|
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES
|
CƠ ĐỐC GIÁO BÍ TRUYỀN
NGUYÊN
TÁC:
ESOTERIC CHRISTIANITY Đánh Máy: Như Khuê Tiểu Hoa Nhi |
|
1.Phía ẩn mật của các Tôn Giáo
2.Phía ẩn mật của Cơ Đốc Giáo:Chứng cớ của Thánh Kinh
3.Phía ẩn mật của Cơ Đốc Giáo:Chứng cớ của Giáo Hội
5.Đấng Christ trong thần thoại
6.Đấng Christ trong thần bí học
8.Sự sống lại và sự thăng thiên
10.Cầu nguyện
11.Sự tha tội
13.Phép Bí Tích: Trường hợp cụ thể
14.Khải thị
Sự Minh
Triết Ẩn Vi Trong Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo
Giải Đáp Những Vấn Đề Thiết Yếu
Quyển sách này nhằm mục đích gợi một vài ư
tưởng về những chân lư ẩn sâu trong Cơ Đốc Giáo thường bị bỏ qua và phủ nhận.
Ḷng ước muốn chia sớt rộng răi những chân lư vô giá, không che đậy ánh sáng
giác ngộ, đă đưa đến tấm ḷng nhiệt thành không ngại góp ư vào Cơ Đốc Giáo,
và đă tŕnh bày những giáo lư ấy dưới một h́nh thức đôi khi làm mất ḷng một
vài người.
Mệnh lệnh “Giảng Tin Lành cho mọi người” đă
được giải thích là không nên giảng Minh Triết (gnosis) cho một số ít người,
hiển nhiên nó đă xóa mờ một lời nói ít phổ thông hơn của cùng vị Đại Giáo
Chủ trên: “Đừng bỏ vật thánh cho chó, cũng đừng quăng ngọc châu ḿnh cho heo”
(Matt 7:6)
Tính đa cảm sái chỗ ấy đă không chịu nhận thấy
những t́nh trạng bất đồng hiển nhiên của trí khôn và đạo đức, do đó nó đă
thâu hẹp nhu g74 giáo lư cao siêu và hạ thấp xuống mức độ mà các hạng người
kém tiến hóa có thể vươn tới được. Nó đă hy sinh cái cao siêu cho cái thấp
kém và lại làm tổn thương cả hai. Tính đa cảm ấy đă không có chỗ đứng trong
lương tri hào hùng của những người Cơ Đốc đầu tiên. S.Clement đă nói một
cách ngay thẳng về các Bí Pháp: “Ngay đến bây giờ, tôi cũng ngại liệng ngọc
báu cho heo, e rằng chúng sẽ dẫm lên rồi quay trở lại cắn chúng ta’. Bởi v́
rất khó tŕnh bày Ánh Sáng chân chính bằng những ngôn từ thật sự trong sáng
và thuần khiết cho các người chưa được huấn luyện.”
Nếu muốn tái lập lại phần Minh Triết chân chánh,
th́ người ta chỉ nên hạn chế nó theo vài quy lệ cổ xưa mà thôi và không nên
hạ thấp chân lư xuống ngang tŕnh độ của hạng người kém phát triển. Chỉ bằng
cách giảng dạy cho một số ít người tiến hóa mới có thể mở đường cho sự phục
hồi nền hiểu biết cổ thời, và sự nghiên cứu Tiểu Bí Pháp cần đi trước Đại
Pháp. Đại Bí Pháp không bao giờ được phổ biến mà chỉ được những Vị Huấn Sư “truyền
khẩu” cho đệ tử mà thôi. Nhưng các Tiểu Bí Pháp hiện nay có thể được phục
hồi và một quyển sách như thế này nhằm phát họa những nét đại cương và chỉ
rơ bản chất
của các lời giáo huấn cần phải được nắm vững. Nếu nơi nào lời giảng chỉ nêu
ra những dấu hiệu, những điều bóng gió th́ cần phải tham thiền về những chân
lư được cố ư ẩn dấu mới thấy được những nét đại cương và nhờ tham thiền liên
tục, ánh sáng càng ngày càng tỏ lộ rơ ràng, đầy đủ hơn. Hạ trí chỉ chăm lo
vấn đề bên ngoài. Tham thiền sẽ làm hạ trí an tĩnh, và chỉ khi nào nó an
tĩnh rồi, tinh thần mới có thể giác ngộ được nó. Kiến thức về những chân lư
tinh thần chỉ có thể được đạt bằng cách ấy, từ bên trong chứ không từ bên
ngoài, từ Tinh Thần thiêng liêng mà chúng ta là đền thờ chứ không phải từ
một vị Huấn Sư bên ngoài.
Đây là con đường của Minh Triết Thiêng Liêng.
Nó chẳng phải như vài người nghĩ là một sự pha chế của Ấn Độ Giáo, Phật Giáo,
Lăo Giáo hay một tôn giáo đặc biệt nào khác. Nó chính là Cơ Đốc Giáo bí
truyền, cũng như nó cũng chính thật là Phật Giáo bí truyền. Nó thuộc về tất
cả mọi tôn giáo, không ngoại trừ tôn giáo nào. Nó là nguồn cội cho các tư
tưởng trong quyển sách nhỏ này, nó giúp những người t́m Ánh Sáng- cái Ánh
Sáng chân thật “ dến thế gian soi sáng mọi người.”(S.John 1:9) mặc dù hầu
hết chưa chịu mở mắt nh́n nó. Nó không đem Ánh Sáng đến. Nó chỉ nói:”Hăy
ngắm nh́n Ánh Sáng.” Nó chỉ kêu gọi một số ít người khao khát hiểu biết hơn
là truyền cho họ các giáo lư công truyền. Nó không nhắm đến những người tự
thấy đă đầy đủ với những giáo lư công truyền. Tại sao lại phải cung cấp thực
phẩm cho người không đói? C̣n đối với những người đang đói, nó sẽ là miếng
bánh ḿ chứ không phải là ḥn đá.
CHƯƠNG 1
Có lẽ nhiều người mới xem qua tựa sách đă nghĩ
ngay rằng không có điều ǵ đáng được gọi là “Cơ Đốc Giáo bí truyền”. Một
quan niệm phổ thông cho rằng C.Đ.G. không có các giáo lư huyền bí, và các “Bí
Pháp” dẫu Tiểu hay Đại Bí Pháp cũng chỉ là của tà giáo. Câu “những Bí Pháp
của Đức Jesus” rất quen thuộc với những người Cơ Đốc của thế kỷ đầu tiên sẽ
gây ngạc nhiên cho các người kế vị họ về sau. Hiện nay người ta phô trương
rằng C.Đ.G. không có điều chi bí mật, những ǵ phải nói th́ nói cho mọi
người, những ǵ cần giảng th́ giảng cho tất cả. Những chân lư C.Đ.G. được
cho là rất giản dị đến độ “một người dại khờ cũng không thể đi lạc trong
đó”, và câu “Kinh Thánh đơn giản” đă trở nên một câu khuôn mẫu.
V́ thế cần chứng tỏ rằng ít ra trong thời Giáo
Hội Đầu Tiên, C.Đ.G. cũng có phần giáo lư ẩn mật không thua ǵ các tôn giáo
lớn khác, phần này chỉ do một nhóm nhỏ chọn lọc trong Huyền Môn ǵn giữ như
một bảo vật vô giá. Nhưng trước khi chứng minh, ta nên xem xét toàn diện vấn
đề về khía cạnh ẩn mật của các tôn giáo và t́m hiểu tại sao phải có một khía
cạnh như thế nếu một tôn giáo muốn mạnh mẽ và bền vững. Nhờ vậy chúng ta mới
thấy sự hiện hữu của khía cạnh ấy trong C.Đ.G. hiện ra như một kết luận đă
có rồi, và sự tham khảo trong những văn tự của các Cha Cơ Đốc mới có vẻ đơn
giản và tự nhiên thay v́ lạ lùng và khó hiểu. V́ là một sự kiện lịch sử nên
sự hiện hữu của phần bí truyền được minh chứng dễ dàng. Nhưng người ta cũng
có thể chứng minh sự cần thiết của nó trên phương diện lư trí.
Câu hỏi đầu tiên cần giải đáp là: mục đích của
các tôn giáo là ǵ? Tôn giáo được những người khôn ngoan hơn quảng đại quần
chúng truyền bá ra cho thế giới để thúc đẩy sự tiến hóa của nhân loại. Sự
tiến hóa như một bậc thang lên cao trên đó mọi người đều không cùng một
tŕnh độ nên bậc nào cũng có họ. Người tiến hóa cao nhất cách xa hẳn người
tiến hóa thấp nhất về cả sự sáng suốt và đức hạnh. Năng lực nhận thức và
hành động thay đổi theo từng mỗi bậc. Do đó đưa ra cùng một giáo lư cho tất
cả mọi người không ích lợi ǵ. Phần nào giúp ích được người khôn ngoan th́
kẻ dại khờ không hiểu được; điều nào đưa một vị thánh vào trạng thái xuất
thần th́ lại bỏ rơi kẻ tội lỗi. Trái lại một giáo lư thích hợp với kẻ sơ học
sẽ trở nên vô vị với một triết gia; điều ǵ giúp giải phóng một tội nhân th́
hoàn toàn vô bổ cho một vị thánh. Tuy nhiên, mọi hạng người đều cần đến tôn
giáo để có thể vươn lên một đời sống cao hơn, và không nên hy sinh một hạng
người này cho một hạng người khác. Vậy th́ tôn giáo phải có nhiều cấp bậc
theo tŕnh độ tiến hóa; nếu không, nó không đạt mục đích.
Câu hỏi kế tiếp: Các tôn giáo thúc đẩy sự tiến
hóa nhân loại theo phương hướng nào? Tôn giáo thăng tiến bản tính đạo đức và
trí tuệ, và giúp bản tính tinh thần tự khai mở. Tôn giáo nh́n nhân loại như
một phức thể và gắng đáp ứng với mọi thành phần. Do đó các giáo lư phải
thích ứng với mỗi lư trí, mỗi tâm t́nh riêng. Nếu tôn giáo không đạt đến và
hướng dẫn trí tuệ, nếu nó không tinh luyện và cảm ứng cho các mối cảm động
th́ nó đă thất bại rồi vậy.
Ngoài ra nó c̣n phải kích động khai mở bản tính
tinh thần, đó là một động lực hiện hữu sẵn có bên trong con người và cứ măi
thúc đẩy nhân loại tiến hóa, triền miên t́m kiếm Thượng Đế.
Tôn giáo sẽ đáp ứng các nỗi khắc khoải ấy, tăng
cường, tinh luyện và hướng dẫn chúng vào con đường chánh đáng: hợp nhất tinh
thần con người với tinh thần thiêng liêng để cho “Thượng
Đế là tất cả trong tất cả” (I
Cor. 15:28).
Câu hỏi kế tiếp hiện đến khi ta nghiên cứu: Tôn
giáo có nguồn gốc nào? Ngày nay có hai câu trả lời của một nhóm Thần Thoại
Đối Chiếu, và của một nhóm Tôn Giáo Đối Chiếu. Cả hai cùng đặt nền tảng trên
các sự kiện đă được chấp nhận. Công phu khảo cứu đă chứng tỏ hùng hồn rằng
các tôn giáo trên thế giới giống nhau một cách rơ rệt về các giáo lư chánh
đại, về các quyền năng siêu phàm và mức tiến hóa tinh thần cao tuyệt của các
Vị Sáng Lập, về các quy luật đạo đức của các Ngài, về cách Ngài tiếp xúc với
những cơi giới vô h́nh. Tính tương đồng ấy, theo cả hai trường phái, đều
chứng tỏ các tôn giáo có một nguồn gốc chung.
Nhưng về bản chất của nguồn gốc chung ấy th́
hai phái c̣n đang bất đồng ư kiến. Phái Thần Thoại Đối Chiếu cho rằng nguồn
gốc chung ấy là do sự vô minh, và những giáo điều cao cả nhất chỉ là các sự
biểu lộ được tinh luyện lại của các phỏng đoán thô sơ và man dă của các
người hoang dă sơ khai đối với các hoàn cảnh. Sùng bái ngẫu tượng, thờ thần,
thờ thiên nhiên, thờ mặt trời, đó là những chất liệu của mảnh đất đầu tiên
cho một tôn giáo tươi đẹp mọc lên.
Thượng Đế là một h́nh ảnh tổng hợp nhiều vị
Thần, họ là những mănh lực của thiên nhiên được nhân cách hóa. Tất cả được
tóm tắt trong câu: Những tôn giáo là các nhánh của một thân cây chung- sự vô
minh của con người.
Trái lại phái Tôn Giáo Đối Chiếu cho rằng tất
cả mọi tôn giáo đều xuất phát từ những lời giáo huấn của những Bậc Thiêng
Liêng thỉnh thoảng xuất hiện ở nước này hoặc nước khác trên thế giới. Tuy
cùng những chân lư căn bản giống nhau, nhưng các Ngài rút ra những phần
thích hợp với khả năng, tŕnh độ của dân tộc ấy vào thời kỳ ấy. Các tín
ngưỡng sơ khai là h́nh thức suy đồi, thoái hóa, biến dạng, c̣i lụn của các
tôn giáo chân chính. Vào thời ấy tín ngưỡng thờ mặt trời và các h́nh thức
đúng đắn thờ phượng thiên nhiên là những tôn giáo thanh khiết, đầy biểu
tượng nhưng cũng đầy sự hiểu biết và chân lư sâu xa. Những vị Đại Huấn Sư
họp thành một Đại Đoàn Huynh Đệ, các Ngài đă vượt cao hơn nhân loại và xuất
hiện vào những thời kỳ nào đó để soi sáng thế giới. Các Ngài cũng là những
người bảo vệ tinh thần cho nhân loại. Quan điểm này được kết đọng trong câu:
“Những tôn giáo là các nhánh của một thân cây chung- nền Minh Triết Thiêng
Liêng”.
Cuộc tranh luận giữa hai trường phái đối lập
được xét theo sự vững chắc của các bằng chứng mỗi bên đưa ra. Phương pháp
duy nhất để quyết định bên nào đúng chỉ bằng cách khảo sát các tổ tiên trung
gian xa xôi. Chứng cớ của phái tin vào sự Minh Triết thuộc loại này. Họ dẫn
chứng rằng các Vị Sáng Lập tôn giáo- xét theo các sự ghi chép về các lời dạy
của Ngài- th́ tiến hóa rất cao hơn mức độ của nhân loại; các Thánh Kinh chứa
đựng những quy luật đạo đức, những lư tưởng cao cả, những cảm hứng thi vị,
những lời xác quyết triết lư thâm sâu dẫu cho các người cùng thuộc một tôn
giáo ấy về sau cũng không thể nào viết được một cách thiện mỹ và cao siêu
như thế- Đó là cái cũ cao siêu hơn cái mới thay v́ cái mới cao siêu hơn cái
cũ. Không có trường hợp nào chứng tỏ có sự cải thiện các tôn giáo trong khi
đó có nhiều trường hợp giáo lư thuần khiết bị suy đồi; và cả đến những tôn
giáo của dân tộc sơ khai nếu được nghiên cứu cẩn thận, người ta sẽ t́m được
nhiều ư tưởng cao cả vượt xa khỏi năng lực sáng tạo của họ.
C̣n một lư do khác là tại sao một vài chân lư
nào đó chỉ được dạy một cách bí truyền mà thôi. Hiển nhiên đó là v́ “Kiến
thức là quyền năng”.Sở dĩ một triết lư cao siêu được truyền bá một cách công
khai là v́ nó không làm hại được một ai. Người ta có thể giảng dạy nó không
do dự, bởi v́ nó không hấp dẫn kẻ ngu dốt. Nhưng có những giáo lư liên quan
đến sự cấu tạo của thiên nhiên, hoặc giải thích những luật bí hiểm và soi
sáng các phương cách ẩn mật. Nhờ hiểu biết chúng, người ta có thể chế ngự
được các năng lực thiêng liêng và sử dụng vào các mục đích nào đó, giống như
một nhà hóa học chế tạo các hợp chất. Sự hiểu biết ấy rất hữu ích cho người
tiến hóa cao và gia tăng năng lực phụng sự của họ.Nhưng nếu nó được công bố
ra thế giới, nó sẽ bị lạm dụng vào những mục đích ích kỷ, và con người dễ sa
vào tà đạo có mục tiêu chia rẽ thay v́ kết hợp. Do đó mà một số giáo lư được
giữ kín đối với những người chưa đủ tŕnh độ đạo đức để nhận lănh. Các vị
Huấn Sư rất muốn truyền bá nó cho những người nào biết sử dụng quyền năng ấy
để phụng sự cho ích lợi chung và thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loại.
Đây không phải là vấn đề lư thuyết. Sử sách
Huyền môn cũng có ghi lại các chi tiết của những biến cố như được nói đến
trong Sáng Thế Kư. Thời xưa ở lục địa Ắt Lăng Tíc, sự hiểu biết được truyền
bá một cách không nghiêm ngặt đối với tŕnh độ đạo đức, sự trong sạch và vô
ngă của thí sinh. Những người nào đủ trí thông minh đều được dạy, như ngày
nay người ta dạy khoa học thường thức vậy. Kết quả là họ hiểu biết nhiều
nhưng đồng thời cũng rất xấu xa. Thế giới rên xiết dưới sự áp chế của họ. Do
đó Châu Ắt Lăng Tíc (Alantic) bị tiêu diệt đi, toàn bộ ngập ch́m sâu dưới
đại dương. Kinh Thánh Do Thái ghi lại vài tiểu tiết ấy trong câu chuyện Đại
Hồng Thủy, c̣n Kinh Thánh Ấn Độ ghi lại trong câu chuyện của Đức Vaivasvata
Manu.
Sau kinh nghiệm nguy hại ấy, các vị Huấn Sư đ̣i
hỏi những điều kiện khắc khe về tính tinh khiết, vô ngă và tự chủ của các
thí sinh. Ngài đặt nặng vấn đề đạo đức hơn trí khôn. V́ sự giáo huấn tự nó
sẽ mở mang trí khôn. Các Ngài thà bị người không hiểu biết công kích cho là
ích kỷ v́ giấu kín các điều hiểu biết hơn là các Ngài thúc đẩy thế giới vào
một thảm họa Atlantic khác.
Sang qua các sự kiện thực tế, chúng ta sẽ hỏi
vào thời trước, khía cạnh ẩn mật này có hiện hữu không? Chắc chắn là có. Mỗi
tôn giáo đều tuyên bố có nắm giữ một giáo lư ẩn mật chứa đựng các kiến thức
thần bí, lư thuyết lẫn thực hành. Kiến thức thần bí tuy được quảng bá cho
quần chúng nhưng dưới dạng một biểu tượng, một ngụ ngôn mà một người thông
minh có thể t́m hiểu được. C̣n phần kiến thức thần bí thực hành chỉ được dạy
với những điều kiện xác định đă được công bố, các thí sinh phải làm tṛn
những điều kiện này. S.Clement of Alexandria muốn ám chỉ đến Bí Pháp, ông
nói: “Sau sự tinh luyện là các Tiểu Bí Pháp làm nền tảng chuẩn bị cho các
điều về sau. C̣n trong Đại Bí Pháp, người ta không c̣n phải học hỏi điều ǵ
về vũ trụ nữa mà chỉ việc chiêm ngưỡng và tri nhận thiên nhiên”.
Đối với các tôn giáo cổ xưa, t́nh trạng này
không cần phải thảo luận. Huyền Môn Ai Cập rất vẻ vang và những người con
cao quư nhất của Hi Lạp đi đến Sais và Thebes để dược các vị Chân Sư Minh
Triết Ai Cập điểm đạo. Huyền Môn Mithra ở Ba Tư, Huyền Môn Orpheus và
Bacchus và sau đó Eleusinian ở Hi Lạp, Huyền Môn Samothrace, Scythia,
Chaldea ít ra cũng là những tên rất quen thuộc như các từ ngữ trong gia
đ́nh. Huyền Môn Eleusinian dẫu trong h́nh thức yếu kém nhất cũng được các
tinh hoa của Hi Lạp như Pindar, Sophocles, Isocrates, Phutarch và Plato khen
ngợi. Những Huyền Môn ấy được xem là rất hữu ích v́ nó nêu lên sự hiện tồn
sau khi chết, cũng như người được Điểm Đạo biết rằng nó bảo đảm cho hạnh
phúc tương lai của y. Sopater c̣n quả quyết rằng sự Điểm Đạo thiết lập sự
quan hệ của linh hồn với Thiên Nhiên thiêng liêng, và trong bài ca về
Demeter có nói bóng gió đến Hài Nhi thánh thiện Iacchus, đến sự chết và sự
sống lại như các Huyền Môn đă đề cập. Người ta học được nhiều điều về mục
tiêu của Huyền Môn nhờ Iamblichus, nhà thông thần học lớn ở thế kỷ 3 và 4.
Thông thần học(theurgy) là pháp thuật,”phần cuối cùng của môn khoa học của
các giáo chức(sacedortal)”được thực hành trong Đại Bí Pháp để triệu cầu
những vị cao siêu hiện diện. Lư thuyết các Huyền Môn căn cứ có thể tóm tắt
như sau: Có một Đấng Duy Nhất, cao hơn vạn vật, không di dịch, ngự trong sự
tĩnh lặng nhất thể của chính Ngài. Từ đó, phát xuất ra Thượng Đế Tối Cao,
Nguồn cội của mọi vật, Thượng Đế của các Thượng Đế, Nguyên nhân đầu tiên, tự
biểu lộ trong Ánh Sáng. Nơi Ngài tuôn ra Thế Giới Thông Tuệ, Trí Đại Đồng,
và những Thượng Đế vô thể cũng thuộc vào đó. Từ Thế Giới Thông Tuệ này lại
phát xuất ra Linh Hồn Thế Giới, và các h́nh thể thông tuệ thiêng liêng cùng
hiện diện với các thể của các Thượng Đế. Kế đó là các đẳng cấp khác nhau của
những Vị Siêu Nhân. Con người thuộc một đẳng cấp thấp hơn, có bản chất liên
hiệp với các vị này, và có khả năng hiểu họ. Những giào lư này được quảng bá
trong Huyền Môn. Các vị siêu nhân có thể được triệu cầu, họ xuất hiện để dạy
dỗ, nâng cao và tinh luyện con người. Iamblichus nói rằng những vị Thượng Đế
tuôn xuống dồi dào cho các nhà thông thần, kêu gọi linh hồn họ hướng lên
Ngài, hiệp nhất với Ngài, tập cho họ quen tách rời khỏi các thể-trong khi
vẫn c̣n ở với xác thể-để được dẫn đến một khí thể trường cửu và thông tuệ
của họ, v́ linh hồn có một sự sống kép, một phần kết liền với xác thể, c̣n
một phần khác tách rời khỏi mọi thể. Rất cần luyện tập cách tách rời linh
hồn khỏi hạ thể để nó có thể hiệp nhất với Thượng Đế bằng phần thiêng liêng
và thông tuệ của nó. Khi Thượng Đế xuất hiện, linh hồn nhận được “sự giải
thoát khỏi các dục vọng, một sự toàn thiện tuyệt mỹ, và một năng lực phi
thường” và hưởng được t́nh thương thiêng liêng và một niềm vui sướng vô
biên.
Proclus cũng dạy rằng sự cứu rỗi duy nhất của
linh hồn là sự trở về h́nh thức thông tuệ của nó và như thế thoát khỏi ṿng
sinh hóa, khỏi các cuộc lang thang triền miên, đạt đến con Người chân thật.
Đây là sự sống mà những người được Orpheus điểm đạo vào Huyền Môn Bacchus và
Proserpiine, và đây cũng là kết quả của việc thực hành những hạnh tinh
luyện.
Những đức tính này rất cần thiết trong Đại Bí
Pháp v́ chúng liên quan đến sự tinh luyện thể tinh anh hơn mà linh hồn hoạt
động trong đó khi thoát khỏi cái thể thô nặng. Các đức tính thực tiễn này
tùy thuộc đời sống thông thường của con người và chúng phải được phát triển
đến đến một mức độ nào đó trước khi y có thể trở nên một thí sinh của một
Trường. Kế đó là những đức tính tinh luyện, nó giúp cho thể tinh anh-thể của
t́nh cảm và của hạ trí được tinh luyện. Thứ ba là những đức tính thông tuệ,
và thứ tư là sự chiêm ngưỡng, nhờ đó con người có thể hiệp nhất với Thượng
Đế, Porhyry viết: “Ai hành động hợp với những đức tính thực tiễn là một
người xứng đáng, ai hành động phù hợp với những đức tính tinh luyện là một
người thiên thần. Ai hành động theo những đức tính thông tuệ là một Thượng
Đế, c̣n người nào hành động theo những đức tính khuôn mẫu (paradigmatic) là
Cha của các Thượng Đế”.
Các đẳng cấp thiên thần và các đẳng cấp khác
cũng đưa ra nhiều huấn thị trong Huyền Môn, và Đức Pythagore - vị Đại Huấn
Sư được Điểm Đạo ở Ấn Độ, đă dạy cho các đệ tử hữu thệ của Ngài biết kiến
thức về chân tướng của sự vật - được người ta nói rằng Ngài có một kiến thức
về âm nhạc thâm sâu đến nỗi Ngài có thể sử dụng nó để chế ngự những dục vọng
thô bạo nhất của con người và để chiếu sáng tâm trí họ. Iamblichus đă nêu ra
những trường hợp này trong quyển Đời Sống của Đức Pythagore.
Trường phái Thytagore ở Magna Graecia bị đóng
cửa vào cuối thế kỷ 6 trước T.C, v́ sự hà khắc của chính quyền, nhưng những
cộng đồng khác vẫn c̣n tồn tại, lưu giữ truyền thống thiêng liêng, Giáo sư
Mead nói rằng Plato đă tinh thần hóa nó để bảo vệ nó khỏi dự xúc phạm đang
gia tăng, và các nghi lễ của Eleusinian c̣n bảo tồn vài h́nh thức của nó
nhưng đă mất đi hẳn chất liệu. Phái tân-Platon thừa hưởng di sản của
Pythagore và Plato, người ta nên nghiên cứu những tác phẩm của họ nếu muốn
hiểu đôi điều về sự vĩ đại và nét mỹ lệ đang được bảo tồn cho thế gian trong
Huyền Môn.
Trường phái Pythagore có thể sử dụng như một
h́nh thức kỷ luật. Về điều này, ông Mead có đưa ra nhiều chi tiết lư thú và
nhận xét: “Những tác giả của thời thượng cổ đều đồng ư rằng kỷ luật này đă
thành công tạo được nhiều gương sáng chói nhất, không những về sự tinh khiết
mà c̣n về sự giản dị trong tư thái, sự tế nhị, và sự say mê học hỏi nghiêm
trang ít ai b́ kịp. Cả đến các tác giả Cơ Đốc cũng chấp nhận điều này”.
Trường này cũng có những đệ tử bên ngoài, vẫn sống cuộc đời gia đ́nh và xă
hội. C̣n những đệ tử trong Trường th́ có ba bậc: trước tiên là bậc Thinh Văn
phải tịnh khẩu hai năm để học hỏi và cố gắng nắm vững những giáo lư. Bậc thứ
nh́ là sinh viên Toán học được dạy h́nh học và âm nhạc, bản chất của con số,
h́nh thể, màu sắc và âm thanh. Bậc thứ ba là sinh viên Vật lư học phải nắm
vững thuyết thành h́nh vũ trụ và siêu h́nh học. Điều này dẫn đến Huyền Môn
chân chính. Những thí sinh muốn vào Trường phải là người có tiếng trong sạch
và có một phong thái an nhiên tự tại.
Sự đồng nhất chặt chẽ giữa những phương pháp và
mục đích mà những Huyền Môn khác nhau trên theo đuổi với những phương pháp
và mục đích của Yoga ở Ấn Độ đều được mọi người công nhận. Tuy nhiên, không
cần giả thiết rằng mọi quốc gia thượng cổ đều phát xuất từ Ấn Độ: tất cả đều
phát xuất từ một nguồn gốc chung: Tổng Bộ ở Trung Á, nơi phái các vị được
Điểm đạo đi khắp mọi nơi. Họ đều truyền dạy cùng những giáo lư như nhau,
theo đuổi cùng những phương pháp như nhau để cùng dẫn đến những mục đích như
nhau. Họ có một ngôn ngữ chung và một biểu tượng chung. Như thế Đức
Pythagore đă du hành qua Ấn Độ và được Điểm Đạo cấp cao ở đấy. Sau này, Đức
Apollonius of tyana theo vết chân Ngài. Ngôn từ và tư tưởng của Plotinus
trong câu sau đây quả giống như của người Ấn Độ: “Bây giờ tôi t́m cách đưa
cái Ngă trong tôi trở về với Đại Ngă (All.Self)”.
Người Ấn Độ nghiêm nhặt nhấn mạnh đến bổn phận
chỉ truyền dạy kiến thức cao cả cho người xứng đáng mà thôi. “Điều bí nhiệm
sâu xa nhất của mục đích của kiến thức…th́ không được tuyên bố cho một ai
không phải là con, là đệ tử hay là một người có tâm trí bất an”. “Hăy đứng
lên!Thức tỉnh! Sau khi t́m thấy các Vị Cao Cả, hăy nghe Ngài. Đường Đạo rất
khó đi, giống như lưỡi dao cạo sắc bén”. Rất cần Vị Huấn Sư v́ kinh sách
không đủ. “Mục đích của kiến thức” là để nhận biết Thượng Đế và hiệp nhất
với Ngài, chứ không phải chỉ để tin tưởng và thờ phượng xa vời mà thôi. Con
người phải biết thực tại của Sự Hiện Hữu thiêng liêng và kế đó biết rằng cái
Ngă thâm sâu nhất của chính y vốn là một với Thượng Đế, và mục đích của đời
sống là để thực hiện sự hiệp nhất đó. Nếu tôn giáo không thể hướng dẫn con
người đi đến sự thực hiện đó, th́ tôn giáo chỉ là một miếng đồng kêu vang mà
thôi”.
Người ta cũng quả quyết rằng con người có nên
tập tách rời thể xác nặng kệch: “Một người phải quyết tâm tách linh hồn khỏi
thể xác của y như thân cây vượt khỏi vỏ bao của nó”. “Trong cái vỏ vỏ vàng
cao nhất, Brahman cư ngụ. Đó là Ánh Sáng trắng chói lọi của các Ánh Sáng, mà
những người tri thức được Bản Ngă đều biết”.
Người Do Thái cũng có nền kiến thức ẩn mật và
những Trường Điểm Đạo của họ. Các tiên tri ở Naioth do Samuel điều khiển (Isamuel
19:20) tạo nên một Trường ấy, và những lời giáo huấn được họ truyền khẩu với
nhau. Những Trường tương tự cũng có ở Bethel và Jericho(II King 2:2-5), và
trong Biểu Kê ở Cruden có lời ghi chú lư thú sau đây: “Những Trường của các
tiên tri là những Trường đầu tiên mà chúng ta có thể t́m thấy bất cứ bài
tường thuật nào trong Thánh Kinh. Nơi đó, các đệ tử của các tiên tri tập
sống một cuộc đời ẩn dật, khổ tu, học hỏi và chiêm ngưỡng, và đọc luật của
Thượng Đế…Những Trường của các tiên tri được tiếp nối bằng các giáo đường”.
Kinh Kabbala chứa đựng những giáo lư bán công
truyền, trong đó có một phần là công tŕnh của Giáo sĩ Moses de Leon, ông
chết năm 1305. Nó gồm có 5 quyển Bahir, Zohar, Sepher Sephiroth, Sephit
Yetzirah và Asch Metzareth. Kinh được xác nhận là do khẩu truyền từ những
thời đại cổ xưa-từ thời thượng cổ như lịch sử đă ghi nhận. Wynn Westcott nói
rằng: “Tập tục Do Thái cho rằng những phần cổ xưa nhất của quyển Zohar có
trước khi xây dựng Đền thờ thứ hai” và người ta nói rằng Giáo sĩ Simeon ben
Jochai đă có viết vài đoạn trong thế kỷ thứ nhất. Saadiah Gaon mất năm 940-
nói quyển Sepher Yetzirah “rất cổ xưa”. Vài đoạn giáo lư khẩu truyền cổ xưa
được thêm vào trong Kinh Kabbala như bản văn hiện nay, nhưng sự Minh Triết
tối cổ chân thật của người Do Thái vẫn c̣n được một số người con chân chính
của Israel ǵn giữ.
Những nét đại cương trên đây cũng đủ chứng tỏ
có sự hiện diện của khía cạnh ẩn mật trong các tôn giáo trên thế giới ngoài
Cơ Đốc Giáo. Bây giớ chúng ta hăy khảo sát xem Cơ Đốc Giáo có là một ngoại
lệ của quy luật đại đồng này không?
CHƯƠNG HAI
(a)
CHỨNG CỚ CỦA THÁNH KINH
Chúng ta hăy xác nhận xem Cơ Đốc Giáo có thể nào không cần một nền Minh
Triết (Gnosis), một kiến thức thâm sâu, mà chỉ cần một đức tin đơn giản hay
không? Nếu quả thế th́ thật đáng buồn v́ C.Đ.G chỉ nhắm đến một hạng người
chứ không phải cho mọi hạng người. Nhưng nếu không phải thế th́ chúng ta có
thể t́m cách xác minh được.
Và chứng cớ ấy là điều mà C.Đ.G hiện nay rất
cần có, bởi bông hoa C.Đ.G đang tàn tạ v́ thiếu sự hiểu biết. Nếu giáo lư
nội môn được khôi phục và thắng được các học giả kiên nhẫn, nhiệt thành th́
phần giáo lư huyền bí cũng sẽ được khôi phục không lâu. Các đệ tử của Tiểu
Bí Pháp sẽ trở nên các thí sinh của Đại Bí Pháp. Có sự hiểu biết th́ giáo lư
mới có uy thế. C.Đ.G đánh mất giáo lư thần bí nội môn nên mất đi một số lớn
những người học thức cao. Nhưng trong vài năm vừa qua, C.Đ.G hồi sinh lại
phần nào nhờ việc đem trở lại vài giáo lư thần bí. Người ta thấy rơ trong
khoảng 40 năm cuối của thế kỷ vừa qua, rất nhiều người có đạo đức và biết
suy tư đă rời bỏ nhà thờ v́ những giáo lư gây bất măn cho lư trí và tâm đạo
của họ. Những ai khảo sát hiện tượng này đếu thấy đó là do những quan niệm
tôn giáo khiếm nhă đặt để cho họ, những mâu thuẫn trong các giáo điều, những
quan điểm về Thượng Đế, con người và vũ trụ. Họ chống lại những giáo điều
bôi nhọ Thượng Đế và con người: Thượng Đế như một nhà chuyên quyền; c̣n con
người đă phạm tội từ trong bản thể, nhờ phục lụy mà được cứu rỗi.
Nguyên nhân họ chống lại là v́ giáo lư C.Đ.G đă
bị suy đồi dần và biến thành cái được gọi là sự đơn giản (simplicplicity) mà
kẻ vô học nhất cũng có thể nắm được. Những người Tin Lành (Protestant) tuyên
bố rằng không có điều cần giảng dạy ngoại trừ các điều mà ai ai cũng có thể
hiểu được, rằng sự vinh quang của Kinh Thánh ở nơi sự đơn giản của nó, rằng
trẻ con và người vô học hẳn phải hiểu được nó và áp dụng vào đời sống. Quả
đúng vậy nếu họ muốn nói rằng có vài chân lư mà mọi người đều có thể hiểu,
và rằng một tôn giáo sẽ thất bại nếu nó bỏ rơi hạng người thấp kém vô học
nhất ra ngoài ảnh hưởng nâng cao của nó. Nhưng thật là vô cùng sai lầm nếu
họ muốn nói rằng tôn giáo không có những chân lư mà người tăm tối không thể
hiểu được, không có điều chi để giảng dạy cao xa hơn tư tưởng của người khôn
ngoan hay cao hơn nền đạo đức của người thấp hèn. Khi quan điểm này lan rộng
th́ nhiều người thanh cao lấy làm đau đớn phải từ bỏ ḷng tin trước đây của
họ, nhường chỗ trong nhà thờ cho các hạng giả thiện và vô học. Sau đó, hoặc
là họ sẽ theo thuyết bất khả tri (agnosticism) tiêu cực, hoặc nếu họ c̣n trẻ
và nhiệt huyết th́ họ sẽ chống đối tích cực, không tin điều ǵ xúc phạm lư
trí và lương tri là điều cao cả nhất, chẳng thà họ thành thật nhận ḿnh vô
tín ngưỡng hơn là bắt lư trí và lương tri phải chán ngán vâng lời một quyền
lực mà họ biết rằng chẳng có ǵ thánh thiện.
Liệu C.Đ.G có c̣n tồn tại như một tôn giáo ở
Tây phương nhiều thế kỷ về sau và tiếp tục hướng dẫn tư tưởng cho các dân
tộc ấy? Nếu muốn tồn tại, nó phải hoạch đắc lại nền hiểu biết đă mất với
những giáo lư thần bí và huyền bí. Bấy giờ nó sẽ có những quan điểm về chân
lư rộng răi và sâu xa hơn, những tín điều không c̣n là lớp vỏ trói buộc mà
là những sự tŕnh bày những thực tại căn bản. Những ai đủ điều kiện ấn định
thuở xưa và sẵn sàng mong muốn hiểu biết những chân lư tinh thần sẽ được học
hỏi giáo lư Huyền môn.
Vấn đề C.Đ.G có một gia bảo ẩn tàng hay không,
không phải là một vấn đề lư thuyết mà là một vấn đề bằng chứng, được quyết
định nhờ các tài liệu đă có, chứ không theo mặt chữ, “Ngài đă nói vậy”
(ipsedixit) của các người Cơ Đốc hiện nay.
Quả thật, Tân Ước và các văn tự của Giáo Hội
đầu tiên đều cùng tuyên bố Giáo Hội có những giáo lư như thế, và nhờ đó
chúng ta biết rằng Giáo Hội có các Bí Pháp, gọi là Bí Pháp của Đức Jesus hay
Bí Pháp của Vương Quốc, các điều kiện đ̣i hỏi nơi thí sinh, bản chất tổng
quát của các lời giáo huấn và những chi tiết khác. Sách Tân Ước có những
đoạn rất tối nghĩa, nhưng dưới ánh sáng của các lời phát biểu của các Cha
th́ chúng trở nên rơ ràng và hiểu được.
Chứng cớ đầu tiên được khảo sát là “Tân Ước”.
Chúng ta sẽ xem các văn tự của vị đại tông đồ S.Paul và các người kế vị đă
hướng dẫn Giáo Hội trong các thế kỷ đầu tiên. Do theo sự kế vị liên tục và
lời chứng được viết ra th́ vấn đề C.Đ.G có một khía cạnh ẩn mật có thể được
xác định. Chúng ta sẽ thấy thêm rằng lời giải thích thần bí về Tiểu Bí Pháp
có thể được t́m thấy biểu lộ qua nhiều thế kỷ cho đến đầu thế kỷ 19; và mặc
dầu không có Trường Thần Bí nào được biết có mục đích chuẩn bị cho sự Điểm
Đạo, sau khi Huyền Môn ẩn diện, những nhà Đại Thần Bí thỉnh thoảng vẫn đạt
được đến các giai đoạn thấp của trạng thái xuất thần nhập định do công phu
tŕ chí của họ và chắc chắn được các Vị Huấn Sư vô h́nh giúp đỡ.
Những ngôn từ của chính Đức Jesus minh bạch và
xác định, được Origen dẫn chứng khi nói đến giáo lư bí ẩn được Giáo Hội ǵn
giữ. “Khi Ngài ở một ḿnh th́ những kẻ chung quanh cùng 12 môn đồ hỏi Ngài
về thí dụ ấy. Ngài phán rằng thí dụ được đưa ra cho các ngươi để biết được
sự mầu nhiệm của nước Đức Chúa Trời, c̣n đối với người ngoài th́ mọi sự ấy
đều là các thí dụ”. Và về sau: “Ngài dùng nhiều thí dụ dường ấy mà giảng đạo
cho họ, tùy sức họ nghe. Ngoài thí dụ Ngài chẳng phán ǵ cùng họ, nhưng khi
ở riêng th́ Ngài giảng nghĩa hết cho môn đồ (S.Mark 4:10,11,33,34). Xin lưu
ư các chữ ẩn nghĩa: “khi họ ở riêng” “những người ngoài”. Lời tường thuật
của S.Mathew cũng thế: “Ngài giải tán đám đông đi khỏi và bước vào nhà, các
môn đồ đến với Ngài”. Những giáo lư được giảng “trong nhà”, những ư nghĩa
thâm sâu nhất của những lời giáo huấn của Ngài được người ta tin chắc là lưu
động đi khỏi và bước vào nhà, các môn đồ đến với Ngài”. Những giáo lư được
giảng “trong nhà”, những ư nghĩa thâm sâu nhất của những lời giáo huấn của
Ngài được người ta tin chắc là lưu truyền từ vị thầy này sang vị thầy khác.
Nên lưu ư rằng Kinh Thánh đưa ra những lời giải thích thần bí bóng gió bằng
biểu tượng, ngụ ngôn mà chúng ta gọi là Tiểu Bí Pháp, nhưng c̣n ư nghĩa thâm
sâu hơn chỉ được dạy cho những người đă được Điểm Đạo.
Ngay chính các tông đồ, Ngài c̣n nói: “Ta c̣n
có nhiều điều nói với các ngươi nữa, nhưng bây giờ các ngươi không thể đương
nổi” (S. John 16:12). Sau khi chết, Ngài c̣n dạy cho họ vài điều ấy nữa.
Ngài hiện ra trước các môn đồ và “phán bảo những điều về nước Đức Chúa
Trời”.(Công vụ 1:3). Không có điều nào trong các điều này được ghi lại công
khai, nhưng ai dám bảo rằng chúng bị lăng quên và không được truyền lại như
một bảo vật? Truyền thuyết cho rằng: Sau khi chết Đức Jesus vẫn gặp gỡ các
vị tông đồ một thời gian rất lâu để dạy bảo họ. Có một câu mà nhiều người
sẵn ḷng giải thích một cách nhẹ nhàng khác đi: “Đừng bỏ vật thánh cho chó,
cũng đừng quăng ngọc châu ḿnh cho heo”(S.Matt 7:6). Quả thật đó là một lời
răn chung, nhưng Giáo Hội đầu tiên muốn nói đến những giáo lư bí truyền. Nên
nhớ rằng ngày xưa những tiếng đó không gây chướng tai như ngày nay bởi v́
tiếng “chó”- giống như tiếng “kẻ phàm phu”, “kẻ phạm thượng” là do những
người bên trong một giới nào đó nói đến giới bên ngoài- một hội, một quốc
gia chẳng hạn. Đôi khi tiếng ấy cũng được dùng để chỉ những người ngoài ṿng
Điểm Đạo, Giáo Hội đầu tiên cũng dùng với nghĩa ấy. Ai chưa được nhận vào
Huyền Môn được xem như ở bên ngoài “nước của Đức Chúa Trời” hoặc “nước Do
Thái tinh thần”. Ngoài tiếng “Huyền Môn” c̣n nhiều tên khác được dùng để chỉ
nhóm những người được Điểm Đạo hoặc liên quan đến sự Điểm Đạo: Vương Quốc,
Vương quốc của Đức Chúa Trời, Con Đường Hẹp, Cái cổng Hẹp, Người Toàn Thiện,
Người được Giải Thoát, Sự Sống Vĩnh Cửu, Sự Sống, Sinh lần thứ Hai, Hài
nhi.(The Kingdom, The Kingdom of God, the Kingdom of Heaven, the Narrow
Path, the Straight Gate, the Perfect, the Saved, Life Eternal, Life, the
Second Birth, Alittle One, Alittle Child).
Nhờ các văn tự Cơ Đốc đầu tiên, người ta hiểu
rơ được nghĩa các chữ này. Trong vài trường hợp ngoài C.Đ.G cũng sử dụng các
từ trên. Trong cộng đồng người Essences có ba cấp bậc: Tân Tín Đồ, người
Huynh Đệ và Vị Toàn Thiện (Neophytes, Brethen perfect). Hài nhi là tên thông
thường chỉ một thí sinh vừa mới được Điểm Đạo, nghĩa là vừa mới được
“sinh
lần thứ hai”.
Khi chúng ta biết được các nghĩa nầy th́ những
đoạn khó hiểu, gút mắc sẽ trở nên hiểu được. Có người nói với Ngài rằng:
Thưa Chúa, kẻ được cứu có ít chăng? Ngài đáp cùng chúng rằng: Hăy gắng sức
vào cửa hẹp, v́ Ta nói cùng các ngươi, nhiều kẻ sẽ t́m vào mà không thể được
(S.Luke 13:23,24). Câu này gây kinh ngạc và khó tin cho cách thức cứu rỗi
khỏi hỏa ngục đời đời của Phái Tin Lành thông thường. Không ai dám nói Vị
Cứu Thế quả quyết nhiều người sẽ t́m cách tránh khỏi địa ngục để vào thiên
đàng nhưng sẽ không thành công. Nhưng khi áp dụng nghĩa cửa hẹp của sự Điểm
Đạo và sự giải thoát khỏi tái sinh, th́ câu trên hoàn toàn đúng thật và tự
nhiên. Lại nữa: “Hăy vào ngơ hẹp, v́ ngơ rộng và đường lớn dẫn đến sự hư
mất, kẻ vào đó th́ nhiều. Song ngơ hẹp và đường chật dẫn đến sự sống, kẻ t́m
được th́ ít (S.Matt 7:13,14).
Cái “Cổng Hẹp” này là cái cổng của sự Điểm Đạo,
mà một thí sinh phải bước qua để vào “Vương Quốc”. Hẳn nhiên chỉ có một ít
người qua được cái cổng ấy mặc dầu có hằng hà sa số người vào miền hạnh phúc
của cơi Thượng Giới. Cách đây gần ba ngàn năm, một vị Đại Giáo Chủ khác có
nói: Trong hằng ngàn người, hiếm có được một người cố gắng để hoàn thiện,
trong hằng ngàn người cố gắng thành công hiếm có được một người biết được
bản thể tinh túy của Ta”. (Bhagavad Gita 7:3). Trong mỗi thời kỳ, số vị Điểm
Đạo th́ ít, nhưng trong lời tuyên bố trên không có sự phán quyết đen tối nào
về nỗi thống khổ đời đời cho đa số nhân loại. “Người được Giải Thoát”- như
Proclus có dạy- là người đă thoát khỏi ṿng sinh hóa ràng buộc con người.
Chúng ta nhớ lại câu chuyện một chàng trai đến
với Đức Jesus, tôn kính Ngài làm Thầy, và hỏi làm sao để được sự sống đời
đời- sự giải thoát khỏi tái sinh nhờ hiểu biết về Thượng Đế. (Nên nhớ rằng
người Do Thái tin tưởng mọi linh hồn chưa hoàn thiện phải trở lại sống trên
trái đất). Câu trả lời đầu tiên của Ngài là lời khuyên công truyền thông
thường: “Hăy giữ các điều răn”. Nhưng khi chàng trai đáp: “Mọi điều đó tôi
đă giữ từ khi c̣n nhỏ”. Đối với một tâm hồn không c̣n tội lỗi như y, Vị Huấn
Sư chân chính trả lời: “Nếu ngươi muốn được trọn lành hăy đi, bán hết của
cải ngươi mà cho kẻ nghèo, th́ ngươi sẽ có của báu ở trên trời; rồi hăy đến
theo Ta”. “Nếu ngươi muốn được trọn lành” tức là trở nên một nhân viên của
Vương Quốc, th́ phải có tính thanh bần và vâng lời. Sau đó Ngài giải thích
cho các môn đồ rằng một người giàu khó có thể bước vào nước Trời, c̣n khó
hơn con lạc đà chui qua lỗ kim. Đối với con người, điều ấy vẫn bất năng,
nhưng đối với Trời, mọi sự đều được cả. (S.Matt 19:16-26), chỉ có Trời trong
con người mới có thể qua ngưỡng cửa ấy mà thôi.
Đoạn văn này đă được biện hộ theo nhiều cách
khác nhau. Hiển nhiên người ta không thể chấp nhận ư nghĩa bên ngoài cho
rằng một người giàu không thể bước vào trạng thái hạnh phúc sau khi chết.
Người giàu cũng như người nghèo đều có thể bước vào trạng thái ấy và tập tục
phổ thông của người Cơ Đốc chứng tỏ rằng họ không khi nào tin rằng của cải
giàu sang gây nguy hiểm cho niềm hạnh phúc của họ sau khi chết. Nhưng nếu ta
hiểu được nghĩa chân thật của Vương Quốc của Trời th́ ta thấy đoạn ấy diễn
tả một sự kiện đơn giản và minh bạch. Bởi sự nhận biết về Trời là Sự Sống
Đời Đời không thể đạt được cho đến khi mọi sự trần thế đều được quy phục,
không thể nào học biết được cho đến khi mọi điều đă được hy sinh. Chẳng
những con người phải từ bỏ các của cải vật chất, xem nó qua tay y như người
quản lư, mà y c̣n phải từ bỏ của cải bên trong nữa; chừng nào y chưa cởi bỏ
trơ trọi th́ y chưa thể bước qua cái cổng hẹp. Đó là điều kiện để được Điểm
Đạo, và hạnh “thanh bần, vâng lời, tinh khiết” là lời thệ của thí sinh.
“Sinh lần thứ hai” là một từ ngữ khác được nhận
thức rơ trong lễ Điểm Đạo. Ngay hiện nay, các giai cấp cao ở Ấn Độ được gọi
là “người được sinh hai lần” và nghi lễ khiến họ sinh lần hai là nghi lễ
Điểm Đạo- nhưng ngày nay chỉ c̣n là h́nh thức bên ngoài. Khi Đức Jesus nói
với Nicodemus, Ngài cho biết rằng: “Nếu người nào chẳng được tái sinh th́
không thể thấy được nước Đức Chúa Trời”. Lần sinh này do bởi “nước và Thánh
Linh”. (S. John 3:5) đây là lần Điểm Đạo thứ nhất. Và một lần sinh khác về
sau do bởi “Thánh Linh và lửa” (S. Matt 13:11) giống như lễ báp têm lúc mới
được sinh ra, lễ báp têm thứ hai của Vị Điểm Đạo đón mừng y như một “Hài
nhi” vào nước Trời (S.Matt 18:3). Biểu tượng này rất là quen thuộc giữa các
nhà thần bí Do Thái. Đức Jesus ngạc nhiên trước câu hỏi của Nicodemus và trả
lời bằng một câu thần bí: “Ngươi là Thầy của Israel mà không biết những điều
đó sao?” (S.Matt 3:10).
Một lời dạy khác của Ngài vẫn c̣n rất khó hiểu
đối với tín đồ là: “Vậy hăy trở nên trọn lành như Cha các ngươi ở trên Trời
trọn lành vậy.” (S.Matt 5:48). Người Cơ Đốc thông thường biết ḿnh không thể
nào tuân thủ điều răn ấy được, ḿnh đầy tội lỗi và yếu hèn th́ làm sao có
thể trở nên toàn thiện như Trời được? Thấy việc thực hiện hoàn toàn vô vọng,
y bèn để sang bên và không nghĩ đến nữa. Nhưng nếu biết được sức cố gắng
tăng lên sau nhiều kiếp tŕ chí hoàn thiện và hiểu rằng chính “Trời trong
chúng ta” sẽ chiến thắng bản tính thấp hèn, th́ việc thực hiện ấy không xa
vời. Chúng ta nhớ lại lời cuả Porphyry rằng người thực hiện những đức tính
gương mẫu ấy chính là Cha của các Thánh Thần và chính trong Huyền Môn mà
những đức tính ấy được thực hiện.
Thánh Paul noi theo vết chân của Thầy, cũng nói
cùng một ư nghĩa ấy nhưng rơ ràng hơn, Quư học giả nên chú ư các chương 2 và
3, và tiết 1 của chương 4 trong Thư Thứ Nhất gửi cho người Côrintô (I cor.)
và nên nhớ rằng những lời ấy nói với những hội viên đă chịu báp têm và chịu
ḿnh Thánh thể. Họ là các hội viên thiệt thụ theo quan điểm hiện đại, mặc
dầu vị Tông Đồ chỉ xem họ như những trẻ con, trần tục. Họ không phải là các
Tân Tín đồ mà là những người có đầy đủ đặc ân và trách nhiệm của nhân viên
Hội Thánh, được Vị Tông đồ xem như cách biệt với thế gian và không hành động
như những người trần tục. Xin tóm lược lời vị Tông Đồ:
“Tôi đến với anh em mang theo chứng cớ thiêng liêng không để quyến dụ anh em
bằng sự hiểu biết của con người mà bằng quyền năng của Thánh Linh. Chúng tôi
cũng giảng sự khôn ngoan giữa những người trọn lành nhưng không phải sự khôn
ngoan của con người. Chúng tôi giảng sự khôn ngoan của Trời trong lẽ mầu
nhiệm, cả đến sự khôn ngoan ẩn dấu mà Trời đă phán cho thế gian và không ai
cả đến những vua chúa của thế gian hiểu được. Những điều của Minh Triết này
vượt qua tư tưởng con người, nhưng Trời đă nhờ Thánh Linh bày tỏ những sự đó
cho chúng ta, v́ Thánh Linh đă ḍ xét mọi sự, cả đến sự sâu nhiệm của Trời?
Đây là những điều tinh thần, chỉ người nào có trí của Đấng Christ mới nhận
thức được.”Anh em ơi, về phần tôi, tôi chẳng thể nói với anh em như với
người tinh thần, nhưng như với người thuộc xác thịt, cả đến như những con
trẻ trong Christ vậy. Tôi từng cho anh em uống sữa chớ chẳng cho ăn thịt v́
anh em không thể chịu nổi, đến bây giờ cũng chưa thể được, v́ anh em vẫn c̣n
thuộc xác thịt”. “Tôi đă lập nền như một tay kiến trúc khôn khéo, và anh em
là đền thờ của Trời và Thánh Linh của Trời ở trong anh em. Vậy ai nấy hăy
coi chúng tôi như thừa sai của Christ và quản gia các Lẽ Mầu Nhiệm của
Trời”.
[Để ư rằng đoạn này rất phù hợp với lời hứa của
Đức Jesus nơi S.John (16:12-14):”Ta c̣n có nhiều điều nói với các ngươi nữa
nhưng bây giờ các ngươi chưa thể đương nổi. Song khi nào Thánh Linh của lẽ
thật đến, Ngài sẽ dẫn dắt các ngươi vào mọi lẽ thật… Ngài sẽ báo các ngươi
những điều tương lai… Ngài sẽ nhận của Ta mà báo cáo cho các ngươi.]
Không ai đọc đoạn này mà không công nhận rằng
vị Tông Đồ S. Paul có được một nền hiểu biết thiêng liêng của Huyền Môn và
các giáo hữu Côrintô chưa thể tiếp thu được. Lưu ư đến những từ kỹ thuật: sự
hiểu biết, sự hiểu biết của Trời trong lẽ mầu nhiệm, sự hiểu biết ẩn dấu,
chỉ có người ‘tinh thần’ biết được, chỉ nói giữa những người ‘toàn thiện’
c̣n các người không ‘tinh thần’, các con trẻ trong Christ, người ‘xác thịt’
bị loại ra, chỉ có người kiến trúc khôn khéo, người quản gia các Lẽ Mầu
Nhiệm của Trời mới hiểu được.
Thỉnh thoảng ông lại đề cập đến các Lẽ Mầu
Nhiệm ấy. Trong thư
gửi cho người Ephêsô, ông nói rằng: bởi khải thị đă khiến cho tôi biết Lẽ
Mầu Nhiệm… sự hiểu biết của tôi về Lẽ Mầu Nhiệm của Đấng Christ… và khiến
cho mọi người đều rơ về sự kết bạn (fellowship) với Lẽ Mầu Nhiệm
(Eph.3:3,4,9). Về Lẽ Mầu Nhiệm này, ông đă lập lại với người Côlôse là ông
được gọi làm “người thừa hành, chấp sự” Lẽ Mầu Nhiệm đă được dấu kín từ các
thời đại và các thế hệ mà nay được tỏ ra cho các thánh đồ của Ngài”, không
phải cho người ngoài, cũng không phải cho người Cơ Đốc, mà chỉ cho những Vị
Thánh Thiện: “sự vinh hiển của Lẽ Mầu Nhiệm ấy chỉ được tiết lộ cho họ mà
thôi”. “Christ ở trong anh em” một câu đầy ư nghĩa thuộc về đời sống của Vị
Điểm Đạo. Như thế, chung cuộc mỗi người đều phải học sự hiểu biết ấy để trở
nên ‘trọn lành trong Christ Jesus’. Ông bảo người Côlôse cầu nguyện “xin
Trời mở cho chúng tôi một cửa truyền đạo để giảng Lẽ Mầu Nhiệm của Đấng
Christ”.Ông cũng viết cho Timothy yêu dấu của ông, khuyên y chọn những người
trợ tế trong số những người giữ “Lẽ Mầu Nhiệm của đức tin trong lương tâm
trong sạch”.(I.Timothy 3:9).
Bấy giờ Timothy giữ một vị thế quan trọng, đại
diện cho thế hệ thầy Cơ Đốc kế tiếp. Ông là môn đệ của Thánh Paul, được chỉ
định điều hành một phần Giáo Hội.Chúng ta biết Timothy đă được thánh Paul
thâu nhận vào Huyền Môn nhờ những câu kỹ thuật làm đầu mối. “Hỡi Timothy,
con ta, ta theo lời tiên tri chỉ về con trước kia, đem mạng lịnh này ủy thác
cho con,” một câu kinh long trọng của Vị Điểm Đạo khi thâu nhận một thí
sinh. Nhưng Vị Điểm Đạo không hiện diện một ḿnh; “Đừng bỏ lơ ân tứ trong
con, là điều nhờ lời tiên tri và sự đặt tay của các Trưởng Lăo mà ban cho
con” (I.Tim 4:14). Thánh Paul nhắc ông giữ lấy sự sống đời đời là sự con
được gọi đến, và cũng v́ đó mà con đă thừa nhận sự thừa nhận tốt đẹp trước
mặt nhiều người chứng kiến (I.Tim 6:12) lời tuyên thệ của người mới được
Điểm Đạo trước các Huynh Trưởng và hội đồng các Vị Điểm Đạo. Sự hiểu biết
được truyền thụ rất là thiêng liêng đến nỗi Thánh Paul phải thốt to lên:
“Timothy ơi, hăy giữ lấy điều đă ủy thác cho con” (I.Tim 6:20)- không phải
sự hiểu biết thông thường của người Cơ Đốc, v́ nếu thế th́ đă không có sự
bắt buộc đặc biệt đặt để cho S.Timohty, mà là một sự hiểu biết thiêng liêng
giao phó cho ông với tư cách là một người được Điểm Đạo, và cần thiết cho sự
an toàn của Giáo Hội. Sau này S.Paul lại nhắc lại điều ấy, nhấn mạnh vào
tính cách vô cùng quan trọng của sự hiểu biết ấy, nó là gia tài chung của
người Cơ Đốc: “ Hăy giữ lấy mẫu mực của những lời thuần chính mà con đă nghe
nơi Ta, trong đức tin và sự thương yêu trong Christ-Jesus. Hăy nhờ Thánh
Linh trong chúng ta mà giữ lấy điều lành đă phó thác cho con rồi (II.Tim
1:13,14) một lời yêu cầu nghiêm trang mà đôi môi có thể phát ra. Ngoài ra đó
là trách nhiệm của ông phải truyền sự hiểu biết ấy lại cho tương lai. “Những
điều con đă nghe nơi Ta giữa nhiều người chứng kiến”- những giáo lư khẩu
truyền thánh thiện được truyền giữa những người được Điểm Đạo, họ là chứng
nhân cho sự chính xác của lời truyền đạt- “hăy phó thác cho những người
trung tín cũng có tài dạy dỗ kẻ khác”. (II.Tim 2:2).
Nhờ hiểu được Giáo Hội có những giáo lư ẩn mật
này, chúng ta thấy được những điều tự nhận xét của Thánh Paul rải rác đây
đó. Khi kết hợp chúng lại với nhau, chúng ta biết đại cương về sự tiến hóa
của Thánh Paul. Ông xác nhận rằng mặc dầu ông đă ở trong nhóm người trọn
vẹn, người được Điểm Đạo- ( v́ ông có nói rằng: vậy hễ bao nhiêu người trọn
vẹn trong chúng ta đều phải có tâm trí đó)- ông chưa “đạt đến”, chưa thật “trọn
vẹn” v́ ông chưa được Christ, chưa vươn tới sự “kêu gọi từ trên của Đức Chúa
Trời qua Christ”, “quyền năng của sự sống lại của Ngài và được dự phần trong
sự khổ sở của Ngài, và đồng hóa theo sự chết của Ngài”; ông đang cố gắng,
ông nói: “mong bất cứ thể nào tôi được đạt đến sự sống lại từ kẻ chết” (Phil
3:8-15).
Bởi đây là sự Điểm Đạo, nó giải thoát con người
nó làm người được Điểm Đạo trở thành Chân Sư Trọn Vẹn, đấng Christ sống lại,
cuối cùng giải thoát Ngài khỏi sự “chết”, khỏi ṿng sinh hóa của nhân loại,
khỏi những mối ràng buộc linh hồn vào vật chất nặng kệch. Nơi đây chúng ta
lại gặp một số từ kỹ thuật, và cả độc giả nào chỉ đọc theo bề ngoài cũng
hiểu rằng “sự sống lại từ kẻ chết” nói nơi đây không có nghĩa của người Cơ
Đốc tân thời về sự sống lại thông thường mà mọi người đều không tránh khỏi
và v́ thế không cần phải cố gắng đặc biệt để đạt được sự sống lại ấy. Thật
ra, chữ “đạt được” dùng không đúng khi nói đến một kinh nghiệm phổ thông và
không thể tránh khỏi của con người. Thánh Paul không thể tránh khỏi sự sống
lại ấy theo quan điểm của người Cơ Đốc tân thời. Vậy th́ ông đă cố gắng
nghiêm nhặt để đạt được sự sống lại nào? Một lần nữa, câu giải đáp duy nhất
lại phát xuất từ Huyền Môn. Trong Huyền Môn, người được Điểm Đạo tiến gần
đến cấp bậc Điểm Đạo giải thoát khỏi ṿng sinh tử được gọi là “Christ thọ
khổ” (the suffering Christ), y chia xẻ nỗi đau của Vị Cứu Thế, chịu đóng
đinh trên thập tự giá theo nghĩa thần bí, “ đồng hóa theo sự chết của Ngài”,
và như thế đạt đến sự sống lại, dự vào Đấng Christ vinh hiển; sau sự chết ấy,
không có quyền lực nào vượt qua y được. (Khải thị 1:18 “Ta là Đấng Sống, Ta
đă chết; này, Ta sống cho đến đời đời vô cùng.) Đó là cái “phần thưởng” mà
vị Đại Tông Đồ Paul đang mau bước đến, ông cũng thúc hối “nhiều người trọn
vẹn”- chớ không phải tín đồ thông thường- hăy cố gắng như thế, đừng an ḷng
với những điều đă đạt được mà hăy cố gắng mau tiến bước măi.
Sự giống nhau giữa người được Điểm Đạo và
Christ chính là căn bản của Đại Bí Pháp, như chúng ta sẽ thấy chi tiết hơn
khi nghiên cứu “Đấng Christ trong Thần Bí Học”. Người được Điểm Đạo không
c̣n nh́n Christ như bên ngoài y nữa: “Dầu chúng tôi từng nhận biết Christ
theo xác thịt, song từ nay không c̣n nhận biết Ngài theo cách ấy nữa”.
(II.Cor 5:16).
Tín đồ thông thường đă “mặc lấy Christ”; v́ hễ
bao nhiêu người trong anh em đă chịu báp têm trong Christ, thảy đều đă mặc
lấy Christ” (Gal 3:27). Bấy giờ họ là “con trẻ trong Christ”. Họ mong chờ sự
giúp đỡ nơi Đấng Cứu Thế Christ, họ chỉ nhận biết Ngài “theo xác thịt” mà
thôi. Nhưng khi họ đă chiến thắng được bản ngă thấp hèn và không c̣n là “xác
thịt” nữa, th́ họ đă bước vào đường đạo và tự ḿnh trở nên Christ. Đây là
điều mà Thánh Paul đă đạt đến và mong mỏi nơi các tín đồ của ông: “Các con
bé mọn của Ta ơi, Ta lại v́ cớ các con mà chịu cơn quặn thắt cho đến chừng
nào Christ thành h́nh trong các con”. (Gal 4:19). Ông đă là cha tinh thần
của họ, đă “dùng Tin lành mà sinh anh em ra” (I.Cor 4:15).Nhưng bây giờ “một
lần nữa”, ông giống như cha mẹ, như một người mẹ sinh họ lần thứ hai. Christ
bé thơ, Christ Thánh Thiện, được sinh ra trong linh hồn, “người ẩn mật trong
ḷng” (I.S Pet 3:4). Người được Điểm Đạo trở thành ‘Hài Nhi Bé Nhỏ’ (little
Child); từ nay về sau y phải sống một đời sống cùa Christ, cho đến khi y trở
nên “con người trọn vẹn”, lớn lên “được tầm thước vóc dáng theo sự đầy đủ
của Christ” (Eph 4:13). Bấy giờ, giống như Thánh Paul đang làm, y chứa đầy
sự đau khổ của Christ trong xác thịt của chính y (Col 1:24) và luôn luôn “thân
thể hằng mang sự chết của Jesus” (II Cor. 4:10). Do đó y có thể nói một cách
đúng thật rằng: “Tôi đă bị đóng đinh với Đấng Christ trên thập tự giá, dầu
vậy tôi sống: nhưng không phải là tôi sống nữa mà là Christ sống ở trong tôi.
Đó là nỗi đau khổ của Vị Tông Đồ, ông miêu tả ḿnh như thế. Và khi trận đấu
đă qua, một âm điệu chiến thắng an tĩnh thật là khác biệt với các cố gắng
gay go của những năm trước: “Bây giờ ta đă sẵn sàng để được dâng hiến, kỳ
qua đời của ta gần rồi. Ta đă đánh trận tốt đẹp, ta đă chạy xong cuộc đua,
ta đă giữ được đức tin. Từ rày về sau, măo miện công nghĩa đă để dành cho ta.
(II Tim 4:8-6). Đây là măo miện được ban cho “người đă chiến thắng”, Đấng
Christ thăng thiên có nói: “Kẻ chiến thắng, ta sẽ khiến làm rường cột trong
đền thờ của Trời ta, và người không c̣n ra khỏi đó nữa (Khải thị 3:12). V́
sau sự “Sống Lại”, người được Điểm đạo trở nên một người Trọn Vẹn, Vị Chân
Sư, và Ngài không c̣n ra khỏi Đền Thờ nữa, ở đấy Ngài phụng sự và hướng dẫn
các cơi.
Trước khi kết thúc chương này, cũng nên nêu rơ
rằng chính Thánh Paul cũng thừa nhận việc sử dụng giáo lư thần bí lư thuyết
để giải thích những biến cố lịch sử ghi trong các Kinh Thánh. Ông không coi
lịch sử viết trong đó như là một sự ghi chép đơn giản những sự kiện đă xảy
ra trong cơi trần. Là một nhà thần bí học thật sự, ông thấy trong các biến
cố hồng trần những h́nh bóng của những chân lư đại đồng măi ẩn mật trong
những cơi giới cao siêu và ông thấy rằng những biến cố chọn lọc để lưu trữ
trong các văn tự huyền bí là những biến cố tiêu biểu, sự giải thích những
biến cố này sẽ giúp cho sự giáo huấn con người. V́ thế ông dùng những câu
chuyện của Abraham, Sarai, Hagar, Ishmael và Isaac, nói rằng “những chuyện
đó là lời bóng gió”, rồi ông giải thích ư nghĩa thần bí (Gal 4:22-31). Về
chuyện dân Do Thái trốn khỏi Ai Cập, ông nói đến Hồng Hải như một lễ báp têm,
cây tần b́ và nước như thức ăn và thức uống tinh thần, và vầng đá có nước
tuôn ra như là Christ (I Cor 10:1-4). Ông thấy Lẽ Mầu Nhiệm của sự hợp nhất
giữa Christ và Giáo Hội của Ngài trong mối tương quan chồng vợ của con
người, ông nói về các người Cơ Đốc như thịt và xương của thân thể Đấng
Christ. Tác giả thư gửi người Hê Bơ Rơ đă biểu tượng hóa toàn thể hệ thống
thờ phượng của người Do Thái. Trong Đền Thờ, ông thấy một kiểu mẫu Đền Thờ
thiên giới, nơi Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm ông thấy Đấng Christ, trong các sinh
tế ông thấy lễ vật của Người Con tinh khiết; các thầy tế lễ của Đền Thờ chỉ
là “thí dụ và h́nh bóng của các sự thiên giới”. Các chương 3-10 là một
chuyện ngụ ngôn soạn thảo công phu nhất, và người viết quả quyết rằng Thánh
Linh có một ư nghĩa sâu xa hơn.
Đối với các Kinh Thánh, người ta không xác định
các biến cố ghi trong đó quả thật đă xảy ra và các điều xảy ra ở cơi hồng
trần chỉ có tầm quan trọng thứ yếu. Giải thích các câu chuyện ấy tức là vén
màn Tiểu Bí Pháp, giáo lư thần bí được phép đưa ra cho thế
gian.
Nó không phảido trí tưởng tượng đặt ra như nhiều người nghĩ, nhưng nó là kết
quả của trực giác thật sự thấy được các kiểu mẫu trên các cơi Trời, chớ
không phải là những h́nh bóng của các kiểu mẫu xuất hiện trên màn ảnh của
thời gian trần thế.
CHƯƠNG 3
PHÍA ẨN MẬT CỦA CƠ ĐỐC GIÁO
Trong khi một số người sẵn sàng chấp nhận rằng
các Vị Tông Đồ và những người kế vị trực tiếp có một nền hiểu biết sâu xa
hơn về những điều tinh thần th́ một số ít người lại muốn tiến một bước xa
hơn cho rằng Huyền Môn của Giáo Hội Đầu Tiên là nơi chứa đựng những giáo lư
thiêng liêng của họ. Chúng ta có Thánh Paul đă truyền đạt lại phấn giáo lư
không được viết ra, chính Ông đă dạy đạo cho Thánh Timothy, huấn luyện cho
Thánh Timothy dạy đạo lại những người khác, và những người này lại dạy đạo
lại cho những người khác nữa. Như thế có bốn thế hệ đạo sư nối tiếp nhau
được nói đến trong chính những Kinh Thánh. Bốn thế hệ này chắc chắn bao gồm
những tác giả trong Giáo Hội đầu tiên là những người đă chứng kiến sự hiện
hữu của Huyền Môn. Khi chúng ta khởi sự khảo sát những văn tự của Giáo Hội
Đầu Tiên, chúng ta thấy rằng chúng chỉ là những lời bóng dáng mà chỉ có
Huyền Môn mới hiểu được, và sau đó chúng xác nhận sự hiện hữu của Huyền Môn.
Những chứng nhân đầu tiên là những vị Cha, các
đệ tử của các Vị Tông Đồ, nhưng các văn tự của họ c̣n lại rất ít. Những lời
văn ấy không được minh bạch như các người viết sau. Polycarp, Giám mục ở
Smyrna và là bạn đồng học với Ignatius của T.Paul, hy vọng các người viết
thư với Ông được “thành thạo với Thánh Kinh, và không có điều ǵ ẩn mật với
anh em, nhưng c̣n tôi th́ không được đặc ân đó”, hiển nhiên Ông viết trước
khi Điểm Đạo. Barbanas nói về “vài đoạn mà chính ông đă nhận được”, và sau
khi giải thích Luật một cách thần bí, ông tuyên bố rằng “sau khi hiểu đúng
đắn các điều răn của Ngài, chúng tôi giải thích các điều răn ấy theo như ư
Ngài muốn”. Ignatius, Giám mục Antioch, một môn đồ của T. Paul, nói về ông
“chưa được toàn vẹn trong Jesus- Christ. V́ bây giờ tôi mới bắt đầu là một
đệ tử, và tôi nói với anh em như các đồng môn của tôi”, và ông nói về họ như
“đă được Điểm Đạo vào Huyền Môn với Paul, người Thánh Thiện; người khổ nạn”.
Ông c̣n nói: “Tôi không thể viết cho anh em nhiều điều mầu nhiệm hơn sao?
Nhưng tôi ngại làm thế, e tôi sẽ gây tổn thương cho anh em v́ anh em chỉ là
con trẻ (babes). Xin tha lỗi cho tôi, tôi e ngại anh em không nhận được ư
nghĩa quan trọng của chúng, chúng sẽ làm nghẹn các anh em. Ngay cả tôi, mặc
dầu tôi đang hướng về Christ và tôi có thể hiểu được các sự ở cơi Trời, các
đẳng cấp thiên thần, sự phân biệt giữa quyền năng và quyền lực, sự hùng vĩ
của những thời kỳ vô tận, sự siêu việt của các đại thiên thần, sự cao cả của
Tinh thần, vương quốc của Đấng Christ và trên hết là sự uy nghi không thể so
sánh của Đức Thượng Đế Toàn Năng- mặc dầu tôi đă quen thuộc các điều ấy, tuy
nhiên tôi vẫn chưa được toàn thiện chút nào, cũng như tôi chưa được là một
môn đồ như Paul và Peter”. Đoạn này rất là lư thú v́ nó chỉ rằng sự tổ chức
đẳng cấp cơi Trời là một trong những vấn đề được giảng dạy trong Huyền Môn.
Kế đó là T.Clement of Alexandria và môn sinh
Origen của Ông, hai tác giả của thế kỷ thứ hai và thứ ba viết hầu hết về
Huyền Môn của Giáo Hội Đầu Tiên. Mặc dầu lời văn đầy bóng dáng thần bí,
nhưng cả hai xác định minh bạch rằng Huyền môn là một tổ chức được thừa
nhận.
Bấy giờ S.Clement là một đệ tử của Pantaenus
ông nói về ông và hai người khác, có lẽ là Titian và Theodotus, như là người
“bảo tồn những giáo lư phát xuất trực tiếp từ những Vị Tông Đồ Thánh thiện
Peter, James, John và Paul” như thế sự liên lạc giữa ông và chính các Vị
Tông Đồ chỉ qua một người trung gian. Ông là Thủ trưởng trường Vấn Đáp ở
Alexadria vào năm 189, và chết vào năm 220. Origen, sinh năm 185, là học tṛ
của S.Clement. Có lẽ ông là một Cha uyên thâm nhất và là một người có một vẻ
đẹp đạo đức hiếm có nhất. Đó là những chứng nhân nhờ đó chúng ta nhận được
các bằng cớ về sự hiện hữu của một Huyền Môn xác định trong Giáo Hội Đầu
Tiên.
Quyển Stromata (Linh tinh) của S. Clement là
nguồn tài liệu về Huyền Môn vào thời ông. Ông nói những văn tự này như là
“những ghi chú linh tinh về Duy Tri (Gnostic) theo nền triết học chân chính”
và ông đă miêu tả chúng như một tập ghi nhớ những giáo lư mà ông nhận từ
Pantaenus. Đoạn sau đây có tính cách khuyên bảo: “Ngài (The Lord)…cho phép
chúng tôi truyền đạt Huyền Môn và ánh sáng thiêng liêng ấy cho những ai có
khả năng tiếp nhận. Chắc chắn Ngài không phô bày cho nhiều người điều ǵ
không thuộc về nhiều người, Ngài chỉ tŕnh bày nó cho một số ít người mà
Ngài biết rằng họ có thể thâu nhận được và sống theo nó. Nhưng những điều bí
mật này chỉ được truyền khẩu, chứ không bằng văn tự… Tôi biết rơ tập ghi chú
này rất là thô thiển so với tinh thần đầy ơn phước mà tôi có đặc ân nghe
được. Nhưng nó sẽ là một h́nh ảnh gợi lại nguyên h́nh cho ai đă được điểm
đạo bằng cây trượng Thyrsus”. Chúng tôi xin thêm rằng cây trượng Thyrsus
được các Vị Điểm Đạo mang theo và chạm vào người thí sinh trong nghi lễ Điểm
Đạo. Nó có một ư nghĩa thần bí, biểu tượng cho đường xương sống và hạch quả
tùng trong Tiểu Bí Pháp, và biểu tượng cho Trượng Quyền Lực trong Đại Bí
Pháp mà các nhà Huyền Bí Học đều biết. Do đó nói rằng: “được trượng Thyrsus
chạm vào” tức là nói: “được Điểm Đạo vào Huyền Môn” Clement viết thêm:
“…Theo thời gian có nhiều sự đă vuột khỏi chúng tôi mà chưa viết ra được…Rồi
cũng có nhiều điều mà tôi không thu nhập được, v́ quyền lực ở trong những
người thánh thiện rất lớn lao”. Đó là một kinh nghiệm thường gặp của những
người được các Bậc Cao Cả dạy dỗ, bởi v́ sự hiện hữu của Ngài kích thích và
làm linh hoạt các quyền năng c̣n ẩn tàng trong người họ, mà nếu không có
Ngài tham dự, họ sẽ không khơi động được. Có nhiều điều tôi đă cố ư loại bỏ
đi v́ e rằng các độc giả của tôi sẽ hiểu sai nghĩa. Trong bài cảo luận của
tôi, sẽ có một số điều được ám chỉ, một số điều được tŕ hoăn và một số điều
chỉ được lưu ư đến mà thôi. Bài ấy sẽ nói một cách khó nhận thức, tŕnh bày
một cách bí mật và chứng minh một cách âm thầm”.
Chỉ riêng đoạn này cũng đủ chứng tỏ có sự hiện
hữu của một giáo lư ẩn mật trong Giáo Hội Đầu Tiên. Nhưng trong chương “Điều
Mầu Nhiệm của Đức Tin không nên tiết lộ cho mọi người”, Clement tuyên bố
rằng ví có những người không phải là hiền nhân có thể thấy tác phẩm của ông
nên “cần phải che đậy sự Minh Triết trong Điều Mầu Nhiệm, sự Minh Triết mà
Con của Trời đă dạy…Những điều tiên tri chỉ được nói bằng ẩn ngữ khó hiểu.
Lẽ Mầu Nhiệm không thể được tŕnh bày phóng túng cho tất cả mọi người, mà
chỉ được tŕnh bày khi đă có sự tinh luyện và giáo huấn trước…”
C̣n nhiều điều nữa, nhưng bấy nhiêu cũng đủ
chứng tỏ S.Clement đă biết và đă được Điểm Đạo vào Huyền Môn của Giáo Hội,
ông cũng đă viết để giúp đỡ cho những người cũng được Điểm Đạo vào Huyền Môn
như ông.
Nhân chứng thứ hai là Origen, học tṛ của ông,
một người đầy ánh sáng hiểu biết, can đảm, thánh thiện, tôn sùng, ôn ḥa, và
nhiệt thành; những tác phẩm của ông là một kho tàng Minh Triết mà sinh viên
có thể t́m học.
Trong cuộc bút chiến nổi danh với Celsus, ông
đă binh vực cho Cơ Đốc Giáo về các giáo lư bí mật. Celsus đă tấn công cho
rằng Cơ Đốc Giáo là một hệ thống bí mật (secret system). Origen đă biện hộ
nói rằng trong khi vài giáo lư được giữ bí mật th́ có những giáo lư khác
được đưa ra công chúng, và hệ thống giáo lư công truyền và bí truyền cũng
đều được các triết gia áp dụng. Trong đoạn văn sau, độc giả ghi chú về sự
phân biệt giữa sự sống lại của Jesus được nh́n theo ánh sáng của lịch sử với
“lẽ mầu nhiệm của sự sống lại”; “Hơn nữa, v́ Celsus thường cho Giáo Lư Cơ
Đốc là một hệ thống bí mật, chúng ta phải bác bỏ quan điểm của ông v́ hầu
hết mọi người đều quen thuộc với những ǵ người Cơ Đốc giảng dạy hơn là
những ư kiến tốt đẹp của các triết gia. V́ có ai không biết đến việc Đức
Jesus sinh từ một trinh nữ, Ngài chịu chết và sống lại là một vấn đề của đức
tin trong nhiều vấn đề khác, đến kỳ phán xét sắp đến người tội lỗi sẽ bị
phạt và người công nghĩa được thưởng? Tuy nhiên lẽ Bí Nhiệm về sự sống lại
nếu không được hiểu rơ sẽ là mục tiêu chế diễu cho những người không tin… Cơ
Đốc Giáo vẫn có chỗ cho người thất học, nhưng không phải chỉ chuyên cho hạng
người này, mà nó c̣n những giáo lư thâm sâu cho hạng người “thông minh và
nhạy bén”.
V́ thế mà ông đă gắng công chứng tỏ rằng Thánh
Kinh Do Thái và Thánh Kinh có những nghĩa ẩn mật, ẩn dưới những câu chuyện
có những ư nghĩa bên ngoài rất phi lư. Phần lớn quyển bốn của tác phẩm ông
giải thích các ư nghĩa thần bí của các câu chuyện trong Thánh Kinh.
Giáo Hội ngày nay có nắm lại được những giáo lư thần bí tức Tiểu Bí Pháp và
chuẩn bị cho các tín đồ thiết lập lại nền Đại Bí Pháp chăng? Tương lai của
Cơ Đốc Giáo tùy thuộc vào câu trả lời vấn đề ấy.
CHƯƠNG 4
Các vị Tông Đồ và những người kế vị thông hiểu
dễ dàng với hơn
ư nghĩa lịch sử mặc dầu họ không hề phủ nhận lịch sử. Họ không ngần ngại
giảng dạy các tín đồ đă được huấn luyện rằng vài câu chuyện trong Cựu Ước rơ
ràng có trong lịch sử nhưng thực sự là ngụ ngôn thuần túy. Không nơi nào
chúng ta cần hiểu điều này hơn khi nghiên cứu về lịch sử của Đức Jesus
Christ. Nếu chúng ta không gỡ các sợi chỉ rối đan vào nhau và không thấy nơi
nào các biểu tượng được xem như biến cố, các ngụ ngôn được xem như lịch sử-
th́ chúng ta sẽ đánh mất tính cách giáo huấn và nhiều vẻ mỹ lệ của câu
chuyện. Chúng ta không thể nhấn mạnh quá đáng rằng Cơ Đốc Giáo mạnh mẽ hơn
khi đức tin và đức hạnh có thêm tri thức, như lời dạy của Vị Tông Đồ (II.S.Peter
1:5). Người ta sợ rằng Cơ Đốc Giáo sẽ bị suy yếu khi lư trí khảo sát nó và
thật là “nguy hiểm” khi chấp nhận những biến cố được nghĩ là thuộc về lịch
sử lại có một ư nghĩa thần thoại thần bí quan trọng sâu xa hơn. Trái lại,
chẳng những Cơ Đốc Giáo không bị suy yếu mà lại c̣n được tăng phần kiên cố,
và học giả sẽ vui mừng thấy rằng viên ngọc vô giá chiếu sáng rực rỡ, tinh
khiết hơn với nhiều màu sắc khi lớp vô minh bao bọc bị loại bỏ ra.
Hiện nay có hai trường phái tư tưởng chống đối
nhau kịch liệt, tranh luận về lịch sử của vị Đại Giáo Chủ Do Thái. Một
trường phái cho rằng không có điều ǵ cả trong các lời tường thuật về đời
sống của Ngài ngoại trừ những chuyện thần thoại được đưa ra để giải thích
vài hiện tượng thiên nhiên, dùng h́nh ảnh để dạy vài sự kiện thiên nhiên,
ghi khắc vào tâm trí những người vô học vài loại biến cố thiên nhiên quan
trọng với họ để hướng dẫn đạo đức cho họ. Những người thừa nhận quan điểm
này tạo thành một trường phái nổi bật lôi cuốn nhiều người có học thức cao
và rất thông minh. Xung quanh họ là những đám đông ít học hơn hăng hái
khuếch đại các yếu tố phá hoại. Phái này đối nghịch với phái các tín đồ Cơ
Đốc Giáo chính thống tuyên bố rằng toàn thể câu chuyện của Đức Jesus là câu
chuyện thật có trong lịch sử, không pha chuyên thần thoại. Họ quả quyết rằng
lịch sử này không ǵ khác hơn là lịch sử về đời sống của một người được sinh
ra khoảng mười chín thế kỷ trước tại Palestine và đă trải qua mọi kinh
nghiệm ghi trong Thánh Kinh. Họ không công nhận câu
chuyện có một ư nghĩa nào vượt quá ư nghĩa của
một đời sống con người và thánh thiện. Giữa hai trường phái ấy có nhiều ư
kiến khác tự gọi là “tự do tư tưởng” cho rằng câu chuyện ấy có một phần thần
thoại, một phần có thật nhưng họ không đưa ra một phương pháp giải thích rơ
ràng và hợp lư thích ứng cho toàn thể vấn đề phức tạp. Nhưng chúng ta cũng
thấy trong ṿng Giáo Hội Cơ Đốc, có một số đông- và càng ngày càng đông hơn-
tín đồ khôn ngoan, họ có ḷng tin rất nồng nhiệt và những nguyện vọng ngoan
đạo, nhưng qua Thánh Kinh họ thấy nhiều điều hơn là lịch sử của một Người
thiêng liêng đơn độc. Họ chủ trương rằng câu chuyện của Đấng Christ có một ư
nghĩa sâu xa hơn là ư nghĩa hiển lộ bên ngoài. Trong khi họ vẫn duy tŕ tính
chất lịch sử của Đức Jesus, th́ cùng lúc ấy họ tuyên bố rằng Đấng Christ c̣n
lớn lao hơn con người Jesus, và có một ư nghĩa thần bí. Để hỗ trợ cho chủ
trương này, họ đưa ra những câu như của Thánh Paul: “Các con bé mọn của Ta
ơi, Ta lại v́ cớ các con mà chịu quặn thắt, cho đến chừng nào Christ thành
h́nh trong các con? (Gal 4:19). Nơi đây hiển nhiên Thánh Paul không thể nói
đến một Jesus lịch sử, mà ông muốn nói đến một điều ǵ vượt khỏi linh hồn
con người và ông cho là sự phát triển của Christ bên trong. Vị thầy ấy c̣n
tuyên bố rằng mặc dầu ông đă “nhận biết Christ theo xác thịt, song hiện nay
chẳng c̣n nhận biết Ngài theo cách ấy nữa” (II.Cor 5:16). Hiển nhiên ông ám
chỉ rằng trong khi ông nhận biết Christ xác thịt- Jesus- th́ ông c̣n đạt đến
một quan điểm cao siêu hơn, nó đưa Đức Jesus lịch sử vào bóng tối. Đây là
quan điểm mà hiện nay nhiều người đang t́m kiếm, và - chạm trán với những sự
kiện của Tôn Giáo Đối Chiếu, rối trí bởi các mâu thuẫn trong Thánh Kinh,
hoang mang với những vấn đề nan giải v́ họ bị ràng buộc vào các ư nghĩa hời
hợt bên ngoài của Thánh Kinh - họ tuyệt vọng thốt lên rằng mặt chữ giết chết
sự sống, c̣n tinh thần tạo nên sự sống, họ ḍ t́m ư nghĩa sâu xa và rộng răi
trong một câu chuyện xưa như các tôn giáo trên trái đất. Những người này quá
rời rạc và chưa xác định nên không thể nói rằng họ lập được một trường phái,
h́nh như họ vươn một tay về phía nhóm chủ trương thần thoại, khẩn cầu chấp
nhận một nền tảng lịch sử; c̣n về phía kia họ nói với các tín đồ Cơ Đốc rằng
sự học theo một ư nghĩa duy nhất về mặt chữ sẽ gặp nguy cơ vô phương chống
đỡ trước sự hiểu biết càng ngày càng gia tăng ngày nay, và ư nghĩa tinh thần
sẽ bị thất truyền hoàn toàn. Ư nghĩa “câu chuyện về Christ”có nguy cơ thất
truyền, quan niệm về Đấng Christ từ trước đến giờ vẫn là nguồn nương cậy và
nguyện vọng của hàng triệu người thanh cao từ Đông sang Tây mặc dầu họ có
thể gọi danh Christ bằng những tên khác và thờ phượng Ngài dưới những h́nh
thức khác. Chúng ta e rằng viên ngọc vô giá có thể vượt khỏi đôi tay chúng
ta và con người sẽ trở nên khốn nàn măi măi.
Để có thể tránh nguy cơ này, chúng ta cần phải
tháo các sợi chỉ rối quanh lịch sử Đấng Christ và đặt chúng bên cạnh nhau:
sợi của lịch sử, sợi của thần thoại và sợi của thần bí. Chúng đă đan lại
thành một sợi lớn làm con người rối trí. Khi tháo chúng ra, chúng ta sẽ thấy
rằng câu chuyện ấy sẽ có giá trị hơn nhờ có sự hiểu biết chiếu rọi vào, khi
ánh sáng càng rực rỡ hơn th́ vẻ đẹp của chân lư càng được phát hiện nhiều
hơn.
Chúng ta sẽ khảo sát Christ theo lịch sử, kế đó
theo thần thoại học và sau cùng theo thần bí học. Chúng ta sẽ thấy rằng tất
cả phương diện ấy kết hợp thành Jesus Christ của các Giáo Hội. Chúng thấm
vào thành phần của Nhân Vật vĩ đại và thi vị, bao trùm những tư tưởng và
t́nh cảm của toàn thể Cơ Đốc Giáo- Đó là Người của Đau khổ, Vị Cứu Thế, Đức
Từ Ái và Chúa của con người.
ĐẤNG CHRIST TRONG LỊCH SỬ
HAY ĐỨC JESUS VỊ THẦY CHỮA BỆNH VÀ
HUẤN SƯ
Sợi chỉ rối này gỡ ra không khó lắm. Sự nghiên
cứu của chúng ta được dễ dàng nhờ tham chiếu những lời ghi chép của quá khứ
mà những chuyên viên có thể kiểm chứng chúng được, và trong các lời ghi chép
ấy có vài chi tiết liên quan đến vị Huấn Sư Do Thái do bà H.P.Blavatsky và
các chuyên viên nghiên cứu huyền bí học đưa ra cho thế gian. Nhiều người có
thể thắc mắc về chữ “chuyên viên” được sử dụng trong huyền bí học. Tuy nhiên
nó chỉ có nghĩa là một người do bởi sự học hỏi đặc biệt, được huấn luyện đặc
biệt nên đă thâu hoạch được một loại kiến thức đặc biệt và đă khai mở các
quyền năng cho phép y đưa ra một ư kiến căn cứ trên sự hiểu biết cá nhân của
y về vấn đề y đang khảo sát. Giống như chúng ta nói Huxley là chuyên viên
thực vật học, Wrangler là chuyên viên toán học, hay Lyell là chuyên viên địa
chất học. Cũng thế chúng ta có thể gọi một chuyên viên huyền bí học là người
trước tiên đă nắm vững trên phương diện trí tuệ vài lư thuyết căn bản về sự
cấu tạo con người và vũ trụ và sau đó đă phát triển trong y những quyền năng
tiềm tàng trong mỗi người (ai chuyên tâm học hỏi thích đáng đều có thể phát
triển đươc), những khả năng giúp y quan sát những phương thức bí ẩn hơn của
thiên nhiên. Như một người sinh ra có sẵn khả năng toán học và nhờ được huấn
luyện mà khả năng ấy gia tăng vô cùng sau nhiều năm, một người sinh ra với
vài khả năng nào đó trong y, những khả năng thuộc về linh hồn, mà y có thể
phát triển do tập luyện và kỷ luật. Khi những quyền năng này đă được phát
triển, y áp dụng chúng để khảo sát thế giới vô h́nh. Một người như thế trở
thành một chuyên viên Khoa Học Huyền Bí, và y có thể tùy ư kiểm chứng lại
những điều lưu chép mà tôi đă tham khảo. Sự kiểm chứng ấy vượt khỏi khả năng
của một người thường, như một quyển sách toán học được viết bằng những kư
hiệu của toán học cao cấp vượt quá khả năng của một người không được huấn
luyện về toán học. Không có điều ǵ độc đoán trong sự hiểu biết. Những người
nào sinh ra với một khả năng bẩm sinh và huấn luyện khả năng ấy, đều có thể
sử dụng môn khoa học tương ứng của nó. C̣n ai sinh ra mà không có một khả
năng nào hoặc những người có mà không chịu phát triển, th́ hẳn phải chịu
thiếu hiểu biết. Đây là những quy luật đại đồng cho thâu hoạch kiến thức,
trong Huyền Bí Học cũng như trong mọi khoa học khác.
Những biên kư huyền bí có phần xác nhận câu
chuyện ghi trong các Kinh Thánh, có phần không xác nhận. Biên kư ấy cho
chúng ta thấy đời sống của Ngài, do đó giúp ta phân cách được các chuyện
thần thoại lẫn trong đó.
Đứa trẻ có một tên Do Thái và được đổi thành
tên Jesus, sinh ở Palestine vào năm 105 trước kỷ nguyên T.C., dưới thời quan
chấp chánh tối cao La Mă Publius Rutilius Rufus và Gnaeus Mallius Maximus,
cha mẹ Ngài thuộc ḍng danh giá nhưng thanh bần. Ngài được giáo dục theo
kiến thức của Kinh Thánh Do Thái cổ. Ḷng tôn sùng nồng nhiệt và sự nghiêm
trang trước tuổi của Ngài đă khiến phụ thân hiến dâng Ngài cho đời sống tôn
giáo khổ hạnh. Chẳng bao lâu sau kỳ thăm viếng Jerusalem, lúc đó sự thông
minh xuất chúng và ḷng nhiệt huyết tầm kiếm hiểu biết được biểu lộ trong sự
t́m gặp các nhà thông thái trong Đền Thờ, Ngài được gởi đi huấn luyện trong
một Giáo Hội Tinh Hoa ở sa mạc miền nam Judaen. Khi được mười chín tuổi,
Ngài tiếp tục vào tu viện Tinh Hoa gần núi Serbal, một tu viện thường được
những học giả du hành từ Ba Tư và Ấn Độ sang Ai Cập thăm viếng, và nơi đây
có một thư viện nổi tiếng về những tác phẩm huyền bí học, nhiều tác phẩm
phát xuất từ các miền Xuyên-Hy-Mă-Lạp Sơn Ấn Độ. Từ trung tâm thụ huấn thần
bí này, Ngài di chuyển sang
Ai
Cập. Ngài được thọ giáo đầy đủ những giáo lư bí truyền về căn nguyên thật sự
của sự sống giữa những vị Tinh Hoa, và được Điểm Đạo ở Ai Cập làm đệ tử của
một Chi Hội cao cả mà các vị Sáng Lập các tôn giáo lớn đều xuất phát từ đó.
Ở Ai Cập c̣n tồn tại một trong những trung tâm thế giới về các Bí Pháp chân
chính, cón các Bí Pháp bán-công khai chỉ là các phản ánh mờ nhạt và xa xôi
của các Bí Pháp chân chính. Những điều huyền bí mầu nhiệm được nói đến trong
lịch sử khi Ngài ở Ai Cập là những bóng dáng của các điều hiện thật “Trên
Núi”, và nơi ấy người trai trẻ Do Thái được thừa nhận long trọng để chuẩn bị
cho Ngài bước sang tŕnh độ Tư Tế mà Ngài phải đạt đến sau này (Priesthood).
Ngài quá tinh khiết và đầy ḷng tôn sùng nên trong cuộc đời thanh nhă của
Ngài, Ngài nổi bật lên giữa những vị khổ tu nghiêm khắc và hơi cuồng tín
cùng được huấn luyện với Ngài, Ngài tỏa ra hương vị của một sự hiểu biết dịu
dàng thanh cao đến những người Do Thái khắc khổ như một cây hoa hồng mọc lạ
lùng giữa sa mạc tỏa hương thơm cho vùng hoang vu chung quanh. Lời nói của
Ngài-dầu ít-vẫn luôn ngọt ngào và đầy t́nh thương, làm cho người khắc nghiệt
nhất trở nên hiền lành tạm thời và người cứng rắn nhất trở nên dịu dàng lúc
ấy. Ngài sống như thế suốt từ 9 tuổi đến 20 tuổi của cuộc sống hồng trần,
càng ngày càng duyên dáng và thanh nhă.
Sự tinh khiết và ḷng tôn sùng siêu phàm này
khiến cho Jesus, người đệ tử, được thích ứng để trở nên đền thờ của một
Quyền Năng cao cả, một Hiện Hữu nội tại, hùng cường. Đă đến lúc một trong
những sự biểu lộ Thiêng Liêng xuất hiện để giúp đỡ nhân loại, cần có một
động lực mới để hối thúc sự tiến hóa tinh thần của nhân loại khi một nền văn
minh mới sắp chớm nở. Thế giới Tây Phương bấy giờ đang chờ đợi và đă sẵn
sàng chào đời. Giống dân phụ Teutonic sẽ nắm lấy uy quyền vừa rơi khỏi bàn
tay của La Mă. Trước khi Tây Phương bắt đầu cuộc hành tŕnh, một Vị Cứu Thế
phải xuất hiện đứng ban phước bên nôi đứa bé Hercule.
Một người “Con của Trời” (Son of God) uy mănh
phải lấy xác thịt cơi trần, một vị Huấn Sư cao cả “đầy ân điển và lẽ thật”
(S.John 1:14), Minh Triết Thiêng Liêng đầy đủ trong Vị ấy, Ngài thật là
“Ngôi Lời” nhập thế, Ánh Sáng và Sự Sống tuôn tràn sung măn, một Nguồn thật
sự của các Nước của Sự Sống. Danh hiệu của Ngài là Đức Từ Ái và Minh Triết.
Từ Nơi Cư Ngụ Bí Nhiệm, Ngài bước vào thế giới con người.
Đối với Ngài, một đền thờ trần thế là cần
thiết- một h́nh thể con người, một xác thân con người. C̣n ai thích ứng dâng
hiến thể xác ḿnh trong sự vui mừng và mong muốn phụng sự Vị mà các Thiên
Thần và con người đều nghiêng ḿnh hết sức cung kính hơn là chàng Do Thái
này, một người “Toàn thiện” tinh khiết nhất và cao quư nhất có một xác thân
trong sạch và một tâm trí tinh anh tốt đẹp nhất mà nhân loại có thể mang
lại? Jesus vui ḷng hiến thân ḿnh cho Đức Từ Ái, Ngài dùng xác thân tinh
khiết này như một đền thờ để cư ngụ suốt ba năm dưới trần.
Thời kỳ này được đánh dấu trong những câu
chuyện trong Thánh Kinh nói về Lễ Báp Têm của Jesus, khi “Thánh Linh từ Trời
ngự xuống như bồ câu đậu trên Ngài” (S.John 1:32) và có tiếng trên trời phán
rằng Ngài là Con yêu dấu. Quả thật Ngài là con yêu dấu mà Cha rất đẹp ḷng(S.Mat
3:17) và từ bấy giờ trở đi “Jesus khởi rao giảng” (S.Matt 4:17). Ngài là sự
mầu nhiệm phi thường. “Thượng Đế được tỏ ra trong xác thịt”. Nhưng không
phải duy có Ngài là Thượng Đế v́ “Trong luật pháp của các ngươi, há chẳng
chép rằng: “Ta đă nói: Các ngươi là Thượng Đế hay sao”. Quả thật, mọi người
đều là Thượng Đế nếu nói về Tinh Thần (Spirit) trong họ, nhưng Thượng Đế
không biểu lộ trong tất cả mọi người như trong Con yêu dấu của Đấng Tối Cao.
Đối với Sự Hiện Diện được biểu lộ ấy, danh tự
“The Christ” có thể được dùng một cách đúng đắn, và chính Ngài đă sống và di
chuyển trong h́nh thể của con người Jesus qua những đồi núi đồng bằng ở
Palestine, rao giảng, chữa bệnh và tụ họp quanh Ngài một ít linh hồn tiến
hóa cao làm đệ tử. Vẻ mỹ lệ hiếm có của t́nh thương tuyệt diệu của Ngài toát
ra như những tia sáng mặt trời đă thâu hút những người đau khổ, mệt mỏi, ngă
ḷng. C̣n mănh lực huyền diệu của sự hiểu biết cao quư của Ngài đă thanh lọc,
nâng cao các người đến tiếp xúc với Ngài. Ngài dùng các ngụ ngôn và các thí
dụ minh bạch để dạy các nhóm kém học vây quanh Ngài. Ngài sử dụng những
quyền năng của Thánh Linh và chữa được nhiều bịnh bằng lời nói hoặc bằng tay
chạm vào, từ điển của thể xác tinh khiết của Ngài được tăng cường bằng mănh
lực của sự sống bên trong của Ngài.
Ngài bị các bạn đồng môn đầu tiên loại trừ v́
Ngài đem truyền bá cho thế gian nền minh triết thiêng liêng và họ xem như
bảo vật bí mật nhất và hănh diện nhất của họ, và bởi v́ t́nh thương đại đồng
của Ngài đă thâu hút cả những hạng người suy đồi, lang thang. Lúc nào Ngài
cũng yêu thương Chân Ngă Thiêng Liêng tiềm ẩn trong hạng người thấp kém nhất
cũng như trong hạng người tiến hóa cao nhất.
Ngài thấy những đám mây đen tối của ḷng thù
hận và nghi ngờ bao quanh Ngài nhanh chóng. Những thầy dạy và người cai trị
quốc gia nh́n Ngài với ḷng ganh tị và giận dữ. Tinh thần của Ngài là một sự
khiển trách dai dẳng tính duy vật của họ. Quyền năng của Ngài chỉ rơ một
cách bền bỉ nhưng im lặng- sự yếu đuối của họ. Ba năm trôi qua từ khi Ngài
chịu lễ Báp Têm đến lúc cơn băo tích tụ bùng dậy, và thể xác của Jesus gánh
lấy khổ nhục v́ đă là đền thờ cho sự Hiện Diện vinh quang của một vị Huấn
Sư.
Nhóm đệ tử nhỏ bé mà Ngài đă chọn để ủy thác
những giáo lư của Ngài bỗng mất đi sự hiện diện bằng thể xác của Vị Huấn Sư
trước khi họ đồng hóa được những giáo huấn của Ngài, nhưng họ là những linh
hồn tiến hóa cao, sẵn sàng học hỏi Minh Triết và đủ sức truyền lại cho những
người kém hơn. Người dễ thụ cảm nhất trong số họ là người “đệ tử được Jesus
yêu mến”, trẻ tuổi, hăng hái, hết ḷng tận tụy với Đức Thầy và cũng có tinh
thần yêu thương
đại dồng bao gồm tất cả như Ngài. Ông tiêu biểu cho tinh thần tôn sùng thần
bí t́m kiếm trạng thái nhập định và hợp nhất với Thiêng Liêng, trong khi đó
vị Tông Đồ Thánh Paul tiêu biểu cho trạng thái hiểu biết của Huyền Môn.
Vị Huấn Sư không quên lời hứa Ngài sẽ đến với
họ sau khi thế gian không c̣n thấy Ngài nữa.(S.John 14:18,19). Trong khoảng
hơn năm mươi năm sau, Ngài đến thăm họ trong thể tinh thần thanh cao, tiếp
tục dạy những giáo lư mà Ngài đă bắt đầu hồi c̣n sống với họ, huấn luyện cho
họ một kiến thức Huyền Môn. Đa số thời gian ấy, họ sống chung với nhau ở một
địa điểm hẻo lánh vùng ngoại ô Judaea, không gây chú ư như các cộng đồng
tương tự chung quanh thời bấy giờ. Họ học hỏi những chân lư thâm sâu mà Ngài
đă dạy cho họ và hoạch đắc được “những tặng phẩm của Thánh Linh”.
Những điều giáo huấn nội môn đă được bắt đầu từ
khi Ngài c̣n sống giữa họ và tiếp tục sau khi Ngài bỏ xác, hợp thành một nền
tảng căn bản cho “Những Bí Pháp của Jesus”, mà chúng ta đă thấy trong Lịch
sử Giáo Hội đầu tiên. Những giáo lư ấy tạo nên một sự sống bên trong, nó là
cái nhân trung tâm, xung quanh tụ tập những vật phẩm đa dạng kết hợp thành
Giáo Hội Cơ Đốc.
Trong một đoạn văn đáng chú ư Pistis Sophia của
Valentinus, chúng ta có một tài liệu quan trọng nhất nói về giáo lư ẩn mật.
Đoạn ấy nói rằng trong thời gian mười một năm sau khi chết, Ngài dạy các môn
đồ “các lănh vực của các quy luật đầu tiên, rồi đến các lănh vực của điều
mầu nhiệm thứ nhất, điều mầu nhiệm bên trong màn che”. Cho đến bây giờ, họ
chưa học đến sự phân cấp các đẳng thiên thần. Đến khi Đức Jesus đang “ở trên
núi” với môn đồ của Ngài và sau khi nhận được Y phục thần bí- sự hiểu biết
về tất cả các cơi và những Câu Quyền Lực (Words of Power) để mở chúng- Ngài
bèn dạy họ xa hơn và hứa rằng: “Ta sẽ làm cho các ngươi được trọn vẹn trong
mọi điều trọn vẹn, từ những mầu nhiệm bên trong đến những mầu nhiệm bên
ngoài. Ta sẽ làm các ngươi tràn đấy Thánh Linh để các ngươi được gọi là tinh
thần, trọn vẹn trong mọi điều trọn vẹn”. Và Ngài dạy họ về Sophia tức Minh
Triết, về sự giáng nhập của nó vào vật chất để cố gắng tiến đến Đấng Tối
Cao, về tiếng Nó kêu gọi Ánh Sáng mà Nó đă tin cậy, về việc phái Jesus đi
giải thoát Nó khỏi sự hỗn độn, về sự vinh quang của Nó với Ánh Sáng của Ngài.
Ngài dạy họ xa hơn về Đấng Mầu Nhiệm cao cả nhất, Đấng không thể tả được,
đơn giản nhất và minh bạch nhất mặc dầu cao siêu nhất, chỉ có Đấng ấy tự
biết ḿnh mà thôi và Đấng ấy hoàn toàn xa ĺa thế gian.
Do sự hiểu biết đó mà những con người trở nên
những Christ v́ “những người ấy chính là Ta, và Ta là những người ấy”, v́
Christ là Đấng Mầu Nhiệm cao cả nhất ấy, biết rằng con người “được biến thể
thành Ánh Sáng tinh khiết và được đem nhập vào Ánh Sáng. Và Ngài cử hành
nghi lễ Điểm Đạo cho họ, lễ báp têm “dẫn đến miền chân lư và bước vào miền
Ánh Sáng”, Ngài bảo họ hăy cử hành lễ ấy cho những người xứng đáng khác:
“Nhưng các ngươi hăy dấu kín Điều Mầu Nhiệm này, chớ đưa nó cho mọi người
chỉ trừ ai sẽ làm đủ mọi sự mà Ta đă nói cho các ngươi trong các điều răn
của Ta.” (Valentinus, Pitis Sophia).
Sau khi được giáo huấn đầy đủ, các vị Tông Đồ
đi ra rao giảng, luôn được Thầy giúp đỡ. Những môn đồ ấy và những người đồng
giáo của họ theo trí nhớ viết lại các lời giảng công cộng và các ngụ ngôn
của Vị Thầy mà họ đă nghe. Họ cũng nhiệt tâm thâu thập bất cứ bản tường
thuật nào mà họ t́m được và họ đều viết lại rồi lưu hành tất cả văn tự ấy
cho những người kết hội với cộng đồng nhỏ bé của họ. Họ lập được nhiều bộ
sưu tập khác nhau, người nào cũng viết lại điều ǵ y nhớ và thêm vào các bản
tường tŕnh của các người khác. Nhưng những giáo lư nội môn Đấng Christ dạy
riêng cho các môn đồ chọn lựa của Ngài th́ không được viết ra và chỉ được
khẩu truyền cho người nào xứng đáng nhận lănh nó, cho những người chuyên học
họp thành những nhóm nhỏ sống một cuộc đời ẩn dật và duy tŕ liên lạc với cơ
quan trung ương.
Vậy
th́ Đấng Christ trong lịch sử là một Đấng vinh hiển thuộc về một đẳng cấp
tinh thần cao cả hướng dẫn sự tiến hóa tinh thần của nhân loại. Chính Ngài
đă dùng thể xác của vị đệ tử Jesus trong ba năm sau cùng để giảng đạo cho
quần chúng suốt miền juđê và Samari.
Ngài là người chữa bệnh và thực hiện nhiều công việc Huyền Bí đáng kể khác.
Ngài họp quanh Ngài một nhóm môn đồ nhỏ và giảng dạy cho họ những chân lư
thâm sâu của đời sống tinh thần. Ngài thu hút con người bằng một t́nh thương
và một sự dịu dàng giản dị, bằng một nền hiểu biết phong phú toát ra từ Con
Người của Ngài. Và cuối cùng Ngài bị giết bởi sự xúc phạm, bởi việc giảng
dạy tính Thiêng Liêng nội tại của chính Ngài và của tất cả mọi người. Ngài
đến tạo một động lực mới cho đời sống tinh thần nhân loại; khởi phát lại
những giáo lư nội môn ảnh hưởng đời sống tinh thần; vạch rơ lại con đường
hẹp cổ xưa; tuyên bố sự hiện hữu của “Cơi Trời” (Kingdom of Heaven) và sự
hiện hữu của Lễ Điểm Đạo đưa con người đến sự hiểu biết về Trời, và thâu
nhận vào Cơi ấy một ít người có thể giảng dạy người khác. Xung quanh Nhân
Vật vinh hiển này, có nhiều chuyện thần thoại kết hợp Ngài vào một dọc dài
những tổ tiên của Ngài, những chuyện thần thoại kể bóng gió lịch sử của tất
cả kiếp sống đó v́ chúng biểu tượng hóa công việc của Đức Thượng Đế (Logos)
trong Vũ Trụ và sự tiến hóa cao cả hơn của linh hồn con người.
Nhưng không nên cho rằng công việc của Đấng
Christ đối với các tín đồ của Ngài là hết sau khi Ngài đă thành lập các Bí
Pháp, hoặc chỉ hạn chế trong những lần xuất hiện hiếm hoi. Sự chăm sóc, bảo
hộ của Ngài lan rộng bao trùm cả toàn thể sự tiến hóa tinh thần của giống
dân thứ năm. Ngài đă giao phó vào đôi bàn tay mạnh mẽ của người đệ tử thánh
thiện ấy để chăm sóc Giáo Hội c̣n trong thời kỳ thơ ấu. Hoàn thiện sự tiến
hóa trong giai đoạn con người của ḿnh, Đức Jesus trở nên một trong những vị
Chân Sư Minh Triết và phụ trách đặc biệt về Cơ Đốc Giáo, luôn t́m cách hướng
dẫn Giáo Hội đi đúng đường lối, che chở,bảo vẹ và nuôi dưỡng Giáo Hội. Ngài
là Đại Tư Giáo (Hierophant) trong Huyền Môn Cơ Đốc, Vị Huấn Sư trực tiếp của
những người được Điểm Đạo. Ngài là nguồn cảm hứng giữ cho Minh Triết luôn
bùng cháy trong Giáo Hội. Ngài là sự hoạt động kiên nhẫn tăng sức mạnh cho
hết linh hồn này đến linh hồn khác bền công vượt qua tăm tối, nuôi nấng
trong ḷng họ một tia sáng của ḷng mong ước thần bí, một niềm khao khát t́m
kiếm vị Thượng Đế Ẩn Mật. Ngài là nguồn phát xuất vững bền chân lư vào tâm
trí nào sẵn sàng chấp nhận nó, để ngọn đuốc Minh Triết được truyền sang tay
qua nhiều thời đại và không bao giờ tắt. Ngài là người đứng bên kệ xưng tội
và trong ngọn lửa của giàn hỏa để khích lệ những người thú tội và người tử
đạo của Ngài, thoa dịu nỗi đau đớn của họ và truyền vào tâm họ niềm an lạc
của Ngài. Ngài là động lực vang rền trong tiếng sấm của Savonarola, hướng
dẫn sự hiểu biết an tịnh của Erasmus, gợi ư cho nền đạo đức thâm sâu của
Spinoza. Ngài là năng lượng thúc đẩy Roger Bacon, Galileo và Paracelcus
trong cuộc ḍ t́m vào thiên nhiên. Ngài là vẻ mỹ lệ quyến rũ Fra
Angelica,
Raphel và Leonardo da Vinci, gợi hứng cho thiên tài Michael Angelo, chiếu
sáng cho Murillo, và tạo nên sức mạnh xây
dựng
các công tŕnh tuyệt tác trên thế giới: Duomo ở Milan, San Marco ở Venice,
Cathedral ở Florence. Ngài là âm điệu du dương trong các tác phẩm của
Mozart, Beethoven, Handel, Bach, Brahm. Ngài là sự Hiện Diện cổ vơ các nhà
thần bí cô tịch, các nhà huyền bí t́m kiếm, các nhà tầm chân lư kiên nhẫn.
Suốt nhiều thế kỷ
mang trên vai, Ngài không bao giờ bỏ rơi một con tim nhân
loại nào cầu cứu Ngài giúp đỡ. Và bây giờ, Ngài đang cố gắng hướng dẫn làn
sóng Minh Triết vĩ đại đang tuôn xuống tạo tươi nhuận thế giới đem về làm
lợi ích cho bộ phận Cơ Đốc Giáo. Xuyên qua các Giáo Hội Ngài đang t́m kiếm
những người nào có tai biết nghe Minh Triết và muốn đáp ứng lời kêu gọi của
Ngài để làm sứ giả mang lời Ngài đến cho các tín đồ của ngài: “Con hiện diện
xin Ngài hăy sai con.”
CHƯƠNG 5
ĐẤNG CHRIST
TRONG THẦN THOẠI HỌC
Chúng ta đă thấy người ta sử dụng Thần Thoại để
chống lại Tôn Giáo và đôi khi công kích nguy hại đến Đấng Christ. Sự ra đời
của Ngài từ một Trinh Nữ vào lúc “Giáng Sinh”, sự giết hại các vật vô tội,
những công việc huyền diệu và những giáo lư của Ngài, sự chịu đóng đinh,
sống lại và thăng thiên của Ngài- tất cả những biến cố đó trong câu chuyện
về đời sống của Ngài đều được nêu ra trong những câu chuyện về các đời sống
khác, và v́ các điểm giống nhau ấy, họ bác bỏ sự hiện hữu của Ngài trong
lịch sử. Về các công việc Mầu Nhiệm, chúng ta có thể thông qua v́ hầu hết
các vị Đại Huấn Sư đều làm những công việc hồng trần có vẻ kỳ diệu trước
người thế gian, nhưng các nhà Huyền Bí Học đều biết rằng những công việc ấy
được thực hiện nhờ sử dụng các quyền năng mà tất cả người được Điểm Đạo trên
một cấp bậc nào đó đều có được. C̣n những giáo lư Ngài đưa ra cũng có thể bị
xem là không có ǵ đặc biệt, nhưng nơi nào mà phái Thần Thoại Đối Chiếu đă
chứng minh không có ǵ là cảm hứng thiêng liêng v́ những giáo lư đạo đức
tương tự như thế cũng phát xuất từ Đức Manu, Đức Phật, th́ nơi ấy nhà Huyền
Bí Học nói rằng chắc chắn
Đức Jesus hẳn phải lập lại giáo lư của các vị
tiền bối của Ngài v́ Ngài là một sứ giả của cùng một Đại Đoàn. Những chân lư
thâm sâu liên hệ đến Tinh Thần (Spirit) đều đúng thật hai chục ngàn năm
trước khi Đức Jesus sinh ra ở Palestine cũng như sau khi Ngài ra đời. Nói
rằng thế gian bị bỏ rơi không được dạy dỗ để con người bơ vơ trong sự tăm
tối tinh thần từ các thời kỳ khởi đầu cho đến hai mươi thế kỷ qua, nói như
thế tức là nói rằng có một nhân loại thiếu vị Huấn Sư, có những đứa trẻ
không cha, có những linh hồn kêu gào ánh sáng vào chỗ tối tăm mà không nhận
được hồi âm- một quan niệm vừa xúc phạm Thượng Đế vừa làm thất vọng con
người, một quan niệm trái ngược với sự xuất hiện của các Thánh Nhân, với nền
văn hóa rực rỡ, với những đời sống cao thượng trong hằng ngàn năm trước khi
Đấng Christ xuất hiện.
Vậy khi thừa nhận Đức Jesus là Vị Đại Huấn Sư
của Phương Tây, vị Sứ Giả lănh đạo của Phân Bộ thế giới Tây Phương, chúng
ta
phải đương đầu với sự khó khăn phá hoại điều tin tưởng này trong trí nhiều
người. Tại sao các lễ kỷ niệm các biến cố trong cuộc đời Đức Jesus lại được
t́m thấy trong các tôn giáo tiền-Cơ Đốc, và trong các tôn giáo này các lễ ấy
cũng tưởng niệm những biến cố đồng nhất với những biến cố trong cuộc đời của
các Vị Huấn Sư khác.
Thuyết Thần Thoại Đối Chiếu đă thu hút được sự
chú ư của quần chúng thời nay vào vấn đề này. Người ta có thể nói Thuyết này
được phát sinh khoảng một trăm năm nay, kể từ khi xuất hiện các quyển sách:
Lịch Sử Tóm Lược của những Sự Thờ Cúng khác nhau của Dulaure, Nguồn Gốc của
Các Sự Thờ Cúng của Dupuis, Vạn Thần Miếu Ấn Độ của Moor, và Anacalypsis của
Godfrey Higgin. Nhiều người khác nối tiếp công tŕnh này, bộ sưu tập và so
sánh của họ về các sự kiện càng ngày càng khoa học và vững chắc hơn đến đỗi
không ai có học thức mà bác bỏ được các điểm tương tự và giống nhau hiện hữu
trong mọi đường lối. Người ta đều biết rằng trong thế kỷ đầu tiên “sau
Christ” các điểm giống nhau đều được mọi người thừa nhận và thuyết Thần
Thoại Đối Chiếu chỉ lập lại chính xác những ǵ được mọi người thừa nhận
trong Giáo Hội Đầu Tiên. Justin Martyr phản đối phái Thần Thoại, và nếu có
ai công kích Cơ Đốc Giáo về các trường hợp giáo lư này đồng nhất với những
giáo lư của các tôn giáo xưa, th́ ông sẽ nêu ra những lời hướng dẫn của
những người bảo vệ sống vào thế kỷ thứ hai. Những người này đă trích các
giáo lư, chuyện tích và biểu tượng của phái Vô Thần, cho rằng chính sự giống
nhau giữa giáo lư Cơ Đốc và các giáo lư xưa đă ngăn cản người ta loại bỏ
ngay các giáo lư xưa v́ chúng khó tin được. Thật vậy, họ đă gán cho sự đồng
nhất ấy một lư do kỳ dị, một lư do khó được người thời nay ủng hộ. Justin
Martyr nói: “Những người lưu truyền các chuyện thần thoại do các thi sĩ sáng
tác không trưng dẫn được chứng cớ cho các lớp trẻ học hỏi chúng. Chúng ta
chứng tỏ rằng các chuyện ấy do ma quỷ khiến đặt ra để đánh lừa nhân loại.
Sau khi nghe các tiên tri tuyên bố rằng Christ sẽ đến và những ai không
thánh thiện sẽ bị phạt hỏa ngục, họ bèn dựng lên nhiều nhân vật được gọi là
con của Thần Jupiter để tạo cho con người có quan niệm rằng những điều nói
về Đấng Christ chỉ là những chuyện tích lư thú, giống như các tiên tri đă
nói”.
Để giải quyết sự khó khăn do các điều trùng hợp
này, chúng ta phải nghiên cứu Đấng Christ trong Thần Thoại Học- Đấng Christ
của những chuyện thần thoại về Thái Dương, những chuyện thần thoại này là
những chuyện bằng tranh diễn tả vài chân lư thâm sâu nào đó cho thế gian.
Vậy th́ chuyện “thần thoại” không có nghĩa như
nhiều người cho là một câu chuyện hoang đường được dựng nên từ một sự kiện,
hay cả đến không căn cứ trên sự kiện nào cả. Chuyện thần thoại có tính xác
thật hơn lịch sử v́ lịch sử chỉ cho ta một câu chuyện của các h́nh bóng, c̣n
chuyện thần thoại đưa ra câu chuyện của các nguyên thể tạo nên các h́nh bóng
ấy. Ở trên sao, ở dưới vậy; và trước tiên là ở trên, sau đó
mới đến ở dưới.
Có vài nguyên lư vĩ đại và hệ thống thái dương
của chúng ta được thành lập theo các nguyên lư ấy. Có vài quy luật nhờ đó
các nguyên lư này được thể hiện ra chi tiết. Có vài Nhân Vật (Beings) mà
hiện thân Ngài là các nguyên lư và các hoạt động của Ngài là các quy luật.
Có những đại đoàn các nhân vật thấp hơn hành động như là vận cụ cho các hoạt
động ấy, có những Chân Nhân của con người ḥa lẫn vào tất cả các nhân vật
trên, cùng tham dự vào bản kịch vĩ đại của vũ trụ. Những người làm việc đa
dạng này từ trên các cơi giới vô h́nh đă cấu tạo những h́nh bóng của họ
xuống cơi hồng trần và những h́nh bóng ấy là những “vật thể”, các thân thể,
các vật hữu h́nh tạo nên vũ trụ vật chất. Các h́nh bóng ấy chỉ cho ta một ư
niệm nghèo nàn về các nguyên thể đă in bóng nên chúng, cũng giống như nơi
trái đất này chúng ta gọi “bóng” chỉ là một h́nh đen đặc không chi tiết bên
trong, chỉ có đường nét bên ngoài, chỉ có bề ngang và bề rộng mà không có
chiều sâu.
Lịch sử chỉ là một bản tường tŕnh rất bất toàn
và méo mó của màn vũ của những h́nh bóng này trong thế-giới-h́nh-bóng của
vật chất. Ai đă xem h́nh chiếu bóng(Shadow-Play) và so sánh những vật hoạt
động sau màn ảnh với chính bóng của nó trên màn ảnh th́ sẽ có một ư niệm
sống động về tính ảo ảnh của các hoạt động của bóng và có thể rút ra được
nhiều điều tương tự đúng đắn.
Chuyện thần thoại là bản tường tŕnh các hoạt
động của những người đă tạo nên bóng, và ngôn ngữ trong bản tường tŕnh là
biểu tượng. Giống như ở đây, chúng ta có chữ để nói lên đồ vật; thí dụ như
chữ “bàn” là một biểu tượng, một kư hiệu để chỉ một món đồ được nhận biết
thuộc một loại nào đó. Như thế, những biểu tượng tượng tượng trưng cho những
sự vật trên những cơi cao hơn. Chúng lá các mẫu tự có h́nh ảnh được các nhà
viết chuyện thần thoại dùng và mỗi mẫu tự có một ư nghĩa riêng được thừa
nhận.
Một biểu tượng được dùng để chỉ định một vật
nào đó cũng như những chữ được dùng nơi đây để phân biệt một vật này với một
vật khác. Như thế muốn đọc chuyện thần thoại, cần phải biết biểu tượng. V́
những người nguyên thủy kể các chuyện thần thoại vĩ đại đều măi là những
người được Điểm Đạo, họ quen dùng ngôn ngữ biểu tượng và hẳn nhiên họ dùng
những biểu tượng ấy theo các ư nghĩa nhất định và đă được chấp nhận.
Một biểu tượng có một ư nghĩa chánh và kế đó là
những ư nghĩa phụ thuộc liên quan. Thí dụ Mặt Trời là biểu tượng của Thượng
Đế, đó là ư nghĩa chánh yếu, đầu tiên. Nhưng nó cũng có nghĩa một sự giáng
sinh, một hóa thân của Thượng Đế, hoặc bất cứ một trong các Sứ Giả đại diện
cho Ngài bấy giờ, một đại sứ đại diện cho một Quốc Vương. Những người được
Điểm Đạo cao cấp nhận nhiệm vụ đặc biệt được phái đi nhập thế giữa thế gian
và sống với họ một thời gian với tư cách là một người Cầm Quyền hay một Vị
Huấn Sư cũng được mang biểu tượng Mặt Trời. V́ thế một biểu tượng không có ư
nghĩa cá nhân, nó có ư nghĩa là tư cách của chức vụ.
Tất cả những người được mệnh danh dưới biểu
tượng này đều có các đặc tính nào đó, đă trải qua các trạng huống nào đó,
thực hiện các hoạt động nào đó trong đời sống của họ trên trái đất. Mặt Trời
là cái bóng vật chất hay- như được gọi- là thể xác của Thượng Đế do đó mà
ṿng hành tŕnh hằng năm trong thiên nhiên của mặt trời phản ánh một phần
nào sự hoạt động của Ngài. Thượng Đế, “Người con của Thượng Đế”, nhập vào
vật chất và tạo nên chuyển động hằng năm của Mặt Trời như bóng của ḿnh. Lại
cũng do đó mà một hóa thân của Thượng Đế hay một trong những Sứ Giả của Ngài
cũng tượng trưng sự hoạt động đó là một hóa thân của Thượng Đế hay một trong
những Sứ Giả của Ngài cũng tượng trưng sự hoạt động đó trong thể xác của
Ngài. V́ thế mà tất nhiên những lịch sử về đời sống của các vị Sứ Giả ấy
phải giống nhau. Thật vậy, nếu một nhân vật thiếu đi các điểm tương đồng ấy,
điều này có nghĩa là y không phải là một Sứ Giả toàn quyền và sứ mạng của y
thuộc cấp thấp hơn.
Vậy th́ Thần Thoại Mặt Trời là một câu chuyện
trước tiên tượng trưng cho sự hoạt động của Thượng Đế trong vũ trụ, thứ hai
là áp dụng cho kiếp sống của một kỳ hóa thân của Thượng Đế và một vị Sứ Giả
của Ngài. Người Anh Hùng trong chuyện thường được tŕnh bày như một Thượng
Đế hoặc Bán-Thượng Đế (Demi-God), và đời sống của y được phác họa theo hành
tŕnh của Mặt Trời, như cái bóng của Thượng Đế. Khoảng thời gian sống trong
đời người rơi vào trong khoảng hành tŕnh giữa đông chí và the reaching of
the Zenith in Summer Người Anh Hùng sinh ra lúc đông chí, chết lúc xuân
phân, và chiến thắng cái chết để lên cơi trời.
Liên hệ với vấn đề này có các điểm ghi chú sau
đây rất lư thú: “Alfred de Vigny có nói rằng chuyện thần thoại thường chân
thật hơn lịch sử v́ nó kể lại chính cái thiên tài của những người và những
quốc gia vĩ đại chớ không phải những hành động bất toàn và hư hỏng. Vậy rất
nên áp dụng tư tưởng đẹp này cho Thánh Kinh v́ Thánh Kinh không phải chỉ
thuật lại những điều đă xảy ra mà nó c̣n tường thuật một cách cao siêu những
ǵ đă và luôn luôn sẽ là. Vị Cứu Thế sẽ luôn được bậc hiền giả cảm phục;
Ngài sẽ luôn gia tăng bánh Thánh Thể để nuôi dưỡng và khích lệ linh hồn
chúng ta; khi chúng ta khẩn cầu Ngài trong đêm tăm tối và trong cơn băo
bùng, bao giờ Ngài cũng đi trên mặt nước đến với chúng ta, bao giờ Ngài cũng
đưa tay ra và giúp chúng ta vượt qua đỉnh các ngọn sóng to; Ngài luôn luôn
chữa trị bịnh hoạn và khiến đôi mắt chúng ta thấy ánh sáng (Eliphas Lévis.
The Mysteries of Magic).
Chúng ta sẽ thấy rằng những chuyện thần thoại
liên quan rất mật thiết đến Huyền Môn, v́ một phần của Huyền Môn nhằm đưa ra
những h́nh ảnh sống động của các việc xảy ra trong các cơi cao siêu ẩn trong
các chuyện thần thoại.
Những nét đại cương về câu chuyện của Thái
Dương Thượng Đế (Sun God) rất rơ ràng, một đời sống đầy biến cố của Ngài
được trải dài trong khoảng sáu tháng đầu tiên của năm dương lịch, c̣n sáu
tháng kia dùng để bảo tồn và dự trữ. Ngài luôn luôn sinh vào đông chí, sau
ngày ngắn nhất trong năm, vào giữa đêm của ngày 24 tháng 12 khi cḥm sao Xử
Nữ đang lên cao trên chân Trời. Sinh ra lúc dấu hiệu này đang lên cao, Ngài
luôn luôn sinh từ một Trinh nữ, và nàng vẫn là Trinh nữ sau khi nàng sinh ra
Con Thái Dương (Sun Child), v́ Xử nữ trên trời luôn không thay đổi và luôn
Tinh Khiết khi Thái Dương ra khỏi nàng. Yếu đuối như một đứa bé và được sinh
vào lúc ngày ngắn nhất và đêm dài nhất (ở bắc xích đạo) tuổi thơ Ngài dẫy
đầy nguy hiểm và sự tăm tối đă thống trị tronh những ngày đầu tiên. Nhưng
Ngài đă vượt qua tất cả những nỗi hiểm nguy đe dọa, rồi ngày dài ra dần đến
xuân phân, rồi đến kỳ vượt qua, sự đóng đinh vào thánh giá, ngày này thay
đổi theo mỗi năm. Đôi khi người ta t́m thấy h́nh Thái Dương Thượng Đế được
khắc trong ṿng tṛn của đường chân trời đầu và chân tiếp xúc với ṿng tṛn
ở phương bắc và phương nam, c̣n hai tay dang ra phương đông và phương
tây-“Ngài bị đóng đinh trên thập tự”. Sau đó Ngài thăng thiên vinh hiển tiến
vào cơi trời, và làm chín ngũ cốc và nho, tặng chính sự sống của ḿnh cho
cây trái để chúng tăng trưởng và tặng cho tín đồ qua các cây trái ấy. Vị
thượng Đế được sinh ra vào đầu ngày 25 tháng 12, bao giờ cũng thọ nạn vào
thời xuân phân và tặng sự sống của Ngài làm thực phẩm cho tín đồ- đây là các
điểm trong những điểm đáng chú ư nổi bật nhất về Thái Dương Thượng Đế. Tánh
cách cố định của ngày sinh và tính cách thay đổi ngày cái chết rất có ư
nghĩa v́ chúng ta nhớ rằng mặt trời ở một vị trí cố định vào thời điểm trước
và một vị trí thay đổi vào thời điểm sau. “Lễ Phục Sinh” là một biến cố lưu
động được tính theo những vị trí tương đối giữa mặt trời và mặt trăng. Các
ngày thay đổi này không áp dụng cho lịch sử một người, mà áp dụng cho vị Anh
Hùng của chuyện thần thoại mặt trời.
Những biến cố này xảy ra trong những cuộc đời
của các Vị Thái Dương Thượng Đế khác nhau và thời thượng cổ dẫy đầy những
minh họa về họ. Nữ Thần Isis của Ai Cập cũng như Đức Mary ở Bethlehem là Đức
Bà Vô Nhiễm, Ngôi Sao của Biển, Nữ Hoàng của Cơi Trời, Mẹ của Thượng
Đế.Chúng ta thấy những h́nh ảnh Bà đang đứng trên vầng trăng khuyết, có ngôi
sao kết ṿng quanh trên đầu Bà, hoặc Bà đang bồng đứa bé Horus với dấu thập
tự hiện ra phía sau. Trong các bức họa xưa, cḥm sao Xử nữ trong Hoàng Đạo
được tượng trung một người đàn bà đang cho con bú. Đevaki cũng được vẽ với
Đức Krishna trong tay Bà, Istar của Babylon cũng có ṿng ngôi sao trên đầu
và đứa trẻ Tammuz trên gối Bà.
Mối liên hệ giữa Đông Chí với Đức Jesus cũng
rất có ư nghĩa. Sự chào đời của Mithras được cử hành vào lúc Đông Chí rất
tưng bừng. Horus cũng được sinh ra lúc đó: “Sự ra đời của Ngài là một trong
những điều mầu nhiệm nhất của tôn giáo Ai Cập. Những h́nh ảnh ấy được treo
trên các bức tường của các đền thờ. Vào lễ Giáng Sinh, hoặc lễ tương ứng với
lễ Giáng Sinh của chúng ta, h́nh ảnh của Ngài được đem ra khỏi chánh điện
với những nghi lễ đặc biệt, cũng giống như h́nh ảnh của trẻ thơ Bambino vẫn
c̣n được mang ra và trưng bày ở La Mă.” (Bonwick: Tín Ngưỡng Ai Cập, trích
từ Bộ Luật Lớn- Great Law của Williamson)
Về việc quyết định ngày 25 tháng 12 là ngày
Giáng Sinh của Đức Jesus, Williamson viết như sau: Tất cả người Cơ Đốc đều
biết rằng ngày nay ngày 25 tháng 12 là ngày lễ được thừa nhận
(recognized) làm ngày sinh của Đức Jesus, nhưng ít người biết rằng không
phải lúc nào cũng thế. Người ta nói có 136 ngày khác nhau do các giáo phái
Cơ Đốc khác nhau ấn định. Phái Lighfoot chon ngày 15 tháng 9, c̣n những phái
khác vào tháng 2 hoặc tháng 8. Epiphanius nói đến hai phái, một chọn tháng 4
và một chon tháng 6. Cuối cùng, vấn đề được Giáo Hoàng Julius I quyết định
vào năm 337 sau T.C, và St.Chrysostom viết vào năm 390 sau T.C. Sau đó, ở La
Mă, ngày sinh của Đấng Christ cũng được ấn định vào ngày 25 tháng 12, để
trong khi những người tà giáo bận rộn với những nghi lễ của họ (Lễ Brumalia,
ca ngợi Bacchus) th́ người Cơ Đốc Giáo có thể hành lễ của ḿnh mà không bị
quấy rầy.
Trong
tác phẩm: Sự Suy Đồi và Sụp Đổ của Đế Quốc La Mă, Gibbon : “Những người Cơ
Đốc La Mă cũng không biết rơ ngày sinh của Ngài như các huynh đệ của họ, nên
đă ấn định Lễ long trọng ấy vào ngày 25 tháng 12, Lễ Brumalia hay là Đông
Chí, khi các người tà giáo (Pagan) cử hành hằng năm ngày sinh cùa Thái
Dương. Trong quyển Triết Học Thần Bí và Những Di Cảo (Gnostics and Their
Romains) King cũng nói: “cuộc lễ xưa diễn ra vào ngày 25/12 để mừng ngày
sinh của Đấng Bất Khuất và được cử hành bằng các tṛ chơi lớn tại các Hư
Trường sau đó biến thành lễ kỷ niệm ngày sinh của Đấng Christ. Rất nhiều Cha
Cơ Đốc vẫn không biết chính xác ngày tháng ấy, và hiện nay Thầy Ḍng Farrar
viết rằng: “Mọi toan tính cố gắng khám phá ngày tháng ấy đếu vô hiệu. Không
có dữ kiện hiện hữu nào cho phép ta xác định nó dù với một sự chính xác gần
đúng đi nữa. Ngay từ đầu rơ ràng cuộc lễ lớn vào lúc Đông Chí này đă được cử
hành trong nhiều thời đại trước và tại nhiều xứ cách nhau rất xa, để mừng
ngày sinh của một vị Thượng Đế; hầu như lúc nào người ta cũng xem Ngài như
một vị Cứu Thế và mẹ Ngài như một Thánh Đồng Trinh tinh khiết. Sự giống nhau
kỳ lạ không những về ngày sinh mà c̣n về đời sống của nhiều vị Thượng Đế Cứu
Thế (Saviour-Gods), những trường hợp giống nhau này nhiều đến nỗi ta không
thể cho là trùng hợp được.” (Bộ Luật Lớn, Williamson).
Trong trường hợp Đức Phật Buddha, chúng ta có
thể thấy một chuyện thần thoại tự liên kết với một nhân vật lịch sử như thế
nào. Mọi người đều biết rơ lịch sử kiếp sống của Ngài, và trong những câu
chuyện thường kể ở Ấn Độ th́ sự ra đời của Ngài đơn giản và giống thế nhân.
Nhưng chuyện Trung Hoa kể lại Ngài được sinh từ một nàng Trinh Nữ. Màyàdevi,
chuyện thần thoại tối cổ nh́n thấy nơi Ngài một vị Anh Hùng mới.
Williamson cũng kể cho chúng ta nghe rằng từ
trước đến giờ, vào ngày 25 tháng 12, các dân tộc Keltic thắp lửa trên những
ngọn đồi. Điều này cũng xảy ra giữa những người thượng du vùng Irish và
Scotch như Bheil và Baaltine, những ngọn lửa ấy mang tên Bel, Bal- Vị thần
cổ của họ, Thái Dương Thượng Đế, mặc dầu ngày nay người ta thắp lửa để vinh
danh Thượng Đế.
Ngày tử, như đă nói ở trên, không phải là một
ngày cố định. Nó được tính toán theo các vị tử tương đối giữa Mặt Trời và
Mặt Trăng vào kỳ xuân phân và thay đổi theo từng năm. Ngày tử của mỗi vị Anh
Hùng Thái Dương được cử hành theo sự liên hệ trên. Con thú biểu tượng cho vị
Anh Hùng là dấu hiệu trên Hoàng Đạo nơi đó Mặt Trời ở vào kỳ xuân phân vào
thời đại của Ngài, và điều này thay đổi theo độ tuế sai. Oanne ở Assyria
thuộc cung Song Ngư, Mithras thuộc cung Kim Ngưu và v́ thế cưỡi con Ḅ Mộng.
Khi Thái Dương ở Cung Bạch Dương, hay Chiên th́ chúng ta lại thấy Osiris
thuộc Bạch Dương, Astarte và Jupiter Ammon cũng thế, và dấu hiệu thú này
cũng trở thành biểu tượng của Đức Jesus- Chiên của Chúa Trời. Việc dùng con
Chiên thường đứng dựa vào thập tự- làm biểu tượng của Ngài rất phổ thông
trong các bức tượng khắc trong các phần mộ. Về việc này, Williamson nói:
“Theo ḍng thời gian, h́nh ảnh con Chiên được đặt trên thập tự giá. Nhưng
cho đến kỳ hội nghị thứ sáu ở Constantinople (Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ) vào năm
680, hội nghị ra lệnh phải đặt h́nh ảnh một người đóng đinh vào thập
tự giá, thay thế cho biểu tượng cũ. Điều luật này được Giáo Hoàng Adrian I
xác
nhận”.
Sự tử và sự sống lại của vị Anh Hùng vào khoảng
xuân phân cũng rất phổ thông như sự ra đời của Ngài vào kỳ Đông Chí. Osiris
bị Typhon giết và Ngài được vẽ trên ṿng tṛn chân trời với hai tay dang ra
giống như bị đóng đinh- nguyên thủy đó là một tư thế giáng phước chứ không
phải tư thế đau khổ. Cái chết của Tammuz được dân tỏ ḷng thương tiếc hằng
năm vào kỳ xuân phân ở Babilonia và Syria, cũng như Adonis ở Syria và Hy
lạp, và Attis ở Phrygia, dưới h́nh ảnh “một người có cột con cừu dưới
chân”(Williamson) ngày chết của Mithras cũng được cử hành tương tự ở Ba Tư,
của Bacchus(Dionysius) ở Hy Lạp- Tại xứ Mexico, cũng có quan niệm tương tự,
kèm thêm thập tự giá.
Trong mọi trường hợp, nỗi đau khổ v́ sự tử được
nối tiếp ngay sau đó là sự vui sướng do sự sống lại, có một điều lưu ư lư
thú là danh từ Phục Sinh(Easter) được truy tận nguồn từ chuyện người mẹ đồng
trinh Ishtar của Tammuz.
Trong Huyền Môn Giả (Pseudo- Mysteries), câu
chuyện về Thái Dương Thượng Đế trở thành một vở kịch; và trong các Huyền Môn
cổ, câu chuyện ấy do một người được Điểm Đạo đóng. V́ thế mà các chuyện thần
thoại về Thái Dương và các sự kiện lớn lao của sự Điểm Đạo dệt lẫn lộn với
nhau. Khi Vị Huấn Sư Christ trở thành Đấng Christ của Huyền Môn th́ những
chuyện tích về các vị Anh Hùng xưa của những Huyền Môn ấy tụ tập lại quanh
Ngài và những câu chuyện lại được kể lại với vị Huấn Sư Thánh Thiện cuối
cùng được xem như là người đại diện cho Thượng Đế. Và lễ mừng Giáng Sinh của
Ngài trở thành ngày kỷ niệm khi Thái Dương sinh ra từ người Trinh Nữ, khi
bầu trời nửa đêm đầy tiếng reo mừng của những người cơi trời.
V́ chuyện tích về Thái Dương quy tụ quanh Ngài
nên dấu hiệu con Chiên trở thành dấu hiệu của sự khổ h́nh của Ngài cũng như
dấu hiệu Xử Nữ trở thành dấu hiệu của sự sinh của Ngài. Chúng ta đă thấy dấu
hiệu Kim Ngưu được dâng cho Mithras và Song Ngư cho Oannes và Chiên cho Đấng
Christ, đó là dấu hiệu của xuân phân; vào thời điểm lịch sử đó, Ngài vượt
qua ṿng tṛn lớn của chân trời và bị “đóng trên thập tự trong không gian”.
Những chuyện thần thoại về Thái Dương này cứ
măi tái lai xuyên qua nhiều thời đại, mỗi lần vị Anh Hùng mang một tên khác.
Các học giả không thể nào không biết được điều này mặc dầu các tín đồ tự
nhiên- và có quyền- không biết đến. Và khi người ta dùng các chuyện thần
thoại ấy để phá hoại h́nh ảnh oai nghi của Đấng Christ, th́ chúng ta phải
xem xét chúng không phải bằng cách phủ nhận các sự kiện thực tế, mà bằng sự
hiểu biết các nghĩa sâu xa hơn của các câu chuyện, các chân lư tinh thần ẩn
sau lớp màn che.
Tại sao những chuyện thần thoại này lại trộn
lẫn với lịch sử của Đức Jesus và kết tinh quanh Ngài là một nhân vật lịch sử.
Thật sự, chúng không nói về một cá nhân đặc biệt có tên là Jesus, mà nói đến
Đấng Christ đại đồng: một Người biểu tượng cho một Nhân Vật Thiêng Liêng và
Người ấy tŕnh bày một chân lư trong thiên nhiên; một Người đă làm tṛn một
sứ mạng nào đó và đă giữ một vị trí đặc biệt nào đó đối với nhân loại, một
Người đứng hướng về phía nhân loại với một tương quan đặc biệt; Người được
đổi tươi mới thời đại này sang thời đại khác khi thế hệ này nối tiếp thế hệ
khác và giống dân này nhường chỗ cho giống dân khác. Như thế Người đă là-
cũng như tất cả những Người như thế là- “Con Của Người” (Son of Man), một
danh hiệu minh bạch và đặc biệt, danh hiệu của một nhiệm vụ chớ không phải
của một cá nhân. Đấng Christ trong Thần Thoại Thái Dương là Đấng Christ
trong Huyền Môn, và chúng ta t́m thấy sự bí ẩn của Đấng Christ thần thoại
trong Đấng Christ thần bí vậy.
CHƯƠNG 6
Bây giờ chúng ta tiến đến một phía cạnh thâm
sâu hơn về câu chuyện của Đấng Christ, đề cập đến một sự sống triền miên nó
đầy sự chói sáng đến đỗi những tâm hồn con người vây lấy quanh đấng Christ,
và cảm thấy họ sẵn sàng loại bỏ những sự kiện lịch sử bên ngoài hơn là từ
chối một điều mà do trực giác họ cảm biết đó là một chân lư quan trọng, một
nhân lư thiết yếu của đời sống cao cả hơn. Chúng ta vượt gần đến cánh cổng
thiêng liêng của Huyền Môn và vén một góc màn che chánh điện.
Ngược về thời thượng cổ, chúng ta đă thấy mọi
nơi đều thừa nhận sự hiện hữu của một giáo lư ẩn mật, nó chỉ được các Chân
Sư Minh Triết truyền cho các đệ tử đă được chấp nhận và trong những điều
kiện rơ ràng và nghiêm nhặt. Các thí sinh ấy được Điểm Đạo vào “Huyền Môn”
một danh từ thời thượng cổ bao trùm tất cả những ǵ thiêng liêng nhất trong
tôn giáo, tất cả những ǵ thâm sâu nhất trong triết lư, tất cả những ǵ quư
giá nhất trong khoa học. Mỗi vị Đại Giáo Chủ đều phải tiến qua Huyền Môn và
những vị cao cả nhất là những Đại Tư Giáo của Huyền Môn; các vị giáng trần
để nói về các cơi vô h́nh, đều đă bước qua cửa Điểm Đạo và đă học lẽ mầu
nhiệm do những Vị Thánh Thiện từ chính miệng của Ngài,
họ đều ra đi với cùng một câu chuyện như nhau,
và các chuyện thần thoại về Thái Dương đều là các cách diễn tả câu chuyện
này, đồng nhất về những đặc tính cốt yếu và chỉ thay đổi theo mầu sắc mỗi
nơi.
Câu chuyện này thoạt đầu là câu chuyện nói về
Đức Thượng Đế (Logos) giáng nhập vào vật chất, và Thái Dương Thượng Đế
(Sun-God) là biểu tượng thích ứng của Ngài v́ Mặt Trời là thân thể của Ngài
và Ngài thường được miêu tả như “Ngài cư ngụ trong Mặt Trời”. Theo một
phương diện th́ Đấng Christ của Huyền Môn là Đấng Thượng Đế giáng nhập vào
vật chất, và Thần Thoại Thái Dương là lời dạy phổ thông về chân lư cao cả
này. Như trong trường hợp trước, Vị Giào Chủ Thiêng Liêng đă đem Minh Triết
Ngh́n Xưa phổ truyền lại cho thế gian,
được nhân loại quan niệm như một sự biểu lộ đặc
biệt của Thượng Đế, và Đức Jesus của các Giáo Hội dần được bao quanh với
những câu chuyện nói về vị Cao Cả này. Như thế, theo ngôn từ Cơ Đốc, Ngài
trở nên Ngôi thứ Hai trong Tam Nguyên- The Logos hay Ngôi Lời của Thượng Đế
(Word of God) và những biến cố nổi bật trong chuyện thần thoại về Thái Dương
Thượng Đế trở thành những biến cố nổi bật trong câu chuyện của Đức Jesus,
được xem như một vị Thần hóa thân (Incarnate Deity), Đấng “Christ thần thoại”.
V́ trong Đại Vũ Trụ (càn khôn), đấng Christ của Huyền Môn tượng trưng cho
Thượng Đế, Ngôi Hai trong Tam Nguyên, nên trong Tiểu Vũ Trụ (con người) Ngài
biểu thị cho trạng thái thứ hai tinh thần Thiêng Liêng (Divine Spirit) trong
con người. Vậy phương diện thứ hai của Đấng Christ trong Huyền Môn là đời
sống của người được Điểm Đạo, một đời sống bắt đầu vào kỳ Điểm Đạo lần thứ
nhất, vào lúc này, Đấng Christ được sinh ra trong con người và sau đó
Ngài phát triển trong con người. Để hiểu rơ điều này, chúng ta phải xem xét
những điều kiện đặt để cho các thí sinh để được Điểm Đạo và bản chất của
Tinh Thần (spirit) trong con người.
Chỉ những người nào đă thật tốt đẹp theo những
phương cách khắc khe của quy luật mới được thừa nhận làm thí sinh cho kỳ
Điểm Đạo. Tinh khiết, thánh thiện, không bợn nhơ, không tội lỗi. Đó là vài
đức tính trong số những đức tính cần có. Họ cũng phải thông minh và có một
cái trí đă phát triển và được huấn luyện đúng đắn. Bền gan tiến hóa hết kiếp
này đến kiếp khác ở thế gian, phát triển và làm chủ những quyền năng của tư
tưởng, t́nh cảm và lương tri, học hỏi xuyên qua các tôn giáo công truyền,
chu toàn những bổn phận, t́m cách giúp đỡ và nâng cao những người khác- tất
cả những điều này đều tùy thuộc vào đời sống thông thường của một người đang
tiến hóa. Khi đă làm xong các điều này, y trở thành “một người tốt đẹp”. Sau
khi đă hoàn tất cuộc sống công truyền một cách tốt đẹp, y trở nên một thí
sinh trong đời sống nội môn và bắt đầu chuẩn bị cho sự Điểm Đạo, y phải làm
tṛn vài điều kiện nào đó.
Những điều kiện này nêu ra các đức tính mà y
phải hoạch đắc, và trong khi y đang cố gắng tập luyện chúng, y bước trên con
đường Tập Sự, con đường dẫn y lên đến cái “Cổng hẹp”, và sau đó là “Ngơ
chật” hay “Con Đường Thánh Thiện”, “Con đường của Thập Tự”. Người ta không
mong ước y phát triển toàn hảo những đức tính ấy, nhưng y phải thực hiện
được vài sự tiến bộ trong tất cả các đức tính ấy, trước khi Christ có thể
sinh ra trong y. Y phải chuẩn bị một ngôi nhà tinh khiết cho Hài Nhi Thiêng
Liêng phát triển trong y.
Những đức tính ấy đều thuộc về lư trí và đạo
đức. Đức tính đầu tiên là Sự Phân Biện. Nó có nghĩa là người chí
nguyện phải bắt đầu phân tách trong trí y điều Vĩnh Cửu với điều Tạm Thời,
điều Chân với điều Giả, điều Cơi Trời với điều Cơi Trần. Vị Tông Đồ nói:
“những điều thấy được chỉ là tạm thời, c̣n điều không thấy mới là trường cửu”(II
cor 4:13). Thế nhân luôn sống trong sự mê hoặc của điều hữu h́nh, nó che lấp
điều vô h́nh. Người chí nguyện phải tập cách phân biệt chúng để cho điều giả
đối với thế giới có thể trở nên chân thật với y, c̣n điều chân thật đối với
thế giới lại là giả với y, v́ chỉ thế ấy y mới có thể” bước đi bởi đức tin,
chớ chẳng phải mắt thấy”.(II cor.5:7). Và cũng thế ấy mà một người trở thành
một trong những người mà Vị Tông Đồ nói rằng họ là “kẻ trưởng thành, cả đến
những người nhờ sự hay sử dụng mà luyện tập những quan năng của ḿnh để phân
biệt thiện ác”.(Heb. 5:14). Sau đó cái ư thức về sự giả phát sinh trong y sự
Ghê Tởm những ǵ không thật và phù du, những lớp vỏ của sự sống, không đủ
làm thỏa ư người đang khát khao. Giai đoạn này được diễn tả trong câu nói
quả quyết của Đức Jesus “Nếu ai đến cùng Ta mà không ghét cha mẹ, vợ con,
anh em, chị em ḿnh, và chính mạng sống ḿnh nữa, th́ không thể làm môn đồ
Ta”.(S.Luke 15:16). Quả thật là một câu bí hiểm. Tuy nhiên từ ḷng ghét đó
lại nổi vọt lên một t́nh thương sâu xa hơn và chân thật hơn- và người ta
không thể tránh được giai đoạn này trên con đường dẫn đến Cổng Hẹp. Sau đó
người chí nguyện phải tập Kiểm Soát Tư Tưởng và điều này sẽ dẫn đến
Kiểm Soát Hành Động. Đối với nhăn quang nội tâm th́ tư tưởng cũng chính
là hành động: “Hễ ai ngó đàn bà mà động ḷng gian dâm th́ trong ḷng đă phạm
tội gian dâm cùng người đó rồi” (S. Matt 5:28).Y cũng phải đạt tính Bền
chí v́ những ai nguyện đi “Con Đường Thập Tự” sẽ phải chịu đựng những
nỗi đau khổ lâu dài và cay đắng, họ phải kiên nhẫn “như thấy Đấng không thấy
được”.(Heb. 11:27) Y phải có thêm Ḷng Khoan Dung. Nếu y muốn làm con
trẻ của Ngài “bởi v́ Ngài Khiến cho mặt trời soi trên kẻ ác cùng người
thiện, mưa cho kẻ công nghĩa cùng kẻ bất nghĩa”, Ngài đă bảo “những tông đồ
của Ngài không được cấm một người nhân danh Ngài v́ người đó không theo với
họ”(S.Luke 9:49-50). Hơn nữa, y phải có Đức Tin rằng không điều ǵ mà
không làm được (S.Matt 17:20) và tính Thăng Bằng như vị Tông Đồ đă
miêu tả (IICor 6:8-10). Cuối cùng y phải t́m “những sự ở trên”(Col 3:1) và
mong mỏi đạt đến trạng thái chí phúc của sự thấy được và hợp nhất được với
Thượng Đế (S.Matt 5:8 và S.John 17:21). Khi một người đă biến những đức tính
ấy thành bản tính của y, th́ y được xem như thích ứng để được Điểm Đạo, và
những Vị Canh Gác Huyền Môn sẽ mở Cổng Hẹp cho y. Như thế, và chỉ như thế, y
mới trở thành một thí sinh đă được chuẩn bị.
Bây giờ, Tinh Thần trong con người là tặng phẩm
của Thượng Đế Tối Cao, nó có ba trạng thái của Sự Sống Thiêng Liêng-Minh
Triết, T́nh Thương và ư chí- H́nh Ảnh của Đức Thượng Đế. Khi tiến hóa, trước
tiên nó phát triển trạng thái Minh Triết, phát triển trí khôn; sự tiến hóa
này đang được tác động trong đời sống thông thường của thế gian. Khi người
chí nguyện đă thực hiện trạng thái này đến một tŕnh độ cao, kèm theo sự
phát triển đạo đức, th́ y có điều kiện làm thí sinh. Trạng thái thứ hai của
Tinh Thần là T́nh Thương, và sự tiến hóa của trạng thái này là sự tiến hóa
của Christ. Sự tiến hóa này diễn ra trong Huyền Môn chân chánh- đời sống của
người đệ tử là một Bản Kịch Huyền Bí và những Kỳ Đại Điểm Đạo sẽ đánh dấu
các giai đoạn của nó. Và nếu Huyền Môn được cử hành ở cơi vật chất, th́
những giai đoạn này thường được tŕnh bày như một vở kịch và những nghi lễ
diễn lại các “khuôn mẫu” đă được diễn ra”trên Núi” bởi v́ chúng là các h́nh
bóng trong một thời đại đang suy tàn của những Thực Tại hùng cường trong thế
giới tinh thần.
Vậy th́ Đấng Christ Thần Bí có hai phương diện:
Thượng Đế Ngôi Hai của Tam Nguyên nhập ḿnh vào vật chất, và T́nh Thương hay
là trạng thái thứ hai của sự khai mở tinh thần thiêng liêng trong con người.
Phương diện đầu tượng trưng cho các tiến tŕnh trong vũ trụ đă thực hiện
trong quá khứ và là nguồn gốc của Thần Thoại Thái Dương; phương diện sau
tượng trưng cho một tiến tŕnh thực hiện trong từng cá nhân, giai đoạn kết
thúc trên con đường tiến hóa nhân loại của y, và phụ thêm nhiều chi tiết
trong Thần Thoại. Cả hai phương diện này đều có trong câu chuyện của Thánh
Kinh, và hợp thành H́nh Ảnh của “Đấng Christ Thần Bí”.
Khởi đầu chúng ta hăy khảo sát ư nghĩa Christ
trong vũ trụ, Đức Thượng Đế dấn ḿnh trong vật chất, hóa thân của Ngài, y
phục xác thịt của Ngài.
Khi phần vật chất để thành lập Thái Dương Hệ
của chúng ta được tách ra khỏi biển vật chất vô tận của không gian, th́ Ngôi
Thứ Ba của Tam Nguyên- Thánh Thần- Tuôn Sự Sống của Ngài vào phần vật chất
ấy làm cho nó linh động để có thể uốn nắn được. Sau đó nó được Ngôi Thứ Hai
kết hợp lại để tạo nên các h́nh thể. Ngôi Thứ Hai đă tự hy sinh giam ḿnh
vào trong những giới hạn của vật chất, và trở thành “Người Trời” (Heavenly
man), mọi h́nh thể đều hiện hữu trong Thân Thể Ngài. Mọi h́nh thể đều là
thành phần của Thân Thể Ngài. Đây là câu chuyện của Vũ Trụ, được diễn lại
trong Huyền Môn chân chánh. Trong cơi hồng trần những điều Mầu Nhiệm ấy được
tŕnh bày lại bằng pháp môn hoặc bằng những phương tiện khác, và có vài phần
bằng các diễn viên.
Những tiến tŕnh này được xác định rất rơ ràng
trong Kinh Thánh; khi “Thần Đức Chúa Trời vận hành trên mặt nước” trong tăm
tối là ở trên mặt vực, cái vực rộng lớn của vật chất không có biểu lộ h́nh
thể, nó trống không và sơ khai. H́nh thể được Ngôi Lời tạo nên. “Muôn vật
bởi Ngài dựng nên, ngoài Ngài chẳng có vật ǵ được dựng nên cả.” (S.John
1:3).C.W.Leadbeater có nói: “Kết quả của luồng sóng phát ra vĩ đại thứ nhất
này (sự vận chuyển của Thánh Thần) là sự thúc đẩy nguồn sinh lực kỳ diệu
tuôn tràn ra khắp vật chất (nó có vẻ tŕ trệ đối với đôi mắt thịt mờ đục của
chúng ta) để cho các nguyên tử của nhiều cơi khác nhau phát triển các sức
hấp dẫn và sức xô đẩy tiềm tàng sẵn trong chúng, và phối hợp thành nhiều
loại”. (Tín Điều Cơ Đốc- The Christian Creed- Đây là quyển sách nhỏ có giá
trị về ư nghĩa thần bí của các tín điều).
Chỉ sau khi Thánh Thần- Ngôi Ba- đă làm xong
công việc trên, th́ Ngôi Hai- Đấng Christ Thần Bí trong vũ trụ mới khoác lấy
áo vật chất, đi vào tử cung của Người Trinh Nữ, tử cung của Vật Chất hăy c̣n
trinh nguyên, chưa sinh hóa. Vật chất này đă được linh hoạt bởi Thánh Thần
(Ngôi Ba), Ngài bao phủ Người Trinh Nữ và tuôn vào sự sống của Ngài để chuẩn
bị cho Nàng tiếp nhận Sự Sống của Ngôi Hai, Ngôi Hai sẽ dùng vật chất này
làm vận cụ cho các năng lực của Ngài. Đó là sự hóa thân của Đấng Christ lấy
xác thịt.
Trong bản dịch La Tinh và Anh Ngữ, từ bản
nguyên thủy tiếng Hy Lạp về Tín Điều Nicence, câu văn miêu tả giai đoạn
giáng hạ này đă thay đổi các giới từ do đó thay đổi luôn cả ư nghĩa của nó.
Câu văn nguyên thủy là: “và là hóa thân của (of) Thánh Linh và (and) Trinh
Nữ Mary”; trong khi đó bản dịch viết là: “và được hóa thân bởi (by) Thánh
Linh của (of) Trinh Nữ Mary.” Đấng Christ lấy h́nh thể không phải từ vật
chất của (of) Nàng Trinh Nữ mà từ vật chất đă đầy sinh lực và đập cùng nhịp
với sự sống của Ngôi Ba do đó cả hai sự sống và vật chất đều bao quanh Ngài
như một y phục.
Đây là sự giáng thế của Ngôi Hai vào vật chất,
được diễn tả như sự sinh của Đấng Christ từ Nàng Trinh Nữ; và trong Thần
Thoại Thái Dương điều này trở thành sự sinh của Thái Dương Thượng Đế
(Sun-God) khi cḥm sao Xử Nữ đang lên cao.
Kế đến là những công việc đầu tiên của Ngôi Hai
trong vật chất, thích ứng với những thời kỳ thơ ấu trong chuyện thần thoại.
Đối với tất cả sự yếu đuối của thời ấu thơ, những quyền năng uy nghi của
Ngài phải nhượng bộ, chỉ tác động đôi chút lên các h́nh thể mảnh mai mà
chúng nhập vào. Vật chất giam cầm vị Vua non trẻ của nó, xem chừng như có
nguy cơ giết chết Ngài. Nhưng dần dần Ngài uốn nắn nó theo những mục đích
thanh cao, nâng nó lên tŕnh độ con người, sau đó Ngài tự vươn ḿnh lên thập
tự của vật chất để từ thập tự ấy Ngài có thể tuôn ra tất cả các quyền năng
của sự sống bị giam hăm của Ngài. Đây là Ngôi Hai, Plato nói rằng Ngài ở
trong h́nh ảnh của thập tự trong vũ trụ: đây là Người Trời (Heavenly Man),
đứng giữa không gian, hai tay dang ra ban phước, đây là Đấng Christ bị đóng
đinh, cái chết của Ngài trên thập tự vật chất sẽ làm cho tất cả vật chất đầy
tràn sự sống của Ngài. Ngài có vẻ chết rồi, chôn vùi không ai c̣n thấy,
nhưng Ngài lại sống lại, khoác vào chính vật chất mà trong đó h́nh như Ngài
đă tàn tạ, và mang thể xác của Ngài bây giờ làm bằng vật . chất sáng chói
vào cơi trời, nơi đó nó nhận được sự sống của Cha ban xuống và trở nên một
vận cụ của sự sống bất tử của con người. V́ chính sự sống của Ngôi Hai đă
tạo nên y phục cho Linh Hồn trong con người để con người có thể sống qua
nhiều thời đại và tăng trưởng đến tầm vóc của Ngài. Quả thật chúng ta đều
được bao bọc trong Ngài trước tiên bằng vật chất, sau đó bằng tinh thần.
Ngài đă tự hy sinh để đưa con vào cơi vinh quang, Và Ngài luôn luôn ở với
chúng ta, đến cả cuối thời kỳ.
Vậy th́ sự chịu chết của Đấng Christ là một
phần của sự hy sinh vĩ đại trong càn khôn; sự tŕnh bày điều này bằng biểu
tượng trong Huyền Môn ở cơi trần, và biểu tượng thiêng liêng của một Người
bị đóng đinh trong không gian đă cụ thể hóa thành sự chết hiện thực bởi sự
đóng đinh và một thánh giá mang một h́nh thể con người đang chết. Rồi th́
câu chuyện này- bây giờ là câu chuyện của một người- được liên kết vào vị
Giáo Chủ Thiêng Liêng Jesus và trở thành câu chuyện về cái chết xác thịt của
Ngài; trong khi đó sự sinh từ một Trinh Nữ, thời thơ ấu dẫy đầy nguy hiểm,
sự sống lại và sự thăng thiên cũng trở thành những sự việc xảy ra trong đời
sống con người của Ngài. Những lẽ mầu nhiệm biến mất, nhưng các sự tŕnh bày
đại quy mô và sống động về công việc của Ngôi Hai trong càn khôn đă bao
quanh và nâng cao h́nh ảnh yêu quư của Vị Giáo Chủ Xứ Juđê, và Đấng Christ
của Huyền Môn trong Vũ Trụ- với những dáng dấp của Đức Jesus trong lịch sử
đă biến thành Nhân Vật trung tâm của Giáo Hội Cơ Đốc.
Nhưng thế cũng chưa phải là hết, c̣n một điểm
kinh ngạc khác phụ thêm vào câu chuyện Đấng Christ, đó là có một Christ khác
của Huyền Môn, gần gũi và thân mật với tâm con người- Đấng Christ của Tinh
Thần con người, Ngài ở trong mỗi một chúng ta, sinh và sống, chịu đóng đinh,
sống lại từ kẻ chết, thăng lên cơi trời, trong mỗi “Con của Người” (Son of
Man) chịu đau khổ và chiến thắng.
Câu chuyện về đời sống của mỗi người được Điểm
Đạo vào Huyền Môn chân chánh được Kinh Thánh đề cập đến trong những điểm nổi
bật. V́ lư do này, Thánh Paul đă nói về sự sinh của Christ trong người đệ
tử, về sự tiến hóa của Ngài và về tầm vóc đầy đủ của Ngài. Mỗi người là một
Christ đầy tiềm năng, và sự khai triển đời sống Đấng Christ trong một người
được Kinh Thánh diễn tả lại một cách đại cương và tuần tự theo những biến cố
nổi bật, những biến cố này có tính chất đại đồng cho mọi người chớ không
phải cho riêng ai.
Có năm kư Điểm Đạo lớn trong đời sống của một
Đấng Christ, mỗi kỳ đánh dấu một giai đoạn phát triển sự sống của T́nh
Thương. Từ xưa đến nay, các kư Điểm Đạo ấy vẫn xảy ra, và kỳ Điểm Đạo thứ
năm đánh dấu sự chiến thắng chung kết của Con Người (Man) đă phát triển đến
Thiêng Liêng, đă vượt khỏi nhân loại và đă trở nên một Vị Cứu Thế.
Chúng ta hăy ḍ theo câu chuyện của đời sống
này, nó luôn luôn được lập lại một cách mới mẻ trong các kinh nghiệm tinh
thần, và chúng ta hăy xem một người được Điểm Đạo sống suốt đới sống của
Đấng Christ như thế nào.
Vào kỳ Điểm Đạo thứ nhất, Đấng Christ
được sinh ra trong người đệ tử; chính bấy giờ, lần đầu tiên y mới nhận thức
được trong y nguồn T́nh Thương thiêng liêng tuôn xuống, y kinh nghiệm
được sự thay đổi kỳ điệu nó làm cho y cảm thấy ḿnh là một với tất cả mọi sự
sống. Đây là sự “Sinh lần Thứ Hai. Vào lúc sinh này, các người cơi Trời vui
mừng v́ y được sinh vào”vương quốc của trời” như một “đứa trẻ”, một “đứa bé
nhỏ”, bao giờ những danh từ này cũng để gọi mấy người mới được Điểm Đạo. Đó
là ư nghĩa của những lời của Đức Jesus: “một người phải trở nên trẻ thơ để
bước vào Thiên Đường” (S.Matt 17:3). Vài vị Cơ Đốc đầu tiên rất có ngụ ư khi
nói rằng Đức Jesus “được sinh trong hang”-“cái máng” trong câu chuyện Kinh
Thánh. “Hang Điểm Đạo” là một từ cổ xưa được biết nhiều. Trên hang đá nơi
“trẻ thơ” được sinh, “Ngôi Sao Điểm Đạo” bừng cháy, bao giờ Ngôi Sao ấy cũng
chiếu sáng từ Phương Đông khi Trẻ thơ Christ sinh ra đời. Xung quanh mỗi trẻ
thơ ấy đều đầy dẫy nỗi nguy hiểm và đe dọa, những sự nguy hiểm lạ kỳ không
xảy đến cho các trẻ thơ khác, v́ em đă được xức dầu thánh vào lần sinh thứ
hai và các Mănh Lực Hắc Ám của thế giới vô h́nh luôn t́m cách phá hoại. Tuy
nhiên, mặc cho mọi thử thách ấy, em vẫn trưởng thành v́ một khi Christ đă
sinh ra th́ không bao giờ hư mất, một khi Christ đă bắt đầu phát triển th́
không bao giờ thất bại trong sự tiến hóa: sự sống tốt đẹp của em rộng mở và
tăng trưởng, măi có thêm hiểu biết và phong độ tinh thần cho đến khi kỳ
Điểm Đạo Thứ Hai xảy đến, Lễ Báp Têm của Đấng Christ bằng Nước và Thánh
Linh (Spirit) truyền cho y những quyền năng cần thiết cho một Vị Giáo Chủ-
như một “Đứa Con yêu quư” ra đi làm việc gian khổ trong cơi thế.
Sau đó Thánh Linh tuôn xuống dồi dào cho y và
sự vinh quang của Người Cha vô h́nh cũng chiếu rọi rực rỡ xuống y. Nhưng từ
trạng thái ân phước đó, y được Thánh Linh dẫn vào nơi hoang vu, và một lần
nữa, y phải chịu sự thử thách của các cám dỗ ác liệt. V́ bây giờ các quyền
năng của Thánh Linh đang phát triển trong y và Phái Tà Đạo cố gắng mê hoặc y
bằng chính những quyền năng này, xúi y dùng chúng để giúp đỡ cho riêng y
thay v́ tin cậy kiên nhẫn vào Cha y. Trong những giai đoạn chuyển tiếp bất
thần và mau lẹ có mục đích trắc nghiệm sức mạnh và ḷng tin của y, tiếng th́
thầm của Ma Quỷ Cám Dỗ giả h́nh tiếp theo tiếng nói của người Cha, và lớp
cát nóng bỏng của vùng hoang vu đốt cháy xém đôi chân trước đây đă được rửa
trong nước mát của sông thiêng. Chiến thắng những thử thách này y bước vào
thế giới nhân loại và dùng những quyền năng này để giúp đỡ họ thay v́ cho
nhu cầu riêng tư. Y không biến đá thành bánh ḿ (Matt 4:3) để xoa dịu nỗi
ham muốn riêng của y, nhưng y dùng vài ổ bánh ḿ để nuôi “năm ngàn người,
ngoài đàn bà và trẻ con” (Matt 14:21)
Một thời kỳ vinh quang ngắn khác sẽ đến trong
cuộc đời phụng sự không ngừng của y, khi y trèo lên “một ngọn núi cao riêng
biệt”- Ngọn núi Điểm Đạo thiêng liêng. Nơi đó y được biến h́nh và nơi đó y
gặp được vài Vị trong các Vị Tiền Phong, những vị Cao Cả thời xưa đă bước
qua nơi bây giờ y đang bước qua. Như thế y vượt qua kỳ Điểm Đạo lần ba,
bấy giờ bóng dáng của nỗi khổ Nạn sắp đến của y hiện ra cho y thấy. Y từ
chối các lời xúi dục và cương quyết thẳng tiến về Jerusalem, nơi đó lễ Báp
têm bởi Thánh Linh và bởi Lửa đang chờ đợi y.
Sau khi ra đời là sự tấn công của Herod, sau lễ
Báp têm là sự Cám Dỗ trong vùng hoang vu, sau sự Biến H́nh là sự tiến bước
về giai đoạn cuối cùng của Con Đường Thập Tự. Bao giờ sau chiến thắng cũng
là cơn thử thách, cho đến khi đạt mục đích.
Nhưng sự sống của t́nh thương vẫn c̣n tăng
trưởng, người Con của Người (Son of Man) chiếu sáng rơ ràng hơn như Con của
Thượng Đế (Son of God) cho đến lúc gần trận chiến cuối cùng của y. Và kỳ
Điểm Đạo lần bốn dẫn y chiến thắng vào Jerusalem, vào quanh cảnh của
Gethsemane và Calvary. Bây giờ y là Christ sẵn sàng để được dâng hiến, sẵn
sàng để hy sinh trên thập tự. Bây giờ y đối diện với cơn ác mộng kinh khủng
trong khu vườn, nơi đó cả các đệ tử chọn lọc của y cũng ngủ thiếp đi trong
khi y chiến đấu với nỗi thống khổ kinh khủng, và có lúc y đă cầu xin cho
chén đắng được cất đi khỏi đôi môi. Nhưng ư chí mạnh mẽ đă chiến thắng, y
đưa tay ra đón lấy chén mà uống. Trong sự cô đơn của y, một thiên thần đă
hiện đến và khích lệ y, v́ các thiên thần thường có thói quen giúp đỡ khi
thấy một người Con của Người oằn ḿnh dưới sức nặng của nỗi thống khổ, chén
đắng của bội phản, của cô đơn, của chối bỏ, đón chờ y khi y bước tới, y đơn
độc một ḿnh đi qua đám kẻ nghịch chế diễu để đến cuộc thử thách ác liệt
cuối cùng của y. Chịu roi quất đau đớn vào người, gai nhọn của ḷng nghi ngờ
đâm thủng, những y phục tốt đẹp của sự thanh khiết bị lột bỏ trước mắt thế
nhân, bị giao vào tay kẻ nghịch, h́nh như Thượng Đế và con người bỏ rơi cô
đơn, xa lánh, y kiên nhẫn chịu đựng tất cả những ǵ xảy đến cho y, mong mỏi
tuyệt vọng sự giúp đỡ vào lúc sức cùng lực tận. Bị bỏ yên để chịu đau khổ,
chịu đóng đinh, để sự sống của h́nh thể sắc tướng phải chết đi, để chịu
khuất phục mọi sự sống trần thế, bị kẻ nghịch chiến thắng bao quanh chế nhạo.
Sự tăm tối lớn lao kinh khủng cuối cùng vây quanh y, và trong sự tăm tối đó,
y gặp tất cả các mănh lực ác. Nhăn quang nội tâm của y bị che mù, y cảm thấy
cô đơn, vô cùng cô đơn đến khi con tim mạnh mẽ của y ch́m sâu trong tuyệt
vọng phải thốt lời kêu gọi Cha, Ngài h́nh như bỏ rơi y. Trong sự cô đơn cùng
tận, linh hồn con người đối diện với nỗi thống khổ dày ṿ và có vẻ thất bại.
tuy nhiên khi y tập trung hết sức lực của”tánh
linh bất khuất” th́ đời sống thấp kém phải nhượng bộ và chết đi, dục vọng bị
bỏ rơi, và người được Điểm Đạo “sa xuống địa ngục” để không có miền nào trên
thế giới mà y không trải qua để giúp đỡ, để không ai quá bơ vơ vượt khỏi-
t́nh thương bao gồm- tất-cả của y. Và sau đó, vượt lên khỏi sự tăm tối, y
lại thấy ánh sáng một lần nữa, y lại cảm thấy ḿnh là Con, một người Con
không bao giờ tách biệt với Cha ḿnh, y tiến xa hơn vào một đời sống không
bao giờ chấm dứt, y tận lực giúp đỡ mọi trẻ thơ của con người, tuôn phát sự
sống của y vào mọi linh hồn đang chiến đấu. Y lưu lại giữa nhóm đệ tử một
thời gian để dạy dỗ họ, vén màn bí mật của những cơi giới tinh thần, chuẩn
bị cho họ bước vào đường đạo mà y đă đi, cho đến khi đời- sống- cơi- thế của
y chấm dứt, y tiến lên với Cha. Và vào kỳ Điểm Đaọ thứ năm, y trở nên
vị Chân Sư chiến thắng, người nối liền Thượng Đế với con người.
Đó là toàn thể câu chuyện trong Huyền Môn chân
chính thời xưa và nay, được miêu tả một cách thi kịch qua những biểu tượng
trong Huyền Môn hồng trần, nửa ẩn nửa hiện. Đó là Christ của Huyền Môn trong
trạng thái nhị nguyên của Ngài, Ngôi Hai và Con người, vũ trụ và cá nhân.
Người ta có ngạc nhiên chăng khi câu chuyện này đă tự đan dệt trong tâm con
người và tạo nguồn cảm hứng cho mọi tâm hồn cao thượng? Đối với phần lớn câu
chuyện, Đấng Christ trong thâm tâm con người là Đức Jesus được coi như hiện
thân của Đấng Christ thần bí. Ngài chiến đấu, đau khổ, chết đi và cuối cùng
chiến thắng; Ngài là Người mà trong đó người ta nh́n thấy nhân loại bị đóng
trên thập tự và thăng thiên; là người mà sự chiến thắng của Ngài là một lời
hứa hẹn chiến thắng cho mọi người; là Đấng Christ không bao giờ bị quên lăng
được v́ Ngài cứ măi được sinh ra trong nhân loại, và rằng thế gian cần những
Vị Cứu Thế, và những Vị Cứu Thế hiến ḿnh cho thế gian.
CHƯƠNG 7
Chúng ta sẽ khảo sát vài phương diện của Đời
Sống Christ (Christ life) nêu ra trong các giáo lư Cơ Đốc. Theo giáo lư
ngoại truyền, chúng có vẻ kết buộc vào con người của Đấng Christ; nhưng theo
giáo lư bí truyền th́ quả thật chúng thuộc về chính Ngài v́ theo nghĩa ban
sơ- nghĩa đầy đủ nhất và sâu xa nhất của chúng, th́ chúng là một tronh những
hoạt động của Thượng Đế (Logos), rồi sau đó chúng mới phản ảnh trong Đấng
Christ và kế tiếp là trong mỗi Linh Hồn Christ (Christ-Soul) dấn bước trên
con đường Thập tự. Nghiên cứu là thế, chúng ta mới thấy được các
phương
diện ấy một cách chân thật sâu xa, c̣n h́nh thức ngoại truyền của chúng chỉ
làm bối rối trí khôn và xáo trộn t́nh cảm.
Trong các phương diện ấy, nổi bật hơn hết là
giáo lư về Sự Chuộc Tội. Chẳng những nó là một mục tiêu tấn công ác liệt của
giới ngoài Cơ Đốc Giáo, mà nó c̣n dày ṿ nhiều tâm hồn nhạy cảm trong Giáo
Hội. Vài người Cơ Đốc biết suy nghĩ sâu xa của hậu bán thế kỷ 19 đă đau khổ
hoài nghi về lời dạy của các Giáo Hội về vấn đề này, Họ đă cố gắng nhận thức
và tŕnh bày nó một cách nhẹ nhàng hơn những ư niệm gay gắt do cách đọc
không khôn ngoan vài đoạn kinh thần bí thâm sâu. Nơi đây ta cần lưu ư đến
lời cảnh giác của Thánh Peter: “Cũng như Paul, anh yêu dấu của chúng ta,
theo sự khôn ngoan đă ban cho ḿnh mà viết cho anh em- Trong các thơ của ông
cũng có nói đến sự ấy, trong đó có mấy điều khó hiểu, mà kẻ dốt nát không
vững bền giải thích sai nghĩa, cũng như họ giải sai nghĩa các kinh văn khác,
đều chuốc lấy sự hư mất cho ḿnh”. ( II Pet 3:16) Các đoạn văn nói lên sự
đồng nhất giữa Đấng Christ và các người anh em của Ngài đă bị giải sai lạc
thành sự thay thế của chính Ngài cho họ và được sử dụng để trốn tránh những
kết quả của tội lỗi, thay v́ để có cảm hứng hướng về điều chân thiện.
Lời dạy tổng quát trong Giáo Hội Đầu Tiên về
giáo điều Chuộc tội là Đấng Christ, Người Đại Diện cho Nhân Loại, đă đương
đầu và chiến thắng Satan tượng trưng cho các Mănh Lực Hắc Ám xiềng xích nhân
loại. Ngài đă cướp lại và giải thoát nhân loại. Nhưng về sau, các thầy Cơ
Đốc mất dần những chân lư tinh thần, đồng thời họ phản ánh tính khắc khe
riêng tư của họ vào Người Cha Tinh Khiết và đầy yêu thương trong những lời
dạy về Đấng Christ, họ tŕnh bày Ngài ưa nổi giận với con người, và Ngài
được tạo nên để cứu chuộc con người khỏi cơn thịnh nộ của Thượng Đế thay v́
khỏi sự ràng buộc của ma quỷ. Sau đó họ đă chính thức đem vào những câu càng
vật chất hóa cái quan niệm tinh thần trước kia hơn nữa, và họ đă vạch ra một
“chương tŕnh chuộc tội”.
Trong tác phẩm Cur Deus Homo, ông Ansalm đă tán
đồng “chương tŕnh chuộc tội” và cái giáo điều ấy trước đây đă phát triển
dần trong thần học Cơ Đốc từ nay lại được chứng nhận bởi dấu ấn của Giáo
Hội. Vào thời Phục Hưng, người Cơ Đốc La Mă và người Tin Lành đều tin vào
tính chất thay thế (nhờ người khác làm giùm ḿnh) chuộc tội được Đấng Christ
gánh chịu.
Tôi (A.Besant) muốn để các vị Cơ Đốc tự nói về
ư nghĩa của sự chuộc tội. Luther dạy rằng Đấng Christ đă cảm lấy cơn thịnh
nộ của Thượng Đế, sự nguyền rủa, sự chết cho tất cả mọi người. Flavel nói
rằng Đấng Christ được phái đi để gánh chịu lấy cơn thịnh nộ của vị Thượng Đế
vô cùng và các nỗi đau đớn dày ṿ khủng khiếp. Giáo Hội Anh Quốc dạy rằng:
tội lỗi đă đưa Thượng Đế ra khỏi Thiên Đàng để Ngài cảm nghe những nỗi kinh
hăi và những nỗi đau đớn của sự tử, và con người như một khúc củi cháy trong
hỏa ngục, một kẻ nô lệ cho ma quỷ- được cứu chuộc bởi sự chết của người con
một yêu dấu của Ngài; cơn thịnh nộ bùng cháy của Ngài chỉ có thể được xoa
dịu bởi Đức Jesus, sự hy sinh và sự dâng hiến cái chết của con Ngài làm Ngài
hài ḷng. Edwards hữu lư hơn, thấy rằng có sự bất công lớn lao v́ lẽ tội lỗi
bị phạt hai lần, trước tiên Đức Jesus là người chịu thay cho nhân loại và
sau đó trên các người hư mất. Do đó mà ông cùng quan điểm với hầu hết người
Calvin, đành phải giới hạn sự chuộc tội chỉ dành cho các người được chọn lên
thiên đàng mà thôi và tuyên bố rằng Đấng Christ đă gánh lấy các tội lỗi-
không phải của thế gian- mà của những người đă được chọn lựa trong thế gian;
Ngài chịu đau khổ không phải cho tất cả thế giới, mà chỉ cho những người mà
con đă cho Ta. Nhưng Edwards tin tưởng chắc chắn vào sự chịu tội thế, và
loải bỏ sự chuộc tội đại đồng v́ lư do rằng “Tin tưởng Đấng Christ chết cho
tất cả mọi người là một phương cách chắc chắn nhất để chứng tỏ rằng Ngài
chẳng chết cho ai, theo nghĩa như các người Cơ Đốc tin tưởng từ trước đến
nay”. C̣n Owen th́ xem những sự đau khổ của Chúa như một sự đền bù quư giá
đầy đủ cho tất cả tội lỗi của những người được chọn lên thiên đường đối với
sự công b́nh của Thượng Đế, và Chúa phải chịu đựng chính sự trừng phạt mà họ
phải chịu.
Để chứng tỏ những quan điểm ấy vẫn c̣n được dạy
một cách mạnh mẽ tại những nhà thờ, tôi có viết thêm: Stroud khiến cho Đức
Christ uống ‘chén thịnh nộ của Trời’. Jenkyn nói ‘Ngài chịu đau khổ như một
người bị Trời bỏ rơi, đầy xuống địa ngục, bắt chịu h́nh phạt đời đời’. Tổng
Giám Mục Thomson dạy rằng ‘những đám mây thịnh nộ của Trời tụ đầy đặc trên
nhân loại chúng chỉ trút xuống Đấng Jesus mà thôi’. Liddon cũng vang cùng âm
điệu ấy. ‘Các vị tông đồ dạy rằng con người nô lệ và Đấng Christ trên thập
tự đang trả tiền chuộc cho họ. Liddon c̣n nói đến cả số lượng chính xác về
sự sỉ nhục và đau khổ cần thiết để chuộc tội, và “nạn nhân thiêng liêng” c̣n
trả nhiều hơn là lượng cần thiết’.
Dr. Mcleod Campbell, một người vô cùng sùng tín
và uyên thâm đă viết quyển “Luận về sự Chuộc Tội” nổi tiếng chứa nhiều tư
tưởng chân chính và đẹp đẽ để chống lại những quan điểm trên kia.
F.D.Maurice và nhiều người Cơ Đốc khác đă cố gắng gỡ bỏ khỏi Cơ Đốc Giáo một
giáo điều nặng nề tàn phá các ư tưởng chân chánh và các tương quan giữa
Thượng Đế và con người.
Nhưng sự tin tưởng này không liên hệ ǵ đến vài
sự phát triển rất cao về đức hạnh Cơ Đốc, và vài gương thanh cao đă nhờ giáo
điều ấy mà có được sức mạnh, cảm hứng và vững ḷng. Thật là bất công nếu
không nhận thức sự kiện này. Khi nào chúng ta gặp phải một sự kiện có vẻ lạ
lùng, phi lư, chúng ta nên dừng lại và cố gắng t́m hiểu nó. V́ nếu giáo điều
ấy không chứa điều ǵ khác hơn những ǵ người khác công kích th́ nó không
thể nào làm say mê tâm trí con người, nó không thể nào là căn nguyên của các
sự quy phục hào hùng, của các gương hy sinh cảm động để phụng sự cho con
người. Hẳn phải có một điều ǵ đó nằm ẩn dưới mặt ngoài đă gợi cảm hứng cho
họ. Khi nghiên cứu giáo lư ấy như một trong các Tiểu Bí Pháp, chúng ta sẽ
thấy được sự sống ẩn mật mà những tâm hồn cao thượng đă thâu hút vào đó một
cách vô t́nh, những tâm hồn này hợp nhất vào sự sống đó mật thiết đến đỗi
cái h́nh thức che đậy sự sống ấy không thể khước từ họ được.
Chúng ta sẽ cảm thấy rằng muốn hiểu được sự
sống ấy, người ta cần phải phát triển đôi chút về tinh thần và nhăn quang
nội tâm. Chỉ người nào thực tế đă biết được vài ư nghĩa của sự quy phục
(self surrender) mới có thể thoáng thấy được tín điều ấy muốn ám chỉ điều ǵ
trong giáo lư bí truyền. Đó là sự biểu lộ kiểu mẫu của luật Hy Sinh đại
đồng, một phản ảnh dưới thấp của một Nguyên H́nh (Pattern) trên cao, nó cho
chúng ta biết ư nghĩa của sự hy sinh trong đời sống cụ thể của con người.
Luật Hy Sinh ẩn tàng trong hệ thống thái dương
của chúng ta và tất cả hệ thống khác. Mọi vũ trụ đều được thiết lập trên
Luật này. Nó nằm ngay cội rễ của sự tiến hóa. Trong giáo điều về Sự Chuộc
Tội, Nó khoác lấy một h́nh thức cụ thể liên hệ với những người đă đạt đến
một giai đoạn phát triển tinh thần nào đó có thể guip1 họ thực hiện được sự
hiệp nhất với nhân loại và trở nên những vị Cứu Thế- theo đúng nghĩa thực tế
và chân lư.
Tất cả tôn giáo lớn trên thế giới đều tuyên bố
rằng vũ trụ khởi đầu bằng một hành động hy sinh và họ đă đưa ư niệm hy sinh
ấy vào các nghi lễ long trọng nhất của họ. Ấn Độ Giáo cho rằng buổi đầu của
sự biểu lộ là do sự hy sinh; nhân loại được xuất phát với một sự hy sinh, và
chính Thượng Đế đă tự hy sinh Ngài; mục tiêu của sự hy sinh là sự biểu lộ;
Ngài không thể trở nên biểu lộ trừ khi một hành động hy sinh được thực hiện,
không có điều ǵ được biểu lộ đến khi Ngài biểu lộ; hành động hy sinh được
gọi là hành động khởi đầu của sự sáng tạo.
Hỏa giáo cũng dạy rằng trong Hiện Hữu vô biên,
vô danh, bất khả
tri, sự hy sinh được thực hiện và vị Thượng Đế-biểu-lộ hiện ra; Đức
Ahura-mazdâo được sinh ra bởi một hành động hy sinh.
Trong Cơ Đốc Giáo, cũng một quan niệm ấy được
nêu rơ trong câu: “Chiên con đă bị giết từ buổi sáng- thế” (Khải thị 13:8),
đă bị giết ngay từ nguồn gốc của mọi sự. Những lời này chỉ có thể nói đến
một chân lư quan trọng là không có sự sáng tạo vũ trụ cho đến khi Thượng Đế
đă làm một hành động hy sinh. Hành động này được giải thích như là một sự
giới hạn Ngài để trở nên biểu lộ”Luật Hy Sinh có thể được gọi một cách đúng
thật hơn là Luật Biểu Lộ hoặc Luật của T́nh Thương và Sự Sống, v́ khắp cả vũ
trụ từ điều cao nhất đến điều thấp nhất, nó là nguyên nhân của sự biểu lộ và
sự sống” (W.Williamson).
Bây giờ nếu ta khảo sát cơi trần này, chúng ta
thấy rằng mọi sự sống trong đó, mọi sự tăng trưởng, mọi sự tiến triển, đối
với đơn vị cũng như đối với tổng thể, đều tùy thuộc vào sự hy sinh liên tục
và sự bền bỉ chịu đựng đau khổ. Kim thạch hy sinh cho thảo mộc, thảo mộc hy
sinh cho thú vật và con người, con người hy sinh cho con người, và mọi h́nh
thể cao hơn lại tan vỡ ra thành các cấu tử để nuôi các loài thấp kém nhất.
Đó là một chuỗi hy sinh liên tục; dấu hiệu chỉ rơ sự tiến hóa là sự hy sinh
từ cưỡng bách trở thành tự nguyện. Các người được thừa nhận là cao cả nhất
và được yêu thương nhất trong tâm trí con người chính là các người đă chịu
đựng đau khổ cùng cực, những linh hồn anh hùng ấy đă quặn thắt, cam chịu và
chết đi để giống ṇi có thể hưởng dụng sự đau khổ của họ. Nếu thế giới này
là công tŕnh của Thượng Đế và luật tiến hóa trong toàn thể và trong cấu tử
là sự hy sinh, th́ luật Hy Sinh phải ám chỉ một điều ǵ trong bản chất thật
sự của Ngài, nó phải có cội rễ trong chính Thiêng tánh. Nếu suy nghĩ thêm
một chút, ta sẽ thấy rằng một thế giới, một vũ trụ có được là chỉ bởi Đấng
Tự Hữu (Existence) Duy Nhất đă hạn chế ḿnh và như thế mới biểu lộ được.
Thượng Đế Biểu- lộ(Logos) là Thượng Đế Tự-Giới-Hạn (Self-limited God). Giới
hạn để trở nên biểu lộ, biểu lộ để vũ trụ hiện hữu. Sự tự giới hạn và sự
biểu lộ thế ấy chỉ có thể là một hành động hy sinh.
Hơn nữa nhờ hành động hy sinh mà các cá nhân
mới hiện hữu để chia xẻ ân phước Thiêng Liêng, đó mới quả thật là một hành
động thay thế- một hành động được thực hiện v́ người khác. V́ thế, như đă
nói ở trên, sự tiến hóa được đánh dấu khi sự hy sinh trở nên t́nh nguyện và
tự chọn, và chúng ta hiểu rằng nhân tính của một người đạt đến trạng thái
toàn mỹ của nó khi y hiến ḿnh cho thế gian và nhờ sự đau khổ của riêng y mà
y tạo được vài điều tốt đẹp cao cả cho ḍng giống.
Chân lư thâm sâu của sự hy sinh thay thế này
chỉ có ở những cơi giới cao siêu nhất; và mặc dầu nó có thể bị suy hóa và
biến dạng, nó vẫn luôn trường cửu và bất hoại. Cội nguồn ấy tuôn trào ra
ḍng năng lượng tinh thần- theo nhiều h́nh thể và cách thức đa dạng- cứu
chuộc thế gian khỏi điều ác và lôi cuốn trở vế Thượng Đế.
Khi Con (Logos) xuất ra khỏi”Ḷng Cha”
vào”Ngày” ấy, khi Con được sinh ra, vào buổi đầu của Ngày Sáng Tạo, Ngày
Biểu Lộ, khi’nhờ Con mà Ngài đă dựng nên các thế giới’ (Hebơrơ 1:2), bởi ư
chí của Ngài mà Ngài đă tự giới hạn Ngài, tạo một bầu tṛn bao trùm Sự Sống
Thiêng Liêng; Tinh Thần Thiêng Liêng ở trong và sự giới hạn hay Vật Chất ở
ngoài. Chính nhờ lớp màn vật chất mà Con mới được sinh ra. Lớp vật chất ấy
là Mary. Người Mẹ Thế Giới- cần cho Đấng Vĩnh Cửu biểu lộ trong thời gian và
xây dựng các thế giới.
Sự tự hạn chế ấy là một hành động hy sinh, một
hành động tự nguyện được thực hiện v́ t́nh thương để cho các sự sống khác có
thể được sinh ra khỏi Ngài. Một sự biểu lộ như thế được xem như là cái chết,
v́ khi so sánh với sự sống vô biên của Thượng Đế trong chính Ngài th́ sự
giới hạn trong vật chất có thể được gọi thật sự là cái chết. Như chúng ta đă
thấy, nó được xem như sự tử nạn trong vật chất- nguồn gốc chân thật của biểu
tượng thập tự, hoặc theo h́nh dáng Hy Lạp+ chú trọng về sự linh hoạt hóa vật
chất do Thánh Thần (Holy Ghost) tạo nên, hoặc theo h́nh dáng Latin + chú
trọng đến Người Trời (heavenly Man), Đấng Christ của Trời (Supernal Christ).
Sự hy sinh này là một điều bí mật của sự tiến
hóa. Sự sống Thiêng Liêng g̣ bó trong h́nh thể, luôn đè ép ra ngoài để h́nh
thể
có thể bành trướng ra, nhưng lực ép này chỉ nhẹ nhàng mà thôi v́ e rằng h́nh
thể sẽ tan vỡ trước khi nó đạt tới giới hạn trương nở cuối cùng. Với một sự
kiên nhẫn, khôn khéo và thận trọng vô biên, Đấng Thiêng Liêng duy tŕ một áp
lực đều đặn để không gây tan vỡ. Trong mỗi h́nh thể, trong loài kim thạch,
thảo mộc, thú cầm và con người, năng lực bành trướng này của Thượng Đế
(Logos) đang hoạt động không ngừng. Đó là mănh lực tiến hóa, sự sống có hiệu
lực nâng cao h́nh thể, nguồn năng lượng đang tăng trưởng mà khoa học mới vừa
thoáng thấy được nhưng không biết nó đến từ đâu. Nhà thực vật học kể đến một
năng lực ẩn trong thảo mộc, nó luôn luôn lôi kéo hướng lên; y không biết nó
thế nào và tại sao, nhưng y đặt cho nó một tên: vis a fronte (sức mạnh tiền
phong) v́ y t́m thấy nó có ở đó, hay đúng hơn là y t́m thấy kết quả của nó.
Năng lực ấy cũng ở trong các h́nh thức khác nữa, nó làm cho chúng càng ngày
càng biểu lộ sự sống bên trong chúng. Khi một h́nh thể tiến hết giới hạn,
th́ linh hồn trong đó không thể tăng trưởng hơn nữa; Bấy giờ Ngài thâu hồi
năng lực của Ngài và h́nh thể ấy tan ră đi, chúng ta gọi là sự chết. Nhưng
linh hồn ở với Ngài và Ngài lại tạo một h́nh thể khác cho nó, vậy sự chết
của h́nh thể là sự sinh của linh hồn vào một đời sống đầy đủ hơn. Nếu chúng
ta nh́n bằng đôi mắt của Tinh Thần thay v́ đôi mắt của xác thể, th́ chúng ta
sẽ không khóc lóc cho một h́nh thể, nó chỉ là một cái xác chết đang trả lại
những chất liệu cấu tạo nên nó. Chúng ta sẽ vui mừng v́ sự sống đă tiến lên
vào một h́nh thể thanh cao hơn để phát triển những
quyền
năng c̣n tiềm tàng bên trong.
Nhờ sự hy sinh không ngừng của Thượng Đế mà mọi
sự sống hiện hữu được. Sự sống này là Một, nhưng nó đă nhập vào muôn vàn
h́nh thể và luôn luôn lôi kéo chúng lại với nhau. Như thế nó là mănh lực của
sự hiệp nhất, một mănh lực kết hợp, nhờ nó mà mọi sự sống riêng rẽ dần dần
nhận thức được sự duy nhất của chúng; mỗi sự cố gắng phát triển một tâm thức
bản ngă và cuối cùng sẽ biết rằng chính nó là một với tất cả sự sống khác,
cùng một nguồn gốc thiêng liêng chung.
Đây là sự hy sinh đầu tiên và liên tục; một sự
tuôn phát sự sống ra ngoài được hướng dẫn bởi T́nh Thương, một sự tuôn phát
tự nguyện và vui sướng của Tự Ngă để tạo các Ngă khác. Đây là”sự vui mừng
của Chủ” mà người đầy tớ trung thành nhập vào, câu này được tiếp nối một
cách có ư nghĩa bởi lời tuyên bố rằng Ngài đói khát, trần truồng, đau yếu,
xa lạ, bị tù đày, giữa những đám người tốt và xấu. (S.Matt 15:21-45).Đối với
một Tinh Thần tự do th́ sự hy sinh là một niềm vui. Nó cảm thấy sự sống của
nó càng mănh liệt hơn khi Nó càng tuôn ra ngoài. Nó càng cho th́ Nó càng
tăng trưởng, v́ luật tăng trưởng của sự sống là Nó gia tăng bằng cách tuôn
ra ngoài chớ không thâu từ ngoài vào, bằng cách cho chớ không bằng cách
nhận. Vậy Hy Sinh, theo ư nghĩa đầu tiên, là một niềm vui. Thượng Đế đă tự
tuôn ra để tạo lập một thế giới và thấy công việc của Ngài th́ rất bằng
ḷng.
Nhưng từ-ngữ ấy đă liên kết với nỗi đau khổ, và
trong tất cả nghi lễ hy sinh đều có sự hiện diện của một sự đau khổ, dù nó
chỉ là một mất mát nhỏ cho người hy sinh. Khi nói đến chữ hy sinh tự nhiên
ta nghĩ đến sự đau khổ, vậy ta cũng nên hiểu sự thay đổi này đă xảy ra như
thế nào.
Chúng ta sẽ hiểu được khi chúng ta chuyển từ
quan điểm của Sự Sống đang biểu lộ sang quan điểm của h́nh thể mà Nó đang
trú
ngụ để xét vấn đề hy sinh. Trong khi đời sống của sự sống luôn luôn cho ra
th́ đời sống của H́nh Thể lại thâu nhận vào, v́ H́nh Thể sẽ tiêu hao khi bị
sử dụng. Để được tồn tại, nó phải thu hút những chất liệu tươi mới bên ngoài
vào bù đắp chỗ mất mát. Như thế luật tăng trưởng của H́nh Thể là thâu lấy và
đồng hóa những ǵ mà vũ trụ rộng lớn hơn cung cấp cho nó. Khi tâm thức đồng
hóa nó với h́nh thể, xem h́nh thể là nó th́ sự hy sinh mang trạng thái đau
khổ. Cho ra, quy phục, mất mát những ǵ đă thâu được- những điều đó h́nh như
phá hủy dần tính vững bền của h́nh thể, và như thế luật Hy Sinh trở thành
luật của nỗi khổ đau thay v́ luật của niềm vui sướng.
V́ h́nh thể cứ măi đổ vỡ, gây cho nỗi khổ đau
gia tăng, nên con người phải học nhận thức rằng y không nên đồng nhất ḿnh
với sự sống măi tăng trưởng. Bài học của y không những do thiên nhiên bên
ngoài dạy, mà c̣n do những vị Huấn Sư trong tôn giáo chủ tâm dạy y nữa.
Trong các tôn giào trên thế giới, chúng ta có
thể t́m thấy bốn tŕnh độ giáo huấn về luật Hy Sinh.
1.Trước
tiên, con người được dạy nên hy sinh một phần của cải vật chất của y để được
sự thịnh vượng vật chất nhiều hơn. Y hy sinh bằng của từ thiện cho người
khác và bằng các lễ vật dâng lên Thần Thánh; chúng ta có thể đọc thấy trong
các kinh Ấn Độ, Hỏa Giáo, Do Thái…trên khắp thế giới. Y bố thí một điều ǵ
mà y cho là quư báu để bảo đảm sự thịnh vượng cho y, cho gia đ́nh, cho cộng
đồng và quốc gia y. Y hy sinh trong hiện tại để thâu hoạch trong tương lai.
2. Rồi đến một bài học khó hơn, thay v́ sự giàu
sang và những điều trần thế, th́ hy sinh cốt để nhận được ân phước cơi Trời.
Sống trên Thiên Đàng và hưởng hạnh phúc sau khi chết- đó là phần thưởng do
các điều hy sinh thực hiện đưới trần thế.
Y đă bước một bước tiến đáng kể khi y biết từ
bỏ những điều hồng trần mà y đă bám víu để được những điều tốt lành xa xăm
mà y không thể thấy hay chứng minh được. Y học nhường sự việc hữu h́nh cho
sự việc vô h́nh, và khi làm như thế y tiến lên cao. V́ các việc hữu h́nh và
các việc đạt đến được rất là quyến rũ đến nỗi nếu y có thể khuất phục chúng
dưới thế giới vô h́nh mà y tin tưởng th́ y đă luyện được sức lực mạnh mẽ và
đă tiến xa trong việc nhận thức được thế giới vô h́nh đó. Măi chịu đựng dồn
dập các khổ nạn, đương đầu với các lời sỉ nhục, y tập đứng vững một ḿnh,
nhận lấy tất cả nỗi đau đớn, khốn khổ, tủi nhục do người đời đổ trút lên y,
y chỉ chăm nh́n các điều vô h́nh sau cửa tử. Quả thật y vẫn c̣n mong muốn sự
vinh quang cơi trời; nhưng có thể đứng vững đơn độc trên mặt đất, kết bạn
với tinh thần, bám chắc vào đời sống nội tâm khi đời sống bên ngoài đầy đau
khổ, đó không phải là một điều dễ dàng.
3. Bài học thứ ba xảy đến khi y nhận thấy ḿnh
là một phần tử của một sự sống rộng lớn hơn, y muốn hy sinh cho lợi ích của
toàn thể. Do đó y đủ sức nhận thức rằng sự hy sinh là đúng, rằng một đơn vị
phải tùy thuộc toàn thể. Rồi y học hành động đúng
đắn
mà không bị xao động v́ cái kết quả đến cho cá nhân y; y làm nhiệm vụ mà
không mong muốn kết quả cho y; y bền chí v́ bền chí là đúng chớ không phải
để được khen thưởng, y cho chỉ v́ tặng phẩm là của nhân loại chớ không phải
để được Ngài hoàn lại.
4. Được huấn luyện như thế, bấy giờ linh hồn
anh hùng đă sẵn sàng bước sang bài học thứ tư; y cũng phải dâng hiến luôn sự
hy sinh tất cả những sở hữu của y, bởi v́ Tinh Thần không riêng rẽ thật sự
mà chỉ là thành phần của Sự Sống Thiêng Liêng. Hiểu rằng không có sự khác
biệt, không cảm thấy sự chia cách, y tuôn tràn ra như một thành phần của Sự
Sống Đại Đồng, và khi biểu lộ Sự Sống ấy y chia xẻ niềm vui của Ngài.
Chính trong ba giai đoạn đầu mà người ta thấy
sự hy sinh có trạng thái đau khổ. Giai đoạn đầu chỉ là các nỗi khổ đau nho
nhỏ; trong giai đoạn hai y có thể hy sinh đời sống hồng trần và tất cả những
ǵ mà trần thế cho y; c̣n giai đoạn thứ ba là thời điểm trọng đại cho sự
trắc nghiệm, sự cố gắng, sự tăng trưởng của linh hồn con người. V́ trong
giai đoạn này y có thể bị đ̣i hỏi tất cả những ǵ mà sự sống có vẻ hiện hữu
trong đó; và con người trên lư thuyết biết rằng ḿnh vượt quá h́nh thể,
nhưng trong cảm nghĩ y vẫn c̣n đồng hóa ḿnh với nó, y thấy rằng tất cả
những ǵ mà y cảm thấy là sự sống th́ đều bị đ̣i hỏi rời bỏ y, nên y hoang
mang:”Nếu tôi bỏ điều này ra, th́ c̣n lại ǵ?” H́nh như thể tâm thức y sẽ bị
chấm dứt với sự từ bỏ này, v́ tâm thức y không c̣n bám víu được vào những
điều mà nó đă biết, trong khi đó bên kia lại không có điều ǵ để y có thể
nắm được. Một niềm xác tín mạnh mẽ, một tiếng nói uy nghiêm kêu gọi y hăy từ
bỏ chính đời sống của y. Nếu y thoái thác th́ y vẫn tiếp tục sống lại đời
sống cảm giác, đời sống lư trí, đời sống thế gian, và khi y đă có các thú
vui th́ y không dám từ chối, nhưng rồi y sẽ cảm thấy một sự bất măn triền
miên, một ḷng khắc khoải day dứt, một nỗi hối tiếc không nguôi và không c̣n
vui thú ở đời, bấy giờ y hiểu được chân lư trong lời nói của Đấng Christ:”Hễ
ai muốn cứu đời sống ḿnh th́ phải mất nó.” (S.Matt16:25). C̣n nếu như y bạo
gan nghe theo lời kêu gọi ấy mà bỏ đới sống của y, th́ trong khi mất nó, y
lại thấy y bước vào sự sống đời đời (S.John 12:25)và y khám phá ra rằng đời
sống mà y từ bỏ chỉ là sự chết trong sự sống. Tất cả những ǵ mà y bỏ đi chỉ
là ảo ảnh, và nay y đă t́m thấy thực thể. Trong sự chọn lựa đó, linh hồn đă
chứng tỏ bản chất của ḿnh và
chỉ
có vàng ṛng mới có thể ra khỏi ḷ đốt ác liệt đó. Nơi nào mà đời sống có vẻ
bị khuất phục th́ chính nơi đó đời sống lại thắng. Và bấy giờ y sẽ viu mừng
khám phá rằng đời sống được chiến thắng như thế là chiến thắng cho tất cả
chứ không phải cho một ngă riêng biệt, rằng sự từ bỏ cái ngă riêng biệt ấy
có nghĩa là sự thực hiện Đại Ngă trong con người.
Đó là nét đại cương về luật Hy Sinh, đặt nền
tảng trên Sự Hy Sinh đầu tiên của Thượng Đế, Sự Hy Sinh mà tất cả mọi sự hy
sinh khác đều là những phản ánh của nó.
Chúng ta đă thấy Đức Jesus, người đệ tử Do
Thái, đă vui ḷng nhượng lại thể xác của Ngài để cho một Sự Sống cao cả hơn
có thể giáng nhập vào, và bởi hành động ấy mà Ngài trở nên một đấng Christ
đầy đủ tư cách, Ngài trở thành Người Trông Nom Cơ Đốc Giáo, Ngài tuôn tràn
Sự Sống của Ngài vào tôn giáo ấy đă được một Vị Cao Cả sáng lập, và hành
động hy sinh của Ngài đă đồng nhất Ngài với Vị ấy. Chúng ta đă thấy linh hồn
Christ (Christ-Soul) vượt qua các lễ Điểm Đạo lớn- sinh ra đời, bước vào
ḍng sông đầy đau khổ của trần thế, được làm lễ báp têm bằng nước để nhận
nhiệm vụ hoạt động, được biến h́nh trên Núi, được đưa đến quang cảnh của
trận chiến cuối cùng và đă chiến thắng cái chết. Bây giờ chúng ta hăy xem
Ngài là người chuộc tội theo ư nghĩa nào, và Luật Hy Sinh đă biểu lộ toàn mỹ
trong đời sống Christ (Christ-life) như thế nào.
Ngài đến với nhân loại, thi hành chức vụ bằng
một tấm ḷng thiện cảm nồng nàn trường cửu với nỗi khổ đau của thế giới,
được tượng trưng bằng hành động bước xuống ḍng sông. Từ đó trở đi, đời sống
của Ngài được tóm tắt trong câu”Ngài đi khắp nơi làm điều lành”. V́ đối với
những người đă hy sinh đời sống riêng tư của ḿnh để thành một vận hà cho sự
sống thiêng liêng th́ họ không c̣n quan tâm điều ǵ ở thế gian ngoại trừ sự
giúp đỡ người khác. Ngài tập đồng nhất ḿnh với những tâm thức của người
xung quanh, cảm thấy như họ cảm thấy, suy nghĩ như họ suy nghĩ, vui sướng
như họ vui sướng, đau khổ như họ đau khổ. Như thế Ngài đem vào đời sống thức
tỉnh hằng ngày của Ngài một tinh thần hợp nhất với những người khác. Ngài
phải phát triển một ḷng thiện cảm rung động ḥa hợp hoàn toàn với âm điệu
đa dạng của đời sống nhân loại; nhờ vậy Ngài có thể nối liền trong Ngài
những đời sống nhân loại với những đời sống thiêng liêng, và trở nên người
trung gian giữa thiên đàng và thế gian.
Bấy giờ quyền năng biểu lộ trong Ngài v́ Tinh
Thần (Spirit) ngự trong Ngài. Ngài bắt đầu nổi bật trước mắt thế nhân như
một trong những người có thể giúp đỡ những người em nhỏ bước trên con đường
của Sự Sống. Khi tụ tập quanh Ngài, họ cảm nghe quyền năng phát xuất từ
Ngài, Sự Sống thiêng liêng trong Người Con được tin yêu của Đấng Tối Cao.
Những linh hồn khát khao t́m đến Ngài và Ngài nuôi họ với bánh của sự sống.
kẻ bệnh hoạn v́ tội lỗi hướng về Ngài và Ngài chữa bệnh cho họ bằng lời nói
linh động. Người mù ḷa v́ vô minh tiến gần Ngài và Ngài chữa sáng mắt cho
họ bằng ánh sáng của minh triết. Điểm chính yếu trong khi Ngài thi hành chức
vụ là người thấp kém nhất, người nghèo nàn nhất, người thất vọng nhất và
người suy đồi nhất khi đến với Ngài đều cảm nghe không có bức tường ngăn
cách, không bị xua đuổi mà được đón tiếp nồng nhiệt. Dẫu cho một linh hồn
thấp kém đến đâu, y cũng không cảm thấy Linh Hồn Christ đứng trên y mà đúng
ra là đang đứng bên cạnh y và đang bước đi với đôi chân con người trên mảnh
đất mà y cũng hiện đang bước, y cảm nghe trong y đầy tràn một năng lực lạ
lùng nâng cao y, cùng với một động lực mới mẻ, một cảm hứng tươi nhuận.
Ngài sống và làm việc tận lực, một Vị Cứu Thế
thật sự, cho đến lúc Ngài phải học một bài học mới. Trong một thời gian,
Ngài mất đi ư thức về Sự Sống Thiêng Liêng mà sự sống của chính Ngài là sự
biểu lộ càng ngày càng mạnh mẽ hơn của Sự Sống ấy. Bài học này là:trung tâm
thật sự của Sự Sống Thiêng Liêng ở bên trong chớ không phải ở bên ngoài. Đại
Ngă có tâm (centre) của Nó ở trong mỗi linh hồn con người, quả thật là” tâm
ở mọi nơi, v́ Christ ở trong tất cả. Không ǵ” ngoài Đấng Vĩnh Cửu”
có thể giúp được nhu cầu trực tiếp của Ngài. Ngài phải học rằng sự hiệp nhất
đúng đắn giữa Cha và Con phải được t́m ở bên trong chớ không phải ở bên
ngoài. Bài học này chỉ có thể đến trong sự cô đơn tuyệ cùng. Khi Ngài cảm
thấy vị Thượng Đế bên ngoài bỏ rơi. Khi sự thử thách đến gần,Ngài kêu gọi
những người gần kề nhất để trông chừng với Ngài qua giờ đen tối của Ngài.
Nhưng bấy giờ v́mọi thiện cảm và t́nh thương của nhân loại đều bị cắt đứt
nên Ngài thấy ḿnh bị ném trở lại vào đời sống của Tinh Thần thiêng liêng.
Khi ư thức ḿnh hiệp nhất với Cha, Ngài xin Cha hăy cất chén đắng. Đứng vững
một ḿnh, Ngài rất xứng đáng đương đầu với trận thử thách cuối cùng. Trong
trận này, Thượng Đế bên ngoài tiêu tan và chỉ c̣n lại Thượng Đế bên
trong.”Cha ơi,Cha ơi,sao Cha nỡ bỏ con?” Đó là tiếng kêu thống thiết của
t́nh thương và sợ hăi. Sự cô đơn cuối cùng đến với Ngài. Tuy nhiên không bao
giờ Cha lại gần gũi với con hơn lúc mà Linh Hồn Christ cảm thấy ḿnh bị bỏ
rơi, v́ chính lúc Ngài tiếp xúc đến mức cuối cùng của nỗi khổ đau th́ đó là
lúc thắng trận của Ngài bắt đầu. V́ bây giờ Ngài học rằng chính Ngài phải
trở nên Thượng Đế mà Ngài đă kêu gọi. Chính nhờ cảm nghe nỗi thống khổ cuối
cùng của sự chia cách mà Ngài t́m thấy được sự duy nhất vĩnh cửu, Ngài cảm
thấy nguồn sống ở trong Ngài và biết rằng chính Ngài cũng vĩnh cửu như thế.
Không ai có thể trở nên một vị Cứu Thế trọn vẹn
hoặc có ḷng thiện cảm toàn hảo với tất cả nỗi đau khổ của nhân loại trừ khi
nào y đă đương đầu và chiến thắng sự đau đớn, sự sợ hăi và sự chết trong cô
đơn, không được ai giúp đỡ ngoài vị Thượng Đế nội tâm. Người ta dễ chịu đựng
đau khổ khi tâm thức cẫn c̣n liên lạc giữa phần thấp và phần cao của y. Nói
cho đúng hơn, không có sự đau khổ khi tâm thức chưa bị đứt rời, v́ ánh sáng
của phần trên sẽ xua đuổi tăm tối khỏi phần dưới, và nỗi khổ sở không phải
là khổ sở khi nó được sinh ra trong nụ cười của Thượng Đế. Có một niềm khổ
đau mà con người phải đương đầu, đó là khi sự tăm tối choán đầy trong tâm
thức con người và không một tia sáng lờ mờ nào có thể chiếu rọi qua được. Y
phải học biết sự thống khổ của nỗi tuyệt vọng khi linh hồn con người cảm
thấy khắp xung quanh toàn là tăm tối, và tâm thức ṃ mẫm khôn thể t́m được
một bàn tay để nắm. Mỗi người Con của Người (Son of Man) đều phải xuống tận
miền tăm tối ấy trước khi y tiến lên chiến thắng. Kinh nghiệm ác liệt ấy mỗi
Christ đều trải qua trước khi y t́m thấy Thiêng Liêng xuyên qua y và” có thể
cứu người khác toàn vẹn” (Heb 7:25).
Một người như thế quả thật trở nên thiêng
liêng, một Vị Cứu Thế. Ngài gánh lấy công việc trần gian và Ngài đă chuẩn bị
mọi điều để làm công việc ấy. Ngài phải nhận tất cả các mănh lực ḱnh chống
con người vào trong Ngài để chúng có thể biến đổi thành những mănh lực giúp
đỡ. Như thế Ngài trở thành một trong những trung tâm Ḥa B́nh của Thế Giới.
V́ những Christ của thế giới là những trung tâm Ḥa B́nh mà mọi mănh lực
tranh đấu đều đổ xô vào để được biến đổi và phát ra trở lại thành các sức
mạnh hoạt động cho sự điều ḥa.
Khi nói Đấng Christ chịu đau khổ cho “con
người”, sức mạnh của Ngài thay thế cho sự yếu đuối của họ, sự tinh khiết cùa
Ngài thay thế cho tội lỗi của họ, và sự minh triết của Ngài thay thế cho sự
vô minh của họ, th́ đó là một chân lư; v́ Đấng Christ đă trở nên một với con
người đến đỗi họ chia xẻ với Ngài và Ngài chia xẻ với họ. Ngài không thay
thế cho họ được,nhưng Ngài đem sự sống của họ vào trong sự sống của Ngài, và
Ngài tuôn sự sống của Ngài vào trong sự sống của họ. V́ thế khi đă tiến lên
đến cơi hiệp nhất th́ Ngài có thể chia sớt tất cả những ǵ Ngài đă đạt được.
Vượt khỏi cơi giới chia rẽ và nh́n xuống những linh hồn đang ngụp lặn trong
sự phân cách, Ngài có thể tiến đến với họ trong khi họ không thể đến với
nhau. Nước có thể từ trên tuôn chảy vào nhiều đường ống, chúng cùng thông mở
đối với bồn chứa nhưng lại là đóng kín đối với nhau. Chỉ cần một điều kiện
để Christ có thể chia sớt sức mạnh của Ngài với một người em bé nhỏ là:
trong đời sống ngăn cách ấy, tâm thức của y phải mở rộng hướng về tâm thức
thiêng liêng, tự chứng tỏ dễ thụ cảm với sự sống đă được trao, sẵn sàng đón
nhận quà tặng ấy. V́ Thượng Đế rất tôn trọng Tinh Thần (cũng chính là Ngài
trong con người) đến đỗi Ngài không thể tuôn sức mạnh và sự sống của Ngài
vào linh hốn con người trừ phi linh hồn ấy sẵn ḷng chấp nhận nó. Ở dưới
phải có cửa mở cũng như ở trên có sẵn nguồn. Bản tánh thấp phải có trạng
thái đón nhận cũng như bản tánh cao sẵn sàng cho ra. Đó là dây liên kết giữa
Christ và con người, điều mà các giáo hội gọi là sự tuôn xuống “ân điển
thiêng liêng”, điều mà bởi “đức tin” để có được ân điển hữu hiệu. Như
Giordano Bruno có nói: Linh hồn con người có những cửa sổ và nó có thể đóng
lại. Mặt trời bên ngoài vẫn đang chiếu sáng, ánh sáng không hề thay đổi; hăy
mở cửa sổ ra và ánh nắng sẽ tràn vào. Ánh sáng của Thượng Đế vẫn luôn đập
vào cửa sổ của mỗi linh hồn con người, và khi cửa sổ mở ra th́ linh hồn được
chiếu sáng. Không có sự thay đổi trong Thượng Đế nhưng có sự đổi thay trong
con người. Nhưng không nên cưỡng bức ư chí con người, nếu không, Sự Sống
thiêng liêng trong y sẽ bị chận đứng trong bước đường tiến hóa của nó.
Như thế, trong mỗi Christ đang tiến lên tất cả
nhân loại được nâng lên một bậc cao hơn và nhờ sự Minh Triết của Ngài mà sự
vô minh của toàn thế giới được giảm bớt. Mỗi người bớt yếu hơn nhờ sức mạnh
của Ngài tuôn ra cho tấ cả nhân loại và thấm nhuần vào mỗi linh hồn. V́ hiểu
cạn hẹp và sai lầm giáo lư ấy, nên đă phát sinh một quan niệm về sự Cứu
Chuộc thay thế như một sự giao tiếp chính thức giữa Thượng Đế và con người,
trong đó đức Jesus giữ vai tṛ kẻ tội lỗi. Người ta không biết rằng Vị nào
đă tiến hóa đến mức độ ấy quả thật là một với tấ cả những huynh đệ của Ngài.
Sự đồng nhất về bản chất bị hiểu lầm thành sự thay thế cá nhân, và như thế
chân lư tinh thần lạc mất đi.
Bấy giờ Ngài hiểu được vị trí của Ngài trong
thế gian và nhiệm vụ của Ngài trong thiên nhiên- trở nên một Đấng Cứu Thế và
cứu chuộc tội lỗi cho thế gian. Ngài đứng trong Nội Tâm của thế nhân như một
Thầy Tư Tế Thượng Phẩm (High Priest) của nhân loại. Ngài là một với tất cả
người huynh đệ, không phải bằng sự thay thế dùm, mà bằng sự đồng nhất trong
một sự sống chung. Có tội lỗi chăng? Ngái cũng tội lỗi trong họ để cho sự
tinh khiết của Ngài tinh luyện họ. Có khổ đau chăng? Ngài cũng là người đầy
khổ đau trong họ, mỗi một trái tim tan vỡ làm tan vỡ tim Ngài. Có vui mừng
chăng? Trong họ, Ngài cũng vui mừng và tuôn phát niềm chí phước của Ngài. Có
khao khát chăng? Trong họ, Ngài cảm thấy niềm ước muốn sự hài ḷng của Ngài
tràn đầy người họ. Ngài có mọi điều v́ những ǵ của họ đều là của Ngài. Ngài
là toàn vẹn, vậy họ cũng toàn vẹn trong Ngài. Ngài mạnh mẽ, vậy ai có thể
yếu hèn khi Ngài ở trong họ? Ngài tiến lên điểm cao để Ngài có thể tuôn
xuống cho mọi người, và Ngài sống để mọi người c̣ thể chia sớt sự sống cùa
Ngài. Ngài nâng cao toàn thể thế gian cùng lên với Ngài. Con đường đạo sẽ dễ
dàng hơn cho tất cả mọi người v́ Ngài đă bước qua. Mỗi người con của người (
son of man) có thể trở nên một người con của Thượng Đế (Son of God) biểu lộ
ấy, một vị Cứu Thế. “Thượng Đế biểu lộ trong xác thịt) (I.Tim 3:16) trong
mỗi người Con ấy. Để cho Quyền Năng ấy có thể biểu lộ trong linh hồn mỗi
người, chỉ cần một điều là: linh hồn phải mở cửa đón Ngài vào. Dẫu Ngài thâm
nhập tất cả, nhưng Ngài không thể ép buộc ư chí họ để vào được. Ư chí con
người có thể chống lại Thượng Đế và con người. Nhưng theo luật tiến hóa, nó
hẳn sẽ pải t́nh nguyện tự kết hợp với hành đông thiêng liêng. Không nên ép
buộc nó khuất phục bất măn. Hăy để cho ư chí tự mở cửa, rồi sự sống sẽ tràn
vào linh hồn. Khi cửa c̣n đóng th́ làn hương thơm chỉ nên thổi ngang qua dịu
dàng để cho vị hương ngọt ngào có thể thắng lợi.
Trở thành một Đấng Christ là như thế. Nhưng làm
sao một cây viết khả hoại có thể viết lại những điều bất hoại, hay những lời
trần tục có thể kể lại những sự vượt quá khả năng của ngôn từ. Lưỡi không
thể nói lên và trí khôn chưa giác ngộ không thể hiểu được sự mầu nhiệm của
người Con đă trở thành một với Cha, mang theo vào ḷng Ngài những đứa con
của người.
Những ai muốn chuẩn bị tiến lên một đời sống
như thế trong tương lai, th́ ngay bây giờ, tại đời sống trần thế này, phải
bắt đầu dấn thân trên con đường Bóng (Shadow) của Thập Tự. Họ không nên nghi
ngờ khả năng tiến lên của họ v́ như thế là nghi ngờ Thượng Đế ngự trong họ.
“Hăy tin nơi bạn” đó là một trong những bài học phát xuất từ quan điểm cao
siêu của con người, v́ đức tin ấy thật sự ở trong Thượng đế nội tâm. Có một
phương thức để cho bóng của đời sống Christ (Christ-life) có thể chiếu rọi
vào đời sống thông thường của con người, đó là làm mỗi hành động như một
hành động hy sinh, không phải để đem lại kết quả cho người làm mà là cho
người khác; và trong những bổn phận nho nhỏ hàng ngày, những hoạt động tầm
thường, những quan tâm nhỏ bé, hăy thay đổi động lực (motive) hành động, và
như thế là thay đổi tất cả. Không cần phải thay đổi một điều ǵ trong đời
sống bên ngoài. Trong bất cứ cuộc sống nào, người ta cũng có thể dâng hiến
hy sinh. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, người ta cũng có thể phụng sự Thượng Đế.
Sự tiến bộ tâm linh được đánh dấu không phải bằng công việc làm, mà bằng
cách thức làm như thế nào. Cơ hội tăng trưởng không lệ thuộc hoàn cảnh, mà
do theo thái độ của y đối với chúng. Và quả thật, biểu tượng thập tự + này
đối với chúng ta là một tiêu chuẩn trắc nghiệm sự phân biệt điều tốt với
điều xấu trong các trường hợp khó khăn của đời sống. “Chỉ những hành động
nào có ánh sáng của thập tự chiếu rọi qua mới xứng đáng với đời sống của
người đệ tử”, câu thi trong một quyển sách châm ngôn huyền bí có nói như thế.
Nó có nghĩa là tất cả những ǵ mà người chí nguyện làm đều phải do ḷng
nhiệt tâm của t́nh thương hy sinh mách bảo. Câu thi sau cũng cùng tư tưởng
trên: “Khi một người bước vào đường đạo, y đặt trái tim y lên trên thập tự.
Khi thập tự và trái tim trở thành một, bấy giờ y đă đạt đến mục đích”. Như
thế, bất đồ, chúng ta có thể đo lường mức tiến hóa của chúng ta bằng cách
nh́n xem ḷng vô ngă, tính hy sinh có ưu thế trong đời sống của chúng ta hay
không.
Khi mỗi sự sống bắt đầu tự uốn nắn như thế, tức
là nó đang chuẩn bị cái hang động để Trẻ Christ sẽ được sinh trong đó, và sự
sống càng ngày hiệp nhất với sự sống thiêng liêng, càng ngày đem đời sống
thiêng liêng vào trong đời sống con người. Mỗi một đời sống như thế sẽ tăng
trưởng thành đời sống của một người “con yêu dấu” và có được sự vinh quang
của Christ. Mỗi người có
thể hoạt động theo chiều hướng đó để biến mỗi
hành động thành một sự hy sinh, cho đến khi mỏ vàng được loại bỏ chất bẩn,
chỉ c̣n lại chất vàng tinh anh.
CHƯƠNG 8
Những giáo điều về Sự Sống Lại và Sự Thăng
Thiên của Đấng Christ cũng thuộc về Tiểu Bí Pháp và là những đoạn trong toàn
bộ về “Thần Thoại Thái Dương” và về câu chuyện Sự Sống của Christ trong con
người.
Đối với chính Đấng Christ th́ những giáo điều
ấy quả có căn cứ trên những sự kiện lịch sử về việc Ngài tiếp tục dạy dỗ
những môn đệ của Ngài sau khi Ngài chết, và Ngài hiện diện trong Đại Bí Pháp
như một vị Đại Tư Giáo sau khi Ngài không c̣n trực tiếp dạy họ cho đến khi
Đức Jesus thay thế nhiệm vụ của Ngài. Trong các chuyện thần thoại th́ sự
sống lại là sự vinh hiển của một vị anh hùng bao giờ cũng là đoạn kết của
câu chuyện tử nạn. Trong Huyền Môn, thể xác của người thí sinh được đưa vào
trạng thái mê man như chết, bấy giờ y là một linh hồn được giải phóng, y du
hành khắp cơi giới vô h́nh rồi trở về và sống lại trong thể xác của y sau ba
ngày. C̣n trong câu chuyện về Sự Sống của mỗi cá nhân đang trở nên một
Christ, chúng ta sẽ thấy rằng vở kịch Sống Lại và Thăng Thiên được diễn lại
măi. Nhưng trước khi chúng ta có thể theo dơi câu chuyện này một cách khôn
ngoan, chúng ta phải nắm vững những nét đại cương về cơ cấu con người, hiểu
các thể tự nhiên và thể tinh thần con người: “Có một thể tự nhiên (natural)
và một thể tinh thần (Spiritual).” (I.Cor 15:44).
Vẫn c̣n những người xem con người chỉ như một
nhị nguyên gồm có linh hồn (soul) và thể xác (body). Họ dùng chữ tinh thần
và linh hồn cùng nghĩa như nhau; và họ nói đến “linh hồn và thể xác” cũng
không khác ǵ với “tinh thần và thể xác”, họ muốn nói con người gồm có hai
thành phần:một thể sẽ hư hoại đi sau khi chết trong khi đó thể kia sống măi.
Đối với những người đơn giản và không thông hiểu th́ sự phân chia sơ sài này
cũng tạm đủ nhưng nó sẽ không thể giúp ta hiểu được những lẽ bí nhiệm về sự
Sống Lại và Thăng Thiên.
Mọi người Cơ Đốc nào chỉ nghiên cứu thô thiển
về cấu tạo con người cũng nhận thấy được rằng nó có ba thành phần: Tinh
Thần, Linh Hồn và Thể Xác. Sự phân chia này hợp lư mặc dầu chúng ta cần phải
có thêm một sự phân chia một sự phân chia phụ nữa mới có thể nghiên cứu thâm
sâu hơn. Thánh Paul đă dùng cách phân chia ấy trong lời cầu nguyện “nguyện
tinh thần, linh hồn và thể xác của anh em đều được giữ vẹn, không chỗ trách
được” (I.Thes 5:23). Thần học Cơ Đốc chấp nhận cách phân chia ba bậc ấy.
Thật ra, Tinh Thần là một Tam Nguyên, phản ánh
của Tam Nguyên Tối Cao, chúng ta sẽ khảo cứu điều này trong chương 9: Tam
Nguyên. Con người thật sự, con người bất tử, đó là Tinh Thần, là Tam Nguyên
trong con người. Nó chính là sự sống,là tâm thức, và thể tinh thần
(spiritual) thuộc về nó mỗi một trạng thái của Tam Nguyên có một thể riêng.
Linh hồn là xấp hai gồm trí tuệ và t́nh cảm với những y phục tương ứng của
nó. Và Thể là dụng cụ bằng cật chất của Tinh Thần và Linh Hồn. Có một quan
điểm Cơ Đốc cho rằng con người là một xấp mười hai, 6 biến thể cấu tạo con
người tinh thần, c̣n 6 biến thể kia cấu tạo con người tự nhiên. Một quan
niệm Cơ Đốc khác lại cho rằng con người là một xấp mười bốn, bảy biến thể
thuộc tâm thức và bảy biến thể thuộc các loại sắc tướng, h́nh thức. Quan
điểm sau này hầu như đồng nhất với quan điểm do các nhà Thần Bí học hỏi
được, họ thường nói rằng con người là một xấp bảy, v́ thực sự y được phân
làm bảy phần, mỗi phần là một xấp hai gồm khía cạnh sự sống và khía cạnh
h́nh thể.
Các cách phân chia chánh và phụ này làm rối trí
người ít học, v́ vậy Origen và Clement đă nhấn mạnh về sự cần thiết của trí
tuệ đối với những ai muốn trở thành người Duy Tri (Gnostic). Sau cùng những
ai thấy cách phân chia làm rối trí họ th́ có thể xếp chúng qua một bên và
đừng ngăn cản các sinh viên nhiệt tâm v́ những sing viên này chẳng những
thấy chúng có tính cách soi sáng mà chúng c̣n tuyệt đối cần thiết để hiểu
minh bạch những Mầu Nhiệm của Sự Sống và Con Người.
Chữ Thể (Body) có nghĩa là một vận thể (vehicule),
hay một dụng cụ (instrument) của tâm thức (consciousness). Nó là một vận thể
v́ nó mang theo tâm thức trong nó, hoặc nó là một dụng cụ v́ tâm thức dùng
nó để tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Chúng ta cũng có thể ví nó như cái lọ
chứa tâm thức bên trong, giống như lọ đựng nước vậy. Đó là cái h́nh thể được
sự sống sử dụng, và chúng ta sẽ không biết được điều ǵ về tâm thức trừ khi
nó có liên quan đến các h́nh thể. Một h́nh thể có thể được cấu tạo bằng
những vật chất thanh bai nhất và số lượng ít nhất, gần như trong suốt đến
đỗi chúng ta chỉ ư thức được sự sống nội tại; tuy nhiên h́nh thể vẫn có ở đó
và được cấu tạo bằng Vật Chất. H́nh thể ấy có thể đông đặc đến đỗi nó che
mất sự sống nội tại và chúng ta chỉ ư thức được h́nh thể; tuy nhiên sự sống
vẫn có ở đó và được cấu tạo bằng Tinh Thần- đối cực với Vật Chất. Sinh viên
phải nghiên cứu nhiều lần sự kiện căn bản này:tính nhị nguyên trong mọi sự
hiện hữu, tính cộng sinh không chia ly được của Tinh Thần và Vật Chất trong
một hạt bụi cũng như trong Đức Thượng Đế đă biểu lộ. Quan niệm ấy phải trở
nên một thành phần của y; nếu không, y không thể tiếp tục việc nghiên cứu
các Tiểu Bí Pháp, Christ trong Thượng đế hay trong Con Người cũng chỉ nêu ra
cùng một sự kiện về tính nhị nguyên được lập lại khắp trong thiên nhiên. Mọi
vật trong vũ trụ đều được cấu tạo trên tính nhị nguyên cơ bản đó.
Con người có một “thể tự nhiên” (natural body)
nó gồm có bốn phần riêng rẽ và khác nhau, thể này sẽ chết. Hai trong bốn
phần này làm bằng vật chất cơi trần và không bao giờ tách rời hoàn toàn với
nhau cho đến khi chết, mặc dầu chúng c̣ thể tách rời một phần do thuốc mê
hoặc bịnh tật- Hai phần này được xếp chung với nhau và được gọi là Thể Xác.
Trong thể này, con người thực hiện các hoạt động có ư thức khi y thức tỉnh.
Nói theo kỹ thuật th́ thể này là một dụng cụ của tâm thức y trong cơi vật
chất.
Phần thứ ba là Thể T́nh Cảm (Desire Body), nó
được gọi như thế bởi v́ bản tính dục vọng, t́nh cảm của con người có ở trong
dụng cụ đó. Trong giấc ngủ y rời bỏ thể xác và thực hiện các hoạt động có ư
thức trong thể t́nh cảm tại cơi giới vô h́nh sát cận với trái đất hữu h́nh
của chúng ta. Do đó nó là một dụng cụ của tâm thức tại cơi thấp nhất của
những cơi siêu vật chất (superphysical worlds), đó là cơi thứ nhất mà con
người bước sang sau khi chết.
Phần thứ tư là Thể Trí, bản tính lư trí hoạt
động trong nó trên phương diện cụ thể. Nó là một dụng cụ của tâm thức tại
cơi thứ hai của các cơi siêu vật chất. Đó cũng là cơi thứ hai hay cơi hạ
thiên (lower heavenly world) mà con người bước sang sau khi chết và sau khi
được giải phóng tự do khỏi cơi thứ nhất vừa nói ở đoạn trên.
Bốn phần này tạo thành thể tự nhiên mà thánh
Paul nói đến. Sự phân chia khoa học này vượt khỏi giáo lư Cơ Đốc thông
thường vốn dĩ mơ hồ và lẫn lộn về vấn đề này. Đó không phải là các giáo hội
không nắm vững nó. Trái lại, sự hiểu biết về cơ cấu con người là một thành
phần trong Tiểu Bí Pháp. Sự phân chia đơn giản thành Tinh Thần, Linh Hồn và
Thể Xác chỉ là công truyền, một sự phân chia sơ lược làm nền tảng. Sự phân
chia “Thể” thành các phần phụ sẽ được đề cập đến trong giai đoạn giáo huấn
về sau, chuẩn bị cho việc huấn luyện mà vị Đạo sư sẽ dạy cho môn sinh tách
rời một vận thể này khỏi vận thể khác và sử dụng mỗi vận thể như một dụng cụ
của tâm thức tại cơi tương ứng của nó.
Người ta có thể hiểu được quan niệm này dễ
dàng. Nếu ai muốn du hành trên mặt đất cứng th́ y dùng chiếc xe như một vận
thể của y. Nếu y muốn đi trên biển th́ y thay đổi vận thể của y, y đi tàu.
Nếu y muốn du lịch trên không th́ y lại thay đổi vận thể của y lần nữa, y
dùng khinh khí cầu. Y vẫn là một người suốt các cuộc hành tŕnh ấy, nhưng y
dùng ba vận thể khác nhau tùy theo loại vật chất mà y muốn du hành trong đó.
Thí dụ này không đúng lắm nhưng nó không dẫn ta lạc đường. Khi con người bận
rộn ở cơi trần, vận thể y là thể xác, tâm thức của y hoạt động trong và
xuyên qua thể xác. Khi y bước sang cơi giới trên cơi hồng trần, trong giấc
ngủ hoặc sau khi chết, vận thể y là thể t́nh cảm, và y có thể học cách dùng
thể này một cách có ư thức như khi y dùng thể xác một cách có ư thức vậy.
Hàng ngày y đă sử dụng nó một cách vô thức trong đời sống của y khi y đang
cảm nghe hay đang ham muốn; hằng đêm y cũng đă sử dụng nó như thế. Khi y
tiếp tục bước vào cơi hạ thiên sau khi chết, vận thể của y là thể trí; đó
cũng là thể mà y đă sử dụng hằng ngày trong lúc sống khi y đang suy nghĩ, và
trong bộ óc sẽ không có tư tưởng nào nếu trong thể trí không có ǵ cả.
Con người c̣n có them “một thể tinh thần”, nó
gồm có ba phần riêng biệt, mỗi phần thuộc về một trong ba Ngôi trong Tam
Nguyên của Tinh Thần con người. Thánh Paul nói ông được “cất lên đến từng
trời thứ ba” và ở đó ông nghe được “những lời không thể nói mà người nào
cũng không được phép nói ra.” (II Cor 12:2,4). Những người được Điểm Đạo đều
biết đến các cơi trời này, họ cũng biết muốn vào cơi trời thứ nhất th́ phải
dùng thể tinh thần làm vận thể, và cơi trời nào mà họ có thể vượt vào được
th́ tùy thuộc sự phát triển của ba phần của thể ấy.
Phần thấp nhất trong ba phần này thường được
gọi là Thể Nguyên Nhân (Causal Body), chỉ có người nào đă học hỏi giáo lư về
sự Luân Hồi được dạy trong Giáo Hội Đầu Tiên- mới có thể hiểu rơ đầy đủ tên
thể này. Họ biết rằng sự tiến hóa của con người cần rất nhiều kiếp liên tiếp
nhau trên trái đất trước khi linh hồn mới phát triển của người hoang dă có
thể trở thành linh hồn toàn thiện của Christ, và bấy giờ, toàn thiện như Cha
ở trên Trời (S. Matt 5:48) y mới hiểu được sự hiệp nhất của Con với Cha
(S.John 17:22.23). Đó là một thể tồn tại từ kiếp này sang kiếp khác và tất
cả dĩ văng đều được lưu trữ trong trí nhớ của nó. Những nguyên do để cấu tạo
nên các hạ thể (các thể tự nhiên) phát xuất từ nó; các hạ thể được cấu tạo
thế nào là do theo những đặc tính lưu trữ trong nó. Nó là nơi chứa nhận tất
cả kinh nghiệm của một người trong suốt tất cả các kiếp sống của y, là trung
tâm của Tâm Thức.
Phần thứ hai của thể tinh thần được Thánh Paul
nói đến trong những câu ư tứ sau: “Chúng ta lại có ngôi nhà đời đời trên
trời, bởi Đức Chúa Trời, không phải bởi tay người làm ra (II Cor 5:1).” Đó
là Thể Chí Phước (Bliss Body), thể vinh hiển của Christ “Thể Sống Lại”. Đó
không phải là một thể “do đôi tay làm nên” không phải do hành động của tâm
thức trong các hạ thể, không do kinh nghiệm lập thành, cũng không phải do
các vật chất mà con người thâu thập được trong cuộc hành tŕnh lâu dài của y
cấu hợp nên. Nó là một thể thuộc về sự sống Christ, đời sống của Sự Điểm
Đạo, nó thuộc về sự phát triển thiêng liêng trong con người. Nó được Thượng
Đế tạo nên, do hoạt động của Tinh Thần, và tăng trưởng trong toàn thể đời
sống của người được Điểm Đạo; nó chỉ đạt đến sự toàn thiện vào lúc “Sống
Lại”.
Phần thứ ba của thể tinh thần là một màn vật
chất mỏng manh thanh nhẹ, nó tách Tinh Thần thành một Hữu Thể (Being) riêng,
tuy nhiên nó vẫn cho phép sự thẩm thấu lẫn nhau của tất cả trong tất cả, và
như thế nó biểu lộ đặc tính hiệp nhất căn bản. Vào ngày mà chính Con sẽ
“phục Đấng đă khiến muôn vật phục ḿnh hầu cho Đức Chúa Trời là mọi sự trong
mọi sự” (I Cor 15:28) th́ cái màn mỏng manh này sẽ phải bị vượt qua. Nhưng
đối với chúng ta th́ nó vẫn c̣n duy tŕ phần cao nhất của thể tinh thần, nhờ
nó chúng ta sẽ tiến lên đến Cha và hiệp nhất với Ngài.
Cơ Đốc luôn luôn nhận biết sự hiện hữu của ba
thế giới hay ba miền mà con người phải trải qua, một là cơi trần, hai là một
trạng thái trung gian mà y phải bước vào sau khi chết, và thứ ba là cơi
trời. Ba cơi này đều được mọi người Cơ Đốc có học tin tưởng; chỉ những người
kém học mới tưởng tượng rằng một người sau khi chết liền bước ngay sang
trạng thái chí phúc cuối cùng. Nhưng có vài ư kiến khác nhau về đặc tính của
cơi trung gian. Công Giáo La Mă gọi là Luyện Ngục (Purgatory), và tin rằng
mọi linh hồn đều vào đó ngoại trừ linh hồn Vị Thánh là người đạt đến sự toàn
thiện hoặc linh hồn của một người đă chết với trọng tội. Khối nhân loại đông
đảo đều bước vào miền tinh luyện trong đó một người ở lâu hay mau tùy theo
các tội lỗi mà y đă phạm, và y chỉ ra khỏi nơi đó để vào cơi trời sau khi y
đă trở nên tinh khiết. C̣n các cộng đồng Tin Lành thí lại khác nhau về giáo
lư lẫn đến chi tiết, và hầu hết đều không nhận quan niệm về sự tinh luyện
sau khi chết, nhưng họ đều đồng ư rằng có một trạng thái trung gian, đôi khi
được gọi là” thời kỳ chờ đợi”. Các Cơ Đốc nhân thời nay hầu hết đều xem cơi
trời như một trạng thái cuối cùng mà họ không có một quan niệm đại cương
hoặc rơ rệt về bản chất của nó, và họ cũng không biết những người đă đạt đến
đó rồi th́ tiếp tục tấn hóa thêm hay đứng yên ở t́nh trạng cũ. Trong Cơ Đốc
Giáo đầu tiên th́ cơi trời này được xem như là- và quả thật là- một giai
đoạn trong hành tŕnh tiến hóa của con người. Những giáo lư về sự luân hồi
trong h́nh thể này hoặc h́nh thể khác, về sự tiền-hiện-hữu (pre existence)
của linh hồn được dạy rất là đại cương. Kết quả là cái t́nh trạng trên cơi
trời ấy là một t́nh trạng tạm thời, mặc dầu thường rất lâu, kéo dài “một
thời đại” như được xác định trong Tân Ước Hy Lạp, thời đại này chấm dứt khi
con người trở lại giai đoạn kế tiếp của sự sống và sự tiến hóa liên tục của
y- chớ không “đời đời” như bản dịch được phép của Anh Quốc đă dịch sai (Ghi
chú trong sách: Sự dịch sai này là điều tự nhiên v́ công tác dịch thuật được
thực hiện vào thế kỷ 17 và v́ tất cả mọi ư tưởng về sự tiền-hiện-hữu của
linh hồn và về sự tiến hóa của linh hồn đều đă phai mờ trước đó rất lâu khỏi
Cơ Đốc Giáo, ngoại trừ những giáo lư của một ít giáo phái bị Giáo Hội La Mă
xem là tà giáo)
Để hoàn tất những nét đại cương cần thiết để
hiểu Sự Sống Lại và Thăng Thiên, chúng ta nên xem coi các thể ấy phát triển
thế nào trong giai đoạn tiến hóa cao hơn.
Thể xác lúc nào củng ở trong t́nh trạng lưu
chuyển, những phân tử của nó được thay mới luôn và được xây dựng luôn. V́ nó
được cấu tạo bởi thức ăn và thức uống của chúng ta, bởi khí trời chúng ta
thở và bởi những phân tử rút được từ môi trường xung quanh của cả người và
vật, nên chúng ta có thể tinh luyện nó bằng cách chọn lựa những vật liệu tốt
đẹp để biến nó thành một vận thể tinh khiết hơn, thụ cảm với những làn rung
động thanh bai hơn, dễ đáp ứng với những ước vọng trong sạch hơn và với
những tư tưởng cao quư hơn. V́ lư do này mà tất cả ai ước muốn đạt được các
Lẽ Mầu Nhiệm đều phải tuân thủ các quy luật về dinh dưỡng, vệ sinh v.v… và
phải rất cẩn thận với những người kết giao, những nơi lai văng.
Thể t́nh cảm cũng thay đổi tương tự như thế
nhưng các vật liệu được thải ra hay hút vào tùy theo tác động của dục vọng,
t́nh cảm, cảm nghĩ. Nếu chúng thô kệch th́ các chất được hút vào cũng thô
kệch, c̣n khi chúng được tinh luyện th́ thể t́nh cảm sẽ trở nên tinh tế và
rất nhạy cảm với những ảnh hưởng thanh cao. Khi con người càng chế ngự bản
tính thấp hèn của y, khi các ước muốn, cảm nghĩ và xúc động của y trở nên vô
ngă, khi y yêu thương mọi người xung quanh một cách vị tha và không chiếm
hữu, th́ đó là y đang càng tinh luyện dụng cụ của tâm thức cao siêu này. Do
đó kết quả là trong giấc ngủ y rời xác thân và học được những kinh nghiệm
cao siêu hơn, bổ ích hơn; c̣n sau khi chết, y vượt qua trạng thái trung gian
mau lẹ, thể t́nh cảm của y tan
ră nhanh chóng không ngăn cản cuộc hành tŕnh tiến lên của y.
Thể trí của y cũng đang được xây dựng như thế,
bằng những tư tưởng, nguyện vọng, tưởng tượng, suy luận, xét đoán, năng
khiếu thẩm mỹ của y và bằng cách sử dụng tất cả quyền năng của tư tưởng. Y
tạo thể trí ra thế nào th́ y phải mang lấy nó như thế ấy. Khoảng thời gian
và sự phong phú của trạng thái trên cơi trời của y tùy thuộc vào loại bản
chất và cơ cấu thể trí của y mà y đă thành lập trong kiếp sống của y dưới
trần.
Khi một người bước sang giai đoạn tiến hóa cao
siêu th́ thể nguyên nhân bắt đầu hoạt động độc lập trong cơi vô h́nh và dần
dần y ư thức được đời sống của y trên cơi trời ngay giữa cơn quay cuồng của
cuộc sống thế nhân. Bấy giờ y trở nên “Con của người vẫn ở trên trời”
(S.Jhon 3:13) y có thể nói các sự trên trời bằng chính năng lực hiểu biết
của y. Khi y bắt đầu sống đời sống của Con và tiến bước trên Thánh Đạo (Path
of Holiness) th́ y đă sống trên cơi trời mặc dầu y vẫn c̣n đang ở cơi trần,
y đă sử dụng thể này một cách có ư thức. V́ lẽ cơi trời không xa chúng ta mà
lại bao quanh chúng ta khắp phía, chúng ta không có quan năng nhận thức các
rung động của nó chớ không phải chúng không có, mà mọi giây phút chúng đều
tác đông lên chúng ta, nên chỉ cần ư thức được chúng là chúng ta đă ở trên
cơi trời. Muốn ư thức được, chúng ta phải xây dựng thể trời với các chất
liệu cơi trời. V́ thế “Con của người” vẫn luôn ở cơi trời. Nhưng chúng ta
biết rằng “Con của người” là một từ áp dụng cho người được Điểm Đạo đang trở
nên toàn thiện, chớ không áp dụng cho Christ đă thăng thiên và vinh hiển.
Trong những giai đoạn tiến hóa dẫn đến Con
Đường Dự Bị (Probationary path) và cả trên Con Đường này nữa, th́ phần đầu
của thể tinh thần phát triển nhanh chóng, giúp y- sau khi chết- tiến vào cơi
trời thứ hai. Sau khi được Sinh Lần Hai tức Christ sinh ra trong người, Thể
Chí Phúc “trong những cơi trời” (in the heavens) được bắt đầu thành lập. Đây
là thể của Christ, phát triển trong khi Ngài c̣n đang thi hành chức vụ ở thế
gian; và khi nó đă phát triển th́ tâm thức của “Con của Trời” càng ngày càng
rơ rệt và sự hiệp nhất với Cha sắp đến chiếu rọi vào Tinh Thần đang khai mở.
Trong Bí Pháp Cơ Đốc- cũng như trong các Bí
Pháp cổ xưa Ai Cập, Chaldea v.v… có một biểu tượng bên ngoài tượng trưng
những giai đoạn mà con người phải trải qua. Y được dẫn vào pḥng Điểm Đạo, y
giăng tay nằm dài trên đất, trên đá hay đôi khi trên thập tự giá bằng gỗ,
theo tư thế của một người chịu đóng đinh. Vị Điểm Đạo dùng tượng Điểm Đạo
điểm lên tim y- mũi “giáo” của sự tử nạn- y liền rời xác thân bước vào cơi
giới trên. Xác thân y bấy giờ ở trong trạng thái mê man- cái chết của người
tử nạn. Sau đó thể xác của y được đặt vào quan tài bằng đá và canh gác cẩn
thận. Trong khi đó, trước tiên y sẽ trải qua những miền tối tăm lạ lùng, gọi
là “tâm (heart) của trái đất”, và sau đó y sẽ tiến lên ngọn núi cơi trời và
đặt lên đấy thể chí phước toàn thiện, bấy giờ đă được hính thành đầy đủ là
một dụng cụ của tâm thức. Trong thể này, y trở về thể xác và làm linh hoạt
nó lại. Thập tự giá mang thể xác- hoặc cái thể xác mê man và cứng ngắt này
trong trường hợp không dùng thập tự- được đem ra khỏi quan tài đá và đặt
trên một mặt phẳng nghiêng nh́n về hướng đông, sẵn sàng đón nhận mặt trời
lên vào ngày thứ ba. Ngay khi những tia nắng mặt trời chiếu vào gương mặt,
th́ Christ, người được Điểm Đạo toàn thiện hay là Chân Sư (Master), lại nhập
vào thể
xác, làm vinh hiển nó bởi thể chí phúc mà Ngài đang mang, cho nó những đức
tính mới, quyền lực mới, biến đổi nó giống như chính Ngài. Đó là sự sống lại
của Đấng Christ, và sau đó thể xác ấy thay đổi, có bản chất mới.
Đó là lư do tại sao lúc nào mặt trời cũng được
xem là biểu tượng của Đấng Christ đang tiến lên, và tại sao trong các thi ca
Phục Sinh (Easter) luôn nói đến sự đang lên của Ngôi Mặt Trời Công Nghĩa.
Thánh kinh cũng có viết về Đấng Christ chiến thắng: “Ta là Đấng sống và đă
chết; nầy Ta sống đời đời, và cầm ch́a khóa của sự chết và âm phủ.’ (Rev.
1:18). Tất cả mọi năng lực của các cơi giới thấp đều nằm dưới quyền lực của
Con, người đă chiến thắng vinh quang, cái chết không c̣n uy quyền ǵ với
Ngài nữa. Ngài nắm sự sống và sự chết trong đôi bàn tay mạnh mẽ của Ngài.
Ngài là Đấng Christ thăng thiên, Đấng Christ chiến thắng.
Sự thăng thiên của Đấng Christ là một điều Bí
Nhiệm của phần thứ ba của thể tinh thần, sự khoác vào cái Y Phục của Vinh
Hiển, chuẩn bị cho sự hiệp nhất của Con với Cha, của con người và Thượng Đế,
khi Tinh Thần lại bước vào sự vinh quang mà nó đă có trước khi chưa có thế
gian.” (S.John 17:5). Sau đó Tinh Thần xấp ba trở thành một, tự biết ḿnh
vĩnh cửu, và Đấng Thượng Đế Ẩn Mật đă được t́m thấy. Đó là h́nh ảnh của giáo
lư về sự Thăng Thiên khi nói về sự tiến hóa của một cá nhân.
Sự Thăng Thiên đối với nhân loại là khi toàn
thể giống dân đă đạt đến trạng thái Christ, trạng thái của Con, là khi Con
trở nên một với Cha, và Thượng Đế là tất cả trong tất cả. Đó là mục đích của
nhân loại, được h́nh dung trước trong sự chiến thắng của người được Điểm
Đạo, nhưng chỉ đạt đến khi giống dân được toàn thiện, bấy giờ “đứa con Nhân
Loại mồ côi” không c̣n mồ côi nữa, Nó đă ư thức biết rằng Nó là Con của
Thượng Đế.
Khảo
cứu những giáo lư về sự Chuộc Tội, sự Sống Lại và sự Thăng Thiên, chúng ta
mới thấy được chân lư ẩn trong Tiểu Bí Pháp, và chúng ta mới bắt đầu hiểu
được đầy đủ chân lư trong lời dạy của các tông đồ rằng Christ không phải là
một nhân vật duy nhất, mà là “những trái đầu mùa của những kẻ ngủ”. (I.Cor
15:20) và mỗi người đều trở nên một Christ. Vậy th́ không nên nghĩ Đấng
Christ là một Vị Cứu Thế bên ngoài, nhờ công nghĩa của Ngài mà con người
được cứu khỏi cơn thạnh nộ của Trời. Trong Giáo Hội hiện phổ biến một giáo
lư gây cảm hứng và vinh quang rằng Ngài là trái đầu mùa của nhân loại, là
kiểu mẫu mà mỗi người sẽ tự tạo lại trong chính ḿnh, là sự sống mà tất cả
mọi người đều chia sớt. Những người được Điểm Đạo luôn luôn được xem là
những trái đầu mùa, là sự hứa hẹn của một giống dân sẽ trở nên toàn thiện.
Đối với người Cơ Đốc Đầu Tiên, Đấng Christ là biểu tượng sống động cho sự
thánh thiện của y, là trái vinh hiển của hạt giống y mang trong tim y. Không
phải được cứu chuộc bởi một Đấng Christ bên ngoài, nhưng được vinh hiển
trong một Đấng Christ bên trong- đó là giáo lư của Cơ Đốc Giáo bí truyền,
của Tiểu Bí Pháp. Giai đoạn đệ tử phải bước sang giai đoạn của Con. Đời sống
của Con là phải sống giữa nhân loại cho đến khi nó kết thúc vào lúc Sự Sống
Lại và Christ vinh hiển trở nên một với những Vị Cứu Thế toàn thiện.
Thánh kinh này rộng lớn hơn là Thánh kinh của
thời nay biết bao nhiêu! Loại bỏ lư tưởng vĩ đại của phần gióa lư bí truyền,
phần giáo lư ngoại truyền của các giáo hội thật là cạn hẹp và nghèo nàn.
CHƯƠNG 9
Tất cả sự nghiên cứu về sự Hiện Hữu Thiêng
Liêng đều phải bắt đầu bằng sự xác nhận rằng Nó là Một (one). Tất cả nhà
Hiền Triết đều tuyên bố Nó như thế, mỗi tôn giáo đều xác nhận Nó như thế,
mỗi triết lư đều chủ trương Nó như thế. “Chỉ có một và không có hai” (Chandogyopanishad).”
Nghe đây hỡi Israel! Đức Chúa Trời là Đấng duy nhất” (Deut 6:4) Thánh Paul
tuyên bố “Đối với chúng ta, chỉ có một Đức Chúa Trời” (I Cor 8:6). “Không có
Thượng Đế nào ngoài Đấng Thượng Đế” Vị sáng lập Hồi Giáo xác nhận như thế và
dùng câu ấy làm biểu tượng cho đức tin của Ông. Một Hiện Hữu Duy Nhất (One
Existence) vô cùng, chỉ Nó mới biết sự đầy đủ của Nó mà thôi. Tiếng Nó (It)
có vẻ tôn kính và bao gồm hơn tiếng Ngài (He). Đó là sự tăm tối Vĩnh Cửu, từ
đó phát sinh ra Ánh Sáng.
Nhưng khi là Thượng Đế biểu lộ (Manifested God)
th́ Một hiện thành Ba, Một Tam Nguyên gồm Ba Vị Thiêng Liêng (Divine
Beings). Một là Thượng Đế, c̣n Ba là những quyền lực được biểu lộ
(Manifested Powers) bao giờ chân lư này cũng được tuyên bố như thế, nó rất
quan trọng trong sự tương quan của nó đối với con người và sự tiến hóa của y
đến nỗi nó luôn luôn là một phần cần yếu trong Tiểu Bí Pháp…
Các triết gia Ấn Độ nói về Đức Thượng Đế biểu
lộ là Sat-Chit-Ananda, tức Hiện Hữu -Thông Tuệ - và Chí Phước. C̣n quần
chúng Ấn Độ th́ xem Ngài là một Tam Nguyên: Shiva, Vishnou, Bhramâ, tức Đấng
Khởi Đầu và Cuối Cùng, Đấng Bảo Tồn, Đấng Sáng Tạo Vũ Trụ…
Giáo lư Cơ Đốc về Tam Nguyên cũng hoàn toàn
đồng ư với những tôn giáo khác về các nhiệm vụ của ba Ngôi Thiêng Liêng. Chữ
Ngôi (Person) do từ chữ persona- mặt nạ, vật để che đậy, mặt nạ che Đấng
Hiện Hữu Duy Nhất, sự Tự Biểu Lộ dưới một h́nh thể, Cha là Nguồn Cội và
Chung Cuộc của mọi sự. Con có bản chất kép, là Lời (word), là Minh Triết
(Wisdom). Thánh thần (Holy Spirit) là Thông Tuệ Sáng Tạo (Creative
Intelligence), Ngôi này biến đổi vật chất hổn mang ngươn thỉ thành những vật
chất sẵn sàng để tạo nên các h́nh thể.
Nhưng trước khi chúng ta tạm rời ư nghĩa công
truyền về Tam Nguyên, chúng ta cần ghi nhớ một điểm khác là có một sự biểu
lộ cơ bản thứ tư, Quyền Năng của Thượng Đế, luôn lấy h́nh thức âm (feminin
form). Trong Ấn Giáo, mỗi Ngôi trong Tam Nguyên đều có quyền năng biểu lộ
(manifested Power) của Ngài. Đấng duy nhất và sáu trạng thái (aspects) nầy
tạo thành bảy thiêng liêng. Với nhiều Tam Nguyên của các Tam Nguyên th́ có
một h́nh thức âm xuất hiện, lúc nào cũng liên hệ đặc biệt vời Ngôi Hai, như
thế ta có Xấp Bốn (Quaternary).
Bây giờ chúng ta hăy xem chân lư bên trong.
Đấng Duy Nhất biểu lộ thành Đấng Đầu Tiên,Đấng Tự Hiện Hữu, Căn Nguyên của
mọi sự Cha Tối Cao, Chữ Ư Chí (will)hay Quyền Năng (power) có lẽ là chữ
thích hợp nhất để diễn tả Đấng Tự Biểu hiện nầy, v́ trước khi ư chí biểu lộ
th́ không có sự biểu lộ nào, không có động lực thúc đẩy tiến hóa nào. Vũ trụ
được xem bắt nguồn trong ư chí thiêng liêng. Kế tiếp đó là trạng thái thứ
hai của Đấng Duy Nhất: Minh Triết. Quyền Năng được hướng dẫn bởi Minh Triết.
“Ngoài Ngài chẳng có vật ǵ được tạo nên cả” S.John 1:3). Minh Triết có bản
chất kép, như ta thấy sau đây. Khi hai trạng thái Ư Chí và Minh Triết biểu
lộ th́ một trạng thái thứ ba phải theo sau đó để làm cho hai trạng thái trên
hữu hiệu: đó là Thông Tuệ Sáng Tạo, trí thiêng liêng trong Hành Động. Một
tiên tri Do Thái viết: “Chính Ngài là Đấng đă lấy quyền năng ḿnh dựng nên
đất, lấy sự Khôn Ngoan (Wisdom) ḿnh lập nên thế gian, lấy sự Sáng Suốt ḿnh
giương các tầng trời ra”. (Jer 51:15) sự tương quan giữa ba nhiệm vụ ấy rất
rơ ràng. Ba Ngôi nầy không tách rời được, không phân ly được, đó là ba trạng
thái của Đấng Duy Nhất. Để cho dễ hiểu người ta tŕnh bày ba nhiệm vụ ấy
riêng rẽ, nhưng chúng ta không hề cách chia nhau. Mỗi Ngôi này đều cần thiết
cho Ngôi kia, mỗi Ngôi này đều hiện hữu trong Ngôi kia. Trong Ngôi Nhất, Ư
Chí hay Quyền năng chiếm ưu thế, nhưng Mimh Triết và Hoạt Động Sáng Tạo đều
hiện hữu. Trong Ngôi Hai, Minh Triết trội hơn, nhưng Quyền Năng và Hoạt Động
Sáng Tạo cũng vẫn nội tại ở đấy. Trong Ngôi Ba, Hoạt Động Sáng Tạo có phần
hơn nhưng quyền năng và Minh Triết cũng vẫn có mặt. Và mặc dầu các chữ Nhất,
Nh́, Ba được dùng là để chỉ những Ngôi ấy biểu lộ trong thời gian, theo thứ
tự của Sự Tự Khai Mở; tuy nhiên trong vĩnh cửu th́ ba Ngôi ấy liên quan hỗ
tương lẫn nhau và cùng bằng nhau. Không Ngôi nào lớn hơn hoặc kém hơn Ngôi
khác.
Tam Nguyên nầy là một Ngă (self) thiêng liêng,
Tinh thần(Spirit) thiêng liêng. Vị Thượng Đế Biểu Lộ, Đấng “đă có, hiện có
và c̣n đến”.(Rev.1:8), Ngài là căn nguyên của mọi Xấp ba căn bản trong đời
sống trong tâm thức.
Nhưng chúng ta thấy có Ngôi Tư- hoặc trong vài
tôn giáo là Tam Nguyên thứ Hai, âm tính(feminine), Đức Mẹ. Nhờ Đó (that) mà
sự biểu lộ có thể thực hiện được, Đó vẫn vĩnh cửu trong Đấng Duy Nhất và là
căn nguyên của sự giới hạn và phân chia, một khi được biểu lộ th́ được gọi
là Vật Chất. Đây là Phi- Ngă (not-self), Vật Chất thiêng liêng, Thiên
Nhiên(Nature) biểu lộ. Nh́n theo quan điểm Duy Nhất “Bà” (She) là Ngôi Tư,
giúp cho Ba Ngôi có thể biểu lộ. Bà là Sân Trường(field) cho Ba Ngôi hoạt
động nhờ vào đặc tính phân chia vô cùng của Bà. Bà cùng lúc là “Tớ gái của
Ngài” (S.Luck 1:38) và là Mẹ của Ngài. Bà nhượng chất liệu (subtance) của Bà
để cấu tạo Thân Thể cho Ngài (tức vũ trụ) khi Bà được Quyền Năng của Ngài
phủ bóng lên Bà (S.Luke 1:35). Quan sát cẩn thận hơn, Bà cũng là Xấp ba,
hiện hữu trong ba trạng thái bất khả phân ly, Bà không thể hiện hữu được nếu
không có ba trạng thái này. Đó là Tĩnh Yên, Chuyển Động và Nhịp Nhàng
(stability-Motion-Rhythm), những đặc tánh căn bản và cần yếu của Vật Chất.
Chúng làm cho Tinh Thần trở nên hữu hiệu nên được xem là những Quyền năng
biểu lộ của Tam Nguyên. Tĩnh Yên hay là Quán Tính (innertia) tạo một căn
bản, điểm tựa của đ̣n bẫy. Chuyển Động được biểu lộ, nhưng chỉ tạo nên hỗn
loạn. Sau đó nhịp nhàng xuất hiện, và rồi Vật Chất rung động sẵn sàng để
được tạo h́nh. Khi ba trạng thái nầy quân b́nh nhau, đó là Một (One), là Vật
Chất Trinh Nguyên, không sinh hóa (virgin matter). Khi Quyền Năng của Đấng
Tối Cao phủ bóng lên Bà và hơi thở của Tinh thần (spirit) đến với Bà th́
những đặc tính này bị mất quân b́nh và Bà trở thành Đức Mẹ Thiêng Liêng của
các cơi.
Tác dụng hỗ tương đầu tiên xảy ra giữa Bà và
ngôi Ba của Tam Nguyên. Do tác dụng của Ngôi ấy mà Bà có năng lực sanh hóa
h́nh thể. Rồi Ngôi Hai được biểu lộ, tự bao ḿnh trong vật chất đă được
thành lập, và trở nên Vị Trung Gian, nối liền trong chính ḿnh Tinh Thần và
Vật Chất, Nguyên H́nh (Archetype) của mọi h́nh thể. Chỉ xuyên qua Ngài mà
Ngôi Nhất mới biểu lộ thành Cha của tất cả Tinh Thần.
V́ thế chúng ta mới thấy tại sao Ngôi Hai của
Tam Nguyên Tinh Thần luôn luôn là Xấp Hai, Ngài là Đấng Duy Nhất tự bao ḿnh
trong vật chất, trong Ngài hai bán phần sinh đôi của Thượng Đế hiện ra trong
sự hiệp nhất (union) chớ không như là một đơn nhất (one). Từ đấy Ngài cũng
là Minh Triết; v́ trên khía cạnh Tinh Thần, Minh Triết là Thuần Lư (Pure
Reason), nó tự biết ḿnh là Ngă Độc Nhất (One Self) và biết mọi sự là Ngă ấy;
c̣n trên khía cạnh Vật Chất, nó là T́nh Thương thu hút vô số h́nh thể sắc
tướng lại với nhau, và tạo mỗi h́nh thể ấy thành một đơn vị chớ không phải
chỉ là một đống phân tử hỗn tạp. Đó là nguyên lư hấp dẫn vạn vật, nó duy tŕ
các cơi và giữ cho mọi vật trong đó hoàn toàn trật tự và quân b́nh. V́ thế
người ta nói Minh Triết “điều khiển mọi sự một cách uy mănh và dịu dàng”,
Minh Triết nâng đỡ và
bảo tồn vũ trụ.
Trong những biểu tượng thế giới t́m thấy trong
mọi tôn giáo, Điểm (Poin, chỉ vị trí) được xem như Ngôi Nhất trong Tam
Nguyên. Về biểu tượng này, S.Clement nhận xét rằng nếu ta loại bỏ đi khỏi
một vật những đặc tính của nó, rồi kế đó là chiều cao, chiều rộng và chiều
dài th́ “điểm” (point) c̣n lại là một đơn vị (unit) có một vị trí. Từ đó,
nếu chúng ta lại loại bỏ vị trí th́ ta chỉ c̣n quan niệm về đơn vị. Từ nơi
Tối Tăm vô cùng, Ngôi Nhất chiếu ra một Điểm Ánh Sáng, trung tâm của vũ trụ
tương lai, một đơn vị trong đó mọi vật hiện hữu không phân ly. Vật chất dùng
để thành lập vũ trụ, sân trường hoạt động của Ngài, được định biên giới bởi
sự rung động lui và tới của Điểm ấy theo mọi hướng (H1)
H1
tạo thành một khối cầu giới hạn bởi Ư Chí, Quyền Năng của
Ngài. Đây là sự tạo lập “Thế gian bởi Quyền Năng của Ngài” mà Jeremiah đă
nói. Như thế biểu tượng đầy đủ là một Điểm trong một khối cầu, thường được
tŕnh bày là một Điểm trong một h́nh tṛn (H2).
H2
Ngôi Hai được tŕnh bày thành một Đường (line) H3,
H3
đường kính của ṿng tṛn, một sự rung động đơn giản đầy
đủ của Điểm. Đường này đều bằng nhau theo mọi hướng trong khối cầu, nó chia
h́nh tṛn ra làm hai và chỉ rơ Tính Nhị Nguyên của Ngài. Trong Ngài, Vật
Chất và Tinh Thần vốn là một đơn vị trong Ngôi Nhất, lại được phân làm hai
mặc dầu vẫn hiệp nhất. (H4)
H4
Ngôi Ba được tŕnh bày bằng một chữ thập do hai đường
kính thẳng góc nhau tạo thành . Đường kính thứ hai tách phần trên của h́nh
tṛn khỏi phần dưới. Đây là Thập Tự Hy Lạp. (H5)
H5
Khi Tam Nguyên được tŕnh bày như một đơn vị
th́ người ta dùng biểu tượng tam giác, hoặc nội tiếp trong một ṿng tṛn
(H6)
H6
H7
H8
hoặc tự do (h7). Vũ trụ được biểu tượng hóa thành hai
h́nh tam giác xỏ tréo nhau (H8), Tam Nguyên Tinh Thần có đỉnh hướng lên trên,
c̣n Tam Nguyên Vật Chất có đỉnh hướng xuống dưới. Nếu dùng màu th́ Tam
Nguyên Tinh Thần màu trắng, vàng hoặc lửa, c̣n Tam Nguyên Vật Chất có màu
đen hay thuộc sắc tối.
Bây giờ th́ chúng ta có thể sẵn sàng theo dơi
tiến tŕnh tạo dựng càn khôn. Một trở thành Hai, Hai trở thành Ba, Tam
Nguyên biểu lộ. Vật Chất trong vũ trụ đă được định biên cương và chờ tác
động của Tinh Thần. Đây là “lúc khởi đầu” trong Sáng Thế Kư, khi “Đức Chúa
Trời (God) dựng nên trời và đất.” Lời tuyên bố này được giải thích thêm bằng
những câu thường lập lại rằng Ngài “lập những nền của đất” (Job 38:4, zech
12:1). Nơi đây ta thấy sự định biên cương vật chất, nhưng hăy c̣n là hỗn
mang, “không h́nh thể và trống không”.(Gen.1:2)
Từ căn bản này, Thông Tuệ Sáng tạo (Đức Thánh
Thần, Ngôi Ba) bắt đầu tác động, “Ngài vận hành trên các mặt nước” (Gen
1:2), biển vật chất bao la. Hoạt động đầu tiên này do Ngài mặc dù Ngài thuộc
Ngôi Ba- một điểm vô cùng quan trọng.
Trong Huyền Môn, công việc này được miêu tả chi
tiết là sự chuẩn bị vật chất cho vũ trụ, sự thành lập các nguyên tử, sự thu
hút chúng lại thành từng khối và kết hợp các khối này thành những nguyên tố,
rồi từ những nguyên tố này tạo thành các hợp chất hơi, lỏng, đặc. Công việc
này không phải chỉ riêng cho các loại vật chất cơi hồng trần mà c̣n cho tất
cả các trạng thái vật chất mảnh mai tế vi khác trong các cơi vô h́nh. Hơn
nữa Ngài c̣n là Tinh Thần của Sự Sáng Suốt (Spirit of Understanding) nên
Ngài tưởng nghĩ ra các h́nh thể mà vật chất sau này sẽ được uốn nắn theo đó,
chúng thường được gọi là các nghi h́nh, h́nh mẫu (prototypes) cơi trời. Đây
là công việc được Thánh Kinh viết lại: “Ngài lấy sự sáng suốt ḿnh mà giương
các từng trời ra” (Jer 51:15).
Công việc của Ngôi Hai tiếp theo công việc của
Ngôi Ba. Ngài dùng Minh Triết ḿnh mà “tạo lập thế giới”, dựng nên các bầu
hành tinh (globes) và mọi sự trên đó, “muôn vật bởi Ngài dựng nên”
(S.John1:3). Ngài là Sự Sống cấu tạo của thế giới, và mọi vật đều có cội rễ
trong Ngài (Bhagavad Gita 9:4). Sự sống của Con biểu lộ trong vật chất đă
được Thánh Thần chuẩn bị (đây lại là một “Thần Thoại” về sự nhập thế) là sự
sống tạo dựng, bảo tồn, và duy tŕ mọi h́nh thể, v́ Ngài là T́nh Thương, là
năng lực thu hút, tạo sự kết dính trong các h́nh thể, giúp chúng tăng trưởng
mà không bị rời ră. Ngài là Đấng Bảo Tồn, Đấng Nâng Đỡ, Đấng Cứu Thế. Chính
v́ vậy mà mọi sự đều thuộc về Ngài, mọi sự đều tụ tập trong Ngài, và có lư
do tại sao “chẳng bởi Ta th́ không ai được đến cùng Cha” (S.John 14:6)
Công việc của Ngôi Thứ Nhất tiếp theo công việc
của Ngôi Hai. Ngài (Ngôi Nhất) c̣n được gọi là “Cha của các Thần Linh
(Spirits)” (Heb 12:9), là “Chúa các Thần Linh trong mọi xác thịt” (Num
16:22).Tinh Thần (Spirit) thiêng liêng-cái Ngă chân thật trong con người- là
tặng phẩm của Ngài. Tinh Thần con người là Sự Sống Thiêng Liêng của Cha tuôn
xuống vào b́nh chứa đă được Con chuẩn bị sẵn sàng bằng những vật liệu được
Ngôi Ba làm linh hoạt. Và Tinh Thần con người này vốn phát xuất từ Cha- cũng
là nơi phát xuất của Con và Thánh Thần- là một Đơn vị giống như Cha, với ba
trạng thái trong Một. Vậy th́ con người quả thật là “làm như h́nh Ngài và
theo đặc tính Ngài” (Gen 1:26) và có khả năng trở nên “trọn vẹn như Cha trên
trời trọn vẹn vậy” (S.Matt 5:48).
Đó là tiến tŕnh của Vũ Trụ, nó được lập lại
trong sự tiến hóa của con người. “Trên sao dưới vậy”.
Tam Nguyên của Tinh Thần trong con người v́
cũng giống với thiêng liêng, nên hẳn phải biểu lộ các đặc tính thiêng liêng.
V́ thế chúng ta thấy nơi y có Quyền Năng- hoặc dưới h́nh thức cao siêu là Ư
Chí, hoặc dưới h́nh thức thấp kém là Dục Vọng- Quyền Năng này phú cho y động
lực tiến hóa. Chúng ta cũng thấy trong y có Minh Triết, sự Thuần Lư biểu lộ
thành T́nh Thương trong thế giới h́nh thể. Sau cùng nơi y cũng có Thông Tuệ,
hoặc Linh Trí, là một năng lực sáng tạo. Và trong sự tiến hóa của y, các đặc
tính này cũng biểu lộ tuần tự từ đặc tính Thứ Ba sang qua Thứ Hai rồi Thứ
Nhất. Quần chúng nhân loại đang mở mang thể trí, phát triển tính thông minh.
Chúng ta có thể thấy hoạt động riêng rẽ của nó ở khắp nơi, phân cách nhân
loại thành từng nhóm nhỏ và phát triển mỗi nhóm theo một cách khác nhau để
họ có thể trở thành các vật liệu thích ứng cho việc xây dựng một Nhân Loại
thiêng liêng. Nhân loại mới vừa đạt đến tŕnh độ này mà thôi, và nó c̣n phải
tiến thêm nữa.
Khi chúng ta khảo sát một thiểu số nhân loại,
chúng ta thấy rằng trạng thái thứ hai của Tinh Thần thiêng liêng trong con
người đang xuất hiện, giới Cơ Đốc gọi là “Christ trong người”. Như chúng ta
đă thấy, sự tiến hóa của trạng thái thứ hai này vượt khỏi tŕnh độ Điểm Đạo
Thứ Nhất. Minh Triết và T́nh Thương là những dấu hiệu của người được Điểm
Đạo, chúng càng chiếu sáng khi y phát triển trạng thái thứ hai của Tinh
Thần. Quả thật nơi đây cũng: “Chẳng bởi Ta th́ không ai được đến cùng Cha”,
v́ chỉ khi nào sự sống của Con đạt đến toàn vẹn, Con mới có thể cầu nguyện:
“Cha ơi, bây giờ xin lấy vinh hiển con vốn có nơi Cha trước khi chưa có thế
gian mà tôn vinh. Con nơi chính ḿnh Cha (S.John 17:5). Rồi Con lên đến Cha,
trở nên một với Cha trong sự vinh hiển thiêng liêng.” Ngài biểu lộ sự tự hữu
(self-existence), sự tự hữu này nội tại trong bản tánh thiêng liêng của
Ngài, nó phát triển từ hạt giống đến bông hoa, “v́ Cha đă có sự sống trong
Ngài nên Ngài đă ban cho Con sự sống trong Ngài vậy.” (S.john 5:26). Con trở
nên một Trung Tâm tự-ư-thức (self-conscious) sống động, một Trung Tâm tự tại
không c̣n bị ràng buộc bởi các hạn chế của kiếp sống trước, một Trung Tâm
sống động mănh liệt trong Ngọn Lửa Thiêng.
Chu kỳ tiến hóa này có thể tạo được những Hóa
Thân (Giáng sinh, Incarnations) cho tương lai, cũng như cuộc tiến hóa trước
đă tạo được những Hóa Thân cho thế giới chúng ta. Những Trung tâm sống động
này không bao giờ mất sự đồng nhất của Họ, cũng không mất đi những kư ức của
quá khứ của Họ về những ǵ mà Họ đă kinh nghiệm lúc c̣n gian lao trên con
đường dốc. Và một Vị Tự-Ư Thức như thế (Self-conscious Being) có thể xuất ra
khỏi Ḷng Cha, tự biểu lộ để giúp đỡ thế giới. Ngài vẫn duy tŕ trong Ngài
sự hiệp nhất giữa Tinh Thần và Vật Chất, tính nhị nguyên của Ngôi Hai. (Mọi
sự Hóa Thân thiêng liêng trong các tôn giáo đều liên hệ đến Ngôi Hai trong
Tam Nguyên). Từ đó Ngài sẵn sàng khoác lại y phục để biểu lộ trong cơi trần
và trở lại thành Người. Ngài vẫn giữ bản chất của Vị Trung Gian, v́ thế Ngài
là dây liên kết giữa Tam Nguyên thiêng liêng và Tam Nguyên con người.
“Thượng Đế ở cùng chúng ta” (S. Matt 1:23), Ngài thường được gọi như thế.
Một Vị Cao Cả như thế, bông hoa vinh quang của
một vũ trụ đă qua, có thể đến trong thế gian này với tất cả sự toàn thiện
của Minh Triết và T́nh Thương của Ngài, với tất cả kư ức của quá khứ của
Ngài. Nhờ kư ức đó mà Ngài có thể trở thành Vị Pḥ Trợ mọi sinh linh. Ngài
biết tất cả mọi giai đoạn tiến hóa v́ Ngài đă sống qua, và Ngài có thể giúp
đỡ mọi người ở mọi tŕnh độ bởi Ngài đă kinh nghiệm tất cả. “V́ chính ḿnh
Ngài đă chịu đau khổ trong khi bị cám dỗ, nên có thể cứu giúp những kẻ bị
cám dỗ vậy”. (Heb.2:18).
Trong khối nhân loại đi sau Ngài, có thể có sự
Hóa Thân Thiêng Liêng. Ngài đă tiến lên cao nhưng Ngài lại trở xuống để giúp
đỡ người khác trèo lên bực thang tiến hóa. Và khi chúng ta hiểu được những
chân lư này và vài ư nghĩa về Tam Nguyên ở trên cao và ở dưới thấp, th́ một
tín điều ngày trước rất khó hiểu nay lại trở nên một chân lư linh hoạt.
Chính nhờ sự hiện hữu của Tam Nguyên trong con người mà chúng ta có thể hiểu
sự tiến hóa của y một cách minh bạch, và thấy được sự phát triển của y trong
đời sống trí tuệ rồi sau đó bước sang đời sống của Christ. Thần bí học căn
cứ trên sự kiện này, và chúng ta hy vọng chắc chắn sẽ nhận thức được Thượng
Đế. Đó là lời dạy của Bậc Thánh Hiền; và khi chúng ta bước trên Con Đường
Đạo mà các Ngài đă chỉ, chúng ta sẽ thấy chứng cớ của Ngài rất đúng thật.
CHƯƠNG 10
Đôi khi một “tinh thần tân tiến” lại phản đối
mạnh mẽ sự cầu nguyện v́ nó không t́m thấy một nguyên nhân liên hệ nào giữa
lời cầu xin với sự kiện xảy ra. Trong khi đó tôn giáo lại rất chú trọng vào
sự cầu nguyện. Tuy nhiên cả đến một người sùng đạo đôi khi cũng cảm thấy khó
nghĩ về tính cách thuần lư của sự cầu nguyện; Y có đang dạy Đấng Toàn Tri
chăng? Y có đang thay đổi ư chí của Ngài, Người mà “trong Ngài chẳng có sự
biến đổi, cũng không có bóng dời đổi” (S.James 1:17) chăng? Nhưng do kinh
nghiệm của chính y và của cả những người khác, y lại thấy có “lời đáp ứng
cho sự cầu nguyện”, một kết quả xác định cho một lời cầu xin.
Nhiều lời cầu nguyện không liên hệ đến các kinh nghiệm chủ quan, mà liên hệ
đến những sự kiện khó hiểu của thế giới khách quan. Một người cầu xin tiền
tài, và bưu điện đă đem đến cho y số bạc cần thiết. Một bà cầu xin thực phẩm,
và người ta đă đem đến tận cửa cho bà. Đặc biệt với các công cuộc từ thiện,
có rất nhiều chứng cớ về sự cầu xin trong cơn nguy cấp đă được đáp ứng cách
mau lẹ và dồi dào. Mặt khác cũng có rất nhiều trường hợp cầu xin không được
đáp ứng. Có người phải chết đói, có trẻ bị bệnh chết trong tay bà mẹ mặc cho
những lời cầu cứu Thượng Đế thống thiết. Vậy đâu là quan điểm chân thật của
sự cầu nguyện?
Nhưng cũng chưa phải là hết. Có nhiều sự kiện
lạ kỳ và rối trí. Một lời cầu xin tầm thường được đáp ứng trong khi đó một
lời cầu xin quan trọng lại thất bại; một khó khăn thoảng qua được giải
quyết, c̣n lời cầu xin cứu giúp một sự sống vô cùng yêu quư lại không nhận
được hồi âm. Hầu như một sinh viên không thể nào khám phá được một định luật
nào để biết một lời cầu nguyện có kết quả hay không.
Điều cần thiết đầu tiên để t́m hiểu định luật
này là phân tách chính sự cầu nguyện, v́ chữ này bao gồm nhiều hoạt động
khác nhau của tâm thức. Có những lời cầu nguyện đ̣i hỏi các lợi lộc trần thế,
các nhu cầu vật chất: thực phẩm, quần áo, tiền bạc, việc làm, công việc
thành công, chóng khỏi bệnh.v..v. Chúng có thể xếp vào loại A. Sau đó có
những lời cầu nguyện xin giúp đỡ trong các khó khăn về trí tuệ, về đạo đức
và về sự tăng trưởng tinh thần, để vượt qua các cám dỗ, để có nghị lực và
giác ngộ. Chúng được xếp vào loại B. Và sau cùng có những lời cầu nguyện
không đ̣i hỏi điều ǵ, đó là sự tham thiền và chiêm ngưỡng Đấng Toàn Thiện
thiêng liêng, một nguyện vọng nồng nhiệt hiệp nhất với Thượng Đế- trạng thái
xuất thần của nhà thần bí, cơn thiền định của nhà hiền triết, niềm hoan hỷ
của bậc thánh nhân. Đây là sự”giao tiếp chân thật giữa Thiêng Liêng và con
người” khi một người đắm ḿnh trong t́nh thương và tôn kính Thượng Đế v́
Thượng Đế vốn thu hút và khơi động t́nh thương của trái tim. Chúng ta xếp
những lời cầu nguyện này thuộc hạng C.
Trong các cơi vô h́nh, có các hạng Thông Tuệ
(Intelligences) liên hệ tiếp xúc với con người, một cái thang jacob thật sự,
“Các Thiên Sứ (Angels of God) đi lên xuống trên thang đó, và trên đầu thang
là Đức Chúa Trời” (Gen.28:12,13). Vài hạng Thông Tuệ này là những Quyền Lực
tinh thần mạnh mẽ; c̣n những hạng khác lại rất thấp kém, dưới tŕnh độ tâm
thức con người. Khía cạnh huyền bí của Thiên Nhiên này (xem chương 12) là
một sự kiện được mọi tôn giáo thừa nhận. Khắp thế giới đều đầy dẫy những
sinh linh vô h́nh trước mắt thường. Những cơi vô h́nh xuyên thấu cơi hữu
h́nh này và những sinh linh khôn ngoan (intelligent beings) đông nghẹt mọi
phía quanh ta. Có vài hạng đáp ứng lời khẩn cầu của con người, và vài hạng
khác lại ngoan ngoăn tuân theo ư chí con người. Cơ Đốc Giáo thừa nhận sự
hiện hữu của những hạng Thông Tuệ cao siêu hơn dưới tên chung là Thiên Thần
(Angels), họ là “những linh hay phục dịch (ministering) được phái đi phục sự”
(Heb.1:14). Nhưng chức vụ của họ là ǵ, bản chất công việc của họ như thế
nào, sự liên hệ giữa họ với nhân loại ra sao, tất cả điều đó thuộc về giáo
huấn trong Tiểu Bí Pháp trong khi đó sự giao tiếp thật sự với họ xảy ra
trong Đại Bí Pháp. Nhưng ngày nay những chân lư ấy đă ch́m sâu vào hậu cảnh,
trừ một số ít được dạy trong các cộng đồng Hy Lạp và La Mă. Đối với người
Tin Lành, “chức vụ của thiên thần” chỉ có chút giá trị hơn một câu văn mà
thôi.
Ngoài ra, chính con người cũng là một tay sáng
tạo thường xuyên những vật vô h́nh, v́ các rung động của những tư tưởng và
dục vọng của y đă tạo ra những h́nh thể làm bằng những chất mảnh mai hơn, sự
sống duy nhất của chúng chỉ là cái tư tưởng và t́nh cảm đă phát sinh chúng.
Như thế y tạo nên một đội ngũ vật phục dự vô h́nh. Tuy nhiên, trong những
cơi vô h́nh ấy, c̣n có những người phụng sự, họ hoạt động trong các thể
thanh nhẹ của họ trong lúc thể xác họ đang ngủ yên, họ chăm chú lắng nghe
tiếng gọi giúp đỡ. Và trên hết là Sự Sống của Thượng Đế, luôn ư thức, luôn
hiện hữu, uy mănh và đáp ứng mọi nơi trong lănh vực của Ngài. Không một chim
sẻ nào rơi xuống đất, không một sinh vật khờ dại nào vui mừng hay đau khổ,
không một em bé nào cười đùa hay nức nở mà Ngài không biết. Sự Sống và T́nh
Thương ấy quán xuyến tất cả, bao bọc tất cả, hộ tŕ tất cả “trong Ngài chúng
ta sống, động và tồn tại” (Acts.17:28). V́ không có chi gây đau khổ hay sung
sướng có thể chạm đến xác thân mà các dây thần kinh cảm giác không mang tín
hiệu của sự va chạm ấy truyền lên những trung tâm trong bộ óc và từ đó phát
ra mệnh lệnh đón nhận hay xua đuổi xuyên qua các dây thần kinh vận động.
Cũng thế, mỗi sự rung động trong vũ trụ- thể xác của Thượng Đế- chạm đến tâm
thức của Ngài và v́ thế gợi sự đáp ứng. Các tế bào thần kinh, các dây thần
kinh, các bắp thịt có thể được xem là các tác nhân thừa hành (agents) của
cảm giác và hoạt động, nhưng chính con người mới cảm giác và hoạt
động. Do đó hằng hà các Thông Tuệ ấy có thể là các tác nhân thừa hành, nhưng
chính Thượng Đế mới là người biết và trả lời. Không có điều ǵ quá nhỏ bé
đến đỗi không tác động được đến tâm thức
thanh
bai hiện hữu khắp nơi ấy, cũng không có ǵ quá lớn lao đến đỗi vượt qua nó
được. Chúng ta c̣n rất hữu hạn đến đỗi chỉ cái quan niệm về tâm thức
bao-gồm-tất-cả ấy cũng đủ làm chúng ta kinh ngạc và bối rối. Giáo sư Huxley,
trong một đoạn đáng chú ư, đă tưởng tượng có sự khả hữu của những nhân vật
có một trí thông minh vô cùng trác tuyệt, một tâm thức bành trướng thêm măi,
họ đạt đến một tŕnh độ cao xa hơn con người rất nhiều trong khi tŕnh độ
con người chỉ hơn một loại côn trùng. Đó không phải là một điều tưởng tượng
khoa học xa vời phóng đại, mà nó quả miêu tả một hiện thực. Có một Đấng mà
tâm thức luôn hiện diện khắp mọi điểm trong vũ trụ của Ngài, v́ thế mà chịu
ảnh hưởng ở bất cứ nơi nào. Tâm thức ấy không những rộng lớn mà c̣n tinh
nhuệ không tưởng tượng nổi, nó càng nhạy cảm và thông hiểu hơn là một tâm
thức bị hạn chế. Đấng ấy càng cao cả bao nhiêu th́ tâm thức Ngài càng sễ
chịu ảnh hưởng bấy nhiêu.
Bấy giờ, Sự Sống bao-trùm-tất-cả này sử dụng
những sự sống mà Ngài đă sinh ra như những vận hà (channels), bất cứ sự sống
nào cũng được dùng như một tác nhân thừa hành của Ư-Chí ư-thức-tất-cả-ấy. Để
Ư Chí ấy có thể biểu lộ ra thế giới bên ngoài, cần phải có một phương tiện
để biểu lộ. Tùy theo năng lực tiếp nhận của họ, Ngài nhờ họ làm những người
hoạt động trung gian giữa nơi này và nơi khác trong vũ trụ. Họ hoạt động như
các dây thần kinh hoạt động trong thân thể Ngài và thực hiện động tác yêu
cầu.
Bây giờ chúng ta hăy xét đến các loại lời cầu
nguyện trên và xem chúng được đáp ứng bằng cách nào.
Đối với lời cầu nguyện của một người thuộc loại
A có nhiều cách đáp ứng. Bản chất của một người như thế rất đơn giản, rơ
ràng ở mực độ tiến hóa hiện nay của y th́ tất nhiên y quan niệm Thượng Đế
như một người cung cấp các nhu cầu cho y, tiếp xúc mật thiết và trực tiếp
với những nhu yếu hằng ngày của y. Y hướng đến Ngài để xin lương thực hằng
ngày một cách tự nhiên như khi một đứa trẻ đến với cha mẹ nó vậy. Một trường
hợp điển h́nh này là trường hợp của Georges Muller. Trước khi được người đời
biết đến là người nhân từ, ông đă bắt đầu công việc từ thiện với đôi bàn tay
trắng, không bạn bè, không tiền bạc. Ông đă cầu xin thực phẩm cho các em,
các em không có nguồn cứu trợ nào ngoài ḷng nhân từ của ông.Và tiền bạc
luôn luôn đến đủ số nhu cầu trực tiếp. Điều ǵ đă xảy ra? Lời cầu xin của
ông là một ư muốn mănh liệt, ư muốn ấy tạo một h́nh thể đầy sự sống và năng
lực. Cái sinh vật này chỉ có một ư tưởng:cần giúp đỡ, cần thực phẩm. Nó đi
khắp cơi trên, t́m kiếm. Có một nhà từ thiện muốn giúp đỡ những người cần
dùng, y đang đi t́m cơ hội để cho. Giống như một nam châm hút lấy thép non,
một người như thế hấp dẫn cái h́nh thể ư muốn ấy (desire-form). Nó gợi trong
trí y những rung động đồng nhất với nó: G.Muller, đám trẻ mồ côi, các nhu
cầu… và y đă t́m được lối thoát cho động lực từ thiện của y, y viết ngân
phiếu và gửi đi. Tự nhiên là G.Muller sẽ nói Thượng Đế đă đặt lời cầu xin ấy
vào tâm một người như y để y giúp đỡ. Theo ư nghĩa thâm sâu nhất th́ lời nói
của Muller rất đúng, bởi v́ không có sự sống nào, không có năng lực nào
trong vũ trụ mà lại không phát xuất từ Thượng Đế; nhưng vật tác nhân thừa
hành trung gian, theo các luật thiêng liêng, chính là cái h́nh thể ư muốn đă
được người cầu nguyện tạo nên.
Người ta cũng có thể nhận được một kết quả y
như thế bằng cách sử dụng mạnh mẽ ư chí mà không cần đến lời cầu xin nào của
một người biết các cơ năng của sự cầu nguyện. Người dùng phương pháp sau này
sẽ nghĩ rơ rệt nhu cầu của y, thu hút về y loại vật chất mảnh mai thích hợp
nhất với mục đích của y để bao lấy tư tưởng trên. Sau đấy, y dùng ư chí mạnh
mẽ để hoặc là gởi nó đến một người xác định và tŕnh bày nhu cầu của y, hoặc
là phóng nó ra các vùng xung quanh để ai có ḷng từ thiện sẽ thu hút lấy.
Nơi đây không có lời cầu xin, mà chỉ có sự áp dụng ư thức về ư chí và hiểu
biết.
Tuy nhiên đa số mọi người đều không biết về các
mănh lực trong các cơi vô h́nh và không quen sử dụng ư chí nên sự cầu nguyện
đối với họ dễ tập trung tư tưởng và ư muốn nồng nhiệt hơn là việc cố gắng
dùng tư tưởng để tạo nên sức mạnh của chính họ. Mặc dầu họ hiểu trên lư
thuyết, nhưng họ nghi ngờ năng lực ḿnh, và ḷng nghi ngờ rất nguy hại cho
sự áp dụng ư chí. Người cầu nguyện có hiểu cơ năng tư tưởng hay không cũng
không ảnh hưởng ǵ đến kết quả. Một em bé đưa tay ra nắm lấy món đồ, em
không cần hiểu chi vế cách vận động của bắp thịt, về các biến đổi điện và
hóa do các cử động trong bắp thịt và dây thần kinh, em cũng không cần tính
toán công phu khoảng cách món đồ bằng cách đo góc thị giác. Em muốn nắm lấy
món đồ, các cơ quan trong thân thể em vâng lời ư chí của em dẫu em không
biết đến sự hiện hữu của nó. Đối với người cầu nguyện cũng thế, y không cần
biết đến mănh lực sáng tạo của tư tưởng y, đến sinh vật sống động mà y đă
phái đi. Y hành động một cách vô thức như đứa trẻ nắm lấy món đồ nó muốn.
Trong tất cả hai trường hợp, Thượng Đế đều là Vị Tác Động chủ yếu, mọi quyền
năng đếu phát xuất từ Ngài và công việc thật sự được các cơ quan thực hiện
tuân theo các luật của Ngài.
Nhưng đây không phải là cách thức duy nhất để
đáp ứng lời cầu nguyện loại A. Một người nào đó tạm thời rời thể xác và hoạt
động trong các cơi vô h́nh, một vị Thiên Thần đi ngang qua đó, có thể nghe
tiếng kêu cứu, rồi có thể y sẽ đưa tư tưởng ấy vào trong trí một người từ
thiện nào đó. Người nấy sẽ nói: “Tư tưởng của ông nọ đă đến với tôi sáng
nay. Tôi dám nói một tấm ngân phiếu sẽ hữu ích cho ông ta.” Nhiều lời cầu
xin được đáp ứng theo cách này, đường liên kết từ nơi nhu cầu đến nơi cung
cấp là do một vị Thông Tuệ nào đó. Đấy là chức vụ của các hạng Thiên Thần
thấp, họ cung cấp cho các nhu cầu cá nhân và giúp đỡ vào các công việc từ
thiện.
Sự thất bại của loại cầu xin này là do một
nguyên nhân ẩn kín khác. Mỗi người đă tạo những món nợ phải trả; những tư
tưởng, dục vọng, hành động sái quấy của y đă tạo trở ngại trên con đường y,
đôi khi chúng giam y vào các bức tường ngục tù. Một món nợ xấu phải được trả
bởi sự đau khổ, y phải gánh lấy
những hậu quả các việc làm sái quấy của y. Một người, do việc làm sái quấy
trong quá khứ, ngày nay phải chịu chết đói; y kêu gào cầu xin thoát khỏi số
phận nhưng vô ích. H́nh-thể-ư-muốn y sẽ t́m kiếm nhưng không thể gặp được;
nó sẽ va phải luồng mănh lực của hành động sái quá khứ và bị dội ngược trở
lại. Khắp nơi, chúng ta sống trong môi trường của luật. Những mănh lực này
có thể bị biến đổi hoặc triệt tiêu hoàn toàn bởi những mănh lực khác. Hai
mănh lực y hệt nhau có thể tác dụng vào hai trái banh giống y nhau. Nhưng
trong khi một lực hướng trái banh đến đích nhắm th́ lực kia làm cho trái
banh kia lệch khỏi đường đi. Cũng v́ thế với hai lời cầu xin giống nhau, một
lời có thể thẳng tiến trên con đường của ḿnh, không gặp trở ngại và chạm
đến mục tiêu; c̣n lời kia th́ bị văng xa bởi một mănh lực mạnh mẽ hơn của
hành động xấu quá khứ. Một lời cấu xin được đáp ứng, c̣n một lời kia không
hồi âm, nhưng kết quả trong hai trường hợp đều là do luật mà thôi.
Chúng ta hăy xét đến loại B. Những lời cầu xin
giúp đỡ trong các trường hợp khó khăn về đạo đức và trí tuệ có một kết quả
kép: a) Chúng tác động trực tiếp
để thu hút sự giúp đỡ và b) Đồng
thời chúng tác động trở lại người cầu nguyện.
a)Chúng
gây sự chú ư cho các Thiên Thần, cho các đệ tử hoạt đông ngoài thể xác, họ
luôn luôn t́m kiếm để giúp đỡ những tâm hồn bối rối. Họ đưa lời khuyên nhủ,
khuyến khích, ánh sáng vào tâm thức hồng trần của y.”Ngài quỳ xuống mà cầu
nguyện… (S.Luke 22:41,43). Những tư tưởng được gợi ư sr4 xóa tan nỗi khó
khăn về trí tuệ, chiếu rọi ánh sáng vào một vấn đề đạo đức bí hiểm, hoặc
chúng sẽ xoa dịu cơn rối loạn và lo lắng. Và quả nếu không có Thiên Thần nào
qua đấy, th́ lời kêu cứu của kẻ thất vọng sẽ đạt đến “Trái Tim ẩn kín của
Cơi Trời” (Hidden Heart of Heaven), một sứ giả dẽ được phái đi giúp đỡ, một
Thiên Thần nào đó sẽ sẵn sàng bay đến ngay khi cảm nghe xung động ấy, mang
theo ư chí phụng sự thiêng liêng.
b)
Kết quả thứ hai có tính cách chủ quan: lời cầu nguyện tác động trở lại chính
người cầu nguyện. Lời cầu của y đă đưa tâm tri1y vào trạng thái thụ cảm, làm
bản tính thấp kém của y yên lặng lại và như thế giúp cho sức mạnh và năng
lực khai sáng của bản tính thanh cao tuôn xuống tự do. Những luồng năng lực
từ Con Người Bên Trong (Inner Man) luôn tuôn xuống và phát ra thế giới bên
ngoài, tâm thức của một bộ óc hồng trần liền sử dụng các năng lực này để
thực hiện các hoạt động hằng ngày. Nhưng khi tâm thức bộ óc quyết ư không
hướng về thế giới bên ngoài mà hướng vào nội tâm th́ nó sẽ trở nên một kho
chứa tồn trữ thay v́ chỉ là đường ống dẫn giữa thế giới nội tâm và thế giới
ngoại cảnh. Trong cảnh yên lặng v́ các hoạt động ồn ào bên ngoài chấm dứt, “tiếng
nói yếu ớt nhỏ bé” của Tinh Thần có thể được nghe thấy, và sự chú ư tập
trung của “cái trí đang chờ đợi” giúp nó ghi nhận được lời th́ thầm êm dịu
của Chân Ngă Nội Tâm.
Sự giúp đỡ từ bên ngoài và bên trong c̣n rơ rệt
hơn nữa khi sự cầu nguyện hướng về sự tăng trưởng và giác ngộ tinh thần. Các
vị phụng sự- thiên thần và nhân loại- không những nồng nhiệt thúc đẩy sự
tiến hóa tinh thần mà c̣n nắm lấy mọi cơ hội do một linh hồn nguyện ước vươn
lên tạo ra. Ḷng mong mỏi một sự tăng trưởng tinh thần như thế giải phóng
được năng lực cao siêu, ḷng mong ước tinh thần ấy đă kêu gọi lời đáp ứng
trên cơi tinh thần.
Một lần nữa, luật đồng thanh lại hiện hữu. Âm
điệu của nguyện vọng cao cả
được đáp ứng bởi âm điệu cùng loại,
bởi sự giải phóng một năng lực cùng loại, bởi
sự rung động đồng nhịp với nó. Sự Sống thiêng liêng từ trên luôn luôn đè ép
xuống màn giới hạn phía dưới, v́ thế khi một mănh lực từ dưới vượt lên phá
vỡ màn giới hạn ấy th́ Sự Sống thiêng liêng tuôn xuống tràn ngập cả linh
hồn. Khi một người cảm nghe ḍng sự sống tinh thần ấy, y kêu lên: “Lời cầu
nguyện của tôi được đáp ứng, và Thượng Đế đă khiến Thánh Linh của Ngài vào
tâm tôi”. Quả thật vậy, nhưng hiếm khi y biết rằng Thánh Linh (Spirit) ấy
luôn luôn t́m lối vào, và “Những kẻ thuộc về Ngài chẳng tiếp nhận Ngài”
(S.John 1:11). “Nầy, ta đứng ngoài cửa mà gơ, nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa
cho, th́ ta sẽ vào cùng người ấy” (Rev. 3:20).
Nguyên tắc đại cương đối với tất cả lời cấu
nguyện loại này là: sự đáp ứng của đời sống bao la bên ngoài và bên trong
chúng ta th́ tỉ lệ với mức dộ tiêu tan phàm ngă và với cường độ của nguyên
vọng hướng thượng. Nếu chúng ta đừng chia rẽ với nhau và hợp nhất đại đồng
hơn, chúng ta sẽ thấy ánh sáng, sự sống và sức mạnh tràn ngập ḷng ta. Khi ư
chí chia rẽ không c̣n nhắm mục tiêu riêng tư của nó nữa và bắt đầu phụng sự
thiên ư, th́ bấy giờ sức mạnh của Thiêng Liêng sẽ tuôn vào nó. Khi một người
lội ngược ḍng, y tiến rất chậm; nhưng khi y xuôi ḍng th́ cả sức mạnh của
ḍng nước lôi cuốn y theo. Những năng lực thiêng liêng ấy đang hoạt động
trong mọi ngành của Thiên Nhiên. Những công tŕnh lớn lao nhất của y được
thực hiện không phải do năng lực của y, mà do tài khéo léo y đă chọn lựa và
phối hợp các mănh lực giúp đỡ y, dùng những mănh lực thuận lợi để tiêu trừ
các mănh lực đối kháng. Các mănh lực cuốn xoáy ta như rơm rạ trong cơn gió
lốc sẽ trở nên những động lực giúp đỡ chúng ta hữu hiệu nhất khi ta hành
động thuận theo chúng. Vậy ra có thể nào ngạc nhiên rằng trong sự cầu
nguyện- cũng như trong các công việc khác- những năng lực thiêng liêng sẽ
kết hợp với một người đang t́m cách hoạt động như là một thành phần của
Thiêng Liêng?
H́nh thức cao nhất của sự cầu nguyện loại B hầu
như ḥa lẫn với loại C, lúc ấy lời cầu nguyện không c̣n đặc tính thỉnh cầu
mà trở nên sự tham thiền về Thượng Đế hoặc thờ phượng Thượng Đế. Tham thiền
là sự yên lặng tập trung tư tưởng cố định vào Thượng Đế, bấy giờ thể hạ trí
được giữ yên tĩnh và trống không để cho tinh thần vượt lên cao trong sự
chiêm ngưỡng Đấng Toàn Thiện thiêng liêng và phản ánh trong nó H́nh Ảnh
thiêng liêng ấy. “Tham thiền là sự cầu nguyện im lặng, không bày tỏ
(unuttered),” hoặc như Plato đă diển tả nó là “Linh Hồn nồng nhiệt quay về
với Thiêng Liêng; không cầu xin điều ǵ đặc biệt, mà chỉ chính v́ điều
thiện, v́ Đấng Thiện Tối Cao Đại Đồng” (Universal Supreme Good).
Sự cầu nguyện này giải phóng Tinh Thần nên nó
là phương tiện hợp nhất giữa con người và Thượng Đế. Do tác động của các
luật về tư tưởng mà con người trở nên điều y suy nghĩ. Vậy khi y tham thiền
về sự toàn thiện thiêng liêng, y dần dần tạo trong y sự toàn thiện ấy. Một
cái trí được uốn nắn theo điều cao siêu và không theo điều thấp hèn th́
không thể ràng buộc được Tinh Thần, và khi Tinh Thần được giải phóng vọt lên
đến nguồn cội của nó th́ bấy giờ sự chia rẽ bị bỏ rơi lại phía sau và sự cầu
nguyện tan ḥa trong sự hiệp nhất.
Thờ phượng cũng thế, sự trầm tư chiêm ngưỡng
không có tính khẩn cầu, nó t́m cách đắm ḿnh trong t́nh yêu chân thật của
Đấng Toàn Thiện. Nó là một phương tiện dễ dàng nhất để hiệp nhất với Thượng
Đế. Bị giới hạn bởi bộ óc xác thịt, tâm thức này chỉ chiêm ngưỡng được phần
nào H́nh Ảnh mà nó tạo ra về Ngài và nó cũng biết rằng Ngài vượt xa hơn sự
tưởng tượng của nó rất nhiều. Nhưng con người, nhờ t́nh yêu mănh liệt đă
vượt qua khỏi giới hạn của trí tuệ, bấy giờ y như một Tinh Thần tự do bay
bổng lên cao tiến vào các lănh vực cao siêu, y cảm nhận và hiểu biết được
rất nhiều mà y không thể diễn tả lại được khi trở về cơi giới hồng trần.
Như thế, nhà Thần Bí ngắm nh́n Linh Cảnh Hạnh
Phúc (Beatific Vision), Vị Hiền Triết vượt khỏi sự hiểu biết, Vị Thánh Nhân
đạt đến sự tinh khiết có Thượng Đế hiện diện trong đó. Sự cầu nguyện như thế
chiếu sáng cho người thờ phượng; và từ trên đỉnh núi cao của sự hiệp nhất
xuống đến những đồng bằng của trần thế, gương mặt thể xác rạng rỡ vẻ vinh
hiển cơi trời, chiếu ngời ngọn lửa đang bùng cháy bên trong. Hạnh phúc thay
cho ai biết được thực tại này mà không ngôn từ nào có thể diễn đạt lại cho
người chưa biết. Những ai mắt đă thấy “Vị Vua trong sự tốt đẹp của Ngài”
(Isa 33:17), sẽ nhớ lại và họ sẽ hiểu.
Khi sự cầu nguyện được hiểu như thế th́ các
người tin tưởng nơi tôn giáo sẽ cảm thấy sự cần thiết lâu bền của nó và
chúng ta thấy tại sao người nào nghiên cứu về đời sống cao siêu cũng đều
khuyên nên cầu nguyện. Lời cầu nguyện của các sinh viên Tiểu Bí Pháp nên
thuộc loại B, và y nên cố gắng tiến sang sự tham thiền hay thờ phượng thuần
túy của loại C, tránh đi các loại cầu nguyện thấp.
Nhờ học hỏi và thực hành như thế, một kết quả
tất nhiên xảy đến không thể tránh khỏi khi một người bắt đầu hiểu được và
khi đời sống nhân loại mở rộng ra hơn trước mắt y. Y thấy rằng nhờ hiểu biết,
sức mạnh của y gia tăng rất nhiều; rằng xung quanh y có những mănh lực mà y
có hiểu rơ và kiểm soát được; rằng quyền năng của y gia tăng cùng với sự
hiểu biết. Bấy giờ y học biết rằng Thiêng Liêng ẩn trong ḷng y, rằng điều
phù du mộng ảo không làm thỏa măn Đấng Thượng Đế bên trong, rằng chỉ có đưa
y đến sự hiệp nhất với Thiêng Liêng. Y không c̣n cố t́m cách thay đổi hoàn
cảnh, và không c̣n gieo những nhân mới vào ḍng sự hiệp nhất với Đấng Duy
Nhất, Đấng Toàn Thiện mới có thể xoa dịu nỗi khắc khoải của y. Bấy giờ trong
y, ư chí dần dần gia tăng hậu quả nữa. Y nhận thức chính y là người thừa
hành hơn là một diễn viên, một vận hà hơn là hơn là một nguồn cội, một người
tôi tớ hơn là một người chủ. Y t́m cách khám phá những mục đích thiêng liêng
và hành động điều ḥa với chúng.
Khi con người đă đạt tới điểm ấy, y đă vượt lên
trên tất cả các lời cầu nguyện ngoại trừ sự tham thiền và thờ phượng. Y
không c̣n điều ǵ để cầu xin trong thế giới này cũng như trong thế giới khác.
Y luôn ngụ trong sự thanh khiết, chỉ chăm lo phụng sự Thượng Đế. Đó là trạng
thái của Con, Ư Chí của Con là một với Ư Chí của Cha, “Hỡi Thượng Đế, con
đến làm theo ư Ngài. Con rất vui mừng làm theo ư Ngài. Luật của Ngài ở trong
ḷng con”(Ps 40:7,8).
CHƯƠNG 11
“Tôi
tin sự tha tội” “Tôi tin nhận lễ báp tít xóa tội lỗi”. Những lời ấy được các
tín đồ Cơ Đốc thốt lên dễ dàng trong khắp nhà thờ khắp trên thế giới. Họ lập
lại những tín điều quen thuộc của các Vị Tông Đồ và nhóm Nicene. Trong những
câu nói của Đức Jesus, câu sau đây thường được lập lại: “Tội lỗi của ngươi
đă được tha” và điều đáng chú ư là câu này luôn luôn được thốt ra sau khi
Ngài áp dụng các quyền năng chữa bệnh của Ngài, đồng lúc chữa khỏi bệnh thể
xác lẫn tinh thần. Quả vậy, trong dịp chữa một người bại, Ngài cho thấy việc
chữa bệnh là một dấu hiệu chứng tỏ Ngài có quyền tuyên bố tha tội một người.
Ngài cũng nói với một người đàn bà rằng: “Tội lỗi nàng vẫn nhiều mà đều đă
được tha, v́ nàng thương yêu nhiều”.(S.Luke 5:18-26, 7:47).Trong quyển khái
luận nổi tiếng về Minh Triết (Gnostic) The Pistis Sophia- có nói mục đích
chính của Huyền Môn là để tha thứ tội lỗi. “Dầu họ phạm tội, đầy dẫy tội lỗi
và bất công của thế gian mà ta đă nói với con, nhưng nếu họ quay trở lại, ăn
năn và từ bỏ các điều ấy, th́ con cũng hăy cho họ các mầu nhiệm của cơi sáng
chớ đừng giấu đi chút nào. Chính bởi tội lỗi mà ta
đă đem sự mầu nhiệm đến với thế gian để cứu
chuộc tội lỗi họ đă phạm từ lúc khởi đầu. V́ thế ngày trước ta đă nói với
con “Ta đến không phải để kêu gọi người công nghĩa”. V́ thế bây giờ ta đem
các mầu nhiệm để các tội lỗi của mọi người có thể được tha, và họ được đem
vào cơi sáng. Các điều mầu nhiệm ấy là cơ yếu của lẽ mầu nhiệm đầu tiên để
diệt trừ các tội lỗi và bất công của mọi kẻ phạm tội”.
Trong các Bí Pháp ấy, việc tha tội được thực
hiện bởi lễ Báp Tít,
như được thừa nhận trong Tín Điều Nicene, Đức Jesus nói: “Hăy nghe ta nói
với ngươi lẽ thật về sự mầu nhiệm của lễ báp tít thuộc loại nào… Khi một
người nhận các sự mầu nhiệm của báp tít, th́ các sự mầu nhiệm này trở thành
một ngọn lửa vô cùng mănh liệt, khôn ngoan, đốt cháy mọi tội lỗi.Các mầu
nhiệm len vào tâm hồn một cách huyền bí, tiêu hủy mọi tội lỗi mà tinh thần
giả mạo đă trồng trong đó”. Và sau khi diễn tả phương cách tinh luyện, Ngài
thêm rằng: “Đây là cách thức mà các mầu nhiệm về báp tít giải trừ các tội
lỗi và bất công”.
“Sự tha tội” xuất hiện dưới h́nh thức này hay
h́nh thức khác trong hầu hết các tôn giáo, nếu không là tất cả. Nơi nào có
sự nhất trí th́ chúng ta có thể yên tâm kết luận, theo nguyên tắc đă được
đặt ra, rằng có một sự kiện trong thiên nhiên tiềm ẩn trong đó. Hơn nữa bản
tính con người có khuynh hướng muốn được tha thứ tội lỗi; chúng ta nhận thấy
những người mang tâm trạng đau khổ v́ việc làm sái quấy khi được thoát khỏi
dĩ văng của họ, khỏi những mối dày ṿ hối hận, th́ họ tiến bước với tâm vui
sướng và ánh mắt rạng rỡ, mặc dầu trước kia ḷng họ đầy đen tối. Họ cảm nghe
như cởi khỏi gánh nặng trên vai “Cảm giác tội lỗi” đă biến mất cùng lúc với
sự đau khổ gặm nhấm tâm hồn họ. Họ biết được thời xuân của Linh Hồn, một từ
có năng lực đổi mới tất cả. Tự nhiên tim họ vang lên lời hát biết ơn, lúc ấy
chim muông vui hót và các “Thiên Thần đều vui mừng”. Cái kinh nghiệm này
thường xảy ra nhưng lại khó hiểu; và người đă trải qua- hoặc thấy nơi người
khác- sẽ bắt đầu tự hỏi điều ǵ đă thật sự xảy ra, cái ǵ đă biến đổi tâm
thức, và các hiệu quả của nó rất hiển nhiên.
Các tư tưởng gia tân tiến quá quen thuộc với
những định luật bất biến trong các hiện tượng và đă khảo sát cách vận hành
của các luật ấy, thoạt tiên họ sẽ bác bỏ mọi lư thuyết về sự tha tội v́ thấy
nó không liên kết chặt chẽ với luật căn bản ấy. Giống như các nhà khoa học
trung thành với tánh bất khả xâm phạm của định luật sẽ phản kháng tất cả tư
tưởng nào không chặt chẽ với tính ấy. Cả hai đều đúng khi đặt nền tảng trên
cách hoạt động vững chắc của định luật, v́ định luật chỉ là sự biểu lộ của
Thiên Nhiên thiêng liêng, trong đó không có sự thay đổi. Chúng ta chỉ có thể
chấp nhận những quan điểm tha tội nào không trái với ư niệm căn bản này, nó
rất cần thiết cho khoa hôc vật chất cũng như khoa học tinh thần.
Nhưng khi tiếp tục nghiên cứu, chúng ta chạm
phải sự kiện là chính các Vị Giáo Chủ nào nhấn mạnh về định luật vận hành
bất biến lại là những vị tuyên bố mạnh mẽ sự tha tội.Có lần Đức Jesus nói: “Mọi
lời tầm phào mà con người nói ra đều phải khai tŕnh trong ngày xét đoán” và
lần khác: “Con ơi,hăy vững ḷng, tội lỗi con được tha” (S.Matt12:36, 9:2).Cũng
thế, trong kinh Ấn Độ Bhagavad gita, chúng ta thường đọc thấy các dây ràng
buộc của hành động: “Thế gian bị ràng buộc bởi hành động”, “con người khôi
phục lại các đặc tính của thân xác trước kia của y”, tuy nhiên kinh cũng
chép rằng: “Dầu một người tội lỗi vô cùng mà thờ phượng Ta với một tấm ḷng
không phân tán th́ y cũng được xem là người công nghĩa.” (righteous). Vậy
th́ h́nh như từ “tha tội” trong kinh thánh có nghĩa ǵ đi nữa, ta cũng không
nên nghĩ rằng các Ngài, người biết luật lệ hơn ai hết, lại nói trái với
những hệ luận bất khả xâm phạm của luật nhân quả.
Nếu chúng ta khảo sát cả đến ư nghĩa thô sơ
nhất về sự tha tội đang phổ biến hiện nay đi nữa, chúng ta cũng thấy rằng
những tín đồ tin tưởng việc ấy cũng không nghĩ là người được tha tội có thể
thoát khỏi hậu quả của tội lỗi y trong thế gian này. Kẻ say sưa được tha lỗi
v́ biết ăn năn, cũng vẫn chịu đau khổ về thần kinh nóng nảy, tiêu hóa xáo
trộn và mất ḷng tin cậy của bạn bè. Khi khảo sát người ta thấy những lời
tuyên bố về sự tha tội liên quan chặt chẽ đến sự tương giao giữa kẻ có tội
ăn năn và Thượng Đế, đến những h́nh phạt sau khi chết đối với tội lỗi không
được tha thứ trong tín điều của người tuyên bố. Chúng không liên quan đến
việc thoát khỏi những hậu quả trần thế của tội lỗi. V́ không tin luân hồi và
không có quan điểm lành mạnh về sự liên tục của đời sống, nên người ta tạo
nhiều điều vô lư trong đó có ư niệm khủng khiếp và phạm thượng về việc đày
đọa đời đời những linh hồn con người đă phạm các tội lỗi trong một kiếp sống
ngắn ngủi ở trần gian. Để thoát khỏi cơn ác mộng này, các nhà thần học đă
đặt ra sự tha tội, giải thoát kẻ tội lỗi khỏi địa ngục đời đời. Nó không- và
người ta cũng không nghĩ như thế- giúp con người tránh được các hậu quả tự
nhiên của việc làm sái quấy ở cơi trần này. Nó cũng không giải phóng y khỏi
các nỗi đau khổ lâu dài ở nơi luyện tội, nhưng các cộng đồng Tin Lành không
tin như vậy. Luật lệ có đường lối tác động của nó, ở cơi trần này và cả nơi
luyện tội. Ở mọi cơi- sự buồn rầu luôn theo gót tội lỗi giống như bánh xe
theo sau con ḅ kéo. Mối dày ṿ đời đời này(chỉ hiện hữu trong sự tưởng
tượng đen tối của ai tin như thế) chỉ được giải trừ nhờ sự tha tội, và có lẽ
chúng ta có thể gợi ư thêm rằng: các nhà đặt tín điều sau khi đă quy định
địa ngục đời đời là kết quả khủng khiếp của những lỗi lầm chỉ xảy ra trong
chốc lát, cảm thấy họ phải tạo một lối thoát cho số phận bất công (injust)
và khó tin ấy, do đó họ lại đặt thêm sự tha tội cũng bất công và khó tin như
thế. Một địa ngục ngoại cảnh dư thừa vô ích cân bằng với một sự tha tội dư
thừa vô ích, và như thế cánh cân lệch lạc của công lư lại được lập lại cho
cân bằng. Bỏ qua các sai lầm của những người chưa hiểu biết, chúng ta hăy
trở lại lănh vực của sự kiện và của lư trí đúng đắn.
Khi một người làm một hành động xấu, y đă tự
chuốc lấy sự phiền muộn đau khổ bởi v́ sự phiền muộn luôn luôn là cái cây
mọc từ hột giống của tội lỗi. Người ta có thể nói một cách chính xác hơn
rằng tội lỗi và đau khổ chỉ là hai mặt của một hành động, chớ không phải là
hai biến cố riêng rẽ. Cũng như mỗi đồ vật có hai mặt, một mặt ở phía sau
không nhận thấy được, c̣n một mặt ở phía trước nh́n thấy được. Mỗi hành động
cũng có hai mặt và người ta không thể nh́n thấy cả hai mặt cùng một lúc ở
cơi trần này. Nói cách khác, việc tốt và hạnh phúc, việc xấu và đau khổ, đều
là hai mặt của cùng một việc. Điều này gọi là Karma- một từ thích hợp đang
phổ thông, gốc tiếng Phạn, diễn tả sự liên hệ hay là sự đồng nhất, theo mặt
chữ nó có nghĩa là “nghiệp” (action) và v́ thế sự đau khổ được gọi là kết
quả nghiệp (karmic result) của việc xấu. Cái kết quả, “cái mặt sau”, có thể
không xảy ra liền sau đó hay trong kiếp hiện tại, nhưng sớm hoặc muộn nó sẽ
xuất hiện và nắm lấy kẻ tội lỗi với đôi bàn tay phiền muộn của nó. C̣n bây
giờ, một kết quả ở cơi trần- một hậu quả được kinh nghiệm xuyên qua tâm thức
hồng trần của chúng ta- chỉ là cái chung cuộc của một nguyên nhân đă được
khởi động trong quá khứ.
Nó là trái đă chín, trong nó một mănh lực đặc
biệt biểu lộ và tự kiệt tận. Mănh lực này từ trước đến giờ đă hoạt động
hướng ngoại, và tác động của nó đă xảy ra trong tâm trí trước khi nó xuất
hiện trong thể xác. Sự biểu lộ của nó trong xác thân là dấu hiệu hoàn tất
cuộc hành tŕnh của nó. Nếu vào lúc ấy kẻ có tội, đă giải trừ hết nghiệp
(Karma) của tội lỗi y và gặp được vị Thánh Nhân thấy được quá khứ và hiện
tại, phần hữu h́nh và phần vô h́nh, th́ Ngài sẽ nhận
thức
được Nghiệp đặc biệt của y đă hết, Ngài dùng lời tuyên bố tội nhân đă được
tự do. Câu chuyện về người bại liệt được xem như tiêu biểu cho nhiều trường
hợp khác. Bệnh tật về thể xác là sự biểu lộ cuối cùng của một việc làm xấu
trong quá khứ. (Công việc trí tuệ và đạo đức được hoàn tất mau lẹ), và kẻ
đau khổ nhờ tác động của một Thiên Thần thừa hành luật hướng dẫn y gặp Vị
dùng năng lực cao siêu để chữa bệnh. Đầu tiên, Vị ấy tuyên bố rằng tội lỗi
người kia đă được tha thứ. Kế đó Ngài minh chứng sự sáng suốt của Ngài bằng
lời nói đầy quyền lực “Hăy đứng dậy, xách giường chiếu ngươi mà về nhà”. Nếu
không có Vị giác ngộ ở đấy th́ bệnh tật y cũng sẽ được chữa khỏi nhờ mănh
lực khôi phục của thiên nhiên, mănh lực này do một Thiên Thần tác động tuân
theo luật nhân quả. Nhưng khi được Vị cao cả chữa, th́ mănh lực này có quyền
năng cưỡng chế mau lẹ và những sự rung động của thể xác tức khắc trở nên
điều ḥa, đó là sự lành bệnh vậy. Nghiệp quả y đă hết, và "người biết nghiệp
quả” tuyên bố sự kiện ấy. Sự xác nhận này làm tâm trí y nhẹ nhàng, cũng
giống như khi một tù nhân được lệnh phóng thích. Lệnh này cũng như câu tuyên
bố trên đều tuân theo luật mà thôi, nhưng người đă trả hết nghiệp quả xấu
vui mừng nhiều hơn v́ y không biết được thời hạn tác động của nó kéo dài bao
lâu.
Người ta nhận thấy lời tuyên bố tha tội luôn đi
đôi với lời tuyên bố rằng kẻ đau khổ đă tỏ "đức tin”, và nếu không có đức
tin th́ không điều ǵ có thể làm được. Điều này có nghĩa là tác nhân thật sự
để chấm dứt nghiệp quả chính là kẻ tội lỗi. Trong trường hợp "người đàn bà
phạm tội”, hai lời tuyên bố tiếp nối nhau: "Tội lỗi ngươi đă được tha rồi…
Đức tin của ngươi đă cứu ngươi, hăy đi b́nh an” (S.Luke 7:48,50). “Đức tin”
này là sự bừng khởi của bản thể thiêng liêng của chính y trong con người y,
nó đi t́m biển bản thể bao la cùng bản chất, và khi nó phá vỡ được bản tánh
thấp kém đă giam cầm nó- giống như suối nước phun phá vỡ xuyên qua lớp đất
chướng ngại, thí năng lực đă được giải phóng ấy hoạt động với tất cả bản
tánh của nó và làm cho bản thể nó điều ḥa với biển bản thể bao la ấy. Con
người chỉ ư thức được điều này khi lớp giáp cứng của nghiệp quả xấu bị năng
lực ấy phá vỡ. Và cái tâm thức vui mừng của một quyền năng tiềm tàng trong y
từ lâu không được biết đến, nay nó liền tỏ lộ ra ngay khi nghiệp quả xấu vừa
tiêu tan. Đó là một yếu tố lớn lao tạo nên sự vui mừng, nhẹ nhơm và sinh lực
mới mẻ khi y cảm thấy tội lỗi đă được “tha thứ”.
Ư nghĩa này đưa chúng ta vào tâm của vấn đề.
Những sự biến đổi vẫn đang liên tục xảy ra trong bản thể bên trong của y,
nhưng phần tâm thức của y hoạt động trong những giới hạn của bộ óc y không
nhận biết được chúng. Đến khi chúng bỗng nổi dậy mạnh mẽ, y chẳng biết chúng
từ đâu đến nên lấy làm ngạc nhiên bối rối trước sự đột khởi ấy. Y không biết
ǵ về các mầu nhiệm của bản thể y, y không biết “Đấng Thượng Đế Nội Tâm”
chính thật là y, nên những ǵ thật sự xảy ra bên trong y lại cho là do bên
ngoài. Và v́ không ư thức được Thiêng Liêng (Divinity) của chính y nên y chỉ
nghĩ đến những Thiêng Liêng của thế giới ngoại cảnh. Quan niệm sai lầm này
rất dễ vướng phải v́ sự tiếp xúc cuối cùng, sự rung động phá vỡ cái vỏ giam
cầm ấy, thường là sự đáp ứng của Thiêng Liêng trong người khác hay trong một
Vị siêu nhân đối với lời kêu gọi khẩn thiết của Thiêng Liêng đang bị giam
giữ trong y. Nhiều lần y nhận thức được giúp đỡ của các huynh đệ nhưng y
không biết rằng chính bản thể y đă kêu gọi sự giúp đỡ ấy. Giống như lời giải
thích của một người khôn ngoan hơn có thể soi sáng các vấn đề khó khăn trong
trí chúng ta mặc dầu chính cái trí chúng ta khi được giúp đỡ như thế đă nắm
lấy lời giải. Giống như lời khuyến khích của một người trong sạch hơn có thể
giúp chúng ta nỗ lực trên đường đạo đức mà chúng ta nghĩ rằng vượt quá khả
năng chúng ta, mặc dầu chính sức mạnh của chúng ta đă tạo nên nó. Cũng thế
một Tinh Thần (spirit) cao cả hơn Tinh Thần chúng ta có thể giúp chúng ta
phát xuất được năng lực Thiêng Liêng của chúng ta mặc dầu chính sự phát xuất
của chúng ta nâng chúng ta lên một cơi giới cao hơn. Tất cả chúng ta đều
liên kết giúp đỡ với nhau, với những người trên cũng như những người dưới
chúng ta. Vậy th́ tại sao chúng ta lại là người luôn muốn giúp đỡ các linh
hồn thấp kém phát triển thêm, lại do dự chấp nhận sự giúp đỡ tương tự của
những người trên chúng ta và nhờ đó sự tiến bộ của chúng ta có thể mau lẹ
hơn?
Bấy giờ, trong các sự biến đổi nơi bản thể bên
trong của một người, có các biến đổi liên hệ đến việc phát xuất ư chí y.
Chân Nhân (Ego) nh́n ngược về quá khứ của y, so đo lại những kết quả của hạ
thể, chịu đau khổ v́ các lỗi lầm của nó, nên quyết định thay đổi lại thái độ
và cách hành động. Trong khi hạ thể y vẫn c̣n theo xung lực cũ và hành động
trái luật th́ Chân Nhân quyết định một đường lối hạnh kiểm ngược lại. Từ
trước đến nay, y chỉ theo thú tính, những thú vui của hạ giới đă xiềng xích
chặt chẽ y. Bây giờ y xoay hướng về mục đích tiến hóa chân thật và chí quyết
hoạt động v́ những niềm vui thanh cao. Y thấy toàn thể thế giới đang tiến
hóa và nếu y chống lại ḍng thác mănh liệt ấy th́ nó sẽ đẩy y ra ngoài, làm
y bầm vập đau đớn. Nhưng nếu y thuận chiều với nó, nó sẽ ôm y vào ḷng và
đưa y đến nơi ẩn nương mong muốn.
Sau đó y quyết định thay đổi cuộc sống, y nhất
định quay bước hướng mới. Hậu quả đầu tiên của nỗ lực cải đổi bản tánh thấp
hèn là sự buồn bực và xáo trộn. Các thói quen theo quan điểm cũ phản kháng
ương ngạnh với những xung lực của quan điểm mới, và cuộc xung đột gay gắt
diễn ra. Dần dần tâm thức hoạt động trong bộ óc chấp nhận sự quyết định từ
trên cơi cao, bấy giờ nó “ư thức được tội lỗi” nhờ nó nhận thức rơ ràng định
luật. Cảm nghĩ về lầm lỗi sâu đậm hơn, sự hối hận dày ṿ tâm trí y, thỉnh
thoảng y có những nỗ lực cải thiện, nhưng lại thất bại v́ các thói quen cũ.
Thất bại liên miên cho đến khi y nặng trĩu ưu sầu v́ quá khứ, thất vọng với
hiện tại, y đằm ch́m vào nỗi u buồn tuyệt vọng. Cuối cùng, nỗi đau khổ măi
gia tăng khiến Chân Ngă y phải thốt lời kêu gọi đến chốn thậm thâm của bản
thể y, đến Thượng Đế bên trong y cũng như bên ngoài y. Y từ bỏ bản tánh thấp
hèn đă cản trở y để quay về với bản tánh cao siêu là con người sâu kín của
y. Y từ bỏ cái ngă chia rẽ của y đă hành khổ y để quay về với cái Ngă Duy
Nhất là Tâm của vạn vật.
Nhưng sự thay đổi trận tuyến này có nghĩa là y
quay lưng lại nơi tối tăm để đối diện với ánh sáng. Ánh sáng vẫn có đấy tự
bao giờ, nhưng v́ y đă quay lưng lại nó. Bây giờ y thấy được mặt trời, nó
chiếu sáng đôi mắt y và tuôn tràn hạnh phúc cho y. Tim y trước kia đóng kín,
nay nó nở bung ra và cả một biển sự sống ồ ạt tràn vào làm y hân hoan. Từng
đợt sóng của đời sống mới nâng y lên cao, và sự vui tươi của buổi b́nh minh
bao quanh y. Y thấy dĩ văng y đă thuộc về quá khứ bởi v́ ư chí y bắt đầu
theo con đường cao cả hơn, y không c̣n quan tâm nhiều đến các đau khổ mà quá
khứ có thể để lại cho y. Cảm giác an tịnh vui mừng và tự do được xem như là
kết quả của sự tha tội. Những chướng ngại do bản tánh thấp hèn tạo nên giữa
Thượng Đế bên trong và Thượng Đế bên ngoài đều được dẹp bỏ, và bản tánh này
hiếm khi hiểu được rằng sự thay đổi này vốn ở trong nó chớ chẳng phải ở Đại
Ngă (Oversoul). Giống như một đứa trẻ tách khỏi bàn tay hướng dẫn của người
mẹ và đi úp mặt vào vách, em có thể tưởng tượng ḿnh bị bỏ rơi cô đơn cho
đến khi em kêu la và quay trở lại th́ em thấy đôi cánh tay bảo vệ của mẹ
luôn sát bên em tự bao giờ. Cũng thế con người trong t́nh trạng hoang dă, y
đă gạt sang đôi tay bảo bọc của Người Mẹ thiêng liêng. Chỉ khi nào y quay
lại y mới thấy ḿnh không bao giờ rơi khỏi đôi tay Ngài, và dù y đi nơi đâu
th́ t́nh thương che chở ấy luôn vẫn bao quanh y.
Bí quyết của sự thay đổi khiến một người được
“tha tội” được Kinh Ấn Độ Bhagavad Gita cho biết như sau: “Dẫu một người tội
lỗi vô cùng mà thờ phượng ta với một tấm ḷng không phân tán th́ y cũng được
xem là người công nghĩa, v́ y đă quyết định đúng đắn”. Tiếp theo
quyết định đúng đắn đó là một kết quả không thể tránh khỏi: “Y nhanh chóng
vâng lời và tiến bước đến b́nh an”. Bản chất của tội lỗi ở chỗ y đặt ư chí
riêng tư chống lại ư chí của toàn thể, ư chí con người chống lại ư chí
thiêng liêng. Khi điều này được thay đổi, khi Chân Nhân đặt ư chí riêng tư
của nó hiệp nhất với ư chí hoạt động cho sự tiến hóa, th́ bấy giờ, trong cơi
mà ư muốn là hành động và các hậu quả được thấy hiện diện ngay trong các
nguyên nhân, người kia được “xem là công nghĩa. Những hậu quả ở các cơi thấp
chắc chắn phải xảy ra. Y nhanh chóng vâng lời” trong hành động sau khi y đă
vâng lời trong ư chí. Ở cơi trần này chúng ta xét đoán theo hành động, những
lá chết của quá khứ. Ở cơi trên kia, người ta xét đoán theo ư chí, những hạt
đang nẩy mầm của tương lai. V́ thế Đấng Christ luôn dạy con người ở trần
gian: “Chớ nên xét đoán” (S.Matt 7:1).
Dẫu khi đă quyết định theo con đường mới và trở
nên quen thuộc với đời sống này, y vẫn có lúc thất bại, như trong quyển
Pitis Sophia đă ám chỉ, khi có người hỏi Đức Jesus rằng một người có thể
được chấp nhận trở lại Huyền Môn chăng nếu y đă thất bại và đang hối hận.
Ngài trả lời là có nhưng cho biết rằng đến một lúc nào đó sự chấp nhận trở
lại vượt quá quyền năng cứu rỡi của Huyền Môn cao nhất. “Ta nói cùng ngươi,
bất cứ ai thọ lănh những mầu nhiệm của Huyền Môn đầu tiên rồi sau đó quay
lại vi phạm [đến]
mười hai lần và hối hận mười hai lần, cầu
nguyện trong lẽ mầu nhiệm của Huyền Môn đầu tiên, y cũng sẽ được tha thứ.
Nhưng nếu sau đó y quay lại và vi phạm nữa, y sẽ không được tha thứ nữa. Đối
với y, không c̣n cách ăn năn nào trừ khi y đă nhận được những mầu nhiệm của
Đấng vô cùng luôn thương xót và tha tội măi măi.” Sự phục hối sau cuộc thất
bại và “tội lỗi được tha” thường xảy ra trong đời sống con người chúng ta,
nhất là trong những giai đoạn tiến hóa cao hơn. Một người được trao cho một
cơ hội nếu y biết nắm lấy nó, nó sẽ tạo cho y những khả năng tăng trưởng.
Nếu y không chịu nắm lấy nó, y sẽ rơi khỏi vị trí mà y đă đạt được và mất đi
các cơ hội khác. Đối với y, vào lúc đó, sự tiến bộ đă tắt nghẽn, y sẽ hết
sức khổ cực cố gắng bước trên mảnh đất mà y đă đi qua, gắng đạt lại và đặt
chân vững chắc lên nơi mà y đă trượt ngă. Chỉ khi nào y đă làm được như thế,
y mới nghe được Tiếng nói dịu dàng bảo y rằng quá khứ đă qua rồi, sự yếu
đuối đă biến thành sức mạnh và cửa đạo lại mở cho y qua. Nơi đây cũng thế,
“sự tha thứ” chỉ là sự tuyên bố của một thẩm quyền thích ứng với công việc
ấy, cửa đạo được mở rộng cho người có năng lực nhưng lại đóng kín đối với
người thiếu khả năng. Nơi nào đă có sự thất bại và theo sau là nỗi đau khổ,
th́ sự tuyên bố này được cảm thấy như một “lễ báp tít tha tội”, nó cho người
chí nguyện hưởng lại đặc ân mà chính hành động y đă đánh mất. Chắc chắn việc
này làm y vui mừng và an tịnh, giải thoát y khỏi gánh nặng âu lo và khối quà
khứ nặng nề sau cùng đă rơi khỏi chân y.
Xin đừng bao giờ quên một chân lư này: chúng ta
đang sống trong một biển ánh sáng, t́nh thương và ân phước-Sự Sống của
Thượng Đế- luôn bao quanh chúng ta. Như ánh sáng mặt trời tràn ngập xuống
trái đất, Sự Sống của Ngài chiếu sáng tất cả, Ngôi Mặt Trời ấy không lặn nơi
nào. Chúng ta đă ngăn cản ánh sáng này khỏi tâm thức chúng ta bởi ḷng ích
kỷ, tánh vô tâm, sự ô uế,
tánh
không khoan dung của chúng ta. Nhưng ánh sáng ấy vẫn chiếu sáng như bao giờ,
tràn ngập mọi phía quanh chúng ta, chiếu một cách dịu dàng và kiên nhẫn lên
các bức tường do ta tự tạo ra. Khi linh hồn phá đổ các bức tường ngăn cách
ấy, ánh sáng tràn vào, linh hồn cảm thấy ngộp trong ánh nắng, thở không khí
đầy ân phước của cơi trời. “Con của Người vẫn ở trên trời”, mặc dầu y không
biết Nó. Những làn gió nhẹ của Nó sẽ thổi vào trán y nếu y phơi bày ra.
Thượng Đế luôn luôn tôn trọng cá tính của con người, Ngài sẽ không bao giờ
bước vào tâm thức của y cho đến khi y tự mở rộng đón tiếp Ngài, “Nầy, Ta
đứng ngoài cửa mà gơ” là thái độ của mọi Vị Thông Tuệ tinh thần đối với sự
tiến hóa của một linh hồn. Sự chờ đợi mở cửa này không phải do Ngài thiếu
ḷng thiện cảm mà chính v́ Ngài hiểu biết sâu xa.
Con người không bị ép buộc, y được tự do. Y
không phải là một kẻ nô lệ mà là một Thượng Đế đang thành. Sự tăng trưởng
của y không thể bị cưỡng bách mà phải do tự nguyện. Chỉ khi nào ư chí y
thuận t́nh th́ Thượng Đế mới ảnh hưởng y, mặc dầu Ngài luôn luôn “hiện diện
khắp nơi và sẵn sàng đến giúp đỡ những ai hướng về Ngài do hành động khôn
ngoan, những ai không bảo thủ mà mở rộng tâm ḿnh với ḷng ưu ái của ư chí”.
(The heroic Enthusiasts-Giordano Bruno).
Cảm nghĩ “tha tội” làm cho tâm tràn đầy vui
sướng khi ư chí đồng rung động với Thiêng Liêng, khi phần tử cảm thấy sự duy
nhất của nó (oneness) với toàn thể và Sự Sống Duy Nhất (one Life) rung động
nguồn cảm hứng của nó. Dầu cho sự tŕnh bày “sự tha tội” thô sơ và chưa đầy
đủ về phương diện trí tuệ th́ chân lư thanh cao này cũng tạo sinh lực và gợi
cảm hứng hướng về một đời sống tinh thần trong sạch ?...
CHƯƠNG 12
NGUYÊN LƯ ĐẠI CƯƠNG
Trong tất cả các tôn giáo, có một số nghi lễ
được các tín đồ xem là rất trọng yếu, các nghi lễ này nhằm ban một số ân huệ
cho người dự lễ. Danh từ Bí Tích dùng để gọi các nghi lễ này và chúng đều có
một đặc tính chung. Từ trước đến nay người ta ít tŕnh bày đúng đắn bản chất
và ư nghĩa của chúng, nhưng đây là một vấn đề trong các vấn đề đă được giải
thích từ xưa trong Tiểu Bí Pháp.
Một Bí Tích có hai tính chất đặc biệt của nó.
Trước tiên nó là một nghi lễ công truyền, một chuyện ngụ ngôn bằng h́nh ảnh,
một sự tŕnh bày một điều ǵ đó bằng các động tác và các vật dụng. Nó không
phải là một chuyện ngụ ngôn bằng lời, một lời dạy bằng ngôn từ để truyền đạt
một chân lư. Các vật liệu, dụng cụ và cách thức sử dụng chúng trong một nghi
lễ có mục đích tŕnh bày một vài chân lư mà nghi lễ ấy muốn ghi vào tâm trí
những người hiện diện. Đó là đặc tính đầu tiên và hiển nhiên của một Bí Tích,
nó khác với các h́nh thức thờ phượng hoặc tham thiền. Nó giúp cho những
người chưa đủ sức nắm lấy chân lư ẩn vi, nó tŕnh bày chân lư dưới một h́nh
thức sống động và minh họa, nếu không thế họ sẽ không nhận thức được. Khi
nghiên cứu một Bí Tích, trước nhất người ta nên có quan điểm rằng đó là một
biểu tượng bằng h́nh ảnh (pictorial). Như thế những điều cần nghiên cứu là:
những đồ vật được sử dụng trong biểu tượng, cách thức sử dụng các đồ vật ấy,
và ư nghĩa mà toàn thể biểu tượng muốn truyền đạt.
Đặc tánh thứ hai của một Phép Bí Tích tùy thuộc
vào các sự kiện của các cơi vô h́nh và được khảo sát bởi huyền bí học. Vị
hành lễ nên thông hiểu các sự kiện ấy, mặc dầu không thể hoàn toàn được, và
hiệu lực của Phép Bí Tích tùy thuộc vào sự hiểu biết của vị hành lễ. Phép Bí
Tích nối liền cơi vật chất với các cơi giới thanh nhẹ vô h́nh liên hệ, nó là
sợi dây liên lạc cơi hữu h́nh với cơi vô h́nh. Không những thế, nó c̣n là
một phương pháp chuyển hóa những năng lực cơi vô h́nh biểu lộ hoạt động
trong cơi vật chất, một phương pháp hiện thực biến đổi loại năng lực này
sang loại năng lực khác, cũng giống như trong b́nh điện giải, các năng lực
hóa được biến sang năng lực điện. Bản thể của mọi năng lực đều giống nhau,
trong cơi hữu h́nh cũng như trong các cơi vô h́nh. Nhưng các năng lực này
khác nhau tùy theo các mức độ vật chất chúng biểu lộ xuyên qua đó. Một Bí
Tích giống như một ḷ linh đan cho khoa luyện kim tinh thần. Một năng lực
được đem vào ḷ và chịu nhiều cách chế luyện, sẽ biểu lộ khác đi. Như thế
một loại năng lực tinh tế của một cơi cao siêu trong vũ trụ có thể được biến
đổi cho thích hợp trực tiếp với đời sống con người trong cơi trần. Bí Tích
giúp những năng lực tác động trực tiếp đến những ai hoàn thành những điều
kiện cần thiết và có tham dự vào lễ ấy.
Những người ly khai khỏi Giáo Hội Công Giáo La
Mă vào thời “Cải Cách” đă đánh mất đi sự xứng đáng và sự thông hiểu các năng
lực huyền bí của các Bí Tích trong Giáo Hội. Sự phân cách trước đây giữa
Đông và Tây, phân Giáo Hội Chính Thống Hy Lạp và Giáo Hội La Mă, không hề
ảnh hưởng đến đức tin về các Bí Tích. Cả hai cộng đồng lớn ấy đều duy tŕ
các Bí Tích như dây liên lạc giữa cơi hữu h́nh và cơi vô h́nh, và thánh hóa
đời sống của tín đồ từ lúc mới sinh đến lúc chết. Bảy Bí Tích của Cơ Đốc
Giáo bao trọn cả kiếp sống con người, từ lễ Báp tít đón mừng đến lễ Xức Dầu
Thánh từ biệt. Các lễ ấy do những Huyền Bí Gia là người hiểu các thế giới vô
h́nh lập nên. Những vật liệu, những lời nói, những cử chỉ, tất cả đều được
chọn lựa kỹ càng và sắp xếp thế nào để tạo một số kết quả mong muốn.
Vào thời Phục Hưng, những Giáo Hội ly khai khỏi
ách La Mă không c̣n do Huyền Bí Gia dẫn dắt nữa, mà lại do các người thường
của thế gian. Có người tốt và cũng có người xấu, nhưng nói chung tất cả đều
không biết về những sự kiện của các cơi vô h́nh. Họ chỉ biết được lớp vỏ bên
ngoài của Cơ Đốc Giáo nghĩa đen (literal) của các tín điều,
và cách thờ phượng công truyền mà thôi. Hậu quả
là các Bí Tích mất đi vị trí tối cao trong sự thờ phượng của người Cơ Đốc,
và trong hầu hết cộng đồng Tin Lành, các Bí Tích ấy chỉ thu lại c̣n hai: Lễ
Báp tít và lễ Thánh Thể (Baptism and Eucharist).
Các Giáo Hội ly khai quan trọng nhất không phủ
nhận hẳn tính chất của các Bí Tích khác, nhưng họ đă đặt hai Bí Tích ra
ngoài năm Bí Tích kia và xem hai Bí Tích này là sự bắt buộc đại đồng mà mỗi
hội viên phải thọ lănh để được chấp nhận là một hội viên trọn nghĩa (full
member).
Định nghĩa đại cương của một Phép Bí Tích đă
được nêu chính xác trong Sách Giáo Lư của Giáo Hội Anh, ngoại trừ các chữ
hời hợt “do chính Đấng Christ ban cho”, những chữ này cũng được giữ lại nếu
người ta muốn gán cho chữ Christ một nghĩa thần bí. Như thế một Phép Bí Tích
là: “Một dấu hiệu hữu h́nh và bên ngoài (outward) của ân huệ tinh thần và
bên trong do Đấng Christ ban lệnh cho chúng ta, như một phương tiện nhờ đó
chúng ta thọ lănh ân huệ tinh thần trên và một lời bảo đảm cho chúng ta ân
huệ đó.
Trong định nghĩa này chúng ta thấy có nêu ra
hai tính chất rơ rệt của một Phép Bí Tích, “dấu hiệu hữu h́nh và bên ngoài”
là một biểu tượng bằng h́nh ảnh (pictorial), và câu “phương tiện nhờ đó
chúng ta thọ lănh ân huệ tinh thần và bên trong” thuộc tính chất thứ hai đă
nói ở trên. Những tín đồ Tin Lành thường chỉ xem các Bí Tích như một h́nh
thức bên ngoài, một nghi lễ bên ngoài. Họ nên lưu ư đến câu sau cùng. Nó quả
quyết rằng một Bí Tích quả thật là một phương tiện để truyền ân huệ, và như
thế nó ám chỉ rằng không có phương tiện này th́ ân huệ không thể truyền
nguyên dạng từ trên cơi tinh thần xuống cơi vật chất được. Đó là điều cần
nhận thức minh bạch về một Bí Tích trong tính chất thứ hai của nó, một
phương tiện nhờ đó những quyền năng tinh thần được đưa xuống hoạt động ở cơi
trần.
Để hiểu được một Bí Tích, chúng ta cần phải
nhận thức rơ rệt sự hiện hữu của khía cạnh huyền bí ẩn mật của Thiên Nhiên.
Đó là khía-cạnh-sự-sống của Thiên Nhiên,khía cạnh tâm thức, hay chính xác
hơn là Trí trong Thiên Nhiên. Trong các phép Bí Tích, người ta có một niềm
tin thầm kín rằng thế giới vô h́nh có một tiềm năng ảnh hưởng lên thế giới
hữu h́nh. Và để hiểu một Bí Tích, chúng ta phải hiểu đôi điều về các vị
Thông Tuệ vô h́nh điều khiển Thiên Nhiên. Khi học hỏi về giáo điều Tam
Nguyên, chúng ta đă thấy rằng Tinh Thần (Spirit) đă biểu lộ thành một Ngă
cấp ba (triple self) và môi trường biểu lộ của Ngài là Vật Chất,
khía-cạnh-h́nh-thể của Thiên Nhiên, và người ta thường coi đó là Thiên
Nhiên. Chúng ta phải nghiên cứu hai phương diện này: sự sống và h́nh thể, để
hiểu một Bí Tích.
Từ Tam Nguyên xuống đến nhân loại, có nhiều
đẳng cấp vô h́nh. Cấp cao nhất là bảy Vị Huyền Thiên của Thượng Đế Spirit of
God), bảy ngọn lửa trước ngai Thượng Đế (Rev.4:5). Mỗi vị đứng đầu một đại
đoàn Vị Thông Tuệ (Intelligences) tất cả cấp dưới đều chia sớt bản chất Ngài
và hoạt động dưới sự hướng dẫn của Ngài. Họ phân thành: Thrones, Powers,
Princes, Domination, Archagels, Angels. Những văn tự của các Cha Cơ Đốc có
nói đến họ trong thi văn Huyền Môn.Như thế bảy đại đoàn những Vị này tiêu
biểu cho Trí thiêng liêng trong Thiên Nhiên theo mức độ thông tuệ của họ.Họ
đếu được tất cả các tôn giáo đề cập. Họ nhập vào (ensoul) những năng lực của
Thiên Nhiên. Theo quan điểm Huyền Bí học, không có mănh lực nào hoặc vật
chất nào gọi là chết. Mănh lực và vật chất đều sống động và tích cực; mỗi
năng lực hoặc một nhóm năng lực là tấm rèm của một Vị Thông Tuệ, một Tâm
Thức dùng năng lực ấy để biểu lộ ra bên ngoài. Vật chất đă cho năng lực ấy
mượn một h́nh thức để Ngài hoạt động. Nếu một người chưa thể nh́n thấy Thiên
nhiên theo cách ấy th́ đối với y, tất cả các giáo lư huyền môn vẫn c̣n là
một quyển sách niêm phong. Không có các thiên thần ấy- tức các tâm thức đă
nhập vào mănh lực và vật chất (ghi chú của sách: Câu lực và vật chất được
khoa học biết rất nhiều. Nhưng lực là một trong những đặc tính của vật chất,
được gọi là chuyển động- Motion)- th́ Thiên Nhiên không những vẫn c̣n bí
hiểm, mà nó c̣n không liên quan ǵ đến Sự Sống thiêng liêng đang hoạt động
trong và xung quanh nó, và với những sự sống nhân loại đang phát triển giữa
ḷng nó. Vô số các thiên thần ấy nối liền các cơi với nhau. Họ vẫn đang tiến
hóa trong khi giúp đỡ sự tiến hóa của những hạng thấp hơn họ. Guồng máy tiến
hóa hiện ra rơ rệt hơn khi chúng ta thấy rằng con người cũng có tham dự
trong các đẳng cấp của những vị Thông Tuệ. Những Thiên Thần ấy là “Con của
Trời” (Son of God), thuộc về một kỳ sinh trưởng trước chúng ta, họ “kêu reo
mừng” (Job 38:7) khi những “nền móng của trái đất” được thành lập trong khi
các Sao Mai đồng hát ḥa nhau.
Những hạng khác tiến hóa thấp hơn chúng ta: thú
vật, cây cỏ, kim thạch và các loài tinh chất (elementals), trong khi các
Thiên Thần tiến hóa cao hơn chúng ta. Và khi chúng ta học hỏi như thế, chúng
ta nảy sinh một quan niệm về Bánh Xe của Sự Sống gồm vô số sinh linh tương
quan lẫn nhau và đều cần thiết cho nhau, con người là một Thông Tuệ linh
hoạt; một tự thức (self-conscious being) có một vị trí của nó trên Bánh Xe
này. Bánh Xe cứ quay măi do Ư Chí thiêng liêng, và các Thông Tuệ cấu tạo nên
nó t́m cách cộng tác với Ư Chí đó. Nếu trong sự hoạt động của các Thông Tuệ
có một sự găy vỡ hay khiếm khuyết v́ xao nhăng hay chống đối, th́ Bánh Xe sẽ
lê đi, quay chậm lại và chiếc xe tiến hóa của các thế giới nặng nhọc tiến
trên con đường của nó.
Hằng hà sa số sự sống này, trên và dưới nhân
loại, đến tiếp xúc với tâm thức con người theo các đường lối rất xác định,
trong số đó có âm thanh và màu sắc. mỗi âm thanh có một h́nh thể trong cơi
vô h́nh, và các âm thanh phối hợp tạo thành các dáng vẻ phức tạp [xin xem
các sách khoa học về vấn đề này, và quyển Voice- figures của Bà Watts
Hughe]. Trong những cơi vật chất mảnh mai ấy, các âm thanh đều có màu sắc đi
theo, v́ thế nhiều khi chúng tạo nhiều h́nh thể màu mè vô cùng đẹp đẽ. Khi
một nốt được đánh lên, sự rung động của nó trong cơi hữu h́nh tạo nên các
rung động trong các cơi vô h́nh, mỗi âm thanh có một đặc tính riêng và có
thể tạo được vài kết quả. Khi giao thiệp với các Thông Tuệ thấp hơn con
người hoặc khi muốn kiểm soát và điều khiển họ, người ta dùng những âm thanh
thích ứng để tạo các kết quả mong muốn v́ ngôn từ nơi đây là những âm thanh
xác định. Và khi giao thiệp với những Thông Tuệ tiến hóa cao hơn, vài âm
thanh cũng rất hữu ích để tạo một bầu không khí điều ḥa, thích hợp với các
hoạt động của họ và làm cho các thể tinh vi của chúng ta dễ thụ cảm hơn với
các ảnh hưởng của họ.
Tác động của âm thanh lên các thể tinh vi là
một phần quan trọng nhất trong cách sử dụng huyền bí âm thanh. Các thể mảnh
mai này cũng giống như thể xác, lúc nào cũng rung động. Các sự rung động này
thay đổi theo mỗi một tư tưởng hay dục vọng. Những rung động thay đổi bất
thường này gây trở ngại cho các rung động mới đến từ bên ngoài. Để các thể
dễ cảm với những ảnh hưởng thanh cao hơn, người ta dùng âm thanh biến đổi
các rung động bất thường ấy thành một nhịp điệu không đổi giống như nhịp
điệu của Vị Thông Tuệ mà ta muốn đến. Mục đích của những câu thường được lập
đi lập lại là để tạo ảnh hưởng trên, giống như một nhạc sĩ đánh vang măi một
nốt nhạc đến khi tất cả nhạc khí cùng chỉnh vào nốt ấy. các thể tinh vi phải
được chỉnh cùng nốt với Vị ấy nếu muốn ảnh hưởng của Ngài xuyên dễ dàng qua
bản tính của người thờ phượng. Từ xưa người ta đă dùng âm thanh với mục đích
đó. Như vậy, âm nhạc đă tạo thành một toàn bộ trong sự thờ phượng, và vài âm
điệu xác định nào đó đă được bảo tồn và lưu truyền cẩn thận từ thời đại này
sang thời đại khác.
Mỗi tôn giáo đều có những âm thanh có bản chất
đặc biệt, gọi là “Từ Quyền Lực” (words of power) gồm nhiều câu thuộc một
ngôn ngữ đặc biệt và được ngân xướng theo một cách thức đặc biệt. Các tôn
giáo đều có một kho những câu như thế, những âm thanh đặc biệt nối tiếp
nhau. Đông phương gọi chúng là “câu chú” (mantras), khoa học về môn này đă
được họ nghiên cứu rộng răi và công phu. Một câu chú không cần phải thuộc
một ngôn ngữ đặc biệt nào. Bất cứ ngôn ngữ nào cũng dùng được, mặc dầu có
vài ngôn ngữ này thích hợp hơn các ngôn ngữ khác, và miễn là người lập câu
chú nắm vững được kiến thức huyền bí cần thiết. Có hàng trăm câu chú bằng
giọng tiếng Phạn do các Huyền Bí gia ngày xưa rành rẽ luật lệ cơi vô h́nh
lập nên. Chúng được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Lời hát câu chú tạo nên sự
rung động do đó tạo nên các h́nh thể trong cơi vật chất cũng như trong các
cơi siêu h́nh. Tùy theo kiến thức và sự trong sạch của người hát mà lời hát
của y có thể ảnh hưởng đến cơi nào. Nếu kiến thức y rộng sâu, nếu ư chí y
mạnh mẽ và nếu tâm y trong sạch th́ h́nh như không có giới hạn nào ngăn cản
quyền năng tác động của y khi dùng vài câu chú cổ xưa.
Như đă nói câu chú không cần lập bằng ngôn ngữ
đặc biệt nào. Chính v́ thế mà trong Giáo Hội La Mă, tiếng La Tinh được dùng
trong những nghi thức thờ phượng quan trọng nhất. Tiếng La Tinh được dùng
nơi đây không phải v́ nó là một tử ngữ để che dấu sự hiểu biết, để mọi người
đừng hiểu. Nó được dùng như một mănh lực sống động trong các cơi vô h́nh,
tạo nên các làn rung động mà những ngôn ngữ Âu Châu thông thường khác không
thể tạo đượctrừ khi một Huyền Bí gia giỏi dùng một trong các ngôn ngữ ấy để
cấu tạo một dăy âm thanh cần thiết. Dịch một câu chú tức là thay đổi từ một
“Từ Quyền Lực” sang câu văn thông thường. Như thế âm thanh đă bị biến đổi và
h́nh thể âm thanh cũng biến đổi theo.
Có vài cách sắp xếp các từ La Tinh, phụ thêm âm
nhạc trong lễ thờ phượng của Cơ Đốc, tạo những ảnh hưởng rất mạnh mẽ trong
các cơi siêu nhiên, và bất cứ người nào nhạy cảm cũng nhận thức được những
hiệu quả đặc biệt của lời hát những câu thiêng liêng nhất ấy, nhất là trong
lễ Misa. Ai ngồi yên tĩnh trong trạng thái đón nhận đều nhận được những hiệu
quả rung động khi vị hành lễ hay ca đoàn thốt ra những câu ấy. Cùng lúc ấy
những kết quả được tạo nên trên các cơi giới cao siêu tác động lên các thể
tinh vi của các người thờ phượng theo cách thức đă được tŕnh bày, đồng thời
chúng cũng kêu gọi các Vị Thông Tuệ ở các cơi ấy chính xác như khi một người
này kêu gọi người kia ở cơi trần, dưới h́nh thức một lời khẩn cầu hoặc trong
vài trường hợp là một mệnh lệnh. Âm thanh tạo nên những h́nh thể chớp sáng
linh động vượt xuyên qua các cơi, tác động vào tâm thức của các Vị Thông Tuệ
khiến cho vài Vị ấy giúp đỡ các công việc xác định mà những người dự lễ
thỉnh cầu. Những câu chú như thế giữ một vai tṛ quan trọng trong mỗi Phép
Bí Tích.
Phần quan trọng cốt yếu kế tiếp là các cử chỉ-
hành thức hữu h́nh và bên ngoài. Đó lá các Dấu Hiệu. Mỗi dấu hiệu đều có một
ư nghĩa đặc biệt riêng và đánh dấu phương hướng tác động lên các mănh lực vô
h́nh mà người hành lễ đang điều khiển, những mănh lực này hoặc do của chính
ông, hoặc chảy xuyên qua ông. Trong mọi trường hợp đều cần có chúng để thực
hiện các kết quả mong muốn, và chúng là phần cốt yếu trong Lễ Bí Tích. Một
dấu hiệu như thế được gọi là “Dấu Quyền Lực” (sign of power) cũng như câu
chú được gọi là “Từ Quyền Lực”.
Thật lư thú khi ta đọc thấy trong các tác phẩm
huyền bí thới trước những điều liên quan với các sự kiện này. Trong “Book of
the Dead” của Ai Cập có diễn tả cuộc hành tŕnh sau khi chết (podt mortem)
của một Linh Hồn, chúng ta thấy y bị chặn lại và thử thách ở các giai đoạn
khác nhau của cuộc hành tŕnh ấy như thế nào. Y bị ngăn chận và thử thách
bởi các Vị Gác Cổng của các cơi liên tiếp nhau. Y chỉ có thể đi qua Cổng ấy
và tiếp tục cuộc hành tŕnh khi y biết được hai điều: y phải nói Từ Quyền
Lực và làm một Dấu Quyền Lực. Sau khi làm được như thế, các thanh cản của
Cổng mới rơi xuống và các Vị Gác Cổng đứng sang bên cho Linh Hồn đi qua.
Trong cuốn Thánh Kinh Cơ Đốc thần bí Pitis Sophia cũng có tường thuật một
bài tương tự nhưng bài này nói về một người tự ư rời khỏi xác thân trong
tiến tŕnh Điểm Đạo chớ không phải một Linh Hồn được tự do, thoát khỏi sự
ràng buộc của xác thân sau khi chết. Có những Quyền Lực lớn lao hơn, Quyền
Lực của Thiên Nhiên, ngăn cản bước đường y;
cho đến khi người được Điểm Đạo đưa ra Từ và Dấu, họ mới cho phép y
qua những cánh cổng vào lănh vực của Họ. Cả hai kiến thức này đều cần thiết.
Không có Từ và Dấu này th́ sự tiến hóa bị chận lại và một Bí Tích không c̣n
là một Bí Tích nữa.
Ngoài ra, tất cả các Bí Tích c̣n phải dùng-
hoặc nên dùng- vài vật liệu hồng trần (Ngày nay, trong Bí Tích Giải Tội,
người ta không c̣n dùng tro ngoại trừ trong vài dịp đặc biệt, nhưng chúng
không hề thuộc vào phần nghi lễ). Nó là biểu tượng của điều mà Bí Tích phải
đạt đến. Nó nêu rơ bản chất của “ân huệ tinh thần và bên trong” nhận được
xuyên qua nó. Đây cũng là một phương tiện vật chất để chuyển di ân huệ một
cách thật sự, hiện thực chớ không phải theo nghĩa tượng trưng, và một sự
thay đổi tinh tế xảy ra trong nó để thích ứng nó với những mục đích cao
siêu.
Một đồ vật gồm có các phân tử đặc lỏng, hơi mà
một nhà hóa học có thể phân tích được. Ngoài ra nó c̣n có chất dĩ thái
(ether) và những đối phần (counterpart) vật chất thanh bai hơn nữa. Trong
những phần này, từ điển (magnetism) và những mănh lực thanh bai hơn tác
động.
Khi một đồ vật được truyền từ điển, th́ có một
sự thay đổi trong phần dĩ thái của nó, những làn sóng rung động bị biến đổi
và hệ thống hóa theo những làn sóng rung động của chất dĩ thái của người
truyền từ điển. Như thế nó chia sớt bản tính của y, và các phân tử nặng nề
hơn dưới tác dụng của chất dĩ thái sẽ biến đổi chậm chạp mức độ rung động
của chúng. Nếu người truyền từ điển có quyền năng tác động những đối phần
tinh vi hơn nữa th́ chúng sẽ rung động đồng nhịp với những rung động thanh
cao hơn của y.
Đây là bí quyết của sự trị bịnh bằng từ điển.
Những sự rung động rối loạn của người bệnh được lập lại điều ḥa với những
rung động của người chữa trị mạnh khỏe một cách xác định rơ ràng như một quả
lắc bất điều ḥa được sửa chữa lại cho điều ḥa, đúng nhịp điệu chu kỳ. Một
bác sĩ sẽ xạ từ điển vào nước để chữa bệnh nhân của ông, hoặc vào một miếng
vải đặt lên chỗ đau. Trong mọi trường hợp, người ta dùng chất dĩ thái để tác
dụng lên các phân tử vật chất đậm đặc hơn.
Khi Từ Quyền Lực và Dấu Quyền Lực tác động lên
các vật liệu dùng trong phép Bí Tích th́ một kết quả tương tự xảy ra,từ điển
trong chất dĩ thái thay đổi và những đối phần thanh nhẹ bị tác động tùy theo
sự hiểu biết, tính trong sạch và ḷng tôn sùng của người hành lễ đă từ điển
hóa đồ vật ấy- hay nói theo danh từ tôn giáo là ông đă hiến dâng nó. Hơn nữa,
Từ và Dấu Quyền Lực trong buổi lễ c̣n kêu gọi những Thiên Thần liên hệ đặc
biệt với những đồ vật được dùng và với đặc tánh của các động tác phô diễn.
Họ trợ giúp tích cực, tuôn những năng lực từ điển của chính họ vào đối phần
thanh nhẹ và cả đến phần dĩ thái của món đồ. Như thế Họ tăng cường năng lực
của người hành lễ. Ai biết được những năng lực của từ điển sẽ không thể nghi
ngờ các sự thay đổi trong các đồ vật trên. Và nếu một nhà khoa học không tin
vào điều vô h́nh lại có được khả năng truyền thấm vào nước sinh lực của
chính y để chữa một căn bệnh vật chất, th́ tại sao một quyền năng thuộc một
bản chất cao cả hơn, mặc dầu tương tự, lại bị phủ nhận khỏi những
người có một đời sống thánh thiện, một tánh t́nh thanh cao, và một tri thức
về sự vật vô h́nh? Những ai có thể cảm nghe các h́nh thức cao hơn của từ
điển đều biết rất rơ rằng các đồ vật được hiến dâng có năng lực khác nhau
rất nhiều và sự khác biệt về từ điển ấy là do tŕnh độ hiểu biết, sự trong
sạch và tinh thần của người hiến dâng chúng. Chương 14 có đề cập thêm một ít
về các “đồ vật thiêng này”.
Như thế chúng ta thấy phần bên ngoài của phép
Bí Tích rất quan trọng. những biến đổi hiện thực xảy ra trong các đồ vật
được dùng. Chúng được tạo thành những vận cụ cho các năng lực tự nhiên của
nó. Ai đến gần chúng, chạm vào chúng, thí các tiềm lực từ điển của chúng sẽ
tác động vào thể dĩ thái và các thể thanh nhẹ hơn của y, làm cho chúng dễ
cảm nhận những ảnh hưởng cao siêu hơn, và rung động cùng âm điệu với các vị
cao cả liên quan đến Từ và Dấu Quyền Lực dùng trong buổi lễ. Những Vị trong
cơi vô h́nh sẽ hiện diện trong lễ Bí Tích, tuôn xuống ảnh hưởng thiện tâm
đầy ân phước của họ, như thế tất cả những ai xứng đáng trong buổi lễ, đủ
tinh khiết và tôn sùng để ḥa hợp với các làn rung động được tạo nên, sẽ cảm
thấy t́nh cảm của họ được tinh luyện và phấn khích, tinh thần của họ được
tăng tiến mau lẹ, và tâm của họ tràn đầy an tịnh nhờ tiếp xúc mật thiết với
những Vị vô h́nh.
CHƯƠNG 13
PHÉP BÍ TÍCH
Bây giờ chúng ta hăy áp dụng những nguyên lư đại cương ấy
vào các trường hợp cụ thể để xem chúng giải thích các Lễ Bí Tích như thế nào.
Có lẽ chúng ta đề cập đến ba Phép Bí Tích trong
bảy phép dùng trong Giáo Hội Cơ Đốc cũng đủ. Hai lễ được xem như bắt buộc
đối với tất cả người Cơ Đốc, mặc dầu những nhóm Tin Lành cực đoan đă loại bỏ
tính chất Bí Tích của các lễ ấy, chỉ coi chúng có giá trị tuyên bố và ghi
nhớ mà thôi, tuy nhiên ngay trong nhóm của họ, một tâm tôn sùng chân chánh
cũng nhận được ân phước thiêng liêng mà đầu óc từ chối. Phép Bí Tích thứ ba
không được Hội Thánh Tin Lành công nhận là một Bí Tích dẫu với hư danh đi
nữa, mặc dầu nó có những dấu hiệu thiết yếu của một Bí Tích, theo như định
nghĩa trong sách giáo lư của Giáo Hội Anh.(xem trang 175). Ba lễ đó lần lượt
là Lễ Báptít, lễ Thánh Thể và lễ Hôn phối. Việc loại bỏ lễ Hôn Phối ra khỏi
các Bí Tích đă hạ thấp nhiều lư tưởng cao cả của nó và đă đưa đến nhiều sự
rời rạc trong mối liên kết của nó.
Bí Tích Báptít đều có trong mọi tôn giáo, không
những nó là cửa ngơ bước vào đời sống hồng trần, mà tổng quát hơn nó c̣n là
một nghi lễ tinh luyện. Nghi lễ này thâu nhận một người gia nhập- mới sinh
hay đă trưởng thành- vào một tôn giáo bằng cách rảy nước lên người. Đó là
phần cốt yếu của nghi lễ, điều này rất phổ thông từ xưa đến nay. Dr.Giles
lưu ư: “Ư niệm dùng nước như một biểu tượng cho sự tinh luyện tinh thần rất
là rơ rệt từ thời thượng cổ đến đỗi chúng ta phải ngạc nhiên. Trong quyển
khái luận về Tôn Giáo Cổ Ba Tư, Dr.Hyde nói rằng lễ ấy tràn khắp trong dân
chúng. Họ không cắt b́ cho trẻ em, mà duy chỉ dùng lễ Báptít để tinh lọc
linh hồn cho trẻ. Họ đem đứa trẻ cho vị linh mục trong nhà thờ và đặt em
trước mặt trời và lửa. Khi buổi lễ chấm dứt, họ nh́n thấy em thiêng liêng
hơn. Chúa bảo họ đựng nước trong vỏ cây Holm để dùng cho mục đích này. Cây
này thật ra là cây Haum của các giáo sĩ. Đôi khi người ta nhúng y vào một
thùng nước lớn, như Tavernier có nói. Sau lễ tẩy rửa Báptít ấy, vị linh mục
đặt cho y một tên do cha mẹ chọn”. Bên Ấn Độ, sau khi một em bé sinh được
vài tuần, người ta làm một nghi lễ trong đó có phần rảy nước cho em. Nghi
thức rảy nước đều có trong tất cả các sự thờ phượng của Ấn Giáo. Williamson
nêu những tin tức đáng tin cậy về sự thực hành Lễ Báp tít ở Ai Cập, Ba Tư,
Tây Tạng, Mông Cổ, Mexico, Peru, Hy Lạp, La Mă, Scandinavia, và giữa người
Druids. Có vài lời cầu nguyện rất là đẹp đẽ: “cầu xin cho nước thánh màu
xanh và xanh nhạt này vào thân thể bạn và linh hoạt ở đấy. Tôi cầu xin cho
nó tiêu diệt và loại trừ khỏi bạn tất cả điều ác và phản nghịch đă đặt cho
bạn trước khi có thế gian”. “Con ơi, hăy nhận lấy nước của Chúa của thế gian,
Ngài vốn là sự sống của chúng ta. Nó rửa sạch và tinh lọc. Cầu xin những
giọt nước này tẩy sạch tội lỗi đă đặt cho con trước khi tạo lập thế giới, v́
tất cả chúng ta đều chịu dưới quyền lực của nó,”
Tertullian lưu ư rằng Lễ Báp tít rất thông dụng
trong các nước không theo Cơ Đốc Giáo.
Trong hầu hết các cộng đồng tôn giáo, một h́nh
thức Báp tít nho nhỏ theo sau mọi nghi lễ, dùng nước làm biểu tượng cho sự
tinh lọc. Họ quan niệm rằng không ai bước vào nghi thức thờ phượng trừ khi y
đă tinh luyện tâm hồn và lương thức y; sự tẩy sạch bên ngoài tượng trưng cho
sự tẩy sạch bên trong. Trong những nhà thờ La Mă và Hy Lạp, người ta đặt một
b́nh đựng nước Thánh gần mỗi cửa, và mỗi người đến thờ phượng đều chấm vào
nước Thánh để làm dấu thánh giá trên người y trước khi y tiến bước hướng về
bàn thờ. Robert Taylor nhận xét điều này như sau: “Các chậu đựng nước làm
Báp tít trong các nhà hội Tin Lành,- và chúng ta cũng cần kể thêm các b́nh
nhỏ đặt ở ngưỡng cửa các nhà nguyện Cơ Đốc- không phải là những sự bắt
chước, phỏng theo, mà là một sự tiếp nối liên tục không bao giờ gián đoạn
của cùng một loại bùa nước.
Trong lễ Báp tít đón nhận lần đầu tiên vào Giáo
Hội hoặc trong các lễ rửa thứ yếu khác, người ta thường dùng nước bởi nó là
một chất lỏng trong Thiên Nhiên có khả năng tẩy sạch mạnh. Như thế nước là
biểu tượng thích hợp nhất cho sự tinh luyện. Trong nghi lễ Anh Quốc, người
ta chú nguyện một câu chú vào nước: “Xin thánh hóa nước này thành nước thần
bí rửa sạch tội lỗi,…” và kết thúc bằng công thức: “Nhân danh Cha, và Con,
và Thánh Thần Amen”. Đó là Từ Quyền Lực, nối tiếp theo là Dấu Quyền Lực, Dấu
Thánh Giá được làm trên mặt nước.
Từ và Dấu ấy tạo cho nước một đặc tính mới mà
trước đây nó không có, bây giờ nó được gọi một cách đúng đắn là”nước thánh”.
Những quyền lực hắc ám sẽ không lại gần nó; khi được rảy lên người, nó tạo
một cảm giác an tịnh và khêu gợi đời sống tinh thần. Khi một em bé được làm
Lễ Báp tít, năng lực tinh thần do Từ và Dấu tạo cho nước sẽ tăng cường sự
sống tinh thần trong người em, rồi sau đó Từ Quyền Lực được lập lại lần nữa
ngay trên người em, và Dấu Quyền Lực được làm ngay trên trán em, trong các
thể thanh nhẹ của em có thêm các làn rung động thanh cao, và những lời kêu
gọi ǵn giữ đời sống đă được thánh hóa ấy túa ra suốt cơi vô h́nh. Dấu Quyền
Lực này có khả năng tinh lọc và bảo vệ tức khắc- tinh lọc nhờ sự sống đă
được tuôn qua dấu ấy, bảo vệ nhờ những làn rung động mà nó tạo nên trong các
cơi thanh cao. Những làn rung động này tạo thành một bức tường bảo hộ chống
lại những ảnh hưởng xấu trong cơi vô h́nh. Mỗi khi người ta chạm đến nước
Thánh, đọc lên Từ và làm Dấu Quyền Lực, th́ năng lực được làm tươi mới lại,
những làn rung động được tăng cường thêm; cả hai điều này đều được công nhận
là có công hiệu trong các cơi vô h́nh và giúp ích cho người thực hiện.
Trong Giáo Hội đầu tiên, người ta chuẩn bị rất
cẩn thận trước khi làm Lễ báp tít, những người được nhận vào Giáo Hội hầu
hết đều chuyển đổi từ các tín ngưỡng khác. Người cải đạo trải qua ba giai
đoạn giáo huấn xác định, y sẽ lưu lại trong mỗi giai đoạn
cho đến khi y đă nắm vững các giáo lư của nó-
Bấy giờ y mới được chấp nhận vào Giáo Hội do Lễ Báp tít- Chỉ sau đó y mới
được dạy Tín Điều(Creed). Tín Điều không được viết ra và cũng không bao giờ
lập lại trước sự hiện diện của một người không tin. Như thế nó được dùng như
một dấu hiệu để nhận biết nhau và một bằng chứng về địa vị của người phát
ngôn. Vào thời đó người ta đă tin tưởng vô cùng, vào ân huệ do Lễ báp tít
ban cho, do đó mà phát sinh ra tục lệ về Lễ Báp tít- trên- giường- chết. Tin
tưởng vào sự hiện thực của Báp tít, những người thế gian không muốn từ bỏ
các lạc thú trần tục và không muốn sống một đời sống trong sạch, nên họ đă
hoăn Lễ Báp tít lại đến khi bàn tay của Tử Thần đă đặt lên họ. Họ tưởng có
thể hưởng được ân huệ của Bí Tích, và có thể bước qua cửa Tử trong sự trong
sạch và đầy năng lực tinh thần. Để chống lại sự lạm dụng này, vài Cha của
Giáo Hội đă phản đối tích cực. Có một câu chuyện lạ kỳ của một Cha, tôi nghĩ
là của S.Atanasius, một người có tính châm biếm mẫn tuệ, thích khôi hài để
làm cho người nghe hiểu được cái hạnh kiểm hư hỏng của họ. Ông nói với nhóm
tín đồ rằng ông đă có thấy một linh ảnh và đă lên đến cửa Trời có Thánh
Peter đứng canh giữ. Đón tiếp với một cái cau mày bất măn, không một nụ
cười, Thánh bảo: “Tại sao ông cứ măi gửi cho tôi những cái bao trống rỗng mà
lại dán kín cẩn thận?” Đó là một trong những câu châm chích nhất rất hiện
thực với người Cơ Đốc Giáo, lúc mà những Bí Tích rất hiện thực với người Cơ
Đốc Giáo, chớ không phải chỉ là những h́nh thức như ngày nay thường gặp.
Lễ Báp tít trẻ sơ sinh dần trở nên thông lệ
trong Giáo Hội, do đó mà phần giáo huấn trước Lễ Báp tít vào thời trước trở
thành phần chuẩn bị cho Lễ Thêm Sức. Bấy giờ lư trí và sự minh mẫn đă thức
tỉnh liền nắm lấy những sự hứa hẹn của Lễ Báp tít trước kia. Sự thâu nhân
trẽ sơ sinh vào Giáo Hội là một việc làm đúng khi sự sống con người được
nhận thức là đang sống trong ba cơi và khi Tinh Thần và Linh Hồn (Spirit and
Soul) đến cư ngụ trong xác thân mới, được nhận biết là có ư thức, minh mẫn
và hiệu lực trong các cơi vô h́nh. Rất phải lẽ để cho “người Ẩn Mật trong
ḷng” (I.Pet 3:4) được đón tiếp vào giai đoạn mới của cuộc hành hương của y,
và để cho những ảnh hưởng tốt lành nhất có thể tác động lên cái vận thể mà y
đang cư ngụ và đang uốn nắn cho công việc của y. “Nếu mắt con người được mở,
như mắt người hầu của Elisa ngày xưa đă mở th́ họ vẫn c̣n thấy đầy ngựa và
xe bằng lửa tụ tập trên núi, nơi đó có vị tiên tri của Chúa Trời”.(II King
6:17).
Chúng ta bước sang nghiên cứu Phép Bí Tích thứ
hai là Lễ Thánh Thể, Sự Hy Sinh của Lễ Thánh Thể, một biểu tượng của Sự Hy
Sinh đời đời đă được giải thích. Sự hy sinh hằng ngày của Giáo Hội trên khắp
thế giới tượng trưng cho sự hy sinh đời đời nhờ đó các thế giới được thành
lập và duy tŕ. Con người, trong hành động Hy Sinh, dự phần vào sự hoạt động
của Luật Hy Sinh, đống hóa ḿnh với Luật ấy, nhận thức bản tính kết hợp của
nó, và tự nguyện liên kết ḿnh với nó để cùng hoạt động cho thế giới. Nếu sự
đồng hóa được trọn vẹn th́ người ta có thể hưởng được nhiều lợi ích, và ảnh
hưởng trên các cơi được gia tăng nhờ những người thờ phượng sùng tín đă tham
gia bằng tâm trí với hành động hy sinh, chớ không bằng h́nh thức bên ngoài.
Lễ trọng đại này sẽ mất đi sức mạnh và ư nghĩa
của nó khi người ta chỉ xem nó như một lễ tưởng niệm một sự hy sinh đă qua
rồi, như một biểu tượng đẹp đẽ mà không chứa một chân lư thâm sâu, như một
động tác bẻ bánh ḿ và rót rượu mà không có sự chia sớt với sự Hy Sinh đời
đời. Như thế nó chỉ c̣n là một cái vỏ, một bức tranh chết thay v́ một thực
tại sống động. Vị Tông Đồ hỏi: “Cái chén phước lành mà chúng ta chúc phước
há chẳng phải là thông [chia sẻ] với huyết của Đấng Christ sao? Cái bánh mà
chúng ta bẻ há chẳng phải là thông với thân thể của Đấng Christ sao? (I.Cor
10:16). Và ông tiếp tục nêu rơ rằng tất cả ai dùng phần lễ ấy đều chia sớt
một bản tính chung, đống liên kết nhau cùng trong một thân thể duy nhất,
cùng hiệp nhất với Đấng hiện diện trong sự hy sinh ấy. Nơi đây ông đề cập
đến một sự kiện của thế giới vô h́nh, và ông nói bằng quyền lực của sự hiểu
biết. Những Vị vô h́nh tuôn bản chất của ḿnh vào các vật liệu dùng trong
các nghi lễ, và những ai chia sẻ các vật liệu ấy- chúng sẽ được đồng hóa
trong cơ thể họ và trở nên thành phần của họ- sẽ được hợp nhất với các Vị
ấy, họ cùng chia sẻ một bản chất chung. Điều này cũng rất đúng thật khi
chúng ta dùng thức ăn hằng ngày do tay người khác làm ra- một phần của bản
tánh và từ điển y trộn lẫn với bản tánh và từ điển chúng ta. Khi thực phẩm
được truyền từ điển thanh cao một cách trang trọng và có chủ ư, nó sẽ tác
động lên các thể tinh vi cũng như thể xác. Nếu chúng ta hiểu được ư nghĩa và
công dụng của Lễ Thánh Thể, chúng ta sẽ hiểu được những sự kiện này của cơi
vô h́nh, và phải thấy trong lễ ấy một dây liên kết giữa cơi trần với cơi
trời, và một hành động thờ phượng đại đồng, một sự hợp tác, một sự kết hợp
với Luật Hy Sinh. Bằng chẳng vậy th́ Lễ Thánh Thể sẽ mất đi phần ư nghĩa
quan trọng hơn của nó.
Việc dùng bánh ḿ và rượu làm vật liệu cho Lễ
này- giống như nước trong Lễ Báp tít- đă rất lâu đời và phổ thông. Ngưới Ba
Tư dâng bánh ḿ và rượu cho Mithras. Các lễ vật ở Tây Tạng và Tartary cũng
tương tự như thế, Jêremiah có nói đến những người Do Thái dự lễ thờ phượng
Ai Cập đă dâng bánh và thức uống cho Nữ Vương Trên Trời (Jer 44:17). Trong
Sáng Thế Kư, chúng ta đọc thấy Melchisedek, vị Vua được Điểm Đạo, dùng bánh
ḿ và rượu để ban phước cho Abraham (Gen 14:18,19). Trong các Huyền Môn Hy
Lạp cũng có dùng bánh ḿ và rượu, Williamson ghi nhận rằng người Mexico,
Peru và Druid cũng thế.
Bánh ḿ là một biểu tượng tổng quát tượng trưng
cho thực phẩm để cấu tạo thể xác, cũng như rượu biểu tượng cho huyết, được
xem như chất lỏng của sự sống (life- fluid) “v́ sự sống của xác thịt ở trong
huyết” (Levib17:11). V́ thế những người cùng một gia đ́nh cùng chia xẻ một
huyết chung.Cùng huyết với ai tức là cùng ḍng họ với y. Cũng v́ thế mà ngày
xưa có lễ “thệ ước bằng huyết”. Khi một người lạ được chấp nhận gia nhập vào
một gia đ́nh hay một bộ lạc th́ người ta chích vào mạch máu y vài giọt máu
của một người trong gia đ́nh, hoặc y uống những giọt máu ấy- thường pha vào
nước và từ đấy y được công nhận như một người được sinh ra trong gia đ́nh
hay bộ lạc ấy. Tương tự như thế, trong Lễ Thánh Thể, những người thờ phượng
nhận lấy bánh tượng trưng cho thân thể, bản chất ( nature) của Đấng Christ,
và rượu tượng trưng cho huyết, sự sống của Ngài; và họ trở nên ḍng dơi của
Ngài, một với ngài.
Từ Quyền Lực là câu “Đây là Thân Thể của Ta”,
“Đây là Máu của Ta”. Chính từ này biến đổi các vật liệu thành những vận thể
cho các năng lực tinh thần. Dấu Quyền Lực là bàn tay đưa ra trên bánh và
rượu, làm dấu Thánh Giá (người Tin Lành không thường làm như thế). Đây là
những điều trọng yếu bên ngoài của Bí Tích Thánh Thể.
Chúng ta rất cần hiểu sự thay đổi xảy ra trong
Bí Tích, bởi v́ nó c̣n vượt xa hơn từ điển đă được giải thích ở trước. Nơi
đây chúng ta ở trong một trường hợp đặc biệt của một định luật tổng quát.
Đối với Người Huyền Bí Học th́ sự việc hữu h́nh
được xem như sự việc sau cùng. Tất cả đều là sự biểu lộ vật chất của một tư
tưởng. Một đồ vật chỉ là một ư niệm được h́nh thành và cô đặc lại. Tất cả
món vật trong thế giới đều là những ư niệm Thiêng Liêng biểu lộ trong vật
chất hồng trần. Như thế, thực tại của một món vật không nằm trong h́nh thể
bên ngoài, mà nằm ở sự sống bên trong, ở ư niệm đă tạo h́nh và uốn nắn vật
chất thành một vật biểu lộ cho ư niệm ấy. Trong các cơi cao, vật chất rất
mảnh mai và mềm dẻo, tự lấy h́nh nhanh chóng theo ư niệm đó, và thay đổi
h́nh thể nó khi tư tưởng thay đổi. Khi vật chất trở nên đậm đặc và nặng nề
hơn, nó thay đổi chậm chạp khó khăn hơn. Xuống tận cơi trần những sự thay
đổi này trở nên chậm chạp nhất v́ tánh đối kháng của các vật chất cấu tạo
nên cơi trần. Tuy nhiên nếu thời gian tác động được đầy đủ, vật chất nặng nề
này cũng sẽ thay đổi dưới áp lực của ư niệm nhập vào trong nó, như người ta
có thể thấy các vết nhăn trên gương mặt biểu lộ những tư tưởng và t́nh cảm
quen thuộc của y.
Đây là sự thật ẩn trong giáo điều Biến Thể
(Transub-stantiation) mà người Tin Lành thông thường hiểu rất sai lầm. Nhưng
đây là số phận của các chân lư khi được tŕnh bày cho người không hiểu. Cái
“bản thể” (substance) đă thay đổi ấy chính là cái quan niệm tạo ra một vật
hợp với tên nó. “Bánh ḿ không phải chỉ đơn giản là bột ḿ và nước. Cái ư
niệm quán xuyến việc trộn, nhào nặn bột ḿ và nước, đó là cái “bản thể” tạo
chúng thành bánh ḿ, c̣n bột ḿ và nước được gọi theo kỹ thuật là những “vật
ngẫu nhiên” (accidents), những sự sắp xếp của vật chất để tạo một h́nh thể
cho ư niệm ấy. Với một ư niệm khác, một bản thể khác, th́ lúa ḿ và nước sẽ
lấy một h́nh thức khác như khi chúng được đồng hóa trong xác thân. Cũng thế,
các nhà hóa học đă khám phá rằng các nguyên tử hóa học, cùng loại và cùng số
lượng, có thể được phối hợp theo nhiều cách khác nhau và trở nên những chất
có các đặc tính hoàn toàn khác nhau mặc dầu các vật liệu không thay đổi. Các
chất phức hợp ấy là một trong những phát minh lư thú của hóa học hiện đại.
Sự sắp xếp các nguyên tử tương tự theo những ư niệm khác nhau sẽ tạo nên các
chất khác nhau.
Vậy th́ sự thay đổi bản thể nơi chất liệu dùng
trong Lễ Thánh Thể là ǵ? Cái ư niệm tạo nên món đồ (object) đă được thay
đổi. Trong t́nh trạng thông thường của chúng th́ bánh ḿ và rượu là những
vật liệu thực phẩm, diễn tả các ư niệm thiêng liêng
về những món dinh dưỡng, những món thích ứng để
xây dựng các thể. Ư niệm mới mẻ về bản chất và sự sống của Christ, thích ứng
để xây dựng bản chất (nature) và sự sống của con người. Đó là sự thay đổi về
bản thể. Món đồ vẫn không thay đổi các “vật ngẫu nhiên” của nó, vật liệu
hồng trần của nó. Nhưng phần vật chất thanh bai liên hệ với nó đă thay đổi
dưới áp lực của một ư niệm thay đổi, và do đó món đồ có thêm các đặc tính
mới. Chúng tác động lên các thể thanh bai của người dự lễ, và chỉnh hợp
chúng vào bản chất và sự sống của Đấng Christ. Mức độ chỉnh hợp này tùy
thuộc”sự xứng đáng” (worthiness) của y.
Người hành lễ không xứng đáng mà chịu cùng
phương thức ấy sẽ bị tác động rất nguy hiểm, v́ bản chất y không thể đáp ứng
với các mănh lực cao siêu nên nó sẽ phản kháng lại và v́ thế nó sẽ bị chúng
phá tan nát.
C̣n người dự lễ xứng đáng sẽ trở nên một với sự
Hy Sinh, với Christ, và cũng trở nên một với Sự Sống Thiêng Liêng là Cha của
Christ- v́ hành động Hy Sinh trên khía cạnh h́nh thể là sự quy phục Sự Sống
riêng rẽ vào Sự Sống chung, là sự dâng hiến cái vận hà riêng biệt để thành
một vận hà cho Sự Sống duy nhất, nên chính do sự qui phục ấy mà người
hy sinh hiệp nhất với Thượng Đế. Đó là sự dâng
hiến bản thể thấp cho bản thể cao, biến dụng cụ xác thân của ư chí riêng rẽ
thành một dụng cụ của ư chí thiêng liêng, và dâng “thân thể ḿnh làm của lễ
sống và thánh thiện, đẹp ḷng Đức Chúa Trời” (Roma 12:1) Giáo lư này đă được
giảng dạy rất đúng đắn trong Giáo Hội đến đỗi những người dự lễ Thánh lễ đều
vui mừng hưởng sự sống Christ ban xuống cho con người. Sự biến thể bản chất
thấp kém thành bản thể cao siêu là mục tiêu của Lễ này, cũng như của tất cả
Bí Tích khác. Sự biến đổi mănh lực thấp kém bằng cách hợp nhất nó với mănh
lực cao cả là điều mà người dự lễ mong đạt. Những ai biết được chân lư bên
trong này và thông hiểu sự kiện của đời sống cao siêu, th́ dầu y ở trong bất
cứ tôn giáo nào, y cũng có thể nhờ các bí tích của nó mà tiến đến tiếp xúc
đầy đủ hơn, hoàn toàn hơn với Sự Sống Thiêng Liêng đang nâng đỡ thế giới nếu
trong cuộc lễ y có tâm trạng đón nhận, tin tưởng và cởi mở. Điều này rất cần
thiết để Phép Bí Tích có thể được thực hiện.
Lễ Hôn Phối cũng có những điểm đặc biệt rơ ràng
và xác định của một Phép Bí Tích như Lễ Báp tít và lễ Thánh Thể: dấu hiệu
bên ngoài và ân huệ bên trong. Vật liệu là chiếc Nhẫn (ring) ṿng tṛn tượng
trưng cho sự đời đời. Từ Quyền Lực là câu công thức cổ xưa: “Nhân danh Cha
và Con và Thánh Thần”. Dấu quyền Lực là hai tay bắt nhau, biểu hiệu sự nối
liền những đời sống. Chúng hợp thành các điều cần yếu bên ngoài của một Phép
Bí Tích.
Ân huệ bên trong là sự hợp nhất tâm với tâm,
trí với trí để có thể thực hiện sự duy nhất của tinh thần (unity of spirit).
Không có sự duy nhất của tinh thần này, hôn phối không c̣n là một hôn phối,
mà chỉ là một sự kết nối tạm thời giữa các thể. Cử chỉ tặng và nhận nhẫn,
đọc câu công thức, hai tay bắt nhau, tạo nên một biểu tượng đẹp đẽ. Nhưng
nếu không nhận được ân huệ bên trong, nếu người dự lễ không mở rộng ḷng
ḿnh hướng về buổi lễ với niềm ước muốn
kết hợp toàn thể bản chất của họ, th́ đối với
họ Phép Bí Tích mất đi những đặc tính ân phước của nó và chỉ c̣n là một h́nh
thức mà thôi.
Nhưng Hôn Phối c̣n một ư nghĩa thâm sâu hơn
nữa. Các tôn giáo đều đồng một lời tuyên bố rằng nó là h́nh ảnh thế gian
biểu hiện cho sự hợp nhất giữa cơi trần và cơi trời, sự hợp nhất con người
và Thượng Đế. Dẫu thế ư nghĩa của nó cũng chưa hết, nó c̣n là h́nh ảnh của
tương quan giữa Tinh Thần và Vật Chất, giữa Tam Nguyên và Vũ Trụ. Ư nghĩa sự
kết hợp người nam và nữ trong Lễ Hôn Phối rất là sâu xa và cao diệu.
Trong lễ ấy, người nam đứng tượng trưng cho
Tinh Thần, Tam Nguyên của Sự Sống; người nữ tượng trưng cho Vật Chất,Tam
Nguyên của chất liệu tạo h́nh. Một bên cho sự sống, một bên nhận lănh và
nuôi dưỡng nó. Hai bên đều bổ túc lẫn nhau, hai nửa không tách rời được của
một toàn thể, bên này không thể hiện hữu xa cách bên kia. Cũng như Tinh Thần
bao hàm (imply) Vật Chất và Vật Chất bao hàm Tinh Thần, người chồng bao hàm
vợ và người vợ bao hàm chồng. Sự Hiện Hữu (Existence) trừu tượng biểu lộ
trong trạng thái nhị nguyên:Tinh Thần và Vật Chất, cả hai đều không thể độc
lập với nhau, cái này chỉ biểu lộ được cùng với cái kia, cũng thế, nhân loại
biểu lộ trong hai trạng thái- chồng và vợ, xuất hiện cùng nhau, không thể
hiện hữu ngoài nhau. Họ không phải là hai, nhưng là một, một đơn vị có hai
mặt. Thượng Đế và Vũ Trụ được tiêu biểu trong Hôn Phối; như vậy chồng và vợ
cũng được kết liền nhau như thế.
Ở trên có nói rằng Hôn Lễ là h́nh ảnh của sự hiệp nhất giữa Thượng Đế và con
người, giữa Tinh thần đại đồng và Tinh Thần cá tính (individualized).
Tất cả mọi Thánh Kinh lớn trên thế giới đều dùng biểu tượng này: Ấn Độ, Do
Thái và Cơ Đốc. Ư nghĩa được nới rộng bằng cách xem Tinh Thần cá tánh là một
Quốc Gia hay một Giáo Hội, một tập thể các Tinh Thần cá tánh ấy kết hợp
trong một đơn vị.
Isaiah tuyên bố với Do Thái: “Chồng ngươi là
Đấng đă tạo thành ngươi, danh Ngài là Đức Jehova vạn quân… chàng rể vui mừng
v́ vợ mới, Đức Chúa Trời ngươi cũng vui mừng v́ ngươi” (Isaiah 54:5,62:5).
Và Thánh Paul cũng viết rằng Lẽ bí nhiệm trong Hôn Phối tiêu biểu cho Christ
và Giáo Hội (Ẹp:23-32).
Nếu chúng ta nghĩ về Tinh Thần và Vật Chất như
thể c̣n tiềm ẩn th́ chúng ta không thấy sự sanh sản. C̣n khi chúng cùng biểu
lộ với nhau th́ đấy là sự tiến hóa. Và khi hai nửa của nhân loại không biểu
lộ như chồng và vợ th́ không có sự sanh hóa sự sống xác thịt. Hơn nữa họ nên
hợp nhất nhau để đời sống có thể tăng trưởng trong mỗi người, một sự tiến
hóa mau lẹ hơn, một sự tấn bộ nhanh chóng hơn; v́ là phân nửa bên này có thể
cho bên kia những ǵ bên kia khiếm khuyết. Hai nửa ấy nên ḥa lẫn nhau thành
một, khơi dậy những khả năng tinh thần của con người. Họ cũng tượng trưng
cho Con Người trọn vẹn, trong bản thể của y, Tinh Thần và Vật Chất đều được
phát triển toàn mỹ và quân b́nh tuyệt diệu. Họ cũng là Con Người thiêng
liêng, y hợp nhất trong y chồng và vợ, các nguyên tố âm dương trong thiên
nhiên, như” Thượng Đế và Con Người là một Christ” (Tín ngưỡng Atharasia).
Những ai nghiên cứu Bí Tích Hôn Phối như thế sẽ
hiểu tại sao các tôn giáo luôn luôn xem hôn lễ không thể bị giải trừ được.
Tôn giáo nghĩ rằng các cặp vợ chồng không kết hợp được ấy thà chịu đau khổ
ít năm c̣n hơn là để cho lư tưởng của hôn phối bị hạ thấp măi cho mọi người.
Một quốc gia phải chọn lựa lư tưởng trong Hôn Lễ là một sự kết hợp hoặc là
về tinh thần hoặc là về trần thế. Nó phải thấy trong lễ ấy một đơn nhất tinh
thần hoặc nó chỉ xem lễ ấy là một sự kết hợp vật chất. Một bên là quan niệm
tôn giáo xem Hôn Lễ là một Bí Tích, một bên là quan niệm vật chất xem Hôn Lễ
như một khế ước thông thường có thể chấm dứt được. Bao giờ sinh viên Tiểu Bí
Pháp cũng phải xem lễ ấy là một Bí Tích.
CHƯƠNG 14
Các tôn giáo đều là nơi ǵn giữ những Kinh Sách
thiêng liêng, và người ta thường tra cứu các sách ấy để giải quyết nghững
vấn đề đang tranh luận. Chúng thường chứa đựng lời dạy của những Vị Sáng Lập
hoặc của những vị thầy về sau được xem như có một nền kiến thức siêu nhân.
Dẫu một tôn giáo phát sinh nhiều giáo phái bất ḥa, th́ mỗi giáo phái ấy vẫn
bám lấy Quy Điều (Canon) thiêng liêng và giải thích chúng sao cho thích nghi
nhất với những giáo lư đặc biệt riêng của ḿnh. Tuy đức tin của người Cơ Đốc
La Mă cực đoan khác với đức tin của người Tin Lành cực đoan rất nhiều, nhưng
cả hai người đều cầu cứu đến cùng một Kinh Thánh. Tuy một triết gia Vedanta
rất khác biệt với một người Vallabhacharya thất học nhất, họ cũng đều xem
kinh Veda như tối thượng. Dầu người Shias và Sunnis chống đối kịch liệt, họ
vẫn xem Kinh Kuran là thiêng liêng. Các cuộc đấu khẩu và bút chiến về ư
nghĩa của các đoạn văn có thể gia tăng, nhưng chính Kinh Sách th́ trong mọi
trường hợp đều được kính trọng sâu xa nhất. Và quả thật vậy, v́ tất cả các
sách đều chứa các mảnh vỡ (fragments) của sự Khải Thị, được một trong các vị
Cao Cả nắm giữ chọn lựa ra. Một mảnh như thế được chúng ta nơi đây gọi là
một Khải Thị, một Thánh Kinh, và vài nơi trên thế giới vui mừng với Khải Thị
ấy như một kho tàng vô giá. Mảnh được lựa chọn tùy theo nhu cầu của thời đại
ấy, khả năng tiếp thu của dân chúng được truyền giảng, và mẫu giống dân mà
nó muốn giáo hóa. Thường mảnh Khải Thị ấy được đưa ra dưới một h́nh thức đặc
biệt mà trong đó lịch sử bên ngoài, câu chuyện, lời hát, thi thơ, hay lời
tiên tri, hiện ra như một quyển sách trọn bộ đối với một độc giả tăm tối và
hời hợt. Nhưng trong đó có những ư nghĩa sâu xa được che kín, đôi khi trong
các con số, đôi khi trong những chữ được xây dựng theo một chương tŕnh ẩn
mật- một ám hiệu, đôi khi trong những biểu tượng mà các người tinh thông sẽ
hiểu được, đôi khi trong những chuyện ngụ ngôn được viết như lịch sử, và
trong nhiều h́nh thức khác nữa. Các sách này có đôi chút tính chất của bí
tích, một h́nh thức bên ngoài và một sự sống bên trong, một biểu tượng bên
ngoài và một chân lư bên trong. Chỉ có những ai đă được các Vị tinh thông
huấn luyện mới có thể giải thích ư nghĩa ẩn mật ấy. V́ thế Thánh Peter có
nói:” chẳng có lời tiên tri nào trong Kinh Thánh lấy ư riêng giải nghĩa được
(II Pet 1:20). Những lời giải thích tỉ mỉ những đoạn Thánh Kinh- mà văn
chương các Cha thường đề cập- xem có vẻ kỳ quái và quá khó hiểu đối với một
trí óc tầm thường ngày nay. Cách chơi số và chữ, các sự giải thích dị thường
những đoạn văn mà bề ngoài có vẻ chỉ là những câu về lịch sử thông thường,
lại làm nhọc trí độc giả thời nay. Y đ̣i hỏi những sự kiện phải được tŕnh
bày rơ ràng, chặt chẽ, và trên hết y đ̣i hỏi y phải cảm nghe vững chắc dưới
chân. Y hoàn toàn từ chối chạy theo bước chân nhẹ nhàng của nhà thần bí bước
trên một mảnh đất mà đối với y có vẻ là những vũng bùn lầy lay động, trong
một cuộc rượt bắt quanh co khi ẩn khi hiện một cách bất thường, vô lư và
điên đầu. Tuy nhiên những người đă viết những luận văn bí hiểm này là những
người có một trí tuệ sáng suốt và một sự suy xét b́nh tĩnh, những bậc thầy
xây dựng của Giáo Hội. Và đối với những người đọc chúng một cách đúng, chúng
cũng c̣n chứa đầy các dấu hiệu và các gợi ư, và chúng chỉ nhiều lối đi tăm
tối dẫn đến mục tiêu của kiến thức.
Chúng ta đă thấy Origen, một trong những người
có tinh thần ổn kiện nhất, rành rẽ kiến thức huyền bí, dạy rằng các Thánh
Kinh đều là xấp ba (threefold) gồm có Thể Xác, Linh Hồn và Tinh Thần. Ông
nói Thể Xác được cấu tạo bằng những chữ bên ngoài của các lịch sử, các câu
chuyện, và ông không ngần ngại cho biết chúng cũng chẳng đúng thật theo
nghĩa đen (literally) mà chỉ là những câu chuyện để dạy dỗ kẻ ít học. Ông
c̣n đi xa hơn nữa khi nhận xét rằng các lời tuyên bố trong những câu chuyện
ấy rơ ràng là giả, cốt để cho các mâu thuẫn hiển nhiên ngoài mặt có thể
khích động con người t́m ṭi ư nghĩa thật sự của các sự liên hệ khó thể có
được này. Ông cho rằng ngày nào con người c̣n tăm tối, th́ Thể Xác này vẫn
c̣n là khá đủ đối với họ; nó truyền đạt các giáo lư, đưa ra các huấn thị, và
họ không nh́n thấy những sự tự mâu thuẫn và những điều bất khả trong các lời
tuyên bố theo nghĩa đen, và v́ thế mà chúng không quấy rầy họ. Khi trí óc
tăng trưởng, khi sự khôn ngoan phát triển, những mâu thuẫn và bất khả ấy
khiến y chú ư và kinh ngạc. Bấy giờ y bị thúc đẩy phải đi t́m một ư nghĩa
thâm sâu hơn, và y bắt đầu t́m thấy Linh Hồn của Thánh Kinh. Linh Hồn ấy là
phần thưởng cho người tầm kiếm khôn ngoan, y thoát khỏi những dây ràng buộc
của mặt chữ giết chết ư nghĩa (II Cor3:6). C̣n Tinh Thần của Thánh Kinh chỉ
có thể được người đă giác ngộ tinh thần thấy mà thôi. Y hiểu ư nghĩa tinh
thần:” Nếu không phải là Thánh Linh (Tinh Thần) của Đức Chúa Trời th́ chẳng
ai biết các sự trong Đức Chúa Trời… chúng ta nói về ơn đó, không cậy lời nói
mà sự khôn ngoan của loài người đă dạy đâu, song cậy sự khôn ngoan mà Thánh
Thần đă dạy” (I Cor 2:11,13).
Lư do tại sao Khải Thị lại viết theo cách thức
ấy cũng dễ hiểu. Đây là một trong nhiều cách thức để một giáo lư có thể tiện
lợi cho mọi tâm hồn thuộc nhiều giai đoạn tiến hóa khác nhau, và như thế
không những nó huấn luyện trực tiếp những người thuộc thời nó nhưng c̣n cho
các người sau này tiến hóa vượt hơn những người mà Khải Thị được truyền lần
đầu. Con người luôn luôn tiến hóa, v́ thế ư nghĩa bên ngoài trước kia truyền
thụ cho các người chưa tiến hóa hẳn phải chịu rất nhiều hạn chế. Nếu không
có ǵ sâu xa và đầy đủ hơn ẩn dưới ư nghĩa bên ngoài th́ giá trị của Thánh
Kinh sẽ tàn phai sau vài ngàn năm. Chính nhờ phương pháp những ư nghĩa nối
tiếp nhau cao xa hơn mà Thánh Kinh có một giá trị vĩnh cửu. Những người tiến
hóa có thể t́m thấy trong Thánh Kinh những kho tàng ẩn dấu, và cho đến một
ngày họ nắm vững được toàn thể th́ họ không c̣n cần đến phần tử nữa. Vậy th́
những Thánh Kinh trên thế giới là những mảnh nhỏ- những mảnh của Sự Khải Thị.
Ư
nghĩa kế tiếp sâu xa hơn của chữ Khải Thị là khối giáo lư được Đại Đoàn
Huynh Đệ Các Vị Huấn Sư tinh thần ǵn giữ cho con người. Giáo lư này được
thể hiện trong các sách vở dưới dạng biểu tượng, chứa đựng những luật vũ trụ,
những nguyên lư thành lập vũ trụ, những phương pháp tiến hóa của vũ trụ, tất
cả vạn vật cấu tạo nó, quá khứ, hiện tại và tương lai của nó. Đây là Khải
Thị, kho tàng vô giá mà những Vị Canh Gác của nhân loại có trách nhiệm bảo
quản. Thỉnh thoảng Ngài lấy từ Khải Thị ấy vài mảnh để làm nên các Thánh
Kinh của thế gian.
Thứ ba là Khải Thị, cao cả nhất, đầy đủ nhất,
tốt đẹp nhất, là sự Biểu Hiện Tự Ngă của Thượng Đế trong vũ trụ
(Self-unveiling of Deity), sự tiết lộ hết thuộc tính (attribut) nầy đến
thuộc tính khác, hết quyền lực này đến quyền lực khác, hết mỹ lệ này đến mỹ
lệ khác trong tất cả mọi h́nh thức đa dạng hợp thành vũ trụ. Ngài biểu lộ vẻ
huy hoàng của Ngài trong mặt trời, sự vô tận của Ngài trong không gian đầy
sao, sức mạnh của Ngài trong những dăy núi, nét tinh khiết của Ngài trong
những đỉnh núi phủ đầy tuyết và trong không khí trong suốt, năng lực của
Ngài trong những ngọn sóng biển cuồn cuộn, vẻ đẹp của Ngài trong ḍng suối
róc rách, trong mặt hồ trong suốt phẳng lặng, trong khu rừng thẳm mát mẻ, và
trong đồng bằng ngập nắng, tánh vô úy của Ngài trong người anh hùng, tánh
kiên nhẫn của Ngài trong vị Thánh, sự dịu dàng của Ngài trong t́nh yêu người
mẹ, ḷng chăm sóc bảo vệ của Ngài trong người cha và vua, minh triết của
Ngài trong triết nhân, kiến thức của Ngài trong nhà khoa học, quyền năng
chữa bệnh của Ngài trong vị y sĩ, sự công b́nh của Ngài trong người quan ṭa,
sự thịnh vượng của Ngài trong thương gia, năng lực giáo huấn của Ngài trong
vị linh mục. Ngài th́ thầm với chúng ta qua ngọn gió thoảng, Ngài cười với
chúng ta qua ánh mặt trời. Ngài quở trách chúng ta qua bệnh tật, Ngài kích
thích chúng ta khi bằng thành công khi bằng thất bại. Ngài cho chúng ta
thoáng nh́n thấy Ngài ở khắp nơi và trong mọi vật để quyến rũ chúng ta yêu
mến Ngài. Ngài ẩn trốn để chúng ta có thể đứng vững một ḿnh. Nhận biết Ngài
ở khắp nơi, ấy là Minh Triết chân chánh yêu thương Ngài trong mọi nơi, ấy là
Ước Muốn chân chánh. Phụng sự Ngài khắp nơi, ấy là Hành Động chân chánh. Sự
tỏ lộ Tư Ngă (Self revealing) của Thượng Đế là sự Khải Thị cao cả nhất, tất
cả sự Khải Thị khác đều là thứ yếu và từng phần.
Người được cảm hứng là người nhận được vài sự
Khải Thị ấy đến bằng một tác động trực tiếp của Tinh Thần đại đồng lên Tinh
Thần riêng rẽ vốn là con của chính Ngài. Y cảm nghe ảnh hưởng giác ngộ của
Tinh Thần đối với Tinh Thần. Không ai biết được chân lư mà lại có thể đánh
mất và nghi ngờ nó nếu y được Khải Thị đến với y lúc y đứng vững một ḿnh
trên thế gian. Đó là Thiêng Liêng bên ngoài đă nói với Thiêng Liêng bên
trong, trong đền thờ của tâm con người, và con người biết được như thế
do chính ḿnh chứ không phải do người khác.
Ở một mức độ thấp hơn, một người được cảm hứng
khi có một người khác cao hơn y kích động nơi y những quyền năng hăy c̣n thụ
động, hay cả đến sử dụng tạm thời thể xác y như một vận thể. Người được
quang huy (illuminated) ấy, trong thời gian nhận cảm hứng, có thể nói những
điều vượt quá kiến thức của y và phát biểu những chân lư không ngờ được. Đôi
khi các chân lư được ban xuống xuyên qua một vận hà của con người để giúp đỡ
thế giới. Một Vị cao cả hơn y truyền sự sống của Ngài vào y, và các chân lư
ấy được thột ra xuyên qua môi y. Bấy giờ Vị Huấn Sư nói những điều trọng đại
hơn. “Thiên Thần đă lấy lửa chạm môi y” (Isa 6:6,7. Đấy là những Tiên Tri
của dân tộc, trong vài thời kỳ nào đó, đă nói với một sự xác quyết vô cùng,
một sự sáng suốt rơ ràng, một sự thông hiểu các nhu cầu tinh thần của con
người.Bấy giờ những lời ấy sẽ sống trường cửu và người phát ngôn quả thật là
một sứ giả của Thượng Đế. Người nào đă biết được như thế th́ không bao giờ
có thể quên đi kiến thức ấy, và y luôn mang trong tâm y một ḷng xác quyết
không bao giờ biến mất hoàn toàn. Ánh sáng có thể lu mờ, tăm tối có thể phủ
lên y, luồng sáng cơi trời có thể phai nhạt, mây đen có thể bao phủ lấy y,
đe dọa, nghi nan, thử thách có thể tấn công y, nhưng Bí Mật của An Tịnh vẫn
ngự trong ḷng y- y biết hoặc biết rằng y đă biết.
Những ai nhận thức được- dầu theo bất cứ nghĩa
nào- rằng Thượng Đế đang ở xung
quanh họ, trong họ và trong vạn vật th́ họ có thể hiểu được một nơi chốn
hoặc một đồ vật có thể trở nên “thiêng liêng” (sacred) như thể nào bằng cách
chỉ cần một chút khách quan hóa (slight objectivization) sự Hiện Diện khắp
nơi và đời đời này. Thông thường công việc này do một người tiến hóa cao
thực hiện. Nơi y, Thiêng Liêng bên trong đă được khai mở cao siêu v́ thế
những thể thanh nhẹ của y dễ đáp ứng với những làn rung động tinh tế của tâm
thức. Những năng lực tinh thần có thể tuôn xuống qua một người như thế và
chúng sẽ tự kết hợp với từ điển sinh động tinh khiết của y. Bấy giờ y có thể
xạ chúng vào bất cứ đồ vật nào làm cho chất dĩ thái và các chất thanh nhẹ
hơn của món đồ trở nên đồng nhịp với những làn rung động của y, và hơn nữa
là Thiêng Liêng trong nó có thể biểu lộ rơ ràng hơn. Một món đồ như thế được
“từ điển hóa”; và nếu việc từ điển hóa được thực hiện mạnh mẽ th́ món đồ tự
nó sẽ trở nên một trung tâm từ điển, nó lại có thể từ điển hóa những ǵ gần
đó.
Một món đồ được làm cho trở nên “thiêng liêng”
như thế giúp ích rất nhiều cho sự cầu nguyện và tham thiền. Các thể thanh
bai của người thờ phượng cùng ḥa nhịp với các rung động thanh cao của nó và
y sẽ cảm nghe được yên lặng, êm dịu và ḥa b́nh mà không cần cố gắng chi cả.
Y được đưa vào một t́nh trạng cầu nguyện, tham thiền và dễ dàng có kết quả
thay v́ khó khăn và trở ngại, nhờ vậy công việc tập luyện chán ngắt ấy sẽ
trở nên vô cùng thú vị. Nếu món đồ biểu hiệu cho một Nhân Vật Thiêng Liêng-
Tượng Chúa trên Thánh Giá, Thánh Mẫu và Hài Đồng, Thiên Thần, Vị Thánh, th́
ảnh hưởng c̣n nhiều hơn nữa. Nếu từ điển của Ngài đă được truyền vào h́nh
tượng từ trước bởi Từ và Dấu Quyền Lực, th́ Ngài có thể tăng cường từ điển
ấy bằng cách sử dụng một chút năng lực tinh thần, và như thế Ngài sẽ ảnh
hưởng kẻ mộ đạo. Đôi khi Ngài cũng có thể tự biểu lộ xuyên qua h́nh tượng ấy
nữa mà nếu ở trường hợp khác Ngài sẽ không làm như thế. Trong thế giới tinh
thần, năng lực cũng phải được tiết kiệm. Chỉ cần một số ít năng lực truyền
vào một đồ vật, một nơi chốn, có thể tạo một ảnh hưởng lớn hơn nhiều năng
lực dùng không đúng cách.
Người ta có thể dùng những định luật này để
biện minh cho việc dùng tất cả các đồ vật được hiến dâng: thánh tích, bùa
v.v… Chúng đều là những đồ vật được truyền từ điển, có khả năng mạnh mẽ hay
yếu kém, hoặc cả đến vô dụng nữa, tùy theo kiến thức, sự trong sạch và tinh
thần của người truyền từ điển.
Nơi chốn cũng có thể được làm cho linh thánh
một cách tương tự bởi đời sống của một thánh nhân sống nơi đó. Từ khí tinh
khiết của Ngài tỏa ra làm cho toàn thể bầu không khí nơi đó rung động một
cách an b́nh. Đôi khi những Vị Thiêng Liêng từ các cơi trên trực tiếp từ
điển hóa một nơi nào đó, như trường hợp Thánh John nói đến trong Thánh Kinh:
“một thiên sứ thỉnh thoảng giáng xuống trong ao, làm cho nước động, truyền
cho nước những đặc tính chữa bệnh.(S.John5:4). Tại những nơi ấy, dẫu một
người trần tục lơ đễnh cũng đôi khi nhận thấy ảnh hưởng ân phước, tạm thời y
sẽ ổn định lại và hướng về những sự việc cao cả hơn. Sự Sống Thiêng Liêng
trong con người luôn luôn t́m cách chinh phục h́nh thể, uốn nắn nó để nó là
một biểu hiện của Sự Sống. Rất dễ thấy công việc của Sự Sống sẽ dễ dàng hơn
nếu h́nh thể được làm cho rung động điều ḥa với những làn rung động của một
Vị tiến hóa cao siêu, và những nỗ lực của Sự Sống sẽ được một quyền năng
mạnh mẽ hơn tăng cường thêm. Sự nhận biết bên ngoài của hiệu quả này là một
cảm giác yên lặng, an tĩnh và thanh b́nh, cái trí không c̣n xao động, cái
tâm không c̣n âu lo. Ai tự cảm nghe trong ḿnh sẽ thấy rằng có vài nơi chốn
rất dễ đưa đến sự an tĩnh, sự tôn sùng thờ phượng, sự tham thiền hơn các nơi
khác. Trong một căn pḥng hoặc một ngôi nhà chứa đầy những tư tưởng thấp
hèn, những chuyện tầm phào, và cuộc sống phàm tục náo động, th́ khó mà an
tịnh cái trí và tập trung tư tưởng hơn là tại một nơi có tư tưởng tôn giáo
đă được thể hiện năm này sang năm khác, thế kỷ này sang thế kỷ khác. Những
điều ǵ nơi trước đ̣i hỏi nhiều cố gắng th́ nơi sau không cần ǵ cả.
Đây là sự hữu lư của các nơi hành hương, nơi ẩn
dật tạm thời. Con người quay về nội tâm để t́m Thượng Đế trong ḷng y. Y
được giúp đỡ do bầu không khí của hằng ngàn người trước y đă cùng t́m kiếm
như thế tại cùng nơi chốn này. Tại đây không những chỉ có từ điển của một Vị
Thánh hoặc do cuộc viếng thăm của một Đấng Cao cả cơi vô h́nh, mà c̣n do
những người viếng thăm nơi ấy với một tấm ḷng đầy tôn kính và mộ đạo, họ
rung động theo ảnh hưởng ấy, rồi họ lại tăng cường các rung động trước bằng
chính đời sống họ, làm cho địa điểm này trở nên tốt hơn trước khi y đến.
Năng lực từ điển sẽ tiêu tán từ từ, và một đồ vật hay một nơi chốn sẽ dần
mất đi từ điển ấy nếu nó bị lăng quên. C̣n nếu ta năng chú ư đến nó, th́ từ
điển sẽ mạnh mẽ thêm. Nhưng sự hiện diện của người ưa nhạo báng sẽ làm tổn
thương đồ vật,
hay nơi chốn bởi v́ các làn rung động đối kháng
của y làm suy yếu những làn rung động có sẵn ở
đấy. Như một làn sóng âm thanh có thể gặp làn sóng khác đến dập tắt nó, tạo
kết quả là sự yên lặng, những làn rung động của tư tưởng nhạo báng sẽ làm
suy yếu hay đập tắt các làn rung động của tư tưởng tôn kính và yêu thương.
Hậu quả nhiều hay ít tùy theo sức mạnh tương đối của các làn rung động,
nhưng những làn rung động xấu xa không phải là không tạo được kết quả, v́
những luật rung động ở các cơi cao cũng giống y như ở cơi vật chất, và những
sự rung động của tư tưởng là sự biểu lộ của các năng lực hiện thực.
Lư do và hiệu quả của sự dâng hiến một nhà thờ,
một nhà nguyện, một nghĩa trang rất dễ hiểu. Hành động hiến dâng không phải
chỉ là sự công bố dành riêng nơi chốn ấy cho một mục đích đặc biệt, nó c̣n
là sự từ điển hóa nơi ấy để tác động hữu ích cho những ai thường đến đó. V́
cơi hữu h́nh và các cơi vô h́nh xen lẫn vào nhau, đan dệt vào nhau, nên
những người phụng sự cơi vô h́nh một cách tốt đẹp nhất là những người có thể
sử dụng được các năng lực các cơi ấy.
Chúng ta đă đến cuối quyển sách nhỏ tŕnh bày một vấn đề trọng đại và chúng
ta đă vén lên một góc Màn che dấu nàng Trinh Nữ của Chân Lư Vĩnh Cửu khỏi
đôi mắt thờ ơ của con người. Cho đến nay người ta cũng chỉ mới thấy được lai
viền y phục đầy vàng bạc châu báu của nàng mà thôi. Dẫu thế, nó cũng tỏa ra
những hương thơm của các cơi thần tiên hơn cơi giới chúng ta. Một sự vinh
quang không tưởng tượng nổi khi tấm Màn được nâng lên và chúng ta thấy được
vẻ huy hoàng trên Gương Mặt của Đức Mẹ Thiêng Liêng và trong tay Bà là Hài
Nhi tượng trưng Chân Lư. Trước Hài Nhi, Thiên Thần Tối Cao luôn che phủ
gương mặt họ, vậy người hữu sanh hữu hoại nào có thể ngắm nh́n Ngài mà tồn
tại được?
Tuy nhiên v́ chính Bản Thể của Ngài ngự nơi con
người nên ai sẽ ngăn cản được y vượt qua tấm màn che và thấy được “Vẻ Vinh
Quang của Ngài”. Từ Hang Động đến Thiên Đường cao nhất: đó là con đường của
Ngôi Lời biểu lộ thành xác thịt, và được biết như Con Đường của Thập Tự.
Người nào chia xẻ nhân tính cũng chia xẻ Thiên tính, y có thể bước trên con
đường Ngài đă đi. “Ngài là Điều ǵ, Con là Điều ấy”.
Vạn Vật
Thái B́nh.
1-2-1984.
Xin cảm ơn Người Bạn Tâm Hồn đă giúp tôi về ư nghĩa, lời văn và thời giờ.
15-4-1984.
SỰ MINH TRIẾT ẨN VI TRONG
THÁNH KINH THIÊN CHÚA GIÁO
Trong một phiên nhóm vấn đáp, ông G.Hodson đă
có giảng về ư nghĩa tượng trưng của những chuyện có ẩn ư của Thánh Kinh
Thiên Chúa Giáo. Ngài có đưa ra ch́a khóa để hiểu phần bên trong Kinh Thánh
Thiên Chúa Giáo cũng như trong các Kinh Thánh khác.
Sự tŕnh bày đây không có ư làm giảm bớt giá
trị lịch sử của Kinh Thánh, nhưng trái lại, ngụ ư củng cố sự thông hiểu đúng
đắn ẩn vi trong đó dù thuộc về tôn giáo nào cũng vậy. Những Kinh Thánh được
gọi là ngôn ngữ huyền bí do các nhà huyền bí học chân chính viết ra với ngụ
ư: một mặt đưa ra lịch sử của một v́ giáo chủ, một mặt tŕnh bày chân lư sâu
xa ẩn dưới lớp của những biểu tượng hay những chuyện tượng trưng. Điều này
có mục đích giúp người học đạo thấu được lư nhiệm mầu, tránh cho người chưa
sẵn sàng một nguy hại về sự lạm dụng khoa pháp môn, cứu nhân loại khỏi sự
tàn sát kinh khủng.
Vậy tuy là căn cứ trên nền tảng lịch sử; nhưng
ngôn ngữ được diễn tả dưới h́nh thức tượng trưng ẩn lư một chân lư thâm sâu
với nhiều ư nghĩa.
Đức Christ đă có dặn các đệ tử của Ngài: “Với
các con th́ Ta có thể dạy trực tiếp giáo lư nhiệm mầu của Chúa, c̣n đối với
người ngoài th́ ta dạy dưới h́nh thức những chuyện ngụ ngôn. Ai có tai th́
hăy nghe, ai có mắt th́ hăy thấy.”
Nhiều nhà bác học cho những chuyện trong Kinh
Thánh Thiên Chúa Giáo rất khó tin, v́ những chuyện đó không giải thích được
phương diện vật lư học, khoa học. Đó là những chuyện mà người ta cho là phép
lạ tỉ như làm cho nước trở thành rượu nho, phân chia thức ăn hóa thành nhiều,
cứu người chết sống lại v.v… Nhưng những chuyện đó thật ra ở phạm vi quyền
năng nhiệm mầu của những đấng cao cả; và thật ra nếu ta không biết được
những ch́a khóa để hiểu bên trong những chuyện đó th́ khó cho ta giải thích
đặng. Chính giáo lư Thông Thiên Học đưa cho chúng ta những ch́a khóa nhiệm
mầu.
Kinh
thánh Thiên Chúa Giáo cũng như các Kinh Thánh khác, dùng một thứ ngôn ngữ
đặc biệt ẩn dưới những chuyện tượng trưng. Ngôn ngữ này dùng để dạy những tư
tưởng siêu linh, để tả những trạng thái vô cùng siêu linh mà ngôn ngữ thường
không có đủ lời để diễn đạt được.
Vậy mỗi khi ta đọc Kinh Thánh, ta nên nhớ ta
đang đọc một loại sách đầy chân lư ẩn vi mà chúng ta cần có một thứ tự điển
để hiểu nghĩa.
Ông G.Hodson có đưa ra 4 ch́a khóa và nhắc lại
rằng ông không có ư làm giảm giá trị lịch sử mà trong đó có nhiều chuyện ông
tin đă xảy ra thật sự, nhưng ông tin rằng một khi bức màn biểu tượng được
vén lên th́ chân lư được phô bày một cách rơ rệt và trường cửu. Và chân lư
này là những điều mà những nhà viết Thánh Sử muốn cho chúng ta thông hiểu.
Đây là ch́a khóa thứ nhất: những chuyện kể ở
trong sách xảy ra ở thâm tâm của người đọc truyện. Nó liên quan đến con
người bên trong. Nó tả những kinh nghiệm riêng của dự tiến hóa bên trong của
các bạn, cũng như của tôi.
Thí dụ như sự giáng lâm của Chúa Hài Đồng. Sự
ấy chẳng những tả sự lâm phàm của Đức Jesus tại thành Bê Lem, nó c̣n tả cái
Thiên Tánh hay Phật Tánh trong ḷng mỗi một chúng ta, mà chúng ta cần phải
làm nảy nở, phát triển. Vậy khi đọc loại sách này, chúng ta ráng hiểu với
cái tâm rộng của chúng ta, v́ tôi xin nhắc lại: Thánh Kinh chúng ta đang xem
là chuyện có ở trong ḷng chúng ta.
C̣n cái ch́a khóa thứ hai là: những nhân vật
trong chuyện là để tả tâm tánh hay trạng thái tâm thức của con người. Những
nhân vật đó tượng trưng cho đặc tánh của con người (tốt cũng như xấu) và
những quyền năng thiêng liêng và như trong chuyện Giu Da bán Chúa v́ ganh tị
với bạn đồng môn, và Thánh Jean là tượng trưng cho đức tánh trung thành.
Và khi chúng ta dùng ch́a khóa thứ nhất và thứ
hai chung với nhau, nó chỉ tâm tánh trong cá nhân chúng ta. Nhờ cách này mà
tôi hiểu được chuyện quan trong sau đây: Một hôm kia Đấng Christ
đến nhà người đệ tử của ḿnh tên là Lazare ở
tại thành Béthanie. Ông Lazare có hai người chị: Marie và Martha. Khi Đấng
Christ đến th́ Martha lăng xăng lo công việc đứng ngồi không yên, c̣n Marie
th́ lặng lẽ ngồi dưới chân Ngài. Martha đă lo việc mà bị trách, c̣n Mary th́
ngồi không mà được khen. Việc này có vẻ bất công, nhưng bây giờ tôi hiểu
được rằng: Muốn nghe được tiếng nói nhiệm mầu của Chân nhân là Đấng Christ
th́ chúng ta phải lặng yên như Mary vậy, c̣n hạ trí chúng ta lau chau (lo
chạy việc như Martha ngăn cản sự thực hiện đó). Những việc đó xảy ra trong
người của chúng ta là Lazare ở tại cơi trần này hay là thành Bethanie.
Chuyện này chỉ cho chúng ta thấy, muốn thực hiện Chân Nhân trong ḷng ta, sự
tham thiền quán tưởng là trọng đại, là cần thiết, mặc dầu khi đó chúng ta
phải lo chu toàn những công việc ngoài đời.
Ch́a khóa thứ ba là mỗi chuyện kể là để chỉ sự
tiến triển của con người trên con Đường Đạo. Sự tiến triển này có hai cách:
cách của “con đường thẳng” hay “con đường chật hẹp” và cách thông thường của
quần chúng. Những cách này tả rất khéo léo và áp dụng một cách thực tế cho
mỗi cá nhân cũng như cho mỗi dân tộc.
Và đây là một vài giai đoạn: sự giáng lâm của
Chúa có nghĩa là khi chúng ta mănh liệt hường về một lư tưởng hay một con
đường Đạo Đức, đó cũng có nghĩa là lúc chúng ta ráng thực hiện những nguyện
vọng, những lư tưởng (về tinh thần cũng như về vật chất). Một hai khi khác,
chúng ta bị ở trong bể trầm luân phiền năo. Và với ḷng can đảm và sự tŕ
chí, chúng ta vượt qua được sự thử thách đó với sự được thêm quyền năng và
ân huệ, không khác nào khi từ ở sông Jordan bước lên bờ, Đức Jesus được Chúa
Cha và Thánh Thiên Thần hiện xuống mừng sự thắng trận này và ban ân huệ cho
Ngài.
Chúng ta một hai khi bị cám dỗ nơi “cảnh hoang
vu”. Cảnh hoang vu này tượng trưng trạng thái khô khan, trơ trọi của tinh
thần, khi những hạ thể quật khởi lên, dụ chúng ta từ bỏ những chân lư, những
lư tưởng mà chúng ta đă thấu được.
Đó là khi Đức Jesus bị quỷ Satan cám dỗ về
danh, lợi ở một miền hoang vu kia. Lúc khác chúng ta cảm thấy bị bạn bè thân
thiết bỏ rơi, những người mà chúng ta tin cậy cũng ngoảnh mặt làm lơ. Cảnh ở
vườn Gethsemani tượng trưng trạng thái đen tối của tâm hồn, Đức Jesus cảm
thấy những khó khăn ḿnh phải trải qua, chén đắng ḿnh phải uống, và nh́n
xung quanh th́ thấy những đệ tử của Ngài bỏ Ngài, hăm hại Ngài hay đang mê
man ngủ.
Mỗi cá nhân, mỗi dân tộc hay là nhân loại nói
chung, đều trải qua cảnh bi kịch vác thập tự giá có khi nhiều lần trong
nhiều kiếp. Một lúc kia, ta bị phản bội, bị ở cảnh chi phối lẻ loi, bản ngă
bị đóng đinh, không người giúp đỡ. Và chính Đức jesus cũng phải than rằng:
“Hỡi Chúa Cha, sao Cha bỏ Con!”
Hầu hết chúng ta với một tŕnh độ khác nhau đều
trải qua giai đoạn đó, để về sau thực hiện một cách thâm sâu “ḿnh với
Thượng Đế chỉ là một”. Đức Jesus đă được sự nhiệm mầu đó và Ngài biết rằng
con người thật là bất diệt và không c̣n bao giờ cảm thấy ḿnh là lẻ loi nữa.
Vậy trong đời sống của Chúa mà Thánh Kinh đă
ghi lại dưới h́nh thức tượng trưng từ giai đoạn lâm phàm, chịu đóng đinh đến
lúc lên Trời, diễn tả một cách rơ rệt những giai đoạn tiến hóa của sự sống
của người thường nhân, của vị đệ tử, của bậc đă được điểm đạo và của những
Đấng Chân Tiên.
Một ngày kia chúng ta sẽ trải qua một cách đấy
đủ đời sống của Chúa, đến lúc trở thành được như Chúa là trở về với Đức Chúa
Cha. Những giai đoạn điểm đạo đang chờ tất cả những ai đă t́m thấy hay đang
dấn bước trên con đường toàn-thiện.
Cái ch́a khóa thứ tư là: trong ngôn ngữ thiêng
liêng, những đồ vật đều có một ư nghĩa đặc biệt. Đă từ ngh́n xưa, trong các
Pháp môn, bên đông phương cũng như bên tây phương đều dùng những biểu tượng
giống nhau. Cũng như giáo lư bên trong của pháp môn ấy cũng giống y nhau.
Chúng ta nên nhớ một h́nh vẽ là một “biểu tượng
vẽ” và một bài ngụ ngôn là một “biểu tượng nói”. Những biểu tượng thuộc về
một trong 4 chất sau đây: đất, nước, lửa, không khí. Mỗi chất này chỉ một
trạng thái tâm thức của con người.
Những đồ vật ǵ ở cơi trần (đất) có nghĩa tâm
thức ở cơi trần được nảy nở. Những chuyện xảy ra dưới nước liên hệ đến t́nh
cảm. Lửa tượng trưng sự tiêu diệt hoặc khuynh hướng đả kích của cái trí. Lửa
cũng tượng trưng thần lực con người và trong vũ trụ. Không khí tượng trung
trực giác.
Đó là những ch́a khóa để mở các kho tàng của
các Thánh Kinh hay những chuyện thần thoại. Kho tàng ấy
hiện cho những ai đi tầm lẽ Đạo
và biết cách dùng sự hiểu biết ḿnh. Kho tàng ấy
ẩn đối với những người mà sự
hiểu biết về khoa pháp môn có thể đem lại sự nguy hại.
Bây giờ chúng ta thử áp dụng những ch́a khóa ấy
đối với Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo.
Những núi non là trạng thái tâm thức tuy ở hồng
trần nhưng được nâng lên một mực độ cao. Thí dụ như ông Moisen nhận được
Mười điều răn “ở trên núi”. Đức Chúa giảng Đạo và đạt đến sự hiệp nhất tinh
thần cũng “ở trên núi” Những cánh đồng bằng tượng trưng tâm thức vừa chớm nở
và những thung lũng là những trạng thái của hạ trí. Vườn tược, ruộng lúa chỉ
tỏ kết quả về tinh thần hay sự bước qua giai đoạn mới của con đường tinh
thần. Thí dụ như sự tích vườn thiên đàng là mở đầu kỷ nguyên mới của sự tiến
hóa nhân loại. Sa mạc và cảnh hoang vu là trạng thái khô . khan của tư
tưởng, khi lư tưởng của ḿnh bị lung lạc và ước vọng cao cả của ḿnh biến
mất. Những thú vật cũng có ư nghĩa tượng trưng những dục vọng.Sư tử, hổ báo
là sự ham muốn, mê say vật chất mà những ai muốn tiến mau trên đường Đạo đều
sẽ phải đối phó, đối phó riêng một ḿnh và phải thắng chúng nó. Sự thắng
trận này không có nghĩa là diệt dục vọng mà làm cho nó trở thành những sức
mạnh hướng về tinh thần. Chúng ta có một thí dụ ở ông Samson, là người có
sức mạnh vô song, khi đi đường Đạo, đă phải giáp chiến với sư tử, và giết nó
với tay không ( nghĩa là không có sự giúp đỡ bên ngoài).
Nước, như đă nói, tượng trưng cho giới t́nh cảm
và cảm tưởng của con người, c̣n rượu, nghĩa là nước biến thể- th́ tượng
trưng trực giác và sự Minh Triết.
Con cá tượng trưng cho tâm thức của Chúa, cho
sự Minh Triết và ḷng Bác ái. Từ thời cổ, trước kỷ nguyên Thiên Chúa Giáo,
người ta đă dùng con cá để tượng trưng tâm thức siêu việt đó.
Con chim bay trên không khí tượng trưng cho
tinh thần cao hơn cơi vật chất, và nó cũng tượng trưng cho Thiêng Liêng.
Lửa là biểu tượng cho sự lau chau của cái trí
hay cái lư luận của hạ trí làm cho chân lư khó hiện ra được. Nó cũng để chỉ
sức mạnh thiêng liêng trong con người và trong vũ trụ. Những cây, những cột
tượng trưng cho đường xương sống mà trong đó có luồng hỏa xà được khơi dậy
và con người sẽ có được sự Minh triết và quyền năng.
Hôn nhân là sự phối hợp giữa phàm nhơn với Chơn
nhơn và về sau là sự phối hợp với chơn thần. Trong Thánh Kinh có kể chuyện
rằng một hôm kia Đấng Christ đi dự một lễ cưới tại thành Cana. Lúc đó không
có rượu uống và Ngài làm cho nước hóa thành rượu. Điều này có nhĩa rằng khi
Chơn Nhơn nhập làm một với phàm nhơn (tượng trưng bởi hôn nhân), t́nh cảm
(nước) trở thành trực giác (rượu).
C̣n chuyện Đấng Christ làm băo tố yên lặng là
một chuyện tượng trưng rất sâu xa mà phương pháp dùng để diễn tả thật là
khéo léo. Câu chuyện ấy như sau. Các vị đệ tử giương buồm cho thuyền ra khơi
biển hồ Galilée. Những người này điều khiển chiếc thuyền trong khi Đức Thầy
đang theo họ th́ nằm ngủ. Mọi việc đều suôn sẻ cho đến khi một cơn băo tố
nổi lên. Lúc ấy các vị đệ tử hoảng hốt đánh thức Ngài dậy, và Ngài với quyền
năng của ḿnh làm băo tố dịu xuống bằng cách nói: “Hăy lặng yên”.
Trong bài này có dùng nhiều biểu tượng. Câu
chuyện xảy ra trên nước có nghĩa để nói đến những t́nh cảm trong con người.
Chiếc thuyền tượng trưng cho thể xác giữ trong ḿnh cái linh hồn để trải qua
những lượn sóng của hồng trần. Những vị đệ tử tượng trưng những đặc tánh của
con người, tỉ như sự cương trực của tông đồ Pierre, sự đơn giản của tông đồ
Jacques, sự tháo vát của tông đồ Matthieu, ḷng thương trung thành của tông
đồ Jean; chỉ có vị đệ tử này có mặt trong khi Đấng Christ bị xử án và đóng
đinh trên thập tự giá. Tất cả những tánh này đều có trong con người kể cả
Juda bán Chúa, một hai khi cám dỗ ta từ bỏ sự thiêng liêng trong ḷng ta.
Nhưng trong tất cả chúng ta đều có Chúa ngự.
Khi sự sống khởi đầu (nghĩa là cuộc hành tŕnh
mới diễn ra) th́ Chúa hay là Thượng Đế trong ḷng ta chưa thức tỉnh, cho đến
khi những cơn ba đào của đời sống, những cơn gió lốc của ham muốn, của giận
hờn oán ghét, ganh tị, quỷ quyệt làm sự an toàn của linh hồn bị rung chuyển.
Lúc ấy chúng ta phải hành động như thế nào? Chúng ta phải làm như các đệ tử.
Chúng ta phải hướng về bên trong, t́m sự thiêng liêng, t́m Chúa trong ḷng
ta, kêu Người dậy và đánh thức Người dậy. Nhờ ảnh hưởng cao quư và phi
thường của Ngài mà chúng ta mạnh dạn đối phó lại phàm nhơn của chúng ta và
chúng ta chắc chắn khắc phục được nó bằng cách bảo chúng nó “hăy lặng yên”
nếu không có những cơn thử thách, những trận băo ḷng, chưa chắc chúng ta
chịu hướng về thiêng liêng để t́m phương cứu cánh, và Thượng Đế trong ḷng
ta vẫn c̣n say ngủ. Vậy những sự đau khổ, những lúc khó khăn cũng là những
kinh nghiệm giúp chúng ta mau tiến trên đường tiến hóa. Nếu chúng ta biết
cách khêu gợi và sử dụng trực giác th́ chúng ta có thể đối phó những sự khó
khăn ở đời một cách dễ dàng.
Trong Kinh Thánh Thiên Chúa Giáo cũng c̣n kể
những người có bịnh nan y, nhưng khi được đến gần Chúa, chạm đến áo của Ngài
th́ bịnh liền hết. Những người mù ḷa, những người chết (nghĩa là ở cảnh đen
tối) cũng được Chúa làm sáng mắt, sống dậy. Ông G.Hodson không phủ nhận
quyền năng của Chúa có thể làm người đau lành bịnh, làm kẻ chết sống dậy,
nhưng muốn chỉ rơ điều này: Trong mỗi một người đều có phần thiêng liêng: đó
là Thiên Tánh hay Phật Tánh mà khi chúng ta kêu gọi đến th́ những sự khó
khăn bên ngoài được dẹp yên. Và ông Hodson cũng có nói: sự chết ở tâm hồn,
sự mù ḷa ở trí năo c̣n nguy hại hơn sự chết và sự mù ḷa ở xác thân.
Và đây tôi xin kể một câu chuyện chót. Hôm kia
ở trên một đỉnh núi cao, có đến 5,6 ngàn người tụ họp xung quanh Đấng Christ
đă từ 3, 4 ngày. Người th́ đến nghe thuyết đạo, kẻ th́ để được lành bịnh. Có
nhiều người từ các xứ xa đến. Trước khi để các người ấy ra về, Ngài liền bảo
các môn đệ Ngài cho những nhười ấy ăn uống. Các môn đệ thưa rằng: “Thưa Thầy
chúng con chỉ có một ít bánh ḿ và vài con cá nhỏ th́ làm sao cho các người
dùng đủ?” Đấng Christ liền truyền đem những thức ăn ấy lại cho Ngài và sau
khi cầu nguyện đến Chúa Cha, liền bảo môn đệ đi phát những thức ăn ấy. Những
thức ăn ấy khi phát ra th́ lại nẩy sanh cái khác. Và khi mỗi người ăn no đầy
đủ th́ thức ăn c̣n lại đựng được bảy giỏ đầy.
Câu chuyện này xảy ra trên núi chỉ nghĩa trạng
thái của bồ đề tâm và những con cá tượng trưng cho ḷng Bác Ái và Minh Triết.
Chúng ta có thể hiểu thêm chuyện này như sau: ḷng Bác Ái và sự Minh Triết
rất cần thiết cho đời sống tinh thần và hằng ngày của chúng ta. Chúng ta cần
khêu gợi nó lên, làm nó phát triển rộng răi hơn. Và cũng như trong câu
chuyện, thứ cá này là thức ăn cần thiết, nhưng càng chia sẻ cho người khác
th́ chẳng những không hao hụt đi, mà nó c̣n gia bội một cách nhiệm màu.
Với tinh thần Thông Thiên Học, tôi thuyết tŕnh
những điều trên đây để quư độc giả khảo xét và thử áp dụng phương pháp này
để t́m hiểu đạo lư ẩn vi trong các Kinh Thánh.
Viết
theo tài liệu trong quyển
“THE HIDDEN WISDOM IN CHRISTIAN SCRIPTURES”
Của ông Geoffrey Hodson
Trích” T́m hiểu Thông Thiên Học”.
Số 71 và 72 tháng 5 và 6 năm 1960
VITAL QUESTIONS ANSWERED.
GIẢI ĐÁP
NHỮNG VẤN ĐỀ THIẾT YẾU
GEOFFREY HODSON
Trích phần:
NGÔN NGỮ THIÊNG LIÊNG CỦA NGỤ NGÔN VÀ BIỂU TƯỢNG.
VẤN: Nếu như theo Giáo Hội Cơ Đốc dạy
rằng sự chết của Đức Jesus trên thập tự đă cứu chuộc chúng ta khỏi mọi tội
lỗi, th́ tại sao chúng ta lại phải thực hiện sự cứu rỗi cho chúng ta bằng
các kiếp luân hồi liên tiếp?
ĐÁP: Nơi đây học giả Cơ Đốc Giáo gặp
phải một trong nhiều cặp ư tưởng mâu thuẫn khó ḥa giải được. Cả hai đều
không thể đúng, và mỗi người chúng ta phải tự quyết định nên tin bên nào. Về
cá nhân tôi, tôi nghiêng theo các lời của Thánh Paul: “Christ ở trong anh em
là niềm hy vọng về sự vinh hiển” (Col 1:27) “…hăy lấy ḷng sợ sệt và run rẩy
mà làm nên sự cứu rỗi của anh em (your own salvation). V́ đấy là Đức Chúa
Trời hành động trong anh em…” (Phil 2: 12,13) “…v́ ai gieo giống chi th́ gặt
giống ấy”. (Gal 6:7) Những giáo lư ấy thu hút tôi hơn cái ư tưởng cho rằng
sự cứu rỗi tôi tùy thuộc vào những kết quả, những điều thành đạt và sự chịu
đau khổ khủng khiếp của một vị vinh hiển nào khác. Tuy nhiên đây chỉ là một
ư kiến cá nhân, mỗi người Thông Thiên Học đều được tự do suy xét cho riêng
ḿnh. Tôi phải thú nhận là lư trí tôi không phải cho phép tôi nghĩ rằng sự
chịu đau khổ không xiết của Đấng Christ trên Thập Tự khoảng 2000 năm qua là
điều thiết yếu để cứu rỗi Linh Hồn tôi, tha mọi tội lỗi của tôi, và như thế
đă vô hiệu hóa định luật Nhân Quả đại đồng. Tôi tin rằng tôi- chính tôi-
phải trả những lỗi lầm của tôi. Thật vậy, tôi sẽ không muốn một người nào
khác chịu đau khổ cho những tội lỗi của tôi.
Hơn nữa tôi cũng không thấy sự tha tội nhờ
người khác (vicariour) là hữu ích. Những nỗi đau khổ và buồn phiền của đời
sống- tự nhiên theo sau các sự vi phạm- có tính cách giáo dục. Chúng tự tạo
ra chúng mà thôi, và Chơn Nhơn khi nh́n chúng hành động th́ đang học hỏi và
hoạch đắc được minh triết và kiến thức, nhất là không phạm lại lỗi ấy lần
hai. Nếu toàn thể dây nguyên nhân và hậu quả này bị xóa bỏ th́ làm sao kinh
nghiệm cá nhân có thể giáo dục cá nhân ấy được?
Tuy nhiên điều này không có nghĩa là: hoặc giáo
điều về sự Tha Tội hoặc thánh chức (ministry) tha tội của Đấng Christ phải
bị dẹp qua. Không cần thiết phải như thế. Tôi xin gợi ra một ư nghĩa tinh
thần về Tha Tội.
Tóm tắt, một trong những kinh nghiệm mà tất cả
những người nào đạt đến tŕnh độ toàn thiện của nhân loại- “tầm thước vóc
vạc theo sự đầy đủ của Đấng Christ (Eph. 4:13)- phải bước vào là kinh nghiệm
ư thức hợp nhất với Tinh Thần và Sự Hiện Diện Thiêng Liêng trong mỗi người.
Đấng Christ biết rằng trên phương diện tinh thần- nói ẩn dụ như thể một tân
lang- Ngài vốn hiệp nhất với Linh Hồn Tinh Thần (Spiritual soul) của mỗi
người. Người ta nói rằng Chúa chúng ta luôn ư thức là một với Chơn Ngă Tinh
Thần đang tiến hóa của mỗi một người chúng ta. Nếu chúng ta có thể nh́n vào
nội tâm chúng ta cũng như nh́n vào Chân Ngă Nội Tâm của những người khác,
th́ chúng ta sẽ khám phá được ở đấy có Sự Hiện Diện và Quyền Năng của
Christ. Chúng ta sẽ thấy rằng Ngài tuôn Sự Sống và Sự Sáng toàn hảo của Ngài
vào trong chúng ta. Những nhà thần bí học đă hoàn thành điều này và làm
chứng cho sự kiện ấy. Ḍng lực ấy thúc đẩy sự tiến hóa của chúng ta, đưa
chúng ta đến ngày thành đạt sớm hơn, giảm thiểu khuynh hướng làm quấy,
khuyến khích chúng ta để chịu đựng đau khổ, và soi sáng cho chúng ta thấy ư
nghĩa của các nỗi khổ đau ấy. Quả thật, chúng ta vẫn c̣n phải chịu tác động
của luật nhân quả. Chúng ta phải tiếp tục gặt cả thích thú lẫn đau khổ v́
chúng ta đă gieo. Nhưng nếu chúng ta có thể đáp ứng với sự gia tăng của
quyền năng tinh thần chúng ta thí bấy giờ thái độ nội tâm của chúng ta khi
nhận lănh cả nghiệp tốt lẫn nghiệp xấu đều được tinh thần hóa bởi ḷng hằng
chăm sóc của Chúa. Trong sự duy nhất (at- one- ment) thật sự ấy hơn là sự
tha tội lănh thế dùm, Ngài chia sẻ cho chúng ta. Sự Sống và Sự Sáng toàn
hảo, vinh hiển của chính Ngài, không những cho kiếp sống hiện tại này của
chúng ta mà cho cả muôn đời. Đó không phải là sự lưu truyền huyết và nước
qua nhiều thế kỷ, đó là sự lưu truyền Sự Sống và Sự Sáng mà Chúa- trong sự
duy nhất- đă liên tục ban cho chúng ta. Như thế, tôi xin gợi ư, huynh có một
quan niệm chấp nhận được về một chức vụ tha tội, quan niệm này đủ chỗ cho cả
cái hiệu quả giáo dục của quan niệm cá nhân và cho cả cách tác động của luật
nhân quả.
VẤN: “Cha ôi, nếu Cha muốn, xin cất chén
này khỏi con” (S.Luke 22:42). Xin Ông soi sáng thêm vấn đề này?
ĐÁP: Đoạn văn này đă gây nên một trong
nhiều vấn đề mà các học giả Thánh Kinh chạm trán. Vấn đề là trong vài đoạn
th́ Đấng Christ là h́nh ảnh của Con của Chúa Cha (Son of God), một nhân vật
Vũ Trụ phi thường. Thánh Paul
đă đồng hóa Ngài với Đấng Sáng Tạo hay Quyền
Năng Sáng Tạo, Ngôi Lời (the Verbum, Logos, Word) bởi đó mọi vật được tạo
nên (John 1:1-5). Chính Ngài nói: “Ta và Cha Ta là một” (John 10:30). “Trước
khi Abraham có, Ta vẫn hằng hữu”. (John 8:58) “Ta là Anpha và Omega, đầu
tiên và cuối cùng”. (Rev 1:8). Tuy nhiên vào những dịp khác- như câu vấn
trên- Ngài cũng phô bày các sự yếu đuối của con người: đói, khát, nhạy cảm
với cám dỗ, sợ hăi và thoái ḿnh trước công việc của Ngài, y như một thường
nhân thoái thác. Điều này mâu thuẫn và tạo nên thắc mắc.
Vài học giả có giải thích. Họ tham chiếu các
văn tự của các Cha đầu tiên, đặc biệt các Cha được xem là Duy Tri (
Gnostics)” người hiểu biết trực tiếp chân lư”. Nếu huynh đọc các văn tự ấy,
huynh sẽ thấy rằng trong những thế kỷ đầu tiên của kỷ nguyên Cơ Đốc, họ đă
tin tưởng và giảng dạy rằng có hai con người (beings) một nhân loại và một
Thiêng Liêng- hiện hữu trong cá nhân của Đức Jesus the Christ; rằng hai sự
sống ấy ḥa lẫn với nhau, và rằng tất cả mọi nhân tính mà Đấng Christ phô
bày đều được miêu tả giống với những kinh nghiệm của một con người- Jesus-
đang bước trên con đường hoàn thiện. Sự hiện diện của Christ (Christ-
Presence), mà Thánh John đồng hóa với Đấng Sáng Tạo, quy chiếu về một Vị
hoàn toàn khác hẳn, một Quyền Năng bao trùm (overhadowing Power) ḥa lẫn với
tâm thức của con người Jesus khi Đức Jesus bước trên con đường đi qua năm
Cổng Điểm Đạo lớn để đến mục tiêu hoàn thiện.
Vậy thí câu trả lời của các Vị Duy Tri đối với
câu hỏi của huynh là: chính con người Jesus lùi bước trước sự hy sinh, chớ
không phải Đấng Christ. Chính Jesus đă chịu đau khổ, rơi lệ, chịu đói khát
và chịu đóng đinh, trong khi đó, Trạng Thái Thứ Hai của Thượng Đế, Christ Vũ
Trụ (Cosmic Christ), vượt quá mọi điều khả hữu như thế. Nếu người ta có thể
chấp nhận cái lư thuyết cổ truyền này một lư thuyết cách mạng th́ đúng hơn-
th́ vấn đề Thiêng tính và nhân tính (Divinity and humanity) phối hợp của
Christ đă được giải quyết. Có nhiếu học giả Kinh Thánh hiện đại nghiêng về
quan điểm cho rằng có hai câu chuyện trong một câu chuyện. Một là sự biểu lộ
của một Vị Tối Cao như Đấng Christ trên Trái Đất này, và hai là những thử
thách của mỗi một người được Điểm Đạo được miêu tả giống y đời sống và những
kinh nghiệm của Đức Jesus người Nazareth. Origen of Alexandria (thế kỷ thứ
ba) cũng có dạy sự Hóa Thân (Incarnation) của Ngôi Lời (Word) hay Christ Vũ
Trụ. Ông dạy rằng sự Hóa Thân này đ̣i hỏi sự trung gian thuận ư của một linh
hồn và thể xác con người.
VẤN: Đấng Christ là toàn thiện, tại sao
Ngài lại quở mắng cây vả (fig) già đáng thương? (Matt21,Mark 11).
ĐÁP: Tôi nhận biết sự khó khăn của
huynh, và tôi sẽ gợi một lối thoát- v́ thật ra việc quở mắng cây vả có vẻ
không hợp với trạng thái của Đấng Christ. Hơn nữa chúng ta c̣n biết rằng
việc quở ấy xảy ra vào đầu mùa xuân trước Lễ Vượt Qua, lúc đó cây vả không
thể nào có trái được v́ đă hết mùa. Nếu đọc theo mặt chữ th́ câu chuyện này
rất mâu thuẫn và phi lư. Tuy nhiên chính trong sự phi lư đó lại có một manh
mối. Một vị Giáo Sĩ Do Thái uyên thâm, Moses Maimonides, có viết: “Mỗi khi
bạn t́m thấy trong mỗi quyển sách của chúng tôi một câu chuyện có vẻ khó thể
có thật mâu thuẫn với lư trí cả lương tri, th́ bạn hăy chắc chắn rằng câu
chuyện ấy chứa một biểu tượng thâm sâu che dấu một chân lư bí ẩn, và các mặt
chữ càng vô lư chừng nào th́ sự minh triết của tinh thần càng lớn lao chừng
đó.”
Đây là điều khó tin, nó khuyến khích chúng ta
đi tầm kiếm minh triết ẩn dấu dưới câu chuyện ấy. Vậy thông điệp trên nói
ǵ? Chúng ta hăy nhớ rằng tất cả mọi sự ciệc được giả định là xảy ra bên
ngoài được viết trong Thánh Kinh thật sự mô phỏng lại những kinh nghiệm chủ
quan của con người, những sự phát triển và thay đổi bên trong xảy ra khi
Linh Hốn tiến hóa từ giai đoạn nhân loại sang tŕnh độ siêu nhân. Thông điệp
của câu chuyện trên- tôi góp ư- là sự tuyên bố một định luật thâm sâu rằng
nếu chúng ta không cho ra những “quả” (trái,fruits) của đời sống chúng ta
th́ chúng ta sẽ phải khô héo và chết đi. Người nào t́m cách thâu đạt và nắm
giữ mọi điều về cho riêng y- đặc biệt là các “quả” của đời sống nội tâm, của
chân lư, minh triết và quyền năng mà y khám phá được, chắc chắn sẽ thấy rằng
sự sống bên trong và ngay cả bên ngoài nữa của y và cuối cùng y sẽ khô héo
rồi chết. Do đó nên lưu ư đến định luật vĩ đại này, có thể gọi là định luật
lưu chảy, rằng: cho để sống, chia sớt để vui mừng, phụng sự để khai mở. Đó
là một định luật kư diệu của sự cho ra một cách vô ngă. Duy chỉ nhờ định
luật này mà sự sống mới có thể được thực hiện đầy đủ mà thôi.
Do đó, có lẽ chẳng phải Đấng Christ đă quở
trách độc địa cây vả và khiến nó khô héo đâu. Câu chuyện này là một ngụ ngôn
viết theo lối biểu tượng, nói rằng ai không cho tặng những “quả” của chính
đời sống y mà lại dấu kín và tích trữ cho y, th́ người đó được xem như một
người chết, chẳng sớm th́ muộn y sẽ khô héo và chết đi. Chúa đă nêu rơ chân
lư ấy bằng đời sống của chính Ngài và dạy con người yêu thương kẻ khác. Ngài
và những Vị Tông Đồ, cũng như các vị giáo huấn cổ xưa, đều có lệ dạy những
chân lư huyền bí và tinh thần sâu xa bằng ngụ ngôn như thế.
VẤN: Đức Jesus Christ muốn nói điều chi
khi Ngài nói đến Sự Sống Đời Đời?
ĐÁP: Tôi không được cho là tôi biết Ngài
muốn nói điều chi. Tôi không thể giải thích những lời của Ngài với tư cách
quyền thế (authoritative), nhưng tôi có thể đưa ra một gợi ư. Tâm thức con
người có hai trạng thái, và một trạng thái trung gian nối liền chúng. Một
trạng thái bị áp chế trong thời gian và không có thể nghĩ ǵ ngoài ba thành
phần quen thuộc; quá khứ, hiện tại và tương lai. Đó là trạng thái thông
thường của cái trí con người trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên người ta
nói rằng có thể đạt đến một trạng thái khác cao hơn trong đó chỉ có một hiện
tại bao gồm tất cả (all-inclusive), một loại tổng thể nơi đây và bây giờ
(here ness and now ness) vượt ngoài các giới hạn của thời gian, trong đó mọi
vật
đều hiện hữu ngay cùng một chỗ, cùng một lúc và trong
sự đầy đủ. Thượng Đế được quan niệm như hiện hữu trong trạng thái tâm thức
ấy, đôi khi được diễn tả là Hiện Tại Vĩnh Cửu (Eternal Now). Việc đạt đến Sự
Sống Đời Đời có thể được xem như sự thực hiện được trạng thái Thiêng Liêng
này, vượt quá những giới hạn của thời gian, không gian và biến đổi.
Nhưng đối với nhân loại th́ có sự tiến hóa hoặc
về vật chất, trí tuệ, tinh thần, hoặc cả ba cùng phối hợp- từ hạt giống cho
đến một bông hoa phát triển đầy đủ theo một gịng thời gian. Tuy nhiên,
trong đôi “mắt” của Thượng Đế, hạt giống, bông hoa nở, và tất cả giai đoạn
trung gian không thể hiện hữu và được nhận thức cùng một lúc được sao? Đó là
một trạng thái của tâm thức Vũ Trụ đầy đủ. Bước vào tâm thức ấy sẽ hiểu được
Sự Sống Đời Đời. Người ta nghĩ rằng Đấng Christ ngự trong trạng thái này và
dùng từ “Sự Sống Đời Đời” theo nghĩa ấy.
C̣n trạng thái trung gian được diễn tả như sự
kéo dài ( duration), hay là thời gian không có các giới hạn. Các triết gia
và các nhà toán học nói rằng có thể vượt qua những giới hạn của quá khứ,
hiện tại và tương lai để bước vào một trạng thái mà trong đó hiện tại được
kéo dài ra vô cùng- mặc dầu vẫn c̣n ư niệm thời gian- cho đến khi thời gian
không c̣n giới hạn nữa. Khi nào chúng ta nhập vào kinh nghiệm ấy- một kinh
nghiệm hạnh phúc đặc biệt- chúng ta sẽ không ư thức thời gian trôi qua. Tuy
vậy, Vĩnh Cửu là một mầu nhiệm đồi với chúng ta. Chúa có nói: “…ai ghét mạng
sống ḿnh trong thế gian này th́ sẽ giữ lại đến sự sống đời đời”. (John
12:25) gợi ư rằng con người phải quyết định từ bỏ các dục vọng và tư lợi ích
kỷ của thế giới thời gian hồng trần nầy để bước vào một trạng thái tâm thức
không lệ thuộc thời gian, để nhận được Sự Sống Đời Đời.
VẤN:Ông có thể vui ḷng nói đôi điều về
Lễ Thánh Thể tác động trong Thời Đại hiện nay?
ĐÁP: Trước tiên tôi phải tách rời Hội
Thông Thiên Học khỏi mọi tôn giáo, đặc biệt là Cơ Đốc Giáo. Lễ Thánh Thể
được cử hành trong các xứ Cơ Đốc, và thường theo sau Ngày Chúa Nhật Tam
Nguyên (Trinity Sunday). Tiếng “Corpus Christi” có nhĩa là thân thể của
Christ. Hầu hết người Cơ Đốc tin rằng có sự thay đổi xảy ra trong “bản thể”
(substance) hay là chất chứa (content) tinh thần hiện hữu trong bánh và rượu
sau động tác Hiến dâng của Linh Mục, một phương pháp phụ gia cho Quyền năng
và sự Hiện Diện của Đấng Christ. Quư vị nào thích thú vấn đề này xin xem
quyển sách The Science of the Sacrement của ông C.W.Leadbeater.
Trong Thánh Kinh có đoạn Chúa nói: “Ai ăn thịt
ta, uống huyết ta th́ có sự sống đời đời”.(John 6:54) Các nhà biểu tượng học
quả quyết những lời ấy không thể hiểu theo mặt chữ v́ được viết bằng ngôn
ngữ biểu tượng. Huyết của Thượng Đế tượng trưng cho Sự Sống của Ngài hằng
tuôn xuống, Sự Sống hiện diện khắp nơi, nâng đỡ Sự Sống của Trạng Thái Thứ
Hai của Tam Nguyên Thánh Thiện. Uống huyết ấy được xem như biểu tượng khác
của sự thực hiện nơi nội tâm sự hiên hữu của Sự Sống khắp nơi ấy, và sự đồng
nhất Sự Sống của cá nhân với Sự Sống của Thượng Đế. Khi bước vào kinh nghiệm
hiệp nhất với Sự Sống Thiêng Liêng, người ta thấy như thể đang thâu hút Sự
Sống khắp nơi của Thượng Đế vào trong tâm thức và con người của ḿnh. Động
tác uống là một biểu tượng cho kinh nghiệm này.
Tương tự như thế, sự ăn thịt Christ cũng chỉ có
thể hiểu theo nghĩa biểu tượng mà thôi. Thường nó tiêu biểu cho sự đồng hóa
hoàn toàn Chân Lư Thiêng Liêng, hay là những nguyên lư và định luật căn bản
của Sự Sống nằm trong Trí Vũ Trụ tức Trạng Thái Thứ Ba của Tam Nguyên. Biểu
tượng của Chân Lư ấy trong Ngôn Ngữ Thiêng Liêng là thịt của Thượng Đế hay
là Christ. Động tác ăn thịt, theo biểu tượng, là sự thực hiện thông tuệ
(intellectual) Chân Lư Thiêng Liêng ấy. Khi Linh Hồn và Tinh Thần trong
chúng ta đă hiểu rơ và ư thức “dự phần” vào Sự Sống Duy Nhất trong tất cả và
đă thâu hút Chân Lư duy nhất ẩn trong tất cả, th́ bấy giờ chúng ta mới thoát
khỏi sự chết và sẽ bước vào Sự Sống Đời Đời. Theo quan điểm con người th́
vấn đề này được xem như một ngụ ngôn diễn tả sự thực hiện sự hiệp nhất với
Sự Sống Thiêng Liêng và Chân Lư Thiêng Liêng.
Huynh hỏi điều này sẽ ảnh hưởng lên Thời Đại
thế nào? Khi đủ số người đă đến tŕnh độ tiến hóa này, chiến tranh sẽ được
đặt ra ngoài ṿng pháp luật và ḥa b́nh sẽ văn hồi. Sự thành lập các tổ chức
để hợp tác quốc tế và thống nhất báo hiệu cho sự hoàn thành những tác động
của nó. Do đời sống trong sạch và sự tham thiền hàng ngày, mỗi người chúng
ta đem sự thành đạt này đến gần hơn, giúp ích rất nhiều cho sự tiến hóa của
toàn thể nhân loại.
Vấn: Thánh Kinh quả có nói: “Lại theo
như đă định cho con người phải chết một lần, rồi sau đó có sự xét đoán
không?”(Heb.9;27).
Đáp: không nên trích dẫn trong Thánh
Kinh để làm bằng cớ cuối cùng cho một lẽ thật về một sự ǵ đó, v́ người ta
có thể t́m được trong đó những câu hỗ trợ cho một quan điểm hoàn toàn khác
hẳn. Ở một nơi, Thánh Kinh xác nhận là: “Ai tin và chịu Báp têm th́ được
cứu, ai không tin th́ bị định tội.” (Mark 16:16), và ở nơi khác huynh sẽ t́m
thấy lời Thánh Paul: “Hăy lấy sự sợ sệt và run rẩy mà làm nên sự cứu rỗi của
anh em…” (Phil 2:12.13). Cả hai câu đều không thể đúng, v́ một câu nói sự
cứu rỗi tùy thuộc đức tin và Báptít, c̣n câu kia nói tùy thuộc vào chính sức
lực của chúng ta.
Đó cũng là trường hợp của lời trích dẫn trên.
Nếu huynh cho nó thuộc về một ư nghĩa vật chất chớ không thuộc một ư nghĩa
triết học thâm sâu th́ nó đă trái ngược với lư thuyết Luân Hồi. Vậy chính
tùy ư huynh chấp nhận hay không. Tôi e không thể hiến cho huynh một lời giải
thích chứng nhận câu ấy đúng thật. C̣n nếu sự Luân Hồi là đúng thật, th́ bấy
giờ không có định cho con người phải chết xác thân chỉ một lần. Thể xác của
y chết đi chết lại. Huynh và tôi đă từng chết và sinh ra nhiều lần, và vẫn
sẽ c̣n tiếp tục như thế trong tương lai. Chính Chúa h́nh như đă xác nhận
điều này, v́ Ngài có nói: “Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu người
nào chẳng được tái sinh th́ không thể thấy được nước Đức Chúa Trời.” Và “Các
ngươi cần phải tái sinh”.(John 3:3,7). Thật vậy, sự tái sinh tinh thần có
thể được ám chỉ đến, nhưng điều này không thể ngăn cản được tiến tŕnh tiến
hóa hướng thượng bằng những kiếp sống liên tiếp dưới trần.
VẤN: Xin
ông giải thích ư nghĩa Đấng Christ chịu đóng đinh giữa hai kẻ trộm, và ư
nghĩa thật sự của lời Ngài nói với một kẻ trộm: “…Hôm nay, ngươi sẽ cùng ta
ở trong lạc viên.”(Luke 23:43)?
ĐÁP: Để gợi ư một câu giải đáp vấn đề
này, tôi muốn minh định rằng tôi không hề nghi ngờ tính cách lịch sử của
Thánh Kinh, và đặc biệt là những câu chuyện về đời sống của Chúa. Tôi chỉ
gợi ư là vài phần trong Thánh Kinh- và tôi nghĩ là câu vấn ở trên thuộc một
trong những phần đó- được viết theo Ngôn Ngữ Thiêng Liêng, ngôn ngữ của ngụ
ngôn và biểu tượng. Trong ngôn ngữ ấy, kẻ trộm biểu tượng cho cái trí con
người, v́ cái trí có thể là “kẻ cướp” đại tài của trực giác. Hăy nhớ rằng
chúng ta đang đọc không phải một biến cố duy nhất bên ngoài, mà là một vở
kịch nội tâm diễn ra trong đời sống của mỗi người. Cái trí (hạ trí) được
biểu tượng hóa bằng kẻ trộm v́ nó có thể cướp của Người Suy Tư sự thực hiện
hợp nhất với Thượng Đế, cái kiến thức về bản chất Thiêng Liêng, sự giác ngộ
do trực giác hoạt động. Cái trí hay tranh luận, cụ thể, khinh thị, thâu góp,
cái “hạ” trí ấy là một kẻ trộm, một “tay giết chết sự thật.” Cái thuộc tính
(Attribut) này của cái trí con người được nhân cách hóa thành kẻ trộm nhạo
báng.
Đấng Christ trên Thập Tự nhân cách hóa cho trực
giác tinh thần chiếu rọi vào trí óc (mind-brain). Ánh sáng này chỉ có thể
được nhận vào bộ óc khi những thuộc tính phá hoại, “trộm cắp” bị tách rời
khỏi những thuộc tính trực giác của trí tuệ trừu tượng, được nhân cách hóa
thành kẻ trộm ở phần sau câu vấn của huynh. Cái trí đó đặc tánh kép- thượng
và hạ, trừu tượng và cụ thể. Phần cao có đặc tính triết lư, trực giác, báo
trước và tổng hợp, c̣n phần thấp th́ cụ thể, thích sự kiện, luận lư, phân
tích, và bị giới hạn giữa hiện tại và quá khứ.
Khi những giai đoạn kết thúc của sự tiến hóa
con người đă đến, được miêu tả bằng sự đóng đinh trên Thập Tự, th́ hai phần
này trở nên xa cách rơ rệt cái này khỏi cái kia và chịu sự kiểm soát. Nói
theo biểu tượng th́ chúng “mỗi phần một bên”. Chỉ khi nào điều này đă được
thực hiện th́ ánh sáng đầy đủ của Tâm Thức Christ (Christ Consciousness) mới
chiếu rọi xuyên qua thể trí và bộ óc. Lời hứa với kẻ trộm- tượng trưng phần
thượng trí- “ngày nay ngươi sẽ cùng ta ở trong lạc viên” đúng ra là một sự
thừa
nhận bản chất tinh thần bất tử của Người Suy Tư chân thật.
Chân Nhân trong y phục bằng ánh sáng, nó là vân
thể của trí tuệ trừu tượng. Phần thượng trí này tiến bước với y đến quả vị
Chân Tiên hay sự Thăng Thiên. C̣n những thuộc tánh lư luận khiến cho con
người nhạo báng tinh thần và trực giác thí sẽ phải tan ră cùng với cái chết
của phàm ngă. Nói theo biểu tượng th́ nó không vào Thiên Đàng, hoặc Tâm Thức
của Nhân Thể (Causal Consciousness).
Chữ “Ngày” dùng trong Ngôn Ngữ Thiêng Liêng để
diễn tả một t́nh
trạng nội tâm của sự giác ngộ tinh thần. Trái lại, Đêm chỉ sự mù tối của trí
và t́nh trạng không được giác ngộ của nó. Thí dụ như Thánh Peter chối Chúa
ban đêm, rồi cảm thấy đầy hối hận khi ngày đến và gà gáy ba lần. Chữ “ngày
nay” (today) trong đoạn văn trên có thể có nghĩa là “vào lúc giác ngộ tinh
thần”.
Tất cả điều này xảy ra nơi nào? Ở Golgotha, có
nghĩa là “nơi của cái sọ”. Cái sọ bao giữ lấy cái trí óc, nó trở nên giác
ngộ nhờ ánh sáng của trực giác được nhân cách hóa thành Christ, và vị được
Điểm Đạo sống trong sự thực hiện liên tục hợp nhất với Thượng Đế. Khi đặt
quan cảnh Tử Nạn trên Thập Tự trên Núi Golgotha giả định, các vị tông đồ
được cảm hứng đă dùng Ngôn Ngữ Thiêng để gạch đậm (underscore) sự giải thích
đặc biệt biến cố trọng đại này. Đây là một sự chú giải khả hữu về những lời
của Đấng Christ mà huynh đề cập.
VẤN: Xin ông cho biết ư nghĩa của ngọn
giáo đâm vào hông sườn Đức Jesus trên Thập Tự.
ĐÁP: Theo một ư nghĩ th́ sự Tử Nạn quả
thật là Lễ Đăng Quang tinh thần của vị được Điểm Đạo đă được giải thoát hoặc
gần được giải thoát, người chung cuộc đă chết mất bản ngă riêng tư. Sự đâm
thủng làn da, cái đâm của ngọn giáo là sự đâm thủng cái “màn” (film) mảnh
mai cuối cùng của ư thức chia rẽ (làn da). Sau đó, con người sẽ hiểu được
chân lư về sự hợp nhất. Bấy giờ, xuyên qua những vết thương của thân thể,
tay, chân ấy mà ân phước và quyền năng có thể tuôn xuống cho thế gian để
thánh hóa và cứu rỗi nó khỏi những sự vi phạm đau khổ trầm trọng mà nó có
thể vấp phải.
Ngọn giáo c̣n là biểu tượng của ḷng thù ghét
của thế gian mà mỗi vị được Điểm Đạo Lần Thứ Tư sẵn ḷng thâu nhận vào ḿnh
để biến đổi thành t́nh thương. Không được tự bảo vệ ḿnh. Tâm phải rộng mở
với sự xấu xa, thù hận, khinh khi, và phỉ báng. Phải được như thế v́ đó là
định luật. Người ta nói rằng một phần công việc của các Vị được Điểm Đạo cao
của thế giới chúng ta là phải dùng khoa luyện kim tinh thần biến đổi những
mănh lực xấu xa thành những mănh lực ân phước tuôn cho thế gian. Hành động
sẵn ḷng thâu nhận và biến đổi điều xấu ấy đ̣i hỏi một sự tự chủ lớn lao. Vị
Christ- đang- thành (Christ-to-be) không bao giờ được ngăn cách ḿnh với bất
cứ ai dẫu cho họ xấu xa, độc ác thù ghét thế mấy. Một biểu tượng kỷ luật
chứng tỏ quyền năng tự chủ là: một người lính đâm ngọn giáo vào bên sườn.
Nếu huynh chấp nhận được điều này, huynh sẽ
thấy rằng những chân lư vĩ đại, cao cả được t́m thấy ẩn dưới những lớp màn
của các ngụ ngôn và biểu tượng trong Thánh Kinh trên thế giới.
VẤN: Đối với chuyện ngụ ngôn các Cô
Trinh Nữ Khôn và Dại, theo Thông Thiên Học th́ điều ǵ xảy ra cho năm cô bị
đóng cửa ở ngoài? (Matt.25)
ĐÁP: Tôi nghĩ rằng sự mở cửa- một biểu tượng
cho sự bành trướng tâm thức- chỉ là vấn đề thời gian mà thôi. Không có “cửa”
nào đóng măi măi,không có phương thức tiến hóa nào bị ngăn chặn. Ư chí
Thiêng Liêng chỉ có thể bị tŕ hoăn chớ không thể bị phá hủy. Có một thời kỳ
tiến hóa mà lúc đó những mầm giống tinh thần, mầm trực giác, mầm Tâm Thức
Christ chưa nẩy mầm trong linh hồn con người. Những cô trinh nữ dại nhân
cách hóa của linh hồn trong t́nh trạng đó. Trong thời kỳ đó bản tính Christ
và Quyền Năng Christ chưa được thực hiện. V́ thế những điều liên quan đến họ
không tác động đến thể trí. Theo biểu tượng, đó là không c̣n dầu trong đèn.
Tuy nhiên, sẽ đến một thời gian mà sự thức tỉnh tinh thần xảy ra. Cái mầm
giống tinh thần thiêng liêng tiềm tàng ẩn kín trong ḷng mỗi người chúng ta
một ngày kia sẽ nẩy mầm, tăng trưởng và trổ hoa thành một người toàn thiện.
Tất cả chúng ta một ngày kia sẽ thấy dầu trong đèn chúng ta và thắp lên. Bấy
giờ cái trí sẽ sẵn sàng và có thể đáp ứng với những sự biểu lộ bên trong của
Bản Tánh Christ trong con người, nó được chiếu sáng bởi ánh sáng đến từ trực
giác tinh thần. Theo biểu tượng, đó là có dầu trong đèn, tim đèn được thắp
lên, và khi Tân Lang- Chân Ngă Tinh Thần trong con người- đến th́ đă được
đón tiếp sẵn sàng.
Đối với tôi, h́nh như Nhân Loại hiện nay đang
tỏ những dấu hiệu thức tỉnh tinh thần này. Sự hiện hữu của những Phong Trào
Quốc Tế lớn lao cho hạnh phúc của nhân loại, như Hội Vạn Quốc, Liên Hiệp
Quốc, Hồng Thập Tự Quốc Tế, Phong Trào Hướng Đạo và Hội Thông Thiên Học, chỉ
rơ sự thức tỉnh của trí nhân loại về sự hợp nhất của Sự Sống và T́nh Huynh
Đệ của Con Người. Nói theo biểu tượng, những thành phần của Nhân Loại, như
các trinh nữ dại, chưa chuẩn bị và chưa thức tỉnh tinh thần, hiện nay đang
cựa ḿnh trong giấc ngủ và đang mơ “Tân Lang đến” có nghĩa là sự đạt đến
linh ảnh về sự hợp nhất tất cả mọi Sự Sống và sự áp dụng của nó vào mọi sự
tương quan nhân loại. Sự thức tỉnh này có thể gần với tất cả chúng ta, nhất
là khi chúng ta bắt đầu cảm thấy “ḷng khao khát của Con Người Nội Tâm đối
với Đấng vô Cùng”.
VẤN: Ông có thể giải thích chiếc xe lửa
của Elijah?
ĐÁP: Theo sự hiểu biết của tôi th́ chiếc
xe (chariot) được dùng theo Ngôn Ngữ Thiêng Liêng và biểu tượng cho lớp y
phục bất tử của Linh Hồn mà chúng ta gọi là Nhân Thể (Causal Body). Những vị
Duy Tri gọi nó là “chiếc áo của vinh hiển” và người Hy Lạp gọi là “Augoiedes”
có nghĩa “một mảnh(fragment) thiêng liêng và tự chói sáng”. Vào một giai
đoạn trong sự tiến hóa, giai đoạn Chân tiên, chiếc “xe” của Chân Thần
(Monad) trở nên đầy lửa của Thượng Đế bừng cháy sáng rực, toàn thể con người
của Vị Chân Tiên thăng vào miền tâm thức, quyền năng và minh triết vượt khỏi
các giới hạn của Địa Cầu (Earth) và nhân loại. Câu chuyện này là một ngụ
ngôn của sự giải thoát, sự nhập Niết Bàn- tôi ngụ ư như thế- hơn là một bài
tường thuật một sự kiện vật chất, theo nghĩa đen, và chiếc xe có thể được
xem là một biểu tượng của Nhân Thể.
VẤN: Sự Tăm Tối Bên Ngoài là ǵ? (outer
Darkness)
ĐÁP: Một t́nh trạng tự cô lập. Đó không phải là
một nơi chốn, một chỗ nào đó mà Linh Hồn bước vào sau khi chết hoặc lúc c̣n
sống. Đó là một trạng thái của tâm thức. Những ai quá ích kỷ sẽ tự ngăn cách
ḿnh với Thượng Đế, hay đúng hơn là họ đă tiêu hủy nơi họ cái quyền năng
thực hiện sự Hiện Diện của Thượng Đế, tự đày ḿnh vào sự tăm tối bên ngoài
do tính chia rẽ kiêu ngạo. Hẳn nhiên tôi cũng phải nói rằng dẫu ở trong
trạng thái đó đi nữa, thật sự Thượng Đế không bao giờ vắng mặt hoặc là có sự
tăm tối. Chỉ có tăm tối đối với những người ở trong trạng thái tâm thức đó.
Không nơi nào trong vũ trụ mà không có Thượng Đế và ánh sáng hiện diện.
Nhưng vài người trở nên quá quy ngă, mọi động lực đều hướng về họ, họ không
biết chân lư về sự Duy Nhất, đến đỗi họ tự đưa họ vào trạng thái gọi là “sự
tăm tối bên ngoài”, một trạng thái vô cùng ích kỷ và chia rẽ với mọi người
khác. Sự tăm tối của họ vốn ở nội tâm hơn là ở bên ngoài.
Họ là những “tinh thần bị tù” (I Pet 3:19) V́
họ
mà Chúa đă đi rao giảng. Những Huyền Môn xưa dạy rằng mỗi người bước trên
“con đường thập tự”, chịu khổ nạn- cách biểu tượng- trên Golgotha, chết và
chôn trong mộ đá, phải giúp đỡ những người tự giam ḿnh trong sự tăm tối bên
ngoài, hoặc rao giảng cho các tinh thần bị tù. Y cố gắng cứu giúp họ, chỉ rơ
sự điên rồ của cách sống chỉ biết quy tư ngă, y đánh thức tâm trí họ hướng
về kỳ vọng và hạnh phúc của con đường ánh sáng, đó là con đường của sự hiệp
nhất và t́nh thương đại đồng.
22-4-84.
Hết
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES