được coi như là đă đạt được chơn lư, không cần đến những lễ bái ấy nữa, nó chỉ là những nấc thang mà con người phải trèo lên, và chỉ cần thiết ở những giai đoạn đầu tiên; quư huynh đừng quên điều nầy, đó là một vấn đề tiến hóa. Nếu quư huynh muốn đi lên nóc nhà, quư huynh phải trèo lên cái thang và điên cuồng thay là kẻ nào nói: “Tôi không muốn trèo thang” trừ khi y có một quyền lực và một sự hiểu biết những định luật của thiên nhiên, khiến y có thể thay đổi tính phân cực của xác thân y, và lên cao bằng cách gọi là thuật khinh thân (lévitation)- bằng cách dùng ư chí- thay v́ dùng cái phương pháp tương đối chậm chạp, nghĩa là bước lên từng nấc thang một. Đối với một người như thế th́ cái thang thật vô ích, v́ y có thể lên tới nóc nhà nhờ sức ư chí mà không cần xử dụng cái phương pháp chậm chạp là trèo thang. Như vậy, không có nghĩa là cái thang vô ích; như vậy không có nghĩa là những người khác cũng có thể đi lên nóc nhà mà không thèm dùng thang. Ngày nay, người ta thấy có nhiều người chính tự bản thân họ không đủ năng lực bay lên cao, mà họ lại từ chối không dùng thang nữa; họ quên rằng khi mà ư chí chưa được phát triển, th́ những phương tiện thấp thỏi là cần thiết, nếu người ta có chút ư muốn lên cao.

        Điều đó khiến tôi muốn nói đôi lời về người Sannyasi chơn chánh. Cũng như ngày nay, năm ngàn năm về trước, tiếng nầy đă được xử dụng mà không có thực tế. Chính đă năm ngàn năm rồi, ở buổi đầu thời mạt pháp, chúng tôi thấy Đức Krishna phân biệt người Sannyasi giả với người Sannyasi thật. Quư huynh nhớ rằng khi luận thuyết về vấn đề nầy, Ngài đă nói: “Kẻ nào hành động v́ bổn phận, không màng tưởng đến kết quả của những việc ḿnh làm th́ là một người Sannyasi và một người Yogi, chớ không phải những kẻ không có ngọn lửa thiêng và không làm ǵ cả. Kẻ không có ngọn lửa thiêng nghĩa là kẻ không đốt lửa hy sinh, kẻ không thi hành những lễ nghi cúng bái, v́ người ta không đ̣i hỏi ở người Sannyasi những sự đó. Nhưng Đức Krishna đă nói: “Kẻ nào chỉ làm cho người ta chú ư đến ḿnh bằng cách không thi hành những lễ nghi cúng bái và không hoạt động trong thế giới loài người, th́ kẻ đó chẳng phải là một người Sannyasi chơn chánh đâu”. Và nếu điều này là thật đă năm ngàn năm rồi th́, ngày nay nó lại c̣n đúng hơn nữa. Nếu điều nầy đă đúng khi Đức Thượng Đế (1)[xiv] giáng trần bên Ấn Độ, th́ bây giờ nó c̣n đúng hơn nữa sau năm ngàn năm phương Đông, nếu chúng ta chiêm nghiệm chính xứ Ấn Độ với vô số những người Sannyasi của xứ đó, th́ ta thấy những người chỉ là Sannyasi do bộ áo của họ mặc, chớ chẳng phải do cái cách họ sống; những người chỉ là sannyasi bởi cái h́nh thức bề ngoài, chớ không phải do những hy sinh nội tâm. Và nếu chúng ta từ giă Ấn Độ để đi đến Tích Lan, Miến Điện, Trung Hoa hay Nhật Bản, chúng ta cũng thấy ở đấy những vị Tu Sĩ theo Phật Giáo, họ chỉ là Tu Sĩ do bộ áo mầu vàng của họ, chớ không phải do một đời sống thanh cao, do h́nh thức bên ngoài chớ chẳng phải do Chơn lư bên trong. Nếu có thật rằng tôn giáo nơi đây dễ thực hành hơn ở mọi xứ khác; nếu có thật rằng tập tục cổ truyền của Ấn Độ khiến cho đất Ấn Linh Thiêng và khiến bầu không khí của nó có vẻ tinh thần hơn ở xứ khác; nếu có thật rằng ở đất Ấn có những địa phương đă được Thánh Hóa do những người đă sống nơi đó đến nỗi đối với thế nhân b́nh thường, chỉ việc đặt chân đến những địa phương ấy, cũng đủ làm cho cái trí yên tịnh và làm thức tỉnh những ước vọng của linh hồn; nếu có thật rằng v́ những điều nầy mà xứ Ấn Độ trở nên thiêng liêng và được mến yêu đời đời, th́ than ôi! Những con dân của nó ngày nay không c̣n xứng đáng với nó và đă sa ngă đủ mọi cách. Nếu chúng ta lấy con mắt mà ḍ xét toàn cơi Hồng trần, chúng ta thấy không một nơi nào đời sống tinh thần được thực hành một cách toàn diện; không một quốc gia nào đặt đời sống tinh thần lên hàng đầu. Kẻ nào biết rằng con người có thể làm được điều nầy, mà lại làm khác hơn; kẻ nào biết rằng việc phải như thế nầy, mà thấy nó lại thành như thế kia; kẻ nào đă thấy rơ Chơn Lư, mà than ôi, nay chỉ gặp nơi đây sự dối trá dưới cái vẻ bề ngoài của Chơn Lư, th́ kẻ ấy thấy cơi ḷng tan nát. Tuy nhiên, dù sao mặc ḷng không có một vị đệ tử nào mà cơi ḷng phải tan nát, bởi v́ các Chơn Sư luôn luôn c̣n sống và đệ tử các Ngài vẫn đi chu du khắp thiên hạ đặng thuyết đạo; nhưng ngày nay tư cách của họ không lộ ra bằng cái vẻ bề ngoài và bộ áo của họ mặc, nhưng bởi đời sống nội tâm, bởi kiến thức, bởi tính tinh khiết và ḷng sùng đạo; mấy đức tính nầy vẫn luôn luôn mở những cửa Điểm Đạo.

        Điểm Đạo lần thứ nh́.- Bây giờ chúng ta đi đến giai đoạn thứ nh́ mà Đức Shankarâchârya gọi là giai đoạn của người “Koutichaka” nghĩa là người dựng một túp lều; những người Phật Tử gọi giai đoạn nầy là giai đoạn của người “Sakridâgâmin” Tư Đà Hàm, tức là của người được phục sinh một lần nữa. Ở giai đoạn nầy, người ta không c̣n phải phá tan những xiềng xích chỉ định, nhưng phải hoạch đắc một vài năng khiếu. Đó là lúc cần đến những năng khiếu thần thông. Sau khi Điểm Đạo lần thứ Nh́, những năng khiếu nầy phải được khai triển, v́ người đệ tử đă đi đến một giai đoạn có những bổn phận rất rộng lớn đang chờ đợi người, không phải chỉ ở trong đời sống Hồng trần của nhân loại, mà c̣n ở những cảnh giới khác ngoài cơi Hồng trần. Người phải có thể nói được, không những chỉ bằng miệng mà thôi, mà c̣n bằng cách giao thông trực tiếp từ cái trí nầy đến cái trí khác (1)[xv], và làm như vậy một cách tỉnh táo và có ư thức. Ngày mai tôi sẽ cố gắng giảng giải những bổn phận khác nhau của người đệ tử, những bổn phận nầy ảnh hưởng đến cơi Hồng trần, và nếu được làm đầy đủ một cách hoàn toàn- đó không phải là trường hợp ngày nay- th́ nó sẽ thay đổi rất nhiều cho đến cả cái khuynh hướng của đời sống vật chất của con người. Nhưng người đệ tử muốn làm tṛn cái phần nhiệm vụ ấy của ḿnh, để có thể tự chuẩn bị làm những bổn phận cao cả hơn; khi tất cả những nguồn kiến thức được mở ra cho người và khi tạo hóa  đă vén lên tất cả những tấm màn khá dầy mịt che án mắt người, th́ người đệ tử một khi tiến đến gần giai đoạn nầy, phải phát triển những năng khiếu tiềm tàng của ḿnh và phô bầy dần dần tất cả những khả năng chưa hoạt động nơi ḿnh. Chính trong giai đoạn nầy, ngọn lửa tiềm tàng phải được khơi động, nếu từ đó đến giờ chưa làm việc nầy (2)[xvi]; chính trong giai đoạn nầy, phải khơi cho luồng hỏa hầu Kundalini tác động trong xác thân và trong thể Vía của con người đă được thêm sức. Quư huynh đă đọc được trong một vài cuốn sách, như trong cuốn “Ananda Lahiri” của Shri Shankarâchârya, những đoạn nói về cách khơi ngọn lửa sống nầy và dẫn nó từ Luân Xa nầy sang Luân Xa khác. Khi được khơi động, ngọn lửa nầy cho con người cái quyền lực tự ư rời bỏ xác thân bất cứ lúc nào, v́ khi ngọn lửa đi dần dần từ Luân Xa nầy đến Luân Xa khác, nó làm cho thể Vía tách ra khỏi Xác thân và hoạt động tự do. Kể từ lúc đó, con người vẫn luôn luôn thức tỉnh, có thể rời bỏ xác thân để đi vào thế giới vô h́nh, hoạt động ở đó một cách hoàn toàn tỉnh táo và khi trở về nhớ lại hết tất cả những việc đă làm mà không hề có ở trong thể trí một sự lăng quên nào ngăn cách trạng thái nầy với trạng thái khác. Chính trong giai đoạn thứ nh́, tất cả những quyền năng nầy đều được phát triển và tiến hóa, và khi mà chúng vẫn chưa được hoàn toàn hoạt động; mà khi chúng chưa trọn vẹn ở dưới mệnh lệnh của người đệ tử; khi mà những hàng rào ngăn cách cảnh giới hữu h́nh với cảnh giới vô h́nh chưa được phá vỡ, th́ người đệ tử không thể tiến xa hơn nữa. Khi những hàng rào ấy rơi xuống do sự phát triển của quan năng và những quyền lực ẩn tàng nơi con người, do sự hoạch đắc những phép thần thông, người đệ tử thấy ḿnh sẵn sàng bước một Bước Lớn thứ Ba trên con đường tiến hóa và đi vào một giai đoạn sinh hoạt mới mẻ và cao cả hơn. Quư huynh sẽ hiểu một cách dễ dàng tất cả sự tai hại mà những người chuẩn bị không đúng phép tự đem lại cho ḿnh, khi họ thử tiến đến giai đoạn nầy theo cách của họ tạo ra trước ngày giờ mà sự tiến hóa tự nhiên đem họ đến đó, trước khi họ được phát triển về phương diện tinh thần. Trong nhiều cuốn sách đă được in ra, nhất là những cuốn “Tantrika” có chứa đựng những đại cương nói về những phép thần thông, làm say mê những người ước vọng có quyền năng. Họ không cần xem xét coi những khả năng đạo đức và trí thức của họ có đủ sức giúp cho họ điều khiển một cách đúng đắn những quyền lực ấy không. Trong nhiều kinh sách “Tantras” có những chân lư ẩn tàng, để sẵn cho những ai có thể đạt được; nhưng những lời chỉ dẫn mơ hồ, v́ khiếm khuyết, nên thường gây lầm lạc cho những ai  không thông hiểu sự thực và không có Thầy để giảng cho họ hiểu những lời ngụ ư nói bóng dáng và những câu nói không cạn lời. V́ thế cho nên một vài người v́ vô minh, đă đem thực hành những bài học khuyết điểm nầy, với mục đích mở mang mau lẹ những phép thần thông, trước khi sự phát triển về đạo đức và trí thức giúp họ phát triển quyền năng một cách an toàn- những ngưới nấy quả có đạt được những kết quả, nhưng những kết quả nầy thường làm hại chớ không làm lợi cho họ. Thường khi họ tự làm hại sức khỏe, bị mất trí, và tự làm hỏng những năng khiếu trí thức của họ, khi họ ráng hái những trái của cây Trường Sanh trước khi chúng nó chín mùi, khi họ thử đi vào chỗ Thiêng Liêng nhất của Linh Điện với những bàn tay nhơ nhớp và ngũ quan không tinh khiết. Trong đền thờ nầy, bầu không khí tinh khiết đến nỗi không có ǵ ô trược mà tồn tại được; những làn rung động ở đó mănh liệt đến nỗi chúng làm tan vỡ tất cả những ǵ khác âm giai, xé tan từng mảnh tất cả những ǵ nhơ bợn, tất cả những ǵ không có bản chất thích nghi với sự hoạt động đáng kinh sợ của chúng.

        Điểm Đạo lần thứ Ba.-Nhưng khi dưới sự hướng dẫn của Chơn Sư v́ chỉ nên làm việc nầy trong cái điều kiện duy nhất đó thôi. Khi dưới sự hướng dẫn của Chơn Sư, người đệ tử đă hoàn toàn trải qua cái giai đoạn nầy, th́ người được Đại Điểm Đạo lần thứ Ba và trở thành một vị “Hamsa) (1)[xvii] theo Shri Shankarâchârya, hay là trở thành một vị Anagamin, A na Hàm theo kinh sách nhà Phật, một người không c̣n bị bắt buộc phải đầu thai nữa, nếu người không tự ư muốn đầu thai. Giai đoạn nầy, như đă được Đức Shri Shankarcharya chỉ định đó là giai đoạn mà con người tiến đến quan niệm hợp nhất, phải biết rằng y chỉ là một với Đấng Tối Cao. Danh từ nầy được ban cho y v́ rằng sự phát triển trạng thái tâm thức của y đă nâng y lên cao đến cái cảnh giới của Vũ Trụ nơi đó sự hợp nhất nầy trở thành một sự thực đă thâu hoạch được, và y đă có cái kinh nghiệm: Tôi là Ngài. Sau khi luyện đến mức cao tột những khiếu linh năng cùng sự liên quan của chúng đối với giác quan hồng trần của y, không những y có thể đi vào những cảnh giới nơi đó người ta thấy được cái quan niệm duy nhất, mà y c̣n có thể mang cái trí nhớ của quan niệm ấy trở về trạng thái thức tỉnh hàng ngày,và in nó vào khối óc hồng trần của y. Như vậy, có cần phải nói với quư huynh rằng, người đệ tử phải rứt bỏ cái mảnh cuối cùng của Dục Vọng hồng trần, nếu y c̣n giữ những dấu vết của nó khi đă đi đến tŕnh độ nầy chăng? Vậy ở giai đoạn nầy, y phá vỡ một xiềng xích cuối cùng mà người ta gọi là Kamarâga”, dục vọng nhuốm chút ít màu hồng trần, v́ khi người ta nhận định được Bản thể duy nhất của Vũ trụ, th́ tất cả những ǵ bề ngoài có vẻ chia rẽ, đều vĩnh viễn mất hết cái quyền lực làm cho ta bị lung lạc. Vậy người đệ tử đă vượt lên cao hơn những giới hạn của sự chia rẽ và chế ngự được không những các điều mà ở thế gian nầy người ta gọi là những dục vọng hồng trần, mà c̣n chế ngự được cả những dục vọng thanh khiết nhất, tinh thần nhất, có liên quan đến bản ngă cá nhân. Chính những dục vọng tinh thần cũng rời bỏ đệ tử khi y đi tới mức cao siêu như thế; không thể tự tách khỏi các kẻ khác, dù chỉ trong tư tưởng, như vậy, y không sao có được những ham muốn tinh thần cho chính ḿnh, như một cá nhân riêng biệt; nhưng y chỉ ham muốn cho ḿnh với tư cách là một phần tử trong toàn bộ của đại thể. Cái điều mà y hoạch đắc được là hoạch đắc cho tất cả, cái điều mà y thu được là thu cho tất cả. Y ở trong một cảnh giới của Vũ trụ tự nơi đó thần lực ban rải xuống cơi Hồng trần, và những ǵ mà y thu được, y truyền nó, y tuôn nó ra cho tất cả, y chia sớt nó với tất cả. Do đó mà thế gian trở nên tốt đẹp hơn mỗi khi một người tiến đến mức cao siêu ấy. Tất cả những ǵ mà y hoạch đắc được là hoạch đắc cho nhân loại, và tất cả những ǵ đến vừa tầm tay của y th́ chỉ qua bàn tay đó để ban rải xuống thế giới loài người mà thôi. Người đệ tử hợp nhất với Thượng Đế và do đó, hợp nhất với mỗi sự biểu lộ của Ngài. Y hoàn toàn nhận định được điều nầy trong tâm thức của y chớ không phải chỉ do những hy vọng và ước vọng mà thôi. Người ta dùng một danh từ lạ lùng để chỉ định cái điều ràng buộc thứ hai mà y phải phá vỡ trong giai đoạn nầy, người ta dùng cái danh từ Pâli “Patigha” mà chúng ta bắt buộc phải dịch là “thù ghét”, tuy ở trường hợp nầy; danh từ đó thật phi lư. Thật ra, người ta muốn nói rằng, đă tự hợp nhất với tất cả, người đệ tử không c̣n phân biệt những giống dân, những gịng họ, những sự vật khác nhau ở cơi trần nầy. Từ nay, y không c̣n có thể cảm thấy t́nh yêu thương hay ḷng thù ghét nầy sinh ra bởi những sự khác biệt bên ngoài. Từ nay, y không c̣n có thể yêu thương hay thù ghét một người v́ người ấy thuộc một giống dân khác. Từ nay, y không c̣n có thể thương yêu hay thù ghét do sự phân biệt những người và vật xung quanh ḿnh. Quư huynh c̣n nhớ cái từ ngữ lạ lùng của Đức Krishna khi Ngài nói về bậc Hiền Triết; bậc Hiền Triết nầy không phân biệt chút nào giữa một người Bà la môn sáng suốt và một con chó. Người đă đạt được cái quan niệm của sự duy nhất, và trông thấy Thượng Đế ở khắp mọi vật, hay để tôi dùng một từ ngữ khác, người trông thấy Đức Krishna ở khắp mọi nơi, và cái vẻ bề ngoài mà Ngài khoác lên không có nghỉa lư ǵ đối với con mắt tinh khiết của người. Người tuyệt nhiên không c̣n cái điều mà chúng ta bắt buộc phải gọi là “ḷng thù ghét” hay sự “ghê tởm”, không có cái ǵ làm người ghê tởm, không có cái ǵ làm người lùi bước lại, dội ngược lại. Người chỉ c̣n cảm thấy ḷng bác ái và t́nh thương xót đối với mọi vật và mọi người. Có thể nói rằng người làm sáng chói xung quanh ḿnh một bầu không khí đầy dẫy sự thương yêu. Tất cả những ai đến với người, tất cả những ai lại gần người đều cảm thấy cái ảnh hưởng của ḷng từ bi thiêng liêng nơi người. V́ thế cho nên ở cái thuở mà những người Bà la môn c̣n thật sự là những ǵ đúng với cái danh từ của họ, th́ người ta hợp nhất với Thượng Đế và khá rộng răi để chứa đựng tất cả những ǵ mà Thượng Đế đă tạo tác ra.

        Điểm đạo lần thứ tư.-Sau khi đă vĩnh viễn cởi bỏ cái ảo tượng của sự chia rẽ, người đệ tử đi vào giai đoạn cuối cùng mà Shri Shankarâchârya gọi là “Paramahansa” và danh từ Phật học là “Arhat” (La Hán). Về điều này, hiện nay, chúng ta lại nhận thấy một lần nữa sự làm giảm giá trị những danh từ thiêng liêng, khi cái danh từ chỉ định địa vị cao cả này được đem dùng một cách bừa băi và cẩu thả; người ta thường dùng nó v́ xă giao tầm thường để chỉ một vẻ bề ngoài, chớ không phải để chỉ một thực sự linh động bên trong. Cái ư nghĩa thật sự của danh từ nầy là con người đă trải qua lần Đại Điểm Đạo thứ tư và đang vượt qua cái giai đoạn trước giai đoạn thành Đạo tức là giai đoạn “jvanmukti”; người có thể hoàn toàn thức tỉnh mà lên cao đến cảnh giới “Turiya”(Bồ Đề)(1) [xviii] , và sống ở đấy. Người không cần phải rời bỏ xác thịt để cảm thấy Chơn phước, để hoàn toàn thức tỉnh tại cảnh giới đó. Cái trạng thái tâm thức của người đệ tử tăng trưởng đến nỗi bao trùm luôn cảnh giới đó, mà vẫn hoạt động trong khối óc hồng trần. Đó là một trong những đặc điểm khi lên tới mức nầy. Tâm thức không một chút nào cần phải rời bỏ khối óc hồng trần để tác động tại cảnh giới cao cả nầy; cái tâm thức của người đệ tử tăng trưởng đến nỗi bao trùm cả cảnh giới ấy, và trong khi người nói, người hành động ở thế gian tất cả cái kiến thức rộng lớn nầy nằm dưới mắt người và người tự tiện thí nghiệm. Trong giai đoạn nầy, người tự giải thoát khỏi năm “chướng ngại” cuối cùng để trở thành người “Jivanmoukta”(2).[xix]

        1.)cái chướng ngại thứ nhất gọi là “Ruparâga” tức là ư muốn có một đời sống sắc tướng v́ không một ư muốn nào về một đời sống như thế sinh ra trong ḷng người.

        2.)Kế đó là dứt bỏ “Aruparâga”, ư muốn có một đời sống vô sắc tướng, không một dục vọng nào thuộc loại đó c̣n lung lạc được người.

        3.)Rồi người tự giải thoát khỏi “Mana” và chúng ta lại bắt buộc phải dùng một lần nữa một tiếng quá thô sơ để diễn tả cái bản chất thật sự và tế nhị của cái chướng ngại nầy, tức là ḷng kiêu hănh; không một lúc nào người nghĩ đến sự cao cả của mục đích mà người đă đạt được, v́ đối với người, không có chỗ nào cao mà cũng không có chỗ nào thấp, không có những núi non hùng vĩ mà cũng không có những thung lũng bé nhỏ, hẹp ḥi. Tất cả đối với người chỉ là một.

            4.)Kế tiếp, người dứt bỏ chướng ngại thứ tư gọi là Uddhachcha “c̣n có thể bị một việc làm cho chênh ḷng”. Dù sự ǵ xảy ra, người vẫn vững vàng, không hề lay chuyển. Những tinh cầu có thể đụng chạm với nhau, người vẫn điềm nhiên như không. Không c̣n có một sự ǵ xảy ra ở cơi đời hữu h́nh nầy lại có thể phá rối sự trầm lặng cao cả của con người đă lên đến mức quan niệm được Cái Đại Hồn của Vũ trụ. Dù một thảm họa xảy ra cũng không sao, chỉ riêng cái h́nh hài là bị tan vỡ. Dù thế giới bị sụp đổ cũng không sao, đó chỉ là cái cách biểu lộ nó thay đổi. Người sống trong cái ǵ cổ kính, vững bền, bất tử, trường cửu; không một điều ǵ có thể làm rối loạn sự b́nh tĩnh của người, không có ǵ có thể làm mất đi cái cảm giác hoàn toàn an tịnh của người. Thực hiện được điều nầy, th́ người thoát khỏi sự trở ngại cuối cùng

        5.)Avidya, vô minh hay cái sự sinh ra ảo vọng, đám mây mỏng mảnh cuối cùng nó che cái kiến thức hoàn toàn và cái tự do triệt để. Người không c̣n phải tái sinh nữa, không một sự ép buộc nào có thể dắt người trở lại địa cầu nữa, nhưng người có thể tự ư đi đầu thai. Kiến thức của người bao gồm tất cả những ǵ chứa trong dăy hành tinh của chúng ta. Người học được tất cả những ǵ mà sự biểu lộ nầy có thể dạy người, không một bài học nào mà người chưa thuộc, không một bí mật nào ẩn tàng, không c̣n một xó, một góc nào mà mắt người chưa ḍ xét, không có một cơ hội nào mà người không có khả năng nắm lấy. Sau giai đoạn nầy, tất cả những bài học đă thuộc rồi, tất cả những quyền năng đều được hoạch đắc hoàn toàn người trở nên toàn trí toàn năng trong tất cả dăy hành tinh nầy. Người đă hoàn tất sự tiến hóa của nhân loại; Người đă vượt qua cái mức cuối cùng mà nhân loại sẽ bước qua khi hết Đại Kiếp, khi nhiệm vụ của Vũ trụ nầy được kết liễu. Đối với người, không c̣n cái ǵ bị che khuất, không c̣n có cái ǵ ở riêng trong người, v́ cái trạng thái lương tri của người đă nở ra để bao hàm tất cả sự vật. Khi nào người muốn, người có thể vào cơi Niết Bàn, nơi đó có sự duy nhất, có lương tri vũ trụ, và sự sống tràn đầy ngự trị. Người đă đạt được cái mục đích của nhân loại; cái cửa cuối cùng ở ngay trước mặt người và mở rộng cả hai cánh khi nghe thấy tiêng chân người bước đến.

        Điểm Đạo lần thứ năm.-Vượt qua cửa nầy, người thành ra vị Jivanmoukta, theo từ ngữ của người Ấn Độ, vị Chơn Tiên “Aseka” hay vị không c̣n phải học hỏi ǵ nữa, như danh từ Phật giáo chỉ định. Mọi việc đều thông hiểu, mọi việc đều hoàn tất. Trước mặt Ngài bây giờ, những con đường khác nhau được mở rộng; Ngài có thể lựa chọn dễ dàng con đường Ngài muốn theo. Ngoài giới hạn của dăy hành tinh này, ngoài giới hạn của Vũ trụ chúng ta, tại những miền mà chúng ta không sao hiểu được, những con đường được mở rộng ra để Ngài Jivanmoukta có thể chọn đường mà Ngài muốn đi. Nhưng có một con đường-một con đường khó khăn, nặng nhọc nhất, tuy rằng đó là con đường mau lẹ nhất – mà người ta gọi là con đường Hy Sinh cao cả. Nếu Ngài chọn con đường này, sau khi xem xét kỹ càng thế giới loài người, th́ vị Jivanmoukta không rời xa nó; Ngài tuyên bố rằng Ngài muốn ở đó, chịu đầu thai hết kiếp nầy sang kiếp khác để dạy dỗ và giúp đỡ loài người. Một lần nữa, Shri Shankarâchârya nói đến các vị ở lại và làm việc cho đến khi nào nhiệm vụ hoàn thành. Nhiệm vụ riêng của các Ngài đă xong rồi, nhưng các Ngài tự hợp nhất với nhân loại, và khi mà sự tiến hóa của nhân loại nầy chưa chấm dứt, th́ các Ngài sẽ không bao giờ rời bỏ hàng ngũ của những con người đang chiến đấu. Các Ngài đă được tự do giải thoát, nhưng các Ngài tự ư ở trong ṿng nô lệ. Các Ngài đă được sự giải thoát, nhưng sự giải thoát nầy chỉ hoàn toàn khi những kẻ khác cũng được giải thoát như các Ngài. Đó là những Chơn Sư Từ ái sống gần nhân loại, để loài người khỏi phải ở vào địa vị một trẻ mồ côi không cha, để những người đệ tử khỏi phải uổng công t́m kiếm Sư Phụ dạy dỗ ḿnh. Đó là những vị Đại Sư mà chúng ta biết ơn một cách rất sâu xa, v́ các Ngài c̣n ở trên trái đất nầy mà vừa sống ở cơi cao siêu, trong một trạng thái lương thức của Niết Bàn, để có thể giữ ǵn một sự liên lạc giữa những cảnh giới cao siêu và những con người chưa được tự do; những con người mà xác thân là một nhà tù nơi đó đời sống chưa được giải thoát. Tất cả những vị nào đă đạt được cái mức cao cả đó đều là những Đấng Vinh Quang; tất cả những Vị ở mức đó đều thiêng liêng, nhưng người ta có thể nói mà không sợ phạm tội vô lễ rằng: đó là những Vị mà nhân loại tŕu mến nhất, quyến luyến nhất, bởi ḷng biết ơn nồng nhiệt, v́ cái sự Hy Sinh đă thực hiện: chính các Ngài có thể ĺa bỏ chúng ta, có thể để chúng ta côi cút, nhưng các Ngài đă không muốn lánh xa để đảm nhiệm cái vai Từ Phụ (Cha lành) cho nhân loại. Đó là những vị Đại Sư, chúng ta cúi đầu dưới chân các Ngài; đó là những Đại Sư Phụ nâng đỡ Hội Thông Thiên Học. Các Ngài đă sai người sứ giả, bà H.B.Blavatsky để mang lại cho thế giới một giáo lư đă gần hoàn toàn bị lăng quên, chỉ để lại cho đời thấy con Đường Đạo nhỏ hẹp và cổ kính mà ngày nay có một vài người theo đuổi, mà quư huynh có thể in dấu chân lên đấy.

IV

SỰ TIẾN BỘ VỊ LAI CỦA NHÂN LOẠI

đầu sách  cuối sách  chương 1 2 3 4

NHỮNG PHƯƠNG PHÁP CỦA KHOA HỌC VỊ LAI

SỰ PHÁT TRIỂN VỊ LAI CỦA CON NGƯỜI

        Thưa quư huynh, nhiệm vụ của chúng ta sáng nay không dễ dàng chút nào. Cho đến bây giờ tôi đă mô tả cùng quư huynh sự tiến hóa của con người; cho đến bây giờ, tôi đă giảng với quư huynh bằng cách nào, một người, đă quả quyết tự ấn định mục đích nầy, có thể lên cao từng bước một từ đời sống thế tục đến đời sống của người đệ tử, bằng cách nào y có thể vượt qua sự tiến hóa của nhân loại, bằng cách nào y có thể hoàn tất trong một niên số ngắn ngủi cái việc mà giống dân sẽ hoàn tất trong vô số thế kỷ. Nhưng sáng nay, nhiệm vụ của tôi lại khác. Tôi sẽ ráng tả với quư huynh cái triều lưu của sự tiến hóa nầy qua mọi thời đại. Tôi sẽ ráng tŕnh bầy với quư huynh, lẽ cố nhiên là một cách rất ngắn ngủi, những giai đoạn lớn của sự tiến hóa của nhân loại được coi như một Đại Thể. Điều đó sẽ dường như cho chúng ta một khái niệm đại cương về sự tiến hóa, một tổng niệm không những của dĩ văng do nơi chúng ta đă khởi hành để tiến tới tŕnh độ hiện tại của chúng ta, mà c̣n cả tương lai dành cho giống ṇi của chúng ta nữa. Tôi sẽ nói với quư huynh về sự tiến hóa của các quốc gia; chúng ta sẽ xem xét về sự phát triển của nhân loại. Khi thử cất cánh bay bổng như thế th́ h́nh như tôi mời quư huynh cùng lên với tôi trên con tuấn mă của Đức Vishnou, con mănh điểu Sarouda và nhanh nhẹn vượt qua cái bầu không khí của vô số thời đại, ghé mắt vào cái bản đồ toàn cảnh đang diễn ra dưới mắt chúng ta. Lẽ dĩ nhiên quư huynh và tôi sẽ bị hụt hơi sau một cuộc du hành như thế. Có thể nói rằng điều nầy đối với tôi dễ dàng hơn đối với quư huynh, v́ những tư tưởng nầy rất quen thuộc với tôi v́ tôi có nhiều dịp trầm ngâm chúng nó, c̣n như đối với đa số quư huynh, vấn đề có vẻ lạ lùng, và cái quan niệm Thông Thiên Học về sự tiến hóa vạn kỷ sẽ h́nh như hơi mới mẻ trong những chi tiết của nó. Tôi cần phải lướt qua nhanh chóng từng điểm nầy sang điểm khác mà không giải thích, và v́ thế, tôi sẽ đưa quư huynh vượt qua nhanh lẹ nhiều sự khó khăn, đó là do chúng ta muốn đi nhanh, chớ chẳng phải là quư huynh đă hiểu biết rơ ràng đại thể rồi. Nhưng tôi xin nói điều nầy, tôi có thể lầm lộn trong một vài chi tiết, tôi có thể sai lầm trong một phần phụ thuộc của cái cảnh trí rộng lớn nầy, nhưng cái sự mô tả đại cương th́ đúng, sự mô tả nầy không phải của tôi, nó có một nguồn gốc khác, và tuy sự yếu đuối của kẻ thuyết tŕnh có thể là nguyên do của những sai lầm về chi tiết, nhưng cái sự đúng đắn căn bản của sự phác họa nầy có tính cách đáng cho ta tin cậy.

        Con người mà dưới mắt các Đấng Cao Cả tức là các Giáo Chủ đầu tiên của loài người, các Vị đầu tiên cai trị họ, và các Vị lănh đạo đầu tiên của họ, th́ không phải là con người mà chúng ta thấy ngày nay, v́ y chưa đạt đến cái mức dành cho y mà một ngày kia y sẽ phải đi đến. Như thế không phải là tôi muốn nói rằng, về đại cương, sự tiến bộ của y không đáng khen. Cái vị trí mà y đă đạt được trong sự tiến hóa, vị trí đầy những sự khó khăn, những sự hoài nghi và những sự đau khổ, theo đại cương,  th́ đă khá làm cho ta hài ḷng, khi ta nh́n nó tự một điểm cao nhất và nếu người ta kể đến cái thời gian rất ngắn đă qua đi (thời gian rất ngắn theo những sự đo lường cơi Thiêng Liêng, nhưng nó có vẻ thật lâu dài nếu người ta tính theo những năm tháng ở hồng trần). Chắc chắn rằng con người như bây giờ đây không một chút nào giống với cái lư tưởng của các Vị  đă định cho y nhập thế để chu du, của các Vị đă đưa y lên con đường tiến hóa. Y đă chấm dứt sự đi sâu xuống vật chất và đă qua khỏi cái điểm thấp nhất của cuộc hành tŕnh. Y c̣n phải leo lên những đỉnh núi chon von trên đó nhân loại toàn thiện và vinh quang sẽ khác xa nhân loại bây giờ, trên đó, nhân loại sẽ giống như Thiên Ư đă định.

        Quư huynh hăy luôn luôn nói rằng vũ trụ gồm bảy cảnh giới rất lớn riêng biệt, do tư tưởng của Thượng Đế mà sinh ra, chúng được thành lập từ trong ra ngoài hay từ trên xuống dưới, theo từ ngữ mà quư huynh ưa thích- một Vũ trụ oai hùng chia làm Bảy Cảnh Giới hay Bảy Miền Vật chất của mỗi cảnh giới đều khác biệt nhau, tuy rằng tất cả những vật chất ấy đều do một chất tinh hoa duy nhất mà ra: Paramâtma, nguồn cội của vạn vật. Khi cái Tư Tưởng Thiêng Liêng nầy thành h́nh do ư chí của Thượng Đế, trong vũ trụ hữu h́nh, và dần dần theo sự kết tạo của mỗi cảnh giới, th́ cảnh giới nầy khác cới cảnh giới nọ bởi trọng lượng của vật chất cấu thành, tùy theo cái sinh lực đầu tiên bị che khuất bởi nhiều hay ít lớp vỏ- như vậy, muốn phác họa một bức bản đồ đại cương, quư huynh có thể coi cái Đại Vũ Trụ nầy cùng với Thượng Đế đă tạo ra nó, như một Thái Dương Hệ hùng vĩ trong đó mặt trời thay mặt Đức Thượng Đế, và mỗi khối cầu trong những khối cầu đồng một trung tâm điểm kế tiếp là một cảnh giới trong Vũ Trụ. Những khối cầu ở phía trong là những cảnh giới mà vật chất tế nhị nhất và sinh lực ít bị che lấp nhất, trái lại những khối cầu ở phía ngoài là những cảnh giới mà vật chất thô sơ nhất và sinh lực như bị tê liệt v́ bởi tỷ trọng của vật chất bao phủ nó.

        Kế tiếp, quư huynh phải nhớ rằng mỗi cảnh giới ấy có những dân cư riêng biệt, và triều lưu tiến hóa là một sự lan tỏa từ trung tâm ra mí vành tṛn, rồi lại từ mí vành tṛn trở về trung tâm. Khi Khí Hư Vô của Thái Cực tuôn ra và khi vật chất tự biểu lộ th́ vật chất nầy càng ngày càng dầy đặc và có một thời kỳ nó tiến đến mức dầy đặc tối đa, c̣n tinh thần th́ ở mức thấp nhất. Lúc đó, h́nh hài cứng rắn hơn bao giờ hết. Lúc đó, h́nh hài cứng rắn hơn bao giờ hết, và đời sống ở vào thời kỳ bị bao phủ nhất. Kế tiếp, khi Khí Hư vô của Thái cực tự rút lui, khi sự hoạt động sáng tạo của nó trở lại về phía trung tâm, th́ vật chất trở nên càng ngày càng tế nhị, đời sống càng ngày càng bớt bị bao phủ cho đến khi Khí Hư Vô của Thái Cực đă rút lấy ở nơi vũ trụ hữu h́nh nầy tất cả những kinh nghiệm đă thâu được tại những thế giới khác nhau. Nhân loại tức là mục tiêu và kết quả của sự tiến hóa nầy, sẽ trở thành thiêng liêng và sẵn sàng tiến đến những giai đoạn c̣n cao hơn nữa. Nếu chúng ta theo cái đường cong lớn đi từ trung tâm cho đến mí tṛn, chúng ta nhận thấy rằng khi dân cư đi qua một nơi có vật chất dầy đặc th́ đường cong nầy có khuynh hướng làm cho chúng nó trở thành những cá nhân biệt lập. Như vậy, nếu ta ngoảnh về phía sau mà nh́n những dân cư của những cảnh giới khác nhau, chúng ta thấy thứ mà người ta gọi là tính chất mang những h́nh hài càng ngày càng rơ rệt. Nó tiến hóa theo con đường đi xuống, như vậy nó càng ngày càng riêng biệt, và h́nh hài nó càng ngày càng dầy đặc. Đó là một sự đi sâu vào vật chất; c̣n như sự tiến hóa hiện thời của nhân loại đang đi trở lên, thế nên sự tiến hóa ấy làm cho nhân loại hợp nhất và cung cấp cho nhân loại những h́nh hài tế nhị hơn bởi v́ đó là một sự đi trở lên về phía đời sống không bị che lấp.

        Như thế quư huynh có thể bị h́nh dung một h́nh ảnh đại cương của toàn thể Vũ trụ và quư huynh có thể nhận thấy ở những cảnh giới không dầy đặc như cảnh Hồng trần, chúng ta không những chỉ có một nhân loại đi trở lên, đang tiến hóa, mà c̣n có loại tính chất đi trở xuống, đang tiến mà c̣n có loại tính chất đi trở xuống, đang tiến sâu vào vật chất. Cái điểm chuyển hướng là ở tại loại kim thạch, đó là thời kỳ dầy đặc nhất. Trong sự tiến hóa đi lên, loài kim thạch và loài thảo mộc của cơi trần nầy chiếm cảnh giới Hồng trần và không tiến tới một trạng thái lương tri cao cả; theo cơ tiến hóa th́ loài thú vật tiến lên một mức, và con thú sẽ được sống trong cảnh Trung giới  năm cảnh giới trong bảy cảnh của Vũ trụ. Y phải hành động và điều khiển ở cơi Hồng trần, cơi Trung giới và cơi Thượng giới, nó là cơi “Svarga” của người Ấn Độ hay cảnh “Devakhan” (Thiên Đường) của người Thông Thiên Học. Chúng tôi có thể dùng một danh từ khác nó diễn tả đúng nhất cái trạng thái lương thức ấy, đó là danh từ “Soushouti” một trạng thái hiện nay tại cơi trần chỉ có những ai tiến hóa một cách đặc biệt mới biết được mà thôi. Lần lần theo đà tiến hóa th́ đa số nhân loại sẽ kinh nghiệm được trạng thái nầy. Ở trên cao nữa là cảnh giới thứ tư hay cảnh giới : “ Turiya”, cảnh Bồ Đề, và cao hơn nữa là cảnh giớí Niết Bàn hay “Turiya Tita”. Như thế chúng ta có năm cảnh giới riêng biệt của Vũ Trụ mà nhân loại phải cư ngụ trong triều lưu tiến hóa nầy- cảnh Hồng trần, cảnh Trung giới, cảnh Thượng giới, cảnh Bồ đề cảnh Niết Bàn. Đó là những giai đoạn phát triển của trạng thái của lương thức mà con người phải trải qua nếu y muốn hoàn tất cuộc lữ hành đă vạch sẵn cho y. Mỗi cá nhân có thể vượt những cấp bực nầy một cách nhanh chóng hơn bằng phép tu Dô ga, nhưng đa số nhân loại chỉ hoàn thành sự tiến hóa nầy qua nhiều thế kỷ. Trước khi Đại kiếp kết liễu, đa số nhân loại, chớ không phải tất cả nhân loại,  đă làm chủ được tất cả những cảnh giới phát triển  của trạng thái của lương thức và sẽ hoàn toàn hoạt động ở cả Năm cảnh giới; như thế con người tự tạo cho ḿnh những vận cụ trong đó trạng thái lương thức của y có thể hoạt động ở mỗi cảnh giới. Và nếu chúng ta lấy con người hiện thời làm tỉ dụ, chúng ta biết rằng y có nơi bản thân cái khả năng phát triển đời sống gần năm trạng thái ấy, phát triển năm thể, năm vận cụ, chúng ta sẽ ở những cảnh giới khác nhau và chúng ta sẽ làm cho y trở thành vị Chúa tể và Chủ nhân của Vũ trụ hữu h́nh nầy, đó là mục tiêu mà y phải đi đến.

            Ở trên cao và c̣n xa hơn nữa, c̣n có hai cảnh giới mà đa số nhân loại sẽ không sao tiến đến trong triều lưu tiến hóa nầy- hai cảnh giới mang những danh từ không sao khêu gợi được một ư kiến rơ rệt nào trong trí óc chúng ta v́ những cảnh giới ấy quá cao, vượt mức những quan niệm cao siêu nhất của chúng ta. Những cảnh giới ấy, thoạt đầu là cảnh Đại Niết Bàn, rồi cao hơn nữa là cảnh Tối Đại Niết Bàn. Những trạng thái ấy là ǵ? Chúng ta dù có tưởng tưởng tượng đến cũng không nổi.

        Đó là bảy giai đoạn của Vũ trụ. Đa số nhân loại phải chiếm hữu và cư ngụ tại năm cảnh trong bảy cảnh giới đó, và một vài con cháu của nhân loại sẽ tiến đến cả hai cảnh giới cuối cùng cao siêu hơn nữa, nhưng đối với đa số loài người,  sự tiến hóa được hạn định ở Vũ trụ có năm cảnh giới đó thôi.

        Điều đó có thể cho quư huynh một ư kiến- tôi không có th́ giờ nói dài về vấn đề trong bài thuyết tŕnh nầy- về những con số năm và con số bảy trong Vũ trụ. Đă có nhiều sự tranh luận về đế tài nầy, nhất là giữa một vài người Thông Thiên Học và các huynh đệ Bà La môn của chúng ta. Những vị Bà La môn đ̣i hỏi sự sắp loại theo số năm, c̣n những người Thông Thiên Học nhấn mạnh về sự sắp thứ loại theo số bảy. Sự thật là cách xếp thứ loại tổng cộng th́ theo số bảy, như quư huynh sẽ nhận thấy khi đọc những Thánh Kinh “Upanishads” thường có lời nói bóng gió về ngọn lửa bảy thể tự phân chia. Những sự tiến hóa hiện thời chỉ là một bản thể có năm lớp  do năm chất Prana (sinh khí) tượng trưng rất quen thuộc với chúng ta trong kinh sách Ấn Độ. Tôi chỉ nói sơ qua về điều nầy, v́ những cuộc thảo luận như vầy sẽ không c̣n, nếu mọi người thông cảm với nhau hơn. Nếu họ đi đến trung tâm của sự vật chớ đừng bàn căi về những vẻ bề ngoài, th́ họ thường t́m thấy một nơi để liên kết. Như tôi đă nói với quư huynh, tôi không có thời giờ ngừng lại ở vấn đề nầy, nhưng đó là cái ch́a khóa mở sự bí ẩn về con số năm và con số bảy. Thường thường nhân loại phát triển năm thể ứng đối với sự tiến hóa năm mặt, c̣n những ai là tinh hoa của nhân loại sẽ đạt đến hai giai đoạn khác cao xa hơn nữa.

        Khi học về sự tiến hóa của nhân loại, chúng ta thấy giống dân Chánh Thứ Nhất và Thứ Nh́ để cho h́nh hài và bản chất thấp thỏi hay là thú tính, tiến hóa. Nghĩa là những giống dân ấy đă phát triển xác thân, cái phách (Linga Sharira), cái vía hay là bản chất dục vọng mà các bạn thấy ở thú vật cũng như ở con người. Khi đi đến giống Dân Chánh Thứ Ba, chúng ta nhận thấy rằng giống dân ấy được giúp đỡ một cách đặc biệt, lúc nó đến quăng giữa của sự tiến hóa của nó. Như thế không có nghĩa là nhân loại sẽ không phát triển theo gịng những thế kỷ nếu không có sự giúp đỡ ấy mà cái mức tiến của nhân loại đă được thúc đẩy rất nhiều và sự tiến hóa đă được thực hiện nhanh chóng nhiều hơn là nếu không có sự giúp đỡ ấy. Những Vị Đại Thiên Tôn gọi là “Koumâras” (1)[xx] cao cả, những vị mà người ta gọi là các Đấng Mânasapoutras(2)[xxi], ḍng dơi của Tư tưởng(3)[xxii], tinh hoa của một triều lưu tiến hóa đă qua, đă đến giúp đỡ cho nhân loại trưởng thành và khi ban phát ra một tia sáng của chính bản thể của các Ngài, các Ngài đă thúc đẩy nhân loại như đă nói trên; do đó Manas cái linh hồn cá nhân, đă phát sinh nơi con người.

        Cái kết quả đầu tiên do sự giúp đỡ đặc biệt ấy, như tôi vừa nói, là khiến cho sự tiến hóa của nhân loại được nhanh chóng hơn lên gấp bội. Chính ở lúc đó mà cái thể được chỉ định bằng danh từ “KâranaSharrira” hay là Thượng Trí (corpscausal) được thành h́nh. Đó là cái thể của Manas (của linh hồn cá nhân) nó tồn tại suốt đời sống của Chơn nhân truyền kiếp(1)[xxiii]. Nó tồn tại từ kiếp nầy sang kiếp khác, mang đến mỗi kiếp sống cái kết quả của kiếp vừa qua. V́ thế, người ta mới gọi nó là “corps causal” nghĩa là cái thể chứa đựng những nguyên nhân (causes) phát sinh những hiệu quả ở những cảnh giới thấp của đời sống Hồng trần.

        Bắt đầu từ lúc nầy, con đường phát triển của con người là như sau đây: Cái Thượng trí (corps causal) đă được tạo thành là một thể, một vận cụ trong đó tất cả mọi sự có thể để dành và chất chứa; nó là một cái b́nh chứa, một cái kho đựng những kinh nghiệm đă thực hiện được. Khi đầu thai xuống trần như trước kia tôi đă giảng với quư huynh, con người ném xuống cơi ấy một cái bóng của chính ḿnh và dùng đời sống Hồng trần để thu thập kinh nghiệm, bằng cách gặt hái ở thế gian vài sự việc, vài kiến thức, nói tóm lại, tất cả những ǵ mà người ta thường gọi là kinh nghiệm của đời sống. Khi y bước qua ngưỡng cửa tử, con người phải thông hiểu cái kinh nghiệm đă thâu nhặt được, và y sống ngoài xác thân một cuộc đời vô h́nh đối với thế gian nầy, y sống trên những cơi Trung giới và Thượng giới, ngoài cơi Hồng trần. Nơi đó y phát sinh một vài hiệu quả và nghiền ngẫm kinh nghiệm đă thu hoạch được ở cơi trần, thấm nhuần và đồng hóa nó với chính bản chất y. Mỗi kiếp sống cho y một vài kết quả, y chiếm hữu lấy chúng và biến chúng thành những năng khiếu, những quyền lực. Tỉ dụ nếu một người trong đời sống Hồng trần đă dùng nhiều nghị lực để suy nghĩ, nếu y đă cố gắng để hiểu biết, để thâu thập kiến thức, để phát triển cái trí, th́ trong thời gian ở giữa lúc chết và lúc tái sinh, y sẽ biến đổi những sự cố gắng ấy thành những năng khiếu trí thức mà y sẽ mang theo khi trở lại đầu thai ở Hồng trần. Cũng theo cách ấy, những ước vọng cao thượng của y, những hy vọng và ư muốn tinh thần của y sẽ được hợp nhất với cái tính chất của bản thể y, trong khoảng thời gian từ lúc y chết cho đến lúc tái sinh. Khi y trở lại cơi Hồng trần nầy, y sẽ đầu thai vào một nơi có tính cách giúp cho y tiến tới một cách dễ dàng, và y sẽ mang theo ḿnh những năng khiếu tinh thần mà y đă phát triển, mà y có thể sử dụng để thúc đẩy xa hơn nữa sự phát triển của y trong kiếp sống mới nầy tại thế gian.

        Quư huynh nh́n thấy những giai đoạn tiến hóa nối tiếp nhau một cách đều đặn hoàn toàn như thế nào, trong thể Thượng trí nó tồn tại từ kiếp nầy sang kiếp khác. Thể Kârana Sharira (corps causal) ném một cái bóng của chính ḿnh xuống những cảnh thấp và gặt hái kinh nghiệm nơi đó; kế tiếp y thâu cái bóng ấy về cùng với kinh nghiệm của y, y để cái bóng đó một thời gian nơi Thượng giới (Thiên Đàng) để nó nghiền ngẫm sự kinh nghiệm ấy, và biến đổi kinh nghiệm thành năng khiếu, quyền lực, khả năng, rồi y thâu hút trọn vẹn cái bóng đó vào nơi y, như vào một thể dùng để chứa đựng trạng thái của lương thức. Rồi sự sống nay đă được phát triển hơn lại ném cái bóng của ḿnh xuống những cảnh giới thấp để biểu lộ những quyền lực để hoạch đắc được theo cách đó. Như thế, sự tiến hóa tiếp diễn từ kiếp nầy sang kiếp khác, một cách đều đặn và liên tiếp, và thể Kârana Sharira (Thượng trí) là b́nh chứa tất cả những kinh nghiệm hoạch đắc; thể đó chính là con người trường tồn thu hút mọi kinh nghiệm.

        Khi quư huynh đă nhận thức được điều nầy, quư huynh sẽ hiểu cái sự mà người ta gọi là “Cuộc hành hương của linh hồn”. Cứ mỗi kiếp sống mới, con người phải trở thành cao cả hơn do cái trí của y, cao cả hơn do những năng khiếu đạo đức của y, cao cả hơn do những khả năng tinh thần của y. Đó là chương tŕnh tiến hóa. Chương tŕnh nầy đă được thực hiện một cách không được hoàn toàn, và đó là nguyên do của sự dài đăng đẳng của cuộc Hành Hương. Chương tŕnh được thức hiện với những khúc quanh co lộn rồng lộn rắn, với những sự đi lạc ra ngoài, những sự đào tẩu trên những con đường xuyên ngang, thay v́ thẳng tiến lên phía trước. Đó, tại sao cuộc hành tŕnh của nhân loại lại dài như thế ấy, tại sao muốn hoàn thành sự tiến hóa lại cần đến hàng triệu ức thế kỷ. Tuy nhiên, sự tiến hóa nầy sẽ được hoàn tất v́ đó là Thiên ư đối với con người, và Thiên ư không sao có thể thất bại, mặc dầu sự hoàn tất có thể chậm trễ đến đâu.

        Sự tiến hóa đă cứ tiếp diễn trong những giống dân phụ thứ năm, thứ sáu và thứ bảy của giống Dân Chánh Thứ Ba và đă tiến đến giống Thứ Tư, nền văn minh cường thịnh của châu “Atlantide” được phát triển đến mức chót, đến tuyệt đỉnh của nó vào thời kỳ của giống dân phụ cao cả mà chính khoa học Tây phương đă nói một vài lời với quư huynh, giống dân “Toltèques”. Đó là một nền văn minh kỳ diệu do những kết quả đạt được, nhưng nó đă trưởng thành giữa những khó khăn lớn lao. Trên con đường ṿng cung đi trở lên, con người hăy c̣n ở mức rất thấp và bị ch́m đắm sâu vào vật chất. Những năng khiếu tinh thần của y rất giống cái điều mà chúng ta gọi là những năng khiếu thần thông, và cần phải che phủ chúng trong một thời gian, để cho những năng khiếu trí thức có thể tiến hóa và để cho sự tiến hóa cao cả của nhân loại có thể thực hiện được trong tương lai. V́ thế nên cái Đại luật của Vũ trụ, mà không có sức nào ngăn cản nổi, thúc đẩy giống dân vào một nền văn minh vĩ đại, nhưng rất vật chất. Những năng khiếu thần thông nầy lại mau mau biến đi một phần nào, do sự hành động hữu ư của những giai cấp lănh đạo của đế quốc “Toltèque” ở châu “Atlantide”. Một cách cố ư và để thực hiện dễ dàng những dự định ích kỷ của họ, những giai cấp ấy cố gắng làm giảm bớt những năng khiếu thần thông và ngăn cản chúng phát triển ở những giai cấp thấp thỏi trong dân gian, những giai cấp thấp kém về phương diện tiến hóa, và do thấp kém trong nấc thang xă hội. Để biến đổi họ thành những dụng cụ thích hợp nhất để phục vụ cho những ư định riêng tư của ḿnh, những giai cấp quư phái dùng những phép thần thông của những giai cấp dưới. Trong những trường hợp đó, sự phát triển các năng khiếu ấy bị con người làm ngưng lại nhiều hơn là việc của Đại Luật Vũ Trụ mong muốn, và điều đó khiến tôi chỉ cho quư huynh thấy một chuyện rồi quư huynh mặc t́nh suy ngẫm. Đó là không một người nào có thể đi ngược triều lưu vĩ đại của Định Luật Vũ Trụ, không một người nào có thể ngăn cản cái đà tiến hóa dũng mănh của Cơ Trời nhưng con người, tuy nhiên, được tự do cộng tác với Thiên Cơ hay ngăn cản nó. Y được tự do làm những điều thiện cũng như làm những điều ác; nhận biết được sự khôn ngoan và cái vẻ vĩ đại của công nghiệp, y có thể hợp tác vào đó do bổn phận và quy phục Thiên ư; nhưng y cũng có thể chiếm lấy một vài sức mạnh của Thiên nhiên để làm lợi ích riêng tư cho ḿnh, và dùng nó để làm thỏa măn sự ích kỷ cá nhân và ảo mộng của ḿnh, thay v́ giúp đỡ sự thực hiện Thiên ư. Khi một người dùng những sức mạnh vĩ đại của Vũ trụ với một mục đích ích kỷ, y tự tạo cho ḿnh một nghiệp quả cá nhân xấu xa, tuy rằng đại cương của nghiệp quả của giống dân không bị thay đổi. Như vậy, một người có thể làm hại tương lai của ḿnh mà vẫn ở trong triều lưu của Định Luật Vũ Trụ. Y có thể sửa soạn cho ḿnh chịu những sự đau khổ trong cái ṿng tṛn hẹp ḥi của sự phát triển cá nhân riêng biệt của y, v́ nếu y sử dụng một cách ích kỷ Định Luật Vũ Trụ, th́ y cũng sẽ gặt hái những kết quả ích kỷ. Theo cách đó, dưới sự ngự trị của Định Luật vĩ đại và duy nhất, y tự sửa soạn cho ḿnh lănh những nghiệp quả cá nhân sung sướng hay đau khổ. Cái điều mà tôi nói với các huynh đây, tôi xin quư huynh hăy chú ư đến nó một cách nghiêm trọng nhất, v́ nó có thể giúp quư huynh giải quyết một vài vấn đề mà con người thường tự đặt ra để hỏi ḿnh; điều nầy sẽ làm cho quư huynh hiểu bằng cách nào Luật Nhân quả có thể là một Định Luật Thiêng Liêng thúc đẩy con người tiến tới, có thể giống như một định mệnh đă ấn định cho y, trong khi y biết rằng ư chí của ḿnh tương đối được tự do; điều nầy sẽ giảng cho quư huynh biết rằng bằng cách nào con người có thể lựa chọn con đường ḿnh đi, nhưng không thoát khỏi sự thúc đẩy vĩ đại ấy.

        Như tôi đă nói, trong cái nền văn minh quá khứ đó, con người đă dùng cái Định Luật vĩ đại của Vũ Trụ để thỏa măn những tham vọng ích kỷ của ḿnh, và kết quả là châu “Atlantide” bị phá hủy, nền văn minh nầy hoàn toàn tiêu diệt, trừ một vài mảnh c̣n sót lại rải rác khắp hoàn cầu, và nhất là ở Nam Mỹ, trong nền văn minh của xứ Pérou, nơi đó môt vài dấu vết của sự huy hoàng đă bị xóa mờ nay lại t́m thấy. Những mảnh c̣n sót lại ấy đẹp đẽ đến nỗi tuy chúng đă bị trụy lạc mà khi người Y Pha Nho phương Tây chiếm cứ xứ Pérou, họ đă ngạc nhiên về hạnh phúc ngự trị trên xứ xở, về sự dịu dàng, tính dễ thương và sự tinh khiết của những cá nhân, về sự khôn ngoan của chính phủ và về sự thịnh vượng của toàn quốc. Cái nền văn minh mà người Y Pha Nho bóp chết, và những đạo binh xâm chiếm của họ dày xéo dưới chân, chỉ là cái ánh sáng cuối cùng và chập chờn của nền văn minh mà tôi đă đề cập, cái nền văn minh vĩ đại như thế, khi đến mức cao tột của nó rồi, nó bị sụp đổ tan tành và bị thiên tai quét sạch; sau khi đó, những ḍng nước của Đại Tây Dương đang cuồn cuộn chảy ở cái nơi mà trước đây có những dăy đất ph́ nhiêu.

            Lướt nhanh trên vấn đề nầy, chúng ta đi đến sự tiến hóa của chính giống dân của chúng ta, giống thứ Năm. Muốn theo đúng sự tiến hóa c̣n lại nầy, quư huynh phải nhớ rằng Đức Thượng Đế của Thái Dương Hệ chúng ta tự biểu lộ dưới ba trạng thái khác nhau. Quư huynh biết rằng trong các tôn giáo lớn, Ba Ngôi là sự biểu lộ của Thượng Đế Hữu H́nh, và quư huynh cũng biết rằng, hay ít nhất, những người ưa suy nghĩ và triết lư nhất trong quư huynh đều biết rằng Ba Ngôi chỉ là biểu lộ ba mặt của Đấng Duy Nhất, ba khía cạnh của Đời Sống Duy Nhất vô h́nh, mà chúng ta chỉ có thể biết được khi nó hiện ra trong Vũ Trụ. Quư huynh cũng biết rằng trong Ba ngôi của Thượng Đế, người ta trông thấy cái trạng thái Uy quyền, cái trạng thái Minh triết và cái trạng thái Bác Ái. Tất cả các hoạt động của nhân loại đều mang dấu vết của Ba Ngôi của Thượng Đế; tất cà các hoạt động của nhân loại có thể xếp vào một trong ba trạng thái của Ngài, những hoạt động nầy mang cái vẻ của uy quyền, của minh triết hay của bác ái do đó tất cả những giống dân được xếp loại cũng như tất cả các ngành hoạt động của các quốc gia và của các cá nhân. Tôi chọn sự xếp loại nầy, v́ khi nói về một vấn đề phức tạp như vấn đề nầy, h́nh như nó cho ta một tṛ chơi gồm có những hộp nhỏ trong đó chúng ta có thể để dành những phần khác nhau của đề tài buổi diễn thuyết, để quư huynh có thể thong thả nghĩ đến và xem xét. Quư huynh chớ quên rằng tuy Ba Ngôi, nhưng mà chỉ là Một. Ba Ngôi hỗn hợp lẫn nhau và sự phân chia nầy chỉ liên quan đến vẻ hữu h́nh chớ không liên quan đến bản chất. Nhưng v́ chúng ta sống trong thế giới hữu h́nh và sự phân biệt cũng hướng về phương diện hữu h́nh, nên chúng ta có thể dùng sự phân biệt đó, nó sẽ không làm cho chúng ta sai lầm, nếu chúng ta nhận định được sự duy nhất căn bản, nguồn cội của mọi sự.

          Trạng thái bác ái.-Thí dụ nếu chúng ta xem xét cách xếp loại nầy dưới ba khía cạnh của nó, và nếu chúng ta c̣n phân chia nó ra hơn nữa, chúng ta sẽ xếp trong loại bác ái tất cả những hoạt động của thể Trí liên quan một phía về Tôn giáo, một phía về ḷng thương nhân loại, hai danh từ nầy được hiểu theo cái nghĩa rộng nhất của nó; Tôn giáo có ngĩa là bổn phận đối với những vị bề trên của ta và t́nh thương nhân loại có nghĩa là bổn phận đối với những người xung quanh ta và với những người thấp hơn ta. Như vậy, trong cái khía cạnh của bác ái,chúng ta hiểu tất cả những sự hoạt động của loài người được diễn tả bằng một sự tôn kính với các vị tiền bối trên con đường tiến hóa, và bởi một sự giúp đỡ, một sự hộ tŕ những ai ngang vai chúng ta hay thấp kém hơn chúng ta, sự hộ tŕ nầy c̣n kèm thêm một cảm t́nh thương xót. Nếu chúng ta phân biệt các vị Thiêng Liêng với con người, th́ Tôn Giáo có liên quan đến những bổn phận trực tiếp với các Đấng Thiêng Liêng- và trong chốc lát quư huynh sẽ rơ như thế nghĩa là ǵ- c̣n ḷng thương nhân loại liên quan đến những bổn phận trực tiếp đối với con người, trước nhất ở cơi Hồng trần, đối với những người mà chúng ta trông thấy xung quanh ta.

        Trạng thái Minh triết.- Dưới đề mục Minh Triết bao gồm tất cả các hoạt động cái trí của con người, cả hai hạ trí và thượng trí,  mà điều này chúng ta có thể phân chia nhỏ nữa thành ra khoa học, triết học và nghệ thuật. Ở điểm này chúng ta có ba lănh vực rộng lớn của hoạt động cái trí nằm trong đề mục minh triết; không phải kiến thức tự nó là minh triết, mà những chất liệu trong kiến thức đó, qua một sự luyện kim tinh thần, minh triết mới được mở ra, nhờ có sự chuyển hoá tinh thần của kiến thức mà nó trở thành minh triết; v́ vậy chúng ta có thể đặt tất cả hoạt động của kiến thức nằm hoàn toàn trong đề mục minh triết.

        Trạng thái uy quyền.-Kế tiếp, chúng ta sắp đặt trong các loại của quyền lực tất cả những hoạt động của nhân loại liên quan đến sự cai trị loài người, đến sự thi hành những nhiệm vụ hành chính và hành pháp, đến hiến pháp của các quốc gia, đến sự thành lập những thị xă, nói tóm lại, đến tất cả những ǵ cần đền sự dùng uy quyến. Cũng trong loại đó gồm có những năng khiếu sáng tạo mà con người sẵn có v́ bẩm sinh là ḍng dơi thiêng liêng, dụng đến một cách có ư thức, chúng là những nguyên nhân mạnh mẽ của sự tiến hóa của nhân loại và là một sức mạnh lớn lao thúc đẩy con người tiến lên. Tất cả những hoạt động của các Chơn Sư Thiêng Liêng, trong dĩ văng cũng như trong hiện tại, đều hướng về việc cung cấp cho những trường hoạt động rộng lớn ấy một nền văn hóa sáng suốt tốt đẹp cho nhân loại để con người có thể cầy sâu những trường hoạt động ấy và do đó mà tiến hóa. Tất cả những sự cố gắng của các Ngài có mục đích là: cho những hoạt động ấy một phương hướng chơn chánh, dù đó là những hoạt động của ḷng bác ái,  của đức minh triết hay của uy quyền, để thúc đẩy chúng trên con đường trực tiếp của sự tiến hóa toàn thể của nhân loại. V́ lẽ đó mà tất cả những tôn giáo lớn được thành lập, v́ lẽ đó mà những bộ luật luân lư cao thượng được tuyên dạy; đó là nguyên nhân của bao nhiêu sự thúc đẩy nấy đă cho con người một sự tŕnh bày mới mẻ và hoàn toàn về tất cả những chơn lư cổ kính dưới danh từ Minh Triết Thiêng Liêng, danh từ nầy ngày nay rất quen thuộc đối với quư huynh dưới cái h́nh thức Hy lạp của nó gọi là Thông Thiên Học. Đó chỉ là chơn lư cổ kính được tŕnh bày lại một cách mới mẻ, một sự cố gắng mới của những vị Chơn Sư ấy để hướng dẫn những hoạt động đó của đời sống nhân loại.

        V́ hiện giờ điều ấy cần thiết hơn bao giờ hết, v́ nếu quư huynh nh́n qua toàn thể thế giới, quư huynh sẽ nhận thấy rằng trong mọi ngành hoạt động của nhân loại, con người như đă tiến đến cái giới hạn của năng lực y. Y đă chiếm được cảnh giới Hồng trần, y đă làm chủ được nó đến nỗi cái khía cạnh vật chất thu hút quá nhiều sự chú ư và những sự săn sóc của y, trong khi mà những sự thật của những cảnh giới cao siêu bị che khuất nên mắt y không thấy. Nếu chúng ta xem xét những hoạt động của đời, chúng ta thấy Tôn giáo một mặt th́ bị chủ nghĩa duy vật công kích và một mặt th́ bị sự mê tín dị đoan làm cho suy vi; như vậy nhân loại đưa về phía Tôn giáo hai lưỡi gươm đe dọa sự sống c̣n của nó, tức là tính hoài nghi không tin cẩn chi hết và sự mê tín dị đoan, tin tưởng một cách sai lầm. Cả hai đều gây tai hại cho sự tiến hóa của nhân loại trong cái phạm vi hoạt động đặc biệt nầy. Nếu rời bỏ Tôn giáo, chúng ta quay về phía t́nh thương nhân loại của xă hội hiện kim, chúng ta thấy một sự nghèo khổ quá lớn lao và sâu xa làm cho con người phải chiến đấu với nó. Ở nơi nào mà văn minh hiện đại thành công nhiều nhất, quư huynh sẽ gặp phải một sự tích trữ lớn lao nhất những nỗi đau khổ và một sự nghèo nàn ghê gớm nhất, nó có thể đè bẹp đời sống con người. Khi quư huynh nghiên cứu những nỗi đau khổ nầy, không những quư huynh nhận thấy rằng mọi t́nh thương nhân loại đều bất lực trước chúng, mà chúng c̣n phát sinh ra sự oán hận, thù ghét giữa những giai cấp khác nhau, chúng phát sinh ra những mối hăm dọa làm cách mạng và vô chính phủ. Nền văn minh v́ thế mà bị đe dọa ngay ở căn bản của nó, và loài người không cón biết chống giữ cách nào với sự nguy hiểm, v́ họ đă mất cái quan niệm về t́nh bác ái rồi.

             

Nếu từ t́nh bác ái, quư huynh đi sang sự minh triết, quư huynh sẽ thấy rằng cái trường hoạt động rông răi của nó đâu đâu cũng dẫy đầy những nỗi khó khăn. Khoa học h́nh như đă xài cho đến khô cạn những tài nguyên vật chất của nó. Những khí cụ của khoa học đă tế nhị, tinh vi một cách kỳ diệu, đến nỗi ở phương diện nầy dường như không c̣n có thể thực hiện một sự tiến bộ nào nữa; những cái cân của khoa học đă cân đúng một cách đáng khen đến nỗi chúng có thể cân một phần tử hết sức nhỏ nhặt của một hạt, và tuy vậy, khoa học đă tuyên bố rằng có những chất không sao cân được, dù đối với những cái cân tinh vi nhất. Với những phương pháp hiện tại, khoa học như gần hết tài nguyên và nó tự cảm thấy- mặc dầu nó không muốn- như nó bị những mănh lực tinh vi và huyền diệu hơn những mănh lực mà nó đă quen nh́n nhận đương chi phối nó. Nếu chúng ta nh́n vào pḥng thí nghiệm của một nhà hóa học, hay trong pḥng làm việc của một nhà khoa học th́ thấy được bằng cách cân hay đo lường. Những mănh lực nầy làm họ bối rối v́ chúng nó quả có thật, mà cùng trong một lúc, chúng nó chống đối với những phương pháp khoa học của họ với tất cả những ǵ mà họ tưởng đă biết được về Thiên Nhiên. Trong phạm vi triết học, quư huynh có thấy sự chống chọi giữa thuyết duy vật, và thuyết lư tưởng. Thuyết duy vật c̣n khuyết điểm và điều nầy đă được chứng minh, nó chưa có thể đứng vững chắc trên một nền tảng nhất định để không ai chỉ trích được. Trong phạm vi nghệ thuật, quư huynh cũng chỉ thấy sự bất lực và sự khô khan; nghệ thuật không c̣n tạo tác được cái ǵ cao cả và tân kỳ, mà chỉ cứ bắt chước người xưa một cách vụng về. Bởi v́ bất lực và khô khan, cho nên nó đă mất cái động lực sáng tác.

        Bây giờ chúng ta hăy xem xét sự hoạt động dưới trạng thái uy quyền tức là trạng thái thứ ba trong những trạng thái cao cả mà tôi đă chỉ dẫn cho quư huynh. Trong thế giới hiện hữu, chúng ta trông thấy ǵ? Hết quốc gia này đến quốc gia khác đang cố gắng thử nghiệm (những thể chế, chính sách),  rốt cuộc họ đă đánh mất đi những vị vua thiêng liêng thưở xưa mà các Ngài có thể cai trị họ và dẫn họ trên con đường thịnh vượng và hạnh phúc. Họ t́m cách đền bù sự mất những vị Vua Thiêng liêng ấy bằng cách tự cho ḿnh một ông vua có nhiều đầu mà người ta gọi là Dân chúng; thay v́ nền quân chủ thiêng liêng của những Vị được Điểm Đạo cao cấp, họ, đưa ra chánh thể tự trị và những phương pháp dân chủ- họ làm như chỉ cần lấy sự vô minh nhân với một con số khá to để có được một kết quả là sự thông thái vậy. C̣n về những năng khiếu sáng tác, người ta không c̣n nhớ đến chúng nữa, và con người đă quên mất cái phần gia tài thiêng liêng của ḿnh đến nỗi ai mà c̣n nói về điều đó th́ sẽ trở thành lố bịch.

            Tất cả những sự thể nầy chứng tỏ cái ǵ? Sự thể nầy chứng tỏ với ta rằng toàn thể nhân loại sẽ lại tiến lên một bước mới nữa. Nó chứng tỏ rằng chúng ta đă đi tới một trong những giai đoạn chuyển tiếp, giao thời, nơi đó những cách thức phát triển và nảy nở cũ, đă cổ kính, phải nhường chỗ cho những cách thức mới. Ở giữa sự bối rối và xáo trộn, ở giữa sự nguy ngập và phân vân, những mầm mống của sự tiến bộ sắp đến đang trưởng thành trong ḷng nhân loại; nó sẽ trả lại cho ta ba loại hoạt động vừa nói trên cái thế lực cũ của chúng, thế lực nầy được tăng thêm bởi một sự phát triển mới mẻ và cái tính cách rơ rệt của chúng thuở xưa. Thật vậy, sự tiến hóa không đi thối lùi, nhưng nó hồi sinh những sự tiến bộ đă qua và những phương pháp cũ, bằng cách tiến theo một đường khu ốc đi lên, trên mỗi ṿng của đường xoáy nầy người ta lại t́m thấy, dưới một h́nh thức cao hơn, cái ǵ tốt đẹp nhất ở ṿng trước. Ngày nay nhân loại tiến hóa trên đường khu ốc đó, để có thể thực hiện được, với những quyền lực mới mẻ và những năng khiếu rộng răi hơn, cái ǵ mà dĩ văng đă phô bày cho chúng ta thấy dưới những h́nh thức khác nhau.

        Chúng ta hăy xét về t́nh yêu thương. Khi mà nhân loại sẽ tiến thêm một bước mới nữa- và chúng ta đă thấy ở nơi nầy, nơi kia những dấu hiệu báo trước rằng nhân loại đang tự chuẩn bị để bước tới; bởi chưng nhân loại đă hoàn thành cái xác thân ḿnh, cho nên mục đích của những sự cố gắng của loài người sẽ là hoàn tất cái thể thứ nh́, nghĩa là cái thể vía. Nó sẽ giúp y thức tỉnh và hoạt động tự do ở cơi Trung Giới. Trong hàng ngàn năm nữa, nhân loại sẽ phát  triển cái thể thứ nh́ ấy và đa số loài người sẽ có thể dùng nó để làm việc ở cơi Trung giới, một cách cũng thong thả và dễ dàng như con người đang hoạt động ngày nay ở cơi Hồng trần bằng cách dùng xác thân ḿnh làm vận cụ vậy. V́ tất cả mọi người không b́nh đẳng như người khờ dại hiện kim thường tin. Thế nên không phải toàn thể nhân loại đa số nhân loại sẽ thực hiện được sự tiến bộ đó trong khi tiến hóa. Họ sẽ phát triển thể Vía của ḿnh và sẽ xử dụng nó hoàn toàn; như vậy sự tiến tới của loài người không bao giờ ngừng.

        Cái tiến bước ấy sinh ra sự thay đổi nào? Về Tôn giáo với cái nhăn trường được mở rộng, nhân loại sẽ nh́n thấy cái cảnh giới mà người ta gọi là cơi Trung giới, nơi đó nhiều Đấng Cao cả sẽ tự biểu lộ bằng cách hiện h́nh, với mục đích giúp đỡ và dạy bảo nhân loại. Con người sẽ học cách nh́n xem và nhận biết những Đấng cao Cả ấy mà tất cả những Tôn Giáo lớn đă tuyên bố là có thật. Con người sẽ biết được các Ngài cũng như hiện nay cũng có thể biết hay tưởng là biết được những xác thân xung quanh y. Y sẽ biết được những nhân vật của cảnh giới đó mà hiện nay cũng có thể trông thấy được. Như thế đa số loài người sẽ chia với những ai đă tột bực tiến hóa trong thời hiện đại của chúng ta cái sự hiểu biết trực tiếp mà hiện giờ rất hiếm hoi, và sự tin vững chắc lấy từ nguồn cội, sự hiểu biết sự tin vững chắc nầy khiến cho con người không c̣n hoài nghi được nữa. Khi trong cái trạng thái lương thức thường ngày của ḿnh, con người biết được những cảnh giới vô h́nh ấy cùng những dân cư của nó- họ bao vây quanh ta tứ phía- th́ y không c̣n có thể nghi ngờ về những điều đó cũng như chính quư huynh không thể nghi ngờ đời sống của cha mẹ và con cái quư huynh (Tôi không thảo luận về cái vấn thế giới hữu h́nh và tôi dùng danh từ với cái nghĩa thường mà ta gán cho chúng trong khi chúng ta giao tiếp với nhau). Khi cái bước đó đă thực hiện được rồi, th́ tánh cách của tôn giáo sẽ hoàn toàn thay đổi, và những chơn lư hiện nay được các nhà tiên tri và có thần nhăn thông hiểu và công bố sẽ được tất cả mọi người biết đến, họ có thể kinh nghiệm nó mỗi ngày. Điều nầy sẽ làm cho sự hoài nghi không c̣n có được nữa, cũng như hiện giờ người ta không sao hoài nghi được một phần lớn những bằng cứ của khoa học. Sự mê tín dị đoan cũng bị diệt trừ như sự hoài nghi. Nhờ sự vô minh, của con người cho nên sự mê tín mới sống trong bóng tối, phát triển và thịnh vượng được, và trở thành một hiểm họa cho các dân tộc, v́ có một số người c̣n giữ được cái truyền thuyết của sự hiểu biết mà không hiểu biết thực sự, nên đă xử dụng cái truyền thuyết nầy để nô lệ hóa đồng bào. V́ vô minh, những đồng bào nầy khiếp sợ cái sự hiểu biết giả mạo kia và cúi đầu trước những kẻ mạo nhận là có những ch́a khóa của sự hiểu biết, tuy rằng những ch́a khóa đó đă bị sét ăn và không thể quay vặn được trong những ống khóa nữa. Và, chúng ta sẽ thấy, như hiện nay chúng ta đang thấy, rằng sự mê tín dị đoan sẽ không sao c̣n được, khi mắt của con ngưới đă được mở ra. Quư huynh không biết được những tai hại của sự mê tín dị đoan gây ra ở bên kia cửa tử. Quư huynh không tưởng tượng được những nỗi đau đớn khổ sở và những kinh nghiệm mà rất nhiều linh hồn phải chịu khi họ ĺa bỏ xác thân mà bước sang một thế giới xa lạ đối với họ; ở đấy họ thấy không biết bao nhiêu h́nh nộm tưởng tượng dọa nạt họ, chính là sự hiểu biết giả mạo hướng dẫn sự mê tín dị đoan mới tạo ra chúng nó. Nhất là ở trường hợp phương Tây nơi đó người ta nói đến một đại ngục đời đời và nói rằng sau khi chết đi không có sự mở mang mà cũng không có sự tiến bộ, họ cho rằng kẻ có tội bị quăng vào một hồ lửa đỏ, y phải ở đó trong vô số thế kỷ của thời gian vô tận, không hy vọng được cứu rỗi hay giải thoát. Quư huynh không thể tưởng tượng được những hiệu quả mà những tín ngưỡng đó đă tạo ra cho những linh hồn bước qua cửa tử để đi sang thế giới bên kia. Những linh hồn đáng thương ấy tưởng rằng những chuyện ấy có thật và họ có thể là nạn nhân của những mối khủng khiếp và do những vị lănh đạo dốt nát của họ đă mô tả và tuyên bố. Những ai giúp đỡ họ bên kia cửa tử phải khó nhọc lắm mới có thể làm cho họ yên ḷng dần dần không c̣n sợ hăi nữa và làm cho họ hiểu rằng ở đâu cũng có định luật, và trong những quyền lực chỉ huy vũ trụ, không hề có sự sâu độc và tàn ác đâu. Như tôi vừa nói với quư huynh, sự hoài nghi và sự mê tín sẽ không thể c̣n được nữa; chúng ta sẽ gặp phải những nỗi khó khăn khác, những vấn đề tối trọng, nhưng hai kẻ thù sinh đôi của con người, sự hoài nghi và sự mê tín, sẽ bị diệt trừ, chúng không sao có thể tái sinh được nữa, khi ngày đó sẽ tới với nhân loại.

        C̣n về t́nh bác ái, t́nh thương nhân loại cũng sẽ rất tấn tới, v́ ở cảnh giới nầy, người ta có thể hành động một cách tốt đẹp hơn nhiều để làm lợi ích cho nhân loại hơn là ở cơi Hồng trần. Những hoạt động ở cơi trần th́ rất ầm ỹ, nhưng có những kết quả tương đối ít ỏi. Quư huynh trông thấy một người chạy từ chỗ nầy đến chỗ kia, ban ra những bộ luật, làm việc nầy hay việc nọ ở trong chính giới cũng như trong xă hội, và quư huynh tưởng rằng sự nghiệp của y sẽ lớn lao lắm và sẽ có những kết quả kỳ diệu. Nhưng những kết quả đó nhỏ nhen và thấp thỏi biết bao khi người ta so sánh chúng với cái đại triều ảnh hưởng của cái công nghiệp vô h́nh thực hiện trong sự b́nh tĩnh và yên lặng, không cần nói một lời, không phải một sự cố gắng nào của xác thân, của cái công nghiệp thực hiện bằng cái trí, trong cái phẩm chất tế nhị nó ảnh hưởng đến tư tưởng hơn là đến xác thân con người, ảnh hưởng đến cái trí của y hơn là đến những lớp vỏ bề ngoài. Khi nhân loại tiến lên đến cảnh giới cao siêu đó, cái ảnh hưởng nầy sẽ được lan rộng ra nhiều hơn là bây giờ và người ta sẽ bài trừ sự nghèo nàn, tội ác và những nỗi đau khổ bằng cách ảnh hưởng đến cái trí của dân chúng, người ta tinh luyện và thêm sức cho họ để đem họ lên khỏi những cảnh ngộ mà họ đương ch́m đắm trong đó. Tất cả quư huynh đều nhận thấy rằng khi phát sinh ra một tư tưởng ô trược, thù hận, tức giận hay thấp hèn, mỗi người trong chúng ta ném cái tư tưởng ấy ra ngoài thế gian, dưới h́nh thức của một sức mạnh linh động, một sinh vật lưu động nó cảm nhiễm xă hội và nhập vô trí những kẻ yếu đuối nhất, nhạy cảm nhất, kém tấn hóa nhất. Như thế, chúng ta thấy những tư tưởng của những người đáng kính gieo rắc những mầm mống của tội ác ở giữa những đám đông, và tội lỗi cùng những sự hành động của những đám đông nầy sẽ thuộc về quả báo của những ai đă sinh ra những tư tưởng ác đức ấy. Cái chơn lư nầy không được truyền rộng ra như đáng lẽ nó phải được tuyên truyền. Người ta không tin chắc ở nó như đáng lẽ người ta phải tin. Mỗi người khi có một cảm t́nh thù hận, liền ném vào cơi Trung giới một sức mạnh phá hoại, và khi nó gặp một người yếu đuối mang một nghiệp quả xấu, bị những hoàn cảnh bất lợi bao vây, bị những sự kích thích chi phối mà y không thể làm chủ được và bị những dục vọng và ngự trị cái trí của y, th́ những tư tưởng xấu xa kia nhập vô trí y: tất cả những tư tưởng kinh khủng ấy phát sinh bởi những người được hưởng một địa vị đáng kính trong xă hội. Nếu người yếu đuối vừa nói trên bị một sự bất công kích thích, bị một sự sỉ nhục nào làm cho y điên cuồng lên, y sẽ bị thúc đẩy mà phải phạm vào cái tội giết người. Tuy rằng chính cánh tay bằng xương bằng thịt của y cầm con dao, mà người ta có thể chắc chắn theo dơi sự trách nhiệm của vết dao đâm th́ biết nguyên nhân của sự giết người là do những tư tưởng của nhiều kẻ có ư muốn trả thù với một bản chất sát nhân xúi dục, mặc dầu họ không có khoác cái vẻ bề ngoài của kẻ sát nhân. Quư huynh sẽ không thế nào trừ tuyệt được tội ác trong những lớp cặn bă của xă hội nếu quư huynh chưa tinh luyện được những tư tưởng của những giai cấp thượng lưu, của những người có học thức, của những người có thể hiểu bản chất sự vật. Và khi nào tất cả điều nầy được mọi người thấu rơ, khi nào cảnh Trung giới được mở rộng ra trước mắt nhân loại, th́ chúng ta sẽ có trong tay một sức mạnh mới mẻ để giúp và nâng đỡ nhân loại. Thật vậy, con người sẽ không c̣n hồ nghi sức mạnh của tư tưởng. Y sẽ nhận định được cái trách nhiệm của ḿnh khi phát sinh ra những tư tưởng, và sẽ ban rải ra ngoài những ảnh hưởng bác ái và nâng đỡ, thay v́ những ảnh hưởng xấu xa thấp hèn mà ngày nay y thường cho ra. Y cũng sẽ nhận thấy rằng y có thể giúp đỡ một cách trực tiếp như hiện nay chúng ta được giúp đỡ, từ nơi mấy cảnh cao của cơi Thượng giới, bởi v́ những điều mà những nhà khoa học phát minh ra thường đến với họ từ cái cảnh giới cao siêu ấy, do một ảnh hưởng trực tiếp tới cái Trí của họ. Khi một nhà khoa học bắt đầu thực hiện một cách nhận xét mới mẻ, khi một người như ông Crookes khám phá ra được căn nguyên của nghững nguyên tử (1)[xxiv] –(một trong những lư thuyết đại cương tốt đẹp nhất của khoa học kim thời)- dễ hồ quư huynh tưởng rằng v́ bắt đầu đi từ dưới thấp mà ông có thể lên cao đến sự hiểu biết ấy sao? Tôi xin thanh minh rằng những ư kiến như thế là do tự trên cao đi xuống, chớ không phải tự dưới thấp đi lên. Theo cách từ trên đi xuống đó, những vị Chơn Sư ảnh hưởng đến cái trí của những người có một vài khả năng có thể dùng được, và như thế từ cái cảnh giới của tư tưởng, đi xuyên qua cảnh Trung giới, nơi đây tư tưởng là những sinh vật sống và động tác. Thỉnh thoảng các Ngài ảnh hưởng đến một vài người để thúc đẩy sự tiến hóa của thế gian và làm dễ dàng sự phát triển của nhân loại. Nếu ngày nay điều nầy ít khi xảy ra, th́ lư do là: khi mà phương diện đạo đức của con người chưa được phát triển, th́ con người chẳng nên biết quá rơ ràng về những sức mạnh vô h́nh ẩn kín sau bức màn che đậy chúng, y sẽ lạm dụng chúng thay v́ sử dụng chúng đúng phép, y sẽ dùng chúng một cách bất lương để thỏa măn những dục vọng ích kỷ của ḿnh thay v́ dùng chúng để giúp đỡ và thêm sức mạnh cho đồng loại. Đó là duyên cớ tại sao sự hiểu biết không được ban rải ra một cách rộng răi hơn. Đó là lư do tại sao khoa học không được giúp đỡ nhiều hơn nữa. Như lời của một trong những Đấng Cao cả đă nói: “Trước nhất, khoa học phải phụng sự nhân loại th́ mới xứng đáng được giúp đỡ một cách rộng răi của các Đấng Chí Tôn Cai quản tất cả những Vị Pḥ Trợ và tất cả những Vị Cứu Thế.”

            Về mặt khác nữa, người ta sẽ tấn tới nhiều lắm ở cái thời đại mà chúng ta đang nói đây.

        Giáo dục.-Về giáo dục, tôi tỷ dụ rằng khi tiếp xúc với các trẻ em, với những em trai nhỏ, quư huynh không mấy khi chú ư đến những khả năng cao cả mà người ta sẽ khám phá ra nơi các em, nếu mấy vị thầy của các em khá hiểu biết để nuôi dưỡng những căn chất tốt đẹp ấy và làm dập tắt những xu hướng xấu đi. Quư huynh biết rằng xung quanh xác thân của mỗi người có một ṿng hào quang mà con mắt quen luyện tập nhận thấy được- thí dụ như con mắt của một nhà Dô Ghi- hào quang nầy khiến ta có thể nhận xét được cái trạng thái phát triển của cái Trí, cái bản chất của tính nết và cho ta biết một cách rơ ràng về cái tŕnh độ tiến hóa của linh hồn ở trong xác thân ấy và về những nét đặc biệt và những thuộc tính của linh hồn. Mỗi người trong quư huynh đều mang theo xung quanh ḿnh cái tờ tường tŕnh đó về địa vị riêng biệt của ḿnh, cái bằng chứng rất rơ ràng của tŕnh độ mà ḿnh chiếm được trên nấc thang tiến hóa. Xung quanh mỗi người trong quư huynh có một châu vi đặc biệt nó chỉ rơ bản chất của tư tưởng và của tính nết quư huynh, rất dễ khám phá ra đối với con mắt đă được luyện tập- chẳng khác ǵ con mắt Hồng trần nh́n thấy những nét mặt- và nó cho ta biết rất nhiều về tính nết con người.

        Khi một em nhỏ ra đời, trong lúc đầu tiên của thời kỳ em lớn lên th́ hào quang của em có đặc điểm sau nầy: nó chứa những kết quả của cái nghiệp của em trong dĩ văng, nhưng cái phần lớn của những xu hướng về trí năo và về tính nết của em trong hào quang đó chỉ ở trong trạng thái mầm mống chớ không phải ở trong trạng thái đă chín mùi. Nếu quư huynh xem xét hào quang của một em nhỏ, quư huynh sẽ thấy nó tương đối trong trắng, những màu sắc của nó sáng sủa và trong suốt chớ không phải dầy đặc, dơ dáy như bùn lầy ở người nam hay người nữ đă trưởng thành, và trong cái hào quang nầy, có những xu hướng tiềm tàng có thể phát triển được. Có những xu hướng tốt và có những xu hướng xấu. Những nết đặc biệt nầy con mắt đă tinh luyện nh́n nhận ra được, người ta có thể phát triển những xu hướng tốt và bóp nghẹt những xu hướng xấu bằng cách đặt em nhỏ dưới những ảnh hưởng tốt. Nếu quư huynh muốn hạt giống sẽ cho ḿnh một cây non, lành mạnh và sống lâu th́ quư huynh phải để hạt giống đó vào một miếng đất tốt, tưới nước cho nó và coi chừng mặt trời chiếu vào nó chan ḥa. Hạt giống chứa tất cả những ǵ thiết yếu trong cây nhưng cây nầy chưa được hoàn toàn phát triển và tùy theo bản chất của miền đất gieo hạt, tùy theo sự săn sóc của quư huynh, tùy theo ngọn gió mát sẽ mơn trớn cây và mặt trời sẽ sưởi ấm cây, cây sẽ nẩy nở hoàn toàn, nhiều hay ít, cây có thể lớn lên và trở thành rất đẹp, hay có thể cằn cỗi và không lớn lên được nữa. Trong một phạm vi rộng răi, th́ đứa con nít cũng vậy. Một em nhỏ ra đời; thí dụ em có mang theo ḿnh mầm mống của sự giận dữ, mầm mống của một bản chất hung bạo và si t́nh. Nếu chúng ta tỉ dụ những người xung quanh em đều khôn ngoan và hiểu biết, th́ họ sẽ biết cách đối đăi với em ra sao. Không bao giờ người ta được để cho em nghe thấy một lời giận dữ, không bao giờ để em chứng kiến một hành động si t́nh. Tất cả những ai ở xung quanh em đều phải dịu dàng, mến yêu và tự chủ, và không bao giờ được truyền cho cái mầm mống mà em đă có sẵn, cái sức kích thích của sự giận dữ của người lớn tuổi, sức nầy sẽ có hiệu quả thúc đẩy sự giận dữ phát triển nơi đứa nhỏ, khiến tính nầy tăng thêm mực độ và trở thành chín mùi.Quư huynh phải coi chừng làm sao cho đứa trẻ ở trong ṿng của những ảnh hưởng có tính cách kích thích những điều tốt đẹp, cao thượng và trong trắng nơi các em. Và nếu quư huynh làm điều nầy cho mỗi em nhỏ, th́ nhân loại sẽ tiến với một tốc độ nhanh như chạy thay v́ hiện giờ nhân loại đang đi như một kẻ què chân khập khễnh. Sự vô minh làm mờ tối cái trí con người và họ không c̣n biết cách nào nuôi dạy trẻ nhỏ ra sao nữa. Chung quanh chúng ta chỉ có những sự thất bại, và những sự thất bại nầy sẽ biến đi khi con người có một sự hiểu biết rộng răi hơn, khi y sẽ dạy bảo một cách sáng suốt chớ không mù quáng như bây giờ, khi y dạy dỗ căn cứ vào sự hiểu biết chớ không phải vào sự vô minh. Sự cần thiết của một nền giáo dục chơn chánh nầy giải nghĩa tại sao xưa kia mỗi đứa trai nhỏ đều phải gởi đến một vị Thầy. Cái tục lệ cổ kính nầy có mục đích để một cái trí đă phát triển đầy đủ, ảnh hưởng đến cái trí của con nít và để được sự giúp đỡ của một Chơn Sư có những kiến thức sâu xa vượt khỏi những kiến thức của người thường. Vị Thầy bao giờ cũng là một người thông hiểu. Vị Thầy bao giờ cũng là một người sáng suốt, có thần nhăn, thấy rơ, và trẻ em được trao đến tay Ngài là v́ nhờ nền giáo dục được ban phát như thế, những bản năng xấu xa được diệt bỏ, và những bản năng tốt được phát triển. Khi mà những Vị Thầy Chơn Chánh đă mất đi, th́ nhơn loại đă mất sự lợi ích lớn lao ấy, nhưng điều lợi ích nầy sẽ t́m lại được khi sự hiểu biết được ban rải rộng răi hơn trong dân chúng và khi một giai đoạn cao hơn trong sự phát triển của loài người sẽ làm cho cái cách giáo dục cao thượng ấy có thể  thực hiện được.

        Y học.-Trong mọi giai đoạn của sự hiểu biết, những phương pháp sẽ được thay đổi. Người y sĩ sẽ không c̣n bị bắt buộc chẩn bịnh do những dấu hiệu bên ngoài, ông sẽ căn cứ sự chẩn bệnh vào sự nh́n thấy trực tiếp chớ không phải vào sự suy luận nữa. Để ấn định một cách chẩn bệnh, người ta bắt đầu sử dụng cái mà người ta gọi là những năng khiếu thần thông hay là thần nhăn. Thay v́ bị sự dầy đặc của xác thân ngăn cản, thầy thuốc sẽ nhờ đến người có thần nhăn nh́n xuyên qua vật chất Hồng trần và có thể chính ḿnh thấy rơ ràng chứng bệnh, y thấy được một cơ quan đau yếu, trong những bộ phận của thân thể con người. Do sự có thần nhăn ấy, người y sĩ biết được những điều mà ông ta cần biết khiến ông có thể hành động chắc chắn hoàn toàn và coi chừng được hiệu quả sinh ra do những món thuốc đă cho uống. Quư huynh hăy tưởng tượng khoa y học sẽ trở thành như thế nào, nếu tất cả những vị y sĩ đều có cái năng khiếu thần nhăn ấy, nếu năng khiếu nầy trở nên thông thường thay v́ là một sự đặc hữu của một vài người, để khiến cho những người thầy thuốc có thể ấn định sự chẩn bệnh một cách vững chắc và có thể coi chừng những hiệu quả của cách chữa bệnh với cái tính cách rơ ràng mà chỉ riêng thị giác mới cho được mà thôi.

        Hóa học.-Đối với khoa hóa học cũng vậy, những kết quả mà nhà hóa học sẽ thâu thập được sẽ vượt xa những kết quả hiện tại biết bao nếu mắt ông được mở ra, hay hơn nữa, nếu ông có thể theo dơi tất cả những giai đoạn phối hợp của các nguyên tố, nếu ông có thể cấu thành những hợp chất với ḷng tin chắc chắn v́ mắt đă trông thấy thay v́ làm việc đó do sự ngẫu nhiên, và phải đợi kết quả của một sự thí nghiệm trước khi biết được chắc chắn cái kết quả xảy ra. Người ta sẽ tránh được biết bao nhiêu tai nạn. Sự hiểu biết đó sẽ thúc đẩy những sự tấn bộ của khoa học biết bao.

        Tâm lư học.- trong phạm vi của khoa tâm lư học cũng thế; khi con người giao cảm với nhau bằng tư tưởng, thay v́ dùng những phương pháp chậm chạp của khoa học vật chất, th́ tư tưởng sẽ bay nhanh chóng biết bao từ khối óc  nầy sang khối óc khác, truyền thông những ư nghĩ mà không cần đến những phương pháp thô sơ thường sử dụng ngày nay. Quư huynh sẽ nhận định ngay được cái ư nghĩa của sự đó như thế nào, đối với nhân loại, bằng cách tự đặt ḿnh vào cái quan điểm của cảnh giới Hồng trần. Tôi muốn nói rằng lúc đó cái ư nghĩa chia rẽ chỉ c̣n là một sự vật của dĩ văng, rằng non núi cũng như đại dương sẽ không c̣n có thể chia rẽ được hai người, hai bằng hữu, hai người quyến thuộc nữa. Tôi muốn nói rằng khi mà con người đă chiếm được cái cảnh giới ấy của thiên nhiên, th́ họ sẽ có thể giao cảm với nhau, từ cái trí nầy sang cái trí khác, dù họ đang du lịch ở nơi nào, dù họ cư ngụ ở xứ nào, v́ đối với cái trí, những biên giới của thời gian và không gian không c̣n nữa, như chúng ta vẫn tồn tại ở cơi Hồng trần. Khi con người làm cho cái Vía được tinh vi, y sẽ xuất vía được, y sẽ luôn luôn đi đến được với người thân yêu, và những nỗi đau khổ về sự vắng mặt sẽ mất đi. Cũng như thế, sự chết sẽ mất cái quyền lực chia rẽ. Quư huynh hăy xem xét đời người hiện nay, và quư huynh sẽ thấy rằng sự tử biệt và sự sanh ly là hai mối đau đớn lớn lao đang đè nặng lên nhân loại. Cả hai sẽ mất cái áp lực chánh của chúng khi con người tiến bộ được một bước lớn như thế, cả hai sẽ mất cái quyền lực chia rẽ khi con người tiến đến cái tŕnh độ cao vút đó. Cái điều mà ngày nay chỉ có những người Đệ Tử được hưởng, th́ sẽ được Họ chia sớt với đa số, và đời sống vật chất của con người sẽ thành tốt đẹp hơn, khi mà những ảnh hưởng trên đây thường làm bối rối cuộc đời, sẽ biến đi mất.

        Triết học.-Dĩ nhiên, đối với Triết học th́ cũng thế, nhờ sự hiểu biết thâm sâu hơn về những khả năng của vật chất và những sự thật của đời sống.

        Sử học.-Đối với Sử học cũng thế, khi tất cả những tài liệu của nó được lấy ở những văn khố của chất Tiên Thiên Khí (Akasha), và khi môn Sử học không c̣n được viết với mục đích thỏa măn những dục vọng của một đảng phái chính trị, hay để binh vực một vài lư thuyết về sự tiến triển của nhân loại hay một vài giả thuyết do trí tưởng tượng của các nhà thông thái mà sinh ra. Tất cả lịch sử đều được ghi chép trong chất Tiên Thiên Khí (Akasha); đó là những văn khố không bao giờ hư hoại và không sao bị tiêu diệt được. Không một hành động nào của nhân loại trong dĩ văng mà lại không được ghi chép ở đấy, không một sự việc ǵ của lịch sử loài người mà lại không được thu vào đấy đối với những con mắt có thể nh́n thấy. Rồi sẽ đến lúc tất cả lịch sử sẽ lấy ở đó ra thay v́ được viết theo cái phương pháp đầy vô minh được sử dụng hiện giờ, và khi nào con người muốn biết về dĩ văng y chỉ việc nh́n vào những văn khố không thể hủy hoại đó và sẽ dùng chúng để tự phát triển, bằng cách xử dụng kinh nghiệm của dĩ văng, để giúp sự phát triển của nhân loại được nhanh chóng hơn.

        Mỹ thuật.-C̣n nghệ thuật sẽ tiến như thế nào, khi những quyền lực tân kỳ đó sẽ ở trong tay của con người, th́ có lẽ chỉ những ai ngày nay đang hưởng thụ nghệ thuật đến một mức nào, mới có thể tưởng tượng điều đó được. Những h́nh dáng tân kỳ, đẹp hơn mọi danh từ, sẽ được xử dụng; những màu rực rỡ hơn, không thể tưởng được sẽ được dùng đến, những màu sắc không có ở cơi trần và sẽ nảy sinh trong chất tế nhị nhất trong cơi Trung giới, những màu sắc mà không ai có thể tả được v́ tả bằng lời nói th́ không sao mà làm cho ta hiểu biết được cái bản chất của một màu lạ lùng như thế. Tất cả điều này sẽ ở trong phạm vi của nghệ thuật, cũng như tất cả những khả năng kỳ diệu của những giác quan tế nhị hơn.

        Thế lực và uy quyền.-Vậy thế lực và uy quyền sẽ ra sao? Nền quân chủ thiêng liêng (1)[xxv] sẽ trở lại xuất hiện trên trái đất. Con người sẽ được xếp hạng trong xă hội tùy theo tŕnh độ tiến hóa mà họ đă đi tới chớ chẳng phải tùy theo những ư muốn ngông cuồng của sự ngẫu nhiên như ta thường thấy ngày nay. Tất cả mọi người sẽ có thể biết được cái tŕnh độ tiến hóa của chính ḿnh và của người khác, v́ cái hào quang của mỗi người sẽ chỉ rơ để ai cũng có thể trông thấy được những khả năng về trí thức và những khả năng đạo đức của y, và do đó, cái địa vị mà y xứng đáng có trong xă hội loài người, chúng ta sẽ thấy những thanh niên tập luyện làm cái công việc mà họ có năng khiếu, cái loại công việc mà những thiên bẩm của họ khiến họ có thể hoàn tất được một cách tốt đẹp. Cái sự bất măn đương ngự trị ngày nay sẽ mất đi v́ nó có nguồn gốc: a) ở trong sự thất vọng v́ muốn làm những nghề nghiệp thích hợp mà lại bị ngăn cản, _b) ở trong cái ư tưởng phải chịu một sự bất công, nó hiện rơ trong cái trí của con người, khi họ tin chắc rằng họ có những năng khiếu mà lại không có được dịp nào làm cho những năng khiếu ấy nổi bật lên; họ có những khả năng mà họ không thể phô ra được. Nếu họ khôn ngoan th́ họ sẽ biết rằng đó là kết quả của Nghiệp Báo của họ; nhưng chúng ta nói đây là nói về đám đông chớ không phải nói đến những nhân vật thông minh hơn. Đối với những đám đông nầy, sẽ không c̣n sự bất măn nữa, khi mỗi người có được một địa vị mà những năng khiếu hiển nhiên của y cho phép y chiếm, và như thế, chúng ta sẽ có một xă hội được tổ chức một cách tốt đẹp. Cùng ở lúc đó chúng ta sẽ biết cách đối đău với những người thấp kém trong nhân loại ra sao. Chúng ta sẽ không trừng phạt những kẻ tội lỗi nữa. Chúng ta sẽ sửa chữa tính t́nh họ, chúng ta không xử tử họ nữa, chúng ta dạy dỗ họ. Chúng ta sẽ có thể phân biệt được cái nhược điểm cần phải nâng đỡ và người ta sẽ trông thấy sự minh triết nó sửa chữa thay thế cho tức giận nó trừng phạt. Không những người ta cải tạo xă hội bằng cách cải thiện chính cái bản tính của con người, mà cái vẻ bề ngoài của xă hội cũng được thay đổi, và toàn thể loài vật sẽ phục ṭng cái quyền năng cải tạo của loài người. Con người sẽ không c̣n là một bạo chúa và một kẻ áp bức như bây giờ, nhưng sẽ là người nâng đỡ, người giáo hóa và dạy bảo súc vật thấp kém. Y sẽ thành người che chở và người giáo dục cho con vật, chính sứ mạng y là phải như thế, chớ không phải là kẻ đao phủ áp bức loài vật như người ta thường thấy ngày nay đâu. Tôi không cần phải nói thêm rằng mọi sự tàn ác sẽ dần dần biến mất; máu của loài vật sẽ không c̣n chảy loang trên mặt đất nữa, cũng như bây giờ nó đang thấm sâu xuống đó; giống vật sẽ không c̣n chạy trốn con người v́ sợ hăi và kinh khủng nữa, v́ biết rằng đó là một người bạn chớ không phải là kẻ thù; lúc đó chúng ta sẽ tiến đến một thời đại hoàng kim mới mẻ, khi ấy tất cả những sinh vật đều thương yêu nhau chớ không oán thù nhau.

        Lương thức trên cơi Thượng giới.-(1)[xxvi] _ Những điều tôi vừa nói với quư huynh giống như một truyện Thần Tiên, tuy nhiên, đó chỉ là cái giai đoạn gần nhất sắp tới của sự phát triển của con người, đó chỉ là cái kết quả của sự làm chủ cơi Trung giới, cái cảnh giới ở ngay trên cảnh Hồng trần. Sự thể sẽ như thế nào khi con người c̣n lên cao hơn nữa và sẽ mở rộng lương thức trên cảnh Thượng giới hay cảnh của cái Trí. Tôi có thể lấy một hay hai thí dụ để cho quư huynh có thể tưởng tượng về sự phát triển hoàn toàn của lương thức ở cái thời đại quá xa xôi ấy. Tỉ dụ như có một diễn giả với những thính giả. Chúng ta sẽ thấy bao nhiêu sự khác biệt giữa cái tài hùng biện với hiệu quả của tài đó đối với công chúng. Thay v́ nghe thấy những tiếng, những âm thanh được thốt lên và vào đến lỗ tai, âm thanh chỉ truyền được một phần nhỏ của tư tưởng đă không hoàn toàn mà c̣n sai nghĩa, th́ thính giả sẽ trông thấy tư tưởng trong thực trạng của nó. Tư tưởng nầy sẽ xẹt ra dưới mắt họ, sẽ khoác một màu tươi chói, sẽ có một âm điệu huy hoàng và một h́nh thức tuyệt diệu, như người ta nói với họ bằng âm nhạc vậy. Người ta sẽ nói với họ bằng một thứ ngôn ngữ được điển h́nh bằng những màu sắc và h́nh thức, đến mức làm cho một căn pḥng đầy âm nhạc tuyệt hảo, đầy màu sắc và h́nh thức tuyệt hảo. Quả thật đó sẽ là tài hùng biện của tương lai, khi con người sẽ làm chủ được cái cảnh giới cao cả của trạng thái của lương tri và của đời sống. Quư huynh tưởng rằng tôi chiêm bao hay sao. Tôi xin tuyên bố hiện nay có những người đă đi tới cái cảnh giới ấy của lương tri, họ đă biết nó, cảm thấy hiệu quả của nó; những người nầy đă vượt qua những tấm màn đă che lấp con mắt của đa số nhân loại và ngăn cản họ không cho hiểu biết những khả năng cao cả của đời sống. Một người đứng trên đỉnh một cái tháp cao có thể nh́n ngắm phong cảnh tứ phía và nhận được những âm thanh,, những màu sắc và những h́nh dáng tự khắp các nơi của phong cảnh ấy mang lại, nhưng nếu y đi xuống thang lầu của cái tháp, th́ y chỉ c̣n trông thấy cái phần phong cảnh được đóng khung trong cái cửa sổ đục ở vách tường thôi. Đời sống của con người trên cảnh Thượng giới cũng giống thế. Sự hiểu biết tự tứ phía đến với y tràn trề, không phải do sự trung gian của những giác quan mà chúng ta biết, nhưng nhờ một giác quan duy nhất, nó ứng đối với tất cả những làn rung động của ngoại cảnh. Và khi con người trở xuống những thể thấp, th́ sự nầy có một hiệu quả giống hệt như khi đi xuống thang lầu; y chỉ c̣n có thể nhận thấy được những cái ǵ mà mắt , tai, mũi- những cái cửa sổ bé nhỏ đục ở trong tường – cho phép y hiểu biết được ngoại cảnh, v́ các giác quan chỉ là những cửa sổ, và chúng ta bị giam hăm đằng sau có những bức tường của xác thân. Chúng ta chỉ c̣n có một cách là vượt lên khỏi cái xác thân này th́ mới có thể nhận thấy cái cảnh giới bao bọc xung quanh ta, trong tất cả sự huy hoàng của nó, trong tất cả vẻ đẹp của nó và với tất cả những sự kư diệu của nó.

        Lúc đó, cái mănh lực của đời sống sẽ được tăng lên thập bội. Tất cả những sự biểu lộ cao cả của trí thức đều tự cảnh giới nầy mà ra và xuyên qua Trung giới. Những ảnh hưởng có uy lực nhất thuộc về thể trí ngày nay dùng để giúp đỡ con người ở cơi Hồng trần, đều ở những cảnh cao của Thượng giới ban xuống do những người có thể hoạt động trên ấy. Những đệ tử của các Chơn Sư đều ở đó, hoàn toàn thức tỉnh, làm việc để giúp đỡ con người, để làm cho nhân loại thêm mạnh mẽ, và tất cả những ai đă bước qua những cánh cửa lớn của sự Điểm Đạo mà hôm qua tôi đă nói với quư huynh, đếu sống trong cảnh giới nầy và giúp đỡ con người. Người đệ tử có thể làm việc đó ở cơi Hồng trần, nhưng y sẽ làm việc một cách hoàn hảo hơn khi y ở trên cái cảnh giới cao cả và có hiệu quả nầy. Nơi đây, y hoạt động nhiều nhất, nơi đây, y hữu ích nhất. và khi nào đa số nhân loại tiến tới cảnh giới nầy th́ số người làm việc sẽ lớn biết bao, sự liên hiệp của những người cứu giúp sẽ rộng răi biết bao. Ngày nay, nơi đó chỉ độ vài trăm người làm việc   để giúp đỡ muôn triệu người khác trong nhân loại, và công việc th́ không được hoàn toàn, v́ số người làm việc ít ỏi. Nhưng khi mà toàn thể nhân loại ên cao đến cảnh giới nầy th́ con người sẽ vượt qua những nấc thang dưới một cách nhanh chóng biết bao. Nhân loại sẽ phát triển một cách nhanh chóng đến đỗi ngày nay chúng ta không thể tưởng tượng được.

        Lương thức trên cơi Bồ Đề.-Con người sẽ đi lên cao hơn nữa, để đứng trên một cảnh giới khác; trên cảnh giới nầy, tất cả đều là sự đồng nhất, con người biết và cảm thấy rằng ḿnh chỉ là một đối với vạn vật hữu h́nh, đó là cảnh giới Turiya, (Bồ Đề) mà con người sẽ chiếm hữu trước khi Đại Kiếp kết liễu. Cái cảnh giới nầy chỉ mở rộng ra cho người đệ tử trong giai đoạn cuối cùng của sự phát triển của y, như tôi đă tả hôm qua. Giống Dân Chánh Thứ Bảy sẽ trèo lên những đỉnh cao ấy và sẽ ở trên đó. Khi người ta đă tiến đến cái sự phát triển ấy của trạng thái lương thức, th́ không c̣n cái ǵ có thể chia rẽ loài người được nữa; mỗi người đều biết rằng ḿnh chỉ là một đối với những người khác, ḿnh cảm thấy cái điều mà họ cảm thấy, ḿnh nghĩ và biết cái điều mà họ nghĩ và biết; đó là một trạng thái lương thức được mở rộng ra, cho đến khi gom vào đó cả ức triệu sinh linh. Đến lúc đó, Huynh Đệ Đại Đồng là một việc đă hoàn tất, v́ ở nơi đó, người ta cảm thấy cái tinh hoa của sự vật, chớ không phải chỉ thấy cái vỏ bề ngoài của nó mà thôi, ở nơi đó, người ta trông thấy sự thật chớ không phải chỉ thấy sự biểu lộ hữu h́nh. Tất cả đều nh́n nhận cái Chơn Thần Duy Nhất sống ở mọi sinh linh, và đối với người hiểu biết th́ không làm sao mà có thể thù hận được nữa.

        Lương thức trên cơi Niết Bàn.-Cao hơn nữa, c̣n có một mức khác mà tôi không thể dùng một tiếng nào mà mô tả được, mà không một câu nào có thể cho ta một ư niệm được, cái mức mà các Vị Thánh Minh gọi là Niết bàn, mà các Ngài đă hoài công kiếm cách giải, v́ ngôn ngữ loài người không thích hợp với việc ấy; tất cả những sự cố gắng của các Ngài để làm chia sớt sự hiểu biết của ḿnh cho kẻ khác chỉ làm thành một quan niệm sai lầm mà thôi. Đó là trạng thái của lương thức cao cả đến nỗi ta không sao có thể hiểu được; đó là một trạng thái lương thức bao gồm trọn cả vũ trụ và do đó mà khiến cho loài người – họ chỉ có một sự hiểu biết hữu hạn – có cái cảm tưởng Niết Bàn là tịch diệt. Nhưng tôi xin nói với quư huynh, đời sống ở Niết Bàn, đời sống của các Tiên Thánh đă đi tới Niết Bàn, là một trạng thái lương thức mà bên cạnh nó, trạng thái lương thức của chúng ta giống như trạng thái của ḥn đá, v́ bị những hạn định ràng buộc, v́ bị sự vô minh nó làm cho tối tăm, và v́ do những phương pháp vụng về của nó; ở đấy y có một đời sống vượt khỏi tất cả những giấc mơ của chúng ta về cuộc đời, một sự hoạt động cao hơn tất cả những ǵ mà chúng ta có thể tưởng tượng, một đời sống duy nhất, và tuy vậy nó ban rải ra bằng nhiều hoạt động cụ thể; một đời sống nơi đó Đức Thượng Đế là Ánh Sáng hiện h́nh ban rải những tia sáng xuyên qua tất cả những cảnh giới của vũ trụ. Cái tŕnh độ ấy cũng là một mục đích mà con người phải tiến tới trong Đại Kiếp nầy, và y sẽ đi đến đó khi giống Dân Chánh Thứ Bảy hoàn thành xong sự tiến hóa của họ. Những tinh hoa của nhân loại chúng ta (1)[xxvii] hiện nay đă biết được mục đích đó; một ngày kia các vị ấy sẽ thấy hàng ức triệu sinh linh ở chung quanh ḿnh cũng biết mục đích đó như ḿnh vậy. Rồi đến Đời Sống của Thượng Đế trong những kỳ gian vô số kể và Ngài sẽ hoàn toàn phản chiếu vào những sanh linh trưởng thành theo gương Ngài, cho tới khi một vũ trụ mới nảy sinh, cho tới khi một vũ trụ mới khởi đầu hoạt động. Và mỗi vị trong những Sanh Linh ấy, đến lượt họ lại trở thành một Vị Thượng Đế, lại xây dựng một vũ trụ mới, lại dạy dỗ một nhân loại mới. Đó là cái tương lai đang chờ đợi chúng ta; đó là cái vinh dự huy hoàng sẽ được tỏ bày ra cho chúng ta biết vậy./.

                                                                        ANNIE BESANT.                         


đầu sách  cuối sách  chương 1 2 3 4


[i] Những bài thuyết pháp này được gom trong một cuốn sách nhan đề “Chơn linh và những thể của nó” (Le Soi et ses enveloppes).

[ii]  Ba trạng thái ấy là: Động (Rajas),Tính(Tamas) và Thăng bằng(quân b́nh)(Sattva) cũng có nghĩa là điều ḥa.

[iii]Cũng gọi là ngũ hành

 

[iv]  Xă hội Ấn Độ chia bốn giai cấp lớn: Bà la môn, là những người chuyên đọc Kinh, Sách: Chiến sĩ, thương gia: Tôi tớ (lời của dịch giả).

[v]  1)An phận. 2)Tha thứ. 3)Tự chủ. 4)Không chiếm hữu vật ǵ một cách bất hợp pháp. 5)Tinh luyện. 6)Kiềm chế những cơ quan của thân thể. 7) Minh triết. 8)Thông hiểu vế Đại Hồn của Vũ Trụ. 9) Chân thật. 10)Kiêng tránh sư giận dữ.

[vi]  Theo nghĩa từ chữ là Đại Thiên Thần, nhưng chính nghĩa đây là Đức Thượng Đế.

[vii]  Manvantara.

[viii] Amibe: giống trùng, giống sinh vật đơn giản nhất.

[ix]  Avatur

[x] Người đệ tử đă vượt qua giai đoạn thử ḷng.

[xi]  Exotérique

[xii] Quả vị Chơn tiên,Chơn Sư.

[xiii]  Người tu khổ hạnh, không c̣n ham những thú vui hồng trần nữa.

[xiv]  Ava tar

[xv]  Thần giao cách cảm.,

[xvi]  Có người mở luồng hỏa hầu trước khi được Điểm Đạo lần thứ nhất.

[xvii]  Hamsa có nghĩa là con Hạc (cygyne)

[xviii]  Turiya: trạng thái siêu việt:trạng thái tinh thần cao siêu (lời dịch giả) đối chiếu với cơi Bồ Đề. Nên coi cuốn Yoga nhập môn (Instroduction au Yoga) trương 2.

[xix]  Chơn Sư hoàn toàn giải thoát.

[xx]  Bốn vị cao cả nhất của Quần Tiên Hội (hệ thống huyền bí) giúp nhân loại tiến hóa.

[xxi]  Con của Đại Hồn Vũ Trụ.

[xxii]  Les Fils de la Pensée- Muốn hiểu rơ điều nầy phải học hỏi sự sanh hóa của Nhân loại- Xin đọc quyển “La généologie de I’homme” của bà Annie Besant.

[xxiii]  Ego réincarnateur chính là Linh Hồn của con người, vĩnh viễn trường tồn.

[xxiv]  LaGenèse des atomes.

[xxv]  Tức là những vị Vua đă được điểm đạo.

[xxvi]  Sự phân chia: Lương thức trên cơi Thượng giới, Bồ Đề, Niết bàn vốn của dịch giả và luôn những giai đoạn trước.

[xxvii]  Tinh hoa nhân loại hiện nay là những vị Tiên Thánh, những Chơn Sư đă được từ năm lần Điểm Đạo sấp lên.

 

đầu sách  cuối sách  chương 1 2 3 4

 

 

HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  QUEST  MAGAZINES