|
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN HÌNH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES
|
CHUẨN BỊ CHO KHOA YOGA |
|
CHUẨN BỊ CHO KHOA YOGA
(Thoạt tiên được công bố trong
Tạp chí Nhà Thông Thiên Học số tháng 2 năm 1967. Tiến sĩ I. K. Taimni là một
hội viên nổi tiếng của Hội Thông Thiên Học Ấn Độ, nguyên thành viên của Đại
Hội Đồng của Hội, là một giáo sư Hóa
học
ở Viện Đại học Allahabad và là tác giả được nhiều người hâm mộ của những tác
phầm kinh điển như Khoa học Yoga, Tu Thân theo Ánh sáng Huyền bí học và Con
người, Thượng Đế và Vũ trụ v.v. . .)
Việc bàn luận về bản chất của Samadhi trong Chương đầu tiên của Yoga Sutras của Patanjali, cùng với những tiến trình trí tuệ tinh vi dính dáng vào đó có thể gây cho ta cảm tưởng rằng kỹ thuật Yoga không dự tính dành cho người thường; và cùng lắm thì y cũng chỉ có thể nghiên cứu lý thuyết về đề tài này và phải trì hoãn việc ứng dụng vào thực tiễn trong sinh hoạt của chính mình để dành cho một kiếp tương lai nào đó khi hoàn cảnh thuận lợi hơn, khi những năng khiếu trí tuệ và tâm linh của mình đã phát triển trọn vẹn hơn. Mặc dù cũng tự nhiên thôi, song cảm tưởng này vốn dựa trên một sự hiểu lầm.
Những người chế định ra triết lý Yoga và phát minh ra kỹ thuật tinh vi của nó đâu phải là không biết tới những yếu đuối trong bản chất con người cũng như những hạn chế và hão huyền mà kẻ phàm phu sống theo đó. Họ không thể nêu rõ nhu cầu và sự khẩn thiết của việc con người cần phải giải thoát mình ra khỏi những hạn chế ấy cho nên mới đưa ra trước mắt y một phương pháp thành tựu mục đích mà dường như vượt quá khả năng của y.
Họ vốn biết những khó khăn dính dáng vào đó, nhưng họ cũng thừa biết rằng các khó khăn này có thể được khắc phục bằng cách chọn theo một khóa huấn luyện từng cấp một vốn mang tính khoa học, phù hợp với những qui luật về sự tăng trưởng và tiến hóa của con người. Ngay cả khi muốn thành tựu được bất cứ mục đích thế tục đáng giá nào, người ta cũng phải tiến hành một cách có hệ thống và chuẩn bị cho một nỗ lực lâu dài và bền bỉ.
Nếu y muốn trở thành một nhà toán học lỗi lạc thì y phải bắt đầu bằng bốn phép tính trong số học rồi dần dần mới tìm đường đi lên từ giai đoạn này sang giai đoạn khác cho đến khi thấu triệt được khoa học ấy. Y đâu có khởi sự bằng cách tham dự những bài giảng về phép tính vi phân và tích phân ở trường đại học. Y chuẩn bị cho một khóa huấn luyện lâu dài, nhưng y cũng thừa biết rằng y chắc chắn rốt cuộc sẽ thành công nên không từ bỏ nỗ lực.
Nhưng khi xét tới vấn đề thành tựu mục tiêu cao nhất trong nỗ lực của con người (vốn là đỉnh cao trong cơ tiến hóa của loài người) thì người ta lại quên hết mọi điều ấy vốn dựa trên kinh nghiệm và óc phải trái thông thường. Họ bắt đầu lo ngại về khó khăn trong việc thực hành Samadhi và thắc mắc chẳng biết đến bao giờ mình mới có thể vươn cao lên tới được những trạng thái cao nhất vốn được những phương tiện khác mang lại. Họ tưởng tượng rằng mình chỉ mới bắt đầu thì mọi thành quả của sinh hoạt Yoga chẳng bao lâu nữa sẽ là của mình hoặc ắt hẳn phải của mình. Thế là hoặc họ chẳng bắt đầu gì hết hoặc nếu khởi sự thì họ sẽ vỡ mộng và chẳng bao lâu sẽ bỏ cuộc vì nghĩ rằng rốt cuộc trong cái khoa Yoga được quảng cáo lung tung này chẳng có gì đáng kể hoặc là họ không thể đảm đương được một nhiệm vụ khó khăn như thế. Vậy là chúng ta cứ tiếp tục trì hoãn nỗ lực ấy để rồi thấy mình thực tế là dậm chân tại chỗ hết kiếp này sang kiếp khác. Chúng ta không chọn theo một thái độ có lương tri đối với vấn đề này giống như trong trường hợp một vấn đề tương tự liên quan tới những theo đuổi mục đích đời thường của ta.
Ta có thể thấu triệt được khoa học Yoga cũng giống như mọi khoa học khác bằng một khóa huấn luyện theo từng cấp. Chúng ta bắt đầu bằng những điều đơn giản mà mọi người đều có thể thực hiện và tiến hành từng bước một, từ vấn đề đơn giản cho tới vấn đề phức tạp, từ những phép thực hành dễ dàng cho tới những phép thực hành khó khăn hơn. Vì mỗi cá nhân khác nhau lại có ẩn tàng những tiềm năng khác nhau cho nên sự tiến bộ của ta không tùy thuộc vào bao nhiêu năm tháng miệt mài mà tùy thuộc vào sự tăng trưởng các năng khiếu và sự thay đổi thái độ cũng như tâm trí của ta.
Trước hết ta hãy bàn tới một số phép thực hành và giới luật sơ bộ chuẩn bị người tầm đạo cho những phép thực hành cao cấp hơn vốn cấu thành khoa Yoga thượng thặng.
Câu kinh sau đây trong Chương II của Yoga Sutras trình bày ngắn gọn khái lược về sự rèn luyện sơ bộ hoặc dự bị này mà mọi người tầm đạo đều có thể ngay tức khắc bắt tay vào việc, nó đặt một nền móng vững chắc cho sinh hoạt Yoga một cách có hệ thống và đầy nghị lực:
“Sự khổ hạnh, tự thân nghiên cứu và tuân phục Ishvara tức Thượng Đế vốn cấu thành khoa Yoga sơ cấp” (Chương II-1).
Học viên ắt thấy rằng câu kinh có qui định ba loại hoạt động khác nhau với mục đích để phát triển cả ba khía cạnh căn bản trong bản chất con người, đó là ý chí, trí tuệ và tình thương. Kiến thức trí thức đặt nền móng cho sinh hoạt Yoga bằng cách chuẩn bị một bối cảnh lý thuyết thỏa đáng. Việc phát triển tình thương hoặc lòng sùng tín cùng với sự chuyển hóa và tẩy trược cho sinh hoạt ắt gia thêm sự minh triết cho kiến thức. Thế rồi, khi ứng dụng ý chí tinh thần để kiểm soát và ức chế những biến thái của cái trí thì đạo sĩ Yoga chuyển từ giai đoạn minh triết sang giai đoạn Thực chứng; toàn thể khóa rèn luyện và tu dưỡng bản thân này đạt đỉnh cao nơi việc Thực chứng Chơn ngã và Giải thoát. Phần bình luận đã giải thích tỉ mỉ về ý nghĩa của ba yếu tố này trong sự tu dưỡng bản thân sơ bộ cho nên ở đây ta không cần xem xét nó chi tiết. Nhưng có một vài điều tổng quát đáng chú ý mà người tầm đạo cũng nên lưu tâm.
Điều đầu tiên cần lưu ý là cả ba loại hoạt động này đều cấu thành một việc khởi sự đúng đắn trong sinh hoạt Yoga và chỉ còn tùy theo chính người tầm đạo sử dụng chúng ra sao để nhanh chóng chuyển từ trình độ dự bị sang trình độ tiên tiến cao cấp. Nếu y quyết tâm, tha thiết giải quyết những vấn đề liên quan tới những hoạt động này một cách đầy nghị lực thì chỉ trong một thời gian ngắn, y có thể chế ngự được bản chất thấp hèn của mình để tập trung vào mục đích, điều này ắt khiến cho y đủ tư cách để tiếp nhận những phép thực hành cao cấp hơn thuộc khoa Yoga Thượng thừa.
Tự lực Nghiên cứu
Tapah, Svadhyaya và Ishvara Pranidhana có vẻ là những phép thực hành huyền bí nhưng thật ra chúng đâu có gì huyền bí. Svadhyaya bắt đầu bằng việc cật lực nghiên cứu những vấn đề sâu sắc của cuộc sống sao cho ta có một căn bản lý thuyết thỏa đáng ngõ hầu có được một ý niệm chính xác và toàn diện về mọi vấn đề liên quan tới việc thực hành Yoga cũng như những phương pháp được dùng để giải quyết các vấn đề này. Nhưng ta phải tiến hành nghiên cứu sao cho ta có thể dần dần phát triển được năng lực rút ra sự hiểu biết từ bên trong bản thân mình để trở nên độc lập với những sự trợ giúp từ bên ngoài về vấn đề này. Điều này ắt cũng ở một mức độ sâu sắc hơn chứ không thuần chỉ là thu thập thông tin gián tiếp từ sách vở v.v. . .
Mục đích chính của Svadhyaya là mở khóa cho cánh cửa tri thức chân chính bên trong ta và có khả năng rút ra được tri thức ấy ít ra trong một chừng mực hạn chế bằng cách mở toang đường thông thương giữa thượng trí và hạ trí. Ở đây tôi không nói tới sự hiểu biết về Thực tại vốn đạt được qua qui trình cao cấp của Samadhi. Tôi đang nói tới sự hiểu biết trí thức thông thường vốn có sẵn nơi Chơn ngã hoạt động thông qua thể Nguyên nhân (the Causal body), nó có thể được rút tỉa nếu hạ trí đã được tẩy trược và chỉnh hợp với Chơn ngã.
Kiến thức này cao cấp hơn nhiều so với kiến thức gián tiếp thông thường mà chúng ta thu lượm được qua sách vở hoặc qua việc quan sát v.v. . . Bởi vì nó xuất phát từ một nguồn gốc cao cấp hơn và không có những sai lầm, bấp bênh hoặc xuyên tạc thông thường vốn là đặc điểm của tri thức gián tiếp mà cái trí cụ thể rút ra được từ những nguồn thông tin ngoại lai. Do đó mọi dụng cụ, phương pháp, phép thực hành chẳng hạn như suy tư, tham thiền, japa v.v. . . đều có tác dụng mở ra kênh dẫn nối liền hạ trí với thượng trí, những thứ ấy đều được xếp vào loại Svadhyaya cho nên kẻ sơ cơ càng ngày càng sử dụng chúng khi niềm quan tâm và năng lực của mình đã tăng trưởng.
Khổ hạnh
Tapah thường được dịch là khổ hạnh nhưng dịch như vậy hay gây ra một ấn tượng sai lầm về bản chất chân thực và cốt lõi của cái đặc tính này nhằm chuẩn bị cho khoa Yoga. Thuật ngữ này bắt nguồn từ từ ngữ Bắc phạn tapa có nghĩa là nung nóng lên tới một nhiệt độ cao để lấy đi chất cặn bã từ bất cứ thứ gì. Nếu vàng không nguyên chất được nung nóng tới một nhiệt độ cao thì mọi thứ cặn bã của nó dần dần bị đốt cháy biến mất để chỉ còn lại vàng ròng nguyên chất.
Đây là ý tưởng cốt lõi ẩn đằng sau thuật ngữ tapah, nói chung nó có nghĩa là khép bản chất thấp hèn của ta vào giới luật với mục tiêu tẩy trược nó, lấy đi mọi thứ cặn bã yếu đuối, thô trược, đầy phức tạp, méo mó v.v. . . sao cho thân và tâm của ta có thể trở nên thanh trong, hài hòa, tuân theo ý chí của ta và được dùng làm những công cụ hữu hiệu của Chơn ngã. Như vậy, tapah là việc chuyển hóa bản chất thấp hèn thành ra bản chất cao cả qua một tiến trình giới luật tự giác.
Ta có thể và nên áp dụng đủ thứ phép khổ hạnh nếu phép thực hành ấy hoàn toàn cần thiết, nhưng đó không phải là cốt lõi của quá trình này. Tẩy trược và khống chế có thể được thực hiện bằng những phương pháp thông minh và hữu hiệu hơn so với việc tuân thủ những lời thệ nguyện cứng ngắc và khép các hạ thể của ta phải chịu những điều bất tiện và đau khổ không cần thiết. Mỗi người tầm đạo phải ứng dụng phương pháp cá nhân của mình một cách thông minh.
Xả thân
Xét vì Ishvara-Pranidhana được dịch là xả thân vì Thượng Đế cho nên nó quả thực là một khía cạnh của lòng sùng tín và một phương pháp hữu hiệu để phát triển lòng sùng tín. Tôi đã bàn tới vấn đề lòng sùng tín hoặc tình yêu đối với Thượng Đế trong ba bài báo; chúng giúp cho ta có được một ý niệm nào đó chẳng những về mục tiêu của Con đường Tình thương và trạng thái sùng tín mà còn trình bày những phương pháp cần phải chọn theo để phát triển khía cạnh này trong bản chất của ta.
Chỉ mãi đến bây giờ thì mọi kiến thức ấy mới được sử dụng một cách nghiêm túc và kiên trì để mang lại kết quả. Nhưng muốn thành công thì cần phải thực hành, thành thật và có một quyết tâm bất khuất. Đó là vì lòng sùng tín đâu có dễ dàng xuất hiện nơi bản thân ta. Ta bị trắc nghiệm và nỗ lực cho tới mức tột cùng; điều này có thể khiến cho ta đi từ thất vọng này tới thất vọng khác. Nhưng khi lòng sùng tín xuất hiện thì nó biến đổi được cuộc đời ta, làm cho ta tràn ngập nỗi hân hoan và tinh thần ta lên cao tới mức ta cảm thấy những hi sinh, cố gắng và đau khổ mà ta trải qua ắt chẳng thấm thía gì so với sự ban phước mà ta nhận được khi hồng ân của Thượng Đế đoái hoài đến ta.
Khoa Yoga Dự bị
Như vậy bạn ắt thấy rằng câu kinh chỉ vẻn vẹn năm từ này có một phạm vi áp dụng rất rộng rãi và trình bày một phương pháp rất bao quát để cho ta đạt tới những trình độ cao hơn trong sinh hoạt Yoga. Nó hầu như bao trùm mọi khía cạnh trong bản chất của ta và nếu ta thành thật, cẩn thận và nhiệt tình noi theo những phương pháp được ám chỉ trong giới luật tam phân ấy, thì chẳng những nó sẽ biến đổi được bản chất thấp hèn của ta, biến các hạ thể thành ra một công cụ thích hợp với Chơn ngã, mà nó còn mở ra được những viễn ảnh thành tựu mới và khai phá được những năng lượng ẩn tàng cũng như những tiềm năng nơi bản thân ta mà chính ta hầu như cũng không ngờ mình vẫn có sẵn.
Nếu ta khởi sự thực hành những điều mà chúng ta vừa mới học được thì cuộc đời sẽ ngay tức khắc biến đổi trước mắt ta, bấy giờ ta ắt chẳng còn thắc mắc liệu mình có thể thực hành Samadhi hay chăng, liệu mình có thể phát triển được tình thương tới mức cho mình khả hữu thành tựu một mức độ hiệp nhứt nào đó với Đối tượng sùng tín của mình. Ta hãy trở lại xét ví dụ về một học viên quyết tâm muốn trở thành một nhà toán học lỗi lạc; chính vì y khởi sự làm phép tính cộng trong khoa số học thông thường cho nên y mới quan tâm tới toán học và không còn lo ngại gì về phép tính vi phân và tích phân, khi đúng lúc y sẽ học chúng sau này.
Chính công trình sáng tạo thuộc bất cứ loại nào mới mang lại niềm vui cho cuộc sống và sự biến đổi bản chất của mình bằng những phương pháp của Khoa Yoga Dự bị là công trình sáng tạo cao cấp nhất; nó còn thực tiễn và năng động hơn cả việc tạo ra một pho tượng hoặc vẽ ra một bức tranh. Những nghệ sĩ đều đang dính dáng tới các vật đã chết cứng. Còn người nào biến hình ảnh của Chơn ngã mà xuất lộ ra được từ bên trong bản chất thấp hèn của mình thì người ấy mới đang xử lý một sự việc sống động và chân thực. Y đang giải quyết được bài toán hóc búa của cuộc đời. Y đang vẽ nên một bức tranh sống động về điều mình phải hiện tồn trong tương lai. Một pho tượng mới mẻ hiện thân của sự hoàn hảo trong tương lai của ta đang được đẽo gọt ra từ khối đá hoa cương thô thiển tức bản chất thấp hèn của ta. Chính tính sáng tạo Thiêng liêng trong công việc ấy mới biến đổi cuộc đời ta thành ra một bài ca chiến thắng bất chấp phiền não và thống khổ mà ta có thể trải qua nơi ngoại biên của ý thức đắm chìm trong ngoại giới.
Đó là một tiến trình sống động khi nụ hoa cố gắng nở ra thành một bông hoa với mọi nỗi hoan hỉ tự nhiên vốn luôn luôn hiện diện nơi những quá trình bộc lộ tự nhiên như thế. Ta đang cố gắng hội nhập tương lai vào hiện tại. Ta đang trở thành cái mình ắt phải là. Ta đâu có biết pho tượng phải giống cái gì, nhưng Đấng vốn là Chơn ngã Sâu kín nhất của ta thì ắt phải biết và ta cảm thấy bàn tay của Ngài dẫn dắt ta khi ta cầm lấy cái giũa đục để khởi sự tạo hình cho khối đá hoa cương vốn là bản chất thô trược của ta.
Ai đã từng là nghệ sĩ thì đều nếm trải cái niềm vui khi vẽ ra được một bức tranh hoặc viết được một bài thơ. Người ấy ắt có thể thẩm định được niềm vui khi làm hiển lộ một hình ảnh Thiêng liêng sống động vốn tiềm tàng ẩn giấu bên trong ta. Bức tranh chỉ là một sự vật chết cứng, pho tượng chỉ là một sự vật chết cứng, nhưng cái sự vật sống động vốn bắt đầu từ từ xuất lộ bên trong ta chính là một đấng Thiêng liêng với tiềm năng vô hạn, Ngài càng ngày càng trở thành một công cụ của tình thương, tri thức và quyền năng Thiêng liêng. Hình ảnh hoàn chỉnh có thể vẫn còn thuộc về tương lai mà ta chưa thấy và chưa biết được, nhưng chính cái công trình sáng tạo khiến cho hình ảnh ấy hiện hữu mới truyền lại được niềm vui và nỗi háo hức cho công việc chuẩn bị Yoga.
Trong công trình này thì tuổi tác chẳng hề quan trọng, hoàn cảnh cũng chẳng ăn thua gì, ngay cả chết mất xác cũng có sao đâu. Công trình có thể tiếp tục ngay cả sau khi chết nếu tâm trí ta đã quyết theo chiều hướng ấy vì mục đích hoặc mục tiêu vốn trong nội tâm ta và sẽ mãi mãi gắn bó với ta cho dù ta có đi đến đâu đi nữa. Đó là vì mọi vật nơi ngoại giới đều thuộc về thế giới hiện tượng, còn giờ đây ta đã móc dính cái toa xe của mình vào Ngôi sao Vĩnh hằng của Linh hồn vốn đang ẩn tàng bên trong ta và dẫn dắt ta trở về với Nó. Đây là điều mà Khoa Yoga Dự bị có tiềm năng và có thể thực sự mang lại ý nghĩa cho bất cứ ai tiến hành công việc một cách tha thiết.
Triết lý của Khoa Yoga
Chương II của Yoga Sutras chẳng những giúp ta có được một ý niệm về bản chất của sự dọn mình vốn cần thiết cho việc theo đuổi phép thực hành cao cấp trong Yoga mà còn phác họa một cách rất hệ thống và hợp lý cái triết lý mà phần kỹ thuật vốn dựa vào đó.
Người ta giả định rằng triết lý của Yoga vốn thoát thai từ triết lý của Sankhya (Số luận), là một trong sáu hệ thống triết lý chủ yếu của Ấn Độ. Chắc chắn là nó giống với triết hệ Sankhya về đại thể mặc dù có một vài điều khác nhau căn bản mà ta không thể lờ đi, khiến cho nhiều học giả nghi ngờ chẳng biết hai hệ thống triết lý này có thật sự liên hệ gì với nhau hay chăng.
Khi cả hai hệ thống triết lý ấy đều được truyền thừa cho ta từ quá khứ xa xưa và đã song song tồn tại bên nhau trong hàng ngàn năm mà chẳng có bằng chứng dứt khoát nào về nguồn gốc của chúng, thì thật rất khó lòng mà quyết định được những vấn đề vốn chỉ gây hứng thú cho các nhà triết học hàn lâm.
Đối với người tầm đạo thì vấn đề ấy cũng chẳng lấy gì làm quan trọng. Điều mà y chú ý là kỹ thuật thực hành vốn đã chịu đựng được sự trắc nghiệm của thời gian, đã được thực nghiệm trong hàng ngàn năm và có thể được sử dụng nhằm đạt mục đích của mình một cách đáng tin cậy. Triết lý Yoga cung ứng được một cơ sở thỏa đáng cho kỹ thuật này, thế là cũng đủ rồi. Lý thuyết dựa vào đó ta có được một khoa học thực nghiệm vốn cần thiết và quan trọng để cho các kỹ thuật khác nhau được tương quan và tích hợp thành ra một tổng thể cố kết, nhưng lý thuyết ấy có đúng sự thật hoặc có giá trị hay chăng thì tuyệt nhiên cũng chẳng ảnh hưởng gì tới sự hữu hiệu của các kỹ thuật vốn được dùng cho những mục đích thực tiễn.
Trong một thời gian dài, các định luật về điện và những hiện tượng điện được sử dụng rất hữu hiệu cho đủ thứ mục đích mặc dù lý thuyết thịnh hành để giải thích về hiện tượng ấy còn chưa được hoàn chỉnh và thiếu thỏa đáng. Nếu giờ đây ta thấy toàn bộ lý thuyết về điện đó hoàn toàn thiếu cơ sở vì trong tương lai có bất cứ những phát minh nào khác, thì trọn cả khoa học vốn dựa trên việc ứng dụng những định luật về điện và các hiện tượng điện nhằm phát triển công nghiệp cho hợp khoa học vẫn hoàn toàn không chịu ảnh hưởng của kết quả phát hiện ấy bởi vì những định luật và hiện tượng điện dựa trên những sự kiện thực nghiệm chứ không phải bất cứ sự suy đoán nào.
Đối với triết lý Yoga thì cũng như thế. Mặc dù đó là một triết lý hoành tráng và rất hợp lý dựa trên kinh nghiệm của các Cao đồ, việc nó có giá trị hay chăng không ảnh hưởng gì tới kỹ thuật hoặc tính hữu dụng của khoa Yoga với vai trò là một Khoa học nhằm vén màn bí mật của những điều huyền bí sâu sắc trong cuộc sống để khám phá ra Thực tại bên trong bản thân ta.
Thân phận Con người
Bây giờ ta hãy cố gắng lĩnh hội một ý niệm tổng quát và rõ ràng về triết lý mà kỹ thuật Yoga của Patanjali dựa trên đó. Triết lý này được từng bước phác họa trong Chương II qua 26 câu kinh từ câu 3 tới câu 28. Ta không thể bàn tỉ mỉ về những câu kinh này và ở đây ta chỉ có thể trình bày khái lược về những ý tưởng làm nền tảng cho những câu kinh ấy và những mắt xích trong chuỗi xích lý luận vốn là cơ sở của triết lý ấy.
Triết lý bắt đầu bằng vấn đề tất cả mọi người (ngoại trừ một số rất ít) đều bị vướng mắc vào vấn đề những khốn khổ, hạn chế và hão huyền của thân phận con người. Câu kinh tổng kết sự thật rành rành về kiếp người chính là câu II-15. Nó ngụ ý rằng: “Đối với những người nào đã phát triển được óc phân biện thì tất cả đều là khốn khổ vì những nỗi đau khổ bắt nguồn từ sự vô thường, lo âu và những khuynh hướng cũng như vì những cuộc xung đột giữa các khuynh hướng tự nhiên mà con người phát hiện ra trong bản chất con người với những tư tưởng và ham muốn lộng hành trong một thời kỳ đặc biệt nào đó”. Người ta đã dịch câu kinh này thoát nghĩa để cho ý nghĩa của nó nổi bật hơn. Một số người có khuynh hướng coi phát biểu này là khá bao quát và quá bi quan; nhưng muốn ngộ ra được nó đúng đến đâu thì ta cần phải suy tư kỹ lưỡng và sâu sắc. Mọi bậc đại Đạo sư của thế gian đều bắt đầu từ sự thật căn bản này của kiếp làm người, vì vậy ta có thể giả định rằng phát biểu trong câu kinh là chính xác.
Vấn đề kế tiếp gây thắc mắc là: giả sử rằng kiếp làm người lúc nào cũng bị ngập tràn những khốn khổ thì có thể nào tránh được hoặc dứt bỏ sự khốn khổ ấy chăng? Câu trả lời cho thắc mắc này hoàn toàn minh bạch, dứt khoát và khẳng định. Nó được trình bày trong câu kinh II-16: “Sự khốn khổ nào chưa xảy ra thì có thể và ắt tránh được”. Đó chính là loại trả lời mà một triết lý chân chính về cuộc đời phải đưa ra. Liệu một triết lý hoặc một tôn giáo có ích lợi gì nếu nó vạch ra được những khốn khổ và hạn chế của cuộc đời để rồi không chỉ ra cho bạn thấy có một giải pháp thực sự nào hoặc niềm hi vọng thoát khỏi những khốn khổ ấy? Thế nhưng nhiều triết lý hiện đại lại đúng là như vậy. Chúng nêu ra vấn đề rồi bỏ lửng không giải đáp, chúng đưa ra những phương thuốc chỉ làm giảm đau tạm bợ chứ tuyệt nhiên chẳng chữa trị được cái gì.
Các Nguyên nhân của Khốn khổ
Sau khi khẳng định rằng ta có thể tránh được hoặc vượt qua được những khốn khổ của cuộc đời, triết lý tiến hành việc phân tích nguyên nhân của khốn khổ. Đây là một bằng chứng nữa về việc nó thật là chu đáo và hữu hiệu. Nếu bạn đau khổ vì bất cứ bệnh tật nào thì bạn có thể giải quyết bằng hai cách. Hoặc là bạn sử dụng thuốc giảm đau tạm bợ vốn sẽ làm mất đi những triệu chứng đặc biệt rất khó chịu của bệnh tật nhưng chỉ tạm thời và một phần thôi; hoặc là bạn có thể chọn theo một lộ trình hữu hiệu và có ý nghĩa hơn nhằm đi tìm nguyên nhân của bệnh tật rồi xử trí nó ở mức đó. Chỉ bằng cách này thì ta mới có thể triệt để chữa bệnh rốt ráo và mãi mãi.
Triết lý Yoga chọn theo lộ trình vừa nêu. Nó đi tới tận nguyên nhân rốt ráo của nỗi đau khổ con người với những hạn chế rồi gợi ra một phương thuốc trừ tuyệt căn nguyên nhân của bệnh tật, do đó chữa bệnh hoàn toàn rốt ráo. Việc phân tích nguyên nhân đau khổ của con người được trình bày trong thuyết kiết sử (kleshas) vốn tạo thành một chuỗi xích nhân và quả bao gồm năm mắt xích.
Những mắt xích này được gọi là Avidya tức Vô minh Nguyên thủy; Asmita tức là Tâm thức thuần túy (vốn tự do, tự túc, tự tại) bị đồng nhất hóa với mọi thứ linh tinh mà nó biểu lộ thông qua đó khi vướng mắc vào vòng biểu lộ. Các mắt xích thứ ba và thứ tư là Raga và Devesha nghĩa là đủ thứ lực hút và đẩy xuất hiện do kết quả của việc Tâm thức đồng nhất hóa với các hiện thể của mình cũng như với các môi trường xung quanh khiến nó rèn đúc ra sự ràng buộc nội giới làm cá nhân gắn bó với các hiện thể và môi trường xung quanh của mình. Còn mắt xích cuối cùng là hậu quả rốt cuộc của chuỗi xích nhân quả ấy. Nó được gọi là Abhinivesha nghĩa là bản năng bám víu lấy cuộc sống trần tục và những hưởng thụ của xác thịt cho nên e sợ rằng nếu chết đi thì mình sẽ chia lìa với mọi thứ ấy. Như vậy ta thấy rằng nguyên nhân đầu tiên là Avidya (vô minh) và hậu quả cuối cùng là kiếp làm người sống trong đủ thứ hạn chế và hão huyền. Ta sẽ không đi sâu hơn vào chi tiết nữa.
Nhưng có một điều mà ta có thể minh giải trước khi thông qua vấn đề này. Avidya không phải là loại vô minh thông thường hoặc ngay cả vô minh được dùng theo nghĩa triết học tổng quát. Nó là một thuật ngữ chuyên môn thực sự có ngụ ý là không biết Bản chất Chân thực của mình. Chính vì ta đã không còn biết được Bản chất Chân thực của mình cho nên ta mới bị vướng mắc vào trong vòng biểu lộ. Như vậy Vô minh là công cụ gây ra việc Chơn thần giáng hạ tiến hóa để biểu lộ. Tại sao Chơn thần lại vướng mắc vào vòng biểu lộ hoặc nó bị vướng mắc vào vòng biểu lộ như thế nào quả thật là những câu hỏi rốt ráo vốn ngoài tầm nhận thức của trí năng và có lẽ ta chỉ giải đáp được những câu hỏi ấy khi ta có trở lại sự hiểu biết về Thực tại vào lúc Giải thoát. Còn hiện nay ta hãy công nhận sự thật là ta đang bị vướng mắc, ta rất cần và rất nên thoát ra khỏi những tình huống bất hảo ấy và những hạn chế mà ta đâu muốn thấy mình phải chịu.
Rõ ràng là nếu việc thiếu hiểu biết Bản chất Chân thực hoặc Thực tại của mình chính là nguyên nhân ta bị ràng buộc trong nội tâm hoặc bị vướng mắc vào vòng biểu lộ thì phương thuốc trường tồn chân thực duy nhất ắt phải là có trở lại cái tri thức về Thực tại ấy tức là biết được Bản chất Chân thực của chính mình. Đây là mắt xích kế tiếp trong chuỗi xích lý luận mà triết lý Yoga dựa vào đó. Nó nêu rõ hậu quả rốt ráo dưới hình thức các nỗi khốn khổ của kiếp làm người có thể được truy nguyên tới tận Nguyên nhân Bản sơ dưới dạng không còn biết được Thực tại nữa, vì vậy phương tiện duy nhất để vượt qua được những khốn khổ của đời người chính là phải có trở lại tri thức về Thực tại ấy một cách rốt ráo và thường trụ. Điều này được diễn tả qua câu kinh II-26 như sau: “Việc thực hành tri thức Thực tại liên tục chính là phương tiện để xua tan Vô minh”. Không một loại thuốc giảm đau nào, không một giải pháp tạm bợ nào được đưa ra giống như hầu hết các triết lý thời nay.
Thắc mắc kế tiếp dĩ nhiên là: Làm thế nào thực hiện được cái tri thức về Thực tại ấy? Lời giải đáp được trình bày trong câu kinh II-28 như sau: “Nhờ thực hành các phép tập luyện Yoga để tiêu diệt sự ô trược; sự giác ngộ tâm linh mới xuất hiện để rồi phát triển thành tri thức về Thực tại”. Nối tiếp câu kinh này là câu kinh 29 trình bày tám phép luyện tập nổi tiếng để thực hành kỹ thuật Yoga.
Khoa học Yoga
Nói tóm lại, đây chính là triết lý Yoga. Nó thực sự cho thấy Chơn thần đã bị vướng mắc trong vòng biểu lộ ra sao vì quên mất Bản chất Chân thực của mình cho nên mới tự đồng nhất hóa với các hiện thể và tất cả những gì liên kết với chúng. Sự đồng nhất hóa này khiến cho Chơn thần phát triển đủ thứ quyến luyến cá nhân, những mối ràng buộc dưới dạng hút và đẩy đối với người và vật trên thế gian. Chính những điều này tạo ra đủ thứ kinh nghiệm vốn là nguồn gốc của sự khốn khổ thực sự hoặc tiềm tàng. Thế rồi triết lý vạch ra phương pháp Giải thoát vốn dĩ nhiên là đảo ngược toàn bộ quá trình tiến hóa giáng hạ và kết thúc với việc Chơn thần có trở lại tri thức về Bản chất Chân thực của mình. Khoa học Yoga chẳng qua chỉ là kỹ thuật giúp ta có thể thực hiện điều đó một cách có hệ thống và khoa học.
Phát biểu trên chỉ nêu ra những nguyên tắc vốn dính líu vào sự giáng hạ tiến hóa của Chơn thần cùng với việc Chơn thần giải thoát khỏi những tình huống không đáng mong muốn khi đã mở ra được con mắt nội giới và ngộ ra được bản chất chân thực của sinh hoạt nơi các cõi thấp cũng như việc cần thiết và có thể thoát ra khỏi những tình huống ấy. Phương pháp thực sự để giải thoát và những kỹ thuật khác nhau mà người tầm đạo có thể có được là vấn đề chi tiết mà y có thể học hỏi do nghiên cứu tỉ mỉ khoa Yoga. Người tầm đạo có thể nghiên cứu kỹ lưỡng những phương pháp này và học cách ứng dụng những kiến thức ấy vào trường hợp riêng của mình càng ngày càng tốt.
Điều quan trọng là phải tha thiết bắt đầu bằng một động cơ thúc đẩy trong sáng. Khi điều này xảy ra thì mọi lực trong Thiên nhiên sẽ bắt đầu cộng tác giúp cho người tầm đạo trong nỗ lực tinh tấn ấy mặc dù xét theo bề ngoài những lực ấy dường như có vẻ cản đường y và ngăn trở những nỗ lực của y. Đây chỉ là cách thức mà Thiên nhiên trắc nghiệm lòng tha thiết của ta nhằm triển khai sức mạnh và những quyền năng ẩn tàng nơi ta. Chúng ta phải học cách kiên trì khi giáp mặt với những khó khăn và nếu ta kiên nhẫn thì ta sẽ thấy thánh đạo mở ra trước mắt mình, những cơ hội bất ngờ và bất thường sẽ xảy đến cho ta theo nhiều cách khác nhau.
Bắt đầu từ đâu?
Nhưng về vấn đề này tôi muốn minh giải một điều. Nhiều người trong chúng ta băn khoăn một cách không cần thiết, và thắc mắc liệu mình nên bắt đầu ở đâu và nên đi theo con đường nào. Về vấn đề “nên bắt đầu ở đâu” thì câu trả lời là bắt đầu ở bất cứ nơi đâu, nhưng phải bắt đầu ngay tức khắc. Con đường Thực tại không phải là con đường đã sẵn có mà chúng ta phải tìm ra trước khi chúng ta có thể lái xe chạy trên đó. Đó là một con đường không có lối dẫn vào vốn mở ra ngay từ bên trong bản thân ta và ta có thể nhập vào ở bất cứ điểm nào trong không gian và thời gian cho nên có thể được gọi là “Ở đây” và “Ngay bây giờ”.
Ba Con Đường nhập làm Một
Người ta đã hiểu lầm rất nhiều đối với vấn đề đi theo một con đường đặc biệt, một trong ba đường lối: hiểu biết, sùng tín và hành động. Người tầm đạo nghĩ rằng mình phải đi theo một trong ba con đường ấy từ đầu chí cuối và tự nhiên là thắc mắc một cách không cần thiết liệu mình thuộc về con đường nào. Sự thật là những con đường này không phải là những con đường khác nhau mà chúng ta phải bước đi trên đó nhằm cố gắng đạt tới mục tiêu của mình. Chúng không phải là những con đường thực sự riêng rẽ và độc lập dẫn tới cùng một cứu cánh chung mà chỉ là những loại pháp môn khác nhau với mục đích phát triển hoặc thể hiện ra được những khía cạnh khác nhau trong Bản chất Thiêng liêng của ta.
Rõ rệt là sự toàn bích đòi hỏi phải phát triển Bản chất Thiêng liêng một cách hài hòa và toàn diện. Bản chất Thiêng liêng của ta không thể thật sự toàn bích tối hậu nếu có sự thiên lệch, thiếu hài hòa hoặc thiếu sót bất cứ thứ gì. Do đó mọi khía cạnh trong Bản chất Thiêng liêng của ta phải được hiển lộ và phải được hiện diện dưới dạng đã được khai triển đến mức hoàn hảo tối hậu có thể đạt được.
Nhưng mặc dù sự toàn bích tối hậu ắt bao gồm mọi khía cạnh khác nhau này trong bản chất của ta dưới dạng đã phát triển, nhưng các khía cạnh khác nhau ấy chỉ được phát triển tốt nhất qua việc mỗi lúc phải được tập trung vào một khía cạnh đặc biệt thôi. Chính thân phận của kiếp người khiến cho ta chỉ có thể phát triển một khía cạnh ở một mức độ cật lực trong một tình huống đặc biệt. Điều này không ngụ ý là ta không nên cố gắng phát triển những khía cạnh khác nhau một cách thăng bằng và hài hòa mà chỉ ngụ ý tất yếu là trong nhất thời thì các khía cạnh khác nhau phải đóng một vai trò phụ thuộc trong sinh hoạt của ta.
Chính sự cần thiết phải tập trung vào một khía cạnh đặc biệt trong một lúc đã làm nảy sinh ra cái quan niệm sai lầm cho rằng tính khí của ta thích hợp với việc đi theo một đường lối đặc biệt và nếu ta muốn nỗ lực thành công thì ta phải đi theo đường lối đặc biệt ấy. Sự thật là những tình trạng khác nhau về tâm trí, xúc động và ham muốn vốn biểu thị việc ta thích hợp với cái gọi là một đường lối đặc biệt – Jnana, Bhakti và Karma – chỉ là những giai đoạn trong sự phát triển nội tâm của ta và ta không nên ngần ngại khi phải đi theo một đường lối khác nếu ta cảm thấy bị thôi thúc mạnh mẽ nhằm làm như thế. Đó là vì vấn đề không phải là đi theo một đường lối đặc biệt mà là chọn theo một pháp môn đặc biệt hoặc nói cho đúng hơn đặc biệt chú trọng tới một pháp môn đặc biệt trong một thời khoảng nào đó tùy theo nhu cầu phát triển nội tâm của ta. Sự phát triển hài hòa không có nghĩa là phát triển theo mọi đường lối ở mức độ ngang hàng với nhau. Nó chỉ có nghĩa là chúng ta không cho phép bất cứ khía cạnh nào trong bản chất ta bị tụt hậu đến mức nó bắt đầu khiến cho ta thiên lệch, ảnh hưởng tới hiệu năng và cản trở tới sự tiến bộ nói chung của ta.
Sơ đồ nêu trên có thể minh họa cho sự thật là ta trải qua nhiều giai đoạn khác nhau trong khi phát triển bằng cách chọn theo những pháp môn khác nhau vào những thời khoảng khác nhau khiến cho ta thấy có vẻ như mình đang đi theo những đường lối khác nhau.
Ta có thể khởi sự ở bất cứ nơi đâu để rồi sau khi đi theo một đường lối đặc thù một cách cật lực thì lại chuyển dời sang một đường lối khác trong một kiếp khác hoặc trong chính kiếp ấy. Thế rồi ta lại đi theo đường lối này được một thời gian để rồi chuyển sang một đường lối khác. Như vậy ta có thể lần lượt chú trọng tới mọi khía cạnh và phát triển chúng một cách hài hòa. Đây là cách thức mà Thiên nhiên bảo đảm cho ta sẽ không trở nên thiên lệch để rồi cuối cùng đạt được sự toàn bích toàn diện.
(Tạp
chí Nhà Thông Thiên Học,
số tháng 8, tháng 9, tháng 10, năm 1965.)
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN HÌNH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES