|
HOME NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES
|
CHÂN SƯ VÀ
THÁNH ĐẠO
dịch giả: Nguyễn Hữu Kiệt
|
|
MỤC LỤC
PHẦN THỨ NHẤT
CÁC ĐẤNG CHÂN SƯ
CHƯƠNG I
– SỰ HIỆN DIỆN CỦA CÁC CHÂN SƯ
Đại lược
Sự chứng minh của các tôn giáo
Những bằng chứng gần đây
Sự kinh nghiệm cá nhân của tôi
Sự tiến hóa của vạn vật
Đời sống siêu nhân loại
Quần Tiên Hội
CHƯƠNG II
– THỂ XÁC CỦA CÁC CHÂN SƯ
H́nh dáng của các Ngài
Một thung lũng ở Tây Tạng
Nhà của Chân Sư Kuthumi
Những hoạt động của Chân Sư
Những nhà khác
Các Chân Sư thuộc cung số 1
Các Chân Sư thuộc cung số 2
Những Chân Sư thuộc các cung khác
Những thể xác kiện toàn
Mượn thể xác
PHẦN THỨ HAI
CÁC VỊ ĐỆ TỬ
CHƯƠNG
III – CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN CHÂN SƯ
Vào cửa Đạo
Tánh cách vĩ đại của công việc phụng sự thiên
cơ
Quyển sách “Dưới Chân Thầy”
Thái độ của người đệ tử
Kết dây liên-lạc với Chân Sư
Không ai là người bị bỏ rơi
Những chướng ngại thông thường
Phải có sự trung thành tuyệt đối
CHƯƠNG IV
– THỜI KỲ DỰ BỊ
Chiếc h́nh nộm
Những đệ-tử dự bị trẻ tuổi
Hậu quả của sự tàn nhẫn đối với trẻ con
Bậc Thầy của Nhân-Loại
Vào hàng dự bị
Lời dạy bảo của Chân Sư
Tánh nóng nảy
Tánh ích kỷ
Sự âu lo
Sự vui cười
Những lời nói vô ích
Tánh hấp tấp và khoe khoang
Giá-trị của sự tập-đoàn
CHƯƠNG V
– THỜI KỲ NHẬP MÔN
Một cuộc lễ nhập-môn chính thức
Sự hợp nhất với Chân Sư
Việc chuyển di thần lực
Gởi thông điệp
Kiểm điểm tư tưởng
Sự tiêu khiển
Sự thành công chắc chắn
CHƯƠNG VI
– THỜI KỲ CHUẨN BỊ ĐIỂM ĐẠO
Bốn nhân duyên đưa đến cửa Đạo
Những đức tính cần thiết
PHẦN THỨ BA
NHỮNG CUỘC ĐIỂM ĐẠO LỚN
CHƯƠNG
VII – CUỘC ĐIỂM ĐẠO THỨ NHẤT
Đấng Điểm Đạo độc tôn
Người tân Đạo Đồ đối với Quần Tiên Hội
Những trường hợp thất bại
Một cuộc Điểm Đạo thứ nhất
Thời gian của một cuộc lễ Điểm Đạo
Địa vị con của Đức Thầy
Tŕnh độ Điểm Đạo
Cơ hội hiện tại
Những thiếu niên được Điểm Đạo
CHƯƠNG
VIII – CÁC CUỘC ĐIỂM ĐẠO THỨ NH̀ VÀ THỨ BA
Ba điều chướng ngại đầu tiên
Một cuộc Điểm Đạo thứ nh́
Sự phát triển trí huệ
Giai đoạn nguy hiểm
Cuộc Điểm Đạo lần thứ ba
Những chướng ngại thứ tư và thứ năm
TỰA
Quyển sách này tŕnh bày nhiều vấn đề từ trước
đến nay chỉ được nghiên cứu và thảo luận trong những buổi nhóm họp của một
số ít người, gồm những sinh viên Huyền Môn đă có sự hiểu biết thâm sâu về
Đạo Lư. Những người này sẵn sàng khảo cứu môi vấn đề liên quan đến những địa
hạt tâm linh mà họ chưa có thể bước vào ngay bây giờ, nhưng hy vọng có ngày
sẽ bước vào trong một tương lai về sau.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . .
Tôi có thể bảo đảm và chứng thực những điều đă
được viết ra trong quyển sách này, nó ghi chép đúng đắn những điều mà tác
giả đă quan sát một cách tỉ mỉ và cẩn thận, nhưng có không tuyên bố một uy
tín nào, cũng không đ̣i hỏi độc giả phải chấp thuận hay tin theo. Nó không
tự hào được viết ra do một sự cảm hứng tâm linh, mà chỉ là một sự tường
thuật nhửng điều mắt thấy tai nghe của tác giả.
ANNIE BESANT(*)[i]
PHẦN THỨ NHẤT
CÁC ĐẤNG CHÂN SƯ
CHƯƠNG I
SỰ HIỆN DIỆN CỦA CÁC CHÂN SƯ
ĐẠI LƯỢC
Sự có mặt trên thế gian của những Người đă trở
nên Toàn thiện là một điều rất quan trọng cho những điều mà Thông Thiên Học
tŕnh bày cho chúng ta. Điều này rất hợp lư sau khi chúng ta đă hấp thụ được
những giáo lư Thông Thiên Học về Luật Nhân Quả và Luật Tiến Hóa bắng phương
pháp Luân Hồi. Nếu chúng ta để ư quan sát chung quanh, chúng ta thấy con
Người ở nhiều tŕnh độ tiến hóa khác nhau: có nhiều người c̣n kém chúng ta
rất xa và có những người, trên phương diện nầy hay phương diện khác, đă vượt
khỏi chúng ta một cách rơ rệt.
V́ lẽ đó, có thể có những người khác càng tiến
nhiều hơn nữa; thật vậy nếu Nhân loại cứ tuần tự tiến hóa trải qua một loạt
nhiều kiếp sống liên tiếp, nhằm một mục đích nhất định, th́ tất là phải có
những người đă đạt được mục đích đó.
Vài người trong chúng ta, trong thời kỳ tiến
hóa đó, đă khai mở một vài giác quan thượng đẳng, những giác quan này hăy
c̣n tiềm tàng trong mỗi người và sẽ là cái sở đắc chung cho tất cả mọi người
trong tương lai. Nhờ những giác quan đó, chúng ta có thể nh́n thấy những nấc
thang tiến hóa ở trên cũng như ở dưới chúng ta, và chúng ta nhận thấy rằng
tất cả mọi nấc thang tiến hóa đều có người đă đạt tới.
Có rất nhiều bằng chứng trức tiếp về sự hiện
hữu của những bậc Toàn thiện mà ta gọi là những Chân Sư.Tuy nhiên, tôi nghĩ
rằng trước hết mỗi người trong chúng ta phải tự quả quyết rằng những bậc đó
hẳn là phải có; sau đó, chúng ta mới có thể suy diễn rằng nhưng người mà
chúng ta được tiếp xúc thuộc về loại này.
Lịch sử của tất cả các quốc gia đều chứa đựng
những công tŕnh của những bậc vĩ nhân thuộc về tất cả mọi nghành hoạt động
của con người. Những người ấy, trong phạm vi hoạt động riêng của họ, đă vượt
khỏi quần chúng ở một mức quá cao đến nỗi có những thời kỳ những lư tưởng
của họ thật là quá tầm hiểu biết của người đương thời. Lẽ tất nhiên, không
những công việc của họ làm đă bị mất đi đối với nhân loại, mà cho đến tên
tuổi của họ cũng không được lưu truyền.
Người ta nói rằng lịch sử của một quốc gia có
thể tóm tắt bằng tiểu sử của một số rất ít người, một số ít những người xuất
sắc, vượt khỏi đám đông và thực hiện những bước tiến lớn lao trong tất cả
các ngành nghệ thuật, âm nhạc, văn chương, khoa học, triết lư, từ thiện,
chánh trị và tôn giáo. Những người này vượt khỏi tŕnh độ của giới họ, hoặc
về phương diện sùng tín và bác ái, như những bậc Thánh và những nhà từ
thiện; hoặc về phương diện hiểu biết thâm sâu về Vũ trụ và nhân sinh, như
những triết gia và những nhà bác học; hoặc về phương diện phụng sự Nhân
loại, như những bậc đại văn hào và những nhà cải tạo xă hội.
Nếu ta thử xét xem những người đó đă vượt khỏi
nhân loại được bao nhiêu, và đă đi bao xa trên con đường tiến hóa, th́ thật
chúng ta không thể nhận thấy cái giới hạn của sự tiến hóa đó.
Rất có thể, trong thời quá khứ, và cho đến ngày
nay, vẫn có những người tiến hóa hơn cả những nhân vật lịch sử lưu danh hậu
thế, những người cao cả về tâm linh cũng như về kiến thức hay đường nghệ
thuật, những người hoàn toàn về phương diện toàn thiện của nhân loại, những
người mà ta gọi là những đấng Thánh Nhân hay Siêu Nhân, mà có vài người
trong chúng ta đă có cái diễm phúc vô biên được gặp gỡ.
Những đấng Siêu Nhân ấy làm vẻ vang và tô điểm
cho những trang lịch sử, đồng thời cũng là cái vinh diệu và hy vọng cho nhân
loại, v́ chúng ta biết rằng các Ngài là những đấng tiền phong làu làu chói
rạng như ngọn hải đăng để soi đường cho chúng ta noi theo nếu chúng ta muốn
đạt được cái quả vị tốt đẹp huy hoàng của các Ngài. Chúng ta đă chấp nhận từ
lâu thuyết tiến hóa của mọi h́nh thể để biểu lộ sự sống thiêng liêng. Một tư
tưởng bổ túc và lớn lao hơn nhiều là sự tiến hóa của chính sự sống thiêng
liêng đó, nó chỉ rằng cái lư do của sự tiến hóa h́nh thể, để càng ngày trở
nên tốt đẹp, mềm dẻo tế nhị hơn, là v́ cái Sự Sống bên trong cần tự biểu lộ
qua những h́nh thể đó. Những h́nh thể sinh ra, trưởng thành, già cỗi và
chết, nhưng cái Tinh thần bên trong vẫn sống trường cửu, nó đem đến một linh
hồn cho những h́nh thể đó, và tiến hóa bằng sự kinh nghiệm thu thập được do
các h́nh thể ấy. Khi một h́nh thể đă đạt được mục đích và trở nên già cỗi
th́ nó bị loại bỏ, để nhường chỗ cho một h́nh thể khác.
Đằng sau cái h́nh thể đang tiến hóa, luôn luôn
có một sự sống vô cùng: sự sống thiêng liêng đó thấm nhuần trong toàn cơi
thiên nhiên, như cái áo khoác muôn màu của Thượng Đế. Chính Thượng Đế tự
biểu lộ trong sắc đẹp của cái hoa, trong sức mạnh của cái cây, trong cái dịu
dàng mềm mại của con thú cũng như trong Tâm hồn con Người. Chính v́ cái Ư
chí của Ngài hỗn hợp với Cơ Tiến Hóa mà ta thấy Sự Sống ở khắp nơi luôn luôn
tiến hóa không ngừng và v́ đó sự hiện hữu của những Người Toàn Thiện là vấn
đề rất tự nhiên, do sự kết tinh đến chỗ tuyệt đích của một con đường tiến
hóa dài và liên tục về cả những phương diện quyền năng, minh triết và bác
ái. Và trên những Đấng Cao cả đó, vượt khỏi tầm nhỡn quang và tầm hiểu biết
của chúng ta, c̣n những chân trời sáng lạn huy hoàng hơn nữa, mà chúng tôi
sẽ tŕnh bày sau.
Cái hậu quả hợp lư của sự kiện trên là tất phải
có những Người Toàn Thiện trên thế gian. Thật thế, có biết bao nhiêu những
bằng chứng về sự hiện hữu của những bậc siêu nhân trải qua mọi thời đại.
Những bậc nầy, thay v́ hoàn toàn từ giă cơi Trần để tiếp tục một đời sống cá
nhân trong những cơi siêu nhiên, v́ t́nh thương nhân loại, đă ở lại tiếp xúc
với thế gian.
Những bậc ấy giúp đỡ nhân loại tiến hóa về mọi
mặt mỹ lệ, bác ái và chân lư, để giúp họ trở thành những Người Toàn Thiện,
cũng ví như thỉnh thoảng ta gặp một nhà thảo mộc học yêu các giống cây cỏ và
cố gắng vun trồng một giống cam quư hay một giống hoa hường thượng hạng.
SỰ CHỨNG MINH CỦA CÁC TÔN GIÁO
Các Kinh Thánh của tất cả mọi tôn giáo đều
chứng minh sự hiện diện của những bậc Siêu Nhân đó, tràn đầy sức sống Thiêng
Liêng đền nỗi người ta coi các Ngài như những đại diện của Thượng Đế vậy.
Trong mỗi tôn giáo, và đặc biệt nhất ngay từ khi thành lập tôn giáo ấy, một
và có khi nhiều đấng Cao Cả như thế xuất hiện. Người Ấn độ giáo có những
đấng Thần linh của họ, hay những hiện thân của Thượng Đế như đấng Krishna,
Shankaracharya và Đức Phật Thích Ca cùng nhiều bực Chân Sư, đại Thánh và
Giáo Chủ. Những đấng Cao Cả đó chú ư không những đến sự thức tỉnh tánh chất
tâm linh con Người, mà c̣n chú ư đến tất cả những ǵ có thể góp phần vào sự
sống tiện nghi của nó ở cơi hạ giới này. Tất cả những người thuộc về đạo
Gia-tô đều biết rơ – hay ít nhất cũng phải biết – sự nối gót kề nghiệp nhau
của những nhà Tiên Tri, Giáo Chủ và bực Thánh của tôn giáo họ; họ biết rằng,
theo một ư nghĩa nào đó(có lẽ không được hiểu rơ)đấng Giáo Chủ tối cao của
họ, đức Jésus Christ, vừa là Người, vừa là Trời. Và tất cả những tôn giáo
cổ, đă suy tàn cùng với sự suy vong của các quốc gia, thậm chí đến những tôn
giáo của những bộ lạc dă man, đều chủ trương rơ rệt sự hiện hữu của những
bậc Siêu Nhân, là những bậc giúp đỡ bằng mọi cách những dân tộc c̣n ấu trĩ
đă sống cùng một thời với các Ngài.
NHỮNG BẰNG CHỨNG GẦN ĐÂY
Gần đây, không thiếu ǵ những điều chứng minh
trực tiếp cho sự hiện diện của các đấng Cao Cả. Trong thuở thiếu thời của
tôi, tôi không cảm thấy cần dùng những sự chứng minh như thế, v́ sự học hỏi
của tôi đă giúp tôi hoàn toàn tin tưởng rằng những đấng Cao Cả ấy có thật.
Theo tôi th́ thật là một sự tự nhiên mà tin nơi sự hiện hữu của nhựng bậc
Siêu Nhân đó, và tôi có cái ư muốn mănh liệt là gặp gỡ các Ngài một cách
trực tiếp. Tuy nhiên, có nhiều người trong số những tân hội viên Thông Thiên
Học muốn biết những bằng chứng về điều đó. Xin nói ngay rằng bà Blavatsky và
Đại tá Olcott (là những nhà sáng lập Hội Thông Thiên Học), bà Annie Besant
và chính tôi đều đă thấy một vài vị trong các đấng Cao Cả đó; những hội viên
Thông Thiên Học khác cũng đă có cái ân huệ nh́n thấy một hay hai vị Chân Sư.
Về điều nầy, người ta có thể t́m thấy nhiều chứng minh cụ thể trong những
tác phẩm của các vị mà tôi vừa kể trên.
Có người cho rằng những kẻ nh́n thấy – hay
tưởng tượng rằng họ nh́n thấy các đấng Chân Sư – có thể chỉ là nằm mơ hay là
bị một ảo ảnh.Có điều chắc rằng chúng tôi rất ít khi nh́n thấy các Ngài
trong những khi mà, như các Ngài, chúng tôi c̣n ở trong xác thân. Trong
những thuở ban đầu của hội Thông Thiên Học, khi mà chỉ có một ḿnh bà
Blavatsky mở đặng năng khiếu thần thông, th́ các Chân Sư thường hay hiện
h́nh để cho mọi người đều thấy đặng các Ngài.
Người ta có thể t́m thấy nhiều bằng chứng về
điều nầy trong lịch sử thuở ban đầu của Hội Thông Thiên Học:những đấng Cao
Cả xuất hiện như thế, tự nhiên không phải là ở trong xác thân Ngài, mà đó
chỉ là một sự hiện h́nh.
Nhiều người trong chúng ta nh́n thấy các Ngài
một cách thường xuyên và đều đều trong giấc ngủ. Trong khi ngủ chúng tôi
xuất vía (hay đi bằng thể Trí, tùy tŕnh độ tiến hóa của mỗi người) để đến
viếng các Ngài và chúng tôi nh́n thấy các Ngài trong thể xác, nhưng khi đó
chúng tôi không c̣n ở trong xác thân và v́ đó, ở cơi trần, người ta hay có
sự nghi ngờ về loại kinh nghiệm nầy. Họ phản đối rằng: “Trong trường hợp đó,
anh đă ở ngoài xác thân và bởi đó, có thể anh đă nằm mơ hay là bị một ảo
ảnh: hoặc là những người mà anh nh́n thấy đă xuất hiện như một cái bóng rồi
lại biến mất. Làm sao anh biết chắc rằng đó là đức Thầy?”.
Có một vài trường hợp mà Chân Sư và người nh́n
thấy Ngài đều ở trong thể xác. Đó là trường hợp của bà Blavatsly; tôi đă
nghe bà chứng minh rằng bà đă từng sống một thời gian trong một đạo viện ở
xứ Népal, tại đây bà thấy ba vị trong các đấng Chân Sư, luôn luôn ở trong
thể xác của các Ngài. Một vài vị trong số đó đă nhiều lần xuống núi từ những
đạo viện của các Ngài trong dăy Hy-Mă-Lạp-Sơn để vào tận xứ Ấn Độ. Đại tá
Olcott thuật lại rằng ông thấy hai vị Chân Sư trong những dịp vừa kể trên đó
là đức Chân Sư Morya và đức Chân Sư Kuthumi. Sư huynh Damodar K. Mavlankar,
mà tôi được quen biết hồi năm 1884, đă gặp Chân Sư Kuthumi trong thể xác của
Ngài. Ngoài ra c̣n có trường hợp của sư huynh S.Ramaswamilyer, mà tôi rất
quen biết thời kỳ đó, đă có dịp gặp Chân Sư Morya bằng thể xác, và người ta
có thể đọc bài tường thuật về việc nầy nhan đề là:”Bằng
cách nào một đệ tử đă gặp Chân Sư” trong quyển “5
năm với giáo lư Thông Thiên Học”. Ông W,T.Brown, thuộc chi bộ Luân Đôn,
cũng đă có diễm phúc gặp một trong những đấng Cao Cả đó trong những hoàn
cảnh tương tự. Ngoài ra, c̣n có rất nhiều chứng minh của các vị sư huynh
người Ấn Độ, không hề được góp nhặt hoặc kiểm điểm lại, v́ lư do chánh là
các vị đă từng có được sự kinh nghiệm đó đều hoàn toàn tin tưởng nơi sự hiện
diện của các bậc Siêu Nhân và việc có thể gặp gỡ các Ngài, đến nỗi họ không
thấy cần phải ghi chép những sự kinh nghiệm cá nhân như thế.
SỰ KINH NGHIỆM CÁ NHÂN CỦA TÔI
Về phần tôi, tôi có thể thuật lại hai lần tôi
đă gặp đặng Chân Sư, trong khi Ngài và tôi đều ở trong thể xác. Một vị là
đấng Chân Sư mà người ta mệnh danh là Jupiter trong quyển sách nhan đề “Những
tiền kiếp của Alcyone”, chính Ngài đă giúp đỡ bà Blavatsky rất nhiều để
viết một vài phần của bộ sách nầy tại Philadelphie và New-York. Khi tôi c̣n
ở tại Adyar, Ngài đă có ḷng tốt mà khiến vị sư huynh đáng kính của tôi là
T. Subba Rao hăy dắt tôi đến viếng Ngài. Vâng lời Ngài dạy, chúng tôi lên
đường đến nơi đạo viện của Ngài, và được Ngài tiếp đón rất lịch sự. Sau một
cuộc nói chuyện dài và vô cùng lư thú, chúng tôi được hân hạnh dùng cơm với
Ngài mặc dù Ngài thuộc giai cấp Bà-la-môn, và trải qua một đêm với nửa ngày
hôm sau dưới mái nhà của Ngài. Trong trường hợp này người ta sẽ nh́n nhận
rằng không thể có vấn đề ảo tưởng. C̣n vị Chân Sư thứ nh́ mà tôi đă có cái
hạnh phúc được gặp là Chân Sư Bá Tước Saint-Germain, có khi người ta gọi
Ngài là Hoàng tử Rakoczy. Tôi gặp Ngài trong những dịp rất thông thường,
không có hẹn nhau trước, và như có vẻ t́nh cờ, trong khi Ngài đi bộ chơi ở
đường phố Corso tại La mă và phục sức như một người trưởng giả nước Ư. Ngài
đưa tôi vào khu vườn trên đồi Rincio và Ngài với tôi cùng ngồi đàm đạo trên
một giờ về Hội Thông Thiên Học và công việc của Hội; có lẽ tôi nên nói rằng
chính Ngài nói và tôi ngồi nghe th́ đúng hơn, và trả lời khi Ngài hỏi.
Tôi thấy có những vị nhân viên khác của Quần
Tiên Hội trong nhiều dịp khác nhau. Lần đầu mà tôi gặp một vị trong các Ngài
là ở một khách sạn tại Cairo; trong dịp đó, tôi đi qua Ấn Độ cùng với bà
Blavatsky và những người khác, và chúng tôi ghé lại thủ đô Ai Cập trong ít
lâu. Chúng tôi có thói quen hay tựu họp trong pḥng bà Blavatsky để làm
việc; hôm ấy tôi ngồi bệt xuống sàn, cắt và dán những bài báo mà bà muốn cất
để dành. Bà th́ ngồi ở một bàn gần đó, cánh tay trái của tôi đụng vào áo dài
của bà. Cánh cửa pḥng ở ngay trước mặt chúng tôi vẫn khép chặt trong lúc
đó. Th́nh ĺnh, không có ǵ chuẩn bị trước, tự nhiên có một người đứng sững
giữa bà Blavatsky và tôi, mà chúng tôi có thể sờ mó được. Tôi giựt nảy ḿnh
và tỏ vẻ luống cuống. Bà Blavatsky lấy làm thú vị lắm và bảo tôi: “Nếu anh
không đủ sự hiểu biết để giữ b́nh tĩnh trước một sự nhỏ nhặt như thế, th́
anh sẽ không đi xa trên đường Huyền Môn!”. Tôi được giới thiệu cho người
khách lạ, vị nầy lúc đó chưa phải là một Chân Sư, nhưng một vị La Hán, c̣n
dưới các Chân Sư một bậc. Tới nay, vị ấy đă trở nên Chân Sư Djwal-Kul.
Vài tháng sau đó, một ngày nọ đức Chân Sư Morya
đến thăm chúng tôi. Ngài có cái h́nh dáng bề ngoài như một người thường với
thể xác vật chất. Ngài đi qua gian pḥng của tôi để đến gặp bà Blavatsky lúc
ấy đang làm việc trong pḥng bà. Đó là lần đầu tiên mà tôi thấy Ngài một
cách rơ ràng, v́ hồi đó tôi chưa khai mở đầy đủ những năng khiếu tiềm tàng
để nhớ lại những ǵ tôi thấy trong cái thể thanh của tôi. Một lần khác, tôi
thấy đức Chân Sư Kuthumi trong những trường hợp tương tự trên nóc trụ sở
trung ương của Hội Thông Thiên Học tại Adyar. Lúc đó Ngài đang bước qua một
hàng rào lan can, dường như Ngài vừa hiện h́nh từ khoảng trống không ở bên
kia hàng rào. Tôi cũng đă nhiều lần thấy đức Chân Sư Djwal-Kul với một
dáng
điệu như vậy ở trên nóc trụ sở đó.
Những sự chứng minh vừa kể trên có vẻ ít giá trị hơn, v́ các vị Chân Sư xuất
hiện như những h́nh bóng. Nhưng từ khi đó, tôi đă tập sử dụng tự do những
thể thanh cao của tôi và đến viếng các vị Chân Sư bằng cách đó, nên tôi có
thể chứng thật rằng những vị đă hiện h́nh cho chúng tôi thấy trong những năm
đầu tiên của Hội Thông Thiên Học, chính là những vị Chân Sư mà tôi vẫn
thường thấy trong những đạo viện của các Ngài. Có người cho rằng, cũng như
những người khác đă cùng có sự kinh nghiệm đó, tôi chỉ là nằm mơ, v́ những
cuộc thăm viếng nói trên đă xảy ra trong giấc ngủ của xác thể. Tôi chỉ có
thể đáp lại rằng đó là một giấc mơ trường cửu một cách lạ lùng, và trong
trường hợp riêng của tôi, nó đă kéo dài trên 40 năm, và đồng thời có một số
đông người cũng đă có kinh nghiệm giống như thế!
Tôi xin mời những ai muốn có những sự chứng
minh về vấn đề này (và sự muốn đó rất là hợp pháp), hăy tra cứu những tài
liệu sách vở có từ lúc khởi đầu thành lập Hội Thông Thiên Học. Những người
có dịp gặp bà Hội Trưởng của chúng ta (bà Annie besant) có thể được nghe bà
thuật lại có tất cả bao nhiêu vị Chân Sư mà bà đă gặp trong nhiều dịp khác
nhau. Nhiều hội viên của chúng ta cũng sẽ không ngần ngại mà chứng minh rằng
họ đă thấy một vị Chân Sư; có thể trong cơn tham thiền họ đă thấy dung nhan
của Ngài và sau đó, đă có bằng chứng chính xác rằng đó là vị nào. Ngoài ra,
người ta sẽ t́m thấy nhiều chứng minh trong bộ sách "Nhựt kư" của Đại tá
Olcott, hay trong quyển sách nhan đề: "Các
Chân Sư có thật không?" mà tác giả là ông M.A.O.Hume, ông này trước kia
đă từng có một địa vị cao trong ngành Hành Chánh ở Ấn Độ và đă từng hợp tác
nhiều với vị nguyên Phó Hội Trưởng của chúng ta, ông A.P.Sinnett. Việc nầy
đă được công bố trong quyển "Thông
Thiên Học bí truyền". Ông Hume, một người Anh lai Ấn Độ, tính đa nghi,
với một tâm hồn tích cực của một luật gia, đă đích thân mở một cuộc điều tra
về sự hiện diện của các Chân Sư, (mà có khi người ta gọi là những bậc Anh Cả
v́ các Ngài thuộc về nhóm Quần Tiên Hội và là những bậc Anh Cả của Nhân
Loại). Dẫu rằng ở vào thời kỳ xa xăm đó, ông Hume cũng đă kết luận rằng ông
đă thu thập được những bằng chứng không thể chối căi về sự hiện diện của các
Ngài. Lẽ tất nhiên sau nầy c̣n có nhiều bằng chứng khác nữa đă chồng chất
thêm kể từ khi ông viết quyển sách đó.
Nhờ có được nhăn quang siêu linh và những năng
khiếu khác do sự phát triển những quyền năng tiềm tàng, mà chúng tôi được
kinh nghiệm một cách thường xuyên rằng ngoài ra con đường tiến hóa của nhân
loại, c̣n có những con đường tiến hóa khác và trong số đó có những bậc ngang
hàng với các vị Chân Sư, thuộc về cấp đẳng sinh hoạt cao hơn chúng ta. Chúng
tôi đă gặp một vài vị mà ta gọi là Thiên Thần, và những vị khác tiến hóa cao
hơn chúng ta nhiều về đủ mọi phương diện.
SỰ TIẾN HÓA CỦA VẠN VẬT
Từ khi chúng tôi có thể giao tiếp với các vị Chân Sư trong thời gian phát
triển của chúng tôi, tự nhiên là chúng tôi đă hỏi các Ngài, với tất cả tấm
ḷng thành kính, rằng bằng cách nào các Ngài đă đạt tời tŕnh độ ấy? Các
Ngài đều trả lời rằng cách đây không lâu các Ngài cũng đă từng ở vào tŕnh
độ tiến hóa của chúng ta bây giờ. Các Ngài đă bước ra khỏi hàng ngũ của nhân
loại và một vị trong các Ngài đă nói rằng một ngày kia chúng ta cũng sẽ trở
nên như các Ngài vậy; rằng toàn thể Thái Dương Hệ của chúng ta là một biểu
lộ của sự sinh hoạt, tiến hóa từ tŕnh độ thấp đến cao và càng lên cao măi,
vượt khỏi sự hiểu biết của con người, cho đến quả vị Thiêng Liêng.
Lúc bắt đầu sự tiến hóa của vạn vật, có những
giai đoạn rơ rệt, loài thảo mộc là loài kết tinh của loài kim thạch, loài
cầm thú tiếp diễn sau loài thảo mộc, và loài người tiếp theo sau loài cầm
thú. Cũng như thế, loài người có một cứu cánh nhất định, một cái giới hạn mà
khi họ vượt qua th́ họ bước sang một giai đoạn cao hơn một cách rơ rệt, tức
là: trên loài người c̣n có những bậc Siêu nhân loại.
Trong khi nghiên cứu hệ thống tiến hóa đó,
chúng ta được biết rằng trong mỗi người đều có ba phần chánh: xác thân, linh
hồn và Tinh Thần, mỗi phần như thế lại có thể chia ra làm nhiều chi nhánh
khác. Đó là sự định nghĩa con Người, mà Thánh Paul đă đưa ra cách đây 2.000
năm. Tinh Thần hay là Nhứt Nguyên Chơn Thần (Monade)
là hơi thở của Thượng Đế (v́ danh từ
spirit (Tinh thần) gốc do chữ la
tinh spiro,có nghĩa là hơi thở),
tức là điểm linh quang của Thượng Đế, và là con Người thật, mặc dầu người ta
có thể diễn tả đúng hơn là nó phảng phất ở trên đầu con người. Chương tŕnh
tiến hóa của nó là phải giáng xuống cơi vật chất, để thu hoạch những kinh
nghiệm rơ ràng và minh bạch trong mọi chi tiết về vật chất. Theo chúng tôi
được biết, điểm Chơn Thần đó, tức là một điểm linh quang của Thượng Đế,
không thể giáng xuống thấp đến cơi trần là nơi chúng ta đang tư tưởng và
hoạt động. Đó là bởi v́ cái tỷ lệ rung động của nó khác biệt quá nhiều với
tỷ lệ rung động của vật chất, và bởi đó phải có những trạng thái vật chất
trung gian. Cái điểm linh quang đó vốn có tự cơi nào trong thiên nhiên, điều
đó chúng tôi không được biết, v́ nó vượt quá tầm hiểu biết của con người. Sự
biểu lộ thấp hơn của Chơn Thần, mà người ta có thể gọi là sự phản chiến của
điểm linh quang của Thượng Đế, giáng xuống cơi thấp nhất trong các Cơi của
vũ trụ, như chúng tôi đă nói trong quyển "Thông Thiên Học dẫn giải".
Chúng ta thường nói 7 cơi trong thiên nhiên,
tức là cơi vật chất của Vũ Trụ. Chơn Thần có thể giáng xuống cơi thứ 2 của
những cơi nầy, tức là cơi mà ta gọi là Cơi Chơn Thần, nhưng nó dường như
không thể xuống thấp hơn nữa được. Để có sự tiếp xúc cần thiết với cơi vật
chất nặng trọc hơn nữa, nó tự phân thân ra một phần xuyên qua hai cơi và
phần đó tức là cái mà ta gọi là Chơn Nhơn hay Linh hồn.
Tinh thần của Thượng Đế, cao hơn cái Phàm Nhơn
của ta nhiều, phảng phất ở trên. Linh hồn ta chỉ là một phần yếu đuối và thô
thiển của nó, có thể gọi là một đầu của ngón tay bằng lửa mà Chơn Thần chỉ
xuống cơi chúng ta. Chính linh hồn cũng không thể giáng xuống thấp hơn cái
phần trên của cơi Thượng giới - cơi thứ 5 kể từ cơi trên hết, cơi trần là
cơi thứ 7 và cơi thấp nhất - và, để có thể xuống một vị trí thấp hơn, nó
phải chiết ra một phần của nó, phần này trở nên cái phàm nhơn mà chúng ta
được biết. Như thế, cái phàm nhơn đó, mà mỗi người trong chúng ta tưởng là
chính ḿnh, thật ra chỉ là một phần của một mảnh.
Mọi sự tiến hóa trải qua những loài thấp thỏi
trong cơi thiên nhiên đều có một mục đích là chuẩn bị sự phát triển của
thành phần con người. Một con thú, trong cuộc sống ở cơi trần, và ít lâu sau
ở cơi trung giới, có một linh hồn cũng riêng biệt và độc lập như linh hồn
con người. Linh hồn đó không tái sinh trở lại trong một thể xác riêng biệt,
nó trở lại một kho vật chất tinh anh mà giáo lư Thông Thiên Học gọi là "hồn
khóm" (Âme-groupe). "Hồn khóm" đó
ví như một hồ nước, đem sự sống đến cho nhiều con thú đồng một loài, thí dụ
như 20 con ngựa. Khi một con ngựa sắp do hồn khóm đó mà sinh ra th́ sự vật
diễn ra như thể người ta đem một cái b́nh vào trong hồ nước để múc đầy b́nh
đem ra ngoài. Trong một kiếp sống của con ngựa, nó thu thập được mọi sự kinh
nghiệm làm thay đổi linh hồn của nó và do đó nó học được những bài học nhất
định; những bài học đó có thể ví như những thuốc nhuộm với nhiều màu sắc
riêng biệt được trộn vào cái b́nh đầy nước. Khi con ngựa chết linh hồn nó
trở về hồn khóm, ví như nước trong b́nh được đổ vào cái hồ nước trở lại và
những màu trong b́nh nước ḥa lẫn trong hồ. Nếu một con ngựa khác cũng do
một hồn khóm sinh ra, th́ phần nước tượng trưng cho linh hồn của nó, và đổ
vào một b́nh khác, không thể giống như phần nước tượng trưng cho con ngựa
trước.
Khi một con thú đă phát triển đầy đủ để có thể
trở nên người, th́ sau khi chết, linh hồn nó không c̣n trở về hồn khóm nữa,
mà thành một cá tính riêng biệt. Và khi đó, mới diễn ra một sự kiện vừa lạ
lùng vừa tốt đẹp. Cái tinh hoa của linh hồn đó, tượng trưng bằng nước trong
b́nh, trở nên một cái thể hoạt động cho một cái ǵ cao hơn nhiều, thể hiện
cho một đời sống thanh cao hơn. Chúng ta không có một thí dụ đúng đắn nào ở
cơi trần để diễn tả điều đó, trừ ra cái thí dụ đúng đắn nào ở cơi trần để
diễn tả điều đó, trừ ra cái thí dụ bơm không khí vào chất nước bằng áp lực
mạnh để làm nước sủi bọt có chất hơi. Nếu ta chấp nhận cái biểu tượng đó,
chất nước tượng trưng cho linh hồn con thú, nay đă trở nên cái thượng trí
của một người, và chất không khí bơm vào nước tức là cái Chơn Nhơn mà tôi đă
có dịp nói qua, cái Linh hồn con người, biểu lộ Tinh Thần của Thượng Đế.
Việc linh hồn giáng trần được tượng trưng trong truyện Thần thoại cổ Hy Lạp
bằng biểu tượng cái Chén. Cái Chén là sự tượng trưng toàn hảo của cơ tiến
hóa hạ tầng, trong đó được rót chất rượu của sự sống thiêng liêng, để linh
hồn người có thể sinh ra. Như chúng tôi đă nói, linh hồn con thú trước kia
nay trở nên thể thượng trí con Người, cái Thể nầy vốn ngự tại phần trên của
cơi Thượng giới, tức là cái thể bất diệt trường cửu của Chơn Nhơn hay Linh
hồn người. Tất cả những bài học đă thâu thập được trong giai đoạn tiến hóa
đầu tiên của các h́nh thể, lúc ấy mới được chuyển qua cái trung tâm sinh
hoạt mới nầy.
Sự tiến hóa của linh hồn tức là sự tuần tự trở
về một cơi giới siêu việt thanh cao, ở ngay dưới cơi Chơn Thần, nó đem theo
những kết quả của sự giáng Trần, dưới h́nh thức những kinh nghiệm và đức
tánh đă thâu thập được.
Cái thể xác của chúng ta đă hoàn toàn phát
triển, và như thế, chúng ta đáng lẽ phải làm chủ nó; nhưng chúng ta chỉ thật
sự làm chủ nó khi nào xác thân được hoàn toàn đặt dưới sự kiểm soát của linh
hồn. Nói chung th́ sự kiểm soát đó đă được thực hiện trong những giống dân
tiến hóa của nhân loại hiện thời, tuy rằng có lúc thân xác cũng c̣n quật
khởi trở lại. Thể Vía cũng đă hoàn toàn phát triển, nhưng nó hăy c̣n lâu mới
được đặt dưới sự hoàn toàn kiểm chế của chúng ta. dẫu cho trong những giống
dân tiến hóa, mà chúng ta là những phần tử, người ta hăy c̣n thấy có nhiều
người bị lệ thuộc những t́nh cảm của chính họ. Thay v́ họ chủ trị những cảm
xúc đó theo ư muốn, họ lại thường khi bị những cảm xúc đó chế ngự họ. Họ để
cho những điều xúc cảm của họ chạy loạn xạ, như một con ngựa rừng chạy lồng
lên v́ sợ hăi, chở người kỵ mă trên lưng nó đi đến những nơi mà y không hề
muốn đến.
Người ta có thể nói rằng đối với những phần tử
tốt của những giống dân tiến hóa nhất hiện thời,
th́ xác thân của họ đă phát triển hoàn toàn và được kềm chế, c̣n thể Vía của
họ cũng phát triển không kém, nhưng chưa được chủ trị. Thể Trí của họ c̣n
đang phát triển, nhưng chưa được đầy đủ. Bởi đó họ c̣n phải cố gắng nhiều
trước khi ba thể Xác, Vía và Trí hoàn toàn chịu khuất phục linh hồn. Khi nào
điều ấy được thực hiện, th́ cái Chơn Tánh con người sẽ thu hút được phàm
tánh, và Chơn Nhơn, hay Linh Hồn, sẽ chủ trị được Phàm Nhơn. Mặc dầu con
người vẫn chưa được hoàn toàn, những Thể của nó đă được khá thuần nết để chỉ
c̣n theo đuổi có một mục đích duy nhất mà thôi.
Từ trước đến giờ, linh hồn đă cố gắng từ từ và
chậm chạp để kiểm soát những Thể riêng của nó cho đến khi ḥa hợp với chúng
làm một. Sau đó, đến lượt Chơn Thần phải làm chủ Linh Hồn và sẽ đến một thời
kỳ mà Chơn Thần với Linh Hồn sẽ hỗn hợp làm một, cũng như Phàm Nhơn hiệp
nhứt với Chơn Nhơn. Đó tức là Chơn Nhơn hiệp nhứt với Chơn Thần. Khi nào kết
quả đó được thành tựu, th́ con người sẽ đạt được cái mục đích của sự Nhập
Thế: y sẽ trở nên một bậc Siêu Nhân, tức một vị Chơn Tiên vậy.
ĐỜI SỐNG SIÊU NHÂN LOẠI
Đến khi đó, lần đầu tiên, con người mới bước vào đời sống thật sự, v́ cái Cơ
Tiến hóa vĩ đại đó, trước hết trải qua các loài sinh hoạt thấp thỏi và sau
đó trải qua loài người cho đến các bậc Siêu Nhơn loại, chỉ là một cuộc chuẩn
bị cho đời sống thật sự của Tinh Thần, nó chỉ bắt đầu khi con người đă vượt
khỏi tŕnh độ làm người. Nhân loại là lớp học cuối cùng của trường đời ở thế
gian và khi nào con người đă hoàn thành sự học hỏi của y ở dưới Trần th́ y
mới bước vào đời sống thật sự, đời sống của Tinh Thần đến lúc vinh quang,
hay đời sống của Đấng Christ. Đời sống đó như thế nào, chúng ta chưa thể
biết được, mặc dầu chúng ta thấy những vị đă từng sống cuộc đời đó, đó là
một đời sống huy hoàng và tốt đẹp không có ǵ so sánh được, và thậm chí nó
vượt quá tầm hiểu biết của chúng ta. Tuy nhiên, nó là một sự thật sống động
và sâu xa mà sau cùng mỗi người trong chúng ta sẽ có được một cách tuyệt đối
chắc chắn. Chúng ta không thể tránh khỏi cái đời sống đó, dù chúng ta muốn.
Khi chúng ta hành động ích kỷ và đi ngược gịng tiến hóa, chúng ta sẽ làm
chậm trễ sự tiến bộ của ḿnh, nhưng rốt cuộc chúng ta không thể chận đứng
trào lưu tiến hóa.
Sau khi đă giải thoát khỏi kiếp sống làm người,
bậc Toàn Thiện thường bỏ lại những Thể vật chất của Ngài, nhưng Ngài vẫn giữ
cái quyền năng khoác lấy bất cứ một Thể nào nếu Ngài xét thấy cần dùng cho
công việc của Ngài. Trong đa số trường hợp, bậc Siêu Nhân đă đạt tới tŕnh
độ ấy rồi th́ không c̣n cần dùng một thể xác nữa. Ngài không c̣n giữ lại Thể
Vía, Thể Hạ Trí hay đến Thể Thượng Trí, mà sống một cách thường xuyên ở cảnh
giới cao nhất của Ngài. Khi nào, v́ một mục đích ǵ, mà Ngài cần tiếp xúc
với một cơi giới thấp hơn, Ngài phải dùng đỡ một cái Thể tạm thời thuộc về
cơi giới đó, bởi v́ Ngài chỉ có thể tiếp xúc với những người ở cơi đó qua sự
trung gian của vật chất thuộc về cơi giới liên hệ. Nếu Ngài muốn nói chuyện
với người khác bằng phương tiện vật chất, Ngài phải khoác lấy một cái xác
thân; ít nhất Ngài phải có một sự hiện h́nh dù là chỉ có một phần, nếu không
Ngài sẽ không thể nói cho người ta hiểu được.
Cũng như thế, nếu Ngài muốn ghi một ấn tượng
trong Trí của ta, Ngài phải khoác lấy một thể Trí. Bất cứ lúc nào Ngài cần
khoác lấy một hạ thể để làm công việc của Ngài, Ngài có quyền năng để làm
như vậy tùy theo ư muốn, nhưng Ngài chỉ giữ cái Thể đó trong thời gian cần
thiết mà thôi.
Có bảy con đường chờ sẵn bậc Toàn Thiện trong
giai đoạn tiến hóa Siêu Nhân Loại. Chúng tôi sẽ nói đến vấn đề nầu trong một
chương sau.
QUẦN TIÊN HỘI
Thế gian được d́u dắt và điều khiển một phần
lớn do một Hội Quần Tiên mà trong đó các Chân Sư của chúng ta có dự phần.
Những người học Đạo thường có quan niệm sai lầm về các Ngài. Họ thường coi
các Ngài như một nhóm sống chung nhau trong các Đạo Viện
lớn ở một nơi bí mật. Những người khác tưởng
các Ngài là Thiên Thần; nhiều sinh viên Huyền môn của chúng ta tưởng rằng
các Ngài hết thảy đều là người Ấn Độ, hay hết thảy đều ờ trên dăy
Hy-mă-lạp-sơn. Những điều đó không đúng. Những nhân viên Quần Tiên Hội đều
có sự giao tiếp thường xuyên với nhau luôn luôn, nhưng sự giao tiếp đó diễn
ra ở các cơi trên và các Ngài không có nhất thiết phải sống chung với nhau.
Vài vị trong các Ngài, mà chúng ta gọi là các Chân Sư Minh Triết,bằng ḷng
thâu nhận đệ tử để dạy Đạo, và coi đó như một phần công việc của các Ngài.
Nhưng các vị ấy chỉ gồm một thiểu số trng cái thành phần vĩ đại của các bậc
Toàn Thiện.
Các Chơn Tiên đều có nhiều quyền năng kỳ bí,
nhưng hết thảy những quyền năng đó đều phát triển một cách tự nhiên từ những
khả năng mà chúng ta hiện có... Sự thật th́ vị Chơn Tiên có những khả năng
đó ở một mực độ cao hơn ta rất nhiều. Tôi nghĩ rằng cái đặc tính cao quư
nhứt của Chân Sư, so với chúng ta, là Ngài xét mọi vật với một quan điểm
khác hẳn chúng ta, v́ Ngài tuyệt đối không c̣n giữ một dấu vết nào của tư
tưởng ích kỷ nó thường hiện rơ ở đa số người. Vị Chơn Sư đă loại trừ cái Ngă
thấp hèn và sống không phải cho ḿnh, mà cho tất cả. Tuy nhiên với một ư
nghĩa mà chỉ có một ḿnh Ngài có thể hiểu một cách thật sự, cái “tất cả” đó
thật ra không phải cái ǵ khác hơn là Ngài. Ngài đă đạt tới tŕnh độ không
c̣n một mảy may sơ sót trong tánh t́nh, không c̣n một tư tưởng hay t́nh cảm
vị kỷ, và cái động lực duy nhất của Ngài là hợp tác với Thiên Cơ, cùng ḥa
hợp với Đức Thượng Đế điều khiển cơ Tiến Hóa.
Cái đặc tính lộ liễu nhất của vị Chân Sư, sau
cái đặc tính kể trên, là sự phát triển hoàn toàn về cả mọi phương diện. Hết
thảy chúng ta đều bất toàn; không một ai trong chúng ta đă đạt tới cái mức
độ cao tột trên bất cứ một lănh vực nào; thậm chí nhà thông thái hay bậc đại
thánh cũng chỉ đạt tới một cao độ phi thường ở trên một điểm mà thôi, và c̣n
nhiều khía cạnh của tánh chất họ vẫn chưa phát triển. Hết thảy chúng ta đều
có vài mầm mống của vô số những đặc tính, nhưng ở mỗi người, cái mầm đó chỉ
mới thức động có một phần và một cách không đồng đều. Trái lại, một vị Chân
Sư là một người hoàn toàn phát triển về tất cả mọi phương diện, một người mà
ḷng sùng tín, bác ái, thiện cảm và ḷng thương xót chúng sinh đều nảy nở
hoàn toàn. Đồng thời, phần trí tuệ của Ngài là một cái ǵ vượt khỏi tầm hiểu
biết của ta rất xa trong lúc hiện tại, và phần tâm linh của Ngài vô cùng
tuyệt diệu và thiêng liêng. Ngài vượt trội lên hẳn tất cả mọi người mà chúng
ta được biết, bởi v́ Ngài đă hoàn toàn phát triển.
CHƯƠNG II
THỂ XÁC CỦA CÁC CHÂN SƯ
H̀NH DÁNG CỦA CÁC NGÀI
Những người học Đạo thường có một quan niệm mập mờ và không rơ ràng về các
Đấng Chân Sư. Có lẽ chúng tôi sẽ giúp họ nhận định rằng đời sống của các
Ngài là tự nhiên như thế nào, và các Ngài có h́nh dáng về thể chất ra sao,
bằng cách nói vài lời về đời sống hằng ngày và h́nh dáng bề ngoài của một
vài vị Chân Sư. Vị Chân Sư không có một đặc tính nào về thể chất để có thể
phân biệt Ngài với đời thường, nhưng Ngài luôn luôn có cái diện mạo oai
nghiêm, quư phái, hùng dũng, thánh thiện và im lặng, và ai đă gặp Ngài th́
không khỏi nhận ra rằng họ đă đứng trước một người phi thường. Ngài là một
người hùng yên lặng; Ngài chỉ nói khi nào có một mục đích nhất định hoặc để
khuyến khích, giúp đỡ hay ngăn ngừa. Tuy nhiên, Ngài có hảo ư một cách lạ
lùng, và có tinh thần hài hước rất dồi dào, một sự hài hước có thiện cảm
luôn luôn, không bao giờ chạm ḷng người khác, mà luôn luôn để làm nhẹ bớt
những sự khó khăn của đời sống hằng ngày. Đức Chân Sư Morya có lần nói rằng
người ta không thể tiến trẹn đường đạo nếu không có một tinh thần hài hước,
và tôi quả có nhận thấy rằng tất cả các vị Chân Sư mà tôi đă gặp đều có đức
tính đó.
Phần nhiều các vị Chân Sư đều có cái h́nh dáng
bề ngoài tốt đẹp; xác thân của các Ngài được hoàn toàn về đủ mọi phương
diện, v́ các Ngài sinh hoạt hoàn toàn đúng phép dưỡng sinh, và các Ngài
không bao giờ lo lắng ưu phiền về bất cứ một việc ǵ. Tất cả các nghiệp quả
xấu của các Ngài đă dứt tuyệt từ lâu; thể xác của các Ngài là cái thể hiện
rơ ràng của Chơn Nhơn, trong phạm vi giới hạn của cơi Hồng trần. Bởi đó,
không những cái thể xác hiện thời của Chơn Sư thường rất phong nhă tuấn tú,
mà cho đến bất cứ cái thể xác mới nào mà Ngài có thể khoác lấy trong một
kiếp lai sinh, đều có thể sẽ giống hệt như xác thân cũ, ngoại trừ một vài sự
khác biệt về chủng tộc và gia đ́nh, v́ không có ǵ làm thay đổi cái thể xác
đó. Khi v́ một lẽ ǵ mà Chơn Sư quyết định dùng một thể xác mới, th́ nhờ sự
giải thoát khỏi mọi điều trói buộc của nghiệp quả, mà các Ngài có trọn quyền
tự do chọn lựa một thể xác thuận lợi nhứt cho công việc mà Ngài sẽ phải làm.
Bởi lẽ đó, quốc tịch của cái xác thân mới mà Ngài khoác lấy trong một thời
gian nhất định, không phải là điều tối quan trọng.
Muốn biết rơ một người nào có phải là Chân Sư
hay không, cần phải quan sát cái thể Thượng Trí của người ấy v́ sự tiến hóa
của người biểu lộ bằng một Thượng Trí nảy nở rất lớn với những màu sắc đặc
biệt sắp thành nhiều ṿng tṛn cùng một trung tâm như đă phác họa trong bức
h́nh vẽ cái thể Thượng Trí của một vị La Hán, ở trong quyển sách “Con
người, hữu h́nh và vô h́nh”.
MỘT THUNG LŨNG Ở TÂY TẠNG
Có một vùng thung lũng ở Tây Tạng, hiện nay có
ba vị Chân Sư đang sống ở đó là Chân Sư Morya, Chân Sư Kuthumi và Chân Sư
Djwal Kul.
Hai vị Chân Sư Morya và Kuthumi th́ ở trong hai
ngôi nhà ở hai bên thung lũng đối diện với nhau, ở những triền núi hai bên
đều có rừng thông bao phủ, và có một khe suối chảy. Có những con đường ṃn
đưa từ hai ngôi nhà này xuống tận đáy thung lũng, và gặp nhau ở nơi cuối
cùng, tại đó có một nhịp cầu nhỏ bắc ngang qua khe suối. Gần chiếc cầu này
có một con đường hầm nhỏ hẹp đưa đến một hệ thống những động phủ rộng lớn ở
dưới mặt đất, chứa đựng một viện cổ tàng huyền bí dưới sự chăm nom của đức
Chân Sư Kuthumi, nhân danh Quần Tiên Hội.
Viện Cổ Tàng này chứa đựng nhiều tài liệu rất
dồi dào phong phú, dường như là để ghi lại dấu tích toàn thể lịch tŕnh tiến
hóa của con người. Người ta thấy có những h́nh thể, coi tự nhiên như hồi c̣n
sống,
của mỗi loại mỗi kiểu người đă từng sống trên quả Địa
Cầu, từ những giống người Lémurins to lớn có những khớp xương rời rạc lỏng
lẻo đến những giống người lùn, di tích cuối cùng của những giống dân c̣n cổ
lổ hơn và cách xa với nhân loại ngày nay nhiều hơn nữa. Những kiểu h́nh nổi
diễn tả những sự biến đổi kế tiếp nhau của lớp vỏ địa cầu và đặc biệt nhất
là h́nh dáng tổng quát của lớp vỏ địa cầu này trước và sau mỗi kỳ thiên tai
lớn đă gây nên những sự biến đổi đó. Những bản đồ to lớn ghi dấu những cuộc
di chuyển của những giống dân trên địa cầu và chỉ rơ những quăng đường dài
bao xa mà họ đă vượt qua từ những địa điểm xuất phát.
Những bản đồ khác ghi chép ảnh hưởng của các
tôn giáo trên thế gian, chỉ rơ nơi nào mỗi tôn giáo đó được thực hành một
cách nguyên thủy thuần túy, và nơi nào nó bị lẫn lộn với những tàn tích của
những tôn giáo khác.
Những pho tượng lớn bằng h́nh người ghi dấu
h́nh thể của một vài bực lănh tụ và đạo sư của những giống dân cổ đă biệt
tích từ lâu; và nhiều di vật liên hệ đến những trào lưu tiến hóa quan trọng
của nền văn minh nhân loại được giữ ǵn lại cho hậu thế xem xét. Người ta
cũng thấy có những bản thảo bút tự nguyên văn rất cổ xưa và quư vô giá, thí
dụ như một bản bút tự của chính đức Phật viết khi Ngài c̣n là Thái Tử
Sĩ-Đạt-Ta, và một bản khác của đấng Christ viết lúc thiếu thời khi Ngài sinh
ở xứ Palestine. Tại đây cũng được giữ ǵn bản nguyên văn vô giá của bộ Thiên
Thơ (The Book of Dzyan), mà bà Blavatsky đă miêu tả trong đoạn mở đầu bộ
sách “Giáo lư Nhiệm mầu” (Doctrine Secrète). Tại đây cũng có
những sách viết bằng những văn tự lạ lùng,
thuộc về những thế giới khác chúng ta. Cũng có những di tích các h́nh thể
động vật và thảo mộc, một vài thứ rất xưa, đào lên từ dưới đất, c̣n phần lớn
hoàn toàn khác lạ đối với khoa học hiện nay. Những kiểu mẫu của một vài
thành phố cổ xưa thuộc về một thời quá khứ xa xăm đă bị lăng quên trong kư
ức loài người cũng được trưng bày tại đây để dùng cho sự học hỏi của các vị
Đệ tử.
Tất cả những pho tượng và kiểu mẫu đều đượm màu
sắc tự nhiên giống như thật; và tất cả đều đặt chung một chỗ tại đây một
cách hữu ư, để cho hậu thế thấy rơ những giai đoạn tuần tự trước sau của
lịch tŕnh tiến hóa của nhân loại chứ không phải chỉ tŕnh bày có những mẫu
rời rạc, bất toàn, như ở các viện Bảo tàng của thế gian. Tại đó, người ta
cũng thấy những kiểu mẫu của tất cả mọi thứ máy móc cơ khí, sản phẩm của
những nền văn minh khác nhau, cùng là những h́nh ảnh rất dối dào phong phú
cho ta thấy những loại pháp môn phù thủy thông dụng ở những thời kỳ khác
nhau trong lịch sử.
Trong dăy hành lang đưa đến những gian pḥng
rộng răi đó, được ǵn giữ những h́nh nộm sống của những vị đệ tử c̣n đang ở
trong thời kỳ dự bị của hai vị Chân Sư Morya và Kuthumi. Những h́nh nộm đó
được sắp hàng như những pho tượng chung quanh những vách tường và tiêu biểu
cho những vị đệ tử nói trên một cách rất đúng đắn.
Tuy nhiên, người ta không nh́n thấy được những
h́nh nộm đó bằng cặp mắt phàm trần, v́ thứ vật chất thấp thỏi nhất để tạo
nên những h́nh nộm đó là chất dĩ thái.
Gần chiếc cầu, cũng có một ngôi chùa nhỏ với
kiểu nóc nhọn giống như chùa Miến Điện, nơi đó vài người dân làng đến đốt
hương tụng niệm và dưng hoa quả cúng Phật.
Một con đường gồ ghề khúc khuỷu đưa xuống tận
thung lũng bên cạnh gịng suối. Từ hai ngôi nhà của các Chân Sư, người ta có
thể nh́n thấy lẫn nhau; cả hai đều ở trên đối cao hơn chiếc cầu,
nhưng ć chỗ đó gịng suối uốn quanh nên từ
trên cầu, người ta thấy hai nhà đều khuất. Nếu ta theo con đường ṃn ấy lên
tận thung lũng qua khỏi nhà đức Chân Sư Kuthumi, nó sẽ đưa ta đến một ghềnh
đá cao nhô lên, qua khỏi chỗ đó gịng suối lại uốn quanh và không thấy nhà
Chân Sư nữa. Cách xa chỗ ấy một đoạn đường, thung lũng trổ ra một vùng cao
nguyên trên đó có một cái hồ mà tục truyền rằng bà Blavatsky thường tắm ở
đó, và bà thấy rằng nước hồ rất lạnh lẽo. Thung lũng được che khuất và hướng
về phía nam, và mặc dầu vùng chung quanh mùa đông tuyết phủ, tôi không nhớ
rơ thấy có nhà nào ở gần bên nhà của các Chân Sư. Những nhà này được xây
bằng đá một cách rất dày và chắc chắn.
NHÀ CỦA CHÂN SƯ KUTHUMI
Ngôi nhà của đức Chân Sư Kuthumi chia làm hai
phần do một đường hành lang ở giữa. Khi bước vào đường hành lang này, cửa
đầu tiên bên tay mặt đưa đến gian pḥng chính. Chân Sư thường hay ngồi tại
đây.Gian
pḥng này rất rộng và cao, chiếm trọn mặt tiền. Đằng sau gian pḥng này, có
hai buồng khác gần vuông dứt, một buồng Ngài dùng làm thư pḥng, và buồng
kia làm buồng ngủ.
Những gian pḥng đó chiếm trọn một bên dăy hành
lang, h́nh như để dùng làm tư thất của Chân Sư, có một hàng ba rộng răi bao
chung quanh. Phần bên kia của ngôi nhà, ở bên trái dăy hành lang từ cửa bước
vào, h́nh như chia làm nhiều buồng nhỏ hơn và nhiều văn pḥng. Chúng tôi
không có dịp quan sát tỉ mỉ những buồng này, nhưng chúng tôi nhận thấy từ
buồng ngủ đi qua bên này hành lang có một cái buồng tắm.
Gian pḥng lớn có nhiều cửa sổ ở cả mặt tiền và
mặt hậu, dưới các cửa sổ có để một chiếc ghế dài. Có một ḷ sưởi lớn ở giữa
vách tường đối diện với các cửa sổ mặt tiền. Ḷ sưởi đặt nơi đó để có thể
sưởi ấm tất cả ba buồng. và có một nóc che bằng sắt cán mỏng kiểu lạ, mà
người ta nói rằng kiểu độc nhất ở Tây Tạng. Gần bên có chiếc ghế bành của
Ngài, làm bằng gỗ chạm rất xưa, chỗ ngồi êm ái khỏi cần dùng nệm lót. Trong
pḥng có đặt bàn và trường kỷ, phần nhiều không có chỗ dựa, và ở một góc có
đặt một cây dương cầm của Chân Sư, trần nhà cao chừng 7 thước, kèo và cột
chạm trỗ rất đẹp. Buồng ngủ trang hoàng rất giản dị. Có một chiếc giường
treo như cái vơng giữa hai cây đà bằng gỗ chạm, gắn chặt trong vách, một cây
đà chạm h́nh đầu sư tử, một cây chạm đầu voi. Lúc không dùng đến th́ giường
xếp lại vào vách tường.
Thư pḥng là một gian buồng xinh xắn, chứa đựng
hằng ngàn quyển sách. Trên vách có những chiếc kệ rất cao, đựng sách viết
bằng nhiều thứ chữ, trong số đó có những tác phẩm cận đại Âu Châu và ở trên
cao có những kệ đựng những bộ sách cổ viết bằng tay. Chân Sư là một nhà ngôn
ngữ học uyên bác, không những Ngài là một học giả Anh ngữ, Ngài c̣n biết
tiếng Pháp và tiếng Đức một cách tường tận. Thư pḥng c̣n có một cái máy
đánh chữ, do một vị đệ tử tặng cho đức Chân Sư.
Về gia quyến của Chân Sư th́ tôi chỉ biết rất
ít. Trong nhà có một người đàn bà, hiển nhiên là một vị Đệ tử, mà Ngài gọi
bằng chị. Tôi không biết bà ấy có phải là chị ruột Ngài hay không; hoặc bà
có thể là một chị em họ hay một cháu gái. Bà ấy có vẻ già hơn Ngài nhiều,
nhưng không phải v́ thế mà sự liên hệ gia đ́nh nói trên không có được, v́ từ
lâu Ngài có vẻ như không thay đổi về tuổi tác và h́nh dáng bề ngoài. Bà ấy
có hơi giống Ngài đôi chút, và một đôi khi bà cũng góp mặt khi có những cuộc
hội họp tại nhà, mặc dầu công việc chính của bà h́nh như là coi về việc quản
gia và trông nom người làm. Trong số những người giúp việc nhà, có hai vợ
chồng một người lăo bộc ở với Chân Sư từ lâu. Họ không biết ǵ về sự cao cả
của vị chủ nhân họ, nhưng họ coi Ngài như một người chủ rất khoan dung và
khả ái, và lẽ tự nhiên là họ được rất nhiều ân huệ trong khi phụng sự Ngài.
NHỮNG HOẠT ĐỘNG CỦA CHÂN SƯ
Đức Chân Sư có một khu vườn riêng biệt của
Ngài, Ngài cũng có một sở ruộng đất và mướn lao công để trồng trọt. Gần nhà
có những bụi cây trổ bông và những khóm hoa mọc tự do, cùng với những bụi
hoa rừng. Xuyên qua vườn, có một gịng suối nhỏ, và một ghềnh thác với một
nhịp cầu nho nhỏ bắc ngang khe suối...
Đức Chân Sư thường hay ngồi tại đây khi Ngài
ban tư tưởng lành và ân huệ cho những người chung quanh. Nh́n thoảng qua th́
h́nh như lúc đó Ngài chỉ ngồi ngắm cảnh, nghe chim hót hoặc nghe nước suối
chảy dưới khe. Cũng có đôi khi Ngài ngồi yên trên chiếc ghế bành và khi
những người chung quanh Ngài thấy Ngài như thế, họ biết rằng Ngài cần sự yên
tĩnh và không nên quấy rầy; họ không biết rơ Ngài đang làm ǵ, nhưng định
chừng rằng Ngài đang nhập định.Sự kiện rằng người phương Đông hiểu và kính
trọng sự thiền định có thể là một trong những lư do v́ sao các Chân Sư thích
sống ở Đông phương hơn là ở Tây phương.
Như thế chúng ta thấy Chân Sư ngồi im lặng gần
như suốt ngày và nhập định. Nhưng trong khi Ngài h́nh như vô vi bất động như
thế, sự thật Ngài luôn luôn hoạt động không ngừng ở cơi trên; Ngài sử dụng
những sức mạnh thiên nhiên và ban rải ảnh hưởng cùng ân huệ cho hắng ngàn
linh hồn cùng một lúc, ví các Chân Sư là những vị bận rộn nhất trên đời. Tuy
nhiên, Chân Sư cũng làm nhiều công việc thuộc về thế gian; Ngài có soạn ít
nhiều nhạc phẩm và viết nhiều văn thư cùng bài vở với nhiều mục đích khác
nhau. Ngài cũng chú trọng đến sự tiến bộ của khoa học vật lư, mặc dầu đó là
một ngành hoạt động đặc biệt của một trong những vị Chân Sư khác.
Thỉnh thoảng, Chân Sư Kuthumi cưỡi một con ngựa
lớn, và khi các Ngài làm việc chung với nhau, Ngài cùng đi với Chân Sư
Morya, vị này luôn luôn cưỡi một con ngựa bạch tuyệt đẹp.
Ngài thường viếng thăm một vài tu viện, và có khi Ngài cưỡi ngựa lên một
truông núi để viếng một đạo viện hẻo lánh ở trên núi cao. Cưỡi ngựa trong
khi đi làm công việc hằng ngày h́nh như là môn thể dục chính của Ngài, nhưng
có khi Ngài cũng đi bộ với Chân Sư Djwal Kul, vị này sống trong một cái trại
nhỏ mà Ngài tự xây cất lấy, ở gần thung lũng đưa đến vùng cao nguyên.
Đôi khi, Chân Sư đánh đàn dương cầm đặt tại
gian pḥng lớn trong nhà Ngài. Cây đàn này Ngài đặt làm ở Tây Tạng dưới sự
trông nom của Ngài, với tấm bảng nhận nút giống như kiểu đàn bẹn Tây phương,
và Ngài có thể chơi mọi bản nhạc phương Tây. Cây đàn nầy không giống như mọi
cây đàn khác, v́ nó có hai mặt, và người ta có thể chơi đàn hoặc từ pḥng
khách, hoặc từ thư pḥng. Những bản nhận nút có thể dùng chung một lượt hoặc
dùng riêng biệt.
Bằng phương pháp truyền từ điển, Ngài làm cho
cây đàn nầy giao tiếp với các vị Thiên Thần âm nhạc (Gandharvas) để cho khi
nào đánh đàn, th́ có sự hop85 tác của những vị Thiên Thần đó. Bắng cách đó,
Ngài có được một sự phối hợp âm thanh rất huyền diệu khác hẳn âm nhạc của
trần gian.
Khúc ca của Thiên Thần luôn luôn vẫn vang rền
trong Vũ Trụ. Nó vẫn luôn luôn văng vẳng bên tai người thế gian, nhưng họ
không muốn nghe thấy âm thanh kỳ diệu đó. Nó là tiếng sóng gầm dưới biển,
tiếng gió than thở trên nhành cây, tiếng suối chảy trong khe núi, âm nhạc
của gịng sông và thác đổ, cùng với bao nhiêu những âm thanh khác hợp thành
khúc ca hùng mạnh của Thiên Nhiên. Đó chỉ là dư âm trên cơi thế tục, của một
âm thanh huyền diệu hơn, tức là khúc ca của Thiên Thần.
Trong quyển "Ánh
sáng trên đường Đạo" có viết:
"Chỉ có những đoạn rời rạc của khúc ca Huyền
diệu lọt vào tai ngươi trong khi ngươi c̣n là thế tục. Nhưng nếu ngươi lắng
nghe, ngươi hăy nhớ kỹ để không cho mất một âm thanh nào, và cố gắng t́m
hiểu ở đó ư nghĩa của sự huyền diệu nó bao phủ chung quanh ngươi. Trải qua
ḍng thời gian, ngươi sẽ không cần có thầy. V́ cũng như con người có giọng
nói, th́ Vũ Trụ mà y sống trong đó cũng có âm thanh. Sự sống vốn có âm thanh
và không bao giờ im lặng. Âm thanh đó không phải là một tiếng khóc than, như
ngươi có thể tưởng; nó là một tiếng ca thần diệu. Ngươi hăy biết rằng ngươi
là một phần tử của sự ḥa hiệp chung; và ngươi hăy học tuân theo những định
luật của sự điều ḥa trong vạn vật."
mỗi buổi sớm mai, có một số người- không hẳn là
đệ tử, mà là những kẻ theo Ngài- đến nhà của Chân Sư, ngồi ngoài hàng ba và
ngoài ngơ. Đôi khi Ngài dạy họ một vài điều, trong một bài thuyết pháp ngắn;
nhưng thường khi Ngài tiếp tục công việc của Ngài và không chú ư đến họ
ngoài ra ban cho họ một nụ cười thân thiện, mà họ cũng bằng ḷng nhận một
cách vui vẻ. Hiển nhiên là họ đến để được ngồi trong ṿng hào quang của Ngài
và chiêm ngưỡng Ngài. Đôi khi, Ngài dùng cơm trước mặt họ, ngồi ngoài hàng
ba cùng với những người dân Tay Tạng và những người khác ngồi dưới đất ở
chung quanh Ngài; nhưng thường khi Ngài dùng bữa một ḿnh trong pḥng riêng.
Có thể rắng Ngài chỉ dùng bữa ăn ngọ theo luật Nhà Chùa, v́ tôi không nhớ có
thấy Ngài dùng cơm chiều bao giờ. Cũng có thể rằng Ngài không cần ăn mỗi
ngày. Khi Ngài muốn dùng bữa, th́ Ngài dặn người nhà làm những thức ăn mà
Ngài thích, chớ không ăn đúng giờ. Tôi có thấy Ngài dùng những chiếc bánh
nhỏ và tṛn, màu nâu và ngọt; bánh nầy làm bằng bột ḿ, đường và bơ, và là
thứ bánh thường dùng trong nhà, do bà chị của Ngài làm. Ngài cũng dùng cơm
với cari, thứ cari nầy nấu lỏng như súp. Ngài dùng một cái muỗng bằng vàng
kiểu lạ và rất đẹp, cán muỗng có chạm h́nh con voi. Đó là một bửu vật gia
truyền, rất cổ và rất quư. Ngài thường mặc y phục trắng, nhưng tôi không
thấy Ngài đội mũ trên đầu bao giờ, ngoại trừ những dịp rất hiếm có, khi Ngài
mặc áo vàng của phái Gelugpa và đội một cái măo cao, giống như chiếc măo sắt
của người La Mă thời xưa. C̣n Chân Sư Morya thường hay bịt khăn.
NHỮNG NHÀ KHÁC
Nhà của đức Chân Sư Morya ở phía bên kia thung
lũng nhưng ở chỗ đất thấp hơn, ở kế cận ngôi chùa nhỏ và cửa vào những động
đá.Nhà nấy có một lối kiến trúc hoàn toàn khác hẳn, có hai từng, mặt tiền
day ra đường lộ có hàng ba và cửa kiếng. Sự sinh hoạt hằng ngày của Ngài
cũng tương tự như cách sinh hoạt của đức Chân Sư Kuthumi.
Nếu chúng ta noi theo đường lộ bên trái gịng
suối, và đi lên cao lần lần dọc theo bờ thung lũng, chúng ta đi ngang qua
biệt thự và công viên của Chân Sư Kathumi ở bên tay mặt; và lên cao hơn nữa,
ta thấy cùng một bên đường lộ có một cái cḥi nhỏ của Chân Sư Djwal Kul tự
Ngài dựng lên hồi thời kỳ Ngài c̣n là đệ tử, để có chỗ ở và học Đạo gần bên
sư phụ Ngài. Trong cḥi có treo một bức họa do một vị đệ tử người Anh của
đức Chân Sư Kuthumi vẽ lại một quang cảnh hội họp trong gian pḥng lớn tại
nhà Chân Sư Kuthumi, trong đó có nhiều vị Chân Sư và đệ tử tham dự. Bức họa
nầy được vẽ để kỷ niệm một buổi hội họp đặc biệt thú vị và có kết quả rực rỡ
tại nhà Chân Sư.
CÁC CHÂN SƯ THUỘC CUNG SỐ I
Nói về h́nh dáng bề ngoài của các vị Chân Sư,
th́ tùy theo mỗi vị thuộc cung nào, mà xác thân của các Ngài cũng chịu ảnh
hưởng phần nào của cung đó. Cung số 1 có đặc điểm trội nhất là Uy Quyền, và
những người thuộc về cung nầy là những vị Vua Chúa, những nhà lănh đạo,
những nhà cai trị và chỉ huy, trước hết của thế giới tâm linh, và sau nữa
của cơi giới hồng trần. Bất cứ người nào có đến một mực độ phi thường cái
khả năng lănh đạo người khác và hướng dẫn họ một cách khéo léo theo con
đường của ḿnh chọn th́ chắc là người ấy thuộc về cung số 1.
Đó là những đặc tính của Đức Bàn Cổ Vaivasvata,
đấng Cao Cả d́u dắt Giống Dân thứ 5. Ngài cao lớn hơn tất cả các đấng Chân
Sư và có thân h́nh cân đối hoàn toàn. Ngài là Người kiểu mẫu của Giống Dân
thứ 5, và mỗi người của Giống Dân nầy đều là con cháu của Ngài. Đức Bàn Cổ
có một gương mặt rất oai nghiêm, biểu lộ một uy quyền lớn, mũi cao, cặp mắt
màu nâu, một cḥm râu đầy đặn và tướng mạo hùng dũng như tướng sư tử. Bà
Annie Besant tả h́nh dạng Ngài như sau: Ngài cao lớn và hùng vĩ như một vị
Vua, cặp mắt ting anh như mắt phụng, rạng ngời ánh sáng như màu hoàng kim.
Hiện nay, Ngài ở trên dăy Hy-Mă-Lạp-Sơn, cách nhà của Đức Bồ Tát Di Lặc
không xa.
Cùng một phong độ giống như thế là đức Chân Sư
Morya. Ngài sẽ là vị kế nghiệp đức Bàn Cổ Vaivasvata sau này và là vị Bàn Cổ
tương lai của Giống Dân thứ 6. Ngài vốn là một vị Vua xứ Rajputana bên Ấn
Độ. Ngài có một cḥm râu đen chẻ ra làm hai phần, tóc Ngài mầu sậm gần như
đen, xơa xuống tận vai, cặp mắt đen và sáng, đầy vẻ oai nghi. Ngài có oai
phuông của một vị tướng soái. Ngài nói từng câu vắn như ra lệnh, như Ngài
vẫn quen được thiên hạ tuân lệnh một cách mau chóng. Ngài có cái tác phong
uy nghi lẫm liệt, tỏa ra chung quanh Ngài một cái sức mạnh và uy quyền làm
cho người ta phải cung kính rất mực.
Bà Blavatsky thường hay thuật chuyện bà gặp đức
Chân Sư Morya tại công viên Hyde ở Luân Đôn, hồi năm 1851, khi Ngài đến đó
cùng với những ông Hoàng Ấn Độ để dự cuộc Triển Lăm Quốc Tế lần đầu tiên.
Một chuyện lạ, là hồi đó, tuy mới là một đứa trẽ có 4 tuổi, tôi cũng thấy
Ngài, nhưng không hề biết chi cả. Tôi c̣n nhớ được cha tôi dắt đi xem một
cuộc biểu diễn đồ sộ huy hoàng, trong đó có một đoàn kỵ mă Ấn Độ mặc sắc
phục rực rỡ. Đoàn kỵ mă oai nghi hùng dũng, cưỡi những con ngựa rất đẹp; lẽ
tự nhiên tôi nh́n xem mê man, và cho rằng đoàn kỵ mă ấy là một đoàn biểu
diễn đẹp nhất trong cuộc Hội Chợ huy hoàng đó. Trong khi tôi vừa nh́n đoàn
kỵ mă đi qua, vừa nắm lấy bàn tay cha tôi, th́ một người cao lớn trong sồ
những vị anh hùng cưỡi ngựa đó nh́n tôi với cặp mắt đen láy và sáng ngời.
Cái nh́n đó làm cho tôi vừa sợ hăi, nhưng đồng thời cũng vừa làm cho tôi cảm
thấy một nguồn hạnh phúc tràn ngập không thể tả. Đoàn kỵ mă đi qua, tôi
không thấy Người nữa, nhưng h́nh ảnh cái nh́n như chớp nhoáng đó luôn luôn
trở lại với trí nhớ c̣n non nớt của tôi.
Tự nhiên, hồi đó tôi không biết Ngài là ai, và
có lẽ tôi không bao giờ có thể nhận ra Ngài, nếu Ngài không nhắc lại việc đó
với tôi nhiều năm về sau. Một ngày nọ nhân lúc nói chuyện trước mặt Ngài về
những thuở ban đầu của Hội Thông Thiên Học, tôi t́nh cờ nói rằng lần đầu
tiên tôi có cái diễm phúc được gặp Ngài trong thể xác, là trong dịp Ngài đến
viếng bà Blavatsky ở Adyar, để giúp thêm sức và đưa cho bà một vài chỉ
thị.Lúc ấy Ngài đang nói chuyện với vài vị Chân Sư khác, bèn day lại bên tôi
một cách đột ngột và nói: "Không, đó không phải là lần đầu tiên. Con có nhớ
chăng khi c̣n là một đứa trẻ nhỏ, con có xem đoàn kỵ mă Ấn cưỡi ngựa đi qua
vườn Hyde Park, và lúc đó chính Ta đă để ư đến con?" Tôi sực nhớ ra ngay, và
nói: "Bạch Sư Phụ, Người kỵ mă ấy là Sư Phụ hay sao? Lẽ ra con phải biết
ngay từ khi đó," Tôi không nhắc đến việc này khi kể lại nhựng việc gặp gỡ
Chân Sư trong xác phàm của Ngài v́ hối đó tôi không biết rằng người kỵ mă ấy
chính là đức Sư Phụ, và cũng bởi v́ lời chứng minh của một đứa trẻ con có
thể là không có giá trị bao nhiêu.
Một nhân vật khác cũng có cái phong độ đế vương
là đức Bàn Cổ Chakshusha, vị Bàn Cổ của Giống Dân thứ 4. Ngài là người Trung
Hoa, thuộc giai cấp rất quư phái. Ngài có lưỡng quyền cao như người Mông Cổ,
và gương mặt có vẻ như một pho tượng tạc bằng ngà. Ngài thường mặc áo dài
thêu chỉ vàng óng ánh rất đẹp. Theo lệ thường, chúng tôi không có tiếp xúc
với Ngài trong công việc hằng ngày, trừ khi nào chúng tôi có dịp săn sóc một
vị Đệ Tử thuộc về Giống Dân của Ngài.
CÁC CHÂN SƯ THUỘC CUNG THỨ 2
Đức Di-Lặc-Bồ-Tát (Maitreya), vị Chưởng Giáo
của thế gian, và vị phụ tá chính của Ngài là đức Chân Sư Kuthumi có một đặc
điểm trội nhất là toàn thân các Ngài tỏa ra một ḷng Bác Ái vô biên bao trùm
tất cả muôn loài. Hiện thời, Đức Di-Lặc-Bồ-Tát có cái xác thân thuộc về
chủng tộc Celte, nhưng khi Ngài lâm phàm để dạy dỗ nhân loại trong tương lai
gần đây như Ngài đă định, th́ Ngài sẽ dùng một xác thân đă chuẩn bị sẵn của
một trong các vị đệ tử của Ngài. Gương mặt Ngài có một vẻ đẹp phi thường,
đầy nghị lực nhưng cũng không kém nét ḥa nhă, tóc Ngài màu vàng đỏ xơa
xuống vai; cḥm râu dài như người trong bức tranh cổ. Cặp mắt Ngài màu tím
rất đẹp, giống như hai cái bông nhỏ, sáng như sao, trong như mặt hồ phẳng
lặng với một niềm an tịnh trường cửu. Nụ cười của Ngài thật hiền lành khôn
tả; toàn thân Ngài tỏa ra một hào quang sáng chói, chiếu diệu một ánh sáng
màu hồng rất đẹp, mà các đấng Cao Cả biểu hiện lóng bác ái vẫn thường có.
Ngài thường ngồi trên gian pḥng chính của nhà
Ngài trên dăy Hy-Mă-Lạp-Sơn, có nhiều cửa sổ trổ ra vườn và dưới chân núi
là miền đồng bằng bao la của xứ Ấn Độ. Ngài mặc
áo dài trắng có nẹp vàng, thường dạo chơi trong vườn buổi chiều gió mát,
giữa những khóm hoa tỏa ra trong không khí một mùi hương thơm dịu.
Ngài có cái cốt cách phi thường không thể tả,
v́ toàn thân Ngài toát ra một ḷng bác ái bao la đem nguồn an ủi cho hằng
triệu chúng sinh. Giọng nói của Ngài thốt ra những giáo lư đem lại sự b́nh
yên cho cả Thiên Thần và
thế gian, và t́nh thương của Ngài sẽ được ban rải cùng khắp tất cả những nơi
tối tăm đau khổ.
Mong rằng chúng ta hăy chuẩn bị để đón rước
Ngài khi Ngài lâm phàm và để phụng sự Ngài với tấm ḷng trung kiên và thành
kính.
Đức Chân Sư Kuthumi
hiện thân là một người Bà la Môn xứ Cachemire, nước da trắng như người Âu.
Ngài cũng có mớ tóc xơa xuống vai, đôi mắt Ngài màu xanh, đầy vẻ an lạc và
t́nh bác ái. Râu tóc Ngài màu nâu chiếu ánh vàng dưới ánh mặt trời. Gương
mặt Ngài thật khó tả, thường hay đổi sắc thái khi Ngài mỉm cười; mũi thẳng,
mắt lớn và xanh biếc. Cũng như đức Chưởng Giáo, Ngài là một nhà đạo sư và
pháp sĩ, văn hiền thế kỷ trong tương lai, sẽ thừa kế đức Bồ Tát ở ngôi vị
tối cao của Ngài. Ngài sẽ đảm nhiệm chức vụ đức Chưởng Giáo của thế gian, và
trở nên vị Bồ Tát của Giống Dân thứ 6.
NHỮNG CHÂN SƯ THUỘC CÁC CUNG KHÁC
Đức Văn Minh Đại Đế (Mahachohan) thuộc về Cung
của nhà Chánh trị, nhà Tổ chức, mặc dầu Ngài cũng có nhiều đức tính của bậc
quân nhân. Ngài có cái xác thân của người Ấn Độ, cao và hơi gầy, với nét mặt
như tượng tạc trong đá, nhẵn nhụi không để râu. Gương mặt cứng rắn, cằm
vuông, đầy nghị lực, cặp mắt sắc xảo như thấu rơ mọi sự. Ngài nói một cách
vắn tắt như vị tướng quân ra lệnh. Ngài thường mặc áo dài theo kiểu Ấn Độ và
bịt khăn trắng.
Đức Chân Sư Bá Tước St. Germain có nhiều điểm
giống đức Văn Minh Đại Đế. Mặc dầu vóc ḿnh Ngài không cao lớn , Ngài có tác
phong của một vị quân nhân. Ngài có cái lễ độ và uy nghi của một vị lănh
chúa của thế kỷ 18; người ta nhận ngay ra rằng Ngài thuộc về một gia đ́nh
quư phái rất cổ xưa. Ngài có đôi mắt lớn màu nâu, chứa đầy vẻ dịu dàng hài
hước, với ít nhiều nét uy quyền; và cái tác phong oai nghi của Ngài bắt buộc
người ta phải vâng lời. Gương mặt Ngài nước da hơi sậm như màu trái ô liu;
vừng tóc màu nâu của Ngài chia làm hai phần từ vầng trán trải ngược ra phía
sau, bộ râu ngắn và dụm lại dưới cằm. Ngài thường mặc một bộ đồng phục màu
sậm, buộc dâ vàng, và điều này làm nổi bật sự oai vệ sẵn có của Ngài. Ngài
thường ở lại một ṭa lâu đài cổ ở vùng Đông Âu, thuộc sở hữu của gia đ́nh
Ngài từ nhiều thế kỷ.
Đức Chân Sư Sérapis thân h́nh cao, nước da
trắng. Ngài sinh trưởng ở xứ Hy Lạp, mặc dầu công việc của Ngài thuộc về địa
phận xứ Ai Cập. Gương mặt Ngài rất nhă nhặn và có vẻ khắc khổ.
Đức Chân Sư Vénitien có lẽ là vị khôi ngô tuấn
tú nhất tất cà các Đấng Cao Cả trong Quần Tiên Hội. Ngài có vóc vạc rất cao,
một cḥm râu dài và tóc ánh vàng như của đức Bàn Cổ, cặp mắt xanh. Mặc dầu
Ngài sinh trưởng ở thành phố Venise gia đ́nh Ngài có gịng máu gothique
trong huyết quản.
Đức Chân Sư Hilarion là người Hy Lạp. Ngài có
một vừng trán thấp và rộng, giống như pho tượng Hermès của Praxitèles. Ngài
cũng rất khôi ngô, và có vẻ trẻ hơn phần nhiều các vị Chân Sư khác.
Đức Chân Sư Jésus hiện nay có cái xác thân
người Syrie. Ngài có nước da sậm, đôi mắt đen và râu đen của người Ả Rập,
thường mặc áo rộng và bịt khăn trắng. Ngài là
Đức Thầy của những người sùng tín, đặc điểm của Ngài là sự thanh khiết và
sùng tín vô biên, không hề có sự ǵ làm chướng ngại. Ngài sống trong bộ lạc
Druises ở núi Liban.
Có hai vị Chân Sư mà chúng tôi được gặp, hơi
khác về h́nh dáng bề ngoài với những đấng Cao cả khác. Một trong hai vị ấy
là đức Chân Sư Agastya, có nhiệm vụ coi sóc về phần tiến hóa tinh thần của
xứ Ấn Độ. Đại Tá Olcott có viết về Ngài nhiều lần; Ngài chính là vị Chân Sư
đă được mệnh danh là Jupiter trong quyển sách: “Con
người, từ đâu đến và sẽ đi về đâu?” Ngài có h́nh dáng thấp hơn phần
nhiều các vị Chân Sư khác trong Quần Tiên Hội, và là vị duy nhất, mà tôi
nhận thấy tóc đă điểm bạc. Ngài có vẻ quắc thước, và đi đứng mau lẹ, mau mắn
như một quân nhân. Ngài là một địa chủ có nhiều đất ruộng; trong một dịp khi
tôi và Đại Đức T.Subba Rao đến viếng Ngài, tôi thấy Ngài nhiều lần bàn tính
công việc với những kẻ bộ hạ, h́nh như là những tá điền, đến phúc tŕnh công
việc và nhận chỉ thị của Ngài. C̣n vị thứ hai là Chân Sư Djwal Kul, Ngài vẫn
c̣n mang cái xác phàm cũ trong đó Ngài đạt quả vị Chơn Tiên (Asekha) cách
đây không bao lâu. Ngài có gương mặt của người Tây Tạng, với lưỡng quyền
cao, và đă có những nét biểu lộ sự già nua.
Đôi khi một vị Chơn Tiên muốn có một xác thân
để dùng tạm thời giữa cảnh náo nhiệt của thế gian v́ một mục đích đặc biệt.
Đó sẽ là trường hợp khi đức Chưởng Giáo lâm phàm, và chúng tôi được cho biết
rằng khi đó nhiều vị Chân Sư khác có thể xuất hiện để làm những vị Phụ tá,
trợ giúp Ngài trong công việc giúp đỡ nhân loại.
Phần nhiều những vị Chân Sư đó sẽ noi theo
gương của đức Chưởng Giáo và sẽ dùng tạm xác thân của những vị Đệ Tử, và như
thế, một số những xác thân đó cần phải được chuẩn bị sẵn cho các Ngài sử
dụng. Đôi khi các sinh viên Huyền Môn đặt câu hỏi rằng v́ các Chân Sư đă có
mang xác phàm, th́ tại sao các Ngài lại c̣n cần dùng những xác phàm khác
trong dịp này.
NHỮNG THỂ XÁC KIỆN TOÀN
Những đấng Cao Cả sau khi đạt quả vị Chơn Tiên,
chọn lựa con đường ở lại thế gian để trức tiếp giúp đỡ sự tiến hóa của Nhân
loại, nhận thấy cần giữ lại xác phàm để tiện lợi cho công việc của các Ngài.
Để cho thích ứng với mục đích phụng sự của Chân Sư, những xác phàm đó phải
là một loại đặc biệt khác thường. Không những chúng phải tuyệt đối lành mạnh
về sức khỏe, mà c̣n phải hoàn toàn biểu lộ chơn nhơn trên một mực tối đa mà
nó có thể biểu lộ dưới thế gian.
Sự cấu tạo một xác thân như thế không phải là
chuyện dễ dàng. Khi linh hồn của một người thường chuyển tiếp đầu thai vào
cái xác thân mới của một hài nhi, th́ y nhận thấy xác thân này chịu ảnh
hưởng của một vong linh giả tạo do nghiệp quả của y gây ra. Vong linh đó bận
rộn tạo nên cái h́nh hài của xác thân sẽ sinh ra trên thế gian, và sau khi
sinh ra, nó c̣n tiếp tục sự nhồi nắn h́nh hài đó cho đến khi xác thân đứa
trẻ được 6 hay 7 tuổi. Trong thời kỳ đó, linh hồn lần lần tiếp xúc chặt chẽ
hơn với những thể mới của nó, tức là những thể Trí, thể Vía và thể Xác, và
trở nên quen thuộc với những Thể này. Nhưng trong nhiều trường hợp, linh hồn
không có ảnh hưởng bao nhiêu đối với những Thể mới, trước khi cái vong inh
giả tạo rút lui. Linh hồn tự nhiên là có liên lạc với Thể Xác, nhưng thường
chỉ chú ư rất ít đến Thể Xác đó, và chớ đến khi nào Thể Xác này đến thời kỳ
khả dĩ đáp lại những cố gắng của nó.
Trường hợp của một vị Chơn Tiên th́ khác hẳn.
V́ một đấng Chơn Tiên không c̣n phải trả nghiệp quả xấu, nên không có vong
linh giả tạo nào hoạt động: Chơn nhơn tức Linh Hồn của Ngài tự lănh phần
trách nhiệm coi sóc sự phát triển của Thể Xác ngay từ lúc đầu, và chỉ bị hạn
chế bởi huyết thống di truyền của Thể Xác ấy mà thôi. Điều này giúp cho việc
cấu tạo nên một Thể Xác tinh anh và tế nhị hơn nhiều, nhưng cũng gây thêm sự
khó khăn cho Chơn nhơn và làm tiêu hao rất nhiều thời giờ và nghị lực của nó
trong nhiều năm. V́ lẽ đó, và cũng v́ những lư do khác nữa, mà một vị Chơn
Tiên không muốn tái diễn cái công tŕnh khó nhọc này ngoài sự tối cần thiết,
và bởi đó ngài làm cho Thể Xác của Ngài kéo dài sự sống của nó càng lâu càng
hay. Những Thể Xác của chúng ta trở nên già nua và chết đi v́ nhiều lư do
khác nhau, như sự yếu đuối di truyền từ cha mẹ, bệnh tật , tai nạn,sự vô
tiết độ, sự ưu phiền và làm việc quá sức. Nhưng trong trường hợp của một vị
Chơn Tiên th́ những nguyên nhân kể trên đều hoàn toàn không có, và ta nên
nhớ rằng Thể Xác của Ngài có sức hoạt động và sức chịu đựng dẻo dai nhiều
hơn bội phần của người thường.
Xét v́ Thể Xác của các vị Chơn Tiên có những
đặc tính như đă kể trên, nên các Ngài thường có thể duy tŕ Thể Xác ấy và
sống lâu ơn người thường rất nhiều. V́ lẽ đó, xác phàm của các Ngài thường
có một tuổi tác lớn hơn rất nhiều mặc dầu h́nh dáng bề ngoài xem có vẻ trẻ
trung, lâu già. Thí dụ như đức Chân Sư Morya có cái h́nh dáng của một người
vào độ 35 đến 40 tuổi: nhưng theo những chuyện mà các vị đệ tử thuật lại về
cuộc đời của các Ngài, th́ tuổi Ngài có lẽ lớn hơn gấp bốn hay năm lần như
thế, và chính bà Blavatsky đă nói rằng khi bà thấy Ngài lần đầu tiên hồi bà
c̣n nhỏ, th́ Ngài vẫn có cái dung mạo giống y hệt như bây giờ.
Đức Chân Sư Kuthumi cũng có vẻ đồng một lứa
tuổi với bạn Ngài là Chân Sư Morya: nhưng người ta nói rằng Ngài có thi lấy
một bằng cấp Đại Học ở Âu Châu vào khoảng giữa thế kỷ trước, như vậy chắc
chắn là Ngài đă hơn một trăm tuổi. Hiện thời chúng ta không thể biết các
Ngài có thể kéo dài sự sống của xác phàm đến một giai đoạn tuổi là bao
nhiêu, mặc dầu có những bằng chứng chỉ rằng các Ngài có thể sống lâu hơn gấp
đôi số tuổi trung b́nh 70 của một kiếp người.
Một Thể Xác được cấu tạo bằng cách đó để dùng
làm công việc của cơi trên, tất nhiên là rất nhạy cảm, và bởi lẽ đó, nó cần
được săn sóc cẩn thận chu đáo nếu muốn cho nó luôn luôn khỏe mạnh. Thể Xác
ấy có thể hư hoại như xác phàm của chúng ta, nếu nó phải chịu bao nhiêu va
chạm phũ phàng, và những sự rung động nặng nề xấu xa của thế gian. Bởi lẽ
đó, các đấng Cao Cả thường hay sống cuộc đời ẩn dật, và ít khi xuất hiện nơi
chốn phiền ba náo nhiệt của đời sống hằng ngày. Nếu các Ngài xuất hiện trong
những Thể Xác như thế giữa sự tọc mạch hiếu kỳ và những cảm xúc mănh liệt
của người đời, là những điều rất có thể xảy ra khi đức Chưởng Giáo lâm phàm,
th́ chắc chắn là những thể xác đó sẽ bị tàn tạ rất mau chóng, và cũng v́ bởi
chúng rất vô cùng nhạy cảm, nên có thể chịu nhiều sự đau đớn vô ích.
MƯỢN THỂ XÁC
Bằng cách mượn tạm Thể Xác của một vị đệ tử,
đức Chân Sư tránh được những điều bất tiện kể trên, và đồng thời giúp thêm
một cái đà rất mạnh cho sự tiến hóa của vị Đệ tử. Ngài chỉ dùng thể xác ấy
khi cần dùng, hoặc để thuyết pháp, hoặc để ban một nguồn ân huệ đặc biệt; và
khi Ngài đă làm xong điều Ngài muốn, th́ Ngài rời khỏi thể xác ấy. Khi đó
th́ vị đệ tử nhập trở lại vào thể xác của ḿnh, và Chân Sư cũng nhập vào Thể
Xác của Ngài để tiếp tục công việc giúp đỡ thế gian. Bằng cách đó, công việc
thường nhựt của Ngài sẽ không bị ảnh hưởng bao nhiêu; tuy nhiên, luôn luôn
Ngài có sẵn dưới tay một thể xác mà Ngài có thể tạm dùng để hợp tác khi cần,
trong công việc của đức Chưởng Giáo trên thế gian.
Chúng ta có thể tưởng tượng điều đó sẽ ảnh
hưởng như thế nào đến ngưới Đệ tử, khi vị này được cái vinh dự lớn lao là
đưa thể xác của ḿnh cho Chân Sư dùng tạm. Một cơ hội to tát như thế thật là
một sự giúp đỡ cho người Đệ tử chớ không phải một điều bất lợi; và trong khi
thể xác của y được sử dụng, vị Đệ tử có cái diễm phúc được thấm nhuần luồng
từ điển thiêng liêng của đức Chân Sư. Y phải túc trực sẵn sàng một bên để
trở về cái xác phàm của ḿnh sau khi Chân Sư đă dùng xong.
Phương pháp mượn tạm một thể xác thích nghi
luôn luôn được các Chân Sư áp dụng khi các Ngài thấy cần xuất hiện dưới thế
gian trong t́nh trạng hiện thời. Đức Phật Thích Ca đă dùng phương pháp ấy
khi Ngài xuất thế để đạt quả vị Phật, và đức Bồ Tát Di Lặc (Maitreya) cũng
vậy, khi Ngài đến viếng xứ Palestine cách đây 2000 năm. Một trường hợp ngoại
lệ duy nhất mà tôi được biết là khi một vị Bố Tát kế nghiệp chức vụ một đức
Chưởng Giáo sau khi vị này đă thành Phật, th́ trong dịp xuất hiện lần đầu
tiên dưới thế gian với chức vụ đó, Ngài đầu thai và sinh ra như một đứa hài
nhi, theo phương pháp thai sinh thông thường. Đó chính là trường hợp của vị
đương kim Bồ Tát, khi Ngài chuyển kiếp làm Shri Krishna ở vùng đồng bằng Ấn
Độ, và được người Ấn tôn thờ với một ḷng sùng tín mănh liệt vô song trên
thế gian.
Người ta không nên lầm lộn việc dùng tạm thể
xác của một vị đệ tử với việc sử dụng vĩnh viễn một thể xác được chuẩn bị
sẵn cho một nhân vật tiến hóa cao. Các vị đệ tử của bà Blavatsky, nhà sáng
lập Hội Thông Thiên Học chúng ta, tin rằng sau khi bà từ trần, bà liền nhập
vào thể xác
của một người khác vừa bỏ trống. Tôi không được
biết rơ cái thể xác đó có được chuẩn bị cho bà dùng hay không, nhưng có
những trường hợp khác nó được chuẩn bị sẵn. Trong những trường hợp này, luôn
luôn có ít nhiều sự khó khăn là làm sao cho thể xác ḥa hợp thích ứng với
nhu cầu và tánh chất của người sử dụng nó; và rất có thể sự ḥa hợp đó không
bao giờ được hoàn toàn. Linh hồn sắp sửa trở xuống thế gian được chọn lựa
trong hai điều; một là: dành rất nhiều thời giờ và công lao để trông nom sự
cấu tạo một thể xác mới, thể xác này sẽ là một sự biểu lộ hoàn toàn con
người thật của y ở cơi hồng trần; và hai là: tránh được tất cả sự phiền phức
đó bằng cách nhập vào thể xác có sẵn của một người khác. Phương pháp này sẽ
giúp cho y có được một thể xác khá tốt để dùng vào mọi mục đích thông
thường, nhưng nó sẽ không bao giờ thi hành một cách hoàn toàn đủ mọi phương
diện những điều mà y mong muốn. Trong mọi trường hợp, một vị Đệ tử tự nhiên
ước muốn có cái hân hạnh giao thể xác của ḿnh cho Chân Sư dùng tạm, nhưng
thật ra ít có những thể xác được hoàn toàn tinh khiết để được sử dụng như
thế.
Một câu hỏi thường được nêu ra, là tại sao một
vị Chân Sư, mà công việc hầu như hoàn toàn thuộc về các cơi trên, lại cần
dùng một thể xác phàm trần? Việc này thật ra không phải là việc của chúng ta
can dự vào, nhưng nếu bàn về điều này không phải là phạm thượng và bất kính,
th́ có nhiều lư do được đưa ra. Đức Chân Sư phí nhiều th́ giờ của Ngài để
ban rải những nguồn ân huệ cho thế gian. Mặc dầu những nguồn ân huệ này
thường được phát ra từ cơi Thượng Thiên hay từ cơi trên nữa, đôi khi Ngài
cũng rải những nguồn thần lực thuộc về chất dĩ thái hồng trần. Bởi đó, viêc
sử dụng một xác phàm tất nhiên là một điều tiện lợi. Phần nhiều các Chân Sư
mà tôi đă thấy ở cơi phàm trần đều có vài đệ tử hoặc thinh văn cùng sống
chung, hoặc ở gần các Ngài; do đó việc sở hữu một xác phàm có thể là một
điều hữu ích cho các Chân Sư dùng để tiếp xúc với họ. Dầu sao, ta có thể tin
chắc rằng khi một vị Chân Sư quyết định dùng một thể xác hồng trần th́ hẳn
là Ngài có một lư do chánh đáng. Chúng tôi cũng được hiểu biết ít nhiều về
những phương pháp làm việc của các Ngài để có thể quả quyết rằng các Ngài
làm tất cả mọi việc với mục đích thu hoạch kết quả tối đa, bằng những phương
tiện làm tiêu hao sinh lực một cách tối thiểu.
PHẦN THỨ HAI
CÁC VỊ ĐỆ
TỬ
CHƯƠNG III
CON ĐƯỜNG
ĐƯA ĐẾN CHÂN SƯ
VÀO CỬA ĐẠO
Từ bao giờ vẫn có một Tổ Chức gồm các vị Chơn
Tiên, Đại Thánh gọi là nhóm Quần Tiên Hội. Từ bao giờ vẫn có những vị đă
thông hiểu mọi sự và đạt được Minh Triết, và trong số những vị tiêu biểu cho
những bậc Thánh Nhân, Hiền Triết đó, có những vị Chân Sư của chúng ta. Một
phần của kho tàng Minh Triết mà các Ngài đă thu thập trải qua nhiều thế hệ
vô biên, nay được đưa ra cống hiến cho người thế gian dưới cái tên là Thông
Thiên Học. Ngoài ra c̣n một phần được ǵn giữ, chưa được tiết lộ, c̣n quan
trọng hơn nhiều. Có người nói với đức Thầy Kuthumi về sự thay đổi lớn mà
giáo lư Thông Thiên Học và thuyết Luân Hồi đă đem lại cho cuộc đời của họ,
th́ đức Thầy mỉm cười đáp rằng: “Lẽ tự nhiên; nhưng chúng tôi chỉ mới hé mở
có một góc tấm màn bí mật của Thiên Cơ mà thôi”. Khi chúng ta đă hoàn toàn
thấm nhuần giáo lư đưa đến cho chúng ta và sống với những giáo lư đó, th́
Quần Tiên Hội sẽ vén tấm màn kia thêm một ít nữa; nhưng điều này sẽ không
thực hiện trước khi chúng ta làm tṛn những điều kiện kể trên.
Những người nào mong muốn hểu biết thêm và tiến
đến gần Chân Sư, th́ Đường Đạo sẽ mở cho họ. Người ấy chỉ có thể đến gần
Chân Sư bằng cách trở nên vị tha cũng như các Ngài vậy, bằng cách quên bản
ngă của ḿnh và tự hiến ḿnh trọn vẹn cho công việc phụng sự nhân loại, như
các Ngài đă làm. Quan niệm của Chân Sư hoàn toàn khác hẳn quan niệm của
chúng ta đến nỗi ta khó mà hiểu được Ngài ngay từ lúc đầu. Cũng như chúng
ta, các Ngài có những sự thương mến riêng tư, và tự nhiên cũng có khi các
Ngài thương người nọ nhiều hơn người kia; tuy nhiên không bao giờ các Ngài
để cho những t́nh cảm riêng tư đó ảnh hưởng, dầu là rất ít, đến thái độ của
các Ngài đối với công việc chung. Các Ngài chịu phí công lao khó nhọc để
giúp đỡ một người nào nếu các Ngài thấy ở nơi người ấy có những triển vọng
lớn lao về tương lai; nếu các Ngài xét rằng tiêu phí th́ giờ và sinh lực để
giúp đỡ y cũng như một cuộc bỏ vốn đầu tư có lợi. Các Ngài tuyệt nhiên không
hề có một mảy may thiên vị một người nào. Các Ngài chỉ nghĩ đến công việc
phải làm, công việc tiến hóa chung, và xét giá trị của một người tùy theo sự
liên hệ của y đối với công việc đó. Bởi vậy, nếu chúng ta tự luyện ḿnh cho
có đủ khả năng tham dự vào công việc đó, th́ chúng ta sẽ tiến hóa rất mau.
TÁNH
CÁCH VĨ ĐẠI CỦA CÔNG VIỆC PHỤNG SỰ THIÊN CƠ
Ít người nhận thức được tánh cách vĩ đại của
một công cuộc như thế, và sự nghiêm trọng của nó đến bực nào, khi họ muốn
được thu nhận làm đệ tử. Các Chân Sư ảnh hưởng đến toàn thể địa cầu bằng
những luồng thần lực rất lớn; các Ngài ảnh hưởng đến hằng triệu người xuyên
qua thể Thượng Trí của họ. Từ trên cơi giới Bồ Đề, các Ngài nâng cao một
cách liên tục không gián đoạn, mặc dầu điều này rất ít khi nhận thấy được,
những thể Thanh của những người thế gian trên một quy mô rộng lớn. Tuy
nhiên, mặc dầu Chân Sư làm công việc đó hằng ngày, đôi khi Ngài cũng tạm
ngưng công việc để săn sóc một vị đệ tử trong những chi tiết nhỏ nhặt. Vậy
những ai là người dám xin làm đệ tử, hăy thử nhận định cái tánh cách kinh
thiên vĩ địa của những nguồn thần lực vận chuyển và của công việc liên hệ,
cũng như của những đấng Cao Cả mà họ định tiếp xúc. Một sự hiểu biết tối
thiểu về điều này sẽ giúp cho họ hiểu rằng tại sao các Chân Sư không thể
tiêu phí một phần sinh lực, dầu là ít oi, của Ngài để giúp cho một đệ tử,
trừ phi Ngài có thể hy vọng rằng trong một thời gian không lâu, vị đệ tử đó
sẽ trợ giúp thêm một luồng sinh lực và quyền năng đáng kể theo chiều hướng
và mục đích giúp đỡ nhân loại. Các Chân Sư sống để thực hiện công tŕnh của
đức Thái Dương Thượng Đế, và những ai là người muốn đến gần các Ngài. Phải
tập bắt chước các Ngài bằng cách hiến dâng trọn vẹn cuộc đời của ḿnh vào
công việc đó. Người nào làm được như thế sẽ không khỏi hấp dẫn sự chú ư của
những đấng Cao Cả và sẽ được các Ngài huấn luyện để giúp đỡ và ban ân huệ
cho thế gian.
Sự tiến hóa của nhân loại tuy chậm chạp nhưng
diễn ra một cách thường xuyên: do đó sồ người trở nên toàn thiện cũng tăng
thêm không ngừng, và bất cứ người nào sẵn sàng đảm đương lấy sự cố gắng lớn
lao cần thiết, cũng có thể đạt tới tŕnh độ của những người toàn thiện đó.
Trong lúc b́nh thường chúng ta cần phải trải qua nhiều kiếp luân hồi trước
khi đạt tới quả vị Chơn Tiên; nhưng trong giai đoạn này, chúng ta có thể hối
thúc sự tiến hóa của chúng ta trên đường Đạo đưa tới quả vị đó, thu gọn chỉ
trong vài kiếp một cuộc tiến hóa đáng lẽ ra phải kéo dài đến hằng ngàn muôn
năm. Đó là sự cố gắng mà hiện nay nhiều hội viên Hội Thông Thiên Học đang
theo đuổi; v́ trong Hội ấy có một Trường Bí Giáo dạy cho họ biết cách tự
chuẩn bị mau chóng hơn cho một công việc tinh thần về sau. Sự chuẩn bị đó
đ̣i hỏi một sự tự chủ rất lớn, một cố gắng nhất định, theo dơi trong nhiều
năm liên tiếp và thường không có hiển hiện kết quả bao nhiêu để cho ta thấy
rơ sự tiến bộ đă thu hoạch được. Thật vây, sự chuẩn bị đó gồm có sự tinh
luyện các thể thanh cao nhiều hơn là thể xác hồng trần, và sự tiến bộ của
những thể thanh cao đó thường không biểu lộ rơ rệt ở cơi phàm trần.
Người nào đă nghe nói đến Chân Sư và giáo lư
của các Ngài và nhận định được ít nhiều tánh cách thâm sâu cùa giáo lư đó,
thường có một sự mong ước sâu xa muốn hiểu biết và phụng sự các Ngài. Họ
càng học hỏi, và thấm nhuần bao nhiêu cái mỹ lệ, lộng lẫy và huy hoàng của
Thiên Cơ th́ họ càng khát khao mong muốn tham dự vào công việc ấy bấy nhiêu.
Ngay từ khi họ nhận định được rằng Thượng Đế có một Cơ Tiến Hóa, th́ họ mong
muốn được hợp tác với Cơ Trời, và ngoài ra không có ǵ có thể làm cho họ
thỏa măn được nữa.
Khi ấy, họ bắt đầu tự hỏi: “Bây giờ, ta phải
làm ǵ?” Câu trả lời là: “Hăy làm việc”. Nghĩa là: Hăy làm việc ǵ mà bạn có
thể làm để giúp đỡ sự tiến hóa của nhân loại, theo đường lối của Chân Sư.
Bạn hăy bắt đầu bằng công việc ǵ mà bạn có cơ hội làm ngay bây giờ, việc ấy
có thể chỉ là một việc nhỏ nhặt tầm thường trước hết. Về sau, khi bạn đă có
được những đức tính cần thiết, bạn sẽ được giao phó phần việc quan trọng
hơn; sau cùng, v́ bạn đă cố gắng không ngừng để cầu tiến đến chỗ chí thiện,
bạn sẽ có được những đức tánh và khả năng nó mở cho bạn bước vào cửa Đạo và
được thâu nhận vào hàng Quần Tiên Hội. Tôi c̣n nhớ lần đầu tiên khi tôi được
cái vinh dự tiếp xúc một cách thân mật hơn với Chân Sư, tôi hỏi Ngài trong
một bức thơ, rằng tôi phải làm ǵ? Ngài trả lời như sau: "Con phải tự t́m
lấy công việc làm hữu ích. Con biết rằng chúng ta đang làm ǵ hiện nay. Con
hăy tự lao ḿnh vào công việc của chúng ta bằng bất cứ cách nào mà con có
thể. Nếu Ta biểu con làm một việc nhứt định, th́ chắc là con sẽ làm ngay;
nhưng trong trường hợp đó, cái nghiệp quả của việc làm sẽ về tay Ta, v́
chính Ta đă biểu con làm việc đó. Con chỉ có được cái nghiệp tốt của sự
thiện chí và sự vâng lời. Tự nhiên nó cũng là một điều có ích, nhưng nó
không phải là thứ nghiệp quả sáng tạo nên một đường lối hành động hữu hiệu.
Ta muốn cho con hăy tự ḿnh hành động, như vậy cái nghiệp tốt của việc làm
sẽ về tay con".
Tôi tưởng mỗi người trong chúng ta đều có thể
áp dụng câu trả lời đó cho chính ḿnh, và nhận định rằng ta không cần phải
đợi cho ai yêu cầu ta làm một việc nào đó, mà hăy tự ḿnh bắt tay vào việc.
Có không thiếu ǵ những công việc phải làm để phụng sự Đạo Lư. Có lẽ vài
người trong chúng ta muốn chọn lấy phần công việc to tát lớn lao nhất; thí
dụ như chúng ta muốn đăng đàn thuyết pháp trước một số cử tọa đông đảo.
Người ta thường thấy có nhiều người sẵn ḷng làm công việc này; nhưng c̣n có
nhiều công việc khiêm tốn nhỏ nhặt trong văn pḥng, cần phải làm để cho Hội
chúng ta được hoạt động trôi chảy, và chúng ta thấy không phải lúc nào cũng
có nhiều người t́nh nguyện làm những việc đó. Ḷng thành kính và yêu mến của
chúng ta đối với các Chân Sư khiến cho chúng ta sẵn ḷng làm bất cứ việc ǵ
để phụng sự các Ngài, dầu là việc nhỏ mọn đến đâu; và chúng ta có thể tin
chắc rằng chúng ta phụng sự các Ngài khi chúng ta làm việc để giúp đỡ Hội
Thông Thiên Học mà hai vị Chân Sư đă sáng lập.
QUYỂN SÁCH "DƯỚI CHÂN THẦY"
Những đức tánh mà người đệ tử cần phải thu
hoạch được trong giai đoạn đầu của đường Đạo, để được thâu nhận vào Quần
Tiên Hội đều có được chỉ định rơ ràng và đại cương vẫn không thay đổi, tuy
rằng chúng được người ta gọi dưới những danh từ khác nhau trong ṿng 25 thế
kỷ vừa qua. Những đức tính đó được tŕnh bày một cách mới mẻ và giản dị nhất
trong quyển sách nhỏ của ông Krishnamurti nhan đề: "Dưới Chân Thầy". Mặc dầu
quyển sách nhỏ này do ông Krishnamurti đưa ra cho thế gian; những lời lẽ
trong đó hầu hết là của đức Chân Sư Kuthumi. Tác giả viết trong lời mở đầu:
"Những lời này không phải của tôi, đó là của đức Sư Phụ đă dạy tôi".
Khi quyển sách được viết xong, xác thân của vị
đệ tử c̣n trẻ này mới có mười ba tuổi, và theo dự định của Chân Sư th́ những
sự hiểu biết cần thiết cho sự Điểm Đạo cần phải được chỉ dạy cho vị đệ tử ấy
trong một thời gian tối thiểu. Những lời lẽ được chép lại trong quyển sách,
chính là những lời lẽ mà Chân Sư đă dùng với mục đích thu gọn toát yếu của
giáo lư cần thiết dưới h́nh thức vắn tắt và giản dị nhất. Nếu không có
trường hợp đặc biệt này, th́ có lẽ chúng ta không bao giờ có được một sự
tŕnh bày giản dị, gọn gàng mà lại đầy đủ và rơ ràng như thế. Nhiều quyển
sách đă được viết ra, kể từng chi tiết những giai đoạn của con đường dự bị
nhập môn, và ư nghĩa đúng đắn của những danh từ Nam phạn (Pali) và Bắc phạn
(Sanskrit) dùng trong đó đă gây nên nhiều cuộc tranh luận sôi nổi.
Nhưng trong quyển sách nhỏ này, Chân Sư đă loại bỏ
những điều rườm rà và chỉ đưa ra cái tinh hoa của giáo lư bằng cách dùng
những câu văn mới mẻ hợp thời và theo sát cách sinh hoạt của chúng ta hiện
nay. Thí dụ, Ngài dịch bốn đức tánh
Viveka, vairagya, Shatsampati và
Mumukshutva như là Phân biện, Vô dục (dứt bỏ), Hạnh kiểm tốt và Bác ái.
Không có từ điển nào diễn dịch chữ
Mumukshutva thành ra chữ Bác ái, v́ chữ Phạn đó có nghĩa là: "ư
muốn giải thoát". H́nh như Chân Sư cho rằng sự mong muốn giải thoát tức
là muốn thoát khỏi mọi sự trói buộc của thế gian để cho, dầu cho ta có sống
giữa chốn trần ai, ta cũng vẫn có thể hoàn toàn ung dung tự tại. Một sự dứt
khoát như thế, ta chỉ có thể đạt tới bằng sự hợp nhất với Thượng Đế mà
Thượng Đế tức là Bác ái. Chỉ có bằng cách để cho ḷng Bác ái Thiêng liêng
thấm nhuần con người của chúng ta, ta mới có thể đạt tới sự giải thoát.
Không có quyển sách nào tŕnh bày những đức
tánh trên đường Đạo một cách tốt đẹp và rơ ràng bằng quyển sách này, và ta
có thể nói quả quyết rằng bất cứ người nào thực hành trọn vẹn giáo lư trong
đó, chắc chắn là sẽ vượt qua cửa Điểm Đạo ngay tức khắc. Đây là một trường
hợp vô cùng đặc biệt mà Chân Sư bỏ ra nhiều thời giờ của Ngài để dạy trực
tiếp một người, nhưng chính nhờ ông Krishnamurti mà giáo lư của Ngài được
hấp thụ bởi hằng muôn người khác, và đă giúp đỡ nhân loại đến một mực độ
không thể đo lường được.
Quyển sách nhỏ này được viết ra bằng cách nào?
Câu chuyện cũng khá giản dị. Mỗi đêm, tôi phải đưa em bé Krishnamurti trong
Thể Vía của em đến nhà Chân Sư, để được thụ huấn Ngài. Chân Sư bỏ ra độ mười
lăm phút mỗi đêm để nói chuyện với em, nhưng sau mỗi buổi nói chuyện, Ngài
luôn luôn tóm tắt những điểm chính của câu chuyện trong một câu, hoặc vài
câu để làm một bài toát yếu mà Ngài lập lại cho em nghe một lần nữa, để cho
em học thuộc ḷng. Buổi sáng khi thức dậy, em nhớ và viết lại bài học trong
đêm đó. Quyển sách gồm có những câu văn đó, tóm tắt giáo lư của Chân Sư, do
Ngài đặt và bằng những lời lẽ của Ngài thốt ra. Em Krishnamurti viết lại
những câu văn đó một cách chăm chỉ, v́ tŕnh độ Anh văn của em hồi đó chưa
được khá lắm. Em nhớ thuộc ḷng tất cả những điều đă học, và không bận rộn
lắm với những chương mà em đă chép. Sau đó ít lâu, em đi Bénarès cùng với bà
Annie Besant. Tại đó, em viết thơ về Adyar, yêu cầu tôi thâu lượm và gởi cho
em những trang giấy mà em đă chép lại lời dạy của Chân Sư. Tôi sắp lại những
trang giấy đó và đem đánh máy.
Lúc ấy, tôi nghĩ rằng v́ đó hầu hết là những
lời dạy của Chân Sư, th́ tốt hơn là tôi nên kiểm điểm lại cho khỏi bị sơ
sót. Bởi đó, tôi mới đem bản đánh máy mà tôi vừa hoàn thành, cho đức Thầy
Kuthumi và yêu cầu Ngài vui ḷng đọc lại.
Ngài đọc qua, sửa một vài chữ, thêm vào đó vài
lời chú thích, và vài câu khác mà tôi nhớ có nghe Ngài nói với Krishnamurti.
Rồi đó, Ngài nói: "Được rồi; vậy là đúng; như vậy được lắm", và Ngài nói
thêm: "Chúng ta hăy tŕnh đức Di Lặc xem".
Xong rồi, Ngài cầm tập bản thảo đó, và cùng tôi
đi đến yết kiến đức Chưởng Giáo. Ngài cũng đọc qua và chấp thuận. Chính đức
Di lặc nói: 'Con hăy cho in tập này thành một quyển sách nhỏ để giới thiệu
Alcyone cho thế gian".Lúc đầu chúng tôi không định giới thiệu em cho người
đời v́ thấy là làm như thế là bất lợi: nó sẽ làm cho một khối tư tưởng của
thế gian tập trung vào một đứa trẻ có 13 tuổi, hăy c̣n cả một sự học vấn
tương lai ở trước mặt nó. Nhưng trong thế giới huyền linh, chúng tôi chỉ
biết vâng lịnh bề trên, và bởi thế quyển sách này được cho in ra một cách
mau chóng.
Tất cả những hậu quả bất lợi mà chúng tôi đă
đoán trước về sự quảng cáo quá sớm cho một đứa trẻ, đă xảy ra như dự tính.
Tuy nhiên, đức Bồ Tát Di Lặc vẫn có lư, và chúng tôi đă lầm lạc; v́ cái ảnh
hưởng tốt đẹp mà quyển sách gây ra cho thế gian nhiều hơn gấp bội phần những
sự phiền phức mà nó đem đến cho chúng tôi. Thật vậy hằng ngàn người đă viết
thơ cho chúng tôi biết cuộc đời họ đă thay đổi như thế nào, và sau khi đọc
quyển ấy, th́ họ thay đổi quan niệm về sự vật thế gian như thế nào. Quyển
sách ấy đă được dịch ra 27 thứ tiếng; tái bản ít nhất 40 lần, nếu không
nhiều hơn; và in ra trên 100.000 quyển. Nhờ nó, người ta đă làm được một
công việc tốt đẹp, và trên hết, nó có sự ưng thuận của đức Chưởng Giáo của
thế gian, và chính điều đó làm cho nó có giá trị nhứt.
Ngoài ra, c̣n có những quyển sách khác rất hữu
ích cho người sinh viên muốn bước chân vào đường Đạo; đó là những quyển:
"Tiếng nói vô thinh" và "Ánh sáng trên đường Đạo". Những quyển "Trước thềm
Thánh Điện" và "Con đường của người Đệ Tử" của bà Annie Besant đều có giá
trị rất lớn.
THÁI ĐỘ CỦA NGƯỜI ĐỆ TỬ
Sau khi đă có những quyển sách kể trên, người
học Đạo không c̣n nghi ngờ ǵ nữa về công việc mà y phải làm. Lẽ tất nhiên,
y phải hướng mọi cố gắng về hai mục đích đặc biệt: sự phát triển tánh t́nh
và việc phụng sự nhân loại. Những giáo lư đó vạch ra cho y một con đường xử
thế gồm có một thái độ hoàn toàn khác hẳn đối với cuộc đời. Một vị Chân Sư
đă diễn tả điều đó trong câu này: "Kẻ nào muốn làm việc với chúng Ta và cho
chúng Ta, phải từ bỏ cái thế giới riêng của họ và bước qua thế giới của
chúng Ta". Điều này không có nghĩa, như các người học sách vở Đạo lư Đông
phương thường hiểu lầm, là người thí sinh phải từ bỏ cái thế gian của cuộc
đời hằng ngày, để lui về ở ẩn trong rừng sâu, hoặc non cao động cả, mà có
nghĩa là y phải từ bỏ hoàn toàn cái thái độ tư tưởng của thế gian, để áp
dụng cái thái độ của Chân Sư.
Người thế gian nh́n những sự việc xảy ra trong
đời sống hằng ngày với quan niệm rằng những sự việc ấy sẽ ảnh hưởng như thế
nào đến bản thân và quyền lợi cá nhân của họ. Trái lại, Chân Sư nh́n những
sự việc đó với quan niệm rằng nó sẽ ảnh hưởng như thế nào đến sự tiến hóa
chung của nhân loại.
bất cứ việc gí giúp cho sự tiến bộ, sự tăng
trưởng của nhân loại theo Con Đường Tiến Hóa là tốt và đáng khuyến khích;
c̣n việc ǵ làm ngăn trở điều đó bằng cách này hay cách khác, là xấu xa và
cần phải loại bỏ.
Việc ǵ thúc đẩy sự tiến hóa là tốt: viêc ǵ
làm trở ngại hay đ́nh trệ sự tiến hóa là xấu. Đó là cái tiêu chuẩn khác hẳn
với tiêu chuẩn của thế gian bên ngoài,
một cái mực thước để giúp cho chúng ta quyết
định mau chóng những ǵ ta cần phải ủng hộ và những ǵ ta cần phải chống
chỏi, và áp dụng nó vào tính t́nh của ta, cũng như vào những sự biến cố bên
ngoài. Chúng ta chỉ có ích lợi cho Chân Sư khi nào chúng ta có thể làm việc
theo đường lối của Ngài, dầu là bằng cách khiêm tốn nhất. Chúng ta cũng chỉ
làm việc theo đường lối của Chân Sư khi nào chúng ta làm giống như Ngài và
nh́n thế gian cũng đồng một quan điểm như Ngài vậy.
Nếu chúng ta làm việc theo cùng một đường lối
với Chân Sư, chúng ta sẽ càng ngày càng thông cảm chặt chẽ hơn với Ngài và
tư tưởng của chúng ta sẽ càng ngày càng trở nên giống như của Ngài. Như thế
chúng ta càng ngày càng tiến đến gần Ngài bằng tư tưởng và hành động, và
bằng cách đó, chúng ta sẽ làm cho Ngài chú ư, v́ Ngài luôn luôn xem xét cơi
thế gian để t́m ra những người hữu ích cho công việc của Ngài. Khi Chân Sư
đă để ư đến chúng ta, Ngài sẽ hấp dẫn chúng ta lại gần để quan sát chúng ta
một cách tỉ mỉ và đầy đủ chi tiết hơn. Thường thường, Ngài để cho ta tiếp
xúc với một vị đệ tử cao cấp của Ngài. vậy th́ ta không cần phải làm một sự
cố gắng trức tiếp nào cả để làm cho Ngài chú ư đến ta.
KẾT DÂY LIÊN LẠC VỚI CHÂN SƯ
Bà Blavatsky có nói với chúng tôi rằng khi một
người nào gia nhập Hôi Thông Thiên Học, th́ Chân Sư chăm chú nh́n người ấy.
Bà nói thêm rằng trong nhiều trường hợp, những đấng Cao Cả d́u dắt người ta
vào Hội v́ những kiếp trước của họ. Như vậy, các Ngài biết rơ về chúng ta
trước khi chúng ta biết được một điều ǵ về các Ngài.
Chân Sư không hề quên một việc ǵ cả. Dường như
Ngài luôn luôn nhớ rơ bất cứ việc ǵ xảy đến với Ngài, cho nên khi Ngài đă
để mắt nh́n một người nào, dầu là chỉ nh́n thoáng qua, từ khi đó Ngài không
bao giờ quên người ấy.
Khi một người gia nhập vào Trường Bí Giáo, th́
một sợi dây liên lạc được tạo nên, tuy chưa phải là trực tiếp với một Chân
Sư, nhưng trước hết với vị Ngoại Trưởng của trường, và do sự trung gian của
vị này, với đức Thầy của Ngài là vị Nội Trưởng.
Sự liên lạc tạo nên với vị Ngoại Trưởng bằng
cách đó, được siết chặt và tăng cường thêm ở mỗi cấp bực cao hơn của Trường.
Trong những thời kỳ sơ cơ, sự liên lạc ấy hăy c̣n ít, nhưng nó sẽ rơ rệt hơn
ở giai đoạn tuyên thệ của Trường, và những người nào bước qua giai đoạn
tuyên thệ ở những cấp đẳng cao hơn lại càng tiến đến gần thêm nữa. Điều nầy
được biểu lộ bằng sự tăng cường sợi dây liên lạc nối liền mỗi nhân viên của
Trường với vị Ngoại Trưởng, v́ người ấy luôn luôn nghĩ đến Ngài trong lúc
tham thiền. Điều nầy giúp cho sợi dây liên lạc càng sáng tỏ và chắc chắn.
Vị Ngoại Trưởng đă trở nên hiệp nhất với Sư Phụ
Ngài; bởi đó, liên lạc với Ngài tức là liên lạc với đức Chân Sư. Những người
thuộc về Trường Bí Giáo đều liên lạc bằng cách đó với vị Nội Trưởng của
Trường là đức Chân Sư Morya, mặc dầu họ thường hoạt động theo đường lối khác
hẳn với Ngài và họ sẽ trở nên đệ tử của những vị Chân Sư khác khi họ được
thâu nhận vào hàng dự bị. Tuy nhiên trong trường hợp đó, họ cũng sẽ nhận
được ân huệ của đức Sư Phụ tương lai của họ xuyên qua những đường lối riêng
của mỗi người, bởi v́ các Chân Sư tuy rằng ở cách xa nhau về phương diện thể
xác, nhưng các Ngài vẫn có một sự giao tiếp rất chặt chẽ với nhau, và bởi đó
liên lạc với một vị Chân Sư tức là liên lạc với tất cả. Điều này dường như
là một sự liên lạc gián tiếp nhưng nó ít phức tạp hơn ta tưởng, v́ sự hợp
nhứt rát chặt chẽ giữa những đấng Cao Cả ở những cơi trên.
Dầu cho ở trong giai đoạn đầu của sự liên lạc
gián tiếp xuyên qua vị Ngoại Trưởng như dă kể trên, đức Chân Sư có thể, nếu
Ngài muốn, hành động qua sự trung gian của một sinh viên. Đó là một điều
ngoài thói quen của Ngài, v́ Ngài ít khi nào chuyển di thần lực xuyên qua
một đường vận hà không được đặc biệt chuẩn bị sẵn. Thật vậy, Chân Sư có ư
thức được những hành động của những sinh viên ở trong Trường của Ngài. Sự ư
thức đó đôi khi được biểu lộ bằng cách gởi một tư tưởng khích lệ cho người
thí sinh trong khi người ấy làm một công việc nhân danh Ngài. Tôi có thấy
Ngài đă từng sử dụng một nhân viên của Trường trong khi người này đang diễn
thuyết, bằng cách giúp ư kiến để cho y tŕnh bày thêm cho thính giả một khía
cạnh mới của vấn đề đang được thuyết tŕnh. Lẽ tất nhiên Ngài thường làm như
vậy đối với các đệ tử của Ngài, nhưng Ngài cũng giúp những người khác bằng
cách đó.
KHÔNG AI LÀ NGƯỜI BỊ BỎ RƠI
Khi một sinh viên Huyền môn đă hiểu rơ tất cả
những điều kể trên, y sẽ không c̣n hỏi rằng: "Tôi có thể làm ǵ để cho Chân
Sư chú ư đến tôi?" Y sẽ hiểu rằng thật ra chúng ta không cần phải làm ǵ để
cho Ngài chú ư, và chúng ta không cần phải lo sợ rằng ḿnh bị bỏ rơi.
Tôi c̣n nhớ rơ một câu chuyện về việc này,
trong những ngày đầu tiên khi tôi mới tiếp xúc với những đấng Cao Cả. Tôi có
quen một người học lực uyên thâm và đức hạnh rất cao khiết, người ấy hoàn
toàn tin tưởng nơi sự hiện diện của các Chân Sư, và trọn đời nhắm một mục
đích dọn ḿnh để phụng sự các Ngài. Tôi nhận thấy ở người ấy hoàn toàn đầy
đủ mọi điều kiện để có thể làm đệ tử, và hơn tôi một cách rơ rệt trên nhiều
phương diện, làm cho tôi không thể hiểu tại sao y chưa được nh́n nhận. Hồi
đó tôi mới tập sự trong công việc, hăy c̣n non nớt và ngây thơ, một hôm,
nhơn dịp tốt, tôi mới mạo muội giới thiệu tên y với Chân Sư, và đề nghị rằng
y có thể trở nên một khí cụ tốt cho Ngài dùng. Chân Sư nở một nụ cười khả ái
trên gương mặt của Ngài, và nói: "Con không cần sợ rằng người bạn con bị bỏ
rơi: không ai có thể bị bỏ rơi, nhưng trong trường hợp này, người bạn con
hăy c̣n một nghiệp quả phải trả cho dứt, nên Ta không thể chấp thuận lời đề
nghị của con ngay bây giờ. Không bao lâu người bạn con sẽ từ giă cơi Trần,
và sẽ tái sinh trở lại. Chừng đó khi quả kia đă trả xong, th́ ư nguyện của
con đối với y mới có thể thực hiện được".
Kế đó, với một sự ưu ái dịu dàng nó luôn luôn
là một đặc tánh rơ rệt của Ngài, Ngài ḥa lẫn tâm thức của tôi với Ngài một
cách mật thiết hơn nữa, và nâng nó lên một cơi giới cao hơn cơi mà tôi có
thể đạt tới rất nhiều, và từ cơi giới cao siêu đó, Ngài chỉ cho tôi thấy các
đấng Cao Cả nh́n xuống thế gian là như thế nào.Toàn thể địa cầu diễn ra
trước mắt chúng tôi voi81 hằng triệu sinh linh, phần nhiều chư tiến hóa, nên
hăy c̣n lu mờ; nhưng trong đám người rừng đông đảo đó, nếu có một linh hồn
nào tiến lên, dẫu rằng hăy c̣n cách rất xa tŕnh độ mà y có thể được sử
dụng, th́ linh hồn đó nổi bật lên giữa đàm đông cũng như ngọn đèn "pha"
chiếu ánh sáng giữa đêm tối vậy
Lúc ấy Chân Sư nói: "Con có thấy chăng, thật là
không thể nào có một người bị bỏ rơi hay quên lăng, dù cho người ấy hăy c̣n
cách rất xa cái mực độ mà y có thể được thâu nhận làm đệ tử dự bị".
Như thế, chúng ta không c̣n cách nào khác hơn
là luôn luôn cồ gắng sửa đổi tính t́nh, và rán sức bằng mọi phương diện, như
học hỏi các sách vở Đạo lư, tự đào luyện ḿnh, và làm việc phụng sự đời một
cách vị tha, để chuẩn bị và dọn đường đi đến sự vinh diệu mà chúng ta hằng
ao ước, với một sự quả quyết chắc chắn rằng khi nào ta sẵn sàng th́ ta sẽ
được nh́n nhận. Nhưng ngày nào ta chưa có thể được sử dụng một cách lợi ích,
nghĩa là nếu những hành động của ta không đem lại ít nhất là một kết quả
tương xứng với sự giúp đỡ mà ta thụ hưởng, th́ Chân Sư không thể nào đem ta
lại gần Ngài.
Chúng ta có thể chắc đó là một luật lệ bất di
dịch, mặc dầu đôi khi ta thấy có những trường hợp ngoại lệ. Một người có thể
được Chân Sư thâu nhận làm đệ tử dự bị trong khi y hăy c̣n một vài tánh xấu
rơ rệt, nhưng ta có thể chắc rằng trong trường hợp đó, y có những đức tánh
tốt ẩn tàng nó vượt trội hẳn rất xa những thói xấu lộ liễu bên ngoài.
Những vị Chân Sư Minh Triết đều có, cũng như
chúng ta, một dĩ văng gồm cả bao nhiêu kiếp luân hồi sanh tử, và trong những
kiếp đă qua, các Ngài cũng có tạo những sợi dây duyên nghiệp với một số
người. Bởi đó, đôi khi có những người được các Ngài chiếu cố hơn, v́ có lúc
họ đă từng giúp đỡ các Ngài trong cái dĩ văng xa xăm đó. Trong khi chúng tôi
xem xét những tiền kiếp của một số người, có khi chúng tôi cũng gặp những
trường hợp về những nghiệp duyên như thế.
Người nào suy gẫm về Chân Sư trong cơn thiền
định, tạo nên một sợi dây liên lạc rơ rệt với Ngài; người có thần nhăn nh́n
thấy sợi dây đó như một đường từ khí sáng rỡ. Chân Sư luôn luôn cảm giác
được đường liên lạc đó trong tiềm thức của Ngài, và đáp lại bằng cách phóng
một luồng từ điển dồi dào, nó sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến người hành giả trong
một thời gian rất lâu sau khi cơn thiền định đă dứt. Như vậy, sự thực hành
môn thiền định một cách có phương pháp sẽ giúp đỡ rất nhiều cho người học
Đạo, và sự tham thiền một cách đều đều liên tục là một trong những yếu tố
chánh sẽ đem lại kết quả. Cơn thiền định phải được thức hành hằng ngày vào
một giờ nhất định, và chúng ta nên kiên nhẫn tiếp tục luôn luôn, dầu cho ta
không thấy có kết quả rơ rệt. Nếu ta không thấy kết quả hiển hiện, ta không
nên ngă ḷng thối chí, v́ như thế ta khó mà tiếp nhận được ảnh hưởng của
Chân Sư, và điều này cũng chỉ rằng chúng ta nghĩ đến ḿnh nhiều hơn là nghĩ
đến Ngài.
NHỮNG CHƯỚNG NGẠI THÔNG THƯỜNG
Người ta thường viết thơ hỏi tôi: "Tại sao Chân
Sư không dùng tôi? Tôi luôn luôn sốt sắng và thành tâm đối với Ngài. Tôi
muốn được Ngài thâu nhận và dạy dỗ tôi. tại sao Ngài không nhận?"
Có nhiều lư do tại sao Ngài không nhận. Đôi
khi, người hỏi câu đó có một tánh xấu rơ rệt, và đó chính là một lư do xác
đáng. Tôi lấy làm tiếc mà nói ngay rằng tánh xấu đó thường là thói kiêu
căng. Một người có thể v́ quá kiêu căng và tự dối ḿnh đến nỗi y không thế
nào thụ huấn được mặc dầu y tưởng là y có thể.
Trong cái thế giới văn minh hiện tại, chúng ta
thường có một tính xấu khác, đó là tánh nóng nảy. Một người tốt và xứng đáng
có thể có
một bộ thần kinh hệ căng thẳng, v́ đó y không
thể được tiếp xúc một cách gần gũi và thường xuyên với Chân Sư. Có khi, thói
tọc mạch cũng là một chướng ngại. Có người lấy làm ngạc nhiên mà nghe nói
rằng đó là một thói xấu rất lớn. Quả thật vậy, sự tọc mạch muốn biết việc
riêng của người khác, nhứt là muốn biết đạo căn hay sự phát triển về tâm
linh của người khác tới đâu, là một thói xấu. Chân Sư quả thật không thể nào
đem lại gần Ngài một người có cái tật đó.
Một sự chướng ngại khác rất thông thường là sự
dễ giận hờn. Nhiều người thí sinh tánh t́nh tốt và sốt sắng, nhưng lại dễ
hay hờn giận,
đến nỗi họ không thể dùng được vào việc ǵ, bởi
v́ họ không thể ḥa ḿnh với kẻ khác. Họ phải đợi đến khi nào họ tập được
tánh dung ḥa với hoàn cảnh và cộng tác với bất cứ một người nào.
Nhiều người đặt câu hỏi nêu trên, có những
chướng ngại về loại đó, và họ không thích nếu có người vạch cho họ thấy tánh
xấu của họ. Họ thường không tin rằng họ có tánh xấu đó, và cho rằng người ta
lầm; nhưng có đôi khi rất hiếm, họ cũng biết phục thiện. Tôi nhớ có một bà
nọ ở một thành phồ bên Mỹ, ngày kia đến hỏi tôi: "Tôi có điều ǵ xấu chăng?
Tại sao tôi không được gần đức Thầy?" Tôi hỏi bà: "Bà có thật muốn biết lư
do hay không?" Bà nói quả thật bà muốn biết lắm, và yêu cầu tôi dùng Thần
Nhăn nh́n vào các Thể và những tiền kiếp của bà để xem có điều ǵ khác
thường. Tôi làm theo như ư bà muốn và nói: "Nếu thật bà muốn biết, th́ đây:
bản ngă của bà hăy c̣n quá lớn. Bà chỉ nghĩ đến ḿnh và không nghĩ bao nhiêu
đến công việc phụng sự".
Lẽ tự nhiên, bà ta nổi giận, đứng phắt dậy đi
ra ngoài và nói bà không tin cậy ở năng khiếu Thần Nhăn của tôi. Nhưng hai
năm sau, bà ta có can đảm trở lại và nói: "Những ǵ ông nói với tôi năm kia
quả thất đúng, và tôi đang cố gắng để sửa đổi lại".
Câu chuyện này xảy đến với tôi nhiều lần, trừ
phi nó là trường hợp duy nhất mà đương sự trở lại và nh́n nhận lỗi của họ.
Tánh vị kỷ cũng là một h́nh thức của thói kiêu
căng, rất thông thường ở thời đại này. Cái phàm nhơn mà chúng ta cấu tạo nên
từ nhiều ngàn năm qua, đă trở nên mạnh mẽ; thật là một điều rất khó mà chế
ngự nó và bắt nó tập lấy thói quen nh́n vào sự vật dưới cái quan điểm của
người khác. Ta phải ra khỏi cái ṿng bẩn chât của bản ngă, nếu ta muốn đến
gần Chân Sư.
Tuy nhiên, có đôi khi người đặt câu hỏi nêu
trên không có một tật xấu nào rơ rệt, và khi nh́n vào họ
tôi chỉ có thể nói rằng: Tôi không thấy một lư do nào rơ rệt, một tật xấu
này làm cho huynh bị chướng ngại nhưng huynh phải phát triển đều đặn thêm
một ít nữa.
Đó là điều không được ngọt ngào lắm mà ta phải
nói với một người khác; nhưng đó là sự thật. Họ chưa phát triển được bao
nhiêu, và phải tiến hóa thêm nữa mới xứng đáng được kêu gọi. Thật vậy, đối
với công việc phụng sự, muốn có được thái độ của Chân Sư đ̣i hỏi một sức
mạnh tinh thần dũng mănh, bởi v́ ngoài ra những thói xấu mà chúng ta cần
phải sửa đổi, chúng ta c̣n phải chiến đấu chống lại áp lực của dư luận bên
ngoài.
Những người nào tự thả trôi theo gịng tiến hóa
tự nhiên sẽ đạt được, trong một cái tương lai xa xôi, tŕnh độ tiến hóa mà
chúng ta đang hoài vọng, và chừng đó sự tiến hóa sẽ được dễ dàng hơn nhiều,
v́ dư luận quần chúng ở vào thời kỳ đó sẽ ḥa hợp với những lư tưởng
về Đạo Đức tâm linh. C̣n hiện thời chúng ta
phải chống chỏi lại với điều mà người Thiên Chúa Giáo gọi là sự "cám dỗ"
nghĩa là áp lực nặng nề và thường xuyên của dư luận bên ngoài v́ hằng triệu
người chung quanh chúng ta chỉ tưởng nghĩ đến vấn đề riêng tư thuộc về cá
nhân của họ. Đương đầu với áp lực đó đ̣i hỏi một sự cố gắng, một ḷng can
đảm và một sự kiên tâm bền chí thật sự. Chúng ta phải thực hiện công việc đó
một cách bền bỉ, và mặc dầu chúng ta có thể bị thất bại nhiều lần, chúng ta
không nên mất ḷng tin tưởng mà phải đứng dậy để tiến tới luôn luôn.
Những thể Vía và thể Trí của người học Đạo phải
luôn luôn biểu lộ bốn hay năm loại t́nh cảm tốt đẹp và màu sắc rực rỡ như:
bác ái, trung thành, thiện cảm, ḷng mong ước hiểu biết,v.v...
Nhưng thay v́ có một loại t́nh cảm cao thượng
chiếu những màu sắc đẹp đẽ sáng sủa, người ta thường thấy những thể Vía có
hàng trăm những vệt màu đỏ, màu nâu xám, đen, giống như những vết ghẻ lở
trên thể Xác, làm cho da mất sự cảm giác của nó. Người thí sinh phải loại
trừ những thứ đó, và làm cách nào cho những sự xúc động t́nh cảm nhỏ nhặt
hằng ngày được hoàn toàn tiêu diệt và không c̣n nữa.
PHẢI CÓ SỰ TRUNG THÀNH TUYỆT ĐỐI
Trên đường Đạo, không thể có những biện pháp
lưng chừng. Nhiều người thí sinh có thái độ của Ananias và Sapphira trong
Kinh Thánh. Hai người này lúc đầu rất sốt sắng và muốn hiến dâng tất cả tài
sản để theo Chúa, nhưng lại nghĩ rằng cần phải giữ lại một ít của cải để
pḥng thân trong trường hợp phong trào Thiên Chúa Giáo bị thất bại. Điều này
cũng là tự nhiên và không ai có thể trách họ; nhưng có điều không hay và rất
thương tổn là họ không chịu nh́n nhận rằng ḿnh đă giữ ít nhiều tiền của, mà
lại nói rằng họ đă cho hết. Hiện thời có nhiều người cũng đă theo gương của
họ. Tuy nhiên tôi hy vọng rằng câu chuyện này không có thật, v́ đức Chúa
chắc chắn là rất nghiêm khắc đối với họ.
Chúng ta không có hiến dâng tất cả, nhưng c̣n
giữ lại rất nhiều- tôi không nói là giữ lại tiền của, nhưng giữ lại một vài
tư tưởng thầm kín riêng tư của ḿnh- và điều này làm cho ta bị ngăn cách với
Chân Sư. Trên đường Huyền Môn, không thể có sự phân hai như vậy. Chúng ta
phải theo Chân Sư một cách tuyệt đối, và không nên nghĩ rằng: "Tôi sẽ theo
Chân Sư nếu Ngài đừng bắt buộc tôi phải làm việc chung với người nọ hay
người kia; tôi sẽ theo ngài với điều kiện là những việc của tôi làm phải
được nh́n nhận và tuyên dương cho mọi người biết!". Chúng ta không nên đặt
điều kiện. Điều ấy không có nghĩa là chúng ta phải từ bỏ những bổn phận hằng
ngày của chúng ta ở thế gian, mà chỉ có nghĩa là chúng ta phải đặt ḿnh trọn
vẹn dưới sự điều dụng của Chân Sư. Chúng ta phải sẵn sàng từ bỏ bất cứ việc
ǵ, đi đến bất cứ nơi nào, không phải đó là một sự thử thách, mà bởi v́ công
việc phụng sự là điều tối trọng mà ta yêu quư nhứt trong đời chúng ta.
CHƯƠNG IV
THỜI KỲ
DỰ BỊ
CHIẾC H̀NH NỘM
Chính ở trong hàng ngũ những sinh viên sốt sắng
và hoạt động, thuộc loại chúng tôi vừa kể trên, mà có nhiều khi Chân Sư chọn
lựa đệ tử của Ngài. Nhưng trước khi thâu nhận đệ tử một cách vĩnh viễn, Ngài
có những biện pháp cẩn pḥng đặc biệt để biết chắc rằng đó thật là những vị
đệ tử mà Ngài có thể tiếp xúc một cách mật thiết. Đó là mục đích của giai
đoạn gọi là dự bị (Probation). Khi Chân Sư xét đoán một người nào có thể làm
đệ tử tương lai, Ngài thường khiến một vị đệ tử cao cấp đă có liên lạc chặt
chẽ với Ngài, hăy dắt người thí sinh đến với Ngài bằng cái Thể Vía của y.
Trong bước đầu tiên này, thường không có sự lễ nghi nào phiền phức. Chân Sư
chỉ cho vài lời khuyên bảo, cho người thí sinh biết họ có triển vọng như thế
nào, và với ḷng ưu ái mà Ngài vẫn thường có, Ngài có thể t́m những lư do để
khen ngợi thí sinh về công việc mà y đă làm.
Khi đó Ngài tạo nên một h́nh ảnh cái hào quang
của người thí sinh; nói một cách khác, Ngài dùng chất thanh khí trong các
cơi Thượng Giới, Trung Giới và chất Dĩ Thái hồng trần để tạo nên một chiếc
h́nh nộm đúng theo khuôn mẫu các Thể Thượng Trí, Hạ Trí, Thể Vía và Thể
Phách của người thí sinh, và giữ cái h́nh nộm đó ở gần bên Ngài để có thể
quan sát từng kỳ hạn. Chiếc h́nh nộm đó được nối liền với đương sự bằng từ
điển, để cho mọi sự thay đổi tư tưởng hay t́nh cảm của người này đều biểu lộ
rơ rệt trên h́nh nộm bằng sự rung động từ khí. Bởi đó, chỉ nh́n váo cái h́nh
nộm, Chân Sư có thể thấy ngay rằng từ khi Ngài nh́n vào đó lần cuối cùng,
đến nay đă có những sự thay đổi nào trong các Thể của người thí sinh. Thí dụ
như Ngài thấy rằng thí sinh đă mất sự b́nh tĩnh của tâm hồn, hoặc đă có
những tư tưởng tham dục, hoặc bị cơn phiền muộn lo âu dày ṿ, hoặc ngă ḷng
rũng chí, hay bị những sự khủng hoảng tương tự như thế. Chỉ khi nào Ngài
nhận thấy rằng trong một thời kỳ khá lâu, không có một sự biến động quan
trọng nào diễn ra trong các Thể của người thí sinh, do cái h́nh nộm làm tiêu
biểu, th́ Chân Sư mới để cho người ấy được tiếp xúc mật thiết hơn với Ngài.
Khi người thí sinh được thâu nhận, th́ y được
hợp nhứt với Chân Sư một cách mật thiết hơn là người ta có thể tưởng tượng.
Chừng đó Chân Sư ḥa lẫn hào quang của người đệ tử với hào quang của Ngài,
để nhờ đó thần lực của Ngài có thể ảnh hưởng thường xuyên đến người đệ tử mà
không cần có sự chú ư đặc biệt của Ngài. Nhưng một sự liên lạc mật thiết như
thế không thể hành động theo một chiều mà thôi: nếu người đệ tử có những sự
rung động phản ứng đến Chân Sư có thể làm xáo trộn các Thể Vía và Thể Trí
của Ngài th́ sự hóa hợp nói trên không thể thực hiện được. Trong trường hợp
đó, người thí sinh phải đợi cho đến khi nào y loại trừ được những sự rung
động đó. Ngời đệ tử dự bị không phải đương nhiên là tốt lành hơn những người
khác không được vào hàng dự bị. Y chỉ có khả năng hơn dưới những khía cạnh
nào đó trong công việc của Chân Sư, và cần phải được đặt dưới sự thử thách
của thời gian. Thật vậy, có nhiều người đầy ḷng hứng khởi và quá sốt sắng
trong việc phụng sự, lúc đầu dường như có nhiều hứa hẹn trong tương lai,
nhưng sau một thời gian, họ mệt mỏi, chán nản và rút lui. Người thí sinh
phải chiến thắng mọi sự yếu ớt về t́nh cảm mà y có thể có, và tiếp tục bền
chí phụng sự cho đến khi y có đầy đủ đức tánh yên tịnh và tinh khiết. Sau
một thời kỳ lâu dài, khi nào thấy rằng không có một sự xáo trộn quan trọng
nào trong chiếc h́nh nộm của y, th́ Chân Sư có thể nhận định rằng đó là lúc
mà Ngài có thể đem người đệ tử đến gần Ngài hơn.
Ta không nên tưởng rằng cái h́nh nộm đó chỉ ghi
nhận những thói xấu hay những sự xáo trộn trong tâm hồn của đương sự mà
thôi, nó phản ảnh toàn thể cái trạng thái tâm thức trong Thể Vía và Thể Trí
của người thí sinh. Do đó, nó cũng ghi nhận những sự thiện cảm và vui vẻ,
và chiếu diệu sự b́nh an cùng sự tốt lành khắp cơi thế gian. Ta không nên
quên rằng một tấm ḷng tốt thụ động cũng chưa đủ, mà sự tốt lành tích cực
cũng cần thiết cho sự tiến bộ. Không làm điều ǵ ác, đó đă là nhiều lắm;
nhưng ta nên nhớ kinh sách chép rằng đức Chúa ngày xưa "đi đến đâu, Ngài
cũng gieo rắc điều lành đến đó".
Khi người đệ tử dự bị làm một điều thiện phi
thường th́ ngay tức khắc Chân Sư chú ư đến y nhiều hơn, và nếu cần, Ngài có
thể gởi đến cho y một luồng tư tưởng khích lệ, hoặc đưa đến cho y một công
việc để xem y làm việc đó như thế nào. Tuy thế, Ngài thường giao sự thử
thách đó cho một vị đệ tử cao niên hơn xem xét. Người ta nghĩ rằng chúng tôi
đưa đến cho người thí sinh những cơ hội để hành động. Đó tức là đảm nhận lấy
một trọng trách, v́ nếu người thí sinh biết nhận lấy cơ hội phụng sự, th́
rất tốt; c̣n nếu y bỏ lỡ dịp,
th́ đó sẽ là một điểm xấu cho y. Chúng tôi
thường muốn đưa đến nhiều cơ hội cho các thí sinh, nhưng chúng tôi hằng do
dự v́ mặc dầu họ có thể nhờ đó mà được điểm tốt; nhưng nếu họ bỏ lỡ cơ hội,
th́ công việc của họ về sau này sẽ trở nên khó khăn hơn. Bởi đó, sợi dây
liên lạc giữa đệ tử với Chân Sư có cái tác dụng là nhờ nó thỉnh thoảng đức
Thầy có thể quan sát và sử dụng người đệ tử.
Theo lệ thường, các Chân Sư không dùng những
cách thử thách quá đặc biệt hay khó khăn. Khi một người được cho vào hàng dự
bị, th́ người ta để cho y theo đuổi sự sinh hoạt của đời sống hằng ngày. Sự
phản ứng của y đối với những cơn thử thách và những vấn đề phức tạp của đời
sống hằng ngày (điều này được phản chiếu do chiếc h́nh nộm của y) sẽ chứng
minh một cách đầy đủ về tánh t́nh và sự tiến bộ của y đến mức nào. Do sự
quan sát đó, khi Chân Sư kết luận rằng thí sinh có đủ điều kiện, th́ Ngài
đem y lại gần Ngài và thâu nhận y. Đôi khi một vài tuần lễ cũng đủ đưa đến
quyết định đó, có những trường hợp khác, thời kỳ dự bị kéo dài đến nhiều
năm.
NHỮNG ĐỆ TỬ DỰ BỊ TRẺ TUỔI
V́ tánh cách đặc biệt của thời buổi hiện tại,
có nhiều thanh niên trẻ tuổi đă được vào hàng đệ tử dự bị trong ṿng những
năm vừa qua. Điều nầy làm cho những bậc phụ huynh của họ, cũng như một số
hội viên cao niên của Hội Thông Thiên Học lấy làm ngạc nhiên, v́ mặc dầu họ
đă hy sinh và phụng sự một cách chân thành suốt hai mươi năm, hoặc có khi
đến ba bốn mươi năm, họ vẫn không được kêu gọi, trong khi đó có những thanh
thiếu niên lại được chọn. Viêc ấy có thể được giải đáp một cách dễ dàng.
V́ lẽ các huynh đă phụng sự suốt thời gian nêu
trên để tự dọn ḿnh và tạo nên nghiệp tốt, và chính v́ lẽ các huynh là những
hội viên tốt và kỳ cựu của Hội Thông Thiên Học,
nên các huynh đă hấp dẫn
một vài linh hồn tiến hóa cao trong nhiều kiếp
đă qua, và trong kiếp này, những linh hồn đó đầu thai vào làm con của các
huynh. Như vậy chư huynh không nên ngạc nhiên nếu đôi khi chư huynh thấy
rằng những người làm con cái của chư huynh ở cơi phàm trần, lại là những
người tiến hóa nhiều hơn chư huynh trên những cơi giới cao hơn. Chư huynh
không nên ngạc nhiên nếu một vị thanh niên hay thiếu nữ, con cái của chư
huynh, được có sự liên lạc mật thiết với Chân Sư, điều mà chư huynh chưa hề
dám nghĩ đến cho phận ḿnh, mặc dầu đă có nhiều năm thiền định suy tư và
phụng sự khó nhọc. Rất có thể con cái của chư huynh có khả năng vượt lên
trên sư huynh rất xa, nhưng chính v́ lẽ đó, mà sự nuôi dưỡng và giáo dục nó
được giao phó cho sư huynh đảm nhiệm, v́ chư huynh đă học hỏi và phụng sự
nhiều năm trên Đường Đạo.
Trong thời kỳ học Đạo, chư huynh đă biết thế
nào là làm những bậc phụ huynh lư tưởng, tức là những người cha mẹ cần thiết
cho cái xác thân của một linh hồn tiến hóa.
Như thế, thay v́ băn khoăn hay ngạc nhiên, chư
huynh nên lấy làm vinh hạnh và vui mừng mà được ơn trên nh́n nhận như là
xứng đáng để d́u dắt cuộc đời của những người sau này sẽ có mặt trong hàng
những đấng Cứu Thế.
Có lẽ chư huynh sẽ tự hỏi làm sao mà những
thanh thiếu niên đó có thể nhận thức được sự vinh hạnh cao cả, sự lộng lẫy
huy hoàng của những ǵ xảy đến cho họ. Ta không nên quên rằng chính cái Chơn
Nhơn (hay Linh Hồn) được điểm Đạo, chính cái linh hồn được thâu nhận làm đệ
tử. Quả thật Chơn Nhơn phải kiểm soát và chế ngự các hạ Thể đến một mực độ
làm biểu lộ rất nhiều những đặc tính của nó,
để cho ít nhất chúng sẽ không làm chướng ngại
trong công việc phụng sự. Chính Linh Hồn sẽ phải làm công việc phụng sự đó
và sẽ tiến bộ, và chư huynh không biết được nó đă thực hiện được bao nhiêu
công tŕnh và tiến bộ trong những kiếp đă qua. Nhiều linh hồn xuống đầu thai
trong thời buổi hiện tại là những linh hồn tiến hóa rất cao; thành phần nhóm
Đệ tử phụ tá đức Chưởng Giáo khi Ngài lâm phàm, sẽ gồm toàn những linh hồn
đó. Những vị nào làm Đệ tử sớm trong kiếp này có thể đă làm đệ tử nhiều năm
trong một kiếp quá khứ. Cái vinh hạnh lớn nhứt cho những người chưởng niên
như chúng ta, là được có sự liên lạc với những vị đệ tử trẻ tuổi, v́ nhờ đó
chúng ta có thể xúc tiến công việc của Chân Sư trên thế gian bằng cách huấn
luyện những vị trẻ tuổi ấy để cho họ biết phụng sự một cách hoàn hảo.
Trong quyển "Khía
cạnh huyền bí của Sự Vật", đoạn nói về cách đối xử với trẻ con, tôi có
tŕnh bày rất dài về cách giáo dục trẻ con để cho chúng có thể duy tŕ những
đức tánh tốt mà chúng đă đem lại từ những kiếp quá khứ, và phát triển trọn
vẹn những điểm tốt lành của chúng, thường hay bị phá hoại bởi những người
lớn không hiểu biết. Trong đoạn đó, tôi có nói về những hậu quả tai hại của
sự sợ hăi do sự tàn nhẫn và độc ác gây nên. Về vấn đề này, tôi xin kể thêm
sau đây một chuyện kinh nghiệm nó chỉ cho ta thấy những kết quả vô cùng thảm
khốc của sự độc ác đối với trẻ con. Những người làm cha mẹ có con đến tuổi
đi học nên cẩn thận và thăm ḍ kỹ lưỡng trước khi giao phó các em cho một
thầy giáo hay nhà trường, để tránh mọi sự tàn nhẫn gây ra cho các em mà họ
có trách nhiệm chăm nom săn sóc.
HẬU QUẢ CỦA SỰ TÀN NHẪN ĐỐI VỚI TRẺ CON
Cách đây ít lâu, tôi
có chú ư đặc biệt đến một trường hợp khá sôi nổi về những tai họa mà sự tàn
nhẫn có thể gây nên. Thuở ấy tôi có cái hân hạnh rất lớn được dự vào cuộc
Điểm Đạo của một hội viên trẻ tuổi; vị chủ tọa cuộc lễ Điểm Đạo lúc ấy là
đức Di-Lặc-Bồ-Tát. Trong cuộc lễ, theo lệ thường, người thí sinh phải trả
lời nhiều câu hỏi về phương pháp hiệu quả nhứt để giúp đỡ trong những trường
hợp khó khăn hay bất thường. Ngoài ra, c̣n có thêm một câu hỏi đặc biệt về
việc y có bằng ḷng tha thứ và giúp đỡ một người kia hay không, v́ người này
đă từng đối xử tàn nhẫn và độc ác với y hồi y c̣n nhỏ.
Vị Chủ lễ tạo nên một chiếc h́nh nộm bằng hào
quang của người đệ tử, với những điểm ánh sáng nhỏ màu sắc rất thanh bai đẹp
đẽ khi th́ hiện rơ trên mặt hào quang, khi th́ lặng xuống mất dạng, và Ngài
nói: "Những điểm sáng này là những mầm đức tánh cao thượng quư báu nhất của
con người, chỉ có thể phát triển trong một bầu không khí thương yêu đậm đà
và tinh khiết nhứt, không có một mảy may sợ hăi hay đố kỵ. Người nào có thể
phát triển và tăng cường những đức tánh đó một cách đầy đủ hoàn toàn, có thể
đạt đến quả vị Chơn Tiên trong kiếp này. Đó là cái quả vị mà chúng ta đă hy
vọng cho con, để cho khi thành một vị Chơn Tiên con có thể cùng hợp tác với
Ta khi Ta lâm phàm; nhưng những kẻ có trách nhiệm săn sóc con lại để cho con
rơi vào tay của một người hoàn toàn không xứng đáng. Đây là cái hào quang
của con trước khi con bị đối xử một cách tàn nhẫn. bây giờ ta hăy thử xem sự
tàn nhẫn độc ác của người kia đă làm cho con trở nên như thế nào!"
Khi đó, cái hào quang thay đổi, vặn vẹo một
cách rất xấu xa, và khi nó trở lại b́nh thường như cũ, th́ tất cả những điểm
sáng màu sắc tốt đẹp đều biến mất, thay vào đó là vô số những vết thẹo nhỏ.
Đức Bồ Tát giải thích rằng cái hậu quả tai hại đó không thể nào xóa bỏ được
trong kiếp này, và Ngài nói: "Tuy thế, con cũng sẽ phụ trách với Ta khi Ta
xuống trần, và ta hy vọng rằng trong kiếp này con sẽ đạt quả vị La Hán,
nhưng c̣n cái quả vị cuối cùng th́ con phải chờ đợi ít lâu nữa. Theo ư Ta
tưởng, không có cái tội ác nào lớn hơn là ngăn chận sự tiến hóa của một linh
hồn, như trong trường hợp này".
Khi người thí sinh nh́n thấy cái hào quang của
y vặn vẹo và teo lại, và thấy rằng tất cả những triển vọng tốt đẹp của y bị
hủy hoại một cách đau thương do bởi sự tàn ác của người kia, th́ trong một
lúc y nhớ lại cái cảm giác mà y đă có từ lúc nhỏ: sự đau khổ của một đứa trẻ
ĺa xa gia đ́nh, sự sợ hăi lo âu vô bờ bến, cái cảm giác bị đàn áp một cách
trắng trợn mà không sao thoát khỏi, sự bất lực hoàn toàn dưới cái ách thống
trị của một kẻ tàn nhẫn, độc ác, bất công, một hoàn cảnh tuyệt vọng, không
ai che chở, không thể kêu thấu tới Trời. Trong khi đó, tôi nh́n thấy rơ
những cảm giác này trong tư tưởng của thí sinh, tôi mới hiểu rơ cái thảm
trạng của y lúc thiếu thời, và hiểu lư do v́ sao những hậu quả tai hại kia
có ảnh hưởng sâu rộng như thế.
Không phải chỉ khi nào một linh hồn gần đắc quả
Chơn Tiên, th́ sự tàn nhẫn độc ác kia mới ngăn chận sự tiến hóa của y. Tất
cả những đức tánh cao thượng, mới mẻ, mà giống dân Aryan sẽ biểu lộ trong
thời đại này, đều hiện ra trong hào quang con người như những mầm non chiếu
ánh sáng với màu sắc thanh bai tốt đẹp tương tự,
mặc dầu ở một tŕnh độ thấp hơn thí dụ kể trên.
Trong hằng ngàn trường hợp, những mầm đức tánh đó bị dày xéo tàn nhẫn do sự
độc ác của người làm cha mẹ hay thầy giáo, hoặc do sự hiếp đáp tàn nhẫn của
những đứa trẻ lớn hơn trong một trường học nội trú, làm cho nhiều kẻ tốt
lành bị ngưng trệ không tiến lên được trong nhiều kiếp, c̣n những kẻ thủ
phạm đă hành hạ họ th́ bị sa đọa và đầu thai vào những giống dân thấp kém
hơn. Có nhiều linh hồn đầu thai xuống trần hiện nay, mặc dầu hăy c̣n cách
rất xa tŕnh độ Điểm Đạo, nhưng họ phát triển mau chóng, và cần biểu lộ thêm
nhiều đức tánh mới mẻ hơn nữa, cho nên sự tàn nhẫn cũng có ảnh hưởng tai hại
đối với sự tiến hóa của họ.
Trước khi xảy ra trường hợp kể trên, tôi chưa
có nghe nói rằng kiếp sống cuối cùng ở thế gian của một vị đắc quả Chơn Tiên
phải có những hoàn cảnh chung quanh hoàn toàn thuận tiện trong lúc c̣n nhỏ;
nhưng khi mới nghe, th́ ta thấy ngay rằng điều đó rất hợp lư. Có lẽ đó là
một lư do v́ sao ít có người đắc quả Chơn Tiên trong những thể xác người Âu,
v́ về điểm này, người Âu Châu hăy c̣n kém xa những dân tộc khác trên thế
giới. Dầu sao, người ta cũng thấy rơ rằng cái thói quen tàn nhẫn độc ác chỉ
có thể gây nên những điều hậu quả tai hại mà thôi. Bởi đó, những hội viên
chúng ta nên cố gắng làm cách nào để diệt trừ thói độc ác, và như tôi đă nói
ở trên, hăy vô cùng cẩn thận để cho không có một đứa trẻ con nào mà họ có
trách nhiệm chăm nom săn sóc, phải chịu những điều tệ hại do sự độc ác gây
nên.
BẬC THẦY CỦA NHÂN LOẠI
Đức Di-Lặc-Bồ-Tát thường được gọi là vị Tôn Sư
của Chư Thiên Và của Nhân Loại. Nói một cách khác, trong cơi giới tâm linh,
Ngài là đấng Chưởng Giáo, coi sóc về phần Tôn giáo và giáo dục cho thế gian.
Không những trong các giai đoạn lịch sử, mà khi nào xét ra đúng lúc, Ngài
hoặc tự ḿnh chuyển kiếp xuống trần, hoặc sai một vị đệ tử xuống thế để
tŕnh bày Chân lư dưới một phương tiện mới, mà ta thường gọi là để "thiết
lập một tôn giáo mới" ở thế gian. Ngoài ra, Ngài c̣n luôn luôn coi sóc tất
cả các tôn giáo; tất cả những ǵ mới mẻ và tốt đẹp thuộc về bất cứ một tôn
giáo nào, dầu là mới hay cũ, đều là do ân huệ của Ngài ban xuống.
Chúng ta biết rất ít về những phương pháp mà
Ngài đă dùng để dạy dỗ nhân loại trên thế gian. Có nhiều cách giáo hóa không
dùng đến văn tự, và chính là sự cố gắng thường xuyên và hằng ngày của Ngài
làm nâng cao những quan niệm trí thức của hằng triệu sanh linh, gồm cả Thiên
Thần và người.
Cánh tay mặt của Ngài trong công việc vĩ đại đó
là Chân Sư Kuthumi, vị đệ tử và kế nghiệp cho Ngài sau này, cũng như đức
Chân Sư Morya là vị phụ tá kế nghiệp cho đức Bàn Cổ Vaivasvata. V́ đức Chân
Sư Kuthumi là vị Thầy lư tưởng nên chúng tôi phải tŕnh cho Ngài những vị đệ
tử dự bị hoặc được chánh thức thâu nhận khi c̣n trẻ tuổi. Có thể về sau này
họ sẽ phụng sự các Chân Sư khác trong những công việc khác, nhưng trong tất
cả, hoặc hầu hết mọi trường hợp, họ bắt buộc phải trài qua thời kỳ sơ cơ
dưới sự d́u dắt của Chân Sư Kuthumi.
Một phần công việc làm của tôi từ nhiều năm nay
là d́u dắt vào đường Đạo mọi vị đệ tử trẻ tuổi mà Chân Sư thấy có nhiều
triển vọng. Ngài giao họ cho tôi tiếp xúc ở cơi trần và thường cho tôi chỉ
thị về cách dạy dỗ họ cùng là về những đức tánh mà họ cần phát triển. Lẽ tự
nhiên, với sự minh triết vô biên, Ngài đối sử với những vị trẻ tuổi đó không
hẳn giống như đối với những vị cao niên hơn. Tôi xin thuật lại dưới đây câu
chuyện thâu nhận ba người thí sinh trẻ tuổi vào hàng đệ tử dự bị.
VÀO HÀNG DỰ BỊ
Chúng tôi gặp Chân Sư Kuthumi ngồi dưới hàng ba
nhà Ngài và khi tôi tŕnh diện với Ngài những người thí sinh trẻ tuổi, th́
Ngài đưa tay ra cho họ. Người thứ nhứt trong nhóm quỳ một gối xuống đất, hôn
bàn tay đức Thầy và kể từ khi đó, y vẫn quỳ luôn và nép vào đầu gối của đức
Thầy. hai người kia nh́n vào đức Thầy, và đặt hết linh hồn của họ vào cái
nh́n đó. Đức Thầy mỉm cười và nói:
"Ta tiếp các con với một sự vui đặc biệt. Tất
cả các con đều đă hợp tác với Ta trong quá khứ. Ta hy vọng rằng các con cũng
sẽ làm như vậy trong kiếp này. Ta cần dùng các con trong hàng ngũ của Ta
trước khi đức Chưởng Giáo lâm phàm, v́ thế nên Ta chăm sóc các con khi c̣n
nhỏ. Các con hăy nhớ rằng công việc mà các con muốn gánh vác là điều tốt đẹp
huy hoàng nhứt trong tất cả mọi công việc; nhưng nó không phải dễ, v́ các
con c̣n phải hoàn toàn chế ngự những Thể của các con. Các con phải tự quên
ḿnh trọn vẹn, chỉ sống trong hạnh phúc của kẻ khác và cho công việc phụng
sự mà chúng ta cần phải làm."
Rồi Ngài đưa tay nựng dưới cằm của người thí
sinh đang quỳ và nói với một nụ cười rất đẹp: "các con có làm được như vậy
không?"
Tất cả đều trả lời rằng họ sẽ cố gắng. Rồi đó
đức Thầy ban cho mỗi người thí sinh vài lời khuyên bảo quư báu và hỏi riêng
từng người: "Con có muốn làm việc phụng sự thế gian với sự hướng dẫn của ta
chăng?" Mỗi người đều đáp rằng: "Con muốn".
kế đó, Ngài đem người thứ nhứt lại gần, người
này lại quỳ như trước, Ngài đặt hai bàn tay trên đầu y và nói:
-"kể từ lúc này, Ta nhận con làm đệ tử dự bị,
và hy vọng rằng chẳng bao lâu Ta với con sẽ có sự liên lạc mật thiết hơn.
Vậy ta ban ân huệ cho con để con có thể chuyển ân huệ cho kẻ khác".
Trong khi Ngài nói, th́ hào quang của người
thiếu niên nở lớn thêm gấp bội, những màu sắc của ḷng bác ái và sùng tín
chói sáng với rất nhiều sinh khí. Thiếu niên ấy nói:
"Bạch Sư Phụ, xin Ngài hăy làm cho con trở nên
tốt lành, và xứng đáng để phụng sự Ngài".
Nhưng Đức Thầy mỉm cười:
-"Chỉ có con mới làm được điều đó, nhưng sự
giúp đỡ và ân huệ của Ta sẽ luôn luôn đến với con".
Rồi đó Ngài đem hai người thiếu niên kia lại
gần và làm cuộc lễ giản dị đó cho riêng mỗi người. Những hào quang của họ nở
lớn thêm, trở nên vững chắc hơn và đều đặn hơn trong khi họ đáp lại lời dạy
của Chân Sư bằng sự phản ứng tốt đẹp trong tâm hồn.
Sau đó, đức Thầy đứng dậy và nói với những thí
sinh:
-"Bây giờ, các con hăy theo Ta và xem Ta làm
cái này.
Chúng tôi tập hợp lại và cùng nhau đi xuống con
đường ṃn đưa đến chiếc cầu bắc qua gịng suối. Chân Sư đưa chúng tôi xuống
hầm và chỉ cho các người thiếu niên thấy những h́nh nộm của tất cả những đệ
tử dự bị, rồi Ngài nói:
-Bây giờ, Ta sẽ làm h́nh nộm của các con.
Ngài tạo ra những h́nh nộm ấy ngay trước mắt
họ, và họ tỏ ra rất chú ư. Một người trong bọn bèn nói với một giọng kính
cẩn và sợ hăi: "Con giống như vậy sao?"
Trong một h́nh nộm, có một tia sáng màu đỏ; Đức
Thầy bèn nh́n vào đương sự và hỏi: "cái ǵ đó vậy?"
Người thiếu niên đáp: "Con không biết"; nhưng
tôi nghĩ rằng y đă đoán được rồi, v́ đó là kết quả của một sự cảm xúc căng
thẳng trong đêm vừa qua. Đức Thầy chỉ cho ba người đệ tử mới thấy những màu
sắc và sự thay đổi trong các hào quang; dạy cho họ biết ư nghĩa của mỗi thứ
và thứ nào Ngài muốn họ phải thay đổi. Ngài cho họ biết rằng Ngài sẽ nh́n
vào những h́nh nộm của họ mỗi ngày để xem họ tiến bộ như thế nào, và Ngài hy
vọng sẽ thấy họ thay đổi cách nào để cho những h́nh nộm ấy có những màu sắc
đẹp đẽ dễ coi.
Kế đó, Ngài ban cho họ một ân huệ cuối cùng.
*
Trong trường hợp những thí sinh dự bị là những
người lớn tuổi hơn, th́ phần nhiều họ phải tự t́m lấy công việc phụng sự
thích hợp nhứt với họ; c̣n đối với những thí sinh trẻ tuổi th́ có khi Chân
Sư đưa đến cho họ một công việc nhất định và xem y làm công việc ấy như thế
nào. Đôi khi Ngài cũng chiếu cố gởi đến cho họ những lời khích lệ và dạy bảo
đặc biệt.
Để giúp đỡ những thí sinh trẻ tuổi khác muốn
bước chân lên đường Đạo, chúng tôi xin trích ra dưới đây một vài đoạn trong
những bức thông điệp dạy bảo của Chân Sư.
LỜI DẠY BẢO CỦA CHÂN SƯ
TRƯỜNG
HỢP A.-
"Ta biết rằng mục đích duy nhứt của đời con là phụng
sự Hội Quần Tiên. Tuy nhiên, con chớ quên rằng trước mặt con c̣n có nhiều
nấc thang cao hơn mà con phải vượt qua, và sự tiến bộ trên đường Đạo đ̣i hỏi
một sự thức tỉnh và cảnh giác luôn luôn không ngừng. Không những con phải
luôn luôn sẵn sàng phụng sự, mà
con c̣n phải t́m ra những cơ hội, hoặc tạo nên những cơ hội để phụng sự
trong những công việc nhỏ, để cho con sẽ không bỏ lỡ những cơ hội lớn lao
hơn khi nó xảy đến.
"Con
chớ có một lúc nào quên sự liên hệ của con với đường Đạo nhiệm mầu; đối với
con, nó phải là một nguồn cảm hứng luôn luôn sẵn sàng một bên, không những
để làm tấm khiên chống lại những tư tưởng vô ích nó lởn vởn ở chung quanh
chúng ta, mà c̣n là một sự kích thích thường xuyên cho sự hoạt động tâm
linh. Những điều vô ích và nhỏ mọn của đời sống hằng ngày phải là những điều
"không thể được" đối với con, mặc dầu nó không phải là quá tầm hiểu biết và
thông cảm của chúng ta. Sự an lạc tuyệt vời của quả vị Chân Tiên tuy chưa
đến với con, nhưng con nên nhớ rằng con vẫn là
MỘT
với những đấng Cao Cả hiện đang sống cuộc đời siêu việt đó. Con là người đem
gieo rắc ánh sáng của Ngài cho thế gian, và bởi đó con cũng phải là những
ngôi mặt trời sáng lạn ban rải t́nh bác ái và nguồn vui ở cơi trần. Thế gian
có thể không hiểu biết, không thông cảm, nhưng bổn phận của con là phải làm
những việc phi thường.
"Con chớ có nghỉ ngơi và tự măn với những thành
tích đă có hiện thời; con c̣n phải đạt tới nhiều bậc cao hơn nữa. Con chớ
quên phát triển phần trí huệ, nhưng đồng thời cũng phải tăng trưởng thêm các
đức tính thiện cảm, ưu ái, và khoan dung. Mỗi người phải biết rằng người
khác có những quan điểm khác hẳn với chúng ta và cũng cần được chú ư như của
ta. Mọi lời nói nặng nề hay thô bỉ, mọi khuynh hướng hay căi lư, đôi co đều
phải được loại trừ một cách tuyệt đối. Người nào hay có tánh đó, phải đè nén
nó ngay khi nó vừa muốn dậy lên; y phải nói ít và luôn luôn nói một cách
thanh bai và có lễ độ.
Con chớ khi nào mở miệng nói mà không nghĩ
trước rằng điều con muốn nói có dễ thương và hữu lư hay không. Người nào cố
gắng tập lấy ḷng bác ái, sẽ thoát khỏi nhiều điều lầm lạc. Ḷng bác ái là
đức tính tối thượng, không có nó th́ những đức tính khác chẳng qua chỉ là
"tưới nước trên băi sa mạc".
"Những tư tưởng và dục t́nh xấu xa phải được
hoàn toàn dứt bỏ; con phải chiến thắng chúng nó cho đến khi nào nó không c̣n
trở lại với con được nữa. Những cơn nóng giận làm xao động biển tâm thức yên
lặng của Hội Quần Tiên. Sự kiêu căng phải được loại bỏ,
v́ nó là một chướng ngại lớn cho sự tiến bộ.
Con cần phải có một sự hoàn toàn tế nhị trong tư tưởng và lời nói; đó là cái
hương vị của sự khôn khéo bặt thiệp nó không bao giờ làm đụng chạm hay mất
ḷng kẻ khác. Những điều đó tuy khó thực hiện, nhưng nếu con muốn, con sẽ
đạt được.
"Công việc phụng sự nhất định, chớ không phải
sự vui chơi, phải là mục đích của con. Con hăy nghĩ tới, không phải điều ǵ
con muốn làm, mà những điều ǵ con có thể làm để giúp đỡ người khác; con hăy
tự quên ḿnh và chú ư đến kẻ khác. Một vị đệ tử phải tốt lành, sốt sắng và
hay giúp đỡ, không phải chỉ một đôi khi, nhưng bất cứ lúc nào cũng vậy. Con
hăy nhớ rằng giờ phút nào mà con không dùng để phụng sự hoặc để dọn ḿnh cho
công việc phụng sự, đều là thời gian lăng phí đối với chúng ta.
Khi nào con tự xét thấy có những thói xấu hẳn
ḥi, con hăy có can đảm tự sửa chữa một cách cương quyết. Với sự kiên nhẫn,
con sẽ thành công, ví đó là một vấn đề ư chí. Con chớ bỏ lỡ những cơ hội và
những lời khuyên bảo tốt; con hăy trở nên một kẻ có đầy năng lực. Ta luôn
luôn sẵn sàng để giúp đỡ con; nhưng Ta không thể làm công việc thế cho con;
sự cố gắng phải do tự con mà ra. Con hăy làm mọi việc hằng ngày cho được chu
đáo và sống một cuộc đời hoàn toàn trung kiên với lư tưởng phụng sự".
*
TRƯỜNG-HỢP B.-
"Cho tới nay con đă sử dụng đứng đắn nhưng Ta muốn cho con làm hay hơn thế
nữa. Ta đă thử thách con bằng cách đưa đến cho con những cơ hội giúp đỡ, và
cho đến nay, con đă thi hành đúng đắn. Từ nay Ta sẽ đưa đến cho con nhiều cơ
hội quan trọng hơn, và sự tiến bộ của con sẽ tùy nơi cách mà con nh́n nhận
và sử dụng những cơ hội đó. Con hăy nhớ rằng phần thưởng cho một công việc
hoàn thành mỹ măn, là cái cơ hội đưa đến nhiều công việc hơn nữa, và sự
trung thành trong những công việc nhỏ sẽ đưa đến những cơ hội phụng sự lớn
lao quan trọng hơn.Ta hy cọng có thể đem con đến gần Ta hơn một ngày gần
đây, để cho con có thể giúp đỡ những kẻ đồng loại cùng đi trên đường Đạo đưa
đến Chân Sư. Con hăy biết ơn bề trên đă cho con có một khả năng thương yêu
rộng lớn, biết gieo rắc ánh sáng trên thế gian, ban rải điều lành và làm
việc thiện một cách dồi dào không tiếc thân. Điều đó rất tốt, nhưng con hăy
coi chừng trong cái bông hoa bác ái đó có ẩn một đốm nhỏ kiêu căng, cũng như
trong một cái bông có một đốm đen nó sẽ lớn lần lần làm hư cả cái bông. Một
vị Chân Sư có nói rằng: "Con hăy khiêm tốn nếu con muốn đạt được sự Minh
Triết; và khi con đă đạt được sự Minh Triết ấy rồi th́ con lại càng phải
khiêm tốn hơn nữa". Con hăy nuôi lấy đức tánh khiêm nhượng đó cho đến khi
nào nó hoàn toàn thấm nhuần khắp cả mọi thớ thịt trong người của con.
"Khi con cố gắng tiến đến sự hợp nhất, th́ chưa
phải là đủ để hấp dẫn kẻ khác lại với ḿnh và bao trùm họ với cái hào quang
của con làm cho họ hợp nhất với
con. Làm được điều đó tất nhiên đă là nhiều lắm, tuy nhiên con c̣n phải tiến
xa hơn nữa. Con hăy tự đặt ḿnh ở vị trí của họ, đi sâu vào tận đáy ḷng của
họ và thông cảm với họ. Làm điều đó không phải với sự tọc mạch, v́ quả tim
của một huynh đệ là một chỗ vừa kín đáo vừa thiêng liêng, không nên bươi móc
hoặc đem ra phê b́nh. Trái lại, con hăy cố gắng t́m hiểu, thông cảm, và cứu
giúp. Chỉ trích kẻ khác theo cái quan điểm riêng của ḿnh là một điều rất
dễ, nhưng hiểu biết và thương yêu họ mới là khó hơn, và đó chính là phương
tiện duy nhất để đem họ lại gần ḿnh. Ta muốn cho con tiến bộ mau chóng để
Ta có thể dùng con trong công việc phụng sự, và để giúp con mau thực hiện
điều đó, Ta ban ân huệ cho con".
Trường hợp C.-
"Này hiền nữ, con đă làm được điều lành bằng cách gieo ảnh hưởng chung quanh
con để giáo hóa những phần tử thấp kém hơn và giúp đỡ một linh hồn trong
sạch trên đường đến Chân Sư... Đó là một ngôi sao sáng sẽ chiều diệu luôn
luôn trên chiếc măo danh vọng của con. Con hăy tiếp tục và nh́n xem c̣n
những ngôi sao sáng nào mà con có thể gắn thêm trên chiếc măo của con. Công
việc làm tốt lành của con đă làm cho Ta có thể đem con lại gần Ta sớm hơn.
Không có phương pháp tiến hóa nào mau chóng và chắc chắn hơn là gặp một
người bạn ngày xưa, v́ hai người cùng làm việc chung với nhau sẽ có hiệu quả
nhiều hơn là nếu họ phân chia đôi ngă để cùng làm một việc và phung phí cũng
bấy nhiêu sinh lực. Con đă khởi đầu một cách đúng phép, vậy con hăy tiếp tục
tiến bước theo đường lốivạch sẵn với một ḷng quả cảm và tin tưởng.
Trường hợp D.-
"Con hăy nhận lời đón mừng Ta, v́ con là người đệ tử mới nhất trong nhóm.
Không phải là một điều dễ dàng mà tự quên ḿnh một cách tuyệt đối và hoàn
toàn hiến dâng cho việc phụng sự thế gian, nhưng điều mà ta phải làm là sống
cách nào để trở nên một nguồn ân huệ cho kẻ khác, và làm công việc phụng sự
được giao phó cho ta. Bắt đầu làm việc lành trên bước đường tiến hóa của
ḿnh là hay lắm, nhưng hăy c̣n nhiều việc phải làm. Con hăy đè nén sự giận
hờn khi nó vừa dậy lên trong ḷng con, và hăy sẵn sàng đón nhận những lời
khuyên và những bài học. Con hăy vun trồng đức khiêm tốn, hy sinh bản thân
ḿnh và hăy có một ḷng sốt sắng nồng nhiệt để phụng sự. Bằng cách đó, con
sẽ trở nên một khí cụ tốt trong tay của Đức Thầy, một chiến sĩ trong đạo
binh của đấng Cứu Thế. Để giúp con thực hiện điều đó, bây giờ Ta nhận con
làm đệ tử dự bị".
Nhiều người có thể lấy làm ngạc nhiên về tánh
cách vô cùng giản dị của những lời khuyên bảo kể trên. Thậm chí họ có thể
coi nó như không đáng kể, không đủ để hướng dẫn và giúp đỡ kẻ khác trong cái
xă hội vô cùng phức tạp của nền văn minh hiện tại. Nhưng nghĩ như thế tức là
quên rằng chính cái tinh hoa trong đời người đệ tử là phải dẹp qua một bên
tất cả những sự phức tạp đó, và theo lời của Chân Sư, th́ "ta phải từ bỏ cái
thế giới của chúng ta để bước vào cái thế giới của Ngài". Như thế, người ta
bước vào một thế giới của tư tưởng, mà sự sinh hoạt rất giản dị và theo một
đường lối rơ rệt, trong đó điều lành và điều dữ đều được quy định phân minh,
và trước mặt chúng ta mở ra những đường lối rơ ràng và minh bạch. Người đệ
tử phải sống một cuộc đời giản dị, chính cái giản dị thật sự đó mới làm cho
ta có thể tiến bộ về tâm linh. Chúng ta đă làm cho đời sống của ta trở nên
một cuộc đời xáo trộn và vô định, đầy dẫy những sự lầm lẫn, một cơn băo tố
gồm có những ngọn gió thổi ngược nhau trong đó kẻ yếu bị lụn bại và ngă quỵ.
Người đệ tử Chân Sư phải mạnh dạn và tốt lành, y phải tự điều khiển cuộc đời
của ḿnh và làm cho nó được giản dị, với một sự giản dị thiêng liêng. y phải
có trí lực quét sạch mọi sự xáo trộn, lầm lẫn do con người tạo ra, và y phải
đi thẳng như mũi tên đến ngay mục đích của ḿnh.
Chúng ta không thể bước vào cơi thiên đường,
trừ phi chúng ta thức tỉnh và trở lại ngây thơ như trẻ con".
Và ta nên nhớ rằng cảnh Thiên đường đó, chính
là Hội Quần Tiên gồm cả các đấng Chân Tiên, Đại Thánh.
Theo những đoạn trích lục kể trên, người ta
thấy cái lư tưởng mà Chân Sư đặt cho các vị đệ tử, nó cao cả là dường nào.
Có lẽ đối với một vài đệ tử, cái lư tưởng đó dường như là một sự "khuyên bảo
tối hậu", nói một cách khác, nó là một cái lư tưởng hay một mục đích không
phải để đạt được một cách trọn vẹn ngay bây giờ, nhưng mà họ phải luôn luôn
cố gắng để đi đến. Tuy rằng tất cả những thí sinh đều nhằm một lư tưởng cao
cả,
nhưng không một ai có thể đạt được mục đích một cách
trọn vẹn, v́ nếu họ đạt được, th́ họ đă không cần phải đầu thai để sống kiếp
sống dưới trần. Tất cả chúng ta đều hăy c̣n cách rất xa cái đích toàn thiện,
nhưng những người thiếu niên được đến gần Chân Sư đều có một cơ hội rất tốt
đẹp, v́ họ c̣n trẻ và dễ uốn nắn, bởi đó họ loại trừ thói hư tật xấu dễ dàng
hơn là những người lớn tuổi. Nếu họ có thể tập lấy thói quen lúc nào cũng có
một quan điểm chính đáng, hành động với những lư do chánh đáng, và suốt đời
có một thái độ chính đáng, th́ chắc chắn là họ sẽ lần lần tiến đến cái lư
tưởng của Chân Sư. Nếu người đệ tử dự bị có thể nh́n thấy, trong cơn thức
tỉnh ở cơi Hạ giới, những chiếc h́nh nộm mà Chân Sư đă tạo nên, th́ y sẽ
hiểu rơ ràng hơn tánh cách quan trọng của điều mà lúc thường y cho là những
chi tiết phụ thuộc.
TÁNH NÓNG NẢY
Tánh nóng nảy là một chướng ngại thông thường.
Như tôi đă giải thích ở trên, đó là một điều thường xảy ra trong cái thế hệ
văn minh hiện tại, do nơi thần kinh hệ bị quá căng thẳng. Phần đông, chúng
ta sống giữa những tiếng động ồn ào; tiếng động làm rung chuyển thần kinh hệ
và gây nên sự bực dọc, khó chịu.
Nhiều người sau khi họ đến những nơi phố phường
đông đúc, chợ búa ồn ào của thành phố lớn, lúc về nhà họ cảm thấy mệt mỏi,
tinh thần dă dượi. Đó là một điều bất lợi mà tất cả những người nhậy cảm đều
biết. Sự mệt mỏi chán nản đó cũng do nhiều yếu tố khác gây nên, nhưng phần
chính là do tiếng động và cũng do áp lực của nhiều Thể Vía rung động với
nhiều nhịp độ khác nhau, những Thể Vía này đều bị xáo trộn và kích thích do
những cớ lặt vặt không đâu. Trong t́nh trạng đó, khó mà tránh được sự bực
dọc, nóng nảy, nhứt là người đệ tử có những Thể thanh bai và nhạy cảm hơn
người thường.
Sự nóng nảy đó tự nhiên là chỉ phớt qua bề
ngoài, nó không có bề sâu. Tuy thế, nếu có thể được, ta nên tránh một cơn
nóng nảy dầu rằng chỉ thoáng qua bên ngoài bởi v́ những hậu quả của nó sẽ
c̣n tồn tại rất lâu hơn là ta tưởng. Cũng như trong một cơn băo tố, trước
hết gió làm biển động, sóng nổi ba đào, nhưng sóng biển vẫn c̣n tồn tại rất
lâu sau khi cơn gió dứt hẳn. Đó là ảnh hưởng của gió lớn trên mặt nước, mà
nước là một chất khá nặng trọc, c̣n chất của Thể Vía th́ vô cùng tế nhị hơn
chất nước, cho nên những rung động gây nên trong Thể Vía làm cho chất ấy dậy
lên một cách sâu xa hơn nhiều, và tạo nên một hậu quả lâu dài hơn. Một cảm
xúc khó chịu, bực dọc, tuy nhẹ và thoáng qua chỉ trong độ mười phút là quên
mất, có thể gây nên trong Thể Vía một ảnh hưởng kéo dài 48 giờ và những sự
rung động của nó chỉ trở lại b́nh thường sau một thời gian rất lâu.
Khi ta nhận thấy ḿnh có tánh xấu đó, ta có thể
diệt trừ nó, không phải bằng cách chú ư đến nó, mà bằng cách cố gắng tạo nên
một đức tánh tương phản lại. Một phương pháp giản dị là dùng tư tưởng mạnh
mẽ để chống lại nó, nhưng phương này chắc chắn sẽ gặp sự phản ứng dữ dội của
những tiềm thức của Thể Vía và Thể Trí. Bởi đó ta nên tập lấy tánh hay chú
trọng đến kẻ khác, căn cứ trên t́nh thương của ta đối với họ. Một người giàu
t́nh thương và ḷng ưu ái đối với kẻ khác không khi nào có những lời nói hay
tư tưởng đầy sự nóng nảy đối với họ. nếu y hiểu rơ điều này, y cũng sẽ gặt
hái một kết quả tốt tương tự, mà không gây nên phản ứng của các Thể.
TÁNH ÍCH KỶ
Tánh ích kỷ có nhiều h́nh thức khác nhau, có
thể làm chậm trễ sự tiến bộ của người đệ tử. Tánh lười biếng là một trong
những h́nh thức đó. Tôi có thấy một người mê đọc sách đến nỗi y không chịu
rời quyển sách ấy kịp thời để giữ cho đúng hẹn. Một người khác viết chữ rất
tháu, không cần biết rằng điều đó làm cho những người đọc chữ của y bị mỏi
mắt và khó chịu.
Những sự cẩu thả đó làm cho đương sự bị kém
nhạy cảm hơn đối với những ảnh hưởng thanh cao, gây ra cho kẻ khác sự rối
rắm và phiền năo, làm mất đức tánh tự chủ và khả năng hành động. Những đức
tánh này, cùng với sự đúng đắn, đều rất cần thiết cho công việc phụng sự. Ít
người có cái khả năng hành động nói trên: khi một công việc nhứt định được
giao phó cho họ, họ không thi hành cho được trọn vẹn và viện đủ lư lẽ đẻ bào
chữa cho sự cẩu thả của ḿnh. Hoặc nếu người ta hỏi họ về một tài liệu nào
đó, họ không biết phải t́m ở đâu. Về điểm này, có nhiều người sử xự khác
nhau; có người chỉ trả lời vắn tắt: "Tôi không biết"; trong khi đó một người
khác trả lời rằng: "Tôi không biết, nhưng tôi sẽ đi t́m", và người này trở
lại với cái tài liệu mong muốn. Một người định bắt tay vào việc, nhưng trở
lại và nói rằng y không thể làm được việc đó, có người lại cố gắng và bền
chí cho đến khi y thành công.
Trong mọi công việc hữu ích, trong những trường
hợp có lẽ không quan trọng về mặt vật chất, nhưng có giá trị rất lớn về
phương diện tâm linh, người thí sinh phải luôn luôn nghĩ đến sự lợi ích mà
công việc ấy sẽ đem lại cho kẻ khác và cái cơ hội để phụng sự Chân Sư, chớ
không nghĩ đến cái nghiệp tốt do công việc ấy đưa đến cho ḿnh, v́ điều này
cũng là một h́nh thức rất tế nhị của thói vị kỷ. Chúng ta hăy nhớ đấng
Christ có nói rằng: "Bất cứ điều ǵ mà người ta đă làm để giúp đỡ một kẻ hèn
mọn nhất, th́ điều đó chính người đă làm cho Ta vậy".
Những h́nh thức tế nhị khác của thói ích kỷ
thuộc cùng loại kễ trên cụng được biểu lộ nơi sự ngă ḷng, tánh ghen tuông
và sự tranh dành quyền lợi. Một vị Chân Sư có nói rằng: "Con hăy nghĩ ít hơn
đến quyền lợi, và nghĩ nhiều hơn đến bổn phận của con".
Có những trường hợp mà người thí sinh phải giao
dịch với thế giới bên ngoài, và cần phải bày tỏ một cách lịch sự những ǵ mà
y cần dùng, nhưng đối với những bạn đồng môn của y, th́ không thể có vấn đề
quyền lợi, mà chỉ có những cơ hội. thường thường, khi một người gặp một điều
ǵ trái ư, th́ y biểu lộ sự bực dọc, ham gây gỗ; có thể y không đến nỗi đi
đến sự thù ghét, nhưng dù sao trên Thể Vía của y cũng hiện ra một ánh màu
đục, nó cũng ảnh hưởng đến Thể Trí của y.
SỰ ÂU LO
Những sự xáo trộn tương tự thường được gây ra
trong Thể Trí, và có những hậu quả tai hại không kém. Nếu một người có sự lo
âu phiền muộn về một vấn đề ǵ, và đảo đi đảo lại vấn đề ấy trong trí mà
không đi đến một kết cuộc nào, th́ y tạo nên một cơn băo tố trong Thể Trí
của y. V́ những làn sóng rung động ở mức độ đó vô cùng tế nhị, nên danh từ
"băo tố" chỉ diễn tả được một phần sự thật mà thôi. Ta có thể tưởng tượng
cái hậu quả gây ra như là một vết lở loét ở trong Thể Trí, một vết thương do
sự cọ sát gây nên. Đôi khi chúng ta gặp những người hay đôi co, họ luôn luôn
căi cọ về bất cứ vấn đề ǵ, và họ thích căi vă đến nỗi họ không cần biết họ
đứng về khía cạnh nào của vấn đề. Một ngưới như thế có một Thể Trí luôn luôn
sôi động, và sự sôi động đó, khi nó gặp một sự khiêu khích rất nhẹ, cũng đủ
nổ bùng ra bất cứ lúc nào và gây ra một vết thương lở loét. Một người như
thế không có hy vọng tiến hóa trên đường Huyền Môn, trừ phi y tự sửa đổi
bằng cách đem sự thăng bằng và hợp lư vào cuộc đời của y.
Một điều hay cho chúng ta là những t́nh cảm tốt
lành tồn tại lâu hơn là những dục vọng xấu xa, v́ chúng biểu lộ ở phần thanh
bai tốt đẹp của Thể Vía. Hậu quả của t́nh thương đậm đà hay ḷng sùng tín
mạnh mẽ tồn tại nơi Thể Vía rất lâu sau khi người ta đă quên mất cái trường
hợp nào đă tạo ra nó. Cũng có thể có hai loại rung động mạnh mẽ cùng xảy ra
một lúc trong Thể Vía, thí dụ như t́nh thương và sự giận hờn, mặc dầu trường
hợp này hơi bất thường. Trong cơn giận dữ, người ta không thể có một t́nh
thương đậm đà, trừ phi cơn nóng giận đó là một sự bất b́nh chánh đáng. Trong
trường hợp đó, những hậu quả của hai loại t́nh cảm này sẽ cùng đi đôi với
nhau, một loại ở vào mực độ cao hơn loại kia rất nhiều, và v́ thế nên nó tồn
tại lâu hơn.
SỰ VUI CƯỜI
Những bạn thanh niên nam nữ nh́n đời qua khía
cạnh vui tươi, thường hay nô đùa; họ muốn đọc và nghe những chuyện hài hước,
và cười đùa vui vẻ; đó cũng là sự tự nhiên chánh đáng, và không có hại. Nếu
người ta có thể nh́n thấy những rung động do sự vui vẻ cười đùa gây nên, họ
sẽ thấy rằng Thể Vía của đương sự hơi xao động, giống như sự rung rinh của
lá gan trong khi người ta cưỡi ngựa.
Điều đó là tốt và vô hại. C̣n những chuyện thiếu lâm thô tục do những kẻ có
tâm địa xấu kể lại, th́ có những hậu quả vô cùng xấu xa. Những chuyện đó gây
nên những h́nh tư tưỡng rất gớm ghiếc, nó bàm lấy Thể Vía trong một thời
gian rất lâu, và hấp dẫn mọi thứ vong linh thấp thỏi xấu xa lại gần. Những
thí sinh muốn gần Chân Sư phải hoàn toàn dứt bỏ sự thô bỉ đó cũng như tất cả
những ǵ xấu xa thô kệch, và những thí sinh trẻ tuổi phải luôn luôn coi
chừng đừng để rơi vào cái t́nh trạng vô trách nhiệm và dại dột.
Có vài bạn trẻ thỉnh thoảng hay cười ngả ngớn;
họ phải bỏ điều ấy với bất cứ giá nào, v́ nó gây một ảnh hưởng rất xấu trên
Thể Vía. Nó dệt chung quanh Thể Vía một hệ thống đường chằng chịt màu xám
đục coi rất xấu xa, và tạo nên một lớp dày đặc ngăn trở những ảnh hưởng tốt
từ cơi trên. Bởi đó những thanh niên nên giữ ǵn đừng để cho phạm vào tật
xấu này. Các bạn hăy vui vẻ và sung sướng một cách tự nhiên, Chân Sư muốn
thấy các bạn vui vẻ v́ nó làm cho bước tiến của các bạn được dễ dàng, nhưng
hăy coi chừng đừng để cho sự vui của các bạn nhuộm một màu thô bỉ hay ô
trược bất cứ về loại nào. Không nên cười to quá, và cũng đừng cười ngả ngớn
một cách bất lịch sự.
Trong vấn đề này cũng như mọi vấn đề khác, có
một đường ranh giới rơ rệt phân biệt những việc ǵ vô hại với những việc ǵ
có hại. Phương pháp chắc chắn nhứt để biết rơ trong vấn đề này, là nhận định
xem sự vui cười của ta có vượt quá mức thanh bai và tế nhị không? Nếu có
nghĩa là nếu trong sự vui đùa của ta có ít nhiều sự thô bỉ, làm mất tánh
cách thanh bai của nó, th́ chúng ta đă bước vào ṿng nguy hiểm. Nói về khía
cạnh siêu h́nh của sự phân biệt đó, là khi nào Chân Nhân hoàn toàn kiểm soát
được Thể Vía của ta, th́ tốt: c̣n khi nào nó để cho Thể Vía buông lung, làm
cho sự cười đùa trở nên trống rỗng và vô ư nghĩa, th́ nó chẳng khác nào như
ngựa lỏng dây cương chạy quàng xiên, không lề lối. Một Thể Vía buông lung
như thế dễ bị làm mồi cho mọi ảnh hưởng thoáng qua, dễ bị ảnh hưởng bởi
những tư tưởng và dục vọng xấu xa thấp hèn. Sự vui đùa của ta cũng phải được
giữ ǵn cho tinh khiết, không bị ô nhiễm bởi sự khoái trá độc ác trước sự
đau khổ của người khác. Nếu ta thấy một người bị cơn tai nạn đau khổ, ta chớ
nên đứng yên mà cười một cách vô vị về cái khía cạnh hài hước của sự tai
nạn, mà phải chạy tới nơi lập tức để giúp đỡ và an ủi. T́nh thương và ḷng
sốt sắng giúp đỡ phải luôn luôn là những đức tánh trội nhất của chúng ta.
NHỮNG LỜI NÓI VÔ ÍCH
Người có Thần Nhăn nh́n thấy hậu quả của những
dục vọng thấp hèn trên các Thể thanh của con người, liền hiểu tại sao ta cần
phải chế ngự những dục vọng đó và tánh cách quan trọng của nó là như thế
nào. Nhưng v́ phần đông chúng ta không thấy được cái hậu quả đó, chúng ta
rất dễ quên và hay cẩu thả. Những lời nói bâng quơ, không suy nghĩ, cũng gây
nên một hậu quả tương tự. Đức Chúa Christ có nói rằng với mỗi lời nói vô vị
mà con người thốt ra, y phải trả lời về cái tội đó vào Ngày Phán
xét cuối cùng. Điều này có vẻ quá nghiêm khắc,
và nếu quan niệm về Ngày Phán xét của phái chính thống là đúng, th́ đó là
một sự bất công và độc ác. Ngài không phải nói rằng mỗi lời nói vô vị sẽ kết
tội một người vào Hỏa Ngục đời đời, v́ điều này không bao giờ có. Nhưng
chúng ta biết rằng mỗi lời nói và tư tưởng đều có tạo nên nghiệp quả, và khi
những điều vô ích và dại dột được lặp đi lặp lại nhiều lần, th́ nó tạo nên
chung quanh ta một bầu không khí làm cho ta bị ngăn cách với những ảnh hưởng
tốt từ cơi trên. Muốn tránh điều đó, th́ cần phải luôn luôn giữ ǵn. Muốn
cho một người luôn luôn giữ ḿnh một cách chặt chẽ không lúc nào quên, có lẽ
là một cái lư tưởng quá sức của con người, nhưng dầu sao những người đệ tử
đều là những người đang cố gắng để trở nên những bậc Siêu Nhân. Nếu người đệ
tử có thể sống cuộc đời đạo hạnh hoàn toàn, th́ y đă trở nên một vị Chân Sư.
Hiện thời y chưa đạt tới quả vị đó, nhưng nếu y luôn luôn nhớ đến cái lư
tưởng của ḿnh, th́ y có thể tiến đến gần mục đích hơn. Mỗi lời nói vô ích
mà người đệ tử thốt ra sẽ ảnh hưởng đến sự liên quan của y đối với đức Thầy.
Bởi đó, y phải coi chừng và giữ ǵn lời nói một cách vô cùng thận trọng.
TÁNH HẤP TẤP VÀ KHOE KHOANG
Người thí sinh cần phải tránh sự lăng xăng hấp
tấp và sự khoa trương bản ngă của ḿnh. Có nhiều kẻ phụng sự sốt sắng và
chân thành làm cho những cố gắng của ḿnh bị hư hỏng và trở nên vô hiệu quả,
chỉ v́ họ có thói xấu đó. Người ấy tạo nên chung quanh ḿnh một cái hào quan
grung động lộn xộn đến nỗi không có một tư tưởng hay t́nh cảm nào đi xuyên
qua mà không bị xiêu vẹo, và như thế những tư tưởng tốt lành của họ cũng bị
mất cả hiệu lực. Ta hăy làm mọi việc một cách đúng đắn, nhưng với sự trầm
tĩnh tuyệt đối, không hấp tấp hay khoe khoang.
Một điểm khác mà người học Đạo cần biết là
trong khoa Huyền Môn, những lời nói của chúng tôi đều có một ư nghĩa rất
đúng đắn.
Khi người ta đưa ra một luật lệ cấm không ai
được nói xấu hay chỉ trích, mà chỉ nói những lời nhân từ đối với kẻ khác,
th́ ta phải theo luật lệ một cách đúng sát từ chữ, chớ không phải muốn hiểu
cách nào cũng được tùy theo ư ḿnh. Điều lệ trên không có nghĩa là chúng ta
phải giảm bớt một ít những lời nói chỉ trích hay không được tốt lành mà ta
thốt ra hằng ngày, mà có nghĩa là chúng ta phải dứt bỏ hoàn toàn và vĩnh
viễn những lời nói như thế.
Chúng ta đă nghe quen tai những lời chỉ giáo về
luân lư, mà không ai có vẻ muốn thực hành một cách nghiêm trang, nên ta có
thói quen tưởng rằng chỉ chấp nhận suông, hoặc thỉnh thoảng làm theo những
lời chỉ giáo một cách sơ sài là đủ, và đó là tất cả những ǵ tôn giáo bắt
buộc ta phải làm. Chúng ta phải hoàn toàn dứt bỏ cái thái độ đó và hiểu rằng
cần phải vâng lời tuyệt đối và sát nghĩa từng chữ những lời giáo huấn của
Chân Sư, hoặc của một vị đệ tử cao cấp của Ngài.
GIÁ TRỊ CỦA SỰ TẬP ĐOÀN
Sự có mặt của một vị cao đồ của Chân Sư thường
là một sự giúp đỡ rất lớn cho người thí sinh dự bị hoặc đă được thâu nhận.
Ở Ấn Độ thời cổ, khi một vị tôn sư chọn đệ tử,
người thường quy tựu họ lại thành một nhóm và đem họ theo mỗi khi người đi
đến bất cứ nơi nào. Thỉnh thoảng, người dạy họ một vài điều, nhưng thường
th́ họ không nhận được lời giáo huấn nào cả. Tuy nhiên, họ cũng tiến bộ rất
mau bởi v́ họ được hào quang của Tôn Sư luôn luôn bao phủ và thấm nhuần lấy
họ thay v́ bị bao vây chung quanh bởi những ảnh hưởng của trần gian. Vị Tôn
Sư cũng giúp đỡ họ trong việc đào luyện tánh t́nh, và luôn luôn xem xét họ
một cách tỉ mỉ. Những đấng Chân Sư của chúng ta không thể áp dụng phương
pháp đó trên thế qian, nhưng đôi khi các Ngài cũng sắp đặt để cho những vị
đệ tử cao niên thay mặt các Ngài có thể quy tụ chung quanh họ một nhóm thí
sinh trẻ tuổi, và săn sóc họ từng người, cũng như một người làm vườn săn sóc
những cây kiểng, ban rải cho họ ngày đêm những ảnh hưởng cần thiết để làm
thức động một vài đức tánh, hay tăng cường những điểm yếu kém. Vị cao đồ của
Chân Sư ít khi nhận chỉ thị trực tiếp về công việc đó, mặc dầu một đôi khi
Chân Sư có thể đưa ra vài ư kiến hoặc lời phê b́nh.
Việc tựu họp thành nhóm cũng có thể giúp cho sự
tiến bộ của những thí sinh. Họ cùng chia sớt và chịu ảnh hưởng của những lư
tưởng cao thượng, điều đó làm phát triển mau chóng những đức tánh tốt lành.
Theo Luật Nhân Quả, người có chí nguyện sẽ được dắt dẫn đến gần một vị tiến
hóa hơn y trên đường Đạo và được giúp đỡ rất nhiều tùy theo khả năng tiếp
nhận của y. Theo lệ thường, Chân Sư không có trực tiếp nâng đỡ một người nào
trừ phi y đă có tiếp xúc với một vị đệ tử cao cấp của Ngài để d́u dắt và
giúp đỡ y. Tuy nhiên vẫn có những trường hợp ngoại lệ, và mỗi vị Chân Sư đều
có phương pháp riêng để đối xử với những đệ tử của Ngài. bà Annie Besant có
kể một trường hợp mà Chân Sư thường hay gởi đệ tử đi đến những nơi xa xôi
hẻo lánh, để cho họ có thể tự cường bằng cách tự ḿnh phát triển lấy những
khả năng của ḿnh với một sự giúp đỡ tối thiểu từ bên ngoài. Mỗi đệ tử đều
được giáo huấn theo một phương pháp thích hợp nhứt cho họ.
CHƯƠNG V
THỜI KỲ
NHẬP MÔN
Mặc dầu việc Chân Sư
chánh thức thâu nhận đem đến một sự thay đổi lớn lao trong đời của người đệ
tử, nhưng cuộc lễ nhập môn cũng không có nhiều nghi thức hơn bao nhiêu so
với cuộc lễ vào hàng đệ tử Dự bị. Dưới đây là bài tường thuật một cuộc lễ
nhập môn của vài vị đệ tử trẻ tuổi, để cho độc giả có thể so sánh với cuộc
lễ Dự bị đă miêu tả trước đây.
MỘT CUỘC LỄ NHẬP MÔN CHÁNH THỨC
Như thường lệ, chúng
tôi đến nhà đức Chân Sư Kuthumi, và thấy Ngài đang cùng với đức Chân Sư
Morya ngồi nói chuyện. Chúng tôi đứng ngoài một lúc, nhưng Chân Sư gọi chúng
tôi đến gần với một nụ cười tiếp đón vui vẻ, và chúng tôi cúi lạy Ngài như
mọi khi.
Người thí sinh thứ nhứt, mà đức Thầy của y đă
có lần gọi là "một Ngôi sao bác Ái" có một ḷng yêu kính rất sâu xa đồi với
đức Thầy và coi Ngài như một đấng Từ Phụ, y cảm thấy thoải mái tự nhiên ở
tại nhà Ngài, mặc dầu y bao giờ cũng nói chuyện với Ngài với một tấm ḷng
cung kính rất mực. Thật là một điều tốt đẹp mà thấy y ở gần đức Thầy.
Trong dịp đó, đức Thầy mỉm cười một cách rất
dịu dàng và nói với y: "Con đă quyết định làm việc dưới sự d́u dắt của Ta và
hiến ḿnh để phụng sự nhân loại chăng?"
Người thiếu niên sốt sắng trả lời rằng y đă
quyết định như vậy, và đức Thầy nói tiếp: "Ta rất hài ḷng về những cố gắng
mà con đă làm, và hy vọng rằng con sẽ tiếp tục như thế. Con chớ quên, trong
giai đoạn mới mà con sẽ bước qua những ǵ Ta đă nói với con cách đây mấy
tháng. Công việc làm và ḷng dũng cảm của con đă làm cho Ta có thể thâu ngắn
thời kỳ dự bị của con, và ta rất vui ḷng mà thấy con đă chọn lựa con đường
ngắn nhứt trong tất cả mọi con đường tiến bộ, là dắt dẫn những linh hồn khác
cùng với con đi trên đường Đạo. T́nh thương vô kỷ tuyệt đối là cái quyền
năng mạnh mẽ nhứt trên thế gian, nhưng ít có người có thể giữ cho nó được
tinh khiết, khỏi bị ô nhiễm bởi sự lợi dụng và ghen tuông, dẫu cho đó chỉ là
t́nh thương đối với một người. Sự tiến bộ của con là do bởi con đă giữ cho
ngọn lửa bác ái trong ḷng con luôn luôn chói rạng. Con đă cố gắng nhiều để
phát triển sức tự cường, nhưng con c̣n cần dùng nhiều hơn thế nữa. Con phải
sở đắc tánh phân biện và sự mau mắn, nhậm lẹ, để con có thể thấy sự ǵ cần
phải làm vào đúng lúc, thay v́ chậm hơn mười phút sau. Trước khi nói năng,
hành động, con hăy suy nghĩ kỹ về những hậu quả của nó sau này sẽ như thế
nào. Nhưng con đă sử xự rất đúng và Ta rất hài ḷng về con".
Kế đó,
đức Thầy để mỗi bàn tay lên đầu của mỗi thí sinh, và
nói: "Ta thâu nhận con làm đệ tử theo nghi lễ cổ truyền".Rồi Ngài đem mỗi
thí sinh vào trong ṿng hào quang của Ngài để cho mỗi người được thấm nhuần
từ điển của Ngài trong giây lát. Sau khi đó, họ đều có vẻ vô cùng hân hoan
và hạnh phúc, và biểu lộ những đức tánh đặc biệt của Chân Sư,
mà trước đó họ chưa hề có bao giờ. Khi mọi việc
đă xong, Chân Sư mới nói riêng với từng người: "Ta ban ân huệ cho con". Và
Ngài nói chung với tất cả: "Các con hăy theo Ta lại đây. Ta phải tŕnh diện
các con để được chánh thức nh́n nhận và ghi tên vào sổ". Rồi Ngài đưa cả bọn
đến đức Văn Minh Đại Đế (Mahachohan). Đức Văn Minh nh́n qua từng người và
nói: "Các con đề c̣n rất trẻ tuổi. Ta khen các con đă đạt tới địa vị này sớm
như vậy. Vậy các con hăy sống một cách xứng đáng với tŕnh độ mà các con đạt
được".
Kế đó, Ngài ghi tên các vị đệ tử trong quyển Sổ
Vàng bất diệt, chỉ cho họ thấy những cột c̣n trống đối diện với tên của họ,
và bày tỏ hy vọng rằng không bao lâu Ngài có thể ghi những tên khác vào sổ.
Từ nhà đức Văn Minh Đại Đế trở về, một lần nữa,
Chân Sư đem những vị đệ tử mới vào chỗ động phủ gần nhà Ngài và họ nh́n xem
Ngài tiêu hủy những chiếc h́nh nộm của họ trong không gian, mà Ngài đă tạo
nên trước đó ít lâu.
Ngài nói: "V́ bây giờ các con luôn luôn gần với
ta hơn trước, nên chúng ta không c̣n cần dùng những h́nh nộm đó nữa".
SỰ HỢP NHỨT VỚI CHÂN SƯ
Nếu ta quan sát cuộc lễ nhập môn đó bằng cái
nhăn quang siêu phàm, th́ ta thấy hào quang của Chân Sư như một bầu lửa sáng
rực, chứa đựng nhiều tầng lớp cùng một trung tâm với nhiều màu sắc khác
nhau. Thể Xác của Ngài và những thể khác ở ngay trung tâm của khối hào quang
sáng rỡ, với một đường bán kính xa chừng vài trăm thước. Khi người đệ tử đến
gần Thể Xác của Chân Sư, th́ y tiến vào cái bầu hào quang sáng rỡ cấu tạo
bằng thể chất tinh anh, và sau cùng khi y quỳ dưới chân đức Thầy, th́ y đă ở
tại trung tâm của khối háo quang rực rỡ đó. Khi đức Thầy ôm người đệ tử vào
ḷng một cách thân yêu như đă mô tả ở trên, và bao phủ y bằng cái hào quang
của Ngài, th́ lúc đó chính cái phần trung tâm khối hào quang của Ngài nới
rộng ra để bao trùm luôn cả hào quang của người đệ tử. Trong trọn cuộc lễ
Nhập môn, người đệ tử hoàn toàn ở bên trong cái ṿng hào quang thần diệu của
Chân Sư. Như vậy, trong một lúc, hai cái hào quang hỗn hợp làm một, không
những hào quang của Chân Sư ảnh hưởng tới hào quang của đệ tử, mà những đức
tánh đặc biệt của người đệ tử đă thu hoạch được, cũng kích động những trung
tâm tương tự trong hào quang của Chân Sư, và hào quang của Chân Sư chiếu
sáng rực lên để đáp lại.
Sự hợp nhất thần diệu của Chân Sư với đệ tử bắt
đầu từ cuộc lễ nhập môn, đă trở thành một điều vĩnh cửu, và sau đó, mặc dầu
người đệ tử có thể cách xa Chân Sư hàng ngàn dặm trên cơi thế gian, những
thể thanh cao của y đều rung động cùng một nhịp với những thể của đức Thầy.
Người đệ tử luôn luôn được ḥa hợp với đức Thầy, bằng cách đó, và lần lần y
càng trở nên giống như đức Thầy, tuy rằng lúc đầu sự ḥa hợp hăy c̣n chưa rơ
rệt lắm. Như thế, y trở nên một người phụng sự đắc lức trên thế gian, với tư
cách như một đường vận hà, để chuyển di thần lực của Chân Sư ở các cơi hạ
giới. Bằn cách thiền định suy gẫm thường xuyên về Chân Sư và hướng hoài băo
tâm linh đến Ngài, người đệ tử cũng ảnh hưởng đến những đến những Thể thanh
cao của y để cho những thể này luôn luôn cởi mở và sẵn sàng đón nhận ân huệ
của Chân Sư. Bất cứ lúc nào, những Thể của y cũng bận rộn với ư tưởng đó,
luôn luôn chờ đón mọi ư muốn và cử chỉ của Chân Sư. Trong khi chúng hướng về
Chân Sư một cách chăm chú và sẵn sàng đón nhận những ǵ của Ngài ban xuống,
th́ chúng khép chặt đối với những ảnh hưởng xấu của thế gian. Bởi đó, tất cả
những Thể thanh cao của người đệ tử, từ Thể Vía trở lên, đều có thể ví như
một cái chén, hay cái quặng, mở rộng ở phía trên nhưng khép chặt ở bốn bề,
và hầu như không thể nào thu nhận những ảnh hưởng xấu ở những cơi giới
thấp.
Sự ḥa hợp nói trên của người đệ tử vẫn luôn
luôn tiếp tục trong suốt thời kỳ nhập môn. Lúc đầu những rung động của y ở
vào nhiều bát độ (octave) thấp hơn của đức Thầy, nhưng được nâng cao lên lần
lần. Sự kiện này chỉ có thể diễn ra từ từ, chớ không thể làm ngay tức khắc;
cũng như việc lên dây một cây đờn vĩ cầm hay đờn dương cầm. Đờn là những vật
vô tri giác, c̣n đây là trường hợp của một sinh vật, và muốn duy tŕ sự sống
th́ sự tiến triển chậm chạp bên trong phải dung ḥa cái xác thể với ảnh
hưởng bên ngoài, cũng như một người làm vườn từ từ uốn nắn những cành cây
cho mọc theo một chiều hướng nhất định hay một nhà y sĩ giải phẩu dùng y cụ
để sửa đổi cái chân một người què cho từ từ đước ngay ngắn trở lại.
Chúng ta biết rằng trong cái phương sách hợp
nhất đó, Chân Sư không có đặt trọn sự chú ư của Ngài cho cá nhân một vị đệ
tử nào, mà Ngài ảnh hưởng tới hằng ngàn người cùng một lúc. Đống thời Ngài
cũng luôn luôn làm những công việc siêu đẳng hơn nhiều ở các cơi trên, chẳng
khác nào như đánh một ván cờ vĩ đại, mà những quốc gia trên thế giới, cùng
với mọi thứ quyền năng, các đấng Thiên thần và người, là những con cờ của
Ngài sử dụng. Tuy nhiên, ảnh hưởng của Ngài cũng rất lớn đối với người đệ
tử, chẳng khác nào như Ngài chỉ săn sóc có một ḿnh y chớ không nghĩ đến
người nào khác, v́ sự chú ư mà Ngài có thể chia ra cho mỗi người trong hằng
trăm người khác nhau, cũng c̣n lớn hơn của chúng ta khi ta tập trung tất cả
sự chủ ư của ḿnh vào một người mà thôi. Chân Sư thường giao cho các vị đệ
tử cao niên của Ngài công việc săn sóc các hạ thể của người đệ tử mới, mặc
dầu Ngài vẫn để cho có một sự giao cảm thường xuyên giữa các Thể của Ngài và
của người đệ tử. Bằng cách đó, Ngài giúp đỡ người đệ tử rất nhiều, mà y
không hề hay biết chi cả.
Như thế, người đệ tử Nhập Môn trở nên một "tiền
đồn" cho tâm thức của đức Thầy, nói một cách khác, y là tai mắt của đức Thầy
ở dưới thế gian. Đức Thầy thấy, nghe và cảm giác xuyên qua y, và bất cứ việc
ǵ làm trước mặt y đều là làm trước mặt đức Thầy. Điều này không có nghĩa là
Chân Sư phải luôn luôn ư thức được những thời sự hằng ngày vào đúng lúc xảy
ra, mặc dầu Ngài có thể biết được điều đó. Trong khi đó Ngài có thể đặt hết
tâm trí vào một công việc khác, nhưng sau đó, những sự việc tái diễn lại
trong trí nhớ của Ngài. Những ǵ mà người đệ tử đă kinh nghiệm về một vấn đề
đặc biệt nào đó, sẽ hiện ra trong trí của Chân Sư khi Ngài chú ư vào vấn đề
đó. Khi người đệ tử gởi một tư tưởng sùng tín đến Chân Sư, th́ cái tia chớp
nhẹ nhàng mà y phóng ra tạo nên một ảnh hưởng giống như việc mở một cánh cửa
lớn, nó đón nhận một nguồn bác ái và thần lực rất dồi dào của Chân Sư tuôn
xuống. Nếu ta gởi một tư tưởng trung thành, sùng tín đến một người nào không
phải là Chân Sư, th́ nó tựa như một gịng ánh sáng rực rỡ chiếu thẳng tới
người ấy; c̣n nếu một tư tưởng như thế được một vị đệ tử gởi đến Chân Sư,
th́ vị đệ tử tức thời được tràn ngập bởi một t́nh thương mạnh mẽ dồi dào của
Chân Sư ban xuống cho y, Thần lực của Chân Sư luôn luôn tuôn ra ngoài và
chuyển đi tứ hướng như ánh sáng mặt trời, nhưng tư tưởng của người đệ tử làm
cho một phần lớn của nguồn thần lực rất phong phú đó tuôn tràn xuống người y
trong một lúc. Sự hợp nhứt giữa Chân Sư và đệ tử được hoàn toàn đến nỗi nếu
những hạ thể của người đệ tử bị một sự xáo trộn quan hệ nào th́ điều đó cũng
sẽ ảnh hưởng đến những Thể của Chân Sư. Và v́ sự rung động xấu xa đó ảnh
hưởng đến công việc
của Chân Sư ở các cơi trên, nên khi nào việc đó
xảy ra th́ Ngài phải tạo một bức màn để ngăn cách người đệ tử với Ngài cho
đến khi nào sự xáo trộn kia tiêu tan không c̣n nữa.
Lẽ tất nhiên, thật là một việc đáng buồn cho
người đệ tử nếu đột nhiên y bị ngăn cách với đức Thấy bằng cách đó, nhưng đó
là hoàn toàn do lỗi của y. Y có thể chấm dứt t́nh trạng ngăn cách đó khi nào
y kiểm soát trở lại được những tư tưởng và t́nh cảm của ḿnh. Một sự kiện
đáng tiếc như thế thường không kéo dài quá 48 giờ đồng hồ, tuy nhiên tôi
biết có những trường hợp nặng nề hơn nhiều, mà sự ngăn cách với đức Thầy kéo
dài suốt nhiều năm, thậm chí đến suốt đời. Nhưng đó là những trường hợp cực
đoan và ít khi xảy ra, v́ nếu một người có thể bị vấp ngă nặng nề như thế,
th́ có lẽ y đă không được thâu nhận làm đệ tử.
VIỆC CHUYỂN DI THẦN LỰC
Không một người nào có thể được thâu nhận làm
đệ tử trừ phi y đă có tập được thói quen hướng những sức mạnh của y từ trong
ra ngoài, nhgia3 là tập trung ự chú ư và ảnh hưởng của ḿnh vào kẻ khác, để
ban bố những tư tưởng lành và thiện chí cho những kẻ đồng loại. Thói thường,
người ta hay dồn sức mạnh của họ vào bên trong, và v́ lẽ đó nên những nguồn
mănh lực của họ hay đụng chạm nhau. Nhưng người đệ tử phải chuyển cái tâm từ
trong ra ngoài, và giữ luôn luôn cái thái độ của người ban rải t́nh thương
và làm việc phụng sự. Như thế, những Thể thanh cao của người đệ tử lúc nào
cũng mở ra như cái quặng, sẵn sáng đón nhận những ảnh hưởng tốt lành của
Chân Sư. Đồng thời, những hạ thể của y ở phần dưới cái quặng, đă quen túa
rải ra bên ngoài những ảnh hưởng của y cho kẻ khác. Những điều kiện đó làm
cho người đệ tử trở nên một khí cụ toàn hảo
cho Chân Sư dùng để chuyển di thần lực của
Ngài.
Nếu một vị Chân Sư, từ bên Tây Tạng, muốn gởi
một ít thần lực trên mực độ cao của chất dĩ thái sang tận Nữu Ước, th́ thật
không có lợi mà phóng ra một luồng dĩ thái trực tiếp xuyên qua cả một đoạn
đường dài như thế. Ngài phải chuyển thần lực lên trên những cơi cao hơn
nhiều, đến tận địa điểm mong muốn, và từ trên đó, đào một cái quặng cho
thông xuống tận nơi. Nhưng đào một cái quặng như thế, hay phóng một luồng
thần lực sang tận Nữu Ước, làm cho Chân Sư phải tốn mất gần hết phân nửa số
thần lực mà Ngài dự bị sẵn để dùng vào công việc phải làm. V́ thế, một vị đệ
tử có mặt ở tại chỗ là một điều rất quư báu để tiết kiệm sinh lực và công
phu, và y phải nhớ rằng, hơn tất cả mọi sự, y phải tự luyện ḿnh để trở nên
một đường vận hà tốt, và đó chính là điều mà Chân Sư trông cậy ở nơi y. Như
vậy, người đệ tử có thể được coi như một cái cơ quan của Chân Sư để cho Ngài
sử dụng ở tại nơi mà y có mặt.
Thể xác con người thật ra là một vật chuyển di
những quyền năng của Chân Ngă. Trải qua nhiều thế hệ, nó đă quen thừa hành
những mệnh lệnh của Ư Chí một cách ít tốn kém sinh lực nhứt. Thí dụ như
chúng ta muốn dời chỗ hay lật đổ một cái ly để trên bàn, th́ chúng ta có thể
đưa tay ra để làm cái việc đó một cách dễ dàng. Chúng ta cũng có thể làm lật
đổ cái ly chỉ bằng sức mạnh của ư chí mà không đụng tới cái ly. Quả thật,
một người quen của tôi đă từng thí nghiệm điều này và đă thành công, nhưng
mỗi ngày y phải bỏ ra một giờ cố gắng công phu ráo riết, và liên tiếp trong
hai năm để làm cái công việc đó. Trong trường hợp này, lẽ dĩ nhiên là việc
dùng những phương tiện vật chất thông thường sẽ tiện lợi hơn rất nhiều.
Trong giai đoạn đầu tiên mà người đệ tử được
tiếp xúc mật thiết với Chân Sư, y thường cảm thấy một số thần lực rất dồi
dào đi xuyên qua ḿnh y, mà không biết nó đi về đâu. Y chỉ có cảm giác như
là một khối lửa rất lớn xuyên qua ḿnh y một cách mănh liệt và tràn ngập
vùng chung quanh.
Với một chút sự chú ư dè dặt, không bao lâu y
sẽ có thể phân biệt được khối thần lực đó đi về hướng nào; sau đó y có thể
theo dơi, trong khi hoàn toàn thức tỉnh, nguồn thần lực của Chân Sư và truy
nguyên ra những người đă được Ngài giúp đỡ và ban ân huệ. Tuy nhiên, người
đệ tử không thể tự ḿnh điều khiển luồng thần lực đó. Y chỉ được sử dụng như
một đường vận hà, và đồng thời y cũng được huấn luyện để hợp tác trong việc
phân phối thần lực. Về sau, sẽ đến lúc mà Chân Sư thay v́ dồn thần lực của
Ngài vào người đệ tử để chuyển đến cho một người khác ở một nơi xa xôi, Ngài
sẽ dạy người đệ tử t́m ra đương sự và ban cho y một ít ân huệ, để tiết kiệm
thần lực của Ngài. Bất cứ lúc nào và ở tại nơi nào mà người đệ tử có thể làm
một phần công việc của Chân Sư, th́ Ngài sẽ giao phó phần việc đó cho y luôn
luôn, và nếu người đệ tử càng tăng gia hiệu lực của ḿnh, th́ y càng được
giao phó thêm nhiều công việc hơn nữa, để chia bớt gánh nặng và trách nhiệm
của Chân Sư, dầu là chỉ trong một phần rất nhỏ. Chúng ta nghĩ nhiều về những
ǵ mà ta có thể làm ở thế gian, nhưng tất cả những ǵ ta có thể tưởng tượng
và thi hành đều không đáng kể, so với những ǵ mà Chân Sư làm xuyên qua
chúng ta. Có một luồng từ điển nhẹ nhàng luôn luôn đi xuyên qua người đệ tử
mặc dầu y không hay biết ǵ cả; tuy nhiên y sẽ cảm thấy một cách rơ rệt mỗi
khi một luồng thần lực dồi dào hơn được gởi đến cho y.
GỞI THÔNG ĐIỆP
Đôi khi, Chân Sư gởi một thông điệp nhất định,
qua sự trung gian của người đệ tử, cho một người thứ ba. Tôi c̣n nhớ một
lần, tôi được lệnh chuyển một bức thông điệp như thế cho một hội viên thuộc
hạng trí thức cao, mà tôi không quen biết nhiều. Tôi hơi lúng túng khi đến
gặp ông ta về vấn đề này nhưng dầu sao tôi cũng phải làm tṛn việc ấy. Tôi
bèn nói với ông ấy như sau:
"Sư phụ tôi dạy tôi chuyển bức thông điệp này
cho huynh, và tôi chỉ theo lịnh dạy. Tôi biết rằng tôi không có bằng chứng
ǵ đưa cho huynh để chứng minh rằng đó là thông điệp của đức Thầy, vậy huynh
muốn đặt cho nó một tầm quan trọng
đến
bực nào tùy ư. Tôi chỉ thừa hành mạng lịnh của Ngài mà thôi".
Tự nhiên là tôi biết phần nội dung của bức
thông điệp ấy, v́ tôi đă chép nó ra, và tôi cả quyết rằng, nếu xét về phần
h́nh thức bề ngoài, nó chỉ là một thông điệp hoàn toàn giản dị và thân hữu,
mà bất cứ một người hảo ư nào cũng có thể gởi cho một người khác, và nó
dường như không có một ư nghĩa ǵ đặc biệt. Nhưng, cài bề ngoài đôi khi lại
rất phỉnh lừa, v́ người mà tôi chuyển giao bức thông điệp lại có vẻ ngạc
nhiên và nói với tôi: "Huynh không cần phải chứng minh rằng đó là thông điệp
của đức Thầy. Tôi nhận nó ra ngay theo cách hành văn trong đó. Huynh không
thể nào hiểu được ư nghĩa của nhiều câu nói bóng dáng của Ngài". Đến bây
giờ, tôi cũng chưa hiểu đó là ư ǵ.
KIỂM ĐIỂM TƯ TƯỞNG
Một điều vinh hạnh khác rất quư báu của người
đệ tử Nhập Môn là y có thể đặt tư tưởng của y bên cạnh tư tưởng của đức Thầy
về bất cứ một vấn đề ǵ và thử so sánh hai luồng tư tưởng đó. Ta thấy ngay
việc sử dụng cái quyền năng đó sẽ giúp cho tư tưởng của người đệ tử theo
những đường lối cao thượng và tự do là dường nào, và nhờ đó y sẽ có thể sửa
đổi mọi sự lầm lạc, mọi khuynh hướng thiên lệch hoặc mọi sự hiểu lầm. Người
đệ tử có nhiều cách để sử dụng cái quyền năng đó. Phương pháp của tôi dùng
là luôn luôn đắm ch́m trong cơn nhập định, và cố gắng thâm nhập vào tâm thức
của Chân Sư đến mức độ xa nhứt mà tôi có thể. Khi tôi đă đạt tới cái điểm
cao nhứt mà tôi có thể tới được, th́ lúc đó, th́nh ĺnh tôi quay nh́n lại
cái vấn đề muốn nghiên cứu, và tôi liền có cái ấn tượng về việc Chân Sư sẽ
nh́n thấy vấn đề đó như thế nào. Có lẽ cái ấn tượng đó hẳn là chưa được hoàn
toàn, nhưng ít nhất, tôi cũng hiểu Ngài sẽ nghĩ ǵ về vấn đề đó khi tôi có
thể đi sâu vào tư tưởng của Ngài.
Tuy nhiên, ta hăy coi chừng chớ nên lạm dụng
cái quyền năng tuyệt diệu đó. Nó chỉ là một phương tiện thăm ḍ tối hậu về
những vấn đề đặc biệt khó khăn, hoặc về những trường hợp mà mặc dù không đủ
yếu tố xét đoán, chúng ta vẫn phải có một quyết định; chớ nó không phải dùng
để tránh cho chúng ta khỏi phải nhọc công suy nghĩ, hay để giải quyết những
vấn đề nhỏ nhặt tầm thường hằng ngày mà chúng ta có thể tự ḿnh giải quyết
lấy.
Người thí sinh muốn được thâu nhận phải tự xét
ḿnh một cách chặt chẽ. Nếu y không có nhận được những lời khuyên bảo trực
tiếp của Chân Sư, hay của một vị cao đồ về những thói xấu đặc biệt mà y phải
tránh, th́ y nên tự xem xét lấy ḿnh với tất cả sự thiện chí của y.
Khi nào y tự khám phá lấy, hay có người chỉ cho
y thấy những thói xấu đó, y phải tự sửa ḿnh với một sự sốt sắng không
ngừng. Đồng thời, y không nên v́ một lẽ ǵ mà tự kiểm thảo một cách quá đáng
đến đỗi y v́ đó mà phát bệnh. Phép xử thế chắc chắn nhứt là tập trung sự chú
ư vào việc giúp đỡ người khác. nếu y chỉ nuôi có một tư tưởng đó trong trí,
th́ tự nhiên y sẽ hướng ḿnh theo đúng đường lối. Ư muốn dọn ḿnh để làm
việc phụng sự giúp đời sẽ giúp cho y vượt qua mọi chướng ngại, và mặc dầu y
không chú ư đến sự tiến hóa riêng của ḿnh, y cũng nhận thấy rằng sự tiến
hóa đó đă được thực hiện.
SỰ TIÊU KHIỂN
Người ta không trông mong rằng người đệ tử bất cứ lúc nào cũng phải nghĩ đến
Chân Sư một cách dồi dào mănh liệt; nhưng h́nh ảnh của Chân Sư phải luôn
luôn có sẵn ở trong trí y, lúc nào cũng sẵn sàng bên cạnh mỗi khi y cần dùng
đến trong những sự biến đổi thăng trầm của cuộc đời. Trí năo của chúng ta
cũng giống như sợi dây cung, nó không thể lúc nào cũng căng thẳng luôn luôn.
Một sự nghỉ ngơi vừa phải việc thay đổi tư tưởng là một điều cần thiết để
giữ cho trí năo được lành mạnh. Nhưng người đệ tử phải vô cùng thận trọng mà
giữ cho sự tiêu khiển của y không bao giờ đượm một mảy may nhơ bợn hay độc
ác. Y không nên dung túng, dầu chỉ trong chốc lát, một tư tưởng nào làm cho
y phải hổ thẹn nếu Chân Sư nh́n thấy.
Đọc một truyện tiểu thuyết hay để tiêu khiển là
một điều vô hại. Những h́nh tư tưởng do nó tạo nên sẽ không đụng chạm với
trào lưu tư tưởng của Chân Sư, nhưng có nhiều loại tiểu thuyết độc hại, gây
nên những h́nh tư tưởng nhơ bẩn trong trí năo: hoặc những tiểu thuyết đề cao
sự tội lỗi, và những loại khác tập trung tư tưởng của độc giả vào những vấn
đề xấu xa của cuộc đời hay diễn tả một cách sống động những màn thù hận và
độc ác; tất cả những loại tiểu thuyết đó phải được tuyệt đối tránh xa. Ngoài
ra, sự tham dự hoặc xem những cuộc chơi giải trí hoặc thể thao lành mạnh đều
không có hại: nhưng bất cứ cuộc chơi giải trí nào có tánh cách tàn bạo, thô
bỉ, hoặc trong đó có xen lẫn tính độc ác, có thể gây sự đau đớn, thương tổn
cho người và vật, đều bị tuyệt đối cấm ngăn.
SỰ THÀNH CÔNG CHẮC CHẮN
Người đệ tử phải quyết định rằng trong những cố
gắng của y để tiến trên đường Đạo, y sẽ không bao giờ để cho bị ngă ḷng v́
thất bại, dầu cho y bị thất bại nhiều lần. Bất luận bao nhiêu lần y đă thất
bại, hay bị vấp ngă trên đường Đạo y cũng phải đứng dậy và tiếp tục tiến
tới, dầu cho đó là lần thứ nhứt hay là lần thứ một ngàn. Ở cơi phàm trần có
nhiều điều mà ta không thể làm được, nhưng ở cơi giới cao hơn, th́ khác hẳn.
Ở cơi Trần, chúng ta không thể dở nổi vật nặng một tấn nếu không dùng máy
móc: nhưng ở những cơi trên, với sự kiên nhẫn, chúng ta có thể giải tỏa áp
lực của nhiều sự bất toàn của ḿnh. Điều đó có lư do rơ ràng. Bắp thịt của
con người không đủ sức mạnh để dở nổi một tấn, và không có một sự luyện tập
nào có thể làm cho nó có đủ sức dở nổi trọng lượng đó, v́ sức bắp thịt có
giới hạn. Trái lại, trên địa hạt tâm linh, con người có cả một kho thần lực
thiêng liêng vô tận mà y có thể sử dụng. Như thế, với những cố gắng đều đặn
và thường xuyên, lần lần y sẽ có đủ sức mạnh tinh thần để vượt qua mọi
chướng ngại.
Người ta thường nói: "Tôi có thể làm những việc
ở cơi Trần, nhưng ở cơi Trung Giới và Thượng Giới th́ rất khó, và tôi không
làm được bao nhiêu". Sự thật trái ngược lại. Người ta không quen tư tưởng và
hành động ở cơi thanh cao, nên họ tưởng rằng họ không thể. Nhưng khi mà họ
đặt ư chí của họ một cách vững vàng, họ sẽ thấy rằng sự vật sẽ theo chiều
hướng của ư chí đó bằng một cách không thể thực hiện được ở cơi Trần.
Có vài đệ tử nhận thấy họ được giúp đỡ rất
nhiều, trong công việc đó bằng việc sử dụng một bùa phép hay linh phù. Những
vật này có thể giúp đỡ một cách thực sự, v́ thể xác của ta cần phải được chế
ngự cũng như trí năo và t́nh cảm, và nó là vật khó ảnh hưởng nhứt. Một bùa
phép hay linh vật đă được truyền điển thật mạnh để dùng vào một mục đích
nhứt định, do một người am hiểu về khoa này, có thể là một vật trợ lực rất
quư báu. Nhiều ngưới nói rằng họ không cần có sự trợ giúp đó, nhưng đối với
tôi, tôi nhận thấy công việc rất khó nhọc đến nỗi tôi sẵn sàng nhận lănh bất
cứ một sự trợ giúp nào mà người ta có thể đưa đến cho tôi.
CHƯƠNG VI
THỜI KỲ CHUẨN BỊ ĐIỂM ĐẠO
Trong thời kỳ thâu nhận chính thức, ngoài ra
việc dùng vị đệ tử như một người tập sự, Chân Sư cũng chuẩn bị để tŕnh diện
y trước Quần Tiên Hội trong một cuộc lễ Điểm Đạo. Mục đích của Quần Tiên Hội
là trợ giúp Cơ Tiến Hóa, và Chân Sư biết rằng khi người đệ tử có cái vinh
hạnh rất lớn được gia nhập vào Hội Quần Tiên, y sẽ hữu ích cho thế gian
nhiều hơn trước rất xa. Bởi đó, Ngài có ư định đưa vị đệ tử của Ngài lên cái
địa vị đó càng sớm càng hay. Trong những kinh sách cổ Đông Phương nói về vấn
đề này, có từ hàng ngàn năm về trước, người ta thấy có nhiều đoạn tường
thuật về thời kỳ chuẩn bị đó. Trong các sách vở Thông Thiên Học lúc ban đầu,
thời kỳ đó được gọi là con đường chuẩn bị, danh từ này không có nghĩa là
thời kỳ dự bị làm đệ tử của một vị Chân Sư, mà là một thời kỳ huấn luyện
tổng quát để chuẩn bị cho người Đệ tử được Điểm Đạo.
Phương pháp chuẩn bị người đệ tử rất dễ hiểu và
đại khái cũng giống như sự giáo dục ở một vài trường Đại Học của chúng ta
hồi xưa. Nếu một sinh viên muốn thi lấy một bằng cấp Đại Học, trước hết y
phải qua cuộc thi vào Đại Học Viện (University) và sau đó được nhận vào một
trong những Trường lớn (College). Vị Giám đốc Trường này có trách nhiệm về
sự tiến bộ của người sinh viên; và có thể được coi như người đỡ đầu chánh
của y. Người sinh viên phải tự ḿnh học hỏi một phần lớn các bài vở, nhưng
vị Giám Đốc có nhiệm vụ trông nom xem y có chuẩn bị đầy đủ hay không trước
khi y được tŕnh diện để thi lấy bằng cấp. Vị Giám Đốc không có phát bằng
cấp, mà việc phát bằng cấp là do một cơ quan trừu tượng gọi là Đại Học Viện
(University), thường là do nơi vị Phó Viện Trưởng (Vice-Chancellor) làm đại
diện. Chính Đại Học Viện, chớ không phải ông Giám Đốc Trường, tổ chức khoa
thi và phát bằng cấp. Ông Giám Đốc Trường chỉ có một phần trách nhiệm về sự
chuẩn bị của người sinh viên. Trong cuộc chuẩn bị đó, ông ta có thể, với tư
cách là một tư nhân, có những sự giao thiệp riêng tư nào đó mà ông ta xét
thấy cần, đối với người sinh viên, nhưng việc ấy không có dính dáng ǵ đến
Đại Học viện.
Cũng giống như thế, Quần Tiên Hội không có liên
quan ǵ đến sự tiếp xúc giữa Chân sư và người đệ tử, đó là một việc hoàn
toàn đặt dưới sự quyết đoán riêng tư của đức Thầy. Cuộc Điểm Đạo là do một
Nhân viên Quần Tiên Hội, được chỉ định để chủ tọa cuộc lễ, nhân danh đấng
Điểm Đạo độc tôn; đó là phương pháp duy nhất
để Điểm Đạo cho người đệ tử. Khi một vị Chân Sư
xét thấy rằng một trong những vị đệ tử của Ngài đáng được Điểm Đạo lần thứ
nhứt, Ngài liền thông báo điều này và giới thiệu người đệ tử cho Quần Tiên
Hội. Quần Tiên Hội chỉ hỏi rằng người đệ tử đă sẵn sàng được Điểm Đạo hay
chưa mà thôi, chớ không nói đến sự liên hệ giữa người đệ tử với bất cứ một
vị Chân Sư nào. Các đấng Cao Cả trong Quần Tiên Hội không cần biết rằng vị
đệ tử đó là ở trong thời kỳ dự bị, hay là đệ tử chánh thức, hay là "Con" của
Đức Thầy, v́ điều đó không có liên quan ǵ đến các Ngài. Đồng thời, một thí
sinh được Điểm Đạo phải do sự đề nghị và ủng hộ của hai vị trong những Nhân
viên cao cấp của Quần Tiên Hội, nghĩa là hai vị đă đắc quả Chơn Tiên
(Asekha). Bởi đó, không có vị Chân Sư nào đề nghị cho một người được vào
hàng Điểm Đạo trừ phi Ngài thật chắc chắn rằng y có đủ điều kiện, điều này
Ngài chỉ có thể biết được do một sự hỗn hợp rất chặt chẽ với tâm thức của y.
Như thế, con Đường Chuẩn bị là một giai đoạn
đưa đến con Đường Chánh Đạo, bắt đầu từ cuộc Điểm Đạo thứ nhứt. Trong những
kinh sách Đông Phương, những con Đường này được diễn tả một cách vô tư và
không có nói đến sự hiện diện của các Chân Sư. Trước hết, người ta nêu ra
những câu hỏi: "Làm sao một người sống ở thế gian có thể bước vào con đường
Chuẩn bị, và làm sao y biết được rằng điều đó có thật?"
BỐN NHÂN DUYÊN ĐƯA ĐẾN CỬA ĐẠO
Các kinh sách Đông Phương nói rằng có Bốn nhân
duyên đưa con người vào đường Đạo. Nhân duyên thứ nhứt là gần gũi hoặc giao
du thân cận với những người đă đi trên đường Đạo. Thí dụ như vài người trong
chúng ta có thể đă là những vị tăng ni, hoặc tu sĩ thời Trung Cổ. Trong cuộc
đời tu hành đó, có lẽ chúng ta đă tiếp xúc với một vị Sư Trưởng hay một bà
Bề Trên của tu viện, một vị đă từng có kinh nghiệm thâm sâu về đời sống tâm
linh, thí dụ như bà Thánh Theresa. Có lẽ chúng ta đă khâm phục vị lănh đạo
tinh thần đó và, không v́ tư lợi, đă thiết tha mong ước rằng một kinh nghiệm
như thế cũng sẽ đến với ta. Chúng ta có thể không nghĩ ǵ đến sự danh vọng
mà điều ấy sẽ đem đến cho chúng ta, hay sự thỏa thích về tinh thần, nhưng
chỉ nghĩ đến cái vui được giúp đỡ người khác, cũng như vị Sư Trưởng đă giúp
đỡ người khác bằng sự kinh nghiệm thâm sâu của Ngài. Một hoài băo như thế
trong một tiền kiếp là cái nhân duyên sẽ giúp cho chúng ta được gặp Đạo
trong kiếp sau.
Ở những nước hấp thụ một nền văn hóa Âu Châu,
th́ phương pháp hầu như độc nhất để giúp chúng ta hiểu được Đạo lư tŕnh bày
một cách rơ ràng, là tiếp xúc với Hội Thông Thiên Học (The Theosophical
Society), hay là đọc những sách vở Thông Thiên Học. Có những kinh sách thần
bí hoặc giảng về khoa Thần Linh, cũng giúp chúng ta được nhiều tài liệu,
nhưng theo chỗ tôi được biết, th́ không kinh sách nào giảng giải Đạo lư một
cách rơ ràng và đúng theo khoa học như những sách vở Thông Thiên Học. Tôi
không thấy có bộ sách nào chứa đựng một kho tài liệu dồi dào cho bằng bộ
sách "Giáo Lư Nhiệm Mầu" (The Secret Doctrine).
Lẽ tự nhiên, cũng có những Thánh Kinh của Ấn Độ
và của những nước khác giảng giải rất nhiều về Đạo lư, nhưng nó không được
tŕnh bày một cách dễ hiểu cho chúng ta, để cho chúng ta có thể lănh hội hay
thưởng thức được với cái căn bản văn hóa sẵn có của ḿnh. Sau khi đă đọc các
sách vở Thông Thiên Học, nếu chúng ta đọc các bản dịch ưu tú của những kinh
sách Đông phương, chúng ta có thể thấy giáo lư Thông Thiên Học tiềm tàng
trong đó. Trong bộ Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo, (mặc dầu theo quan niệm của
chúng tôi, có nhiều chỗ dịch không đúng) chúng ta thấy có rất nhiều giáo lư
Thông Thiên Học; nhưng trước khi t́m thấy điều đó, chúng ta phải hiểu biết
khá nhiều về giáo lư này. Khi chúng ta đă học giáo lư Thông Thiên Học, chúng
ta thấy tức khắc có bao nhiêu kinh sách khác đều đồng một quan điểm với nó
và không thể giải thích một cách hợp lư nếu không nhờ Thông Thiên Học. Trước
kia chúng ta thấy những cuộc nghi lễ ở Thánh Đường dường như vô nghĩa, nay
nhờ giáo lư Thông Thiên Học giải thích rơ cho chúng ta thấy nó có ư nghĩa
thâm sâu, linh động và đầy thú vị. Tuy nhiên, tôi chưa hề nghe nói ai đă có
thể suy diễn ra hệ thống giáo lư Thông Thiên Học từ những kinh sách hay nghi
lễ tôn giáo. Như thế một nhân duyên đưa con người đến gần đường Đạo là gần
gũi những người đă đi trên con đường đó.
Nhân duyên thứ hai là đọc sách vở về Đạo lư,
hay nghe giảng Đạo lư. Những giáo lư này đến với tôi năm 1882 do quyển sách
"Thế giới huyền linh" của ông
A.P.Sinnett; và ngay sau khi đó tôi đọc quyển sách thứ nh́ của ông, là quyển
"Phật giáo Bí truyền". Do linh
tánh, tôi biết ngay rằng những điều tŕnh bày trong hai quyển sách ấy đúng
là Chân Lư, và tôi chấp nhận ngay. Càng nghe và đọc về những điều ấy làm cho
tôi có một sự tha thiết mong muốn t́m biết thêm, học hỏi tất cả những ǵ tôi
có thể học về vấn đề này, và theo đuổi Chân lư khắp chốn trên thế gian nếu
cần, cho đến khi nào tôi t́m thấy nó. Ít lâu sau đó, tôi xin từ chức trong
Giáo Hội Anh Quốc và đi qua Ấn Độ, v́ tôi cảm thấy rằng tại xứ này tôi có
thể đi sâu vào Đạo Lư nhiều hơn.
Nhân duyên thứ ba được nêu ra trong những kinh
sách Đông Phương là sự mở mang trí huệ. Bằng sức mạnh của tư tưởng, nhờ sự
thiền định suy gẫm ráo riết, con người có thể tự ḿnh khám phá ra những
nguyên tắc về Đạo lư. Tuy nhiên, phương pháp này dường như ít có người áp
dụng.
Nhân duyên thứ tư, cũng theo kinh đó, là sự
trau dồi đức hạnh, điều này có thể đưa con người vào đường Đạo. Bằng cách
kiên tâm bền chí trau dồi hạnh kiểm và làm việc thiện, một người có thể lần
lần phát triển tâm linh và thấm nhuần ánh sáng Đạo lư.
NHỮNG ĐỨC TÁNH CẦN THIẾT
Vào khoảng 40 năm về trước, những đức tánh cần
thiết để bước vào đường Đạo, theo quan điểm Phật Giáo Bí Truyền được đưa ra
như sau:
Đức tánh thứ nhứt, tánh Phân Biện, mà ngưới Ấn
Độ gọi là "Viveka",tiếng Nam Phạn
gọi là "Manodvaravajjana" nghĩa
là sự mở cửa của cái Trí, hay nói đúng hơn, "sự giải thoát do nơi cửa Trí
Huệ". Đó là một cách độc đáo để tŕnh bày ư tưởng này, v́ ta sẽ có được tánh
Phân Biện khi cái Trí của ta mở rộng để cho ta biết nhận định điều chân với
điều giả, điều tốt lành với điều bất hảo, và có thể phân biệt những đối
tượng.
Đức tánh thứ hai, tánh Vô Dục, hay dứt bỏ ḷng
ham muốn, mà người Ấn Độ gọi là "Vairagya",
tiếng Nam Phạn gọi : "Parikamma",có
nghĩa là chuẩn bị hành động, ngụ ư rằng chúng ta phải chuẩn bị hành động
trong thế giới huyền linh bằng cách tập làm điều thiện chỉ v́ ta yêu mến
việc thiện. Điều này ám chỉ một trạng thái hoàn toàn thản nhiên trước kết
quả của mọi hành động, một trạng thài giống như tánh Vô Dục, mặc dấu dưới
một quan điểm khác hẳn.
Đức tánh thứ ba là Hạnh Kiểm tốt, gồm có 6 điểm
người Ấn Độ gọi là Shatsampalti,
tiếng Nam Phạn gọi "Upacharo"
nghĩa là chăm chú lập hạnh. Để cho người học Đạo có thể so sánh 6 điểm này
với những điểm nêu ra trong quyển "Dưới Chân Thầy", tôi xin lập lại dưới đây
những điều tôi đă tŕnh bày trong quyển "Những
người Cứu trợ Vô h́nh".
Những điểm đó, theo tiếng Nam Phạn (pali) gồm
có:
a) "Samo",đức
yên tĩnh, tức là sự thanh tịnh của cái Trí, kết quả của việc hoàn toàn kiểm
soát tư tưởng, một đức tánh vô cùng khó khăn, nhưng cũng tối cần thiết, v́
trừ phi những tư tưởng của chúng ta hoàn toàn chịu tuân theo mệnh lệnh của Ư
Chí, nó không thể là một khí cụ hoàn toàn cho công việc của Chân Sư về sau
này. Đức tánh này rất quan trọng, nó gồm cả sự tự chủ và sự yên tịnh cần
thiết cho công việc ở cơi Trung Giới.
b) "Damo",sự
chế ngự hay tự chủ trong hành động và lời nói, đức tánh này phát sinh từ
những đức tánh kể trên, và ám chỉ sự tinh khiết.
c) "Uparati",
đức khoan dung, tiêu trừ mọi sự dị đoan mê tín, sự tin tưởng nơi những h́nh
thức lễ bái của một tôn giáo nhất định. Đức tành này đưa người thí sinh đến
sự độc lập về tư tưởng và ḷng nhân từ khoan hậu.
d) "Titikkha",đức
kiên nhẫn, sẵn sàng chịu đựng một cách vui vẻ bất cứ điều ǵ do nghiệp quả
đưa đến cho ta, và ly khai bất cứ vật ǵ thuộc về cơi thế gian, vào bất cứ
lúc nào cần thiết. Đức tánh này ngoài ra c̣n ám chỉ một sự dửng dưng, không
thù hận hay bất b́nh v́ những điều đau khổ xảy đến v́ người thí sinh biết
rằng những người nào làm khổ cho y chỉ là những khí cụ của nghiệp quả mà y
phải trả.
e) "Samadhana",
sự kiên tâm, bền chí, tập trung mọi cố gắng vào một mục đích hay đường lối
duy nhất, không thể nào để cho sự cám dỗ làm cho đi lạc đường.
f) "Saddha",
Đức tin, tin tưởng nơi Chân Sư và tin nơi ḿnh; nghĩa là tin rắng đức Thầy
là một nhà hướng dẫn có đủ tài năng; người đệ tử- dầu cho y có ư nghĩ như
thế nào trong lúc hiện tại về những quyền năng của y- vẫn có luôn luôn trong
người của y điểm linh quang của Thượng Đế. Một khi điểm linh quang đó được
khơi lên thành ngọn lửa, nó sẽ giúp cho y một ngày kia sẽ thực hiện được
những ǵ Chân Sư đă làm.
Đức tánh thứ tư, người Ấn Độ gọi là "Mumukshatva",
có thể dịch là "Sự thiết tha mong muốn giải thoát khỏi ṿng luân hồi sanh
tử" người Phật tử gọi là "Sự thừa kế trực tiếp", bởi v́ đức tánh này là kết
quả tự nhiên của ba đức tánh trên.
Nhờ sự so sánh đó, người ta thấy rằng những đức
tánh mà người thí sinh cần phải có để được Điểm Đạo lần thứ nhứt, trên
nguyên tắc căn bản đều giống nhau, dầu rằng khi mới nghe qua, nó có vẻ khác
biệt nhau. Chắc chắn trong 25 thế kỷ, và trước đó lâu hơn nữa, cái phương
pháp bất di dịch đó đă được noi theo để giúp cho sự tiến hóa của những người
đặc biệt luôn luôn chiến đấu không ngừng cho lư tưởng.
Mặc dầu ở vào một vài thế hệ, trong đó có thế
hệ của chúng ta, có những hoàn cảnh được thuận tiện cho sự Điểm Đạo hơn ở
những thế hệ khác, nhưng những điều kiện cần phải có lúc nào cũng như nhau,
và chúng ta đừng tưởng rằng những đức tánh cần thiết đă được giảm bớt.
PHẦN THỨ BA
NHỮNG CUỘC ĐIỂM ĐẠO LỚN
CHƯƠNG VII
CUỘC ĐIỂM ĐẠO THỨ NHỨT
(CHỨNG QUẢ TU ĐÀ HƯỜN:
Sotapatti)
ĐẤNG ĐIỂM ĐẠO ĐỘC TÔN
Nói đến sự Điểm Đạo, nhiều người cho rằng đó là
một cấp bực mà họ phải đạt tới trên đường tu hành. Họ tưởng tượng rằng người
được Điểm Đạo là một người đă tiến hóa rất cao và đă trở nên một nhân vật
siêu đẳng, khác hẳn người thường. Quan niệm đó tuy là đúng, nhưng chúng ta
sẽ hiểu rơ hơn nếu chúng ta thử xét vấn đề theo một quan điểm cao siêu hơn.
Tánh cách quan trọng của sự Điểm Đạo không phải là nơi ở việc đề cao một
người, mà ở chỗ từ nay người ấy đă vĩnh viễn trở nên một phần tử của một Cơ
quan vĩ đại, một Hội các Thánh, nói theo danh từ siêu việt của Thiên Chúa
Giáo, dấu rằng ít có người đă chú ư đến ư nghĩa thật sự của những danh từ
đó. Ư nghĩa huyền diệu của cuộc Điểm Đạo vào Quần Tiên Hội sẽ được hiểu rơ
hơn sau khi chúng ta đă xem xét sự tổ chức của Quần Tiên Hội và công việc
của các Chân Sư, mà chúng tôi sẽ giải bày trong những chương sau.
Người thí sinh, kể từ nay, đă trở nên khác hơn
một người thường, bởi v́ y là một phần tử của một sức mạnh kinh khủng. Trên
mỗi hành tinh, đấng Thái Dương Thượng Đế đều có một vị đại diện của Ngài,
hành động cũng như một vị Phó Vương. Trên quả địa cầu của chúng ta, th́ cái
danh hiệu dành cho vị Đại diện đó là "đức Ngọc Đế". Chính Ngài là vị Trưởng
Thượng của nhóm Quần Tiên Hội; cơ quan này không phải chỉ là một tổ chức
huyền bí mà mỗi vị đều có những trách vụ riêng, nó cũng là một sự hợp nhất
vĩ đại, một khí cụ hoàn toàn uyển chuyển trong tay đức Ngọc Đế, một khí giới
rất lợi hại mà Ngài có thể sử dụng. Có một Thiên Cơ huyền diệu và vô cùng
mầu nhiệm, theo đó đấng Độc Tôn sau khi đă tự phân tán ra thành thiên h́nh
vạn trạng trong thế gian, nay đang ở vào thời kỳ hợp nhứt trở lại làm một.
Không phải là một đơn vị nào trong cái Cơ cấu toàn diện sẽ mất đi một phần
nào quyền năng của nó, nhưng mỗi đơn vị sẽ thêm vào Cơ cấu đó một cái ǵ lớn
lao hơn gấp ngàn lần; từ nay nó là một phần của Thượng Đế, một phần Thể Xác
của Ngài mang, khí giới của Ngài dùng, chiếc đờn của Ngài khảy, khí cụ của
Ngài dùng làm công việc.
Trên thế gian, chỉ có một đấng cầm quyền Điểm
Đạo. Tuy nhiên, trong những cuộc Điểm Đạo thứ nhứt và thứ nh́, Ngài có thể
phái một vị Chân Sư thay mặt cho Ngài để chủ tọa cuộc lễ, nhưng vị chủ lễ
này phải hợp nhứt với Thượng Đế và kêu gọi đến Ngài vào giờ phút quan trọng
mà quả vị mới được ban cho người đệ tử. Cuộc Điểm Đạo thứ nhứt là một cơ hội
huy hoàng và đáng ghi nhớ trong đời sống tâm linh của người đệ tử. Đức Chân
Sư Kuthumi đă giải thích như thế khi Ngài thâu nhận một vị đệ tử, Ngài nói
với vị này như sau:
"-Nay con đă đạt được mục đích đầu tiên của
những hoài băo của con, từ giờ phút này, Ta khuyên hăy chú ư đến những điều
kiện khắc khổ hơn nhiều và cần thiết để vượt qua giai đoạn kế tiếp. Điều mà
con sẽ chuẩn bị, sự "Nhập Lưu", mà Thiên Chúa Giáo gọi là sự "Cứu Rỗi", là
cái đích rốt ráo của một loạt những kiếp sống của con ở dưới cơi trần, cái
kết quả thành tựu của bảy trăm kiếp. Trong cái dĩ văng xa xăm, có lúc con đă
thoát kiếp thú để bước qua giai đoạn làm người. Trong tương lai, mà ta hy
vọng sẽ đến một ngày gần đây, con sẽ thoát khỏi kiếp làm người bằng cái cửa
quả vị Chơn Tiên để trở nên một bực Siêu Nhân. Ở khoảng giữa hai điểm cực
đoan đó, không có giai đoạn nào quan trọng hơn giai đoạn Điểm Đạo, và bây
giờ con phải đặt hết tư tưởng vào đó. Không những nó là nó là một sự bảo đảm
chắc chắn cho con từ rày về sau, mà nó c̣n thâu nhận con vào Quần Tiên Hội
hằng có đời đời để giúp đỡ nhân loại.
Bởi đó, con hăy tưởng tượng rằng muốn nắm lấy
một cơ hội phi thường như thế, cần phải có một sự chuẩn bị cẩn thận chu đáo
là dường nào. Ta muốn cho con hăy luôn luôn ghi nhớ trong trí sự tốt đẹp huy
hoàng của một cơ hội như thế, để cho con có thể sống theo kịp những lư tưởng
cao siêu của nó. Thể xác của con hăy c̣n trẻ đối với một sự cố gắng vĩ đại
như vậy, nhưng con có một cơ hội hiếm có và tốt đẹp vô cùng. Ta muốn cho con
hăy nắm lấy cơ hội đó một cách trọn vẹn".
NGƯỜI TÂN ĐẠO ĐỒ
(*)
ĐỐI VỚI QUẦN TIÊN HỘI
Khi một linh hồn được Điểm Đạo, nó trở nên một
phần tử của một tổ chức chặt chẽ nhứt trên thế gian; từ nay, nó đă hợp nhứt
với cái biển tâm thức rộng lớn của Quần Tiên Hội. Trong một thời gian khá
lâu, người Tân Đạo Đồ (người mới được Điểm Đạo) sẽ không thể hiểu tất cả tầm
quan trọng của sự hợp nhứt đó. Người ấy phải đi sâu vào những thánh điện
trước khi y có thể nhận định rằng sự liên quan đó chặt chẽ là dường nào, và
tâm thức của đức Ngọc Đế rộng lớn là dường nào, mà tất cả các đấng Chân Sư
đều ít nhiều cùng chia sớt với Ngài. Sự hợp nhứt đó là một điều mà chúng ta
không thể hiểu nổi và diễn tả được ở cơi trần; nó thật siêu h́nh và tế nhị
ngoài khả năng diễn tả của lời nói và văn tự. Tuy nhiên, nó vẫn có thật, và
khi ta bắt đầu hiểu nó rồi, th́ mọi sự đều là giả tạm hết cả.
Chúng ta đă thấy bằng cách nào người đệ tử
chánh thức có thể đặt tin tưởng của y bên cạnh tư tưởng của Chân Sư. Bây giờ
th́ người Tân Đạo đồ có thể đặt tư tưởng của y bên cạnh tư tưởng của Quần
Tiên Hội, và thu thập lấy một phần nào của cái tâm thức vĩ đại đó tùy theo
cái khả năng tiếp nhận của y. Khi y càng thu thập nó về ḿnh, th́ y lại càng
có thể thâu nhận thêm nhiều hơn, và tâm thức của y sẽ mở rộng để cho những
tư tưởng chật hẹp không thể nào c̣n có được đối với y. Và cũng như người đệ
tử chánh thức phải coi chừng đừng gây sự xáo trộn trong những Hạ Thể của
Chân Sư, để khỏi gây ảnh hưởng không tốt đến công việc của Ngài, th́ người
Đạo đồ cũng phải giữ ǵn đừng khi nào gieo một sự ǵ bất điều ḥa vào trong
biển Tâm Thức vĩ đại của Quần Tiên Hội nó hành động như một đại thể.
Người ấy phải nhớ rằng toàn thể Quần Tiên Hội
không phải làm cùng một công việc giống như của các Chân Sư. Nhiều vị trong
các Ngài có những việc khác, đ̣i hỏi một sự chú ư hoàn toàn và một sự im
lặng tuyệt đối. Nếu trong những người tân Đạo Đồ, thỉnh thoảng có vị nào
quên mất cái hoài bảo cao xa của ḿnh, và gây những sự xáo trộn cho Quần
Tiên Hội th́ điều đó sẽ ảnh hưởng đến công việc của những đấng Cao Cả. Những
Chân Sư của chúng ta có thể bỏ qua việc ấy, và một đôi khi cũng sẵn ḷng
chịu đựng một vài sự phiền nhiễu như thế v́ các Ngài nghĩ đến cái tương lai,
khi người tân Đạo Đồ sẽ thật sự biết sử dụng những quyền năng của ḿnh vào
những công việc lớn. Nhưng chúng ta có thể hiểu rằng những đấng Cao Cả khác,
không có nhiệm vụ huấn luyện đệ tử, có thể nói: "Công việc của Chúng Ta bị
làm xáo trộn, vậy những người hăy c̣n non nớt đó tốt hơn là hăy đứng ở
ngoài!" Các Ngài sẽ nói rằng không có ǵ mất đi đâu, rằng ở ngoài cũng có
thể tiến bộ được và các vị đệ tử có thể tiếp tục sửa ḿnh cho được tốt đẹp
hơn, tinh tiến hơn và khôn ngoan hơn trước khi được Điểm Đạo.
Sự mở rộng tâm thức của người tân Đạo Đồ là một
điều huyền diệu đến nỗi người ta có thể diễn tả sự thay đổi đó như là một
cuộc phục sinh. Người ấy bắt đầu sống một cuộc đời mới "như một đứa trẻ
nhỏ", cuộc đời của đấng Christ; và đấng Christ, tức là tâm thức trực giác
hay tâm thức Bồ Đề xuất hiện tự trong tâm của y. Người ấy từ nay cũng có
quyền năng ban rải ân huệ của Quần Tiên Hội, ân huệ này là một thần lực mạnh
mẽ phi thường, mà y có thể ban rải hay gởi đến cho bất cứ người nào mà y
thấy rằng xứng đáng và hữu ích. Nguồn thần lực của Quần Tiên Hội sẽ đi xuyên
qua y nhiều ít tùy theo khả năng thu nhận của y. Y có trọn quyền sử dụng
thần lực và có hoàn toàn trách nhiệm điều khiển thần lực ấy v́ bất cứ mục
đích nào do y chọn lựa. Trong cuộc lễ Điểm Đạo, ân huệ mà vị Chủ Lễ ban cho
người đệ tử, có nghĩa như vầy; "Ta ban ân huệ cho con; Ta ban rải thần lực
cho con. Về phần con hăy luôn luôn ban sự thiện chí cho kẻ khác".
Người tân Đạo Đồ càng có nhiều đức tin chừng
nào th́ luồng thần lực đi xuyên qua y càng lớn chừng nấy. nếu y cảm thấy do
dự, hoặc không dám lănh trách nhiệm để cho một số thần lực mạnh mẽ đi xuyên
qua y, y sẽ không thể dùng cái quyền năng huyền diệu đó đến mực tột độ. C̣n
nếu y có Đức Tin, hoàn toàn tin tưởng nơi Chân Sư của y và Quần Tiên Hội, và
hoàn toàn chắc chắn rằng bởi v́ y đă hợp nhứt với các Ngài nên tất cả mọi sự
y đều có thể làm được, th́ y sẽ đi khắp thế gian như một vị Thiên Thần gieo
rắc ánh sáng chân lư, niềm vui tươi và ân huệ ở bất cứ nơi nào y đi đến.
Tâm thức của Quần Tiên Hội là một điều huyền
diệu khôn tả. Nó giống như một biển đại dương yên lặng, sáng láng, và hợp
nhứt một cách tuyệt diệu đến nỗi một gợn sóng nhỏ nhứt trong biển tâm thức
đó tức khắc lan rộng cùng khắp nơi trong chớp nhoáng đến chỗ tận cùng. Tuy
nhiên đối với mỗi nhân viên Quần Tiên Hội, th́ nó h́nh như là một tâm thức
riêng biệt cá nhân, tuy rằng nó có bao hàm một mănh lực, một sức mạnh và một
sự minh triết, mà không một tâm thức riêng của một người nào có thể có được.
Cũng như các vị đệ tử hợp nhứt với Chân Sư, th́
Quần Tiên Hội cũng hợp nhứt làm một với Đấng Ngọc Đế. Những nhân viên Quần
Tiên Hội có thể tự do tranh luận với nhau về mọi vấn đề, nhưng giữa họ có
một sự hợp nhứt chặt chẽ cũng như là những khía cạnh khác nhau của một vấn
đề đều hiện ra trước một người mà thôi. Bởi đó, tâm thức của Quần Tiên Hội
luôn luôn bao la và yên lặng mà không có ǵ lay chuyển được. Tuy nhiên trong
sự tranh luận mỗi đề nghị đều được hoan nghinh: người ta có cảm giác như
toàn thể Quần Tiên Hội đều trông đợi với một sự thích thú lớn lao nhứt, sự
góp phần của mỗi nhân viên vào việc cứu xét vấn đề đang thảo luận. Ở thế
gian không có ǵ có thể so sánh cái tâm thức đó. Đạt tới nó, tức là tiếp xúc
với một cái ǵ mới mẻ và lạ lùng, nhưng vô cùng huyền diệu và siêu việt một
cách khôn tả, một cái ǵ nó không thể dẫn chứng hay so sánh được, nhưng nó
tự hiện ra như thuộc về một cơi giới huyền bí và cao siêu hơn nhiều.
Tuy rằng những nhân viên Quần Tiên Hội đều hỗn
hợp một cách lạ lùng với các tâm thức đó, nhưng họ cũng vẫn giữ cái sắc thái
riêng biệt của mỗi người, bởi v́ sự đồng ư của mỗi vị đều là cần thiết trong
mọi quyết định quan trọng. Quyền uy của đức Ngọc Đế thật là tuyệt đối; tuy
nhiên chung quanh Ngài lúc nào cũng có một Hội Đồng các Tiên Thánh, và Ngài
sẵn sàng xem xét mọi khía cạnh của một vấn đề mà bất cứ lúc nào một nhân
viên của Hội đồng cũng có thể tŕnh lên cho Ngài xem xét. Nhưng cái Chánh
phủ huyền bí đó hoàn toàn khác hẳn mọi thể chế đại nghị của thế gian; những
vị đó uy quyền đối với kẻ khác đều không do một đảng phái nào bầu cử hay chỉ
định, các Ngài sở dĩ có cái hiện tại là do các Ngài tự lực đạt tới bằng sự
phát triển tâm linh và bằng sự Minh Triết siêu đẳng. Không một vị nào hoài
nghi điều ǵ về một quyết định của thượng cấp, bởi v́ Ngài biết rằng vị
thượng cấp đó quả thật cao hơn ḿnh,
v́ vị này có một tầm nhỡn quang rộng lớn hơn và một khả năng quyết định bao
quát hơn. Đối với các bậc Siêu Nhân đó, không thể có vấn đề bị bắt buộc suy
nghĩ hay hành động theo một chiều. Tuy nhiên, các Ngài có một đức tin hoàn
toàn nơi Tổ chức vĩ đại của các Ngài đến nỗi không bao giờ các Ngài có thể
khác biệt nhau.
NHỮNG TRƯỜNG HỢP THẤT BẠI
Trong một tổ chức như thế, chắc chắn là không
thể có một sự thất bại hay một sự rối rắm nào xảy ra. Tuy nhiên, v́ bẩm tánh
con người vốn yếu ớt, và bởi v́ không phải tất cả các nhân viên Quần Tiên
Hội đều là những bậc Siêu nhân nên thỉnh thoảng cũng có xảy ra một vài
trường hợp thất bại mặc dầu rất hiếm. Trong quyển "Ánh
sáng trên đường đạo" có nói rằng: "Có những người vừa bước đến gần cửa
Đạo, đă thụt lùi trở lại v́ không đảm đương nổi trách nhiệm quá nặng nề, và
không thể tiến tới nữa". Chỉ có quả vị Chơn Tiên (Asekha) mới bảo đảm cho
chúng ta một sự an toàn tuyệt đối. Vị cầm quyền Điểm Đạo nói với người thí
sinh rằng từ nay y đă "nhập lưu" cho nên y đă vĩnh viễn được an toàn. Nhưng
mặc dầu là như thế, y cũng vẫn c̣n có thể tŕ hoăn sự tiến bộ của y trong
một thời gian rất lâu, nếu y vấp ngă trước những sự cám dỗ nó hăy c̣n lởn
vởn trên bước đường của y đi qua. Được vĩnh viễn an toàn thường có nghĩa là
được bảo đảm chắc chắn rằng ḿnh sẽ vượt qua cùng với luồng Sóng Sinh Hoạt
hiện thời, nghĩa là không bị bỏ sót lại vào ngày "Phán xét cuối cùng" ở vào
khoảng giữa cuộc Tuần Hoàn thứ năm, khi mà đấng Christ hạ giáng xuống cơi
vật chất quyết định rằng những linh hồn nào sẽ bị bỏ sót lại, và những linh
hồn nào sẽ tiếp tục tiến hóa đến mức cuối cùng của Dăy Hành Tinh hiện tại.
Không có ai bị sa đọa đời đời kiếp kiếp. Như đấng Christ đă nói, sự ngưng
trệ đó chỉ diễn ra trong một thời kỳ rất lâu. Có những linh hồn không thể
tiếp tục tới nữa trong chu kỳ hiện tại, nhưng họ sẽ tiếp tục trong chu kỳ kế
tiếp, cũng như một đứa trẻ học dốt không thể thi đậu vào kỳ thi cuối năm, sẽ
học khá hơn trong năm tới và thậm chí có thể đứng đầu trong lớp trong khóa
học tới.
Khi việc đáng buồn đó xảy ra, khi mà trong số
các vị được Điểm Đạo có một người bị thất bại, th́ một gợn sóng đau thương
làm rung động khắp cả biển Tâm thức của Quần Tiên Hội, bởi v́ sự chia ly của
một vị ra khỏi toàn thể chẳng khác nào như một cuộc giải phẫu, nó xé rách
sợi dây liên lạc mật thiết nối liền tất cả làm một. Tuy nhiên, vị Đạo đồ đi
lạc đường không phải là bị ly khai một cách vĩnh viễn, v́ sợi dây liên lạc
với Quần Tiên Hội không thể bị cắt đứt, mặc dầu chúng không biết ǵ cả về
những sự thử thách, gian truân và đau khổ mà y phải trải qua trước khi được
phối hiệp trở lại với toàn thể.
"Tiếng nói của Im Lặng" vẫn ngự trong ḷng y,
và mặc dầu y hoàn toàn rời khỏi con đường Đạo, nhưng một ngày kia tiếng nói
đó sẽ vang dội trở lại và chế ngự được y, và ly khai những dục vọng với
những đức tánh thiêng liêng của y. Khi đó, với sự đau khổ và những tiếng kêu
tuyệt vọng của phàm ngă bị bỏ rơi, y sẽ trở lại.
Những nghi thức Điểm Đạo tuy vẫn không thay đổi
trải qua các thời đại, nhưng vẫn có một sự co giăn tùy nghi. Những lời đàm
thoại giữa đấng Điểm Đạo với người thí sinh luôn luôn giống nhau về đoạn
đầu, như hầu hết trong mọi trường hợp, có một phần thứ nh́ gồm những lời răn
dạy cá nhân của Ngài ban cho người thí sinh.
Phần này được gọi là phần riêng tư của cuộc đàm
thoại. Tôi cũng thấy những trường hợp mà Ngài tạo ra một h́nh ảnh của kẻ thù
lớn nhứt của người thí sinh, và hỏi y sẽ đối xử với người thù đó như thế
nào, để biết xem y có sẵn ḷng hoàn toàn tha thứ cho người đó và giúp đỡ
người đó không, nếu một cơ hội giúp đỡ như thế đến với y. Trong vài trường
hợp, Ngài cũng hỏi người thí sinh về những công việc mà y đă làm, và đôi khi
những người đă từng được y giúp đỡ cũng được mời đến để làm chứng...
Dưới đây là bài tường thuật một cuộc lễ Điểm
Đạo.
MỘT CUỘC ĐIỂM ĐẠO THỨ NHỨT
(CHỨNG QUẢ TU ĐÀ HƯỜN:
Solapatti)
V́ năm đó (1915) lễ Wesak nhằm buổi sớm mai
ngày 29 tháng 5 dương lịch, nên đêm 27 được chọn để cử hành lễ Điểm Đạo cho
một thí sinh, và chúng tôi được lệnh sẵn sàng. Trong dịp này, đức
Di-Lặc-Bồ-Tát là đấng Điểm Đạo và bởi đó, cuộc lễ diễn ra trong khu vườn của
nhà Ngài. Khi đức Chân Sư Morya hay Chân Sư Kuthumi hành lễ, th́ cuộc lễ
thường diễn ra nơi ngôi đền cổ trong động đá, mà cửa vào ở gần chiếc cầu bắc
ngang qua sông gần nhà của Ngài ở. Nhiều vị Chơn Tiên hội họp đông đủ, tất
cả những vị mà chúng tôi biết tên đều có mặt. Khu vườn đêm hôm ấy rất thanh
lịch, những bụi hoa sơn lựu (rhoddendron) đều trổ bông màu đỏ sậm và không
khí trong vườn thơm ngát mùi hương của những khóm hoa hường nở sớm.
Đức Di-Lặc-Bồ-Tát ngồi trên chiếc ghế cẩm thạch
ở dưới gốc cây cổ thụ trước nhà Ngài. Các vị Chân Sư ngồi theo h́nh bán
nguyệt ở hai bên tả hữu, trên một sân thượng đầy cỏ, trên những chiếc ghế
dành sẵn cho các Ngài. Đức Bàn Cổ Vaisasvata và đức Văn Minh Đại Đế cũng
ngồi trên ghế cẩm thạch ở bên cạnh đức Bồ Tát.
Người thí sinh, cùng với vị Chân Sư giới thiệu
y, đứng ở bậc dưới sân thượng, ngay dưới chân đức Bồ Tát. Ở phía sau, c̣n có
những vị đệ tử khác, hoặc đă, hoặc chưa được Điểm Đạo, và vài người hiếu kỳ
có cái hân hạnh được phép chứng kiến cuộc lễ, mặc dầu có đôi khi một tấm màn
ánh sáng che khuất không cho họ thấy những hành động của những đấng Cao Cả.
Người thí sinh, theo lệ, được mặc áo dài bằng vải trắng, c̣n các Chân Sư
phần nhiều mặc y phục bằng lụa trắng có thêu ren vàng chung quanh.
Một nhóm rất đông các vị Thiên Thần bay lượn
trên không, làm cho không khí tràn đầy một loại nhạc êm dịu; nhạc này, bằng
một cách lạ lùng và huyền bí, h́nh như làm cho toàn thể người thí sinh cũng
tiết ra một âm điệu phức tạp khó tả, biểu lộ những đức tánh và khả năng tiềm
tàng của y. Loại âm nhạc đó vẫn tiếp tục suốt buổi lễ, làm nổi bật một cách
tế nhị mọi lời nói thốt ra và làm bối cảnh cho mọi câu chuyện, cũng như
tiếng suối chảy nhẹ nhàng ở xa xa làm bối cảnh thiên nhiên cho tiếng chim
hát trên cành, nhưng cũng vang lừng đến một mực hùng vĩ ở một vài giai đoạn
của cuộc lễ. Âm nhạc đó làm cho không khí vang rền những âm ba, và làm cho
giọng của người nói trở nên phong phú thêm lên. Trong mỗi trường hợp, âm
nhạc đó căn cứ trên cái bản chất đặc biệt của người thí sinh, biến đổi âm
điệu và biểu lộ những đặc tính hiện tại và tương lai của y, bằng một cách mà
người thế gian như chúng ta không thể hiểu.
Người thí sinh đứng ở chính giữa khung cảnh như
đă nói ở trên, đứng hai bên là hai vị Chân Sư đề nghị và ủng hộ y vào Quần
Tiên Hội. Đức Thầy của y là Chân Sư Kuthumi dắt
y tới trước c̣n Chân Sư Jésus là vị ủng hộ. Đức
Di-Lặc-Bồ-Tát vừa mỉm cười vừa thốt ra câu hỏi mở đầu cuộc lễ:
-"Quư vị dắt ai đến trước mặt Ta đó?"
Đức Thầy đáp lại như thường lệ:
-"Đây là một thí sinh được nhận vào Quần Tiên
Hội"
Kế đó đến câu hỏi:
-"Đạo huynh có bảo đảm rằng y xứng đáng được
nhận hay không?"
Và câu đáp như thường lệ:
-"Tôi bảo đảm".
-"Đạo huynh có sẵn ḷng d́u dắt y trên đường
Đạo mà y muốn gia nhập hay không?"
Và Đức Thầy đáp: "Tôi sẵn ḷng".
-"Luật lệ của chúng ta bắt buộc phải có hai vị
Chân Sư đứng bảo đảm cho mỗi thí sinh. Vậy có Đạo huynh nào khác sẵn sàng
ủng hộ sự thỉnh cầu của y hay không?"
Khi đó, vị ủng hộ mới lên tiếng trả lời:
-"Tôi sẵn sàng ủng hộ".
Đức Bồ Tát hỏi:
-"Chư huynh có bằng chứng rằng nếu y được ban
thêm quyền năng, y sẽ dùng những quyền năng ấy để phụng sự thiên cơ hay
không?"
Và đức Thầy Kuthumi trả lời:
-"Trong kiếp này đời sống của thí sinh tuy ngắn
ngủi nhưng y đă lập nhiều công quả, và bắt đầu làm công việc của chúng ta
trên thế gian. Trong kiếp sống của y ở Hy Lạp y cũng đă hoạt động nhiều để
phổ biến nền Triết Học của tôi, và cải thiện xứ sở của y"
Chân Sư Jésus nói thêm:
-"Trải qua hai kiếp sống, y đă công nhận làm
công việc của tôi, sửa đổi những điều tệ đoan và nêu cao một lư tưởng cao
thượng trong cuộc đời của y với tư cách một nhà lănh đạo. Trong một kiếp
khác làm một tu sĩ, y đă truyền bá giáo lư đề cao những đức tánh trong sạch,
bác ái và vị tha. V́ những lư do đó, nên bây giờ tôi bằng ḷng ủng hộ y.
Kế đó, đức Bồ Tát mỉm cười nh́n thí sinh, và
nói:
-"Thí sinh này là người trẻ tuổi nhứt được
tŕnh diện để xin được nhận vào Quần Tiên Hội. Có một nhân viên nào của Quần
Tiên Hội c̣n đang ở thế gian sẵn sàng nhân danh chúng ta để giúp đỡ và chỉ
dạy cho y chăng?"
Sirius từ trước đến giờ vẫn đứng chung với nhóm
đệ tử ở phía sau, bèn bước tới trước và nói:
-"Bạch Bồ Tát, tùy khả năng của con, và ngày
nào con c̣n ở gần bên y, con sẽ vui ḷng giúp đỡ y bất cứ việc ǵ mà con có
thể".
Đức Bồ Tát nói:
-"Con có dành cho thí sinh này một t́nh huynh
đệ chân thành và con luôn luôn sẵn sàng d́u dắt y chăng?"
Sirius đáp: "Con vui ḷng".
Đức Bồ Tát khi ấy mới hỏi thí sinh lần đầu tiên
và một cách trực tiếp:
-"Về phần con, con có thương yêu sư huynh của
con chăng, để cho con sẽ được y giúp đỡ khi cần?"
Người thanh niên đáp lại:
-"Con sẽ thương yêu sư huynh con với tất cả tấm
ḷng, v́ nếu không có sư huynh, th́ ngày nay con không thể gặp cơ hội này".
Đức Bồ Tát nghiêng đầu một cách trang trọng, và
các Chân Sư dắt người thí sinh bước tới để cho y đứng ngay trước mặt Ngài.
Ngài nh́n thẳng vào người thí sinh và nói:
-"Con có muốn gia nhập Hội Quần Tiên hằng có
đời đời hay chăng?"
Người thiếu niên đáp:
-"Bạch Bồ Tát, con xin gia nhập nếu Ngài thấy
rằng con có đủ điều kiện, mặc dầu xác thân con hăy c̣n quá trẻ".
Đấng Điểm Đạo hỏi:
-"Con có biết mục đích của Quần Tiên Hội
chăng?"
Người thí sinh đáp rằng mục đích của Quần Tiên
Hội là thi hành ư muốn của Thượng Đế bằng cách thực hiện Thiên Cơ và đó tức
là Cơ Tiến Hóa.
Đức Bồ Tát nói:
-"Con có cam kết rằng kể từ ngày nay trở đi,
con sẽ hiến dâng tất cả cuộc đời và tất cả sức lực của con cho công việc
phụng sự chăng? Con có tuyệt đối quên ḿnh v́ hạnh phúc của nhân loại, hoàn
toàn sống một cuộc đời bác ái, như ḷng bác ái của Thượng Đế ban rải khắp
muôn loài?"
Người thiếu niên đáp:
-"Con sẽ cố gắng làm như thế với tất cả khả
năng của con, và với sự giúp đỡ của Sư Phụ con".
-"Con có hứa sẽ giữ bí mật những điều mà con
được lịnh phải giữ kín chăng?"
Người thí sinh đáp: "Con xin hứa"
Kế đó, những câu hỏi thông thường về mọi h́nh
thức sinh hoạt cùng công việc ở cơi Trung Giới được đưa ra cho người thí
sinh. Nhiều vật thuộc cơi Trung Giới được đưa cho y xem, và y phải nói với
đấng Điểm Đạo biết đó là vật ǵ? Y phải phân biệt những Thể Vía của người
sống và của người chết, sự khác biệt giữa một người với h́nh tư tưởng của
một người, và một vị Chân Sư thật với một vị Chân Sư giả tạo giống y như
thật. Kế đó, đấng Diểm Đạo chỉ cho y nhiều trường hợp thuộc cơi Trung Giới,
và hỏi y sẽ giúp đỡ mỗi trường hợp bằng cách nào? Người thí sinh trả lời tùy
theo sự hiểu biết của y. Sau cùng, Ngài mỉm cười và nói rằng Ngài rất hài
ḷng về những câu trả lời đó.
Khi đó, đấng Diểm Đạo thốt ra một bài diễn văn,
lời lẽ nghiêm trang và thanh tú, phần đầu luôn luôn giống nhau, nhưng phần
cuối th́ có thêm một đoạn nhắn nhủ riêng mỗi thí sinh tùy trường hợp. Bài
diễn văn đó giải thích công việc của Quần Tiên Hội trên thế gian, và trách
nhiệm giao phó cho mỗi nhân viên, v́ mỗi người phải chia sớt một phần gánh
nặng đau khổ của thế gian. Mỗi người phải sẵn sàng giúp đỡ bằng công việc
làm và bằng sự góp ư kiến. Chỉ có một Hội Quần Tiên, hành động dưới một Định
Luật và một vị Chủ Tể, và mỗi vị Đạo Đồ đều có cái vinh hạnh đem sự hiểu
biết và khả năng của ḿnh để góp phần cho Quần Tiên Hội sử dụng, hầu có xúc
tiến công việc giúp đỡ sự tiến hóa của nhân loại. . Mặc dầu đức Ngọc Đế có
quyền hành tuyệt đối, nhưng không có một quyết định quan trọng nào mà không
có sự đồng ư của chí đến người nhân viên trẻ tuổi nhứt của Quần Tiên Hội.
Mỗi vị là một đại diện của Quần Tiên Hội ở bất cứ nơi nào trên thế giới mà y
đi đến, và mỗi người đều cam kết hiến ḿnh cho Quần Tiên Hội sử dụng, đi đến
bất cứ nơi nào mà y được gởi đi và phụng sự bằng mọi phương tiện cần thiết.
Những nhân viên trẻ tuổi tự nhiên là sẽ vâng lời những vị Trưởng Thượng của
họ, nhưng họ có thể giúp đỡ bằng sự hiểu biết riêng của ḿnh, và có thể đề
nghị bất cứ điều ǵ mà họ cho là hữu ích.
Mỗi vị Đạo đồ sống ngoài thế gian phải nhớ rằng
y là một trung tâm do đó thần lực của đức Ngọc Đế có thể được gởi đi xuyên
qua để giúp đỡ những kẻ cần giúp đỡ, và các đấng Chân Sư có thể dùng y bất
cứ lúc nào như một đường vận hà để chuyển di ân huệ của các Ngài. Bởi đó,
mỗi vị Đạo đồ trẻ tuổi phải luôn luôn sẵn sàng để được sử dụng bất cứ lúc
nào, v́ y không thể biết trước ngày giờ nào y được cần dùng đến. Đời sống
của vị Đạo đồ phải là một cuộc đời hoàn toàn hiến dâng cho kẻ khác. Y phải
để ư xem chừng luôn luôn để nắm lấy tất cả mọi cơ hội phụng sự, và lấy việc
phụng sự đó làm một nguồn vui lớn nhứt của ḿnh. Y phải nhớ rằng danh dự của
Quần Tiên Hội là ở trong tay của y, và y phải giữ ǵn cẩn thận đừng để cho
bất cứ một lời nói hay hành động nào của y có thể làm bôi nhọ hoặc làm giảm
giá trị Quần Tiên Hội trong con mắt của người đời. Y đừng tưởng rằng bởi v́
y đă nhập lưu, nên mọi sự thử thách và cố gắng sẽ chấm dứt đối với y. Trái
lại, y c̣n phải thực hành những cố gắng lớn lao hơn nữa, nhưng y sẽ có một
sức mạnh tinh thần lớn lao hơn để theo đuổi những cố gắng đó, y sẽ có một
quyền năng rộng lớn hơn trước rất nhiều, nhưng đồng thời trách nhiệm của y
cũng sẽ nặng nề hơn. Y phải nhớ rằng không phải với cái tư cách cá nhân mà y
đă thực hiện được một bước tiến nó nâng y lên cao hơn những kẻ đồng loại.
Trái lại, y nên vui mừng bởi v́ nhân loại, do nơi y, đă tiến thêm được một
ít, đă tự giải thoát khỏi những sự kiềm tỏa của nó trong cái phạm vi nhỏ hẹp
đó. Ân huệ của Quần Tiên Hội luôn luôn đến với y, nhưng nó sẽ đến với y
nhiều hay ít tùy theo cái mực độ mà y ban rải nó ra cho kẻ khác, và đó là
Luật bất di dịch từ muôn đời.
Đó là đại ư phần đầu của bài diễn văn, thường
không thay đổi. C̣n về phần sau là phần nhắn nhủ riêng từng thí sinh, th́
đấng Điểm Đạo nói thêm như sau:
-"Thể xác của con c̣n quá trẻ trung để có thể
mang lấy cái trách nhiệm nặng nề của một cuộc Điểm Đạo. Tuy nhiên chính sự
trẻ trung đó đem đến cho con một cơ hội tốt đẹp như bất cứ một diễm phúc nào
của người đời hằng ao ước. Nó là kết quả tốt lành của những tiền kiếp hy
sinh của con, vậy con hăy giữ sao cho trong kiếp này con tỏ ra xứng đáng với
cái diễm phúc đó. Chúng Ta tin tưởng rằng trong khi quyết định thâu nhận một
người c̣n trẻ tuổi như con, chúng Ta đă chọn lựa một cách khôn ngoan. Con
hăy luôn luôn ghi nhớ sự hợp nhứt tuyệt đối giữa tất cả chúng ta là những
nhân viên của một Quần Tiên Hội duy nhứt, để không bao giờ con làm cho nó bị
thương tổn. Nhờ bắt đầu sớm, con có thể tiến rất xa trong kiếp này. Đường
Đạo tuy gay go hiểm trở, nhưng con sẽ có đủ sức mạnh tinh thần để vượt qua.
Con hăy tập lấy sự Minh Triết, tập chủ trị lấy các Hạ Thể, mở mang những đức
tánh sốt sắng, cương quyết và nh́n thấy xa. Hăy nhớ rằng Ta trông đợi nơi
con để làm một người phụ tá tin cẩn của Ta khi Ta lâm phàm để truyền Đạo
dưới thế gian. Nhờ giàu ḷng bác ái mà con đă đạt tới quả vị hiện tại. Con
hăy nuôi ḷng bác ái đó cho tăng trưởng và mạnh mẽ thêm lên, và nó sẽ nâng
đỡ con đi đến mục đích".
kế đó, đức Bồ Tát day lại các Chân Sư và nói:
-"Tôi nhận thấy thí sinh này đủ điều kiện. Vậy
tất cả quư vị có mặt hôm nay có đồng ư thâu nhận y vào Quần Tiên Hội chăng?"
Tất cả các vị đều trả lời: "Chúng tôi đồng ư".
Đấng Điểm Đạo bèn đứng dậy, day mặt về hướng
Shamballa và hô to:
-"Nhân danh Ngài, đức Ngọc Đế hằng có đời đời,
tôi có được phép thâu nhận vị thí sinh này chăng?"
Đáp lại lời cầu xin của đấng Điểm Đạo, Ngôi Sao
chớp sáng ḷe trên đầu Ngài để biểu lộ sự chuẩn y của đức Ngọc Đế. Tất cả cử
tọa đều cúi đầu rạp xuống, trong khi đó âm nhạc Thiên Thần nổi lên một cách
hùng dũng như một bài hành khúc tuyệt diệu. Giữa lúc ấy, hai vị Chân Sư dắt
người thí sinh tiến lên, để cho y quỳ xuống trước mặt đấng Điểm Đạo, đại
diện đức Ngọc Đế là đấng Duy Nhứt cầm quyền thâu nhận vào Quần Tiên Hội. Một
đường ánh sáng chói ḷa, như một tia chớp nhoáng, đi từ Ngôi Sao đến quả tim
đấng Điểm Đạo, và từ Ngài đến quả tim người thí sinh. Dưới ảnh hưởng của
luồng từ điển thần diệu đó, Ngôi Sao Bạc của Tâm Thức, tượng trưng điểm Chơn
Thần của người thí sinh, nở lớn và chói sáng ngời cho đến khi nó tràn đầy
Thể Thượng Trí của y, và trong một lúc, Chơn Thần hỗn hợp làm một với Chơn
Nhơn, cũng như chúng sẽ hợp nhất vĩnh viễn khi con người đắc quả vị Chơn
Tiên. Đức Bồ Tát đặt hai bàn tay Ngài lên đầu thí sinh, và gọi đích tên y,
Ngài nói:
-"Nhân danh đấng Điểm Đạo Duy Nhất mà Ngôi Sao
chiếu sáng trên đầu chúng ta, Ta nhận con vào Quần Tiên Hội hằng có đời đời.
Con hăy cố gắng để trở thành một nhân viên xứng đáng và hữu ích của Quần
Tiên Hội. Từ nay con đă được vĩnh viễn an toàn; con đă nhập lưu và xuôi
gịng tiến bước. Ta chúc con sớm đạt tới bến Giác!"
Khúc nhạc Thiên Thần lại trổi dậy trong một
biển âm thanh ngọt ngào du dương, dường như làm tràn đầy không khí với một
sức mạnh và niềm vui mừng khôn tả. Đấng Điểm Đạo cùng hai vị Chân Sư đở đầu
và người thí sinh đều được bao phủ trong những màu sắc tốt đẹp vô cùng.
Những luồng ân huệ của đức Bàn Cổ, đức Văn Minh Đại Đế, và sau cùng của đức
Phật Thích Ca Như Lai được ban xuống cho người thí sinh: từ nay lại có thêm
một người con của nhân loại đă bước vào cửa Đạo. Ngôi Sao Bạc dường như nở
lớn và bao trùm đấng Điểm Đạo cùng với người tân Đạo đồ trong một ṿng ánh
sáng huy hoàng. Và khi hai vị cùng bước ra khỏi ṿng ánh sáng huy hoàng đó,
th́ y phục của người thí sinh không c̣n bằng vải nữa, mà bằng lụa trắng,
giống như của những vị Đạo đồ khác đă được Điểm Đạo.
Khi đấng Điểm Đạo làm cho Thể Thượng Trí của
Ngài chiếu sáng, và Thể Thượng Trí của vị tân Đạo Đồ cũng chiếu sáng đáp
lại, th́ đó là một cảnh tượng tốt đẹp vô cùng. Ánh sáng màu lục và màu vàng
chiếu diệu, và điểm Chơn Thần, lúc b́nh thường chỉ là một điểm ánh sáng nhỏ
ở bên trong hột lưu tánh nguyên tử của Thể Thượng Trí, khi đó chói sáng rực
rỡ.Trong dịp đó, điểm Chơn Thần hỗn hợp với một mảnh của nó là Chơn Nhơn, và
chính nó đă lập những lời nguyện. Ảnh hưởng trên Thể Vía cũng là một điều
rất lư thú. Nó làm cho Thể Vía rung động nhịp nhàng, mà vẫn không mất sự
thăng bằng,
và từ nay nó có thể cảm giác một cách tế nhị
hơn trước rất nhiều, tuy vẫn c̣n dưới sự kiểm soát của đương sự. Đấng Điểm
Đạo tạo nên sự nhịp nhàng đó bằng cách làm cho Thể Vía của người thí sinh
rung động theo cùng một nhịp với Thể Vía của Ngài, và đồng thời làm cho nó
được vững vàng kiên cố hơn,
để cho nó khỏi bị dễ lay chuyển hay giao động,
mà trái lại có một khả năng rung động mănh liệt hơn trước.
Khi đă làm xong tất cả những điều đó, đấng Điểm
Đạo mới ban cái Ch́a Khóa Hiểu Biết cho người Tân Đạo Đồ, và dạy cho y biết
làm thế nào để nh́n nhận một cách đúng đắn bằng nhăn quang siêu phàm bất cứ
một nhân viên nào của Quần Tiên Hội mà y chưa được quen biết. Ngài truyền
lịnh cho một vài vị cao đồ của Chân Sư hăy trông nom săn sóc người Tân Đạo
Đồ trong việc luyện Kim Thân, hay là Thể Bồ Đề, càng sớm càng hay. Đến đây,
cuộc lễ chấm dứt và những vị Chân Sư hội họp tại đó đều ban ân huệ cho người
tân Đạo Đồ. Khi đó, đến lượt người tân Đạo Đồ ban ân huệ của Quần Tiên Hội
cho thế gian, và đó là lần đầu tiên mà y sử dụng cái quyền năng mới và mạnh
mẽ được giao phó cho y. Luồng ân huệ đó được ban xuống cho thế gian giúp
thêm một sự sống mới cho mọi loài, mỗi sinh vật đều được ban thêm một ít sức
mạnh, một ít mỹ lệ. Tất cả đều bày tỏ vẻ khoan khoái và biết ơn. Khi một
người con của nhân loại gia nhập vào Quần Tiên Hội, th́ tất cả mọi vật trong
Thiên nhiên đều vui mừng, v́ lại có thêm được một sức mạnh tăng cường hàng
ngũ của những bậc Chí Thiện, để sau cùng sẽ giúp đỡ họ giải thoát khỏi ṿng
đau khổ. Sự sống trên thế gian là một Sự Sống Duy Nhất, và khi một đơn vị
nào của toàn thể thực hiện được một sự tiến bộ rơ rệt, th́ tất cả mọi loài
trong Thiên nhiên đều chia sớt sự thành công đó, dầu là những loài mà chúng
ta thường gọi một cách sai lầm là vô tri giác.
Khi cuộc lễ chấm dứt, các Chân Sư ban lời khen
tặng cho vị tân Đạo Đồ và Ngôi Sao Sáng biến mất.
Qua đêm sau, tôi được lịnh tŕnh diện người tân
Đạo Đồ cho đức Ngọc Đế. Tự nhiên, đây là một cái danh dự rất phi thường, và
không gồm trong những nghi thức của cuộc Điểm Đạo thứ nhứt. Nó chỉ thường đi
kèm theo cuộc Điểm Đạo lần thứ 3 mà thôi. Chúng tôi đến Shamballa vào giờ đă
định và được tiếp kiến tại nơi đại điện như thường lệ.Chúng tôi thấy đức
Ngọc Đế đương ngồi nói chuyện với đức Phật Thích Ca và đức Di-Lặc-Bồ-Tát.
Đức Di-lặc tŕnh diện người tân Đạo Đồ cho đức Ngọc Đế, như là "một người em
nhỏ nhất, một Ngôi Sao Bác Ái luôn luôn chói rạng", và đức Ngọc Đế (Sanat
Kumara) mỉm cười một cách dịu dàng khi người thiếu niên quỳ dưới chân Ngài.
Người tân Đạo Đồ chắp tay vái chào theo kiểu Đông Phương, đức Ngọc Đế đưa
bàn tay mặt của Ngài ra, nắm lấy cả hai bàn tay của y và nói:"Con đă cố gắng
rất nhều và Ta rất hài ḷng về con. Ta đă gọi con đến đây để nói cho con
biết như thế. Con hăy tiếp tục và hăy cố gắng hơn nữa, v́ Ta trông cậy rằng
con sẽ đóng một vai tṛ lớn lao trong tương lai của Giống Dân mới sau này.
Ngôi Sao của Ta chói sáng trên đầu con vài giờ trước đây. Con hăy nhờ rằng
nó sẽ luôn luôn lơ lửng trên đầu con, mặc dầu con không trông thấy nó; và ở
nơi nào nó chói rạng, th́ nơi đó sẽ có ân huệ, sự tinh khiết và sự bằng an".
Khi đó, đức Phật đặt bàn tay của Ngài trên đầu
người tân Đạo Đồ, và nói:
"Ta cũng ban cho con ân huệ và lời khen của Ta,
v́ Ta nghĩ rằng sự tiến bộ mau chóng của con bây giờ sẽ mở màn cho một tương
lai sáng lạn về sau. Trong cái tương lai đó, Ta sẽ đón nhận con như một vị
Đạo hữu của Huyền Môn Chánh Đạo, ngàn đời ban rải Ánh Sáng Đạo mầu cho các
bầu thế giới".
Ba vị Độc Giác Phật (Kumaras) đứng phía sau
cũng mỉm cười với người thiếu niên trong khi y quỳ và không nói một lời nào
nhưng chiếu diệu ḷng bác ái và tôn sùng. Đức Ngọc Đế đưa bàn tay của Ngài
để ban ân huệ trong khi chúng tôi cúi lạy rạp xuống đất, và chúng tôi lui
bước.
THỜI GIAN CỦA MỘT CUỘC LỄ ĐIỂM ĐẠO
Một cuộc lễ Điểm Đạo diễn ra trong một thời
gian bao lâu, tùy từng trường hợp, mà một yếu tố trong những yếu tố khác là
số vốn kiến thức của người thí sinh.Có những cuộc lễ kéo dài đến ba ngày và
ba đêm, nhưng thường th́ ngắn hơn nhiều. Một trong những cuộc lễ Điểm Đạo mà
tôi đă chứng kiến đă kéo dài suốt hai đêm và một ngày. Những cuộc lễ khác
tập trung chỉ trong một đêm, một phần lớn những nghi thức thông thường được
gác lại một bên để rồi sau đó sẽ được thi hành do những vị đệ tử cao cấp
nhứt của các Chân Sư. Vài cuộc Điểm Đạo thời cổ kéo dài thời giờ như thế là
bởi v́ người thí sinh phải được thụ huấn về công việc làm ở cơi Trung Giới.
Y cũng phải thực hiện một vài kinh nghiệm của Thể Kim Thân (Bồ Đề) v́ sự
phát triển của Thể này rất cần thiết cho cuộc Điểm Đạo, nếu không th́ người
thí sinh sẽ không thể hiểu được một vài điều giáo huấn thuộc về cơi Bồ Đề.
Phần nhiều những hành giả trong giới Thông Thiên Học đă có làm công việc ở
cơi Trung Giới và nhờ đó đă biết được nhiều chi tiết về cơi này. Một phần
lớn những chi tiết đó được giải thích trong cuộc lễ Điểm Đạo, nếu người thí
sinh chưa biết ǵ cả. C̣n nếu đấng Điểm Đạo biết rằng người thí sinh đă có
phát triển ít nhiều Thể Kim Thân của y, th́ những vị đệ tử cao niên hơn
thường được giao phó trách nhiệm giúp cho người thí sinh trải qua tất cả
những kinh nghiệm về loại đó, hoặc trong đêm sau, hoặc khi nào có dịp thuận
tiện.
Cuộc lễ Điểm Đạo này kéo dài ít hơn sáu giờ
đồng hồ, nhưng trước và sau cuộc lễ c̣n có một ít thời giờ dành cho người
thí sinh. Các Chân Sư luôn luôn khen ngợi người thí sinh sau khi cuộc lễ
chấm dứt, mỗi vị đều nói với y một vài lời khả ái. Các Ngài cũng thừa dịp
những cuộc hội họp như thế để đưa một vài huấn lịnh cho các đệ tử. Sự thâu
nhận một thí sinh mới vào Quần Tiên Hội là một sự thành công cho tất cả, và
mỗi khi có thêm một linh hồn được vĩnh viễn an toàn như thế, là một dịp vui
vẻ rất lớn, nhứt là cho những nhân viên c̣n trẻ tuổi.
ĐỊA VỊ "CON CỦA ĐỨC THẦY"
Chúng tôi đă nói về sự liên lạc mật thiết giữa
Chân Sư và người đệ tử được thâu nhận. Sự thân mật đó mỗi lúc càng tăng thêm
nhiều và đến khi người đệ tử tiến đến gần cửa Điểm Đạo th́ Chân Sư xét thấy
cần thiết lập giữa Ngài với người đệ tử một sự hợp nhứt chặt chẽ hơn nữa.
Khi ấy, người đệ tử trở nên "Con của đức Thầy", và sự liên lạc giữa Thầy và
tṛ mật thiết đến nỗi không những Thể Hạ Trí, mà Chơn Nhơn trong Thể Thượng
Trí của người đệ tử, cũng được bao phủ bởi Thể Thượng Trí của Chân sư, và
như thế Ngài không c̣n có thể tạo nên một tấm màn để ngăn cách giữa Ngài với
người đệ tử, như đă nói ở đoạn trước.
Trong quyển "Ánh
Sáng trên đường Đạo" có đoạn diễn tả trạng thái hợp nhứt sâu xa đó như
sau: "Ta cho con sự bằng an của Ta, câu này Chân Sư chỉ có thể nói với những
đệ tử thân yêu giống như Ngài".Như thế, những vị đệ tử có cái đặc ân quư vộ
giá là có thể chuyển sự bằng an cho kẻ khác một cách trọn vẹn. Mỗi vị đệ tử
chánh thức của Chân Sư đều có quyền và có bổn phận ban ân huệ nhân danh
Ngài, và mỗi khi y dùng cái quyền năng đó một cách đúng đắn, th́ một luồng
ân huệ tốt đẹp của Chân Sư chắc chắn sẽ ủng hộ sự cố gắng của y. Khi người
đệ tử bước vào nhà ai, y phải ban ân huệ đặc biệt trong trí y như sau: "Cầu
xin ân huệ của Chân Sư được ban rải khắp ngôi nhà này, và cả những người
sống ở trong đó". Nhưng, chỉ có một vị "Con của đức Thầy" mới có thể gây cho
người khác cái cảm giác về sự hiện diện của y, bằng một sự an tịnh không thể
tả. Chỉ có vị "Con của đức Thầy" mới được nh́n nhận là một nhân viên của
Quần Tiên Hội, và như tôi đă nói, điều này đưa đến cho y cái quyền năng ban
bố một ân huệ lớn lao hơn nữa, mặc dầu cả hai thứ ân huệ đều có sự công dụng
riêng trong mỗi lănh vực đặc biệt của nó.
Tôi có nhớ đă gởi tặng cả hai thứ ân huệ đó,
trong những trường hợp khác nhau, cho một vị Thiên Thần rất lớn mà tôi có
hân hạnh được biết rơ. Một ngày nọ, tôi ngồi trên một chiếc tàu chạy ngang
qua địa phận của Ngài. Tôi gởi cho Ngài, như một sự chào hỏi, một luồng ân
huệ của Sư Phụ tôi. Thật là một cảnh tượng tốt đẹp mà thấy Ngài nhận luồng
ân huệ đó. Ngài nghiêng ḿnh rất sâu và tỏ vẻ cám ơn bằng cách phát ra một
luống ánh sáng êm dịu tượng trưng cho sự thánh thiện và ḷng sùng tín mạnh
mẽ. Một ngày khác, trong một dịp tương tự như thế, tôi gởi cho Ngài một
luồng ân huệ của Quần Tiên Hội. Trong khoảng khắc, tất cả ṿng hào quang của
vị Đại Thiên Thần đó đều rung động mănh liệt và chói rạng màu sắc rực rỡ để
đáp lại, đồng thời làm sáng rực toàn cơi địa phận của Ngài.
Sự phản ứng đó giống như của một người lính tập
th́nh ĺnh đứng nghiêm, hoặc hơn nữa, dường như tất cả mọi sự không những
trong vị Thiên Thần mà trong hằng muôn ngàn sinh linh phụ thuộc làm việc
dưới sự chỉ huy của Ngài đều được tăng gia sinh lực lên gấp bội phần. Tất cả
cảnh vật thiên nhiên đều phản ứng một cách mau chóng. Đó là bởi v́ Sư Phụ
của tôi, dẫu rằng được sự kính mến của vị Thiên Thần đó, vẫn không phải là
Sư Phụ của Ngài; c̣n đức Ngọc Đế của Quần Tiên Hội cũng là đức Ngọc Đế chung
của tôi và của Ngài, bởi v́ đức Ngọc Đế là đấng Duy Nhứt, mà uy quyền bao
trùm toàn thể quả địa cầu của chúng ta.
TR̀NH ĐỘ ĐIỂM ĐẠO
Vấn đề muốn biết xem một người đă gần đến mức sẵn sàng
được Điểm Đạo hay chưa, gồm có ba điều kiện tùy thuộc lẫn nhau. Điều thứ
nhứt là y phải có đủ những đức tánh cần thiết, như đă nêu trong quyển "Dưới
Chân Thầy". Điều này ngụ ư rằng y phải mở tất cả những đức tánh đến một
mực tối thiểu, và một vài đức tánh trong số đó phải được phát triển nhiều.
Để có một ư niệm rơ rệt về vấn đề này, chúng ta hăy lấy thí dụ ở cách chấm
bài trong những kỳ thi lớn. Những vị giám khảo chấm thi đă định trước rằng
không một thí sinh nào được chấm đậu nếu y không có một sồ điểm tối thiểu
cho mỗi môn học. Số điểm tối thiểu này thường rất thấp, thí dụ là 25 phần
trăm. Thí sinh nào không đủ 25 phần trăm số điểm trong bất cứ môn nào, sẽ bị
chấm rớt. Tuy nhiên, một thí sinh chỉ có vừa đủ 25 phần trăm số điểm cho tất
cả những môn học, cũng không được chấm đậu, v́ ngoài ra số điểm tối thiểu
định riêng cho mỗi môn học, người ta c̣n phải đặt ra một số điểm tối thiểu
cộng chung cho tất cả, thí dụ là 40 phần trăm. Bởi vậy, một thí sinh chỉ có
25 phần trăm hay 30 phần trăm số điểm trong một hay hai môn học, phải làm
sao cho số điểm vượt trội hơn rất nhiều trong những môn khác, để khi cộng
chung tất cả lại những môn học, y sẽ có đủ số điểm trung b́nh cần thiết.
Đó cũng là phương pháp áp dụng trong khoa Huyền
Môn. Người thí sinh muốn được Điểm Đạo phải mở mang tất cả mọi đức tánh đến
một mực độ trung b́nh, nhưng đồng thời y phải phát triển một vài đức tánh
đến một mực thật đầy đủ và mỹ măn. Một thí sinh không thể được chấm nếu y
hoàn toàn thiếu hẳn tánh phân biện. Nhưng nếu y chỉ có đức tánh này một cách
thiếu sót, c̣n cách rất xa mực độ trung b́nh, th́ một ṿng Bác Ái rộng lớn,
chan chứa t́nh thương đối với mọi vật, sẽ có thể bù trừ cho sự thiếu sót nói
trên. Điều thứ hai, là linh hồn phải huấn luyện những hạ thể của nó như thế
nào để có thể sử dụng chúng một cách hoàn toàn tùy theo ư muốn. Y phải thực
hiện điều mà giáo lư Thông Thiên Học gọi là sự hợp nhứt của Chơn Nhơn và
Phàm Nhơn. Điều thứ ba, là y phải có đủ sức mạnh để chịu đựng sự công phu
khó nhọc,
nó sẽ ảnh hưởng chí đến Thể Xác của y.
C̣n nói về tŕnh độ tiến hóa mà y sẽ đạt tới do
cuộc Điểm Đạo, th́ đây là một điều rất co giăn và không có một tiêu chuẩn
nhất định. Thật là một điều sai lầm mà tưởng rằng tất cả những vị được Điểm
Đạo đều có một tŕnh độ phát triển bằng nhau, cũng như người ta đừng tưởng
rằng tất cả những người có bằng cấp Cử Nhân đều có một kiến thức đồng đều
nhau.
Một thí sinh có thể phát triển nhiều đức tánh
cần thiết đến một mực độ vô cùng mỹ măn, vượt khỏi số điểm tối thiểu rất xa,
nhưng lại bị sút kém đến một mực quan trọng và thấp hơn mực tối thiểu về một
đức tánh nào đó. Trong trường hợp đó, tự nhiên là y cần phải đợi cho đến khi
y có đủ số điểm tối thiểu về đức tánh c̣n thiếu sót, và trong khi ấy th́ tự
nhiên là y sẽ phát triển những đức tánh khác nhiều hơn nữa.
Bởi đó, chúng ta thấy tuy rằng có một tŕnh độ
nhứt định cần thiết cho sự Điểm Đạo, nhưng cũng có vài thí sinh đă vượt khỏi
cái tŕnh độ đó rất xa về một vài phương diện. Chúng ta cũng thấy rằng có
thể có nhiều sự khác biệt nhau rất xa về thời gian ở khoăng giữa các cuộc
Điểm Đạo. Một người vừa mới được Điểm Đạo lần thứ nhứt, có thể đă phát triển
được rất nhiều đức tánh cần thiết cho cuộc Điểm Đạo thứ nh́, bởi đó, thời
gian cách khoảng giữa hai cuộc Điểm Đạo rất ngắn.
Trái lại, một thí sinh chỉ có vừa đủ mọi điều
kiện để qua khỏi cuộc Điểm Đạo thư nhứt, sẽ phải tuần tự phát triển tất cả
mọi đức tánh và khả năng cần thiết cho cuộc Điểm Đạo thứ nh́, bởi đó, thời
gian chuẩn bị sẽ lâu dài hơn.
CƠ HỘI HIỆN TẠI
Hiện thời, chúng ta đă bước vào một thời kỳ của
lịch sử thế giới mà sự phát triển ở tất cả mọi tŕnh độ tiến hóa đều có thể
rất mau chóng, bởi v́ việc đức Chưởng Giáo sắp lâm phàm tạo nên một trào lưu
tư tưởng mạnh mẽ vô cùng về các vấn đề tâm linh, tất cả đều hướng về mục
đích tiến bộ tinh thần, cho nên bất cứ người nào có một cố gắng công phu
theo chiều hướng đó đều nhận thấy rằng họ đi thuận gịng và tiến rất mau.
Điều này không phải chỉ là gịng tư tưởng và cảm xúc của con người; thật
vậy, tư tưởng của con người chỉ là một phần rất nhỏ của cái trào lưu đó, bởi
v́ những người biết rơ về việc đức Chưởng Giáo lâm phàm chỉ là một số ít.
Điều đáng kể nhứt là cái gịng tư tưởng và cảm xúc vô cùng mạnh mẽ của hằng
hà sa số những vị đại Thiên Thần, những vị này biết rơ Thiên Cơ và cố gắng
bằng mọi cách để trợ giúp Cơ Tiến Hóa.
Tuy nhiên, sự tiến bộ mau chóng như thế là một
việc hao tốn rất nhiều công phu khó nhọc, một điều mà những người học Đạo ít
khi biết rơ. Người sinh viên khoa Huyền Môn nhắm mục đích tiến mau lẹ nên
nhớ rằng một trong những điều kiện cần thiết là sức khỏe về thể chất. Người
ấy muốn thực hiện gấp rút trong một kiếp, một cái kết quả tiến bộ mà trong
những trường hợp thông thường phải kéo dài đến trên hai mươi kiếp hoặc nhiều
hơn nữa; và v́ sự cố gắng công phu trong cả hai trường hợp này đều bằng
nhau, lẽ tất nhiên là y phải tăng gia cố gắng công phu gấp bội nếu y muốn
thành công.
Trong một khoa thi ở thế gian, người học tṛ có
thể thâu ngắn thời kỳ học tập thường dành cho một lớp học để chuẩn bị đi
thi. Nhưng y chỉ có thể làm như vậy bằng cách làm việc quá sức, nghĩa là bắt
buộc bộ óc, sự chú ư, nhăn quang và sức chịu đựng của y làm việc gia bội. Ai
cũng biết rằng làm việc quá sức như vậy sẽ rất tai hại cho sức khỏe của y là
dường nào. Người học Đạo cố gắng để hối thúc sự tiến hóa tâm linh của ḿnh
cũng ở vào t́nh trạng tương tự như vậy. Điều này có thể thực hiện được, và
có người đă thực hiện được. Đó là một điều rất tốt đẹp, để cho y công phu cố
gắng làm cho được, nhưng luôn luôn với sự dè dặt này, là y phải cẩn thận
đừng làm quá sức ḿnh, nếu không, th́ rốt cuộc y sẽ làm trở ngại thay v́
thăng tiến sự phát triển của ḿnh. Có một sức khỏe tốt khi mới bắt đầu công
phu tu luyện cũng chưa đủ, mà cần phải giữ ǵn nó cho được bền bỉ đến lúc
cuối cùng. Sự tiến bộ chỉ là một phương tiện đưa đến mục đích, và chúng ta
tu luyện bản thân không phải là để trở nên một nhân vật cao cả và khôn
ngoan, mà để cho chúng ta có sự hiểu biết và khả năng hầu phụng sự nhân loại
một cách hiệu quả nhứt. Chúng ta đừng quên rằng khoa Huyền Môn luôn luôn chủ
trương những hành động hợp lư.
NHỮNG THIẾU NIÊN ĐƯỢC ĐIỂM ĐẠO
Từ trước đến giờ, trừ những trường hợp rất hiếm
có, người đệ tử chỉ được Điểm Đạo sau khi xác thân của họ đă đến tuổi trung
niên và sau khi họ đă tỏ ra bằng nhựng hoạt động của họ ở thế gian, rằng họ
cam kết hiến dâng cuộc đời cho công việc phụng sự Thiên Cơ. Tuy nhiên, trong
những năm gần đây, một vài linh hồn đă có cái vinh dự được Điểm Đạo mặc dầu
thể xác của họ hăy c̣n trẻ. Khi đức Chưởng Giáo lâm phàm, Ngài có thể sử
dụng bất cứ một người nào ở thế gian tùy theo khả năng của y; nhưng một vị
đệ tử chánh thức của Chân Sư sẽ hữu ích cho Ngài trên nhiều phương diện hơn
là người của thế gian; và càng hữu ích hơn gấp bội phần là vị đệ tử đă bước
qua cửa Điểm Đạo, và đă kết những dây nhân duyên nối liền tất cả những nhân
viên của Quần Tiên Hội. Chính Linh Hồn, mới là được Điểm Đạo, c̣n tuổi tác
của cá xác thân mà nó khoác lấy trong một thời gian nhất định không phải là
điều quan trọng.
Trong tất cả những trường hợp khi những vị
thanh thiếu niên được Điểm Đạo, th́ những nhân viên cao niên của Quần Tiên
Hội sống ở gần họ hoặc tiếp xúc với họ ở thế gian bằng thể xác phàm trần,
đều lănh nhiệm vụ giúp đỡ và d́u dắt họ. Điều này rất cần thiết, v́ cái
trách nhiệm lớn lao mà cuộc Điểm Đạo đem đến cho người đệ tử cùng với sự mở
rộng tâm thức và tăng gia quyền năng.
Một hành động sai lầm hay một bước vấp ngă của
một vị đệ tử được Điểm Đạo sẽ mang đến những nghiệp quả nặng nề hơn là những
hành động tương tự của một người chưa gia nhập vào Quần Tiên Hội. Bởi đó,
thiết tưởng nên nêu ra dưới đây một vài chỉ thị cho những thanh thiếu niên
đó.
Mỗi người đều nên nhớ rằng y được Điểm Đạo bởi
v́ trong những tiền kiếp của y, hoặc trong kiếp này, y đă giúp đỡ thế gian
đến một mực độ khả quan, và người ta hy vọng rằng y sẽ tiếp tục con đường
phụng sự đó để trở nên một kinh vận hà rộng lớn hơn cho thần lực của Thượng
Đế. Chính bởi v́ y có khả năng trở nên hữu ích nhiều hơn cho nhân loại, mà y
được Điểm Đạo, và trong cuộc lễ y cam kết hiến dâng cuộc đời để phụng sự và
ban hạnh phúc, ân huệ cho kẻ khác cũng như đức Thượng Đế vẫn luôn luôn ban
rải ḷng Bác Ái vô biên của Ngài cho thế gian. Bởi đó, y nên giữ lời cam kết
đó luôn luôn từng giờ từng phút và tất cả mọi sự đều phải lệ thuộc vào đó.
Nghiệp quả của y trong những tiền kiếp đưa đến cho y những tánh chất và đặc
điểm riêng tư khác nhau; y phải luôn luôn giữ ǵn kẻo những điều này làm cho
y nghĩ đến hạnh phúc riêng ḿnh thay v́ nghĩ đến hạnh phúc của toàn thể nhân
loại.
Trước khi y có thể bắt tay vào công việc phụng
sự, người Đạo Đồ trẻ tuổi thường phải tự chuẩn bị bằng một sự học vấn thông
thường ở những trường Trung Học hoặc Đại Học. Trong trường hợp này, y sẽ bị
lôi cuốn trong những ngành hoạt động của thế gian và những thú vui ích kỷ.
Cuộc đời đem đến cho y nhiều sự cám dỗ, và nhiều cơ hội làm cho y quên mất
lời cam kết đối với Hội Quần Tiên. Trải qua tất cả những cơ hội này, y phải
có một thái độ rơ ràng nhất định, rằng y đă giao tất cả vận mạng của ḿnh
cho những mục đích của Quần Tiên Hội. Trong mọi cuộc sinh hoạt của y ở thế
gian, trong bất cứ một dịp nào dù là học tập, chơi bời hay giải trí, y phải
nhất định nuôi trong trí một tư tưởng này: "Điều mà tôi sắp làm đây có làm
cho tôi được hữu dụng hơn trong công việc của đức Thầy, hoặc trở nên một khí
cụ hữu hiệu hơn để ban rải t́nh thương và hạnh phúc cho nhân loại chăng?"
Y phải luôn luôn nhớ rằng Quần Tiên Hội có
quyền ưu tiên đối với công việc phụng sự của y, và y đừng bao giờ tự đặt
ḿnh ở một hoàn cảnh nào khiến cho y không thể thi hành nhiệm vụ đối với cơ
quan ấy. Không phải là y nhứt định phải sống cuộc đời của một người ẩn sĩ,
nhưng trong khi y sống cuộc đời ở ngoài xă hội nó giúp cho y cái cơ hội tiến
hóa mà y cần dùng, y phải luôn luôn coi chừng xem cuộc đời ấy có làm cho y
trở nên một khí cụ hữu hiệu hơn hay không cho công việc phụng sự Thiên Cơ.
Từ đó trở đi, bất cứ một kinh nghiệm nào xảy đến cho y, dầu là vô hại hay
tốt lành đến đâu, mà không thể làm cho y trở nên một đường vận hà tốt đẹp
hơn cho thần lực của đức Thượng Đế, hoặc đưa đến cho y một cơ hội phụng sự,
th́ đó cũng chỉ là vô giá trị, và làm mất thời giờ. Y phải cố gắng nắm lấy
mọi cơ hội phụng sự mà y nh́n thấy và học hỏi những điều ǵ có thể giúp cho
y được hữu ích hơn.
Khi người đệ tử được Điểm Đạo và trở nên một
nhân viên của Quần Tiên Hội, y cũng trở nên một huynh đệ của tất cả mọi
người, với một ư nghĩa rộng lớn hơn và đặc biệt hơn trước. Điều này không có
nghĩa là y phải chỉ huy cuộc đời của họ, và d́u dắt họ bằng sự chỉ trích phê
b́nh. Vai tṛ của y ở thế gian không phải là nhà phê b́nh mà là khuyến
khích, nhưng nếu y thấy cần phải đưa ra một đề nghị nào, y phải đưa ra một
cách rất cẩn thận và có lễ độ. Thế gian không thấy được những đấng Cao Cả
trong Quần Tiên Hội, v́ vậy họ sẽ xét đoán cơ quan này qua những người đệ tử
c̣n trẻ tuổi mà họ có thể tiếp xúc. Đó chính là ư nghĩa của câu nói trong
bài diễn từ đọc trong cuộc lễ Điểm Đạo, nói rằng người tân Đạo Đồ nắm danh
dự của Quần Tiên Hội trong tay của y.
Bổn phận của người tân Đạo Đồ là ban rải ân huệ
và ḷng Bác Ái, để cho bất cứ chỗ nào mà y đi đến đều được vui vẻ hơn, hạnh
phúc hơn v́ sự hiện diện của y. Bởi đó y phải luôn luôn chuyển hướng ra
ngoài. Từ nay về sau, sự xét đoán của thế gian về những hành động của y như
thế nào không phải là điều quan trọng mà chỉ có sự xét đoán của Quần Tiên
Hội mới là điều quan trọng mà thôi. Dầu y có được thế gian trọng vọng hay là
chê bai, điều đó không sao cả, nếu ở tất cả mọi trường hợp xử thế, y vẫn
luôn luôn trung thành với những lư tưởng của y. Một vài đấng Cao Cả trong
Quần Tiên Hội có thể muốn sử dụng y bất cứ lúc nào, ở bất cứ nơi nào, và đôi
khi y không hay biết chi về việc ấy, nhưng y không thể được sử dụng nếu vào
lúc mà Bề Trên cần dùng đến y, th́ các Ngài lại thấy y đang băn khoăn thắc
mắc về những việc ích kỷ riêng tư của ḿnh chớ không đưa tư tưởng ra ngoài
để nghĩ đến việc giúp đỡ thế gian.
Điều cần thiết nhứt cho y là lập hạnh bằng cách
nào để cho khi Chân Sư nh́n vào y, th́ Ngài sẽ thấy y đang nghĩ đến hạnh
phúc của nhân loại, chớ không lo nghĩ rằng cuộc đời thế gian đem đến cho y
hạnh phúc hay đau khổ.
CHƯƠNG VIII
CÁC CUỘC ĐIỂM ĐẠO THỨ NH̀ VÀ THỨ BA
(QUẢ VỊ TU ĐÀ HÀM(Sakridagamin)và
A NA HÀM(Anagami)
BA ĐIỀU CHƯỚNG NGẠI ĐẦU TIÊN
Người thí sinh vượt qua cuộc Điểm Đạo thứ nhứt,
đă vĩnh viễn bước vào đường Đạo thật sự, con đường này đưa đến quả vị Chơn
Tiên, tức là giai đoạn cuối cùng đưa y thoát ra khỏi kiếp làm người để bước
vào đời sống Siêu Nhân Loại. Nh́n vào con đường này từ bậc dưới thấp, người
ta có thể ngạc nhiên mà thấy người thí sinh không bị kiệt sức sau khi đă
trải qua những công phu nhọc nhằn đưa y đến cuộc Điểm Đạo thứ nhứt, và cũng
không ngă ḷng hay chán nản trước những đảnh núi cao vót dựng lên trước mặt
y trên con đường Đạo gay go hiểm trở mà y c̣n phải vượt qua. Nhưng người thí
sinh đă ḥa ḿnh với sự sống thiêng liêng và sức mạnh của y nay đă tăng lên
gấp mười. Đó là nhờ bởi cơi ḷng y được tinh khiết, và sự tốt đẹp huy hoàng
của một nhân loại lư tưởng, càng ngày càng hiển hiện rơ rệt đối với y có một
sự hấp dẫn và một sự cảm hứng dồi dào mà không một thú vui vật chất nào ở
trần gian có thể sánh kịp. Cuộc Điểm Đạo thứ nh́ kết thúc giai đoạn đầu trên
đường Đạo của người thí sinh. Muốn được hai lần Điểm Đạo, y phải dứt bỏ ba
điều chướng ngại sau đây:
1.-Sakkayaditthi. tức là ảo tưởng về bản ngă.
2.-Vichikicchehha. tức là sự nghi ngờ.
3.-Silabbataparamasa. tức là sự mê tín.
Chướng ngại thứ nhứt là cái ư thức của bản ngă
cho rằng: "Tôi là tôi" nó chỉ là
một điều ảo tưởng thuộc về phàm nhơn, và phải được loại trừ ở ngay bước đầu
của con đường tiến hóa thật sự. Nhưng dứt bỏ điều chướng ngại đó c̣n ngụ ư
rằng: Người thí sinh phải nhận định rằng cái Chơn tánh của con Người vốn là
Một với tất cả, và bởi đó y không thể có những thích thú riêng tư nào trái
ngược với những thích thú của những kẻ đồng loại, y chỉ thật sự tiến hóa khi
nào y giúp đỡ sự tiến hóa của kẻ khác.
C̣n điều chướng ngại thứ hai, th́ thiết tưởng
cần phải nói rơ vài lời. Những người được hấp thụ văn hóa và tư tưởng của
người Âu thường quen thuộc với cái ư nghĩ sai lầm rằng những tín đồ của mọi
tôn giáo, đạo giáo hay môn phái, đều phải có một đức tin mù quáng và tuân
theo một cách triệt để, không bàn căi hay biện luận, những tín điều của các
tôn giáo đó. Bởi đó, khi họ nghe nói rằng trong khoa Huyền Môn, sự nghi ngờ
là một chướng ngại cho sự tiến bộ, th́ họ có thể nghĩ rằng trên đường Đạo có
lẽ người thí sinh cũng bị bắt buộc phải có một đức tin mù quáng giống như
những sự mê tín của thời buổi hiện đại. Đó là một điều lầm lạc rất lớn.
Quả thật sự nghi ngờ về một vài vấn đề là một
trở ngại cho sự tiến bộ về tinh thần, nhưng phương thuốc trị sự nhgi ngờ đó
không phải là đức tin mù quáng (v́ chính điều này cũng là một chướng ngại),
mà là một sự quả quyết chắc chắn căn cứ trên kinh nghiệm cá nhân hay trên sự
suy luận bằng lư trí. Khi mộ đứa học tṛ nghi ngờ sự đúng đắn của bàn toán
cửu chương, th́ nó không thể nào học giỏi về khoa Đại số; nhưng sự nghi ngờ
của nó chỉ có thể được giải quyết một cách mỹ măn bằng sự hiểu biết, căn cứ
trên sự suy luận và thí nghiệm, rằng bàn cửu chương là đúng. Nó tin rằng:
hai nhân cho hai là bốn, không phải v́ người ta nói với nó như vậy, nhưng v́
điều ấy đối với nó đă trở nên một sự thật hiển nhiên. Và đó chính là phương
pháp duy nhất để giải quyết sự nghi ngờ theo ư nghĩa của khoa Huyền Môn.
Danh từ
Vichikichchha được định nghĩa như là
nghi ngờ những giáo lư về Nhân
quả và Luân Hồi, và nghi ngờ sự hiệu quả của phương pháp đưa đến mức Toàn
Thiện, tức là con đường Chánh Đạo vậy. Nhưng sự hiểu biết những vấn đề này
cũng làm cho ta nhận thức một cách rơ ràng rằng cơi thế gian là một trường
học thiêng liêng, rằng Thiên Cơ là sự tiến hóa của sự Sống trường tồn bất
diệt xuyên qua những h́nh thể hữu hoại, và Cơ Trời là một cái ǵ tốt đẹp và
huy hoàng vô cùng.
Nhờ dứt bỏ điều chướng ngại thứ nh́, người Đạo
Đồ có được sự quả quyết chắc chắn, căn cứ trên sự hiểu biết cá nhân hoặc sự
suy luận rằng giáo lư của Huyền Môn về những điểm nói trên là đúng.
Điều chướng ngại thứ ba, sự dị đoan mê tín,
được miêu tả như là gồm tất cả mọi sự tin tưởng mù quáng hoặc sai lầm và sự
tin tưởng rằng những nghi thức, lễ bái bề ngoài là cần thiết cho sự tu tâm
luyện tánh. Người Đạo Đồ thấy rằng tất cả những phương tiện giúp đỡ mà những
tôn giáo lớn đưa ra, như là sự cầu nguyện, lễ bái, hành hương, nhịn đói, và
bao nhiêu những nghi thức cúng tế khác, đều chỉ là những phương tiện "giúp
đỡ" bề ngoài mà thôi, chớ không có ǵ khác hơn. Người khôn ngoan sẽ áp dụng
những phương tiện hoặc nghi thức nào mà y thấy rằng hữu ích, nhưng sẽ không
bao giờ tin tưởng rằng những nghi thức bề ngoài đó sẽ đủ sức giúp cho y được
giải thoát. Người ấy biết chắc chắn rằng sự giải thoát chỉ có thể đạt tới
được do nội tâm, và mặc dầu những phương tiện giúp đỡ bề ngoài có thể là rất
hữu ích để phát triển ư chí, Minh Triết và Bác Ái, nhưng chúng không thể
thay thế cho sự tự lực công phu cố gắng, nhờ đó người hành giả mới đi đến
mục đích. Người dứt bỏ được điều chướng ngại này sẽ nhận thấy rằng không có
một h́nh thức tôn giáo nào là cần thiết cho tất cả mọi người, nhưng với bất
cứ một tôn giáo nào, và thậm chí ở ngoài ṿng tôn giáo, người ta cũng có thể
t́m thấy con đường Đạo đưa đến mục đích.
Ba điều chướng ngại này đều có liên lạc chặt
chẽ với nhau. Khi người ta đă hiểu rơ sự khác biệt giữa Chơn Nhơn và Phàm
Nhơn, th́ người ta có thể hiểu được sự thật về vấn đề Luân Hồi, và giải tán
mọi sự nghi ngờ về vấn đề này. Kế đó, sự hiểu biết về tính cách trường tồn
bất diệt của linh hồn sẽ làm cho người ta tin tưởng nơi sức mạnh linh hồn
của chính ḿnh, và dẹp tan mọi điều dị đoan mê tín.
Mỗi giai đoạn trên đường Đạo đều chia làm bốn
thời kỳ.
Thời kỳ thứ nhứt là
Maggo, hay phương tiện, trong
khi đó người học Đạo cố gắng loại trừ những chướng ngại. Thời kỳ thứ hai là
Phala, hay kết quả, trong khi đó
người học Đạo thấy rằng những cố gắng của y càng ngày càng đem lại kết quả.
Thời kỳ thứ ba là Bhavagga, hay
viên măn, trong hki đó mọi kết quả đă thành tựu một cách trọn vẹn, người học
Đạo có thể thực hiện một cách mỹ măn công việc thuộc về thời kỳ phát triển
hiện tại của y. Thời kỳ thứ tư là
Gotrabhu, nghĩa là thời kỳ mà y đạt tới một trạng thái có thể trải qua
cuộc Điểm Đạo kế tiếp.
Để trở nên một vị
Gotrabhu, người học Đạo tuyệt
đối cần phải diệt trừ những chướng ngại thuộc về giai đoạn của y trên đường
Đạo. Trước khi một người có thể qua
cuộc Điểm Đạo thứ nh́, vị Điểm Đạo do đức Ngọc
Đế chọn lựa đ̣i hỏi những bằng chứng về việc người ấy đă sử dụng cách nào
những quyền năng mà y đă thâu thập trong cuộc Điểm Đạo thứ nhứt, và một điều
tốt đẹp trong cuộc lễ là khi những người đă từng được người thí sinh giúp
đỡ, tiến lên để chứng minh điều đó. Một điều kiện bắt buộc trong cuộc Điểm
Đạo này, là người thí sinh phải có phát triển quyền năng hoạt động tự do
trong Thể Trí của y, v́ cuộc lễ Điểm Đạo thứ nhứt diễn ra trên cơi Trung
Giới, c̣n cuộc lễ Điểm Đạo thứ nh́ diễn ra trên cơi Hạ Thiên.
Điều đó có lẽ khó dung ḥa với điều người ta
nói rằng những cuộc Điểm Đạo thường diễn ra trong một gian pḥng hay một khu
vườn, nhưng sự thực đúng như vậy. Nếu cuộc Điểm Đạo do đức Di-Lặc-Bồ-Tát làm
Chủ Lễ th́ cuộc lễ thường được cử hành nơi khu vườn hoặc trong gian pḥng
lớn của Ngài. Chính Ngài dự cuộc lễ trong Thể Xác của Ngài, và trong nhiều
trường hợp đức Bàn Cổ Vaivasvata cũng làm y như vậy, v́ Ngài ở gần đó. Tất
cả những vị khác có mặt thường đến bằng Thể Vía trong những cuộc Điểm Đạo
thứ nhứt, và bằng Thể Trí nếu là cuộc Điểm Đạo thứ nh́. Những đấng Cao Cả
tham dự cuộc lễ đặt Tâm Thức của các Ngài một cách dễ dàng vào bất cứ cơi
giới nào khi cần thiết, nhưng v́ mọi sự vật ở cơi Trần đều có một sự phản
ảnh rơ rệt trên các cơi Trung Giới và Thượng Giới, cho nên những sự miêu tả
như trên đều là hoàn toàn đúng sự thật.
MỘT CUỘC ĐIỂM ĐẠO THỨ NH̀
(Chứngquả Tu-Đà-Hàm:
Sakridagami)
Chúng tôi được tin cho biết sẽ có một cuộc hội
họp lớn của các đấng Chân Sư tại nhà của đức Di-Lặc-Bồ-Tát vào đêm trăng
rằm, và thừa dip này, sẽ có một cuộc thâu nhận vài thí sinh vào cuộc Điểm
Đạo "Tu-Đà-Hàm" sau khi đó. Chân
Sư Morya muốn rằng những vị đỡ đầu cho những thí sinh trẻ tuổi này hăy đến
gặp Ngài trước 10 giờ tối.
Tối hôm đó, nhiều huynh đệ từ Ấn Độ đến đă thấy
lảng vảng chung quanh, và khi những thí sinh cùng những vị đỡ đầu đến nhà
đức Chân Sư Kuthumi, th́ họ đi theo sau một cách kín đáo và đợi chờ một cách
kính cẩn ở gần nơi đó. Sau khi họ đă đến nhà được một lát, th́ đức Chân Sư
Morya bước vào. Hai vị Chân Sư liền đến nhà đức Di-Lặc ngay sau đó, c̣n
những vị đệ tử đi theo và đứng ở ngoài vườn trong khi hai vị Chân Sư vào
trong nhà.
Khu vườn này ở trên sườn phía Nam dăy
Hy-mă-lạp-sơn, nh́n xuống những vùng đồng bằng bao la của sứ Ấn Độ xa tận
chân trời. Vườn có bóng rợp che và giáp với một cụm rừng thông ở bên tay
mặt. Bên kia cụm rừng về phía Đông có một ngôi nhà bằng đá rất cổ, với một
hàng ba rộng và nhiều cột, tức là nhà của đức Bàn Cổ Vaivasvata. Khu vườn
của đức Di-Lặc đêm ấy ánh sáng trăng rằm tỏa xuống soi khắp các khóm hoa, và
chiếu sáng trên mặt ghế cẩm thạch dưới gốc cây đại thọ, là nơi an tọa thường
ngày của đức Di-Lặc, và cũng là nơi Ngài ngồi trong dịp họp đêm nay. Các
đấng Chân Sư ngồi chung quanh Ngài theo một ṿng bán nguyệt trên chiếc bao
lơn đầy cỏ mọc ngay phía dưới chỗ Ngài ngồi.
Đứng trên bao lơn, một bực thấp hơn nữa, là hai
vị thí sinh giữa hai đấng Chân Sư giới thiệu họ là Chân Sư Kuthumi và Chân
Sư Djwal Kul. Ở phía sau những vị này là những vị đỡ đầu cho người thí sinh
trẻ tuổi ỡ cơi hạ giới. Đức Bàn Cổ ngồi hơi lui về phía sau ở bẹn tay mặt
đức Di-Lặc-Bồ-Tát, và ở phía trên hai Ngài chiếu diệu h́nh ảnh Phật
Thích-Ca. Trong kiếp cuối cùng của Đức Phật ở thế gian, Ngài đă từng nhận ở
hai người thí sinh này "lời nguyện thiêng liêng bất diệt" và bây giờ Ngài
ban ân huệ thiêng liêng của Ngài
cho họ trong dịp tiến bước lên một quả vị mới. Gần bên Ngài là Đức Văn Minh
Đại Đế (Mahachohan), vị chủ tể của Năm Cung, và ở chính giữa hai Ngài và hơi
ở phía trên một chút, lát nữa sẽ chiếu sáng Ngôi Sao của đấng Điểm Đạo Độc
Tôn, tức là đức Ngọc Đế, Chủ tể của Quần Tiên Hội, đễ đáp lại lời thỉnh
nguyện của đức Bồ Tát. Đó là cái bối cảnh long trọng và huy hoàng của cuộc
lễ Điểm Đạo.
Chân Sư Kuthumi và Chân Sư Djwal kul dắt hai vị
thí sinh tiến lên một bước, và đức Bồ Tát hỏi rằng:
-Những người này là ai mà các vị đưa đến đây
như vậy?
Chân Sư Kuthumi đáp:
-"Đây là hai sư đệ, sau khi đă dứt bỏ những
chướng ngại cách biệt bản ngă, nghi ngờ và dị đoan và đă lập nhiều công quả,
nay muốn được chứng quả vị Tu-Đà-Hàm (Sakridagamin). Tôi xin giới thiệu họ
như những vị Gotraghu".
Đức Di-Lặc hỏi:
-"Các vị sẽ tiếp tục d́u dắt những sư đệ này
trên đường Đạo mà họ sẽ bước vào chăng?"
Chân Sư đáp:
-"Tôi sẽ tiếp tục".
Đức Di-Lặc nói:
-"Luật lệ của chúng ta bắt buộc phải có hai vị
Sư Huynh cao cấp bảo đảm cho mỗi thí sinh trong cuộc Điểm Đạo thứ nh́. Vậy
có Sư Huynh nào khác ủng hộ lời thỉnh cầu của họ chăng?"
Chân Sư Djwal kul đáp:
-"Tôi xin bảo đảm".
Đức Di-Lặc quay về phía những người đỡ đầu và
nói:
-"C̣n các vị, với tư cách là hai Sư Huynh sống
ở ngoài thế gian, đă đảm nhiệm coi sóc cho người thí sinh trẻ tuổi. Các vị
đă có kinh nghiệm trong chức vụ đỡ đầu. Vậy trong khi thể xác của thí sinh
này c̣n non nớt và trẻ tuổi, các vị có sẵn ḷng tiếp tục đỡ đầu cho y và
giúp đỡ y trên đường Đạo chăng?"
Hai vị đỡ đầu trả lời:
-"Chúng tôi sẵn ḷng".
Đức Di-Lặc hỏi:
-"Các vị đối với y có đủ t́nh thương để cho
công việc đỡ đầu được dễ dàng và tốt đẹp chăng?".
Hai vị đáp:
-"T́nh thương của chúng tôi đối với y hiện nay
c̣n sâu đậm hơn là lúc ban đầu. Y rất dễ dạy và ham học hỏi".
Đức Di-Lặc nói với người thí sinh trẻ tuổi:
-"C̣n về phần con, con có thương yêu hai vị Sư
Huynh này, và tiếp tục chịu sự hướng dẫn của hai vị một cách tuyệt đối
chăng?"
Người thí sinh đáp:
-"Con xin vui ḷng, v́ con thương yêu cả hai Sư
Huynh con và biết ơn cả hai vị đă d́u dắt co trên đường Đạo".
Đức Di-Lặc nói với hai thí sinh:
-"Vậy hai con muốn được chứng quả vị Tu-Đà-Hàm
phải chăng?"
Hai người đáp:
-"Chúng con muốn như vậy, nếu chúng con có đủ
sức".
Đức Bồ Tát nói:
-"Theo luật lệ của Quần tiên Hội từ ngàn xưa,
những thí sinh Điểm Đạo phải trả lời các câu hỏi về việc họ đă sử dụng như
thế nào những quyền năng ban bố cho họ. Có ai làm chứng về những việc làm
của hai thí sinh này kể từ khi họ đứng tại đây lần trước và được thâu nhận
vào Quần Tiên Hội? Họ đă làm những ǵ để truyền bá Đạo lư? Ai là những người
đă được họ giúp đỡ?"
Những lời nói nghiêm chỉnh đó vang rền chung
quanh như những tiếng kêu gọi. Một đám người làm chứng từ bốn phía
tiến lên rất đông, và đứng trong im lặng, họ
nh́n hai người thí sinh đứng ở giữa với những cặp mắt tŕu mến và biết ơn.
Chân Sư Kuthumi nói:
-"Đây là những người từ nhiều xứ và nhiều địa
phương khác nhau, đă nhờ hai đệ tử của tôi đem đến cho họ ánh sáng Chân lư,
sức mạnh và sự an ủi. Người đệ tử lớn này đă truyền bá giáo lư của tôi cho
hằng ngàn người, và đă hoạt động không ngừng để đem ánh sáng cho những kẻ
tối tăm; và những người này hiện có mặt nơi đây để làm chứng. Y cũng có viết
một quyển sách và nhiều bài vở, và đó là bằng chứng việc làm của y để phụng
sự kẻ khác.
C̣n người đệ tử nhỏ của tôi,- Chân Sư mỉm cười
một cách dịu dàng- hăy c̣n ở trong một Thể Xác quá trẻ để có thể hoạt động;
nhưng y đă có viết một quyển sách nhỏ để truyền bá giáo lư mà tôi đă dạy y;
có hằng muôn
người coi y như người d́u dắt hướng dẫn họ đến
gần chúng ta, và họ cũng đang có mặt tại đây để làm chứng".
Có nhiều giọng hô to: "Chúng tôi làm chứng" và
không khí có vẻ như chuyển âm thanh vang rền của hằng bao nhiêu giọng nói
cùng một lúc. Đức Bồ Tát mỉm cười một cách rất ngọt ngào không thể tả trong
khi Ngài, với tư cách là đấng Cứu Thế, nghe những câu trả lời đáp lại lời
kêu gọi của Ngài lúc năy.
Kế đó, người đỡ đầu thứ nhứt nói: "Tôi xin làm
chứng cho người lớn tuổi hơn trong hai người thí sinh này. Trong những thời
kỳ khủng hoảng, y đă giữ vững ḷng trung kiên đối với đức Thầy và đối với
tôi. Y cũng đă tận dụng mọi quyền năng của y để phụng sự kẻ khác một cách
bền ḷng và vị tha.
C̣n đối với người thí sinh trẻ tuổi hơn, tôi
xin chứng minh rằng y luôn luôn t́m cách giúp đỡ người khác một cách khéo
léo, và ban rải t́nh thương, nó làm cho sự có mặt của y là một nguồn ân huệ
cho người chung quanh. Mọi người đều biết giá trị của quyển sách nhỏ quư vô
giá của y".
Người đỡ đầu thứ nh́ cũng ủng hộ hai người thí
sinh bằng những lời lẽ như sau:
-"Tôi cũng chứng minh thêm cho hai vị thí sinh
này. Người lớn tuổi hơn đă từng giúp đỡ tôi trong công việc một cách trung
thành, tận tụy và hy sinh. Tôi cũng nghe nhiều người nói rằng y đă đem đến
nguồn cảm hứng và ánh sáng cho cuộc đời của họ.
C̣n về người thiếu niên này, tôi xin chứng minh
rằng y đă đem đến một nguồn cảm hứng dồi dào về t́nh thương và ḷng sùng tín
cho những hội viên ở Adyar và Bénarès, và đem đến một sự thay đổi trong cuộc
đời của họ. Tôi cũng có nhận được nhiều thơ từ của những người mộ Đạo, nói
rằng họ nhờ đọc quyển sách của y mà có một quan niệm mới về cuộc đời".
Chân Sư Kuthumi kêu gọi trong đám đông những
người đă học hỏi và hiểu biết Chân Lư nhờ sự hướng dẫn và giúp đỡ của mỗi vị
thí sinh này. Nhiều người tiến lên và nh́n nhận sự giúp đỡ mà họ đă thụ
lănh, mỗi người đă nói lên những ǵ họ cảm thấy trong ḷng; và nhiều người
nói rằng quyển "Dưới Chân Thầy" đă đem đến cho họ một quan niệm mới về cuộc
đời. Những người đă được giúp đỡ, nhưng không thể đến dự cuộc lễ v́ họ c̣n
thức giấc và mắc bận công việc ở thế gian, được thay mặt bởi những chiếc
h́nh nộm do Chân Sư tạo ra; và mặc dầu những h́nh nộm đó không thể nói năng
hoặc cử động, nhưng nó có thể chuyển một phần nào cái ảnh hưởng tốt đẹp huy
hoàng của cuộc lễ đến cho đương sự. Kế đó, đám đông rút lui dần, trong khi
cuộc lễ vẫn tiến hành.
Đức Bồ Tát lúc ấy mới mở lời với các thí sinh,
Ngài khen ngợi công quả của họ đă làm, và bày tỏ hy vọng rằng những quyền
năng mới từ nay được ban cho họ, sẽ được sử dụng một cách mỹ măn cũng như
trước đây họ đă từng sử dụng những quyền năng đă có. Ngài nói tiếp:
-"Các con đă vĩnh viễn loại trừ ba thứ chướng
ngại nó trói buộc người thế gian ở cơi Trần, từ nay các con hăy dùng sự giải
thoát của chính ḿnh để làm giảm bớt sự phiền năo của chúng sinh do nơi ba
thứ chướng ngại đó gây ra. Các con đă kinh nghiệm một cách chắc chắn rằng ư
thức về bản ngă là một ảo tưởng. Từ nay các con hăy làm cho sự quả quyết đó
thấm nhuần tới các hạ thể, để cho các con sẽ không c̣n có một hành động hay
tư tưởng nào thuộc về bản ngă mà trái lại mọi việc làm đều phải phù hợp với
cái đại ngă duy nhất, nó xuyên qua tất cả chúng sinh. Vậy các con có cố gắng
thực hiện điều đó hay chăng, cho đến lúc thành công?"
Hai vị thí sinh đáp:
-"Con sẽ cố gắng".
Đức Di-Lặc nói:
-"Các con đă diệt trừ chướng ngại nghi ngờ, các
con đă biết chắc chắn rằng sự tiến hóa là một điều có thật, và phương pháp
tiến hóa của vạn vật là luôn luôn giáng xuống cơi vật chất, dười sự cai quản
của luật thừa trừ. Các con phải sử dụng những quyền năng sẽ ban bố cho các
con để giúp cho kẻ khác cũng diệt trừ sự nghi ngờ, để cho họ cũng được chia
sớt sự hiểu biết như các con. Vậy các con sẽ dùng những quyền năng đó để
giúp đỡ kẻ khác hay chăng?"
Hai người thí sinh đáp:
-"Con sẽ vui ḷng làm như vậy".
Đức Di-Lặc nói tiếp:
-"Các con đă vượt qua chướng ngại dị đoan. Các
con biết rằng người ta có thể t́m thấy ánh sáng trong bất cứ tôn giáo nào.
Các con biết rằng những nghi thức lễ bái không có một chân giá trị nào, và
tất cả những ǵ thực hiện do sự lễ bái nghi thức, đều có thể làm được bằng
sự hiểu biết và ư chí. Trên hết, các con đă dứt bỏ sự tin tưởng dị đoan nơi
một Thần quyền tàn bạo cầm quyền sinh sát trong Vũ trụ, các con biết rằng
tất cả mọi loài đều sinh hoạt trong một t́nh Bác Ái đại đồng, và chính cái
t́nh Bác Ái bao la đó là cái giáo điều mà các con phải phổ biến khắp trên
thế gian. vậy các con có t́m cách phổ biến t́nh Bác Ái đại đồng để dẹp bớt
sự tối tăm u ám trên thế gian chăng?"
Hai người thí sinh đáp:
-"Chúng con xin vâng lời dạy".
Đức Di-Lặc nói tiếp:
-"Các con chớ quên rằng không có sự tối tăm u
ám nào khác hơn là sự tối tăm gây nên bởi vô minh và ảo tưởng. Có câu nói
rằng: "Mỗi một ân huệ toàn hảo là từ trên ban xuống, do nơi đấng Cha Lành
tuyệt đối. Đấng Thiêng Liêng vốn là Ánh Sáng nơi đó không có sự tối tăm,
nhưng con người không chịu hướng về Ánh Sáng của Ngài, mà lầm lũi đi trong
bóng tối của chính họ, rồi kêu rằng đâu cũng là hắc ám".
Kế đó những thí sinh phải trải qua một vài điều
thử thách về công việc trên cơi Thượng Giới. Họ phải quan sát những nhân vật
trên cơi Thượng Giới chẳn hạn như những nhân vật sẽ được giao cho họ săn sóc
về sau này, và đức Bồ Tát hỏi họ sẽ làm thế nào để giúp đỡ họ trong mỗi
trường hợp. Một trường hợp đó là của một người tu sĩ thời Trung Cổ, tuy có
ḷng sùng Đạo chân thành, nhưng lại có những ư tưởng vô cùng chật hẹp về
Thượng Đế, về các Thánh và Giáo hội, và đức Bồ Tát chất vấn họ sẽ làm ǵ để
giúp đỡ người tu sĩ ấy?
Tất cả những ǵ xảy ra trong cuộc Điểm Đạo thứ
nh́ đều diễn ra trên cơi Thượng Giới, và tất cả những nhân vật đều hoạt động
trong Thể Trí của họ, chớ không phải trong Thể giả tạo (Mayavirupa) mà họ
thường dùng trên cơi Trung Giới.
Sau cuộc thử thách này, và sau khi những thí
sinh đă giải đáp những câu hỏi một cách mỹ măn, họ được đưa đến đức Di-Lặc
và quỳ trước mặt Ngài. Ngài đứng dậy, và quay về hướng Shamballa, Ngài hô
to:
-"Ôi! Đức Ngọc Đế của Ánh Sáng, Sự Sống và Huy
Hoàng, nhân danh Ngài, tôi nên nhận hai vị thí sinh này chăng?"
Khi đó trên đầu Ngài chiếu rạng Ngôi Sao Sáng,
biểu hiện sự chấp thuận của Đấng Điểm Đạo Độc tôn, và gương mặt của đức Phật
Gautama chiếu sáng rạng ngời, trong khi Ngài đưa tay mặt lên để ban ân huệ.
Đức Văn Minh Đại Đế (Mahachohan) cũng đứng dậy để ban ân huệ của Ngài, trong
khi đức Bồ Tát đặt hai bàn tay của Ngài trên đầu mỗi vị thí sinh, và tất cả
đều cúi đầu rạp xuống một cách kính cẩn trước các đấng Cao Cả. Kế đó thảy
đều im lặng.
Trong sự im lặng đó, cái Ch́a Khóa Hiểu Biết
được ban cho các thí sinh. Đức Bồ Tát phóng ra, từ hai thể Hạ Trí và Thượng
Trí của Ngài, những tia thần lực, làm kích động những Thể tương đương của
hai người thí sinh, và làm cho những mầm đức tánh và quyền năng của họ th́nh
ĺnh được nẩy nở một cách tốt đẹp. Giống như một cái búp non, được ánh sáng
Mặt Trời làm nẩy nở thành cái hoa, những Thể hạ Trí và Thượng Trí của họ
th́nh ĺnh biểu lộ những quyền năng tiềm tàng một cách rất tốt đẹp. Xuyên
qua những quyền năng nẩy nở đó, trức giác có thể biểu lộ tự do, và quyền
năng mới này bắt đầu hoạt động. kế đó đức Di-Lặc nói:
-"Bây giờ các con hăy thâu nhận quyền năng mới
mà Ta ban cho các con, và hăy hoàn toàn tin tưởng nơi đó. Các con hăy tập
cho các Hạ Thể của các con được vào khuôn khổ trật tự và nhậy cảm để cho
quyền năng ấy có thể đi xuyên qua đến bộ óc và hướng dẫn cách xử thế của các
con cho khỏi lầm đường lạc lối. Và như thế, nó cũng soi sáng con đường Đạo
mà các con sẽ trải qua để chuẩn bị cho các con bước vào cuộc Điểm Đạo thứ
ba". Nói xong, Ngài ban ân huệ lần cuối cùng, và Ngôi Sao cùng với những
đấng Cao Cả đều biến mất. Tất cả mọi người đều cúi rạp đầu một lần nữa, và
cuộc lễ chấm dứt. Các vị Chân Sư đều rời khỏi chỗ ngồi,
mỗi vị đều nói một vài lời khả ái và ban ân huệ
cho hai người mới được Điểm Đạo. Chân Sư Kuthumi cũng nói ít lời ủy lạo đám
đông đến chứng kiến, những người này đă rút lui ra phía sau như đă nói trên,
nhưng bây giờ được phép lại gần để giă từ những ngưới lănh đạo của họ. Hai
vị này, nhờ sự hiểu biết mới vừa được ban bố thêm, cũng nói một vài lời
khuyên nhủ với đám người kia, và ban ân huệ cho họ trước khi từ giă.
SỰ PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ
Cuộc Điểm Đạo thứ nh́ giúp cho người đệ tử tiếp
tục mở Trí một cách mau chóng. Ở giai đoạn này, người đệ tử tập sử dụng cái
Thể "Ảo tưởng" (Mayavirupa), tức là một Thể Vía tạm thời tạo ra bởi một
người đă hoạt động được bằng Thể Trí của y. Khi một người đi chu du trên cơi
Trung Giới, th́ y thường dùng Thể Vía; và nếu y cần xuất hiện ở cơi Trần
trong khi y đanh hoạt động bằng Thể Vía,th́ y phải tạo nên một xác phàm ở
ngoài Thể Vía. Phương pháp này đôi khi được áp dụng, tuy rằng nó không được
phổ thông, v́ nó làm tiêu hao rất nhiều sinh lực. Cũng như thế, nếu người đệ
tử đang hoạt động bằng Thể Trí và muốn xuất hiện ở cơi Trung Giới, th́ y
phải tạo ra một Thể Vía tạm thời, gọi là "Mayavirupa" (Thể ảo tưởng hay giả
tạo). Khi y đă làm xong công việc ở cơi Trung Giới, y lại trở về cơi Thượng
Giới, th́ Thể giả tạo đó tan ră, và những chất thanh khí mà người đệ tử đă
thâu hút bằng ư chí của ḿnh để tạo ra Thể ấy, lại trở về nguồn cội của nó
là cơi Trung Giới.
Trước khi được Điểm Đạo lần thứ nhứt, người đệ
tử hoạt động ban đêm trong lúc ngủ bằng Thể Vía, nhưng khi y đă hoàn toàn
làm chủ được Thể Vía của ḿnh, và sử dụng Thể Vía một cách toàn vẹn, th́ y
mới bắt đầu làm việc bằng Thể Trí. Đến khi Thể này cũng được hoàn toàn kiểm
soát, nó là một Thể uyển chuyển hơn Thể Vía rất nhiều, và nó có thể dùng để
làm được nhiều việc mà người ta không thể làm ở cơi Trung Giới. Khi người đệ
tử đă có cái quyền năng tạo nên một "Thể ảo tưởng" (Mayavirupa), th́ y có
thể, trong khoảng khắc, đi từ cơi Thượng Giới qua cơi Trung Giới và trở về.
Y có thể sử dụng bất cứ lúc nào cái quyền năng rộng lớn và cái giác quan tế
nhị hơn ở cơi Thượng Giới, và y chỉ cần tạo một Thể Vía tạm thời khi nào y
muốn xuất hiện để tiếp xúc với người ở cơi Trung Giới. Như thế, trước hết y
cần phải được Chân Sư chỉ dạy cách tạo nên "Thể ảo tưởng", và sau đó, y có
thể tự làm lấy một ḿnh, mặc dấu nó không phải là việc dễ làm.
Trong cuộc Điểm Đạo lần thứ hai, Thể Trí của
người đệ tử phát triển và khai mở rất nhiều, nhưng thường phải đến vài năm
th́ ảnh hưởng của nó mới bắt đầu biểu lộ nơi bộ óc vật chất. Khi đó, th́ tự
nhiên bộ óc chịu một sự căng thẳng và kích thích rất mạnh, v́ nó không thể
trong chốc lát ḥa hợp với mực độ cần thiết.
GIAI ĐOẠN NGUY HIỂM
Thời kỳ tu luyện sau cuộc Điểm Đạo lần thứ hai
phần nhiều là thời kỳ nguy hiểm nhứt trên đường Đạo, mặc dầu ở bất cứ giai
đoạn nào trước khi bước qua cuộc Điểm Đạo thứ năm, người hành giả đều có thể
bị vấp ngă, thụt lùi trở lại, hoặc bỏ phí nhiều kiếp, sống cuộc đời vô định
không mục đích. Nhưng ở giai đoạn đặc biệt này, nếu người hành giả có sự yếu
kém nào trong tâm tánh của ḿnh, th́ điều đó sẽ lộ ra ngoài. Một người đă
tiến đến một tŕnh độ cao như thế th́ đáng lẽ không có thể nào lại thụt lùi
trở lại, nhưng sự kinh nghiệm đă cho chúng tôi thấy rằng việc ấy đôi khi
cũng có xảy ra. Trong hầu hết tất cả những trường hợp như vậy, sự vấp ngă
đều do tánh kiêu căng; nếu người hành giả có một chút ít sự kiêu căng nào,
th́ y đang đứng trước một nguy cơ có thể bị vấp ngă. Sự kiến thức,
trí tuệ mà chúng ta nói đến ở cơi Trần, chỉ là
một phản ảnh của sự thật; tuy nhiên, vài người trong chúng ta lại tự hào về
điều ấy, tự hào về trí tuệ và sự thấy xa hiểu rộng của ḿnh. Bởi đó khi một
người vừa thoáng thấy, dầu là một phần rất nhỏ bé, cái trạng thái trí tuệ
tương lai của ḿnh, th́ đó là một sự nguy cơ rất lớn, và nếu người ấy bắt
đầu đi theo chiều hướng đó, th́ y sẽ rất khó mà sửa dổi lại về sau này. Chỉ
có một sự đề pḥng cẩn mật, và giữ ḿnh chặt chẽ luôn luôn mới có thể giúp
cho y vượt qua giai đoạn này một cách thành công, và y phải luôn luôn cố
gắng diệt trừ mọi dấu vết của thói kiêu căng, ích kỷ và thành kiến.
Khi chúng ta hiểu rơ những điều này, chúng ta
sẽ đột nhiên có sự sáng suốt để hiểu những đoạn trong Thánh Kinh. Giai đoạn
nguy hiểm trong đời của vị Đạo Đồ được diễn tả trong Kinh Thánh bằng câu
chuyện đức Chúa Christ bị cám dỗ trong chốn hoang địa, "Bốn chục ngày trong
băi sa mạc hoang vu" tưỡng trưng cho thời kỳ mà sự phát triển Thể Trí của
người đệ tử trong cuộc Điểm Đạo thứ nh́, ảnh hưởng đến bộ óc vật chất. Đối
với người đệ tử, không phải 40 ngày mà là 40 năm có thể là cần thiết để thực
hiện điều đó. Trong đời của đức Jésus, đó là thời kỳ mà bộ óc của Ngài được
chuẩn bị cho đấng Christ sử dụng. Kế đó quỷ Sa Tăng tượng trưng cho tánh
chất thấp hèn của con người, đến để cám dỗ người Đạo Đồ; trước hết nó thúc
dục người đệ tử dùng quyền năng để thỏa măn những sự nhu cầu của ḿnh: "Nếu
ngươi là Con của Chúa Trời, ngươi hăy làm cho những ḥn đá này biến thành
bánh ḿ:. Kế đó, đức Chúa bị sự cám dỗ làm cho Ngài muốn nhảy từ nóc đền
xuống đất, tức là làm phép lạ để khiếp phục quần chúng. và sau cùng Ngài
được chỉ cho thấy tất cả những giang sơn trên cơi thế gian cùng sự huy hoàng
của nó, và quỷ Sa tăng nói: "Ta sẽ cho ngươi tất cả những thứ này, nếu ngươi
chịu khuất phục và tôn thờ ta". Nghĩa là Ngài bị cám dỗ dùng quyền năng để
thỏa măn ḷng tham vọng của ḿnh. Mỗi sự cám dỗ trên đây đây đều ám chỉ một
h́nh thức khác nhau của thói kiêu căng vậy.
Cũng như cuộc Điểm Đạo thứ nhứt là một sự phục
sinh, cuộc điểm Đạo thứ nh́ có thể ví như cuộc lễ tiếp nhận thần lực của
Ngôi Ba hay của Chúa Thánh Thần. Giai đoạn này Phật Giáo gọi là Tu-Đà-Hàm (Sakridagamin),
có nghĩa là người hành giả tiến đến tŕnh độ này chỉ c̣n cần phải trở
lại thế gian có một lần cuối cùng trước khi đắc quả La Hán, tức là Điểm Đạo
lần thứ tư. Sau quả vị này, người hành giả không c̣n đầu thai xuống thế gian
nữa. Người Ấn Độ giáo gọi giai đoạn thứ hai này là
Kuticchaka, tức là người cất am,
có nghĩa là người đă đạt đến chỗ bằng an trong tâm hồn.
Trong giai đoạn này, người hành giả không c̣n
phải diệt trừ điều chướng ngại nào nữa, nhưng nó thường là một thời kỳ tiến
triển rất nhiều về trí huệ và tâm linh. Nếu trước đó người hành giả chưa có
được những năng khiếu thần thông, th́ y sẽ khai mở những năng khiếu đó trong
giai đoạn này, v́ nếu không có những năng khiếu đó, th́ y không thể nào lănh
hội được những kiến thức mới sẽ được ban bố cho y, hoặc làm những công việc
cao cả hơn để phụng sự nhân loại mà người Đạo Đồ từ nay đă có cái hân hạnh
giúp đỡ. Người ấy phải làm chủ được tâm thức của Thể Vía trong khi tỉnh
giấc, và trong giấc ngủ th́ cơi Thiên Giới sẽ mở rộng trước mắt y, v́ tâm
thức của một người trong khi ở ngoài xác thân, luôn luôn ở một mực độ cao
hơn là khi y mang gánh nặng của xác phàm.
CUỘC ĐIỂM ĐẠO LẦN THỨ BA
(Chứng quả vị A-Na-Hàm: Anagami)
Khi người thí sinh đă vượt qua bốn giai đoạn
phụ của cuộc Điểm Đạo thứ nh́, và một lần nữa lại trở nên một vị Gotrabhu,
th́ y sẵn sàng được Điểm Đạo lần thứ ba, để trở nên một vị "A-Na-Hàm"
(Anagami), có nghĩa là "người không trở lại nữa", v́ người ta trông đợi rằng
y sẽ được vào cuộc Điểm Đạo kế tiếp trong kiếp này. Danh từ Ấn Độ giáo để
chỉ giai đoạn này là Hamsa, có
nghĩa là con hạc. Tục truyền rằng con hạc có thể gạn lọc chất sữa với chất
nước cũng ví như người hiền giả có thể nhận thức được chân giá trị của sự
vật trong cuộc đời phù du giả tạm.
NHỮNG CHƯỚNG NGẠI THỨ TƯ VÀ THỨ NĂM
Vị A-Na-Hàm, trong đời sống hoạt động hằng ngày
ở thế gian, vẫn thụ hưởng được mọi sự tốt lành nhờ có được những khả năng
toàn vẹn để hoạt động ở cơi Thượng Thiên, và khi người rời khỏi xác thân lúc
ban đêm trong giấc ngủ, th́ người lại bước vào cái tâm thức huyền diệu của
cơi Bồ Đề. Trong khi người ở vào trạng thái đó, th́ người phải diệt trừ mọi
tàn tích của những chướng ngại thứ 4 và thứ 5, gọi là
Kamaraga và
patigha,nghĩa là sự ham thích
khoái lạc về nhục thể (mà điển h́nh là t́nh yêu xác thịt và vật chất), và
thói giận dữ hay thù ghét. Người chí nguyện phải tự giải thoát khỏi sự trói
buộc của ngoại vật. Điều này không có nghĩa là y phải dửng dưng bất động
trước tánh cách hấp dẫn của sự xinh đẹp mỹ lệ, tinh khiết cũng như bất động
thản nhiên trước sự xấu xa, dơ bẩn; và y phải gạt bỏ chúng ra ngoài, trong
công việc làm ăn hằng ngày. Điều ấy chỉ có nghĩa là y sẽ không để cho ngoại
vật trở thành một yếu tố quyết định trong khi làm việc bổn phận, và y sẽ
đương nhiên loại bỏ chúng một cách hoàn toàn khi nào cần thiết.
Về điểm này, chúng ta hăy coi chừng một sự hiểu
lầm thường xảy ra. T́nh yêu trong sạch và cao thượng của con người không bao
giờ phai lạt, không bao giờ giảm sút trên con đường Huyền Môn. Trái lại, nó
c̣n tăng trưởng và nới rộng để bao gồm tất cả mọi loài với một sự nồng nàn
mà lúc đầu người ta chỉ dành cho một hay hai người mà thôi. Nhưng trải qua
thời gian, người học Đạo sẽ vượt lên trên tất cả những ǵ liên hệ đến cái
phàm nhơn của những người chung
quanh y, và như thế y sẽ tránh khỏi tất cả những sự bất công và thiên vị mà
t́nh yêu thường t́nh hay mắc phải.
Người học Đạo cũng đừng nghĩ rằng khi y nới
rộng t́nh thương đến tất cả mọi loài, y sẽ mất cái t́nh riêng dành cho những
người thân yêu. Sự liên lạc mật thiết khác thường giữa đức Ananda và đức
Phật, cũng như giữa Thánh Jean và đấng Christ vẫn được ghi chép để chứng
minh rằng: trái lại, t́nh thân yêu đó càng tăng trưởng hơn lên. Sợi dây nhân
duyên giữa một Chân Sư và các đệ tử c̣n bền chặt hơn nhiều bất cứ một thứ
t́nh nào của thế gian, v́ t́nh thương nảy nở trên đường Đạo là một thứ t́nh
giữa các Chơn Nhơn, chớ không phải chỉ là giữa những phàm nhơn; bởi đó, nó
là một thứ t́nh mănh liệt và trường cửu, không sợ bị phai mờ hay thay đổi:
v́ đó là t́nh yêu toàn vẹn, bất biến.
(c̣n tiếp)
Xin xem
quyển II
MỤC LỤC
PHẦN THỨ BA (Tiếp theo)
NHỮNG CUỘC ĐIỂM ĐẠO LỚN
CHƯƠNG IX-CHƠN
NHƠN
Sự cấu tạo Chơn Nhơn
Chơn Thần và Chơn Nhơn
Sự giao tiếp giữa Chơn Nhơn và Phàm nhơn
Chơn Nhơn trên cơi giới riêng của nó
Sự chú trọng của Chơn Nhơn đối với Phàm Nhơn
Thái độ của Phàm Nhơn
Thực hiện sự hợp nhứt
CHƯƠNG X-
NHỮNG CUỘC
ĐIỂM ĐẠO CAO HƠN
Quả vị La-Hán- Khoa biểu tượng Thiên Chúa Giáo
Niết-Bàn
Công việc của vị La-Hán
Cuộc Điểm Đạo lần thứ Năm
Các Quả vị cao hơn
Bảy con đường Siêu Nhân Loại
PHẦN THỨ TƯ
CÁC CẤP ĐẲNG THIÊN Đ̀NH
CHƯƠNG XI-
CÔNG VIỆC CỦA
CÁC CHÂN SƯ
Khu vực hoạt động của Chân Sư
Sự phân phối Thần Lực
Cách sử dụng ḷng sùng tín
Công việc của các đệ tử
Sự thực hiện của mỗi thế kỷ
Các giống dân
Đức Chưởng Giáo lâm phàm
Chủng Chi thứ Sáu
Giống Dân chánh thứ Sáu
CHƯƠNG XII-
NHỮNG VỊ ĐẾ
QUÂN VÀ CÁC CUNG
Những vị Đế Quân
Bản lược đồ các Cung
Con số Bảy trong Vũ Trụ
Bảy vị Đại Tinh Quân
Bảy hạng chúng sinh trong muôn loài
Những phương pháp hành động của mỗi Cung
Những vị Đế Quân đứng đầu các Cung
Những đức tính cần phát triển
Những sự biến đổi từng chu kỳ
Cung Sùng Tín
Cung Nghi Thức
CHƯƠNG XIII-
BA NGÔI VÀ
NHỮNG H̀NH TAM GIÁC
Ba Ngôi của Thượng Đế
Đức Mẹ thế gian
Ba Ngôi h́nh tam giác
Những Quả vị và các Cung
Đổi Cung
Sự hợp nhứt hoàn toàn
CHƯƠNG XIV-
MINH TRIẾT
TRONG BA NGÔI
Đức Phật
Những hành động bổ khuyết
Lễ Wesak
Nơi hành lễ
Cuộc hành lễ
Ân huệ lớn nhứt
Đức Di-Lặc-Bồ-Tát
Lễ Asala
Tứ Diệu Đế
Bát Chánh Đạo
CHƯƠNG XV-
QUYỀN NĂNG
TRONG BA NGÔI
Đức Ngọc Đế
Những cuộc Điểm Đạo tối cao
Mục đích cuối cùng
PHẦN THƯ BA
NHỮNG CUỘC ĐIỂM ĐẠO LỚN
(TIẾP THEO)
CHƯƠNG IX
CHƠN NHƠN
SỰ CẤU TẠO CHƠN NHƠN
Để hiểu một cách rơ ràng những giai đoạn trên
đường Đạo, chúng ta cần phải xem xét Chơn Nhơn, xem bằng cách nào nó được
thức tỉnh và sử dụng quyền năng để làm cho Phàm Nhơn được điều ḥa với nó,
bằng cách nào vượt lên cơi Bồ Đề và thực hiện sự hợp nhứt với tất cả mọi
loài.
Bản lược đồ kế bên tŕnh bày ba luồng Sóng Sinh
Hoạt của Thượng Đế trong cơ Tiến Hóa. Ở trên, 3 ṿng tṛn tượng trưng cho 3
Ngôi. Từ mỗi ṿng tṛn, có một đường dọc đi xuống, và gặp những đường ngang
tượng trưng cho 7 cơi trong thiên nhiên. Đường dọc từ Ngôi ba đi xuống mỗi
lúc càng đậm thêm để chỉ cho ta thấy bằng cách nào Ngôi Ba chuyển sinh lực
vào các cơi, trước hết cấu tạo những nguyên tử của mỗi cơi, và sau đó kết
nạp những nguyên tử thành các yếu tố.
Trong vật chất đă được thấm nhuần sinh lực của
Ngôi Ba đó, Luồng Sinh Lực thứ Hai giáng xuống từ ṿng tṛn tượng trưng Ngôi
Hai (Đức Chúa Con), và Sức Sống Thiêng Liêng tiềm tàng trong luồng Sinh Lực
đó dùng vật chất cấu tạo một h́nh thể, để cho nó có thể dùng làm những lớp
vỏ khoác bên ngoài đặng chuyển xuống các cơi thấp. Ở mực độ thấp nhứt của
cơi vật chất, sự sống đó làm thức động Kim Thạch, và khi nó tiến hóa thêm,
lần lần nó sẽ chuyển sinh lực vào loài thảo mộc, và kế đó, loài Cầm Thú. Khi
nó tiến lên mực độ cao tột của loài Cầm Thú, th́ xảy đến một sự thay đổi
quan trọng, một yếu tồ hoàn toàn mới mẻ, đó là luồng Sinh Lực thứ Ba, xuất
phát từ ṿng tṛn trên hết,
tượng trưng cho Ngôi Thứ Nhứt gọi là Đức Chúa
Cha.
H̀NH
TRANG 8 TRONG SÁCH,QUYỂN II
Cái sức mạnh từ trước vẫn chuyền sinh lực cho
mọi loài, nay đến lượt nó lại chịu tiếp nhận luồng sinh lực của Ngôi Thứ I.
Luồng Sinh Lực mới này ảnh hưởng đến linh hồn của loài thú, và cấu tạo nên
một Thể riêng biệt bằng chất Thượng Thanh Khí vô cùng tinh anh đến nỗi giác
quan vật chất của con người không thể cảm xúc được.
Bằng cách đó, được tạo ra Chơn Nhơn con người
trong Thể Thượng Trí, nó liền thâu về ḿnh cái kết quả của tất cả những kinh
nghiệm mà linh hồn con thú đă thâu nhập được trải qua những thế hệ tiến hóa
dài đăng đẳng trước kia của nó. Như thế, những khả năng và đức tính của nó
đă khai mở trong cái lịch tŕnh tiến hóa đó vẫn được giữ ǵn nguyên vẹn,
không có ǵ mất đi đâu.
CHƠN THẦN
và
CHƠN NHƠN
Vậy cái Luồng Sinh Lực Thứ Ba vô cùng mầu nhiệm
xuất phát từ Ngôi Thứ I của Thái Dương Thượng Đế đó, là cái ǵ? Thật ra, đó
chính là Sự Sống của Thượng Đế vậy. Và ta cũng có thể nói: Sự Sống đó cũng
có ở trong hai Luồng Sinh Lực thứ Nhất và thứ Nh́. Thật đúng như vậy, nhưng
hai Luồng Sinh Lực này đă giáng xuống một cách tuần tự và chậm chạp xuyên
qua tất cả những cảnh giới, làm thức động vật chất đó một cách hoàn toàn
chặt chẽ đến nỗi người ta không thể phân biệt và nh́n nhận được rằng đó là
Sự Sống Thiêng Liêng. Trái lại Luồng Sinh Lực thứ Ba trực tiếp đi thẳng
xuống từ nguồn gốc xuất phát của nó, mà không có hỗn hợp với vật chất của
mỗi cảnh giới. Nó là một thứ ánh sáng trong trắng tinh anh, không bị ô nhiễm
bởi bất cứ vật ǵ mà nó đi xuyên qua.
Mặc dầu, v́ mục đích để cho được rơ ràng,dễ
hiểu, bản lược đồ trên đây chỉ Luồng Sinh Lực thứ Ba như là xuất phát trực
tiếp từ Thượng Đế, thật ra nó đă do Ngài hạ xuống từ lâu, và lơ lửng ở một
điểm trung gian nơi Cơi thứ Nh́ của Thái Dương hệ chúng ta. Khi nó lơ lửng ở
cơi ấy, nó được gọi là Chơn Thần (Monad), và chúng ta có thể tưởng tượng nó
như một phần tử của Thượng Đế. Một phần tử của cái Toàn Thể không thể phân
chia. Nói như thế thật ra có vẻ hơi mâu thuẫn đối với cái Trí phàm tục của
chúng ta, nhưng điều ấy có bao hàm một chân lư bất diệt ngoài tầm hiểu biết
của con người.
Phương pháp tổng quát do đó Tinh Thần giáng
xuống Vật Chất dường như lúc nào cũng giống như nhau chớ không thay đổi, mặc
dầu những điều kiện khác nhau của những Cơi giới khác nhau, tự nhiên là có
đưa đến nhiều sự sai biệt từng chi tiết. Chính Thượng Đế xạ xuống một điểm
Chơn Thần- một mảnh rất tế vi của Ngài- ở một cơi giới thấp hơn cơi của Ngài
rất xa. Lẽ tự nhiên, điều ấy là một sự giới hạn không phải nhỏ, mặc dầu nó
vẫn c̣n cách quá xa tầm hiểu biết của chúng ta để cho ta có thể diễn tả hay
lănh hội được. Cũng y như thế, Chơn Thần tự phân ra một mảnh nhỏ của nó để
tạo nên Chơn Nhơn, và trong trường hợp này cũng vậy, sự giới hạn của nó lại
càng tăng thêm bội phần. Điều này cũng tái diễn một lần nữa, khi Chơn Nhơn
phản ảnh một phần nhỏ của nó vào trong các Thể Trí, Thể Vía và Thể Xác của
một người,- cái phần nhỏ đó, chúng ta gọi là Phàm Nhơn.
Cái phần nhỏ cuối cùng này là điểm tâm thức mà
những người có thần nhăn có thể nh́n thấy luân chuyển bên trong con người.
Một khoa biểu tượng cho rằng người ta thấy nó như "một
người bằng vàng nhỏ như ngón tay cái" ở chỗ quả tim; nhưng nhiều người
thấy nó dưới h́nh thức một ngôi sao. Tôi luôn luôn có thể thấy nó như một
ngôi sao có ánh sáng chói rạng. Người ta có thể trụ ngôi sao tâm thức đó ở
chỗ nào tùy theo ư muốn, nghĩa là ở bất cứ trung tâm nào trong bảy b́ huyệt
chánh trong thân người. Mỗi người có thể chọn lựa một trung tâm nào tùy nơi
Cung đặc biệt của họ, và cũng tùy nơi đại chủng (1)[ii]
hay chi chủng(2)[iii]
của họ. Những người thuộc Giống Dân thứ 5, phần nhiều đều trụ cái tâm thức
đó ở trong óc, nơi trung tâm tùy thuộc bộ hạch óc. Tuy nhiên, có những người
thuộc về những Giống Dân khác, thường trụ nơi bí huyệt ở trái tim, yết hầu
hoặc nơi rún.
Ngôi Sao tâm thức đó là đại diện của Chơn Nhơn
ở những Cơi hạ Giới, và khi nó biểu lộ qua những Hạ Thể của nó, th́ nó gọi
là Phàm Nhơn, và chính đó là cái mà chúng ta nh́n thấy ở mọi người chung
quanh ta trên thế qian.
SỰ GIAO TIẾP GIỮA CHƠN NHƠN VÀ PHÀM NHƠN
Nhưng tuy cái Phàm Nhơn đó là một phần của Chơn
Nhơn- tuy rằng sự sinh hoạt và quyền năng của nó cũng là Sự Sống và Quyền
Năng của Chơn Nhơn- nhưng nó thường hay quên điều đó, và tự coi như là một
cái ǵ hoàn toàn riêng biệt, và chỉ hoạt động cho mục đích riêng của ḿnh.
Nó luôn luôn có một đường thông thương với Chơn Nhơn (chữ Phạn gọi là
Antahkarana) nhưng nó không hay
cố gắng sử dụng đường thông thương đó. Trong trường hợp những người thường,
không bao giờ học hỏi về những vấn đề này, th́ Phàm Nhơn hoàn toàn ngự trị,
và Chơn Nhơn chỉ tự biểu lộ một cách rất hiếm và bất toàn.
Sự tiến hóa của con người trong những giai đoạn
đầu tiên gồm có việc khai mở con đường giao thông đó, để cho Chơn Nhơn có
thể càng ngày càng tự biểu lộ rơ rệt, và sau cùng, hoàn toàn chủ trị Phàm
Nhơn. Bằng cách đó, Phàm Nhơn sẽ không c̣n có một tư tưởng hay ư chí riêng
biệt nào, mà chỉ có thể là một phản ảnh của Chơn Nhơn ở Cơi Hạ Giới. Ta nên
hiểu rằng v́ Chơn Nhơn thuộc về cơi thanh cao hơn, nên nó không bao giờ có
thể tự biểu lộ hoàn toàn ở cơi Hạ Giới. Điều tốt nhất mà chúng ta có thể hy
vọng là Phàm Nhơn sẽ không dung dưỡng điều ǵ mà Chơn Nhơn không muốn, và nó
sẽ biểu lộ Chơn Nhơn đến mức độ tối đa ở cơi Hạ Giới.
Người phàm tục không có sự huấn luyện về đường
tu hành, không hề có sự giao tiếp với Chơn Nhơn. Người được Điểm Đạo th́ có
sự giao tiếp hoàn toàn. Bởi đó chúng ta nhận thấy rằng trong chúng ta có
những người thuộc về mọi tŕnh độ ở giữa hai cái cực đoan đó. Nên nhớ rằng
chính Chơn Nhơn cũng c̣n đang ở trên đường tiến hóa, và chung quanh ta là
những linh hồn thuộc về những tŕnh độ tiến hóa rất khác biệt nhau. Trong
mọi trường hợp, một Chơn Nhơn bao giờ cũng cao cả tốt đẹp hơn một Phàm Nhơn
rất nhiều trên mọi phương diện. Mặc dầu, như đă nói ở trên, nó chỉ là một
mảnh nhỏ của điểm Chơn Thần, nhưng nó cũng là một Chơn Nhơn toàn hảo trong
Thể Thượng Trí của nó, dầu cho nó phát triển hết mọi quyền năng. Trái lại,
trong Phàm Nhơn chỉ có một phản ảnh rất nhỏ của Chơn Nhơn mà thôi.
Một mặt khác, sự sinh hoạt ở cơi của Chơn Nhơn
vô cùng phóng khoáng và mạnh mẽ hơn là sự sống ở cơi Trần rất nhiều. Cũng
như Phàm Nhơn tiến hóa bằng cách cố gắng biểu lộ Chơn Nhơn một cách toàn vẹn
hơn. Một Phàm Nhơn chưa tiến hóa tuyệt nhiên không biết ǵ cả về sự liên lạc
của nó với Chơn Nhơn và tưởng rằng nó độc lập. Một Chơn Nhơn, trái lại, ở
trên cơi thanh cao của nó, không thể nào không hay biết về sự liên lạc của
nó với Chơn Thần. Chắc chắn là có vài Linh Hồn biết rơ những nhu cầu tiến
hóa của họ nhiều hơn những Linh Hồn khác, nói khác đi nghĩa là có những Linh
Hồn già giặn và những Linh Hồn c̣n non nớt, và những Linh Hồn già giặn cố
gắng nhiều hơn những Linh Hồn c̣n non nớt để khai mở những khả năng tiềm
tàng của họ.
CHƠN NHƠN TRÊN CƠI GIỚI RIÊNG CỦA NÓ
Chúng ta hay quen cho rằng Chơn Nhơn chỉ có thể
phát triển xuyên qua Phàm Nhơn, nhưng không phải vậy, hoặc nếu có phải th́
sự kiện cũng chỉ liên quan đến một số nhỏ vài đức tánh mà thôi. Như tôi đă
giải thích tường tận trong quyển II "Con
Người, hữu h́nh và vô h́nh", Thể Thượng Trí của người dă man hầu như
không có mầu sắc. Càng tiến hóa, y càng phát triển những đức tánh tốt, những
đức tánh này có thể t́m thấy những rung động tương đương trong chất của Thể
Thượng Trí. Những màu sắc biểu lộ những đức tánh đó mới bắt đầu xuất hiện và
Thể Thượng Trí, thay v́ trống rỗng, lại chứa đầy sức sống dồi dào. Bấy giờ,
th́ Chơn Nhơn có thể tự biểu lộ thêm nhiều hơn xuyên qua Thể ấy và bởi đó
Thể Thượng Trí càng ngày càng nở lớn thêm gấp bội. Nó vẫn bành trướng thêm
măi cho đến khi đương sự có thể bao trùm hàng trăm, chí đến hàng ngàn người
trong ṿng hào quang của ḿnh, và như thế, y tạo nên một ảnh hưởng tốt lành
trên một quy mô rộng lớn.
Nhưng điều này, dầu là rất tốt đẹp, cũng chỉ là
một khía cạnh của sự tiến bộ của y. Người tiến hóa cao có những đường lối
tiến bộ khác mà ở cơi thế gian, chúng ta không biết ǵ cả. Y sống cuộc đời
của y giửa các đấng Vô sắc Thiên Thần (Arupa
Devas), giữa các hàng Thiên Thần cao cả, ở một cơi giới siêu việt hơn
chúng ta rất xa. Linh Hồn c̣n non nớt có lẽ chưa ư thức được một đời sống
siêu việt như thế, cũng như một đứa hài nhi c̣n bồng ẵm không thể biết được
những ǵ xảy ra trong cái thế giới ở chung quanh nó. Nhưng khi tâm thức nó
khai mở lần lần, nó mới thức tỉnh và trở nên say mê cái mỹ lệ, tốt đẹp của
đời sống lộng lẫy, huy hoàng đó.
Đồng thời, chính nó sẽ trở nên một nhân vật cao
cả và lần đầu tiên nó cho chúng ta một ư niệm về cái tương lai mà Thượng Đế
đă định sẵn cho con người.
Giữa những nhân vật cao cả đó, những tư tưởng
không c̣n tượng h́nh và phiêu bạt như ở cơi Hạ Giới, mà nó di chuyển mau như
chớp từ người nọ đến người kia. Trong những trường hợp này,
không c̣n có những Thể mới tạo nên, lần lần
được kiềm chế và từ từ tập biểu lộ một cách yếu ớt cái Linh Hồn bên trong.
Trái lại, ở đây, nó là một Thể cũ hơn non núi, một sự biểu lộ thật sự của
Đời Sống Thiêng Liêng luôn luôn ẩn tàng, càng ngày càng chói rạng xuyên qua
Thể ấy trong khi nó vẫn từ từ phát triển các quyền năng.
Ở cơi giới này, chúng ta không c̣n nói tới cái
phần h́nh hài sắc tướng, mà chúng ta nh́n vào cái thực tại, cái chân tướng
ẩn tàng bên trong cái phần h́nh thức lộ liễu bên ngoài. Ở đây, nhân với quả
dính liền làm một, và sự hiệp nhất đó biểu hiện rơ ràng như hai mặt của đồng
tiền. Chúng ta đă từ từ bỏ cái cụ thể mà qua cái trừu tượng; chúng ta không
c̣n biết cái sắc tướng thiên h́nh vạn trạng, mà đạt tới cái lư ẩn tàng bên
trong. Chúng ta không cần học hỏi những chi tiết, hoặc thảo luận hay giảng
giải về một vấn đề: chúng ta nắm lấy cái lư, hay cái tinh hoa của nó, và
hiểu vấn đề một cách toàn vẹn. Một hệ thống triết học, cần được giảng giải
bằng nhiều quyển sách dày ở dưới thế gian, ở đây nó chỉ là một tư tưởng nhất
định, có thể được sử dụng một cách cụ thể như người ta ném một lá bài trên
bàn. Một vở nhạc kịch mà ở thế gian phải cần đến cả một dàn nhạc để tŕnh
diễn trong nhiều giờ, ở đây nó chỉ là một ḥa âm mạnh mẽ. Những phương pháp
của một Trường Hội Họa được tập trung trong một ư tưởng mỹ lệ, v́ những tư
tưởng như thế là những phương tiện trí thức mà những Chơn Nhơn dùng để nói
chuyện với nhau.
Thật không dễ ǵ
mà giải thích bằng lời nói phàm tục những sự
sai biệt khác nhau giữa những Chơn Nhơn, v́ tất cả những Chơn Nhơn đó, trên
nhiều phương diện, đều cao cả hơn rất nhiều bất cứ vật ǵ mà chúng ta quen
thuộc ở cơi thế gian. Sự so sánh có thể trở nên phỉnh lừa nếu ta để nó đi
quá xa hoặc nếu ta theo sát nghĩa từng chữ. Tuy nhiên, tôi có thể đưa ra một
ư niệm tổng quát mà những Linh Hồn ở nhiều tŕnh độ tiến hóa khác nhau đă
đưa đến cho tôi, nếu tôi nói rằng một Linh Hồn tiến hóa có thể ví như một vị
Sứ Thần có cái phong độ ngiêm trang, oai nghi, khôn khéo, lịch sự và ḥa
nhă, c̣n một Linh Hồn chưa tiến hóa có thể ví như một kẻ nhà quê thô kệch.
Một Linh Hồn đă đi trên đường Đạo, và gần đắc quả Chơn Tiên có nhiều điểm
giống như các vị đại Thiên Thần, và ban rải những ảnh hưởng tâm linh rất dồi
dào mănh liệt.
SỰ CHÚ TRỌNG CỦA CHƠN NHƠN ĐỐI VỚI PHÀM NHƠN
Như thế, người ta không lấy làm lạ mà thấy Chơn
Nhơn lao ḿnh vào sự hoạt động ráo riết trên cơi riêng biệt của nó, mà nó
cho là vô cùng thích thú và quan trọng hơn là những nổ lực tranh đấu của một
cái Phàm Nhơn chật hẹp và bất toàn, bị giới hạn trong sự hắc ám tối tăm dày
đặc của cơi Hạ Giới.
Trong đời sống hằng ngày của người thế gian,
không có ǵ thích thú đối với Chơn Nhơn; chỉ thỉnh thoảng mới xảy ra một
việc quan trọng thật sự có thể làm cho nó chú ư trong một lúc, và thu nhận
được một vài kinh nghiệm. Người thế gian sống một cách vô ư thức, phần nhiều
họ không hề thức tỉnh đối với đời sống chân thật và siêu linh. Chúng ta
thường hay phàn nàn rằng Chơn Nhơn ít khi chú ư đến chúng ta, vậy chúng ta
hăy tự hỏi rằng chúng ta có bao giờ chú ư đến Chơn Nhơn của ḿnh? Thí dụ có
mấy lần trong một ngày, chúng ta đă nghĩ đến Chơn Nhơn? Nếu chúng ta muốn
cho Chơn Nhơn chú ư đến ḿnh, ta hăy làm sao cho Phàm Nhơn được hữu ích đối
với nó. Ngày nào chúng ta bắt đầu dành phần lớn những tư tưởng của chúng ta
cho những vấn đề cao siêu- nói một cách khác, khi nào ta bắt đầu sống một
cách thật sự- th́ chừng đó Chơn Nhơn mới có thể chú ư đến ta nhiều hơn.
Chơn Nhơn biết rằng sự tiến hóa của nó có vài
phần chỉ thực hiện được xuyên qua Phàm Nhơn và những Hạ Thể: Xác, Vía, Trí.
Bởi đó, nó biết rằng đôi khi nó phải chăm nom săn sóc và chủ trị Phàm Nhơn.
Nhưng chúng ta có thể hiểu rằng việc ấy thường có vẻ không được hấp dẫn cho
lắm, và Phàm Nhơn thường không được tốt lành và không có hy vọng bao nhiêu!
Nếu chúng ta nh́n vào cái Phàm Nhơn của nhiều
người chung quanh với những Thể Xác của họ bị đầu độc bằng rượu, thịt và
thuốc lá; những Thể Vía của họ đầy dẫy sự tham lam, sân hận, si mê; và những
Thể Trí của họ không có sự thích thú nào ngoài việc chạy "áp phe", hoặc cờ
bạc hay cá ngựa, th́ chúng ta sẽ hiểu tại sao một Chơn Nhơn, nh́n vào cái
thực trạng đo từ trên cơi cao của nó, có thể quyết định đ́nh chỉ những cố
gắng của nó lại một kiếp sau, và hy vọng rằng những Hạ Thể mới của nó trong
kiếp tới sẽ có thể dễ ảnh hưởng hơn là những Hạ Thể mà nó nh́n thấy một cách
kinh khủng trong lúc hiện tại! Chúng ta có thể h́nh dung Chơn Nhơn sẽ tự nhủ
lấy nó như vầy: "Ta không thể làm ǵ được với cái "ngữ"này. Có thể ta sẽ gặp
những Thể tốt lành hơn ở một lần sau. C̣n lâu nay thật không có ǵ tệ hơn,
và trong khi chờ đợi, th́ ta c̣n có công việc quan trọng hơn để làm ở đây!"
Trường hợp đó thường xảy ra trong giai đoạn đầu
của một Linh Hồn mới đầu thai. Từ khi một hài nhi mới sanh ra, th́ Chơn Nhơn
của nó lơ lửng ở trên và trong vài trường hợp, Chơn Nhơn bắt đầu ảnh hưởng
đến sự phát triển của Thể Xác đứa hài nhi trong khi nó c̣n rất trẻ.
Theo luật lệ chung, Chơn Nhơn ít khi chú ư đến
nó cho đến khi nó lên bảy tuổi, đến khi đó th́ việc làm của "vong linh
nghiệp quả" đă xong. Những trẻ con khác biệt nhau rất xa, đến nỗi ta không
ngạc nhiên mà thấy rằng sự tương quan giữa những Chơn Nhơn và Phàm Nhơn cũng
khác biệt nhau rất nhiều. Có những đứa trẻ tư chất thông minh lanh lợi, dễ
cảm; có đứa lại ngu si và chậm chạp; trong trường hợp sau này, Chơn Nhơn
thường không chú ư đến cái Thể Xác mới của đứa trẻ trong một thời gian, hy
vọng rằng về sau khi nó trưởng thành, nó sẽ trở nên khôn ngoan và dễ thụ cảm
hơn.
Chúng ta có thể cho rằng một quyết định như thế
không được khôn ngoan, v́ nếu Chơn Nhơn bỏ rơi không săn sóc cái Phàm Nhơn
hiện tại của nó, th́ cái Phàm Nhơn tương lai cũng không khá hơn bao nhiêu,
và nếu nó để cho Thể Xác đứa trẻ lớn lên mà không chịu ảnh hưởng của nó, th́
những thói hư tật xấu đă biểu lộ, rất có thể sẽ tăng trưởng thêm một cách
mạnh mẽ hơn, thay v́ loại trừ. Nhưng chúng ta không thể xét đoán điều này,
v́ chúng ta chỉ hiểu biết vấn đề một cách rất thiếu sót, và chúng ta không
thấy ǵ về cái công việc cao cả hơn mà nó định làm.
Do đó, ta sẽ thấy rằng không thể nào xét đoán
một cách đúng đắn cái vị trí trong cơ tiến hóa của một người mà chúng ta chỉ
thấy ở cơi Trần. Trong một trường hợp, nghiệp quả có thể tạo nên một Phàm
Nhơn rất khả quan nhưng chỉ có một Chơn Nhơn tầm thường. Trái lại, trong một
trường hợp khác, nghiệp quả có thể tạo nên một Phàm Nhơn thấp kém hay bịnh
tật, thuộc về một Chơn Nhơn tiến hóa khá cao. Những chuyện sự tích của Đức
Phật có đưa ra những thí dụ về vấn đề này: Một ngày kia, có người đến yết
kiến Đức Phật và nói rằng y gặp sự trở ngại lớn trong cơn tham thiền, và
không thể nào thiền định cho có hiệu quả, Đức Phậy bèn nói rằng việc ấy có
một lư do rất giản dị: trong kiếp trước, ya đă có một thói quen rất tệ hại
là hay phá phách những người đạo sĩ trong cơn tham thiền của họ.
Người này có thể là một Linh Hồn tiến hóa hơn
những người bạn của y đă từng tham thiền có hiệu quả.
Khi một Chơn Nhơn quyết định chuyển toàn lực
của nó vào Phàm Nhơn, th́ nó có thể đem đến một sự thay đổi rất lớn. Người
nào chưa từng thí nghiệm điều này, không thể nào tưởng tượng nổi một sự thay
đổi hoàn toàn, mau chóng, và phi thường đến bực nào khi gặp những điều kiện
thuận lợi- nghĩa là khi Chơn Nhơn đă đủ sức mạnh, và Phàm Nhơn không đến nỗi
quá tồi tệ đến mức bất trị- đặc biệt nhứt là khi Phàm Nhơn tự cố gắng để trở
nên một sự biểu lộ hoàn toàn của Chơn Nhơn và làm cho Chơn Nhơn chú ư đến nó
hơn.
THÁI ĐỘ CỦA PHÀM NHƠN
Sự khó khăn của vấn đề này là chúng ta phải xem
xết vấn đề qua hai khía cạnh khác nhau. Phần đông chúng ta sống ở thế gian
như những Phàm Nhơn quá rơ rết: chúng tư tưởng và hành động hầu như hoàn
toàn là những Phàm Nhơn. Tuy nhiên chúng ta vẫn biết thật ra chúng ta là
Chơn Nhơn, và những người nào, sau nhiều năm tham thiền quán tưởng, đă trở
nên nhậy cảm hơn đối với những ảnh hưởng thanh cao, thường có ư thức được sự
can thiệp của Chơn Ngă trong cuộc đời của họ. Ta càng có thói quen đồng hóa
với Chơn Nhơn, th́ ta càng quan niệm cuộc đời một cách sáng suốt và lành
mạnh hơn. Nhưng nếu ngày nào ta c̣n cảm thấy ta vẫn chỉ là những Phàm Nhơn
ngửa mặt trông lên cái Chơn Ngă của ḿnh, th́ hiển nhiên là ta có bổn phận
phải tự cởi mở cơi ḷng để đón nhận lấy những ảnh hưởng của Chơn Nhơn, phải
vươn ḿnh lên để tiến đến nó, và luôn tạo nên trong người của chúng ta những
sự rung động hữu ích cho nó. Ít nhứt ta hăy làm thế nào để đừng gây chướng
ngại cho Chơn Nhơn, mà trái lại, hăy cố gắng làm hết sức ḿnh để ḥa hợp với
nó tùy theo tŕnh độ phát triển của chúng ta.
V́ thói ích kỷ và sự bành trướng của Phàm Nhơn,
nên bước đầu tiên của chúng ta là phải diệt trừ cái thói xấu đó. Kế đó,
chúng ta nên nuôi trong trí những tư tưởng thanh cao, v́ nếu cái Trí ta chỉ
nghĩ đến những vấn đề thấp kém th́ Chơn Nhơn không thể dùng nó làm phương
tiện để tự biểu lộ ḿnh. Khi Chơn Nhơn tự cố gắng để ảnh hưởng đến chúng ta,
chúng ta hăy sốt sắng đón tiếp và mau mau tuân lệnh của nó, để cho nó mỗi
lúc càng xâm chiếm lấy cái Trí của ta và làm chủ mọi sự vật ở các cơi Hạ
Giới. Bằng cách đó, chúng ta càng ngày càng tiến đến gần mục đích mà chúng
ta hằng hoài vọng. Như thế, chúng ta sẽ đặt chân lên đường Đạo đưa thẳng đến
cuộc Điểm Đạo đầu tiên, do đó Chơn Nhơn và Phàm Nhơn đều hợp nhứt làm một.
Từ nay sẽ không c̣n ǵ trong Phàm Nhơn mà không
phải là một sự phản ảnh của Chơn Nhơn, v́ Phàm Nhơn chỉ là để biểu lộ Chơn
Nhơn mà thối.
Phàm Nhơn có thể đă có rất nhiều thói hư tật
xấu, như thói ghen tương, tánh nóng giận và sự ngă ḷng, nhưng những thói
xấu này đă bị diệt trừ, và từ nay nó chỉ phản chiếu những ǵ từ cơi trên đưa
xuống. Chơn Nhơn đă làm cho Phàm Nhơn ḥa hợp với nó, nay mới vươn ḿnh lên
tận cơi Bồ Đề, tức là cỏi Hợp Nhứt vậy. Chỉ có bằng cách đó, con người mới
có thể diệt trừ cái ảo vọng của bản ngă nó làm trở ngại mọi sự tiến bộ của y
về sau, và đó là lư do v́ sao sự kinh nghiệm về tâm thức Bồ Đề là cần thiết
ở cuộc Điểm Đạo thứ nhứt, nếu trước kia y chưa có sự kinh nghiệm này. Trong
nhiều trường hợp, sự kinh nghiệm đó đến sớm hơn, v́ những t́nh cảm cao
thượng xuất hiện ở nơi Thể Vía, đă từng phản chiếu trên Thể Bồ Đề và làm
khích động Thể này. Bởi đó, Thể Bồ Đề đă được thức tỉnh phần nào trước khi
con người được Điểm Đạo.
THỰC HIỆN SỰ HỢP NHỨT
Tất cả chúng sinh đều là cùng một gốc duy nhứt.
Những người Đạo Đồ được gia nhập Quần Tiên Hội có bổn phận phải biết rơ điều
đó như một sự thật. Chúng ta nghe nói rằng Chơn Ngă vốn là một, và chúng ta
thử t́m hiểu xem câu ấy có nghĩa ǵ. Nhưng khi chúng ta tự ḿnh thực nghiệm
lấy điều đó, như khi người Đạo Đồ nhập cơi Bồ Đề, th́ đó là một việc hoàn
toàn khác hẳn. Ví như trong cuộc đời trần thế chúng ta sống ở dưới đáy
giếng, nơi đó chúng ta có thể ngẩng mặt lên để nh́n thấy ánh sáng mặt trời
của thế giới bên ngoài. Và tuy rằng ánh sáng soi xuống giếng sâu vực thẳm
nhưng nó vẫn là một thứ ánh sáng, cũng như thể Ánh Sáng của đấng Duy nhứt
soi sáng sự vô minh u tối của cơi ḷng chúng ta. Người Đạo Đồ đă thoát ra
khỏi cái vực thẳm của Phàm Nhơn, và thấy rằng cái ánh sáng mà y tưởng rằng
của y, thật ra là cái Ánh Sáng Vô Tận của tất cả mọi chúng sinh.
Trong khi nó sinh hoạt trong Thể Thượng Trí,
Chơn Nhơn đă nhận thức được cái Tâm Thức Thiêng Liêng trong tất cả chúng
sinh. Khi nó nh́n vào một Chơn Nhơn khác, tâm thức của nó vươn lên như để
nhận ra tánh cách Thiêng Liêng của người kia. Nhưng trên cơi Bồ Đề,
nó không c̣n vươn lên như để đón chào người kia
từ bên ngoài nữa v́ nó đă hợp nhứt với cái tâm thức của y. Không c̣n có sự
cách biệt giữa "Anh" và "Tôi"
nữa, v́ cả hai đều là một, cả hai đều là những khía cạnh của một cái ǵ
nó thấm nhuần và bao gồm lấy họ.
Tuy nhiên, trong sự hỗn hợp lạ lùng đó, cái ư
niệm về cá tính không có mất đi đâu, dẫu cho cái ư niệm về sự cách biệt giữa
Người với
Ta đă hoàn toàn mất hẳn. Điều này
dường như là một sự mâu thuẫn, nhưng quả thật đúng như vậy. Con người nhớ
lại tất cả những ǵ thuộc về dĩ văng. Y vẫn tự là y vẫn chính là người đă
làm việc này việc nọ hay việc kia trong cái thời quá khứ xa xăm. Y không
thay đổi ǵ cả, trừ phi ngày nay y đă tiến triển nhiều hơn là con người của
y hồi trước, và cảm thấy rằng y bao gồm trong ḿnh của y nhiều phương diện
biểu hiện khác nữa. Nếu ở đây và ngay bây giờ, một trăm người trong chúng ta
có thể đồng một lúc nâng cao tâm thức của chúng ta lên cơi giới Bồ Đề th́
tất cả chúng ta sẽ là một cái tâm thức duy nhứt, nhưng đối với mỗi người th́
đó dường như là cái tâm thức riêng biệt của ḿnh tuyệt đối không thể thay
đổi, trừ phi bây giờ nó cũng bao gồm luôn cả những người khác.
Đối với mỗi người, th́ h́nh như là chính họ đă
đồng hóa hay bao gồm luôn tất cả những người khác. Như thế, ở thế gian,
chúng ta đứng trước một điều ảo tưởng, và với một chút cố gắng hơn nữa,
chúng ta sẽ thấy rơ rằng tất cả chúng ta đều là những khía cạnh khác nhau
của một cái tâm thức rộng lớn hơn, và những ǵ mà từ trước đến nay ta vẫn
tưởng là những cái đức tánh của chúng
ta, trí tuệ của chúng ta,
nghị lực của chúng ta, bao giờ
cũng vẫn là đức tánh của Ngài,
trí tuệ của Ngài, nghị lực của
Ngài. Chúng ta đă thật sự nhận
chân được ư nghĩa của câu châm ngôn cổ truyền: "Ngươi
là Cái ấy".Bàn về điều này ở cơi trần thế và hiểu được nó, hoặc tưởng
rằng ḿnh đă hiểu được nó về mặt lư trí, là một việc; nhưng bước vào cái thế
giới huyền diệu đó và biết được
nó một cách chắc chắn không có ǵ lay chuyển được, lại là một việc khác.
Khi tâm thức Bồ Đề hoàn toàn ghi ấn tượng vào
bộ óc xác thịt, nó đem đến một giá trị mới cho tất cả mọi hành động và giao
tế của chúng ta trong đời sống hằng ngày. Chúng ta không c̣n
xem xét một người hay một vật,
bất luận với mực độ ưu ái hay thiện cảm đến đâu; mà chúng ta chính
là cái người đó hay vật đó, và
chúng ta biết được y hay nó cũng như chúng ta biết cái tư tưởng của bộ óc
chúng ta, hay sự cử động của chính bàn tay chúng ta. Chúng ta nhận định
những chủ ư của người khác cũng như chủ ư của ta, dẫu cho chúng ta hiểu rằng
một phần của chúng ta, với một sự kiến thức rộng răi hơn, hoặc một quan điểm
khác hẳn, có thể hành động một cách khác hẳn.
Tuy nhiên, ta không nên tưởng rằng khi một
người bước vào cảnh giới thấp nhứt của cơi Bồ Đề, th́ y sẽ đương nhiên ư
thức được một cách toàn vẹn sự hợp nhứt của y với tất cả mọi loài. Sự ư thức
toàn vẹn đó chỉ có được khi người ta đạt tới cảnh giới cao nhứt của Cơi Bồ
Đề, với nhiều công phu khó nhọc. Bước vào cơi giới này tức là kinh nghiệm
được một sự bành trướng tâm thức rất rộng lớn, tức là nhận thức được rằng
ḿnh hợp nhứt làm một với mọi người. Nhưng trước đó, người thí sinh c̣n phải
trải qua một thời gian công phu cố gắng tu luyện đại khái giống như ở Hạ
Giới, khi tham thiền, chúng ta cố gắng khai mở tâm thức đối với cơi trên gần
nhứt cơi chúng ta. Tiến lên lần từng bước một, vượt qua từng cảnh giới nọ
đến cảnh giới kia, người thí sinh phải đạt tới mục đích, v́ dẫu rằng ở cơi
giới cao như thế, sự cố gắng cũng vẫn c̣n cần thiết cho những ai muốn tiến
bộ.
Khi đă trải qua một cuộc Điểm Đạo thứ nhứt, và
đă bước một cách có ư thức vào cơi Bồ Đề, từ nay người thí sinh c̣n phải cố
gắng tuần tự vượt qua từng cảnh giới này đến cảnh giới khác. Y c̣n phải loại
trừ ba điều chướng ngại, nó ngăn trở sự tiến bộ của y. Từ nay, y đă vĩnh
viễn bước vào Thánh Đạo, Phật Giáo gọi y là vị Tu-Đà-Hườn (Sotapatti),
có nghĩa là "người đă xuôi theo
gịng", hoặc đă "nhập lưu".
Bên Ấn Độ Giáo gọi y là Parivrajaka,
nghĩa là "người lữ hành" tức
là một người không c̣n lưu luyến một nơi nào trong ba cơi Hạ Giới làm nơi cư
ngụ hay ẩn trú riêng của ḿnh nữa.
CHƯƠNG X
NHỮNG CUỘC ĐIỂM ĐẠO CAO HƠN
THẾ NÀO LÀ MỘT VỊ LA HÁN?
Trên đường Đạo, trải qua các cuộc Điểm Đạo thứ
nhứt, thứ nh́ và thứ ba, người thí sinh tuần tự phát triển tâm thức Bồ Đề.
Đến cuộc Điểm Đạo thứ tư th́ người thí sinh nhập cơi Niết Bàn, và từ đó về
sau. Người cố gắng vượt lên lần thứ năm cảnh giới thấp nhất của cơi ấy, là
nơi tự tại của Chơn Nhơn. Cuộc Điểm Đạo này ở vào khoảng giữa con đường
Thánh Đạo, theo truyền thuyết cho rằng con
người phải trải qua một thời gian trung b́nh là
bảy kiếp từ cuộc Điểm Đạo thứ nhứt đến cuộc Điểm Đạo thứ tư, và bảy kiếp
giữa hai cuộc Điểm Đạo thứ tư và thứ năm. Tuy nhiên, những con số kể trên có
thể tăng hay giảm, và trong phần nhiều trường hợp, thời kỳ phải trải qua
không phải là dài lắm v́ những kiếp đầu thai của người Đạo Đồ (1)[iv]
thường là nối tiếp nhau một cách liên tục chớ
không có cách khoảng bởi những giai đoạn nghỉ ngơi trên cơi Thiên giới.
Người Đạo Đồ(1) đă vượt qua cuộc Điểm Đạo thứ tư, danh từ Phật Giáo gọi là
La Hán (Arhat), có nghĩa là một vị Đại Đức, hay Toàn thiện. Những kinh sách
Đông phương đều có tŕnh bày nhiều lời hay ư đẹp ca tụng các vị này, chứng
tỏ rằng cổ nhân đă từng biết rơ về tŕnh độ tiến hóa cao siêu của các Ngài
vậy, Người Ấn Độ Giáo gọi các Ngài là
Parahamsa (Đại Thiên nga), cao hơn quả vị
hamsa (A-na-hàm) một bực.
QUẢ VỊ LA HÁN(ARHAT)THEO KHOA BIỂU TƯỢNG
THIÊN CHÚA GIÁO
Trong khoa biểu tượng Thiên Chúa Giáo, cuộc
Điểm Đạo thứ tư được diễn tả bằng sự thương khó ở Vườn Ô Liu, Đóng đinh trên
Thập Tự Giá và Phục Sinh của Đấng Christ.
V́ lẽ cần phải bắt đầu bằng những giai đoạn
tiên khởi, biểu tượng này sẽ được toàn hảo hơn nếu người ta lưu ư đến những
sự việc mà tục truyền rằng đă xảy ra trong Tuần Thánh. Việc đầu tiên là việc
Đấng Christ phục sinh cho Thánh Lazare, và điều này luôn luôn được kỷ niệm
vào ngày thứ Bảy trước ngày Chúa Nhật "Lễ Lá" (Rameaux),
mặc dầu theo Thánh Kinh th́ nó xảy ra một hay hai tuần lễ trước đó. Ngày
Chúa Nhật th́ xảy ra việc đáo nhập thành Jerusalem một cách tưng bừng rực
rỡ. Ngày thứ hai và thứ ba, Đấng Christ giảng đạo nhiều lần ở Thánh Đường.
Ngày thứ tu Ngài bị Judas phản bội. Ngày thứ năm là ngày thành lập Thánh Thể
(Eucharistie) và đêm thứ năm rạng ngày thứ sáu, diễn ra những phiên xử trước
Pilate và Hérode. Ngày thứ sáu Tuần Thánh là ngày đóng đinh trên Thập Tự
Giá. Ngày thứ bảy, giảng đạo cho những linh hồn trong đề lao; đến nửa đêm
thứ bảy rạng ngày Chúa Nhật, Đấng Christ phục sinh từ nấm mồ của Ngài, và
vĩnh viễn nhập Thánh.
Tất cả những chi tiết kể trên về cuộc đời của
Đấng Christ có liên hệ đến những sự việc thật sự xảy ra trong cuộc Điểm Đạo
lần thứ tư. Đấng Christ đă làm một việc phi thường và bất hủ khi Ngài phục
sinh cho Thánh Lazare vào ngày thứ bảy. Chính một phần lớn do hậu quả của
việc ấy mà sau đó không bao lâu Ngài được hưởng cái vinh diệu duy nhất ở
trần gian, v́ dân chúng đều đến rất đông khi họ nghe nói về việc Ngài làm
cho người chết sống lại. Họ chờ đợi Ngài, và khi Ngài, từ nhà đi ra để đi
đến Jerusalem, họ tiếp đón Ngài với sự hoan hô nồng nhiệt và trọng đăi Ngài
như một bực Thánh. Họ hộ tống Ngài một cách hăng say đến Jerusalem, và trong
lúc đó tự nhiên là Ngài thừa cơ hội để dạy dỗ họ và thuyết pháp nơi Thánh
Đường nhiều lần, tại đây dân chúng tề tựu rất đông để chiêm ngưỡng và nghe
Ngài giảng Đạo. Điều này là một biểu tượng để chỉ thực trạng của quả vị La
Hán. Người Đạo Đồ đắc quả vị này được thiên hạ chú ư, và thu hoạch được ít
nhiều danh vọng. Kế đó, luôn luôn có một kẻ phản bội xuất hiện để hăm hại y
và xuyên tạc những điều y đă nói và làm. Điều này dường như một ác quả; như
Ruysbroek đă nói:
"Đôi khi những kẻ bất hạnh đó thiếu thốn hẳn
những vật tốt lành của thế gian, không có bạn bè thân quyến, và bị bỏ rơi
bởi tất cả mọi người. Sự thánh thiện của họ bị nghi ngờ và xuyên tạc. Người
đời lên án tất cả những công tŕnh của họ đă làm. Họ bị người chung quanh
ruồng bỏ và khinh khi; và đôi khi họ lại mắc phải những bịnh tật nọ kia".
Kế đó họ bị một trận mưa phỉ báng và nguyền rủa
rơi lên đầu họ, và sau cùng, họ bị thế gian ruồng bỏ. sau đó, diễn ra cảnh
tượng trong vườn Getsemane, khi đó Đấng Christ cảm thấy Ngài bị thiên hạ
hoàn toàn bỏ rơi. Kế đó, Ngài bị người đời chế diễu và đóng đinh trên Thập
Tự Giá. Sau cùng, từ trên Thập Tự Giá, Ngài kêu to: "Chúa
ơi, Chúa ơi, sao Chúa ĺa bỏ con?"
Bà Lbavatsky chủ trương một giả thuyết, mà bà đă tŕnh
bày trong bộ sách "Giáo lư nhiệm
mầu", giả thuyết ấy cho rằng ư nghĩa thực sự của câu trên, chính là: "Chúa
ơi, Chúa đă làm rạng danh Con là dường nào!". Tôi không biết trong hai
câu trên, câu nào là đúng hơn, nhưng cả hai đều bao hàm một điều chân lư
chính đại. Một trong những khía cạnh của cuộc Điểm Đạo thứ tư là người Đạo
Đồ sẽ bị hoàn toàn cô lập một ḿnh. Trước tiên y phải đứng độc lập một ḿnh
trên cơi thế gian; tất cả những bạn bè thân thuộc của y, do một sự hiểu lầm
nào đó, đều quay lại chống báng y. Về sau, mọi sự đều được giải quyết ổn
thỏa, nhưng trong một lúc, người Đạo Đồ bị cô lập và có cái cảm giác rằng
tất cả mọi người thế gian đều chống lại y.
Có lẽ đó không phải là một sự thử thách lớn
lao, nhưng có một khía cạnh ẩn dấu khác của vấn đề này, v́ người Đạo Đồ c̣n
phải kinh nghiệm trong một lúc cái trạng thái gọi là "Avichi"
(Sách Tàu dịch là Ngục A Tỳ)
có nghĩa là trạng thái vô âm ba, không có sự rung động. Trạng thái A Tỳ (Avichi)
không phải là một nơi địa ngục như người ta lầm tưởng, mà là một trạng
thái khi người Đạo Đồ đứng cô lập một ḿnh trong không gian và cảm thấy ḿnh
bị cắt đứt mọi liên lạc với sự sống bên ngoài, thậm chí đến sự sống của
Thượng Đế. Điều này chắc chắn là một kinh nghiệm khủng khiếp rùng rợn nhất
có thể xảy đến cho bất cứ một người nào. Người ta đă nói rằng cái trạng thái
đó chỉ diễn ra có một lúc, nhưng đối với người nào đă trải qua cái kinh
nghiệm thảm khốc đó th́ nó dường như một thế hệ dài vô tận, v́ ở mức độ của
nó không có thới gain và không gian. Sự thử thách kinh khủng rùng rợn đó,
theo tôi tưởng, có hai mục đích: Trước nhất, để cho người Đạo Đồ có thể hoàn
toàn thông cảm với những người bị lọt vào trạng thái A Tỳ do nghiệp quả của
họ gây nên. Mục đích thứ hai là để cho người Đạo Đồ tập đứng hoàn toàn cô
lập, cách biệt khỏi mọi sự vật thuộc về ngoại cảnh. Với trạng thái đó, y cảm
biết chắc chắn rằng y là Một với Thượng Đế, và sự rùng rợn và khủng khiếp do
bởi cái cảm giác bị ngăn cách với Ngài gây ra, chỉ là một sự ảo tưởng và một
sự cám dỗ. Có nhiều người bị thất bại trước sự thử thách kinh khủng này, đă
phải thối lui và bắt đầu tu luyện trở lại để vượt qua cuộc Điểm Đạo đó.
Nhưng đối với người Đạo Đồ có đủ bản lĩnh để vượt qua cơn thử thách dễ sợ
này, th́ nó là một kinh nghiệm vô cùng huyền diệu. Nếu câu "Chúa
ơi! Sao Chúa ĺa bỏ Con" có thể áp dụng trong khi người Đạo Đồ đang lâm
cơn thử thách th́ câu: "Chúa ơi! Chúa
đă làm rạng danh cho Con dường nào!"cũng có thể biểu lộ cảm giác của
người Đạo Đồ sau khi đă vượt qua cơn thử thách và đă thành công.
Cuộc Điểm Đạo lần thứ tư khác hẳn với tất cả
những cuộc Điểm Đạo khác ở chỗ nó có một khía cạnh lạ lùng bao gồm cả hai
phương diện đau khổ và thành công. Trong ba cuộc Điểm Đạo đầu tiên, mỗi cuộc
Điểm Đạo đều được Biểu tượng Thiên Chúa Giáo tượng trưng bằng một sự việc rơ
rệt, sự Giáng sinh (Naissance) sự
Rửa Tội (Baptême) và sự Biến h́nh
(Transfiguration). Để diễn tả
cuộc Điểm Đạo thứ tư, người ta phải dùng nhiều sự việc khác nhau. Việc đóng
đinh trên Thập Tự Giá và tất cả những sự thương khó của nó, được dùng để
diễn tả một phương diện của cuộc Điểm Đạo này, c̣n sự Phục sinh với sự thành
công chiến thắng cái Chết biểu hiện cho phương diện kia. Ở giai đoạn này
luôn luôn có sự đau khổ về cả ba phương diện: thể chất, t́nh cảm và tinh
thần. Luôn luôn có sự lên án của thế gian, và dường như có sự thất bại. Luôn
có sự thành công rực rỡ trên những cơi giới thanh cao hơn; tuy nhiên, điều
này thế gian không hề biết. Những sự đau khổ kỳ lạ luôn luôn đi kèm với cuộc
Điểm Đạo này để thanh toán tất cả
mọi nghiệp quả c̣n sót lại, nó có thể làm ngăn
trở bước tiến của người Đạo Đồ. Sự kiên nhẫn và an vui trong khi người Đạo
Đồ chịu đựng những sự đau khổ đó, có giá trị rất lớn trong việc rèn luyện
tâm tánh của y. Nó cũng giúp cho sự định đoạt xem y sẽ được hữu ích đến mức
độ nào trong công việc phụng sự mà y sẽ phải làm trong tương lai.
Việc đóng đinh trên Thập Tự Giá và việc Phục
Sinh, biểu tượng của cuộc Điểm Đạo thứ tư được diễn tả trong một phương châm
cổ như sau:
"Khi đó, người Đạo Đồ bị trói trên Thập Tự Giá
bằng gỗ, y sẽ chết, y sẽ bị đem chôn và sẽ xuống cảnh Âm Ty. Ngày thứ ba, y
sẽ sống dậy và Phục Sinh trở lại".
Người Đạo Đồ của xứ Ai Cập thời cổ nằm mê thiếp
đi trong cái quan tài suốt ba ngày ba đêm liền. Qua một phần của ngày thứ
tư, y được đỡ dậy, trong khi y vẫn c̣n mê man và được chở đến chỗ thoáng khí
ở góc phía Đông của Kim Tự Tháp hoặc của nơi đền phủ, để cho ánh sáng Mặt
Trời mọc chiếu vào gương mặt y và đánh thức y tỉnh dậy sau giấc ngủ dài
triền miên đó.
Có một câu ngạn ngữ cổ nói rằng: "Không Thập Tự
Giá, không có Vương Miện", ư nói con người nếu không giáng xuống cơi vật
chất, không bị trói buộc vào cuộc đời vật chất, th́ không thể nào Phục Sinh
và đạt được cái Vương Miện (cái măo) của đài vinh quang. Trái lại, nhờ sự
hạn chế trong cọi vật chất và nhờ đau khổ rèn luyện, mà y đạt được sự thành
công. Chúng ta không thể miêu tả sự Phục Sinh đó; mọi thứ ngôn ngữ, văn tự
mà chúng ta dùng để diễn tả điều ấy rốt cuộc chỉ làm hoen ố sự huy hoàng
lộng lẫy của nó và trở nên hầu như một sự xúc phạm. Nhưng người ta có thể
nói như thế này: người Đạo Đồ đă hoàn toàn chiến thắng tất cả những điều
phiền năo, đau khổ, thử thách, chướng ngại và cám dỗ, và đạt tới sự vinh
quang trường cửu muôn đời v́ y đă chiến thắng các điều đó bằng trí tuệ và
sức mạnh của nội tâm.
NIẾT BÀN
(NIRVANA)
Kể từ nay, vị La Hán đă khai mở được tâm thức của cơi Bồ Đề trong khi người
vẫn hoạt động trong xác thân, và khi người rời khỏi Thể Xác trong giấc ngủ
hay trong cơn đại định th́ người lập tức bước vào cái vinh quang khôn tả của
cơi Niết Bàn. Trong cuộc Điểm Đạo thứ tư, vị La Hán phải có ít nhất một vài
kinh nghiệm về tâm thức cơi Niết Bàn, cũng như trong cuộc Điểm Đạo thứ nhất,
người Đạo Đồ phải có một ít kinh nghiệm về tâm thức cơi Bồ Đề, và từ nay y
phải cố gắng luôn luôn hằng ngày để từ từ tiến lên tận cơi Niết Bàn. Đó là
một công việc vô cùng khó khăn nhưng lần lần Người sẽ nhận thấy tự ḿnh có
thể vượt lên tận cái cơi giới vô cùng huyền diệu đó.
Việc nhập Niết Bàn làm cho người hành giả hoàn
toàn bỡ ngỡ lạ lùng. Cái cảm giác đầu tiên của y là ở đó có một sự sống vô
cùng linh động, dầu cho người đă quen thuộc với cơi giới Bồ Đề cũng phải
ngạc nhiên. Sự ngạc nhiên này người Đạo Đồ đă từng trải qua, mặc dầu là ít
hơn, mỗi khi mà lần đầu y vượt từ cơi này lên một cơi khác. Khi chúng ta
vượt cơi hồng trần qua cơi Trung Giới trong sự hoàn toàn thức tỉnh, chúng ta
thấy sự sinh hoạt
ở cơi này dồi dào phong phú hơn thập bội những
ǵ mà chúng ta đă biết từ trước đến giờ, đến nỗi chúng ta phải thốt lên
rằng: "Tôi tưởng tôi biết đời là ǵ, nhưng té ra tôi chưa từng biết ǵ
hết!". Khi chúng ta bước qua cơi Trung Giới, chúng ta càng ngạc nhiên gấp
đôi, v́ cơi Trung Giới tuy là mới lạ, nhưng nó chẳng ra ǵ so với cơi Hạ
Thiên. Khi chúng ta bước qua cơi Thượng Thiên, chúng ta cũng lại ngạc nhiên
như vậy nữa. Mỗi bước vượt bực, chúng ta lại cảm thấy sự ngạc nhiên càng
tăng lên bội phần, và không có sự chuẩn bị nào trước có thể ngăn cản sự ngạc
nhiên đó, v́ mỗi cơi cao hơn đem đến cho chúng ta một sự huy hoàng rực rỡ
quá sức tưởng tượng, và đời sống ở những cơi thanh cao đó là một sự hạnh
phúc cực lạc mà ngôn ngữ của thế gian không sao tả nổi.
Các nhà học giả Âu Châu khảo cứu về văn hóa
Đông Phương đă dịch chữ Nirvana
là "tịch diệt", v́ chính danh từ đó có nghĩa là "dập tắt" cũng như ngọn đèn
cầy bị cơn gió thổi tắt vậy. Thật không có ǵ trái với chân lư hơn nữa, trừ
phi nó có nghĩa là sự tịch diệt của con người phàm ở cơi thế gian, v́ trong
trạng thái đó, người ta không c̣n là một người phàm nữa, mà là Thượng Đế
trong con người,
một vị Thần Linh trong số những vị Thần Linh
khác.
Chúng ta hăy thử tưởng tượng vũ trụ tràn đầy
một nguồn ánh sáng vô biên, sống động, và luân chuyển như mực nước thủy
triều lên cao, một biển đại dương đầy ánh sáng, ánh sáng này có một mục đích
của nó, nhưng hốn nhiên không có sự áp lực hay căng thẳng. Trước tiên, chúng
ta chỉ cảm thấy một sự thoải mái nhẹ nhàng, và không thấy ǵ khác hơn và
mănh lực thậm thâm vi diệu của ánh sáng. Nhưng lần lần, chúng ta nhận thấy
rằng dầu cho trong cái ánh sáng rực rỡ đó, cũng có những điểm chói sáng hơn
nữa, chẳng khác nào những trung tâm điểm phát nguyên một thứ đặc tính mới để
cho ánh sáng kia có thể cảm xúc được ở cơi Hạ Giới, và nếu không có đặc tính
đó th́ những chúng sinh ở các cơi này không thể nào cảm biết được sự mầu
nhiệm của ánh sáng. Khi đó, lần lần chúng ta hiểu rằng những ngôi Mặt Trời
phụ thuộc đó là những đấng Cao Cả, những đấng Tinh Quân, những đấng đại
Thiên Thần, những vị Nam Tào Bắc Đẩu, những vị Phật, Chúa, và các Chân Sư,
và nhiều đấng khác nữa mà chúng ta không biết tên, nhưng chính nhờ các đấng
ấy mà ánh sáng và nguồn sống được ban rải xuống các cơi hạ Giới. Lần lần,
khi chúng ta trở nên quen thuộc với cái sự thật huyền diệu đó, chúng ta bắt
đầu nhận định rằng chúng ta hợp Nhứt với các Ngài, mặc dầu chúng ta c̣n thấp
kém hơn các Ngài một trời một vực. Chúng ta cũng sẽ nhận định rằng chúng ta
là một phân tử của cái Duy Nhất nó biểu hiện trong các Ngài và ở khắp chốn
trong không gian; rằng chính chúng ta cũng là những trung tâm ở cơi Hạ Giới
để nhờ đó ánh sáng và sinh lực được ban xuống và phân phát ra cho những kẻ
c̣n kém hơn chúng ta rất xa.
Sự huy hoàng lộng lẫy của cơi Niết bàn tự nhiên
là vượt khỏi tầm hiểu biết của người thế gian. Không có thứ ngôn ngữ văn tự
nào của trần gian có thể diễn tả sự kinh nghiệm của cơi Niết Bàn, v́ tất cả
những ǵ mà cái trí của ta hiểu biết và lănh hội được đă biến mất từ lâu
trước khi chúng ta đạt tới cơi giới đó.
Người nào đă có một lần nhận thức được sự Hợp
Nhứt Huyền Diệu của cơi Niết Bàn sẽ không bao giờ quên điều ấy, và không thể
nào c̣n giống y như trước. Dầu cho y trầm ḿnh sâu đến bao nhiêu trong các
Hạ Thể để giúp đỡ và cứu rỗi kẻ khác, dầu cho y có bị trói buộc chặt chẽ đến
đâu trong cơi vật chất, y cũng không thể nào quên được rằng chính mắt của y
đă nh́n thấy đức Ngọc Đế trong sự Mỹ lệ của Ngài, rằng chính y đă lọt vào
cái thế giới cực lạc xa xăm. Cơi giới này tuy rất xa xăm nhưng cũng rất gần,
và luôn luôn lúc nào cũng ở trong người chúng ta nếu chúng ta có thể nh́n
thấy nó, bởi v́ muốn đạt tới cơi Niết Bàn, chúng ta không cần phải đi đến
chốn nào xa xôi trong không gian, chỉ cần khai mở tâm thức của ta để đón
nhận sự huy hoàng của nó. Đức Phật xưa kia đă nói: "Ngươi chớ than khóc, cầu
khẩn, mà hăy mở mắt ra để nh́n thấy, v́ ánh sáng vốn ở chung quanh các
ngươi, một ánh sáng huyền diệu thay, tốt đẹp thay, đẹp hơn tất cả những ǵ
mà con người đă từng mơ ước, cầu xin, và nó là thứ ánh sáng trường cửu và
bất diệt"
Nhà tiên tri Isaie có nói đến "Cái
xứ xa xăm đó", nhưng thật ra, đây là một câu dịch sai nghĩa. Isaie không
có nói đến cái xứ xa xăm nào đó, mà nói đến "cái
xứ rộng bao la",câu này diễn tả một ư kiến khác hẳn và có một tính cách
rất mỹ lệ. Nó chỉ nhà tiên tri đă bước vào những cơi giới thanh cao, và
trong tư tưởng đó, Ngài so sánh sự lộng lẫy huy hoàng của các cơi Trời đầy
những ánh sao rực rỡ, với chốn trần gian chật hẹp u tối của chúng ta. Đó
chính là cái h́nh ảnh so sánh đời sống con người ở thế gian với cái đời sống
thanh cao siêu việt ở cơi trên: Một mặt, con người tập tễnh bước lần ṃ trên
những con đường quanh co, u ám; so với một đời sống huy hoàng, có định
hướng, với một sự nhận thức rơ ràng rằng ư chí Thiêng Liêng của Tạo Hóa
truyền sự sống và hoạt động xuyên qua ư chí của người trần gian.
CÔNG VIỆC CỦA VỊ LA HÁN
Vị La Hán c̣n phải thực hiện cái công việc vĩ
đại là tiến lên những đỉnh cao tột trong cơi giới cao siêu huyền diệu nhất
của đời người. Muốn thực hiện điều này, vị La Hán phải loại trừ năm điều
cuối cùng, trong tất cả mười điều chướng ngại lớn. Đó là:
6)Ruparaga-
ưa thích có sắc tướng đẹp đẽ, hoặc ham muốn sự sống có h́nh hài, sắc
tướng, gồm cả sự sống ở cọi Thiên Giới.
7)Arupraga- ham muốn sống trong cảnh vô sắc
tướng.
8)Mano-
sự kiêu căng.
9)Uddhachchha-
sự vọng động, dễ bị động tâm v́ ngoại cảnh.
10)Avidya-
sự vô minh.
Hai điều chướng ngại thứ sáu và thứ bảy bao gồm
cả ư nghĩa hấp dẫn (raga) và xô
đẩy (Dwesha). Sự loại trừ hai
chướng ngại này đ̣i hỏi một đức tánh bền bỉ, kiên cố để cho không có một
điều ǵ ở cơi sắc giới hay cơi vô sắc giới có thể làm cho người Đạo Đồ bị
hấp dẫn dầu chỉ trong chốc lát; hoặc có thể làm cho y ghét bỏ trốn tránh v́
tính chất xấu xa của nó, nếu ở nơi đó y có công việc phải làm để giúp đỡ
chúng sinh.
Trong khi điều chướng ngại thứ tám bị loại trừ,
người Đạo Đồ quên lửng những công quả vĩ đại lớn lao của ḿnh, và không thể
nào c̣n có sự kiêu căng, v́ từ nay y đă luôn luôn được thấm nhuần ánh sáng
Chân lư và không c̣n tự so sánh ḿnh với những kẻ kém hèn hơn ḿnh nữa. Kế
đó, y đạt được sự an vui tự tại hoàn toàn, mà không một điều ǵ ở ngoại giới
có thể lay chuyển hay làm cho y bị vọng động. Nhờ đó, y đạt tới sự thông
suốt, hiểu biết hết tất cả mọi lẽ, và trở nên một bậc Toàn Trí trong dăy
hành tinh của chúng ta.
CUỘC ĐIỂM ĐẠO LẦN THỨ NĂM, QUẢ VỊ CHƠN TIÊN(ASEKHA)
Trong giai đoạn kế tiếp, người Đạo Đồ sẽ đạt
tới quả vị cuối cùng làm cho Người trở nên một bậc Siêu Nhân. Danh Từ Phật
Giáo gọi đó là quả vị Chơn Tiên (Asekha),v́
từ nay Người không c̣n phải học hỏi điều ǵ nữa, và đă trải qua tất cả mọi
kinh nghiệm của đời sống con người ở dưới trần. Người Ấn Độ Giáo gọi Người
là Jivanmukta, một bậc đă giải
thoát, một đấng hoàn toàn tự do, tự do không phải là do một sự cách biệt với
chúng sinh, mà bởi v́ ư chí của Ngài đă hỗn hợp làm một với ư chí của Vũ
Trụ, của đấng Dộc nhứt vô nhị trong hoàn vũ. Ngài đă vĩnh viễn nhập Niết
Bàn, dầu trong khi thức tỉnh, nếu Ngài muốn giữ Xác Phàm để ở lại thế gian;
và khi rời khỏi Xác Phàm, Ngài c̣n vượt lên cao hơn, đến tận cơi Đại Niết
Bàn, cơi này không những ngoài ṿng nghị luận của con người, mà trí phàm của
chúng ta cũng không thể tưởng tượng nổi.
Đức Phật có nói: "Các ngươi đừng có dùng lời
nói mà diễn tả Vô Biên, cũng đừng dùng sợi dây tư tưởng mà đo lường cái Diệu
Huyền. Người nào hỏi là lầm, kẻ trả lời cũng lầm. Các ngươi đừng nói ǵ cả".
Trong khoa biểu tượng Thiên Chúa Giáo, quả vị
Chơn Tiên được tượng trưng bằng sự Thăng Thiên (Ascension)
và việc Chúa Thánh Thần hiện xuống (Descente)
v́ vị Chơn Tiên đă thăng lên mực độ cao hơn Nhân Loại, thoát khỏi ṿng thế
tục, mặc dầu nếu Ngài muốn, cũng như Đấng Christ đă làm, Ngài có thể trở lại
thế gian để dạy dỗ và giúp đỡ nhân loại. Khi Ngài Thăng Thiên, Ngài hợp nhứt
với Chúa Thánh Thần, và việc đầu tiên mà Ngài làm với cái quyền năng mới của
Ngài, là ban rải nó cho các vị đệ tử, cũng như Đấng Christ, tưới những ngọn
lửa đỏ trên đầu các người theo Ngài trong cuộc Lễ Ngũ Tuần (Pentecôte).
Nhờ sự hợp nhất đó mà vị Chơn Tiên (Asekha)
có thể thâu nhận đệ tử. Vị La Hán (Arhat)
mặc dầu có thể dạy, giáo hóa nhân loại, nhưng vẫn phải trực thuộc và thi
hành Mệnh lệnh của một vị Chơn Tiên trên cơi thế gian. Vị La Hán không thâu
nhận đệ tử, bởi v́ Ngài chưa có sự liên lạc đặc biệt với Ngôi Ba (Chúa Thánh
Thần) như đă nói ở trên.
CÁC QUẢ VỊ CAO HƠN
Trên vị Chơn Tiên, c̣n có quả vị Đế Quân (Chohan)
những quả vị cao hơn nữa. Cái thanh tiến hóa c̣n nhiều nấc cao tột bậc hơn
nữa, mà ít người trong chúng ta có thể đạt tới. Khi chúng ta hỏi các đấng
Cao cả ở bậc trên chúng ta và biết nhiều hơn chúng ta rất xa, th́ các Ngài
cũng chỉ có thể nói rằng những nấc thang tiến hóa cao tột đó cũng ở ngoài
tầm nhận xét của các Ngài. Các Ngài biết về những nấc thang đó nhiều hơn
chúng ta rất xa, nhưng cái thang tiến hóa c̣n lên cao hơn nữa, đến tận những
đỉnh cao thâm thâm diệu diệu mà chúng ta không thể tưởng tượng nổi, và không
ai biết được chỗ rốt ráo cùng tột của nó.
Mặc dầu không ai có thể thấy chổ cùng tột của
nấc thang tiến hóa, và công việc của những đấng Cao Cả ở những cấp đẳng cao
trong Quần Tiên Hội hầu như không thể hiểu nổi, tuy nhiên sự hiện diện và
công việc của các Ngài quả thật có một cách thật sự và nhứt định, cũng như
mọi sự vẫn có ở thế gian. Hơn nữa, sự nhận xét của chúng tôi về những đấng
Cao Cả là một điều chắc chắn, không có một chút điểm nghi ngờ. Mặc dầu tôi
biết rất ít về cái phần cao siêu trong công việc của Ngài, trong nhiều năm
qua tôi đă từng thấy Đức Di-Lặc-Bồ-Tát làm công việc đó luôn luôn, hầu như
mỗi ngày; và tôi đă từng rất nhiều lần chiêm ngưỡng đức Ngọc Đế trong sự
hiện diện nhiệm mầu và khó hiểu của Ngài, cho nên đối với tôi, các Ngài là
những đấng quả có thật sự cũng như bất cứ người nào tôi biết, và tôi cũng
biết một phần nào về sứ mạng của các Ngài ở thế gian.
Tôi biết rằng những điều tôi có thể nói về các
Ngài là những sự thật chắc chắn, tuy nhiên tôi không thể giải thích và cũng
không hiểu biết được bao nhiêu về công việc của các Ngài. Tôi đă thấy những
vị Đại Đế Quân (Dhyan Chohan),
các đấng Tinh Quân (Planetary
Spirits) và những vị Thiên Sứ của những Thái Dương Hệ khác, và tôi biết
chắc chắn về sự hiện diện của các Ngài nhưng tôi không biết ǵ cả về những
công việc làm của các Ngài. Chính tôi đă thấy sự Biểu Lộ của đức Thái Dương
Thượng Đế giữa những đấng Cao Cả phụ tá của Ngài, và sự thấy của tôi chẳng
qua chỉ là một phần trong muôn triệu về cái đức Cao Cả vô biên và khôn tả mà
các đấng ấy nh́n thấy ở Ngài. Cũng như trong chuyện Bhagavad Gita, Arjuna đă
nh́n thấy ảnh đức Thượng Đế, tôi đă thấy như vậy không một mảy may nghi ngờ.
và tôi muốn chứng minh một cách cụ thể rằng những điều đó có thật. Tôi biết
rằng khi tôi viết những chuyện này, tôi có thể bị sự chế nhạo của người đời.
Có người sẽ hỏi: "Ông là ai, mà dám nói những chuyện đó?". Nhưng tôi đă
thấy, và tôi sẽ hèn nhát nếu tôi không chịu chứng minh sự thật.
Tôi đă nhiều lần tuyên bố, bằng lời nói và sách
vở, rằng tôi không muốn thấy một người nào dùng những điều tôi nói để làm
căn cứ cho đức tin của y nơi Giáo Lư Thông Thiên Học. Tôi nghĩ rằng mọi
người nên tự ḿnh học hỏi giáo lư Thông Thiên Học và tự t́m ra những kết
luận để áp dụng cho đời ḿnh. Cái lư do chính của y để chấp nhận một học
thuyết phải là lư do kinh nghiệm bản thân, hay là bởi v́ y nhận thấy rằng
học thuyết đó là hợp lư nhứt. Nhưng điều đó không thay đổi sự kiện là tôi có
những bằng chứng để đưa ra cho những người nào muốn biết, những bằng chứng
mà tôi đă tŕnh bày trong bài này và những quyển sách khác. Trong thế kỷ 20
này những người viết sách về Thông Thiên Học như chúng tôi có thể áp dụng
lời nói sau này của Thánh Jean tửng đua ra gần 2000 năm nay:
"Những ǵ có từ lúc nguyên thủy, những ǵ mà
tôi đă nghe thấy tận mắt, xem xét và sờ mó tận tay, đó chính là những ǵ mà
chúng tôi tuyên bố cho các anh.
"Chúng tôi là người đă từng thấy, chúng tôi xin
chứng minh những điều đó, sự chứng minh đó có được người thế gian chấp nhận
hay không, điều đó không quan hệ bao nhiêu.
"Người nào đă cảm giác được cái Tinh Thần
Thiêng Liêng của đấng Chí Tôn, không thể lầm lẫn, nghi ngờ, hoặc phủ nhận
nó. Ôi! Thế gian, ví như các người có đồng thinh phủ nhận nó. Ôi! Thế gian,
ví như các người có đồng thinh phủ nhận Ngài, ta thà từ bỏ thế gian, và giữ
vững đức tin của ta!"
BẢY CON ĐƯỜNG SIÊU NHÂN LOẠI
Ngay sau khi con người đă vượt qua cuộc Điểm
Đạo thứ năm và đắc quả vị Chơn Tiên (Asekha),
th́ Thánh Đạo chia làm bảy con Đường lớn để cho vị Chơn Tiên chọn lựa một.
Về vấn đề này, tôi xin chú thích những ǵ tôi đă viết trong quyển: "Con
người; từ đâu đến và sẽ đi về đâu":
"Sau khi đă trải qua giai đoạn tiến hóa của nhân loại, và đứng trước ngưỡng
cửa của đời sống Siêu Phàm, như một vị Thần Tiên đă giải thoát, th́ vị Chơn
Tiên sẽ chọn lựa một trong bảy đường sau đây:
1)Ngài có thể bước vào trạng thái Toàn Tri và
Toàn Lực của cảnh Niết Bàn, với những hoạt động ngoài tầm hiểu biết của
chúng ta rất xa, để trở nên đấng Cao Cả chuyển kiếp xuống trần trong một bầu
thế giới tương lai (tiến Phạn gọi là
Dharmakaya).
2)Ngài có thể bước vào một "Thời Kỳ Tâm Linh" ở
cơi Niết Bàn; câu này có nhiều ư nghĩa huyền bí (tiếng Phạn gọi là:
Sambhogakaya).
3)Ngài có thể trở nên một vị Thủ Kho Thần Lực mà các
vị Thiên Sứ của Thượng Đế dùng để làm công việc của các Ngài (tiếng Phạn gọi
là:
Nirmanakaya).
Ngài có thể ở lại thế gian để giúp đỡ Nhân Loại, với
tư cách là một nhân viên
của
các Cấp Đẳng Thiên Đ́nh, gọi chung là Quần Tiên Hội.
5)Ngài có thể chuyển qua một dăy Hành Tinh kế
tiếp, để trợ giúp cho công việc tạo tác mọi h́nh thể sinh vật trên đó.
6)Ngài có thể bước vào con đường Tiến Hóa của
các hàng Thiên Thần.
7)Ngài có thể gia nhập vào bộ Tham Mưu của Đức
Thượng Đế, với tư cách một vị Thiên Sứ, để được Ngài sử dụng ở bất cứ nơi
nào trong Thái Dương Hệ. Cũng như một viên Đại Tướng có một bộ Tham mưu, để
mang những huấn lệnh của người đến khắp mọi nơi trên băi chiến trường, th́
những vị Thiên Sứ của đức Thượng Đế cũng vậy, các Ngài thừa hành mạng lệnh
của đức Thượng Đế và làm công việc của Ngài trong toàn thể cơ cấu của Thái
Dương hệ. Con Đường này được coi như là Con Đường rất khó, có lẽ là sự hy
sinh lớn nhất của một vị Chơn Tiên,
và bởi đó nó cũng là một điều vinh diệu rất
lớn. Một vị Thiên Sứ không mang Thể Xác hồng trần: Ngài dùng Ư Chí (Kriya
Shakti) tạo ra một Thể Xác bằng chất khí của bầu thế giới mà Ngài được
gởi đến. Bộ Tham Mưu gồm có những đấng Cao Cả thuộc nhiều cấp bậc khác nhau
từ cấp bậc Chơn Tiên trở lên.
Vị "Dharmakaya)
rút lui vào Chơn Thần (Monade),
và bỏ luôn cả hột lư tánh nguyên tử Niết bàn của Ngài.
Vị (Sambhogakaya"
c̣n giữ lại hột nguyên tử Niết Bàn và tự biểu lộ như một đấng Cao Cả có
đủ Ba Ngôi.
Vị (Nirmanakaya)
giữ lại Thể Thượng Trí và những hột lưu tánh nguyên tử mà Ngài mang theo
suốt trôn thời hỳ tiến hóa của Ngài, để cho bất cứ lúc nào Ngài cũng có thể
tạo nên chung quanh những nguyên tử đó những Thể Trí, Thể Vía và Thể Xác khi
Ngài muốn. Ngài vẫn luôn luôn giữ liên lạc với bầu thế giới cũ của Ngài, để
cho Ngài có thể cung cấp kho Thần Lực do đó ân huệ Thiêng Liêng được ban
xuống cho bầu thế giới đó. Trong quyển "Tiếng
nói của Im lặng" có nói rằng vị
Nirmanakaya là một bức thành đồng ngăn giữ cho thế gian khỏi bị thêm
nhiều sự lầm than đau khổ nữa. Đối với những người không hiểu cái ư nghĩa
thâm sâu của câu này, th́ nó dường như ám chỉ rằng sự đau khổ đến với thế
gian từ bên ngoài, và những đấng Cao Cả đó xua đuổi chúng vẹt đi nơi khác.
Nhưng sự thật không phải như vậy, v́ tất cà những đau khổ ở thế gian là do
con người tạo ra. Mỗi người là một vị quan Ṭa của chính ḿnh, tự gieo lấy
điều thưởng phạt cho ḿnh; nhưng bổn phận của vị
Nirmanakaya là dự trữ một kho
Thần Lực để giúp đỡ nhân loại. Các Ngài luôn luôn tạo ra nguồn Thần Lực này,
các Ngài không giữ lấy một phần nào cho riêng ḿnh, mà dành trọn hết cả cho
Quần Tiên Hội sử dụng để nâng đỡ bớt nghiệp quả nặng nề của trần gian.
Như thế, trong sồ những vị đắc quả Chơn Tiên,
chỉ có một số ít c̣n ở lại thế gian với tư cách nhân viên Quần Tiên Hội. V́
những vị này và những công việc của các Ngài có một tầm quan trọng rất lớn,
nên những chương sau đây sẽ dành trọn cho vấn đề này.
PHẦN THỨ TƯ
CÁC CẤP ĐẲNG THIÊN Đ̀NH
CHƯƠNG XI
CÔNG VIỆC CỦA CÁC CHÂN SƯ
Như đă giải thích ở trên, trong sồ những người
đắc quả Chơn Tiên (Asekha), chỉ
có một số ít c̣n lại ở thế gian với tư cách nhân viên Quần Tiên Hội, để d́u
dắt sự tiến hóa trên quả Địa Cầu theo như Thiên Cơ đă định. Hiện thời có độ
50 hay 60 vị Chơn Tiên đảm nhiệm công việc này; sự hoạt động của các Ngài đă
được bà Annie Besant diễn tả như sau trong một quyển sách nhỏ nhan đề "Các
Đấng Chơn Sư":
"Các Ngài giúp đỡ bằng đủ mọi cách sự tiến hóa
của nhân loại. Từ trên cơi giới cao siêu nhứt, các Ngài ban rải ánh sáng và
sinh lực xuống khắp thế gian để cho muôn loài được hưởng thụ, chẳng khác nào
như ánh nắng Mặt Trời. Cũng như cơi giới hồng trần nhờ nguồn sinh lức của
Thượng Đế do ngôi Mặt Trời ban rải xuống thế gian, th́ cơi giới tâm linh
cũng nhờ nguồn sinh lực đó do Quần Tiên Hội ban rải ra. Những đấng Chân Sư
đảm nhiệm về tôn giáo dùng những tôn giáo ấy làm kho chứa đựng Thần Lực của
các Ngài ban xuống để phân phát cho mỗi tín đồ của mỗi tôn giáo.
"Kế đó là công việc vĩ đại về mặt trí tuệ. Từ
cơi Thượng Thiên, các đấng Chân Sư phóng ra những h́nh tư tưởng có thần lực
rất mạnh để giúp nguồn cảm hứng cho những bậc thiên tài vĩ nhân trong thiên
hạ, những người này sẽ bắt được luồng tư tưởng đó và đưa ra cho thế gian
được hưởng thụ những kết quả tốt đẹp. Cũng trên địa hạt này, các Ngài gởi
chỉ thị cho những vị đệ tử biết những công việc nào họ phải làm.
"Trên cơi Hạ Thiên, các Ngài phóng ra những
h́nh tư tưởng có ảnh hưởng đến Hạ Trí con người, d́u dắt tư tưởng con người
theo những đường hoạt động hữu ích cho thế gian. Các Ngài cũng dạy dỗ những
linh hồn đang sống trên cơi Thượng Giới.
"Trên cơi Trung Giới, sự hoạt động của các Ngài
gồm có việc giúp đỡ những linh hồn vừa mới từ giă cơi Trần, hướng dẫn và
trông nom việc huấn luyện những đệ tử trẻ tuổi, và trợ giúp trong vô số
những trường hợp cần được giúp đỡ. Ở cơi phàm trần, các Ngài ḍ xét những
trào lưu và thời cuộc thế giới; sửa đổi và diệt trừ những khuynh hướng bất
hảo trong phạm vi mà luật thiên nhiên cho phép; giữ mực quân b́nh giữa những
sức mạnh đối lập thuận và nghịch
với
sự tiến hóa, tăng cường điều thiện, giảm bớt điều ác. Các Ngài cũng hợp tác
với những vị Thiên Thần của các quốc gia, d́u dắt những sức mạnh tâm linh
của nhân loại trong khi các Thiên Thần d́u dắt sự tiến hóa về h́nh thể sắc
tướng của muôn loài".
KHU VỰC HOẠT ĐỘNG CỦA CHÂN SƯ
Mặc dầu các đấng Chân Sư chỉ gồm có một thiểu
số, nhưng các Ngài đă sắp đặt cách nào để cho không một phần tử nào trên
toàn cơi thế gian bị bỏ rơi hay quên lăng. Bởi đó, các Ngài phân chia quả
địa cầu ra làm nhiều khu vực đặc biệt, đại khái cũng như
ở một vài xứ, Hội Thánh chia mỗi xứ làm nhiều
giáo khu để cho mỗi người, dầu là họ ở nơi nào, họ cũng thuộc về một trong
những giáo khu đặt dưới sự quản trị của Hội Thánh để trông nom về phần tâm
linh, và đôi khi cả về những nhu cầu vật chất của họ. Tuy nhiên những khu
phận của các đấng Chân Sư không phải là những quận huyện hay tỉnh, mà gồm cả
những nước lớn và những lục địa.
Theo sự phân chia hiện thời, một vị Chân Sư cai
quản toàn cơi Âu Châu, một vị khác cai quản xứ Ấn Độ,v.v... và như thế toàn
thể địa cầu đều được phân ra từng khu vực rộng lớn. Những khu vực đó không
có theo những đường ranh giới chánh trị hay địa dư của chúng ta. Trong vùng
địa phận của mỗi vị Chân Sư, Ngài chăm nom săn sóc tất cả những cấp đẳng và
h́nh thể tiến hóa, không những của nhân loại mà thôi, mà cũng gồm cơi giới
Thiên Thần, những loại Tinh Linh, cầm thú, thảo mộc và kim thạch, những loại
tinh hoa chất, cùng những loài khác nữa mà từ trước đến nay chưa từng nghe
nói đến bao giờ. Như thế, công việc của các Ngài bề bộn là dường nào.
Ngoài ra sự chăm nom của các đấng Chân Sư, mỗi
giống dân hay mỗi quốc gia c̣n được sự giúp đỡ của mỗi vị Thiên Thần, vị này
cũng bảo trợ và d́u dắt sự tiến hóa của mỗi quốc gia.
Có nhiều động lực khác nhau cùng hoạt động để
phụng sự đức Thượng Đế trong công việc giúp đỡ sự tiến hóa của nhân loại, và
tự nhiên là những động lực đó đều hoạt động theo một chiều hướng, và cùng
hợp tác lẫn với nhau.
Chúng ta đừng tưởng lầm mà gán cho những động
lực đó cái nguyên nhân đă gây ra những cơn biến cố tai hại ở một vài xứ,
chẳng hạn như cuộc Cách Mạng Pháp và cuộc Cách Mạng ở Nga. Những cơn bạo
động lưu huyết này hoàn toàn do nơi bản năng thấp hèn và những thú tính của
con người không được kềm chế, đă gây ra nên sự phá hoại thay v́ xây dựng. Nó
chỉ sự nguy hiểm đe dọa công việc của các Chân Sư khi các Ngài bắt đầu thí
nghiệm theo đường lối dân chủ. Sự chuyên chế gây nên những tai hại
và đau khổ rất lớn; vấn đề khó khăn trong việc
loại trừ sự chuyên chế là làm sao thực hiện được điều đó mà không làm mất sự
quân b́nh và trật tự xă hội. Nhưng trái lại,
khi thực hiện điều này th́ nhiều người không
làm chủ được phàm nhơn của ḿnh; họ tự thả trôi theo sự buông lung, hỗn
loạn, và như thế họ rất dễ bị ám ảnh và sai khiến bởi những luồng ảnh hưởng
hắc ám và tà vây. Đấng Thiên Thần quốc gia cố gắng d́u dắt những tư tưởng và
cảm xúc của dân tộc; Ngài chỉ ảnh hưởng đến số đông quần chúng và khi cần,
Ngài thúc dục họ làm những hành động ái quốc và anh hùng, cũng như một vị
tướng soái thúc dục quân sĩ tiến tới trên băi chiến trường, nhưng Ngài không
hề phung phí sinh mạng hoặc làm ngơ trước sự đau khổ của họ, cũng như vị
tướng soái biết thương quân sĩ vậy.
SỰ PHÂN PHỐI THẦN LỰC
Như đă nói trước đây, một phần lớn công việc
của Chân Sư được thức hiện trên những cơi giới cao hơn cơi hồng trần,
khi các Chân Sư ban rải thần lực riêng của các
Ngài, hoặc rút trong kho thần lực vĩ đại thiên nhiên của đấng
Nirmanakaya. Do hành động của
luật nhân quả mà thế gian được hưởng một phần nào của nguồn thần lực quư báu
đó. Dầu cho những người thường mà chuyển hướng cuộc đời ḿnh theo đường lối
của Thiên Cơ, bằng cách hướng tư tưởng và hành động của ḿnh vào công việc
phụng sự nhân loại, th́ những người đó sẽ cộng thêm một ít vào kho thần lực
chung, và như thế, họ được hân hạnh cùng chia sớt một phần trong công việc
hy sinh vĩ đại. V́ lẽ đó nhân loại tiến hóa như một đơn vị, và sự kỳ diệu
của t́nh huynh đệ đại đồng là giúp cho mọi người có thể tiến bộ gấp mười
phần nhiều hơn là nếu họ đứng lẻ loi một ḿnh. Điều này nằm trong chương
tŕnh của đấng Thượng Đế, theo đó Ngài đương nhiên cho rằng mọi người sẽ có
dự phần trong công việc của Thiên Cơ. Khi hoạch định Thiên Cơ có lẽ Ngài
nghĩ rằng: "Khi nhân loại tiến hóa đến một tŕnh độ nào đó, họ sẽ bắt đầu
hợp tác một cách thông minh với Ta. Bởi vậy, Ta sẽ sắp đặt sao cho khi họ
tiến đến điểm đó, họ sẽ có thể sử dụng nguồn Thần lực của Ta". Như thế, Ngài
trông cậy nơi sự cố gắng của mỗi người.
Quần Tiên Hội hợp nhứt với tất cả nhân loại
trên những cơi cao, và nhờ bởi cơ quan đó mà một phần của kho Thần lực lớn
được phân phối cho nhân loại. Từ cơi Thượng Thiên, các Chân Sư ảnh hưởng đến
tất cả mọi linh hồn không bỏ sót một ai, và như thế các Ngài giúp đỡ rất
nhiều cho sự khai triển tâm thức của mỗi người. Sự sống bên trong của mỗi
người cũng ví như một hột giống cần phải nẩy nở, bởi v́ cái nguyên tắc tiến
hóa vốn có sẵn trong cái mầm đó. Trong con người, cái mầm đó đă mọc thành
cái cây đang vươn ḿnh lên để t́m không khí, và sự tiến bộ mau chóng của Con
Người một phần lớn là nhờ bởi cái sức mạnh tâm linh do Quần Tiên Hội ban rải
cho y, chẳng khác nào như cái cây được hấp thụ ánh sáng Mặt Trời.Đây là một
trong nhiều phương pháp theo đó người đă tiến hóa nhiều giúp đỡ kẻ ít tiến
hóa, khi mà họ càng ngày càng biểu lộ được nhiều đức tính thiêng liêng, theo
đà tiến hóa tự nhiên.
Mỗi vị Chân Sư đảm nhiệm công việc đặc biệt này
ảnh hưởng đến một số rất đông người, thường khi đến hằng triệu người một
lúc. Tuy thế, Thần lực của Ngài ban rải có cái tánh chất kỳ diệu này, là nó
ảnh hưởng đến mỗi người một cách đầy đủ trọn vẹn chẳng khác nào như y là
người duy nhứt được cái diễm phúc đó, và đồng thời nó cũng ảnh hưởng y như
vậy đối với mỗi người trong toàn thể.
Đó là một công việc khác hẳn với việc coi sóc
một khu phận trên thế giới. Trong công việc đó, Ngài đặc biệt chú ư đến một
hạng người phát triển đúng theo đường lối tiến hóa của Ngài, mặc dầu phần
nhiều trong số đó không hay biết ǵ cà về hành động của Ngài. Ngài cũng có
nhiều trường hợp đặc biệt cần săn sóc giúp đỡ, và bởi thế, đôi khi Ngài giao
một phần công việc của Ngài cho các vị Thiên Thần đảm nhiệm, với rất nhiều
tự do hành động trong những giới hạn nhứt định. Về phần họ, những vị Thiên
Thần sử dụng các Tinh Linh Ngũ Hành và tạo nên nhiều loại h́nh tư tưởng. Như
thế, công việc của các vị ấy cũng gồm cả một nghành hoạt động rất lớn.
CÁCH SỬ DỤNG L̉NG SÙNG TÍN
Trong quyển "Bí Tích Minh Luận" (The Science of
Sacrament), tôi có giải thích bằng cách nào những đấng Cao Cả dùng những
buổi nghi lễ của các tôn giáo làm phương tiện để ban rải thần lực của các
Ngài cho thế gian, và do đó, khích động sự phát triển tâm linh trong một số
rất đông người. Nhưng các Ngài không phải chỉ dùng những cuộc nghi lễ tôn
giáo mà thôi, mà các Ngài dùng tất cả mọi cơ hội thuận tiện để ban rải thần
lực cho thế gian. Nơi nào có một cuộc hội họp nhiều người cùng chịu ảnh
hưởng của ḷng sùng tín, tất cả đều cùng trong một lúc nâng cao tư tưởng của
họ lên một mực độ thanh cao tốt đẹp, một cuộc hội họp như thế tạo ra cho các
Chân Sư một cơ hôi hiếm có mà các Ngài không thể bỏ qua, v́ nó tạo nên một
sự tập trung mà các Ngài có thể dùng như một đường vận hà để ban rải ân huệ
thiêng liêng. Khi mỗi người đều sống rời rạc, lẻ tẻ trong gia đ́nh, họ cũng
ví như nhiều đường lộ tẻ, và chỉ nhận được có một ít thần lực đi xuyên qua.
Nhưng khi họ cùng đến tề tựu đông đảo trong một cuộc hội họp, th́ đó chẳng
khác nào như một đường vận hà lớn, xuyên qua đó thần lực của Chân Sư có thể
được ban rải một cách dồi dào gấp bội.
Tôi có thấy hằng triệu người đi hành hương ở
tại Thánh Địa Bénarès, phần nhiều trong số đó hiển nhiên là những người dốt
nát và dị đoan, nhưng cùng trong một lúc họ đều tràn đầy ḷng sùng tín và
hoàn toàn hướng thiện. Khối tư tưởng sùng tín mộ đạo do một số đông người
như thế phóng ra trong không gian là khối vĩ đại không thể đo lường, và các
Chân Sư không thể bỏ qua cơ hội đó để ban bố ảnh hưởng của các Ngài. Lẽ tự
nhiên là một số đông người vừa nhiệt thành lại vừa thông minh sẽ tạo nên một
sức mạnh dồi dào hơn và có thể vang dội lên một cơi giới cao siêu hơn, nhưng
chúng ta đừng tưởng lầm rằng khối tư tưởng vĩ đại của một số người dốt nát
và cuồng tín tạo nên là không có giá trị ǵ. Những đấng Cao Cả trong Quần
Tiên Hội có một quyền năng kỳ diệu là gạn lọc điều lành với điều ác; nói một
cách khác, từ trong một khối lớn tư tưởng bất hảo, các Ngài có thể rút ra
một thiểu số sinh lực để dùng vào việc lành.
Người ta thường thấy có khi ḷng sùng tín mănh
liệt nhứt lại đi đôi với tư tưởng đố kỵ và chia rẽ. Trong trường hợp đó,
Chân Sư sẽ phân loại ra, Ngài dùng lấy cái phần thuộc về ḷng sùng tín, và
loại bỏ cái phần thuộc về ḷng đố kỵ, ganh ghét. Bởi đó, có người tâm địa
bất chính có khi lại gặp được những nghiệp quả tốt, tuy người ta không thể
chối căi rằng cái nghiệp tốt đó c̣n lớn lao hơn nhiều, nếu y không có những
thói hư tật xấu kia.
Một thành phố như Bénarès luôn luôn là một
trung tâm thần lực vĩ đại, dầu cho ngoài những thời kỳ hành hương hằng
năm.Đó là một nơi có nhiều đền đài lăng tẩm và xá lợi của những bậc Thánh
Hiền, mà các Chân Sư cũng có thể dùng làm những đường vận hà tốt; điều này
cũng áp dụng cho tất cả những nơi đền miếu, chùa chiền ở khắp nơi trên thế
giới. Nếu là xá lợi thật, th́ nó phát ra một số từ điển mạnh mẽ do sự liên
hệ của nó với một bậc Thánh Nhân, và bởi đó nó có thể dùng làm phương tiện
chuyển di thần lực để phân phối cho những người đi hành hương. Tuy nhiên,
trong nhiều trường hợp th́ đó là xá lợi giả, nhưng dầu thật hay giả, cái xá
lợi mà chúng ta coi là điều quan trọng, thật ra nó không quan trọng lắm như
chúng ta tưởng.
Nếu trong một thời gian lâu dài, người ta đă
dùng xá lợi ấy làm cái trung tâm để biểu lộ sự chiêm bái và ḷng sùng tín,
th́ điều đó cũng đủ để cho các Chân Sư dùng nó một cách hữu hiệu như là một
xá lợi thật. Dầu sao đó là xá lợi giả
mà
người ta lầm tưởng là thật đi nữa, điều đó cũng không ảnh hưởng ǵ đến sự
hữu ích của nó, v́ ḷng sùng tín được tạo ra chung quanh nó vốn là thật, và
chính đó mới là điều quan trọng. Nếu điều này được hiểu rơ, th́ nó sẽ giúp
sự thông cảm cho những người hẹp ḥi nông cạn, thường hay chế nhạo sự dị
đoan mê tín của những người nông dân ở Ư, Sicile hay Tây Ban Nha, hoặc khinh
rẻ những người lao công Ấn Độ v́ họ thờ cúng ở những đền miếu tối tăm, không
phải linh thiêng như là họ tưởng. Lẽ tất nhiên, sự thật vẫn tốt đẹp hơn sự
sai lầm, nhưng ta nên nhớ rằng đối với những người c̣n dốt nát, mà muốn cho
họ đương nhiên dẹp bỏ sự tín ngưỡng của họ th́ đó quả thật là một điều không
hay, trừ ra khi nào họ có thể hiểu được những điều cao thượng hơn. Làm như
thế không những là ḷng sùng tín của họ bị thương tổn mà nó c̣n khép chặt
những đường vận hà hữu ích cho thần lực của Chân Sư.
Ngoài ra, một người nông dân thất học không thể
xét đoán được rằng một xá lợi vốn thật hay giả, và thật là một điều bất công
nếu ḷng sùng tín của họ, mà họ dâng lên với tất cả tấm ḷng sùng tín của
họ, mà họ dâng lên với tất cả tấm ḷng nhiệt thành và hảo ư, lại bị lệ thuộc
nơi một sự kiện mà họ không thể hay biết chi cả!
Ḷng sùng tín mới là điều đáng kể,
và nó luôn luôn được đáp lại. Cái xá lợi chẳng
qua chỉ là một trung tâm điểm để cho ta trụ ḷng sùng tín vào đó mà thôi, và
một trung tâm điểm tưởng tượng cũng vẫn có đủ hiệu lực như bất cứ một trung
tâm điểm nào khác.
CÔNG VIỆC CỦA CÁC ĐỆ TỬ
Trước đây, tôi có nói rằng các đệ tử Chân Sư cũng là những người tập sự ở
cơi hạ giới, họ được sử dụng như những trạm di chuyển thần lực, và cũng làm
nhiều công việc trong mọi nghành hoạt động của nền văn minh nhân loại, tất
cả những hoạt động này đều là một phần công việc của Chân Sư trên thế gian.
Một phần lớn những công việc này cũng được thực hiện bởi những người thế
gian đă từng hấp thụ được những nguồn cảm hứng hoặc tấm gương lành của những
vị đệ tử: hoặc bởi những hội hay cơ quan mà các vị đệ tử đă giúp công xây
dựng và giúp ảnh hưởng tinh thần. Thật ra, nhân loại sẽ bị thiệt tḥi nếu
không có những ảnh hưởng này, mặc dầu họ không hề hay biết chi cả về cái
nguồn gốc đă tạo nên những ảnh hưởng tốt đẹp đó.
Các Chân Sư không thể bỏ phế những công việc vĩ
đại của các Ngài để làm những công việc thấp thỏi hơn và dễ dàng hơn như đă
kể trên, v́ nếu các Ngài làm như thế, th́ toàn thể cơ tiến hóa sẽ bị thiệt
hại không ít.
Thí dụ, đôi khi có người hỏi tại sao các Chân
Sư không viết sách? Họ quên rằng các Chân Sư đang đảm nhiệm cả một cuộc tiến
hóa của nhân loại trên thế gian. Các Ngài không thể bỏ phế công việc lớn lao
đó để viết sách nói về một phần nào mà thôi của cái đại cuộc chung. Thật ra,
nếu Chân Sư có thời giờ để viết sách và dùng hết năng lực của Ngài vào công
việc đó, th́ quyển sách ấy chắc là phải hay hơn nhiều bất cứ quyển sách nào
của người thế gian. Nhưng nếu ở đời, tất cả mọi việc đều phải để cho những
bậc Toàn Năng làm hết, th́ chúng ta sẽ không có cơ hội nào để sử dụng những
khả năng của ḿnh và đời sống của chúng ta ở thế gian sẽ không có ích lợi ǵ
nữa!
Một ngành hoạt động đă được các đệ tử Chân Sư
tổ chức trên một quy mô rộng lớn trong thời gian gần đây, là việc phụng sự
một cách thực tế trên cơi Trung Giới, mà tôi đă nói đến trong quyển sách "Những
Đấng Cứu Trợ Vô H́nh". Phần quan trọng nhứt trong công việc này là giúp
đỡ những người vừa mới chết, khi bước qua cơi Trung Giới họ thường bị hoang
mang, bỡ ngỡ, lạc loài và có khi đau khổ, nhứt là v́ thuở sanh tiền họ đă bị
sợ hăi, dọa nạt v́ những chuyện quái đản rùng rợn về việc tra tấn kềm kẹp
người chết dưới cơi Âm Ty, do những giả thuyết sai lầm của một vài tôn giáo.
Tuy công việc này được nêu ra từ mấy chục năm
về trước, nhưng chỉ có trong Hội Thông Thiên Học là nhóm Cứu Trợ Vô H́nh
được thành lập có tổ chức và bắt tay vào việc. Lúc đầu, nhóm này c̣n có
những người c̣n sống, quyết định dùng thời giờ của ḿnh trong giấc ngủ của
Thể Xác để làm công việc đó; nhưng không bao lâu, họ quy tựu chung quanh họ
một số đông những người đă chết nhưng chưa hề nghĩ đến công việc này bao
giờ.
Trước đó, những người mới bước qua cơi Trung
Giới phần nhiều đều tự xoay sở lấy, trừ phi họ được thân nhân tiếp đón và
d́u dắt họ trong cuộc đời mới ở bên kia cửa Tử. Thí dụ, một người mẹ đă chết
vẫn c̣n trông nom những đứa con c̣n sống, và nếu một thời gian sau, có đứa
con nào chết th́ người mẹ sẽ giúp đỡ người ấy bằng đủ mọi cách mà bà ấy có
thể. Thường th́ những người tốt bụng trong số những người đă chết sẽ giúp
cho những người khác những điều kinh nghiệm và hiểu biết của họ khi cần phải
giúp đỡ. Trong những nền văn minh cổ, mà người ta có tập quán sống chung
trong đại gia đ́nh th́ ít khi người ta không gặp một thân nhân cần đến sự
giúp đỡ ở bên kia cửa Tử. Những kinh sách Ấn Độ thường nói đến tầm quan
trọng của sự liên hệ gia đ́nh, và những bổn phận cùng sự liên lạc trong gia
đ́nh vẫn c̣n tiếp tục trong những cơi vô h́nh sau khi chết. Đại khái, t́nh
trạng ở cơi Trung Giới cũng giống như một xứ không có bệnh viện, trường học,
hay công sở chi cả, nơi đó có nhiều người bị đau khổ, và trong những thời kỳ
tai biến hay chiến tranh, th́ sự đau khổ ấy c̣n tăng lên rất nhiều.
SỰ CỐ GẮNG CỦA MỖI THẾ KỶ
Phương pháp hoạt động của các Chân Sư để cải
tiến nền văn minh nhân loại đă được nêu ra trong những bài diễn thuyết của
bà Annie Besant tại Luân Đôn hồi năm 1907, trong đó bà có nói về những biện
pháp mà Quần Tiên Hội đă dùng để giúp cho Âu Châu thoát ra khỏi thời kỳ hắc
ám của thời Trung Cổ. Bà nói rằng hồi thế kỷ 13, một đấng Cao Cả sống bên
Tây Tạng đă công bố một nhựt lịnh của Ngài cho Quần Tiên Hội, định rằng
trong khoảng 25 năm cuối cùng của mỗi thế kỷ một cố gắng phải được thực hiện
để giúp đỡ sự tiến bộ cho Âu Châu. Nh́n vào lịch sử, chúng ta thấy rằng từ
đó về sau, vào khoảng cuối cùng của mỗi thế kỷ, lại có xảy ra một việc hệ
trọng để đem lại một tia ánh sáng mới do Quần Tiên Hội ban bố cho nhân loại.
Một học giả Thông Thiên Học là Ông Fritz Kunz đă ghi chép sự kiện này trong
bản lược đồ sau đây:
CHỮ VẼ TRANG 50 TRONG SÁCH, COI LẠI.
PHẦN
HAI
Trong các cố gắng kể trên th́ cố gắng cuối cùng
là việc thành lập Hội Thông Thiên Học vào năm 1875. Sau khi xem xét kỹ
lưỡng, các đấng Chân Sư Morya và Kuthumi mới đảm nhiệm trọng trách này, và
chọn nhà lănh đạo cao quư của chúng ta là bà Blavastky để hợp tác với các
Ngài ở cơi Trần. Phần nhiều những người đọc sách vở T.T.H. đều biết rơ về
giai đoạn bà được chuẩn bị để lănh sứ mạng cao cả. Sau cùng bà được Quần
Tiên Hội gởi sang Mỹ để gặp đại tá Olcotgit, người đồng chí sẽ cùng cộng tác
với bà và bổ khuyết những đức tánh mà bà thiếu sót: đó là khả năng tổ chức
và quy tựu quần chúng trong một phong trào, mới ở thế gian. Hội Thông Thiên
Học lúc đầu được thành lập tại New York, và về sau mới dời trụ sở sang Ấn
Độ.
Khi tôi viết quyển sách này, Hội Thông Thiên
Học đă hoàn thành vừa đúng 50 năm phụng sự nhân loại, và sự ích lợi mà nó
đem đến cho mọi ngành sinh hoạt của con người, thật ra không thể đo lường.
Ảnh hưởng tốt đẹp của nó không thể đo lường bằng số hội viên hay chi bộ
nhiều ít, mặc dầu điều này cũng là một yếu tố đáng kể, v́ Hội bành trướng
ảnh hưởng đều khắp mọi nơi trên thế giới. Nhưng trên mỗi lănh vực hoạt động
của xă hội, Hội Thông Thiên Học đều có gây một tiếng chuông đặc biệt, nó
vang dội khắp chung quanh chúng ta dưới h́nh thức những lời nói và việc làm
của những nhà chánh trị, nhà bác học, văn hào, nghệ sĩ và nhiều nữa, trong
số đó có rất nhiều người có lẽ chưa từng bao giờ nghe nói đến danh từ Thông
Thiên Học. Hội Thông Thiên Học đă làm cho người đời chú ư đến sự thật của
cơi giới vô h́nh và quyền năng của tư tưởng. Hội đă nêu ra t́nh huynh đệ đại
đồng, nó không chủ trương rằng mọi người đều phải giống nhau trong sự sinh
hoạt hằng ngày, nhưng chủ trương sự khoan dung và thông cảm lẫn nhau giữa
những cá nhân hoàn toàn khác biệt nhau về mọi mặt. Trong sự khác biệt đó,
mỗi người đều vẫn giữ cái sắc thái riêng biệt của ḿnh, và tất cả đều liên
lạc chặt chẽ với nhau do một cái tinh thần bất diệt, là sự tôn trọng tự do
của người khác biệt với ḿnh. Hội Thông Thiên Học đă làm cho Tây Phương và
Đông Phương ḥa hợp với nhau hơn bao giờ hết kể từ trước đến giờ. Nó đem sự
công b́nh sáng suốt trong việc học hỏi so sánh các tôn giáo, và tiết lộ với
một sự rơ ràng minh bạch, sự thống nhứt giáo lư và nguồn gốc chung của tất
cả những tôn giáo. Ngoài ra, Hội c̣n đem hằng ngàn người đến gần các đấng
Chân Sư để phụng sự các Ngài với tất cả khả năng và ḷng thành của họ, nhằm
mục đích đem hạnh phúc cho nhân loại trong những thế hệ tương lai.
CÁC GIỐNG DÂN
Trong công việc giúp đỡ thế gian, Quần Tiên Hội
không những chỉ lo về hiện tại mà thôi, mà c̣n nh́n xa về tương lai, và
chuẩn bị sự tiến hóa của những giống dân và quốc gia mới, trong đó những đức
tánh của một nhân loại tương lai sẽ được phát triển một cách tuần tự và điều
ḥa. Như chúng ta sẽ thấy ở chương 13, sự tiến bộ của nhân loại không phải
diễn ra trong sự ngẫu nhiên t́nh cờ. Trái lại, sự thành lập các Giống Dân,
với những đặc tính của nó, đặc tính về thể chất, t́nh cảm và trí tuệ, cũng
có trật tự rơ ràng, nhứt định chẳng khác nào như chương tŕnh học tập và
thời khắc biểu của những trường đại học tối tân.
Giống Dân Aryen, mặc dầu chưa đến thời kỳ cực
thịnh, nó đang ngự trị khắp thế giới hiện nay với cái trí tuệ thông minh kỳ
diệu của nó, đă nối tiếp theo sau Giống Dân Atlante, một chủng tộc hiện vẫn
c̣n gồm đa số nhân loại và chiếm một phần lớn đất đai trên quả địa cầu.
ĐỨC CHƯỞNG GIÁO LÂM PHÀM
Về vấn đề này, hiện nay có ba công tŕnh lớn
đang được thực hiện. Công tŕnh thứ nhứt là việc chuẩn bị lâm phàm của đức
Bồ Tát Chưởng Giáo, Ngài cũng là đấng Christ, đă từng mượn xác của Jésus để
nhập thế cách đây hai ngàn năm. Chúng ta không nên lầm lộn việc lâm phàm của
Ngài với những hiện tượng xảy ra ở mỗi thế kỷ như đă nói ở trên. Những hiện
tượng đó thuộc về Cung 1, phần công việc huyền bí của cung này là d́u dắt sự
tiến hóa của các Giống Dân chánh và các Chủng Chi, c̣n việc làm phàm của đức
Chưởng Giáo là một việc lâu lắm mới xảy ra có một lần và thuộc về Cung 2,
coi về ngành hoạt động Tôn Giáo và Giáo Dục.
Đức Chưởng Giáo hiện nay sắp xuất hiện dưới thế
gian, và chúng ta có thể hy vọng sẽ thấy những sự biểu lộ càng ngày càng
tăng của Quyền Năng, Minh Triết và Ư Chí của Ngài.
Điểm Chân lư chánh đại mà Ngài sẽ nhấn mạnh là:
những đau khổ của thế gian đều do bởi sự thiếu t́nh thương và t́nh huynh
đệ giữa loài người.
Nếu con người biết thương yêu nhau và đối xử với nhau t́nh huynh đệ thân
hữu, th́ mọi điều ác đều tiêu trừ và một hoàng kim thời đại sẽ đến với chúng
ta.
CHỦNG CHI (+)[v]THỨ
SÁU
Công tŕnh thứ hai là tạo nên h́nh thể, t́nh
cảm và trí tuệ của Chủng
Mỹ
và Châu Úc, và ở vài nơi khác trên thế giới. Quyền năng của đức Bàn Cổ hiện
đang được sử dụng trên những cơi cao để làm công việc này. Ngài dùng ư chí
và trí tuệ để nhồi nắn, sửa đổi h́nh thể, sắc tướng của những trẻ sơ sinh
của thời đại mới. Đồng thời, những nhân viên trẻ tuổi của Quần Tiên Hội hiện
đang hoạt động ở thế gian cũng được chỉ thị của các Ngài để giúp đỡ cho
những thiếu nhi ấy sự giáo dục và huấn luyện thích nghi với Giống Dân mới.
Công việc này mới chỉ bắt đầu, nhưng sẽ trở nên
rất quan trọng trong tương lai. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi của vài thế
kỷ, Chủng Chi thứ sáu sẽ xuất hiện rơ rệt trên thế gian mới với sự trẻ
trung, tốt đẹp và rực rỡ của nó, trong khi thế giới cũ vẫn tiếp tục phát
triển Chủng Chi thứ 5 cho đến mức hoàn toàn tuyệt mỹ.
GIỐNG DÂN CHÁNH THỨ SÁU
Công tŕnh thứ ba là việc thành lập Giống Dân
thứ 6, Giống dân này sẽ xuất hiện bên xứ California (Hoa Kỳ) vào khoảng độ
700 năm sau. Khi đó, một thiểu số người sẽ thiết lập tại xứ ấy, dưới sự điều
khiển của đức Bàn Cổ. Giống Dân thứ 6, tức là đức Chân Sư Morya hiện nay, và
cùng hợp tác với Ngài sẽ có đức Chân Sư Kuthumi, tức là vị Bồ Tát của Giống
Dân thứ 6, chúng tôi có viết về thiểu số dân tộc này trong quyển “Con
người: Từ đâu đến, và sẽ đi về đâu”. Mặc dầu việc này c̣n đến 700 năm
nữa mới thực hiện, nhưng chúng ta biết rằng cuộc chuẩn bị cho công việc đó
hiện nay cũng đă bắt đầu và Hội Thông Thiên Học cũng đóng một vai tṛ quan
trọng trong công tŕnh ấy.
Mỗi Chi Bộ của Hội Thông Thiên Học nên khuyến
khích hội viên hăy cố gắng áp dụng ở ngoài thế gian những sự hiểu biết về
Thông Thiên Học mà họ đă thu thập được… Trong mỗi Chi Bộ, hội viên nên tập
lấy đức tánh rộng răi cởi mở, nhờ đó họ sẽ nhận được một nền giáo dục về
tinh thần huynh đệ mà người ta không t́m thấy được ở ngoài thế gian. Phần
nhiều những Hội khác ở ngoài đời đều nhằm thực hiện một mục đích nhất định
nào đó, nhưng trong Hội Thông Thiên Học chúng ta biết rằng mặc dầu có người
thiên về một lư tưởng, và người khác thiên về một lư tưởng khác, nhưng t́nh
huynh đệ trong nhân loại không thể thực hiện bởi sự độc tôn của một lư tưởng
duy nhứt nào, dầu đó là Bác Ái, hay Chân Lư, hay Mỹ Lệ,v.v… mà bởi sự ḥa
hiệp chung của tất cả những lư tưởng đó làm một, nó sẽ đưa con người đến gần
chỗ Thiêng Liêng.
Đó tức là cái tinh thần huynh đệ đại đồng mà
người Thông Thiên Học sẽ lần lần thu thập được; y sẽ bắt tay ḥa hợp với
người đồng loại, không phải do sự ép buộc từ bên ngoài, mà do sự thúc đẩy
bên trong. Làm một người hội viên Thông Thiên Học tức là được sự huấn luyện
của các Chân Sư và nếu người ấy thành công, y sẽ có đủ điều kiện để được đầu
thai vào nhóm người tiền phong của Giống Dân này bắt đầu xuất hiện trên thế
gian.
CHƯƠNG XII
NHỮNG VỊ
ĐẾ QUÂN VÀ CÁC CUNG
NHỮNG VỊ ĐẾ QUÂN
Trong chương vừa rồi, tôi đă diễn tả đại khái
vài ngành hoạt động của các đấng Chân Sư, nhưng tự nhiên là c̣n nhiều ngành
hoạt động khác nữa mà chúng ta không biết được ǵ cả. Tuy nhiên, bấy nhiêu
đó cũng chứng minh rằng công việc của các Ngài rất lớn lao và bề bộn, và các
Chân Sư thực hiện những công việc đó bằng nhiều phương pháp khác nhau, tùy
theo những tánh chất và sở thích riêng của các Ngài.
Vạn vật trong Vũ Trụ đều biểu lộ xuyên qua Bảy
Cung. Trong Quần Tiên Hội, th́ bảy Cung xuất hiện rơ ràng nhứt. Cung 1, tức
là Cung Uy Quyền, do đức Ngọc Đế cai quản. Cầm đầu cung 2 là Đức Phật, và ở
cấp đẳng dưới hai đấng ấy là đức Bàn Cổ (Manu),và
đức Bồ Tát (Bodhisatva) của Giống
Dân đang ngự trị trên thế gian vào một thời kỳ nhứt định. Đồng một cấp đẳng
với hai vị này là đức Văn Minh Đại Đế (Machachohan).Ngài
chỉ huy tất cả 5 Cung sau cùng, mỗi Cung này cũng đều có một vị cầm đầu.
Trong chương sau, tôi sẽ cố gắng giải thích về những cấp đẳng cao hơn trong
Quần Tiên Hội, và dành Chương này để nói về công việc của những đấng Cao Cả
cầm đầu các Cung.
Cấp đẳng Đế Quân (Chohan)
là để chỉ những đấng Cao Cả đă có sáu lần Điểm Đạo, danh từ ấy cũng để chỉ
những đấng Chân Sư cầm đầu các Cung, và nắm giữ những chức vụ cao cả và nhứt
định trong Quần Tiên Hội.
BẢN LƯỢC ĐỒ CÁC CUNG
Nói về đề tài các Cung là một điều rất khó.
Cách đây đă lâu, chúng tôi có nhận được ít nhiều tài liệu nói về các Cung,
tuy vẫn c̣n rất thiếu sót, nhưng rất có giá trị. Tôi c̣n nhớ trong dịp nào
chúng tôi được những tài liệu này. Hồi ấy, tôi cùng với Ông Cooper Oakley và
một vị sư huynh người Ấn Độ đang ngồi nói chuyện trên nóc trụ sở Hội Thông
Thiên Học tại Adyar, trong thuở ban đầu của Hội Thông Thiên Học. Th́nh ĺnh
chúng tôi thấy Chân Sư Djwal Kul, vị này hồi đó c̣n là cao đồ của đức Chân
Sư Kuthumi, xuất hiện đến với chúng tôi. Thuở ấy, Ngài dạy chúng tôi học hỏi
rất nhiều, và luôn luôn có một thái độ ưu ái và kiên nhẫn. Hôm đó, trong khi
Ngài ngồi nói chuyện với chúng tôi, th́ vấn đề các Cung được nêu ra. Ông
Cooper Oakley nói: “Bạch Sư Phụ, xin Ngài dạy cho chúng con biết tất cả về
vấn đề các Cung”.
Ngài chậm răi đáp: “Tôi không thể nói
hết tất cả về các Cung cho quư vị
nghe, trước khi quư vị đạt tới một tŕnh độ Điểm Đạo rất cao. Vậy quư vị có
bằng ḷng nhận lănh những ǵ tôi có
thể nói ngay bây giờ, nó sẽ rất thiếu sót và tất nhiên là dễ lầm lạc,
hay là quư vị sẽ đợi cho đến khi được truyền thụ hết tất cả về vấn đề này?”
Lẽ tự nhiên chúng tôi nghĩ rằng thà lấy nửa ổ
bánh ḿ c̣n hơn là không có ổ nào, nên bèn nói rằng chúng tôi xin thụ giáo
những ǵ chúng tôi có thể lănh hội được. Chúng tôi mới ghi chép những tài
liệu rất lư thú mà Ngài nói cho nghe, nhưng phần nhiều rất là khó hiểu, đúng
như Ngài đă nói trước. Ngài nói: “Tôi không thể tiết lộ cho quư vị nghe
nhiều hơn nữa, v́ tôi đă có lời thệ nguyện. Nhưng nếu quư vị có thể dùng
trực giác để hiểu được nhiều hơn bấy nhiêu đó.Tôi sẽ nói cho quư vị đă hiểu
đúng hay không”. Nhưng, dẫu cho bấy nhiêu tài liệu c̣n khiếm khuyết nó cũng
có giá trị rất lớn đối với chúng tôi.
Bản Lược đồ dưới đây là bản lược đồ các Cung và
Đặc tính của các Cung, mà Chân Sư đă truyền cho chúng tôi.
Ngài giải thích rằng mỗi tôn giáo đồi diện với
mỗi Cung không nhất thiết có nghĩa là nó hoàn toàn tiêu biểu cho Cung đó, mà
chỉ là một di tích c̣n sót lại trên trái Đất, của một cơ hội cuối cùng do đó
Cung ấy đă gieo ảnh hưởng mạnh mẽ trên thế gian. Trong bản Lược đồ, khoảng
Pháp Môn của Cung 1 và Đặc tính
của Cung 7 bị bỏ trống. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng
Pháp Môn của Cung 1 là “Quyền
năng của Ư Chí” (Kriya shakti), và Đặc tính của Cung 7 là “Hợp
tác với các cấp đẳng Thiên Thần”.Ư nghĩa câu “Horas
giáng sinh” không được giải thích rơ, nhưng một trong những đặc tính của
Cung 4 là việc sử dụng các sức mạnh âm dương trong thiên nhiên.
Sự phát triển thực sự của Cung 7 là giao tiếp
với những bậc Đại Thiên Thần.
H̀NH VẼ
ĐẶC TÍNH MỖI CUNG,TRANG TRONG SÁCH PHẦN 2 LÀ SỐ 57
Như thế, chúng ta thấy rằng những tài liệu mà
chúng ta thu thập được về vấn đế các Cung, hăy c̣n rất thiếu sót. Theo chỗ
tôi được biết, th́ vấn đề này từ trước đến giờ chỉ được nói đến rất ít, và
cái phần rất ít này cũng chỉ được tŕnh bày một cách úp mở và che đậy để cho
người đọc không thể hiểu ngay một cách rơ ràng. Những vị Chân Sư đều tỏ ra
rất kín đáo và dè dặt khi có người hỏi các Ngài về vấn đề ấy.
CON SỐ BẢY TRONG VŨ TRỤ
Một điều quan trọng mà ta nên nhớ là vạn vật
trong Vũ Trụ dầu ở cơi giới vô h́nh hay cơi vật chất hữu h́nh, đều được sắp
hạng và phân loại theo các quy mô của số Bảy. Tất cả mọi h́nh thức sinh hoạt
trong Dăy Hành Tinh hiện tại đều thuộc về một trong 7 Cung, và mỗi Cung lại
chia ra làm 7 phân bộ. Trong Vũ Trụ có tất cả 49 Cung như thế, gồm lại làm
Bảy Bộ, mỗi Bộ chia làm Bảy Cung. Bảy Bộ tức là Bảy Đại Vũ Trụ Cung (Seven
Great Comic Rays) biểu lộ xuyên qua Bảy Vị Huyền Thiên Thượng Đế (Seven
great Logoi).
Tuy nhiên trong Dăy Hành Tinh của chúng ta hiện nay,
và có lẽ trong cả Thái Dương Hệ, chỉ có một trong những Đại Vũ Trụ Cung là
đang hoạt động, và những phân bộ của nó tức là Bảy Cung của chúng ta. Chúng
ta đừng tưởng rằng Thái Dương Hệ của chúng ta hiện nay là sự biểu lộ duy
nhứt của đấng Huyền Thiên Thượng Đế v́ mỗi vị Huyền Thiên Thượng Đế có thể
cai quản đến hằng triệu Thái Dương Hệ dưới tay Ngài. Về vấn đề này, tôi đă
giải thích trong quyển “Đời sống Siêu
Linh” (The Inner Life):
“Toàn thể Thái Dương Hệ của chúng ta là sự Biểu
Lộ của đức Thái Dương Thượng Đế, và mỗi một vi tử nhỏ trong đó đều là một
phần trong các thể của Ngài. Tất cả vật chất hồng trần trong Thái Dương hệ
gồm lại thành Thể Xác của Ngài; Toàn thể chất Trung Giới trong Thái Dương Hệ
gồm lại thành Thể Vía của Ngài; toàn thể chất Thanh Khí ở cơi Thượng Giới
gồm lại thành Thể Trí của Ngài v.v… Hoàn toàn ở trên và ở ngoài ṿng Thái
Dương Hệ, Ngài c̣n có một sự sinh hoạt rộng lớn và bao la hơn nhiều, nhưng
điều này không thể ảnh hưởng một chút nào đến sự thật của điều mà tôi vừa
tŕnh bày ở trên.
Đức Thái Dương Thượng Đế bao gồm luôn cả Bảy Vị
Đại Tinh Quân (Seven Planetary
Logoi), những vị này đều là những trung tâm Thần Lực của Ngài, những
đường vận hà xuyên qua đó Thần Lực của Ngài được ban rải ra. Đồng thới có
một ư nghĩa theo đó người ta có thể hiểu rằng những vị ấy đều gồm thành phần
của Ngài. Những thứ vật chất mà chúng tôi vừa miêu tả như là gồm thành phần
các Thể của Ngài, đồng thời cũng gồm cả trong Thể của những vị Đại Tinh Quân
ấy, v́ không có một điểm nhỏ vật chất nào trong Thái Dương Hệ mà không gồm
thành phần các Thể của một trong các vị Đại Tinh Quân. Điều này cũng áp dụng
cho tất cả Cơi giới khác nhau trong Thái Dương Hệ, nhưng chúng tôi xin tạm
lấy ví dụ Cơi Trung Giới để giải thích, v́ vật chất của Cơi này khá uyển
chuyển để ứng đáp nhu cầu của cuộc thí nghiệm sưu tầm của chúng tôi và đồng
thời nó cũng gần nhứt với Cơi Hồng Trần để không phải là hoàn toàn ngoài
phạm vi hiểu biết của chúng ta.
Một vi tử vật chất Trung Giới trong Thái Dương
hệ là một phần Thể Vía của một trong Bảy vị Đại Tinh Quân. Chúng ta nên nhớ
rằng nó cũng là chất Trung Giới do đó Thể Vía của chúng ta được cấu tạo nên.
Chúng ta không có phần vật chất nào là hoàn toàn của riêng chúng ta. Trong
mỗi Thể Vía, đều có những vi tử vật chất thuộc về một trong Bảy vị Đại Tinh
Quân, nhưng cái tỷ lệ vật chất đó khác biệt nhau đến vô cùng tận. Những Thể
mà mỗi Chơn Thần khoác lấy kể từ lúc khởi thủy, khi nó xuất hiện xuyên qua
một vị Đại Tinh Quân nhứt định, sẽ tiếp tục gồm có nhiều vi tử của đơn vị ấy
hơn là của vị nào khác trải qua một thời kỳ tiến hóa của nó.
Bởi đó người ta có thể phân biệt được một người
thuộc về một Cung nào trong Bảy Cung, tiêu biểu cho Bảy loại Quyền Năng Cao
Cả.
BẢY VỊ ĐẠI TINH QUÂN
Nói theo danh từ của Đạo Gia Tô, Bảy đấng Cao
Cả này đă xuất hiện trong cơn “linh ảnh” (vision) của Thánh Jean. Ngài nói:
“Có Bảy ngọn Đèn thắp rước Ngài, đó là Bảy vị Đại Thiên Thần của Chúa Trời”
(Khải Huyền IV,5.)
Bảy vị đó là Bảy vị Đại Tinh Quân, chính là
những trung tâm thần lực của Thượng Đế vậy. Đó là những vị cầm đầu các Cung
của chúng ta,
những vị Chưởng Cung của toàn thể Thái Dương
Hệ, chớ không phải của quả Địa Cầu chúng ta mà thôi. Từ lúc khởi thủy mỗi
người trong chúng ta đă từng xuất hiện xuyên qua một vị trong Bảy vị Đại
Tinh Quân đó, có người thuộc về vị này có người thuộc về vị khác.
Tất cả chúng ta luôn luôn đứng trước sự hiện
diện của đức Thái Dương Thượng Đế, v́ trong Thái Dương Hệ, không có nơi nào
mà không có Ngài, và tất cả mọi sinh vật đều là một phần của Ngài. Nhưng
theo một ư nghĩa đặc biệt, Bảy vị Đại Tinh Quân là những phần tử của Ngài,
là sự biểu lộ của Ngài, hầu như là những đức tính của Ngài- tức là những
trung tâm xuyên qua đó Thần Lực của Ngài được ban rải ra. Chúng ta có thể
thấy cái ư nghĩa đó do những tên mà người Do Thái đặt cho Ngài. Vị Tinh Quân
thứ nhứt gọi là Thiên Thần Michael,
danh từ này có nghĩa là “Sức mạnh của Thượng Đế”, và có liên hệ đến bầu Hỏa
Tinh. Thiên Thần Gabriel có nghĩa
là “Toàn Trí của Thượng Đế” và liên hệ đến bầu Thủy Tinh. Thiên Thần
Raphael có nghĩa là “Quyền năng
của Thượng Đế” và liên hệ đến ngôi Mặt Trời, là bầu Tinh Tú ban bố sức khỏe
và sinh lực cho muôn loài ở thế gian. Thiên Thần
Uriel có nghĩa là “Ánh Sáng của
Thượng Đế” . Thiên Thần Zadkiel
nghĩ là “Hảo ư của Thượng Đế” và liên hệ đến Mộc Tinh. C̣n những vị Thiên
Thần khác tên là Chamuel và
Jophiel,nhưng hiện nay tôi không nhớ ư nghĩa của những tên đó cùng tên
những bầu hành tinh liên hệ.
Thánh Denis gọi Bảy vị Đại Thiên Thần là những
nhà Tạo Tác Thiêng Liêng, và nhựng vị Hợp Tác cao cả của Thượng Đế. Thánh
Augustine nói rằng các Ngài nắm giữ Tư Tưởng của Thượng Đế hay Kiểu Mẫu
Tuyệt đích (Prototype). Thánh Thomas Aquinas th́ viết rằng Thượng Đế là
Nguyên Nhân chính, c̣n những vị Đại Thiên Thần là những Nguyên Nhân phụ của
tất cả mọi kết quả hiển hiện trên thế gian. Mọi sự đều do Thượng Đế sáng
tạo, nhưng qua sự trung gian của các vị Đại Tinh Quận, hay Đại Thiên Thần.
Khoa học tuyên bố rằng những bầu hành tinhđều
là do sự kết tinh ngẫu nhiên của vật chất, sự đông đặc của khối Tinh Vân,
t́nh cờ mà tạo nên. Quả thật có như vậy, nhưng tại sao sự kết tinh đó lại
diễn ra chung quanh những điểm nhứt định trong không gian? Đó là bởi v́ ở
đằng sau mỗi Hành Tinh đều có một đấng Cao Cả chọn lựa những điểm đó để cho
những hành tinh chuyển vận trên thế quân b́nh. Mọi sự vật sở dĩ có đều do
kết quả của những sức mạnh tự nhiên hành động theo những định luật của Vũ
Trụ, nhưng chúng ta đừng quên rằng đằng sau mỗi sức mạnh luôn luôn có một
đấng Thiêng Liêng cai quản d́u dắt, và chỉ huy. Tôi đă dùng những danh từ
của Gia Tô Giáo để diễn tả những đấng ấy, nhưng người ta cũng có thể t́m
thấy các Ngài dưới những danh hiệu khác nhau trong tất cả những Tôn Giáo
lớn.
BẢY HẠNG CHÚNG SINH TRONG MUÔN LOÀI
Khi cái vật chất sơ khai hay cái tinh thần
nguyên thủy bắt đầu xuất hiện từ chỗ Vô Cực để tiến hóa và trong tương lai
sẽ trở nên con người như chúng ta, nó xuất phát xuyên qua Bảy con đường vận
hà, cũng như nước trong hồ chảy xuyên qua bảy ống dẫn nước, mỗi ống dẫn có
chứa đựng sẵn một thứ màu sắc riêng, sẽ nhuộm chất nước chảy xuyên qua ống
ấy để cho sau này chất nước ấy sẽ có thể phân biệt được với chất nước chảy
xuyên qua những ống khác.
Xuyên qua tất cả các loài, từ loài tinh hoa
chất, khoáng chất, thảo mộc, cầm thú, th́ các Cung đều luôn luôn phân biệt
khác nhau rơ rệt cũng như trong loài người, tuy rằng trong những loài thấp
kém hơn, ảnh hưởng của mỗi Cung tự nhiên hành động một cách khác nhau. V́
những loài này chưa có một cá tính hay một linh hồn riêng biệt, nên toàn thể
một giống thú chẳng hạn phải là thuộc về một Cung. Như thế, những loài thú
vật khác giống có thể được sắp hạng theo Bảy loại tùy theo chúng thuộc về
Cung nào. V́ một con thú chỉ có thể thoát kiếp thú thành người nhờ sự tiếp
xúc với người, nên đứng đầu mỗi Cung, có một loại thú nhà làm tiêu biểu, và
mọi sự thoát kiếp thành người trên một Cung đặc biệt nào đều phải đi xuyên
qua loại thú nhà nói trên. Những loại “thú nhà” đó, điển h́nh là Voi, Chó ,
Mèo, Ngựa và Khỉ. Như vậy, cái sức Sinh Hoạt Đại Đồng trong Vũ Trụ nó tạm
thời biểu lộ nơi một con chó chẳng hạn không thể nào chuyển qua một con ngựa
hay con mèo, mà sẽ tiếp tục biểu lộ xuyên qua loài chó cho đến khi diễn ra
sự thoát kiếp thú để thành người.
Hiện thời chưa có việc sưu tầm để quy định mỗi
Cung cho những loài thú và loài thảo mộc, nhưng tôi đă sưu tầm về các loại
ngọc thạch và đă nhận thấy rằng mỗi Cung đều có một thứ ngọc thạch làm tiêu
biểu, xuyên qua đó ảnh hưởng của Cung ấy biểu lộ rơ rệt hơn là xuyên qua
loại ngọc thạch khác.
H̀NH VẼ
CUNG NGỌC THẠCH PHẦN HAI TRANG 62 TRONG SÁCH.
Trên đây là bản lược đồ chỉ loại Ngọc Thạch
đứng đầu mỗi Cung, và những loại khoáng chất này cũng có hàm xúc một thứ
mănh lực giống như loại Ngọc Thạch đồng Cung, mặc dầu yếu hơn.
Theo những điều tôi đă tŕnh bày, chúng ta thấy
rằng trong loài Người, có đủ Bảy hạng rơ rệt, và mỗi người trong chúng ta
đều thuộc về một Cung nhứt định. Người ta vẫn luôn luôn nh́n nhận rằng trong
loài người, thường có sự khác biệt căn bản như thế. Cách đây một thế kỷ,
người ta đă từng phân hạng loài người như là thuộc về tánh chất nồng nhiệt,
hay lănh đạm, bạch huyết chất hay đa huyết chất; và các nhà Chiêm Tinh học
sắp hạng chúng ta theo tên các Hành Tinh như người thộc Mộc Tinh, Hỏa Tinh,
Kim Tinh, Thổ Tinh, Thủy Tinhv.v…
Tôi cho rằng đó chỉ là những phương pháp khác
nhau để tŕnh bày sự khác biệt căn bản về tính chất con người do bởi những
đường vận hà khác nhau xuyên qua đó chúng ta đă xuất hiện trên cơi thế gian.
Tuy nhiên, không phải dễ ǵ mà t́m ra Cung của
một người thường, v́ y đă đi sâu vào vật chất và tạo nên rất nhiều nghiệp
quả phức tạp, nhưng nghiệp quả này có thể một phần nào chế ngư và chi phối
cái đặc tánh của y, có khi trong cả một kiếp. Trái lại người đi trên đường
Đạo biểu lộ rơ rệt một ư chí nhứt định, hay một quyền năng đặc biệt, nó có
cái đặc tính riêng thuộc về Cung của y, và nó có khuynh hướng đưa y vào con
đường hoạt động hay công việc phụng sự thuộc về Cung đó. Cái ư chí đó cũng
đưa y đến gần một vị Chân Sư, để cho y bước vào cửa Đạo và khai mở những
quyền năng thuộc về Cung riêng của Ngài.
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP HÀNH ĐỘNG CỦA MỖI CUNG.
Để cho dễ hiểu những sự khác biệt giữa mọi hạng
người, tôi xin đưa ra một vài thí dụ về những phương pháp hành động mà những
người thuộc về những Cung khác nhau có thể áp dụng trong vài trường hợp đặc
biệt. Thí dụ như nói về việc sử dụng các phương tiện để đạt tới một kết quả
mong muốn. Người thuộc Cung 1 sẽ đạt mục đích bằng sức mạnh của ư chí mà
không thèm dùng đến những phương tiện nọ kia. Người thuộc Cung 2 cũng dùng
sức mạnh Ư Chí, nhưng với một sự hiểu biết đầy đủ về những phương pháp áp
dụng khác nhau, và điều khiển ư chí vào một phương pháp thích nghi nhứt.
Người thuộc về Cung 3 sẽ dùng những sức mạnh của cơi Trí tuệ, và ghi nhận
rất kỹ lưỡng ngày giờ nào mà mọi ảnh hưởng sẽ được thuận lợi nhứt cho cuộc
thành công của y. Người thuộc Cung 4 sẽ sử dụng những sức mạnh tinh vi của
chất dĩ thái hồng trần. Người thuộc Cung 5 có thể chuyển vận những luồng từ
điển thuộc cơi Trung Giới. Người thuộc Cung 6 sẽ đạt tới kết quả mong muốn
bằng sức mạnh của đức tin nơi một vị Thần Minh và tin nơi hiệu lực của sự
cầu nguyện. C̣n người thuộc Cung 7 sẽ dùng những nghi thức lễ bái, cúng tế,
và kêu gọi sự giúp đỡ của các hạng vong linh hay sự hợp tác của Thiên Thần.
Nói về việc chữa bịnh, th́ người Cung 1 sẽ rút
sinh lực và sức khỏe trong cái kho
mănh lực thiên nhiên của Trời Đất. Người Cung 2
sẽ t́m hiểu tỉ mỉ căn nguyên của chứng bịnh và biết rơ cách dùng ư chí của
ḿnh để chữa bịnh một cách có hiệu quả. Người Cung 3 sẽ kêu gọi đến sự hộ
trợ của các đấng Đại Tinh Quân và chọn ngày giờ mà ảnh hưởng các vị Tinh Tú
sẽ thuận lợi cho việc chữa bịnh. Người Cung 4 sẽ tin cậy nơi những phương
tiện vật chất như cách thoa bóp chẳng hạn. Người Cung 5 sẽ dùng thuốc men.
Người Cung 6 sẽ dùng cách chữa bịnh bằng đức tin. C̣n người Cung 7 sẽ dùng
đến những cách niệm chân ngôn, thần chú.
Trong tất cả những trường hợp kể trên, người
chữa bịnh dĩ nhiên là được tự do sử dụng bất cứ phương pháp nào, nhưng có lẽ
y sẽ nhận thấy rằng cái khí cụ hữu hiệu nhất sẽ là cái phương pháp thuộc về
Cung riêng của y.
NHỮNG VỊ ĐẾ QUÂN ĐỨNG ĐẦU CÁC CUNG.
Những đấng Cao Cả trong Quần Tiên Hội biểu lộ
các Cung một cách rơ rệt, nó hiện rơ nơi hào quang của các Ngài. Khi một vị
Chân Sư thuộc về Cung nào nhất định, th́ Cung ấy ảnh hưởng không những đến
h́nh dáng bề ngoài của các Ngài, nó c̣n ảnh hưởng đến công việc của mỗi vị.
Chúng ta có thể thấy rơ những đặc tính của các Cung bằng cách quan sát công
việc của 5 vị Đế Quân thuộc về Cung 3 đến Cung 7 và của hai vị Đế Quân thuộc
Cung 1 và Cung 2.
Nên nhớ rằng chúng tôi chỉ tŕnh bày những nét
đại cương của những đức tính thuộc về mỗi Cung, và một phần công việc mà các
Chân Sư thuộc về những Cung đó đang làm. Ta cũng nên nhớ rằng khi một vị
Chân Sư có đủ những đức tính thuộc về một Cung nào, điều đó không có nghĩa
là Ngài thiếu những đức tính của những Cung khác. Thí dụ như một vị Chân Sư
thuộc về Cung 1 biểu lộ nhiều quyền lực và ư chí mạnh mẽ, nhưng đồng thời
Ngài cũng đă thực hiện đến mức tột điểm những đức tính khác như là ḷng sùng
tín, bác ái v. v…
Trước đây, tôi có nói ít nhiều về Chân Sư
Morya, vị đại diện cho Cung 1 trên cấp đẳng Đế Quân. Ngài biểu lộ
Ư Chí và
Quyền Lực của Cung 1 một cách rơ
rệt, trong công việc d́u dắt nhân loại và tạo nên các quốc gia, mà tôi sẽ
nói rơ hơn trong Chương sau. Cũng thuộc Cung này, có vị Chân Sư mệnh danh là
Jupiter nhân danh Quần Tiên Hội trông nom cho xứ Ấn Độ. Ngài cũng coi về
những ngành khoa học trừu tượng liên quan đến khoa Hóa Học và Thiên Văn.
Ngoài ra, Ngài c̣n d́u dắt sự tiến hóa của mỗi Chủng Chi thuộc Giống Dân thứ
5. Đó là một thí dụ cho ta thấy trong phạm vi của mỗi Cung những tầm hoạt
động có thể cách biệt và khác nhau như thế nào.
Chân Sư Kuthumi, kiếp trước vốn là đức Giáo Chủ
Pythagore cũng là một vị Đế Quân. Trên Cấp đẳng đó, Ngài đại diện cho Cung 2
là Cung Minh Triết, tức là Cung của những bậc Giáo Chủ của thế gian. Trong
Chương sau, tôi sẽ nói rơ hơn về công việc thuộc về Cung 2, có liên quan đến
công việc của đức Bồ Tát và Đức Phật. Tôi đă có nói về ḷng
Bác Ái và sự
Minh Triết huyền diệu của vị Chân
Sư mà tôi có cái diễm phúc và hân hạnh rất lớn để phụng sự và theo Ngài và
tất cả những ǵ tôi đă nói về cách Ngài dạy dỗ và huấn luyện đệ tử đều biểu
lộ đặc biệt cái phương pháp riêng của Ngài. Những vị Chân Sư khác thuộc về
các Cung khác cũng đều đưa các đệ tử của các Ngài lên đến một tŕnh độ như
nhau và giúp họ phát triển cũng bấy nhiêu đức tính giống nhau, nhưng các
phương pháp của các Ngài dùng đều khác biệt nhau rơ rệt. Ngoài ra, phương
pháp mà một vị Chân Sư dùng có thể thay đổi nhiều cách khác nhau tùy trường
hợp đối với mỗi vị đệ tử riêng biệt.
Đức Đế Quân Venitien là vị Chân Sư chưởng quản
Cung 3. Những người thuộc Cung này biểu lộ rơ rệt đức tính
uyển chuyển ḥa hợp với mọi người
và mọi hoàn cảnh. Những người tiến bộ nhiều trên Cung này rất là khôn khéo,
và đó là một đức tánh hiếm có để làm mọi việc đúng chỗ và đúng lúc. Khoa
Chiêm Tinh liên hệ đến Cung này, bởi v́ nó giúp cho ta biết rơ thời cơ thuận
tiện để khởi sự làm bất cứ công việc ǵ, để phát động mọi kế hoạch chuyển
vận những sức mạnh vào đúng lúc; nó cũng cho ta biết lúc nào là bất lợi để
làm một việc ǵ, nhờ đó chúng ta có thể tránh được nhiều sự phiền phức mất
thời giờ và làm việc một cách hữu hiệu hơn.
Cung 4 do Chân Sư Sérapis cai quản. Trong thuở
ban đầu của Hội Thông Thiên Học, chúng ta được nghe nói nhiều về Ngài, v́ có
một thời kỳ chính Ngài đảm nhiệm sự huấn luyện đại tá Olcott trong khi đức
Sư Phụ của ông là Chân Sư Morya tạm thời mắc bận công việc khác. Sự thay đổi
đệ tử giữa
các đấng Chân Sư với nhau v́ những mục đích đặc
biệt và tạm thời, là một điều vẫn thường có. Đặc tính của vị Đế Quân
Sérapislà Mỹ Lệ và Điều Ḥa; những người thuộc về Cung này phần nhiều là
những nhà nghệ sĩ, theo đuổi các ngành Nghệ thuật hay Mỹ thuật. Họ luôn luôn
có khuynh hướng thờ phụng cái Đẹp, và biểu lộ sự mỹ lệ, điều ḥa ở khắp mọi
công việc làm, cùng nơi ăn chốn ở của họ.
Cầm đầu Cung 5 là Chân Sư Hilarion. Đặc tính
của Ngài là sự đúng đắn, mực thước,
đúng theo khoa học. Tiền kiếp của Ngài là nhà Hiền triết Jamblique của
môn phái Tân Triết Học Platon. Chính Ngài đă ban cho chúng ta, xuyên qua
ng̣i bút của Mabel Colin, hai quyển
Ánh Sáng trên đường Đạo và Mối
t́nh Sen Trắng (The Idyll of the White Lotus).
Ngài ban ảnh hưởng và nguồn cảm hứng cho phần
nhiều các nhà bác học trên thế gian. Những người đă tiến nhiều trên Cung này
biểu lộ khả năng quan sát đúng đắn và tỉ mỉ; sự sưu tầm và thí nghiệm khoa
học của họ hoàn toàn đáng tin cậy. Lẽ tự nhiên, Ngài d́u dắt và trông nom sự
tiến bộ về khoa học và trí thức của nhân loại. Ngài biết rơ và hợp tác
với nhiều mănh lực thiên nhiên liên hệ đến đời
sống con người.
Chân Sư Jesus cai quản Cung 6, tức là Cung
Sùng Tín. Ngài đắc quả Chơn Tiên
trong một tiền kiếp khi Ngài là đức Apolloonius de Tyane, và về sau Ngài
chuyển kiếp làm đức Ramanujacharya, nhà hiền triết và cải tạo tôn giáo ở
miền Nam Ấn Độ. Cung này là Cung của các vị Thánh và tu sĩ, thiên về con
đường sùng tín của mọi tôn giáo, những người này được sự d́u dắt trông nom
của đức Đế Quân Jesus, bất luận là họ thuộc về tôn giáo nào. 1900 năm về
trước, đức Apollonius de Tyane được Quần Tiên Hội gởi đi khắp nơi với một sứ
mạng. Một khía cạnh trong công việc của Ngài là thành lập ở nhiều xứ những
Trung Tâm Huyền Bí. Một vài bảo vật có truyền từ điển rất mạnh được giao cho
Ngài đem chôn dấu ở những nơi trung tâm huyền bí nói trên, để chuẩn bị những
nơi đó trở nên những trung tâm thần lực tiếp đón những sự việc quan trọng sẽ
xảy ra trong tương lai. Vài trung tâm này đă được sử dụng, c̣n những nơi
khác cũng sẽ được sử dụng trong một tương lai gần đây khi đức Chưởng Giáo
lâm phàm. Như thế, công việc của Ngài phần lớn đă được sắp đặt trước gần
2.000 năm nay, và ở cơi trần mọi việc cũng đă được chuẩn bị sẵn.
Vị Chân Sư cai quản Cung 7 là Chân Sư Saint
Germain. Ngài được biết trong lịch sử Âu Châu hồi thế kỷ 18 dưới danh hiệu
Bá Tước Saint Germain. Đôi khi người ta cũng gọi Ngài là Chân Sư Rakoczy,
theo tên gọi của một Hoàng Gia xứ Hung Gia Lợi, mà Ngài là vị cuối cùng
trong kiếp hiện tại. Trong những tiền kiếp, Ngài là Francis Bacon, Lord
Verulam của thế kỷ 17, tu sĩ Robertus hồi thế kỷ 16, Hunyadi Janos hồi thế
kỷ 15, Christian Rosenkreuz hồi thế kỷ 14, và Roger Bacon hối thế kỷ 13.
Trước đó Ngài cũng là nhà Hiền Triết Proclus của phái Tân Triết Học Platon,
và trong một kiếp trước nữa Ngài là Thánh St. Alban. Phần lớn công việc của
Ngài thuộc về môn nghi thức, lễ bái,
và dùng đến sự hợp tác của những vị Đại Thiên Thần, những vị này tuyệt đối
tuân lịnh Ngài và lấy làm vui mừng mà thi hành ư muốn của Ngài.
Mặc dầu Ngài nói đủ mọi thứ tiếng Âu Châu và
nhiều thứ tiếng Đông Phương, nhưng công việc của Ngài phần nhiều dùng tiếng
La Tinh. Trong những cuộc nghi lễ lớn, Ngài mặc những bộ y phục nhiều màu
rất đẹp và lộng lẫy và đeo những thứ ngọc quư. Mặc dầu Ngài chuyên về khoa
nghi lễ, và vẫn c̣n hành lễ
theo những Pháp Môn Huyền Bí thời cổ xưa, mà
ngày nay người ta không c̣n nhớ tới nữa, nhưng Ngài cũng chú trọng nhiều đến
thời cuộc chánh trị ở Âu Châu và sự phát triển của khoa Vật Lư hiện đại.
NHỮNG ĐỨC TÍNH CẦN PHÁT TRIỂN
Dưới đây là sơ lược những đặc tính của những vị Đế
Quân, và Cung của các Ngài như tôi đă tŕnh bày trong quyển
Khoa Học Nghi Thức,để dùng làm
tài liệu suy gẫm cho những người nào muốn phụng sự theo đường lối của các
Ngài.
CUNG 1:
Quyền lực.
“Tôi sẽ mạnh bạo và bền chí để phụng sự Ngài”.
CUNG 2:
Minh Triết.
“Tôi sẽ đạt tới Minh Triết, nó chỉ có thể phát triển được bằng một tính Bác
Ái hoàn toàn”.
CUNG 3:
Khôn khéo.
“Tôi
sẽ có cái khả năng nói và làm đúng chuyện vào đúng lúc: tiếp xúc với mỗi
người trên địa hạt riêng của họ, để giúp đỡ họ một cách có hiệu quả hơn”.
CUNG 4:
Mỹ Lệ và Điều Ḥa.
“Tôi sẽ đem sự Mỹ Lệ và Điều Ḥa vào đời sống của tôi để cho được xứng đáng
với Ngài. Tôi sẽ tập nh́n thấy Mỹ Lệ trong Thiên Nhiên, để có thể phụng sự
Ngài một cách hữu hiệu hơn”.
CUNG 5:
Khoa Học.
Tôi sẽ có sự hiểu biết rộng răi và đúng đắn, để có thể phụng sự trong công
việc của Ngài”.
CUNG 6:
Sùng Tín.
“Tôi sẽ khai mở trong ḷng tôi cái quyền năng mạnh mẽ của ḷng sùng tín, để
nhờ nó mà tôi có thể đem những kẻ khác đến gần Ngài”.
CUNG 7:
Trật tự; Nghi Thức.
“Tôi sẽ tôn thờ Thượng Đế đúng theo nghi thức để được sự trợ giúp ân huệ
thiêng liêng của các đấng Thiên Thần luôn luôn chờ sẵn để ban bố cho chúng
ta”.
Tất cả những đức tính trên đây sẽ được chúng ta
phát triển lần lần trong tương lai, nhưng chúng ta chỉ sở hữu những đức tính
đó một cách hoàn toàn khi nào chúng ta đoạt tới sự toàn thiện và trở nên
những bậc Siêu Nhân. Hiện thời chúng ta hăy c̣n bất toàn bởi v́ chúng ta có
một vài đức tính phát triển trội hơn những đức tính khác. Thí dụ, có vài
người đă khai mở rất nhiều về khả năng suy luận khoa học và phân biện điều
chân lẽ giả, nhưng bởi v́ họ chưa khai mở t́nh thương và ḷng sùng tín, nên
họ có một tánh chất lạnh lùng, sắt đá. Họ thường có vẻ thiếu thiện cảm và dễ
chỉ trích sai lầm những người chung quanh, và đối với vấn đề dùng trí để xét
đoán một điều ǵ, th́ họ thường có thái độ chỉ trích rất gắt gao. Họ luôn
luôn có khuynh hướng chống lại, thay v́ dung hóa, với những người nào làm
trái ư họ. C̣n những người thuộc về loại sùng tín và bác ái th́ luôn luôn
sẵn sàng tôn trọng ư kiến của đối phương; đại để th́ họ có khuynh hướng xét
đoán một cách thuận lợi cho người đối thủ, và dầu cho sự xét đoán của họ có
bị sai lầm, v́ họ dễ bị t́nh cảm chi phối, th́ sự sai lầm đó cũng chỉ đưa
đến sự tha thứ khoan dung. Cả hai cái đối tượng đó đều xa cách với sự xét
đoán đúng đắn, và trong tương lai chúng ta cần phải giữ mực quân b́nh hoàn
toàn giữa những đức tính đó, bởi v́ bậc Siêu Nhân là người đạt tới sự thăng
bằng tuyệt đối, Kinh Bhagavad Gita cũng có nói rằng: “Sự Quân B́nh tức là
Yoga”.
NHỮNG SỰ BIẾN ĐỔI TỪNG CHU KỲ
Trong Bảy vị Đại Tinh Quân có những cuộc biến
đổi diễn ra từng thời kỳ, giống như sự tuần hoàn của hơi thở trong bộ máy hô
hấp hay sự vận động của quả tim. Dầu sao, những sự biến đổi đó h́nh như có
thể diễn ra một cách vô cùng phức tạp bằng muôn ngàn cách khác nhau, dưới
thiên h́nh vạn trạng. V́ lẽ những Thể Vía của chúng ta được cấu tạo cùng một
chất với Thể Vía của các Ngài, cho nên khi một vị Đại Tinh Quân thay đổi
trạng thái của Thể Vía, th́ tự nhiên là điều đó sẽ ảnh hưởng đến Thể Vía của
mỗi người trên thế gian. Ảnh hưởng này sẽ đặc biệt và rơ rệt hơn đối với
những người nào mà Thể Vía có chứa đựng một tỷ lệ vật chất gần giống như
trong Thể Vía của Ngài. Chúng tôi chỉ dùng cơi Trung Giới để làm thí dụ, và
điều này cũng áp dụng cho tất cả những cơi giới khác. Bởi đó, chúng ta thấy
rằng những sự thay đổi tư tưởng và t́nh cảm của những đấng Đại Tinh Quân,
đối với chúng ta có một tầm quan trọng là dường nào.
Trong lịch tŕnh tiến hóa của nhân loại, những
sự thay đổi đó biểu lộ ra nơi những cơn biến đổi tâm linh tánh chất của
người thế gian, diễn ra từng thời kỳ, và hậu quả của nó đối với nền văn minh
nhân loại. Chúng ta hăy tạm gác một bên tư tưởng của các thế giới chu kỳ, mà
chỉ xét riêng cái thời kỳ của một Giống Dân. Chúng ta sẽ thấy rằng trong
thời kỳ đó, ảnh hưởng của Bảy Cung thay phiên nhau biểu lộ rơ rệt, và trong
thời kỳ biểu lộ của mỗi Cung, lại có Bảy tiểu hạn ảnh hưởng, theo một định
luật huyền bí mà tôi sẽ giải thích dưới đây.
Chúng ta hăy lấy thí dụ trong lịch sử của một
Giống Dân, và xét về thời kỳ khi Cung 5 đang thịnh. Trong suốt thời kỳ đó,
cái đặc tính của Cung 5, và có lẽ một tôn giáo lấy đó làm nền tảng, sẽ ngự
trị trong tư tưởng con người. Cái thời kỳ thịnh hành đó sẽ chia làm bảy tiểu
hạn, trong tiểu hạn thứ nhứt cái đặc tính của Cung 5 vẫn c̣n ngự trị nhưng
sẽ đượm màu sắc của Cung 1, và những đặc tính của Cung 1 sẽ có một phần nào
ḥa hợp với Cung 5. Trong tiểu hạn thứ nh́, những đặc tính và phương pháp
của Cụng cũng sẽ đượm màu sắc của Cung 2, v.v..., và đến tiểu hạn thứ năm,
th́ tự nhiên ảnh hưởng Cung 5 sẽ được thuần khiết và mạnh mẽ nhứt.
CUNG SÙNG TÍN
Bàn về một vấn đề phức tạp và hiểm hóc khó khăn
như vấn đề các Cung, với một sự hiểu biết c̣n thô thiển như của chúng ta
trong lúc hiện tại, th́ thật không thể đưa ra những ví dụ một cách chắc chắn
là thật đúng. Tuy nhiên v́ lẽ chúng ta được cho biết rằng Cung 6, tức là
Cung Sùng Tín, đă biểu lộ mạnh mẽ và thịnh hành trong thời gian gần đây, nên
tôi tưởng rằng chúng ta có thể truy nguyên ảnh hưởng của nó trong những thời
kỳ đă qua trong lịch sử như sau:
Tiểu hạn
thứ nhứt; ảnh hưởng biểu lộ nơi những quyền năng nhiệm mầu của các vị
Thánh Gia Tô thời cổ. Tiểu hạn thứ
nh́; biểu lộ nơi những môn phái Triết Giáo (Gnostics),
lư tưởng của những môn phái này là đạt tới Minh Triết thật sự.
Tiểu hạn thứ ba; biểu lộ nơi các
nhà Chiêm Tinh Học. Tiểu hạn thứ tư;
ảnh hưởng của nó biểu lộ nơi những cố gắng phát triển quyền năng của ư
chí bằng những phương tiện lạ lùng như sự khổ hạnh quá đáng của các nhà tu
sĩ St. Simeon Stylites và phái Roi Vọt (Flagellants).
Tiểu hạn thứ năm; biểu lộ nơi
Phái Luyện Kim (Alchemists) và Hồng Hoa Giá (Rosicrucians) hồi thới Trung
Cổ. Tiểu hạn thứ sáu; ḷng Tôn
Sùng thuần túy biểu lộ nơi những phép tu thiền định của những Gịng Tu Tịnh
Quan. Tiểu hạn thứ bảy; biểu lộ
nơi sự cầu nguyện và Nghi Thức Hành Lễ thiên về sắc tướng bề ngoài của Hội
Thánh La Mă.
Phong trào Thần Linh Học hiện đại, và sự thờ
cúng các vong linh, nó thường là một đặc điểm của những h́nh thức suy đồi
của phong trào ấy, có thể được coi như là một triệu chứng ảnh hưởng của Cung
7 sắp đến, nhứt là nguồn gốc của phong trào ấy vốn xuất xứ từ một hội kín đă
từng có trên thế gian từ hồi thời kỳ cuối cùng khi Cung 7 thịnh hành nhứt ở
Châu Atlantide.
Những người đă từng đọc qua về lịch sử của Hội
Thánh Gia Tô đều thấy rơ trong một thời kỳ ảnh hưởng của một Cung, cái ảnh
hưởng đó vốn có một mănh lực thật sự và quyết liệt là như thế nào. Họ nhận
thấy trải qua suốt thời Trung Cổ có biết bao nhiêu người biểu lộ một ḷng
tôn sùng hoàn toàn
mù quáng, có biết bao người tuy không sành về vấn đề tôn giáo, lại nhân danh
tôn giáo để đi giảng Đạo và cố gắng nhồi sọ những người khác với những tư
tưởng sai lầm của họ, trong khi những người này thường là hiểu biết hơn họ
rất nhiều. Những người có thể lực lại chính là những người biết ít hơn cả về
ư nghĩa thật sự của những giáo điều mà họ giảng dạy. Có những người khác có
thể nói cho họ biết nhiều hơn, và có thể giải thích ư nghĩa của nhiều điểm
trong giáo lư Gia Tô, nhưng phần đông không chịu nghe và lên án những người
thông thái này là theo tà giáo.
Trải qua một thời kỳ hắc ám đó, những ngưới có
ít nhiều kiến thức chẳng hạn như những người trong Phái Luyện Kim (Alchemists)
(không phải tất cả những người trong Phái Luyện Kim đều là có nhiều kiến
thức, nhưng chắc chắn rằng một vài người trong số đó biết nhiều hơn những
người Gia Tô)đều ẩn ḿnh trong những Gịng Tu bí mật như là các nhóm
Templiers, nhóm Hồng Hoa Giá (Rosicrucian),
Hội Kín Freemasonry. Hồi thời kỳ
đó, những người này đều bị những người Gia Tô khủng bố, ngược đăi, nhân danh
ḷng tôn sùng đối với Chúa Trời. Nhiều vị Thánh hồi thời Trung Cổ có ḷng
sùng tín rất mạnh, điều này rất tốt đẹp và thiêng liêng, nhưng nó lại thường
quá chật hẹp đến nỗi nó làm cho những vị ấy, dù rằng rất thánh thiện, có
những quan niệm thiếu nhân từ đối với những người khác biệt tư tưởng với họ
và thậm chí họ công khai ngược đăi, khủng bố những người này. Có một vài
người nuôi những lư tưởng tâm linh thật sự, nhưng họ bị nghi ngờ và đố kỵ.
Đó là những người thuộc phái Trầm Lặng (Quietists)
như Ruysbroek, Ebner, Molinos, và Jacob Boehme. Trong hầu hết mọi trường
hợp, những kẻ ngu dốt lại đàn áp những người hiểu biết nhiều. Họ luôn luôn
nhân danh ḷng sùng tín để làm như thế, và chúng ta nên nhớ rằng ḷng sùng
tín của họ rất là chân thành và rất mănh liệt.
Ḷng sùng tín không phải chỉ để biểu lộ trong
Cơ Đốc Giáo mà thôi. Nó c̣n phản ảnh một cách mănh liệt trong những tôn giáo
cổ thuộc về những Cung khác. Những người sùng tín có thể coi Ấn Độ Giáo như
là khô khan, lạnh lùng. Tôn giáo thờ Thần Shiva, tức Đức Chúa Cha, tức Ngôi
Một trong Ba Ngôi Thượng Đế, đă lan tràn hầu hết khắp xứ Ấn Độ, và cho đến
ngày nay, ba phần tư người Ấn Độ Giáo đều tôn thờ vị Thần này. Tôn Giáo ấy
đưa ra một cái lư tưởng đặc biệt cho họ noi theo, đó là lư tưởng về bổn phận
thiêng liêng, hay Thiên Trách (Dharma)
của con người. Họ cho rằng mỗi người sinh ra trong những giai cấp khác nhau
tùy theo nghiệp quả của họ. Dầu y sinh ra trong bất cứ hoàn cảnh nào, bổn
phận của y là phải thi hành cái Thiên trách của giai cấp y, và muốn vượt bực
lên một giai cấp y phải có những tài năng và đức hạnh phi thường đến nỗi
điều này hầu như không bao giờ có. Họ tuân theo pháp luật và trật tự, và
không hề bất măn v́ hoàn cảnh hiện tại, mà c̣n dạy rằng muốn đạt tới Thượng
Đế, người ta phải tận dụng và khai thác đến triệt để cái số phận và hoàn
cảnh hiện tại của ḿnh. Nếu người ta làm được như thế, th́ số phận của họ sẽ
được tốt lành và khả quan hơn từ kiếp này sang kiếp khác. Tuy nhiên, họ luôn
luôn chủ trương rằng cơi giới Thiên Đàng vẫn luôn luôn mở rộng cửa cho người
của bất cứ giai cấp nào nếu y sống một cuộc đời ngay chánh, không t́m cách
cải thiện hoàn cảnh hiện tại bằng những cuộc tranh đấu, mà chỉ lo làm tṛn
thiên trách của ḿnh ở bất cứ hoàn cảnh nào mà y sinh ra, do ư muốn của
Thượng Đế.
Đối với những tâm hồn sùng tín, th́ điều đó có
vẻ dường như quá máy móc và khô khan, và sự thật có lẽ đúng như vậy. Nhưng
đến khi Cung Sùng Tín bắt đầu gieo ảnh hưởng trên thế gian, th́ có một sự
thay đổi lớn, và sự tôn sùng Thần Vishnou, tức Ngôi Hai của Thượng Đế,
chuyển kiếp làm đức Shri Krishna, liền xuất hiện rơ rệt. Khi đó, ḷng sùng
tín phát triển mạnh mẽ không kềm chế, đến một mực quá cực đoan đến nỗi nó
trở nên hầu như là một cơn ngây ngất say sưa tôn giáo. Trong số những tín đồ
tôn thờ Thần Vishnou ở Ấn Độ hồi thời kỳ đó, có lẽ ḷng sùng tín c̣n dồi dào
mạnh mẽ hơn là những tín đồ Cơ Đốc, là những người mà ai cũng biết rằng tôn
giáo của họ thiên hẳn về con đường sùng tín. Họ có những cảm xúc mănh liệt
đến nỗi sự biểu lộ ḷng tôn sùng của họ làm cho chúng tôi, là những người
thuộc về một chủng tộc lạnh lùng hơn về đường t́nh cảm, phải lấy làm khó
chịu. Tôi đă từng thấy những nhà kinh doanh thương măi, lúc thường th́ họ
rất là khắc nghiệt và tính toán nhưng có lúc họ lao ḿnh vào những cơn say
sưa tôn giáo, nó làm cho họ tuông hai hàng lệ, khóc một cách ngây ngất và
hoàn toàn thay đổi thái độ khi họ chỉ vừa nghe nhắc đến tên Shri Krishna.
Ḷng tôn sùng của người phương Tây đối với Đức Jesus như thế nào, th́ cũng
giống y như ḷng tôn sùng của người Ấn Độ đối với đức Krishna vậy.
Ḷng sùng tín cũng đă biểu lộ trong Phật Giáo.
Người Phật Tử ở Miến Điện tôn thờ Phật Thích Ca như một đấng Thượng Đế.
Trong quyển “Phật Giáo Cương yếu”
của đại tá Olcott, có nêu ra câu hỏi: “Phải
chăng Đức Phật là một đấng Thần Minh?” và câu trả lời là: “Không, Phật
không phải là một vị Thần Minh, mà là một người như chúng ta, nhưng tiến hóa
hơn nhiều”.
Câu trả lời đó được hoàn toàn nh́n nhận là đúng
ở Tích Lan và Thái Lan, nhưng c̣n ở Miến Điện, người tín đồ Phật Giáo phản
đối cái h́nh thức tiêu cực của câu trả lời đó, và họ nói như vậy: “Phật c̣n
lớn hơn bất cứ một đấng Thần Minh nào mà chúng ta được biết”.
Như thế chúng ta thấy ở Miến Điện ḷng sùng tín
đă biểu lộ trong Phật Giáo. Ở Tích Lan mà nơi mà dân chúng phần nhiều là
những con cháu của những người Ấn Độ di cư sang đó từ lâu, khi bạn hỏi họ
tại sao họ dâng hoa quả cúng Phật, th́ họ trả lời rằng đó là do sự biết ơn
của họ đối với Ngài. Nếu chúng ta hỏi họ có nghĩ rằng Phật sẽ chứng giám cho
ḷng thành của họ chăng th́ họ nói: “Không bao giờ! Ngài đă đi rất xa và
nhập vào Đại Niết Bàn. Chúng tôi không trông mong rằng Ngài sẽ chứng giám
cho ḷng thành của chúng tôi, nhưng v́ nhớ Ngài đă dạy dỗ cho chúng tôi biết
Phật Pháp, nên chúng tôi dâng hoa để bày tỏ ḷng biết ơn Ngài”.
Như vậy, cái trào lưu sùng tín đó đă ảnh hưởng
mạnh mẽ đến thế gian từ khi đức Krishna xuất hiện vào 2.400 năm nay, nhưng
bây giờ cái thời kỳ ảnh hưởng đặc biệt của Cung 6 đă qua rồi, và nhường chỗ
cho ảnh hưởng của Cung sắp tới tức là Cung 7. Hiện nay vẫn c̣n những điều mê
tín trong giới b́nh dân ở nhiều nước thuộc chủng tộc Aryen, nhưng c̣n những
giới thượng lưu trí thức, họ không cảm thấy có ḷng tôn sùng nếu đồng thời
họ không có sự hiểu biết ít nhiều về mục đích của nó.
CUNG NGHI THỨC
Cung đang thịnh hành trong thời kỳ hiện tại, là
Cung thuộc về Nghi Thức hay Nghi Lễ. Nghi thức vẫn có từ thời kỳ Trung Cổ
nhưng phần chính là do ảnh hưởng Tiểu Chi thứ Bảy của Cung 6, c̣n nghi thức
trong thời kỳ này là do ảnh hưởng Tiểu Chi thứ nhứt của Cung 7. Như thế,
những nghi lễ này không có liên quan đến vấn đề sùng tín, mà phải được xét
về khía cạnh hữu ích của nó đối với các cấp đẳng Thiên Thần.
Trong tôn giáo hiện đại, nghi lễ càng ngày càng
đóng một vai tṛ quan trọng. Vào khoảng giữa thế kỷ vừa qua, các nhà thờ và
Thánh đường Cơ Đốc Giáo ở Anh Quốc sinh hoạt rất kém. Trong những nhà thờ
trung b́nh ở các vùng tỉnh lỵ không hề có sự tŕnh bày đẹp mắt và trang trí
mỹ thuật; sự bày biện bên trong rất sơ sài, thiếu sự chăm nom và chăm sóc
chu đáo. Người ta không hề chú ư đến việc cần phải làm cho mọi sự được tốt
đẹp, mỹ lệ, trang nghiêm, cho được xứng đáng nơi tôn thờ Chúa Trời. Người ta
chỉ chú trọng đến việc giảng đạo hơn cả mọi việc khác. Ngày nay, các nơi nhà
thờ và Thánh đường ở Anh Quốc hoàn toàn khác hẳn và người ta nhận thấy có
một sự thay đổi lớn lao. Sự cẩu thả khi xưa đă được thay thế bằng sự tôn
kính, các nhà thờ đều trang hoàng lộng lẫy đẹp mắt, và trong các Thánh đường
những cuộc hành lễ đều diễn ra một cách đứng đắn và tôn nghiêm. Toàn thể
quan niệm về công việc của Hội Thánh đều đă thay đổi hẳn.
Ảnh hưởng của sự thay đổi này cũng đă bắt đầu
biểu lộ trên những phương diện khác nữa. Tôi c̣n nhớ rằng dưới Triều đại của
Nữ Hoàng Victoria, người ta ít khi thấy có những cuộc nghi lễ rực rỡ và biểu
diễn rần rộ ngoài các đường phố ở Luân Đôn. Những nghi lễ này được phục hưng
vào khoảng cuối triều đại của Nữ Hoàng, và Vua Edward đệ thất đă phục hồi
các nghi lễ trở lại sự huy hoàng lộng lẫy của nó như xưa. Ngày nay, nhiều
người đă bắt đầu nhận thấy ảnh hưởng của Cung Bảy; họ sẽ muốn chứng kiến và
có lẽ tham dự vào những cuộc nghi lễ tế tự mà trước kia họ chưa từng làm.
CHƯƠNG XIII
BA NGÔI
VÀ
NHỮNG H̀NH TAM GIÁC
BA NGÔI CỦA THƯỢNG ĐẾ
Chúng ta biết rằng vị Chúa Tể của Thái Dương Hệ
chúng ta- tức là đấng Thiêng Liêng mà người ta gọi là Thượng Đế- là một Đấng
Cao cả gồm có ba phương diện thần bí gọi là Ba Ngôi.
Quan niệm về Ba Ngôi vẫn có trong các tôn giáo,
và được gọi bằng những danh từ khác nhau, nhưng không phải luôn luôn được
hiểu rơ cùng một cách giống nhau, bởi v́ nó gồm có nhiều phương diện đến nỗi
không có một tôn giáo nào đă diễn tả toàn thể cái Chơn Lư đó bằng một lối
tượng trưng mỹ măn.
Trong vài tôn giáo, quan niệm Ba Ngôi gồm có
Thánh Cha, Thánh Mẫu và Thánh Con, quan niệm này ít nhứt chúng ta cũng có
thể hiểu được khi chúng ta nghĩ đến phương pháp sinh hóa và liên đới trong
muôn loài. Quan niệm này được tôn giáo Ai Cập gọi là Osiris, Isis, và Horus.
Người Assyrien và Phénicien gọi Ba Ngôi là Anu, Ea và Bel. Phật Giáo Đại
Thừa gọi đó là A-Di-Đà, Quan Thế Âm và Văn Thù, Đạo Hỏa Giáo
(Zoroastrianisme) gọi là Ahura-mazda, Mihra, và Ahriman. Quan niệm Ba Ngôi
được nh́n nhận trong tất cả mọi tôn giáo, mặc dầu sự biểu lộ của Ba Ngôi
được tŕnh bày khác nhau.
Trong Ấn Độ Giáo, có Ba Ngôi là Shiva, Vishnu
và Brahma. Trong Ba Ngôi đó không có nói đến phương diện Mẫu nghi, nhưng
phương diện này được nh́n nhận gián tiếp v́ tất cả Ba Ngôi đều có một Năng
lực gọi là Shakti, mà đôi khi
trong khoa Biểu tượng thần thoại của Ấn Giáo, người ta gọi đó là những vị
“phu nhân” của các Ngôi (consort). Năng lực này dĩ nhiên là sự biểu lộ quyền
năng của Ngài trong cơi vật chất, có lẽ một sự biểu lộ ở cơi thấp hơn cơi mà
chúng ta cho rằng thuộc về Ba Ngôi của Thượng Đế. Trong Thiên Chúa Giáo, Ba
Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần; có một điều lư thú đáng ghi
là trong một vài Thánh Kinh cổ có nói rằng Chúa Thánh Thần thuộc về Nữ tính
(tức phương diện Mẫu nghi).
ĐỨC MẸ THẾ GIAN
Ngoài ra, phương diện Mẫu nghi của Thượng Đế
được biểu lộ trong Thiên Chúa Giáo dưới h́nh thức Đức Mẹ Đồng Trinh. Mặc dầu
Đức Mẹ không phải một trong Ba Ngôi, nhưng Ngài là đức Thánh Mẫu của Vũ Trụ,
Nữ Vương của các đấng Thiên Thần, Ngôi Sao của Biển Cả.
Những sinh viên Huyền Môn nên hiểu rằng vốn có
một ngành hoạt động thuộc về công việc của Đức Mẹ, ngành này có một vai tṛ
quan trọng trong Thiên Cơ. Cũng như đức Bàn Cổ đứng đầu một cơ quan coi sóc
sự tiến hóa về phần h́nh thể của những Chủng Chi (1), cũng như Đức Bồ Tát
cai quản một Cơ quan khác trông nom về mặt tôn giáo và Giáo Dục, th́ đấng
Cao Cả trông coi về công việc của Đức Mẹ tức là Đức Mẹ Thế Gian tiếng Phạn
gọi là Jagat-Amba. Cũng như đức
Vaivasvata hiện nay đảm nhiệm
công việc của đức Bàn Cổ, và đức Di-Lặc
Maitreya lănh phần trách nhiệm
của đức Chưởng Giáo, th́ đấng Đại Thiên Thần trước kia đă từng là mẹ của Đức
Jesus, hiện nay đảm nhiệm công việc Đức Mẹ Thế Gian.
Công việc của cơ quan này là đặc biệt trông nom
săn sóc những phụ nữ làm mẹ trên thế gian. Về phương diện huyền bí, sứ mạng
cao cả của người phụ nữ không phải là trở nên một nhà lănh tụ ở ngoài đời,
hoặc chiếm những cấp bằng lớn về khoa cử và sống riêng biệt trong tháp ngà,
nhưng là để tạo nên những thể xác cho những linh hồn sẽ đầu thai xuống trần.
Vậy phụ nữ không nên coi sứ mạng này như là một việc xấu hổ nên che đậy dấu
diếm và không nên bàn tới. Trái lại, đó là sự vinh diệu lớn nhứt của một
kiếp làm đàn bà, một cơ hội lớn lao mà chỉ đàn bà mới có và đàn ông không
có. Những người bên nam giới có những cơ hội và vai tṛ khác, nhưng cái vinh
diệu huy hoàng của người làm mẹ không phải là của họ. Chính bên nữ giới mới
làm công việc to tát này để giúp đỡ thế gian trong việc duy tŕ ṇi giống,
và họ làm công việc này với một sự hy sinh, đau đớn mà những người bên nam
giới chúng ta không hề biết được mảy may.
V́ lư do đó,- bởi v́ công việc lớn lao phải làm
và sự đau đớn mà nữ giới phải gánh vác- mới có một cơ quan đặc biệt của Quần
Tiên Hội trên địa cầu, mà trách nhiệm của đấng Cao Cả trông coi cơ quan ấy
là trợ giúp cho mỗi người đàn bà khi sinh sản đau đớn, và đưa đến cho họ sự
giúp đỡ và sức mạnh tùy theo nghiệp quả riêng của họ. Như chúng tôi đă nói,
Đức Mẹ thế gian có dưới tay của Ngài rất đông nhựng vị Thiên Thần để sử dụng
và mỗi khi có một đứa trẻ mới sinh, th́ luôn luôn có một vị Thiên Thần được
gởi đến thay mặt cho Ngài để trông nom săn sóc, cho người mẹ vừa lâm bồn.
Trong mỗi cuộc Hiệp Lễ (Eucharist) có một vị
Hiện Diện Thiên Thần (Angel of Presence) có mặt tại chỗ. Thật ra, vị Thiên
Thần này là một h́nh tư tưởng của đấng Christ, mà Ngài dùng để chấp thuận và
chuẩn y hành động thánh hóa của vị giáo sĩ hay Linh Mục đang hành lễ. Như
vậy, mặc dầu đấng Christ vốn độc nhứt và không thể phân chia, nhưng Ngài có
thể cùng một lúc hiện diện khắp nơi ở hằng ngàn Thánh đường và Nhà Thờ.
Cũng như thế, nhưng ở một mức độ thấp hơn, Đức
Mẹ thế gian cũng có mặt, và xuyên qua vị Thiên Thần đại diện của Ngài, ở bên
cạnh giường mỗi người mẹ sanh sản. Nhiều người mẹ sanh con đă từng thấy Ngài
như vậy, và nhiều người khác tuy không có hân hạnh được thấy Ngài, nhưng
cũng cảm giác được giúp đỡ và sức mạnh của Ngài ban rải cho họ.
Đức Mẹ luôn luôn muốn rằng mỗi người phụ nữ lâm
bồn nên chọn lấy một nơi sanh trong lành và tốt đẹp. Ngài muốn rằng họ nên
nuôi lấy t́nh thương sâu đậm và chơn thật, cùng những tư tưởng thánh thiện
và cao quư, để cho khi sanh sản họ rút được những ảnh hưởng và ân huệ thanh
cao xuống cho đứa hài nhi, và như thế đứa trẻ được sinh ra trong một hoàn
cảnh thuận lợi cho việc bắt đầu một cuộc đời mới. Nó phải được sinh ra giữa
một bầu không khí đầy từ điển trong sạch, tinh khiết và tốt đẹp nhứt, và
người mẹ cần phải giữ ǵn cho thể xác được sạch sẽ, đúng phép vệ sinh trong
từng những chi tiết nhỏ nhặt. Có được như vậy, đứa trẻ mới sinh ra với một
xác thân tốt đẹp và lành mạnh, để dùng làm cái khí cụ cho một linh hồn tiến
hóa.
Vấn đề tạo nên những Thể Xác thích nghi cho
những linh hồn đă tiến hóa
cao đầu thai xuống trần, là một vấn đề khó khăn
gây thắc mắc không ít cho Đức Mẹ thế gian và những vị Thiên Thần phụ tá với
Ngài. Hằng ngàn linh hồn tiến hóa hiện đang sẵn sàng đầu thai và rất mong
muốn đầu thai xuống trần để giúp đỡ trong công việc của đức Chưởng Giáo
nhưng họ gặp phải sự khó khăn rất lớn là t́m những Thể Xác thích nghi.
Do một quan niệm sai lầm và ích kỷ càng ngày
càng bành trướng ở phương Tây, người ta cho rằng ngày nay nam nữ không có đủ
phương tiện vật chất đi đến hôn nhân, và tạo nên một gia đ́nh đông con là
một cái gánh nặng quá sức của họ. V́ họ không hiểu cái sứ mạng thiêng liêng
của nữ giới khi họ được sinh ra làm đàn bà, nên nhiều phụ nữ ngày nay muốn
được tự do khỏi sự ràng buộc gia đ́nh để bắt chước sống và hành động theo
nam giới thay v́ nhận lănh lấy vai tṛ tốt đẹp của họ. Một khuynh hướng tư
tưởng và hành động như thế dĩ nhiên là rất tai hại cho tương lai của giống
ṇi, v́ nếu theo cái đà đó, th́ phần nhiều những cặp vợ chồng thuộc về hạng
tiến hóa lại không tham gia trong việc duy tŕ ṇi giống nữa, mà lại hoàn
toàn giao trách nhiệm đó cho những linh hồn thuộc về hạng bất hảo và chưa
tiến hóa.
Bên xứ Ấn Độ th́ hoàn cảnh khác hẳn, v́ mỗi
người nam nữ đến tuổi trưởng thành đều lập gia đ́nh. Nhưng dầu cho ở những
giai cấp cao, họ vẫn thường thiếu sự chăm nom săn sóc chu đáo, và bởi đó họ
không thể tạo nên những điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất những đứa trẻ
với những cơ thể trong sạch và lành mạnh. Đó là một vấn đề rất nghiêm trọng,
mà người học Đạo nên để tâm nghiên cứu, và dùng hết khả năng của ḿnh để đem
đến một t́nh trạng khả quan hơn.
Thật là một điều rất quư nếu phụ nữ các nước
trên thế giới có thể đoàn kết nhau lại để truyền bá lẫn cho nhau những sự
hiểu biết và tài liệu xác đáng về vấn đề tối ư quan trọng này. Mỗi phụ nữ
nên nhận thức lấy những cơ hội vô cùng tốt đẹp mà một kiếp đầu thai làm đàn
bà đem đến cho họ. Mỗi phụ nữ cần được chỉ dạy về những điều kiện tuyệt đối
cần thiết mà họ phải noi theo trước khi, trong khi và sau khi mang thai.
Không những Thể Xác đứa hài nhi phải được giữ ǵn và chăm nom săn sóc một
cách hoàn toàn kỹ lưỡng, mà nó c̣n phải được bao phủ trong một bầu không khí
trong lành đượm nhuần t́nh thương yêu, hạnh phúc và thánh thiện. Bằng cách
đó, công việc của Đức Mẹ thế gian sẽ được dễ dàng hơn gấp bội và tương lai
của giống ṇi cũng sẽ được bảo đảm.
Có nhiều người hỏi rằng những vị Chơn Tiên có
khoác lấy một thể xác nữ giới không? Sự hiện diện của Đức Mẹ thế gian là một
câu trả lời cho câu hỏi đó. Nhờ bởi đức Tinh Khiết hoàn toàn và nhiều đức
tính cao cả khác nữa, mà Ngài được chọn làm người mẹ đă sinh ra Thể Xác của
vị đệ tử Jesus ở Palestine thuở xưa. Và cũng nhờ bởi Ngài đă chịu đựng, với
một đức kiên nhẫn và cao quư vô song, tất cả những sự đau khổ lớn lao nó xảy
đến cho Ngài do hậu quả của cái vai tṛ đó, mà Ngài đă đạt được quả vị Chơn
Tiên cùng trong một kiếp ấy. Sau khi đắc quả vị này, với bảy Con đường Tiến
hóa Siêu Nhơn loại mở rộng ở trước mặt, Ngài đă chọn lấy con đường tiến hóa
huy hoàng huyền diệu của các Thiên Thần, và được thâu nhận vào con đường ấy
với một vinh dự rất lớn.
Đó là sự thật ẩn tàng phía sau giả thuyết Thánh
Mẫu thăng thiên (Assumption) của Thiên Chúa Giáo. Thật ra không phải Đức Mẹ
được đưa lên Trời giữa các đấng Thiên Thần trong cái Thể Xác của Ngài, mà
khi đức Mẹ rời khỏi xác thân, th́ Ngài liền an vị giữa các hàng Thiên Thần.
Và v́ Ngài được giao phó công việc của Đức Mẹ thế gian, nên Ngài trở nên một
vị Nữ Vương của các Thiên Thần, như Hội Thánh đă nói. Một vị đại Thiên Thần
không cần dùng một Thể Xác, nhưng trong khi đức mẹ giữ chức vụ hiện tại, th́
Ngài sẽ luôn luôn xuất hiện với chúng ta trong h́nh thể của phái nữ, cũng
như những vị Chơn Tiên đă t́nh nguyện giúp đỡ trong công việc của Đức Mẹ.
Trải qua hằng bao thế kỷ, đă có hằng bao nhiêu
người cả nam và nữ, đă dâng tấm ḷng tôn sùng thờ kính lên tận dưới chân
Ngài, và chắc chắn là không có một mảy may mănh lực nào của ḷng sùng tín đó
đă bị lăng phí hay đă đi sái đường. V́ Đức Mẹ, mà t́nh thương đối với nhân
loại đă gợi nên tấm ḷng sùng tín ấy, vẫn luôn luôn tận dụng mănh lực của nó
vào công việc khó nhọc của Ngài. Mặc dầu người đời không hay biết chi cả, họ
đă dâng cả một kho tàng sùng mộ kính yêu lên tận dưới chân Đức Mẹ, không
phải bởi v́ Ngài đă có lần sinh ra Đức Jesus, mà bởi v́ ngày nay Ngài là Đức
Mẹ của tất cả muôn loài.
Quan niệm về Đức Mẹ không phải chỉ có ở trong
Thiên Chúa Giáo mà thôi. Ở Ấn Độ, Ngài được gọi là Jagat-Amba, và ở Trung
Hoa, người ta gọi Ngài là đức Quan Âm, tức Đức Mẹ hằng cứu giúp, Ngài chính
là đại diện, là kiểu mẫu và tinh hoa của tính Bác Ái, ḷng Sùng Tín và sự
Tinh Khiết. Ngài cũng là hiện thân của sự Minh Triết thiêng liêng, nhưng
trên hết tất cả mọi sự, th́ Đức Mẹ là đấng An Ủi Cứu Khổn Pḥ Nguy và giúp
đỡ cho tất cả những người bị lâm cơn đau khổ, buồn rầu, đói lạnh, bệnh tật,
và bị mọi nỗi khổ đau của nghịch cảnh.
BA NGÔI VÀ H̀NH TAM GIÁC
Cũng như Thượng Đế có Ba Ngôi, th́ Tổ Chức Quần
Tiên Hội cai quản quả Địa cầu cũng gồm có ba ngành hoạt động lớn, đặt dưới
sự quản trị của ba đấng Cao Cả. Ba đấng ấy không phải chỉ là phản ảnh Ba
Ngôi của Thượng Đế, mà c̣n là sự biểu lộ thức sự của Ba Ngôi vậy. Đó là đức
Ngọc Đế, Đức Phật và đức Văn Minh Đại Đế, các Ngài đă đạt tới những mức Điểm
Đạo cao tột, nó đem cho các Ngài một sự ư thức hoàn toàn về các cơi giới
siêu đẳng, ngoài ṿng sân trường tiến hóa của nhân loại, nơi ngự trị của đức
Thượng Đế đă biểu lộ ở thế gian.
Đức Ngọc Đế hợp nhứt với Ngôi 1 trên cơi Tối
Đại Niết Bàn là cơi cao nhứt trong Bảy cơi, và chủ trị Ư Chí Thiêng Liêng
trên quả Địa Cầu. Đức Phật hợp nhứt với Ngôi 2, vốn ngự trị ở cơi Đại Niết
Bàn, và giúp nguồn Minh Triết Thiêng Liêng cho nhân loại. Đức Văn Minh Đại
Đế hợp nhứt với Ngôi 3, ngự trị trên cơi Niết Bàn và với tư cách đại diện
Chúa Thánh Thần, Ngài cai quản mọi sự Hoạt Động Thiêng Liêng. Ngài cũng ví
như cánh tay của Thượng Đế vươn ra ngoài thế gian để thi hành công việc của
đấng Chí Tôn.
Bản lược đồ dưới đây sẽ giúp chúng ta hiểu rơ
điều này:
VẼ BẢN LƯỢC ĐỒ PHẦN 2 TRONG SÁCH TRANG 83
Hai Đấng Cao Cả thứ nhất và thứ nh́ trong Tam
Giác khác hẳn với Đấng thứ ba, v́ công việc của hai đấng ấy thuộc về cơi
trên chớ không có xuống tới cơi Trần. Tuy nhiên, nếu không có công việc cao
siêu của các Ngài, th́ những công việc khác thuộc về những cơi giới thấp hơn
sẽ không thể thực hiện được. Các Ngài ban rải ảnh hưởng xuống tận cơi hạ
giới hồng trần xuyên qua những vị đại diện của các Ngài, là đức Bàn Cổ
Vaivasvata và đức Di-Lặc-Bồ-Tát.
Hai vị sau này cùng đồng cấp đẳng với đức Văn
Minh Đại Đế trên những Cung riêng biệt của các Ngài. Cả ba Vị gồm thành một
h́nh Tam Giác khác nữa, để ban rải quyền năng của Thượng Đế xuống tận cơi
hồng trần. Chúng ta có thể diễn tả hai Tam Giác này trong bản lược đồ dưới
đây:
VẼ H̀NH VẼ PHẦN 2 TRONG SÁCH TRANG 84
Trọn hết thời kỳ một Giống Dân, đức Bàn Cổ
trông nom từng chi tiết
cuộc tiến hóa của nó. Đức Bồ Tát, với tư cách
là đức Chưởng Giáo, trông coi về phần Giáo Dục và Tôn Giáo, giúp đỡ những
người trong Giống Dân đó phát triển phần tâm linh đến một mực tùy theo tŕnh
độ của họ. Đức Văn Minh d́u dắt phần trí tuệ thông minh của họ để cho mọi
h́nh thức văn minh và khai hóa có thể phát triển tùy theo từng chu kỳ, Ba
đấng Cao Cả nói trên cũng ví như Bộ Óc, Quả Tim và Bàn Tay có Năm ngón, tất
cả đều hoạt động để d́u dắt ṇi giống nhơn loại tiến hóa cho phù hạp với
Thiên Cơ.
Trước kia chưa hề có cái thông lệ giao chức vụ
của đức Văn Minh Đại Đế hiện nay cho một đấng Cao Cả nhất định nào thuộc về
đẳng cấp đó. Thường th́ mỗi vị trong năm vị Đế Quân (Chohan)
thay phiên nhau được chỉ định điều khiển tất cả năm Cung, mặc dầu trước khi
đảm nhiệm chức vụ đó, Ngài bắt buộc phải trải qua cuộc Điểm Đạo của Đức Văn
Minh Đại Đế, tức là phải có 7 lần Điểm Đạo. Tuy nhiên,hiện thời có một vị Đế
Quân đứng đầu mỗi Cung, và ngoài ra c̣n có một đức Văn Minh đứng biệt lập
với các Ngài.
Trong năm Cung cuối cùng từ Cung 3 đến Cung 7
th́ cuộc Điểm Đạo cao nhứt mà con người có thể đạt tới trên quả Địa cầu của
chúng ta hiện nay quả vị của đức Văn Minh Đại Đế (Mahachohan),
tức là 7 lần Điểm Đạo. Nhưng người ta có thể tiến xa hơn nữa trên Cung 1 và
Cung 2, Quả vị Phật
thể tiến lên nữa ở Cung 1 với quả vị đức Ngọc Đế (9
lần Điểm Đạo). Xin xem bản lược đồ dưới đây về
Những Quả Vị và
các Cung:
H̀NH VẼ NHỮNG QUẢ VỊ VÀ CÁC CUNG PHẦN 2 TRONG SÁCH TRANG 85
Để tránh khỏi hiểu lầm rằng trong tổ chức nói
trên h́nh như có sự bất công, ta nên hiểu rằng người hành giả có thể đạt tới
trạng thái Niết Bàn đồng đều như nhau, dầu họ thuộc về Cung nào. Bất cứ
người nào đắc quả vị Chơn Tiên (Asekha) đều đương nhiên bước vào trạng thái
cực lạc đó trong một thời gian, nó dường như là cả một thời kỳ vô tận đối
với chúng ta. Nhưng vị Chơn Tiên chỉ bước vào giai đoạn đầu của trạng thái
đó mà thôi, và mặc dầu nó vô cùng phúc lạc ngoài ṿng hiểu biết của chúng
ta, nhưng nó vẫn c̣n kém xa những cấp cao siêu hơn của vị Đế Quân và Văn
Minh. Đồng thời trạng thái phúc lạc của những Vị này cũng hăy c̣n chưa thấm
vào đâu đối với sự huy hoàng huyền diệu của những cảnh giới Niết Bàn mà
những đấng Cao Cả đă đạt tới với những nỗ lực công phu phi thường để chứng
những Quả Vị cao siêu hơn nữa trên những Cung 1 và Cung 2. Trên năm Cung
cuối cùng, sự tiến hóa lên những tŕnh độ cao siêu hơn nữa cũng có thể thực
hiện được đối với những vị nào theo đuổi những đường hoạt động khác, ngoài
ṿng Quần Tiên Hội.
ĐỔI CUNG
Bằng cách dùng ư chí mạnh mẽ và cương quyết,
người sinh viên Huyền Môn có thể thay đổi Cung của ḿnh tùy theo ư muốn, và
như thế tất cả mọi con đường tiến hóa đều mở rộng cửa giống như nhau trước
mặt y. Người ta được biết rằng cả hai vị Chân Sư có liên lạc mật thiết với
Hội Thông Thiên Học, đều dùng cách đó, và những người nào muốn ǵn giữ sự
liên lạc cá nhân với các Ngài đều, hoặc vô t́nh hay hữu ư, đang thay đổi
Cung của ḿnh.
Phương pháp đổi Cung cũng khá giản dị về mặt lư
thuyết mặc dầu rằng thường khi nó rất khó thực hành. Nếu một sinh viên Cung
6 hay Cung Sùng Tín, muốn đổi qua Cung 2, tức Cung Minh Triết, trước hết y
phải cố gắng đặt ḿnh dưới ảnh hưởng của Tiểu Chi thứ hai của Cung 6. Kế đó,
y sẽ luôn luôn cố gắng gia tăng ảnh hưởng của Tiểu Chi đó trên đời sống hằng
ngày, cho đến khi nó trở nên mạnh mẽ và trội nhứt. Như thế thay v́ thuộc
Tiểu Chi thứ hai của Cung thứ 6, y sẽ đổi qua Tiểu Chi thứ 6 của Cung thứ
hai. Nói tóm lại, y đă điều ḥa ḷng sùng tín của y bằng sự tăng gia kiến
thức cho đến khi nó trở nên sự nhiệt thành đối với ḷng Minh Triết thiêng
liêng. Sau đó, y có thể, nếu y muốn, đổi qua một Tiểu Chi khác nữa của Cung
2 bằng sự cố gắng công phu liên tục và không ngừng.
Trường hợp đổi Cung này lẽ dĩ nhiên là thoát ra
ngoài ṿng thông lệ, v́ một Chơn Thần xuất hiện xuyên qua một đấng Đại Tinh
Quân lại trở về nguồn cội xuyên qua một đấng khác. Những sự đổi Cung tương
đối rất hiếm, và có khuynh hướng điều ḥa lẫn cho nhau một cách mỹ măn.
Người ta thường đổi Cung ḿnh để thuyên chuyển qua Cung 1 và Cung 2, và ít
có người trên hai Cung này ở vào những tŕnh độ tiến hóa thấp kém.
SỰ HỢP NHẤT HOÀN TOÀN
Sự hợp nhất vô cùng huyền diệu giữa những đấng
Cao Cả trong các Tam Giác kể trên với Thượng Đế, có thể được điển h́nh bằng
trường hợp của đức Bồ Tát. Chúng ta đă thấy rằng sự hợp nhất giữa Chân Sư
với đệ tử là một sợi dây liên lạc mật thiết hơn cả bất cứ một thứ t́nh cảm
nào của thế gian. Càng mật thiết hơn nữa, v́ nó ở trên một tŕnh độ cao hơn,
là sự hợp nhứt giữa Chân Sư Kuthumi và Sư Phụ Ngài là đứcChân Sư Dhruva, vị
này cũng là đệ tử của Đức Di-Lặc-Bồ-Tát, hồi thuở Đức Di-Lặc c̣n thâu nhận
đệ tử. Bởi đó, đức Kuthumi cũng trở nên hợp nhứt với Đức Di-Lặc và ở mức độ
cao siêu của các Ngài sự hợp nhứt đó càng thâm sâu và huyền diệu vô cùng.
Các đấng Cao Cả h́nh như vượt khỏi chúng ta quá
xa đến nỗi chúng ta không thể phân biệt được sự khác nhau giữa các Ngài ở
các cấp đẳng trên và dưới nhau như thế nào. Các Ngài đều ví như những ngôi
sao sáng ở trên đầu chúng ta, tuy thế, các Ngài tự coi như những hạt bụi ở
dưới chân của đức Di-Lặc-Bồ-Tát. Như vậy, hẳn là phải có một sự sai biệt lớn
lao giữa các Ngài, mặc dầu chúng ta không thể thấy được điều ấy. Chúng ta
ngẩng mặt nh́n lên những ngọn núi cao chót vót đó, và tất cả đều làm chúng
ta chóa mắt với sự lộng lẫy huy hoàng của các Ngài, và chúng ta không thể
thấy vị nào là cao hơn vị nào, trừ phi chúng ta có thể thấy sự khác biệt đó
nơi hào quang của các Ngài lớn hay nhỏ. Nhưng ít nhứt chúng ta có thể hiểu
rằng sự hợp nhứt giữa đức Chân Sư Kuthumi và đức Di-Lặc phải là một sự liên
hệ mật thiết và huyền diệu hơn cả bất cứ việc ǵ ở các cơi Hạ Giới.
CHƯƠNG XIV
MINH TRIẾT TRONG BA NGÔI
ĐỨC PHẬT
Đức Phật của thời đại này là Phật Thích Ca,
hiệu là Cồ Đàm (Gautama),Ngài chuyển kiếp lần cuối cùng tại xứ Ấn Độ cách
đây độ 2.500 năm. Kiếp đó cũng là kiếp cuối cùng chấm dứt một loạt nhiều
kiếp ở quả vị Bồ Tát, sau đó Ngài nối nghiệp cho vị Phật quá khứ là Phật
Kasyapa ở chức vụ Chưởng Quản Cung thứ Hai trong Quần Tiên Hội trong Địa
Cầu.
Trong chu kỳ của một bầu thế giới, có bảy vị
Phật nối tiếp nhau xuất hiện, mỗi vị Phật d́u dắt cho một Giống Dân, và thay
nhau đảm nhiệm công việc đặc biệt của Cung Hai cho toàn thế giới. Trong chức
vụ đó; Ngài coi sóc lấy phần việc các cơi trên, và giao phó cho vị Phụ Tá và
Đại Diện của Ngài là đức Bồ Tát, trách nhiệm của vị Chưởng Giáo ở các cơi Hạ
Giới. Đối với đấng Cao Cả đă đạt tới quả vị đó, các bậc Đạo Gia Đông Phương
cho rằng không có sự ca tụng nào là quá cao, không có sự tôn sùng nào là quá
lớn; và cũng như chúng ta nh́n thấy các Chân Sư là cao cả, thiêng liêng về
mọi mặt, th́ các Ngài cũng nh́n Đức Phật với một sự sùng kính, thiêng liêng
càng lớn lao hơn nữa. Đức Phật hiện thời là người đầu tiên trong hàng ngũ
nhân loại đă đạt tới quả vị cao độ đó, c̣n những vị Phật quá khứ là sản phẩm
của những chu kỳ tiến hóa khác hơn chúng ta. Ngài đă từng công phu cố gắng
đặc biệt để tự chuẩn bị đảm nhiệm lấy trách vụ cao cả của quả vị Phật, một
cố gắng công phu phi phàm mà người Phật tử luôn luôn nhắc nhở và giọ là một
“Đại Hy Sinh”.
Nhiều ngàn năm về trước, có một khi kia nhân
loại cần dùng một vị Chơn Tiên để làm đức Chưởng Giáo cho Giống Dân thứ tư;
và đến lúc nhân loại phải tự ḿnh sàn xuất lấy những vị Phật của ḿnh. Từ
trước cho đến khoảng giữa cuộc Tuần hườn thứ tư của Dăy Hành Tinh thứ tư, ở
ngay điểm chính giữa Hệ Thống Tiến Hóa của chúng ta hiện nay, những đấng Cao
Cả mà nhân loại cần dùng chẳng hạn như các đấng Bàn Cổ, đức Chưởng Giáo và
những vị khác nữa, đều được cung cấp cho chúng ta do bởi những nhân loại
tiến hóa hơn ở trên những Dăy Hành Tinh khác, họ tiến bộ nhiều hơn và có lẽ
cổ xưa hơn chúng ta. Về phần nhân loại chúng ta trong tương lai cũng sẽ có
cái hân hạnh d́u dắt và giúp đỡ cho những hệ thống tiến hóa c̣n lạc hậu và
kém hơn chúng ta hiện nay.
T́nh huynh đệ thật sự giữa tất cả mọi loài sinh
vật được chứng minh bằng cách đó, và chúng ta thấy rằng đó không phải chỉ là
một t́nh huynh đệ đại đồng trong nhân loại mà thôi, thậm chí trong cả Dăy
Hành Tinh hiện tại, mà tất cả các Dăy Hành Tinh trong Thái Dương Hệ đều
tương trợ lẫn cho nhau. Tôi không có bằng chứng trực tiếp chỉ rằng những
Thái Dương Hệ cũng trợ giúp lẫn cho nhau bằng cách đó, nhưng tôi có thể dùng
thí dụ trên đẻ tin tưởng gần như chắc chắn rằng việc đó cũng xảy ra đúng như
vậy. Ít nhất chính tôi đă thấy những đấng Cao Cả từ những Hệ thống khác đến
viếng Hệ Thống Địa Cầu của chúng ta và nhận thấy rằng các Ngài không phải
chỉ đi ngao du để tiêu khiển mà chắc chắn là có mục đích tốt đẹp ǵ đó. Mục
đích của các Ngài như thế nào th́ tôi không được biết, nhưng tự nhiên đó
không phải là việc của tôi dự bàn.
Vào thời kỳ quá khứ xa xăm mà tôi đă nói ở
trên, nhân loại phải tự lực cung cấp lấy những vị Giáo Chủ của họ, nhưng lúc
ấy h́nh như chưa có người nào đă đạt tới cái tŕnh độ cần thiết để đảm đương
lấy một trách nhiệm nặng nề như thế. Những sản phẩm đầu tiên của nhân loại
vào thời kỳ đó là hai Người cùng đồng một tŕnh độ như nhau về sự phát triển
tâm linh, một người là đấng Cao Cả mà ngày nay chúng ta gọi là Phật Thích
Ca, và một người đó là đức Chưởng Giáo hiện nay, tức là đức Di-Lặc-Bồ-Tát.
Hồi thời kỳ đó, hai Ngài c̣n thiếu sót những đức tính và điều kiện như thế
nào th́ chúng tôi không được biết, nhưng v́ ḷng thương yêu nhân loại, Đức
Phật tự phát nguyện làm mọi công phu cố gắng phi phàm để đạt tới cái quả vị
cần thiết. Tục truyền rằng Ngài thực hành những đức tính đặc biệt từ kiếp
này sang kiếp khác, và mỗi kiếp Ngài lại biểu lộ thêm một vài đức tính cao
cả.
Sự hy sinh lớn lao của Đức Phật được nhắc nhở
trong tất cả những kinh điển của Phật Giáo, nhưng ít người Phật tử hiểu rơ
tánh chất của sự hy sinh đó, v́ họ cho rằng đó là bởi v́ Đức Phật sau khi
giác ngộ, đă từ khước sự an lạc ở cơi Niết Bàn để ở lại thuyết pháp và cứu
độ chúng sinh. Điều này quả có thật nhưng đó không phải là một sự hy sinh,
mà chẳng qua là Ngài chỉ thi hành công việc của một đấng Giáo Chủ. Sự hy
sinh lớn lao của Ngài là ở chỗ Ngài đă công phu tu luyện trong bao nhiêu
ngàn năm để tiến tới địa vị cao tột; Ngài là người đầu tiên trong nhân loại
đă đắc quả vị Phật, có dủ sự giác ngộ sáng suốt và đủ tư cách đem phổ biến
Đạo mầu để dạy dỗ chúng sinh.
Công việc đó Ngài đă làm một cách đầy đủ, trọn
vẹn. Chúng ta được biết ít nhiều về những tiền kiếp của Ngài, khi Ngài c̣n ở
quả vị Bồ Tát vào những thời quá khứ xa xưa, và c̣n những tiền kiếp khác nữa
mà chúng ta không hề biết chi cả. Ngài đă từng xuất hiện làm đức
Vyasa, Giáo Chủ của Giống Dân
Aryen; làm Giáo Chủ Hermès ở nước
cổ Ai Cập: làm đức Zoroastre, vị
Giáo Chủ đầu tiên của đạo Hỏa Giáo; làm đức
Orphée, Giáo Chủ của nước cổ Hy
Lạp. Trong kiếp cuối cùng, Ngài sinh ra ở miền Bắc Ấn Độ; sau khi đắc Đạo
thành Phật, Ngài châu du khắp nơi ở lưu vức sông Hằng để thuyết pháp trong
45 năm,, và quy tựu chung quanh Ngài những món đồ đă từng làm đệ tử của Ngài
trong kiếp trước.
Khi Đức Phật tịch diệt, côn việc của Ngài cũng
có chỗ c̣n chưa được hoàn bị, có lẽ v́ Ngài không có đủ th́ giờ để hoàn
thành một cách chu đáo. Bởi đó, nên mới có sự sắp đặt để bổ khuyết những chỗ
c̣n bỏ dở dang, và về việc này có hai sự kiện quan trọng được kể ra như sau.
NHỮNG HÀNH ĐỘNG BỔ KHUYẾT
Việc thứ nhứt là đức Ngọc Đế, tức đấng Điểm Đạo
độc Tôn, Chủ Tể Quần Tiên Hội trên quả Địa Cầu, gởi một trong ba vị Đệ Tử
của Ngài, là những vị Kim Tinh Chơn Quân từ bầu Kim Tinh đến chuyển kiếp
xuống trần
ngay sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, để thành
lập tại xứ Ấn Độ những Đạo Viện gọi là
Mathams. Trong kiếp đó, Ngài là
đức Shankaracharya, một đấng Giáo Chủ đă thành lập nên một gịng tu sĩ xuất
gia cách Ấn Độ cách đây trên 2.000 năm. Đức
Shankarachaya đă lập nên một môn
phái Triết Học Ấn, cải tạo lại Ấn Độ Giáo trên một quy mô rộng lớn, và gom
góp nhiều Giáo lư của Đức Phật lại thành quy củ, hệ thống, làm cho Ấn Giáo
có phần sinh sắc trở lại. Ấn Độ Giáo ngày nay là một tôn giáo có sinh khí và
linh hoạt hơn là hồi thuở xưa trước thời kỳ Đức Phật ra đời, hồi đó nó hăy
c̣n quá nhiều phần h́nh thức lễ bái và mê tín dị đoan. Đức
Shankara cải tổ những điều tệ
đoan, bỏ tật giết thú làm vật hy sinh để cúng tế. Mặc dầu ngày nay, tục ấy ở
Ấn Độ vẫn c̣n, nhưng đă giảm bớt rất nhiều. Ngoài ra công việc hoằng khai
đạo pháp ở thế gian Ngài c̣n thực hiện một vài công việc huyền linh thuộc về
cơi trên, có một tầm quan trọng rất lớn đối với xứ Ấn Độ.
Viêc thứ hai mà tôi đă nói ở trên, chính là do
Đức Phật đảm nhiệm. Thay v́ để trọn hết th́ giờ vào công việc của Ngài ở các
cơi trên, Ngài vẫn c̣n liên lạc với vị Bồ Tát kế nghiệp cho Ngài ở thế gian
để giúp đỡ trong những trường hợp khẩn cấp. Ngài cũng trở lại thế gian mỗi
năm một lần, nhằm ngày kỷ niệm Phật nhập Niết Bàn, để ban rải ân huệ cho
nhân loại.
Đức Phật có thứ thần lực của Ngài mà Ngài dùng
để ban rải ân huệ cho thế gian, sự ban ân huệ này là một việc rất kỳ diệu và
độc nhứt vô song. Với quyền năng và địa vị của Ngài, một vị Phật có thể bước
vào những cơi giới siêu linh hoàn toàn ngoài ṿng hiểu biết của chúng ta,
Ngài có thể chế biến và rút thần lực ở những cơi giới đó để ban rải xuống
cơi Hạ Giới hồng trần. Nếu không có sự trung gian của Đức Phật th́ những
nguồn thần lực đó sẽ vô ích cho chúng ta ở cơi trần, v́ nó có những rung
động vô cùng tế nhị, mạnh mẽ và mau chóng đến nỗi nó có thể đi xuyên qua
người chúng mà ta không hề hay biết chi cả. Thần lực do Đức Phật ban rải cho
thế gian được thấm nhuần khắp mọi nơi, nó giúp sức và tăng cường cho mọi
việc làm hữu ích, và đem sự bằng an cho những tâm hồn lương thiện.
LỄ WESAK
Ngày Đức Phật xuất hiện mỗi năm một lần để ban ân huệ cho thế gian tức là
ngày rằm tháng năm, bên Ấn Độ và Tích Lan gọi là ngày Wesak, thường là nhằm
tháng năm dương lịch. Ngày đó cũng là ngày kỷ niệm những dịp quan trọng xảy
ra trong kiếp sống cuối cùng của Đức Phật ở cơi trần, tức ngày Sinh, ngày
Thành Đạo và ngày Tịch diệt của Ngài.
Vào dịp này, ngoài ra cái ư nghĩa về phương diện huyền bí vô cùng quan trọng
của nó, có một cuộc Lễ được cử hành ở thế gian và trong cuộc Lễ ấy, Đức Phật
hiện ra trước mặt một số đông người hành hương. Những người này có được thấy
Ngài hay không, th́ tôi không biết chắc; họ đều cúi lạy theo những vị Chơn
Tiên và các Đệ Tử, những vị này đều thấy Đức Phật hiện ra thật sự. H́nh như
ít nhất cũng có vài người hành hương được nh́n thấy Ngài v́ cuộc Lễ này được
những người Phật Tử ở vùng Trung Á biết rơ. Người ta nhắc nhở đến cuộc Lễ đó
như sự xuất hiện h́nh bóng hay là sự phản ảnh của Đức Phật, và sự mô tả cuộc
Lễ theo tục truyền có phần khá đúng.
Như vậy những người sống ở vùng lân cận nơi Đức
Phật hiện không có lư do ǵ mà không đến dự cuộc Lễ. Vậy th́ không có lư do
ǵ mà những người Hội Viên Thông Thiên Học chúng ta lại không đến để dự bằng
Thể Vía của ḿnh. Những người nào đă được biết rơ về ngày gời hành Lễ,
thường sắp đặt công việc riêng của họ để có thể đi ngủ vào khoảng một hay
vài giờ trước giờ cử hành vào đêm trăng Rằm, và ngủ yên một chỗ cho đến một
giờ sau khi cuộc Lễ chấm dứt.
NƠI HÀNH LỄ
Địa Điểm được chọn để hành Lễ là một vùng cao
nguyên nhỏ có những đồi thấp bao bọc chung quanh, ở phía Bắc dăy Hy Mă Lạp
Sơn cách biên giới xứ Népal không xa, và có lẽ độ chừng 400 dặm về phía Tây
thành phố Lhassa bên Tây Tạng. Đó là một khoảnh đất bằng thẳng, h́nh vuông
dài, độ chừng một dặm rưỡi bề dài và bế ngang th́ ngắn hơn. Khoảng đất trống
có đá rải rác, và ở vài chỗ có cỏ dại rừng hoang mọc đầy. Một gịng suối
chảy qua ở góc phía tây vùng cao nguyên, và nh́n lên phía bắc th́ nó chảy
vào một thung lũng có rừng thông bao phủ, sau cùng th́ nó đổ vào một cái hồ
cách đó một quăng vài dặm. Vùng chung quanh có vẻ hoang vu hẻo lánh, không
có người ở, và không có một nhà nào trừ ra một cái tháp cổ đă điêu tàn với
vài ba cái cḥi rải rác trên sườn một ngọn đồi ở về phía đông. Về phía nam,
có một tảng đá lớn màu xám dựng đứng như bàn thờ, độ bốn thước bề dài và hai
thước bề ngang, và nhô lên khỏi mặt đất chừng một thước.
Vài ngày trước khi hành Lễ, người ta thấy dọc
theo hai bên bờ suối và ở dưới chân những ngọn đồi chung quanh có những ngọn
lều được dựng lên mỗi lúc càng nhiều. Những túp lều này có một h́nh dáng lạ
lùng, phần nhiều màu đen, và chốn hoang vu cô tịch này bỗng nhiên trở nên
linh động với những ngọn lửa trại của những người đi hành hương đốt lên. Họ
là những bộ lạc lưu động từ miền Trung Á và có người từ miền Bắc xa xôi đến
đây. Một ngày trăng tṛn, họ đều tắm gội sạch sẽ, và thay quần áo mới để
chuẩn bị hành Lễ.
Vài giờ trước giờ hành Lễ, họ tựu họp ở chỗ góc
phía Bắc vùng cao nguyên, họ ngồi xuống đất một cách lẳng lặng có trật tự và
chừa một khoảng trống trước chỗ tảng đá lớn làm bàn thờ. Theo lệ thường, th́
vài vị Sư Trưởng (Lamas) có mặt, mượn cơ hội này để thuyết pháp cho dân
chúng. Độ một giờ trước khi trăng tṛn, những vị khách dự Lễ bắt đầu đến
bằng Thể Vía của các Ngài, trong số đó có những nhân viên Quần Tiên Hội. Vài
vị trong số đó hiện h́nh cho những người hành hương thấy rơ, và những người
này liền cúi lạy các Ngài. Trong dịp này những đấng Chơn Sư và có vài vị cấp
đẳng cao hơn nữa cũng nói chuyện thân mật với các vị Đệ Tử và với những
người khác đang có mặt tại chỗ. Trong khi đó th́ những người khác có phận sự
chưng dọn bàn thờ trên tảng đá lớn để chuẩn bị cuộc Lễ. Họ đặt lên đó những
bông hoa đẹp đẽ nhứt và ở bốn góc th́ để những tràng hoa sen. Ở giữa bàn
thờ, có đặt một chén bằng vàng đựng đầy nước và ngay trước mặt có chừa một
khoảng trống giữa các đóa bông hoa.
CUỘC HÀNH LỄ
Độ nửa giờ trước lúc trăng tṛn, khi đức Văn
Minh Đại Đế vừa ra hiệu th́ nhân viên Quần Tiên Hội quy tụ lại chỗ khoảng
trống chính giữa vùng cao nguyên, ở phía Bắc tảng đá lớn dựng làm bàn thờ.
Các Ngài sắp hàng theo ba ṿng tṛn lớn, tất cả đều day mặt vào trong, ṿng
phía ngoài gồm có những nhân viên trẻ tuổi trong Quần Tiên Hội, c̣n ṿng ở
phía trong hết th́ có những đấng cao hơn.
Vài đoạn kinh Phật được ngâm lên bằng tiếng Nam
Phạn (Pali); khi giọng ngâm vừa dứt, th́ đức Di-Lặc-Bồ-Tát hiện ra ở trung
tâm ṿng tṛn và cầm nơi tay một cây Thần Trượng (cây gậy phép). Cây Thần
Trượng này là bửu vật để thu thần lực của đức Hành Tinh Chơn Quân (1)[vi]
và được Ngài truyền từ điển kể từ hằng mấy triệu năm về trước, khi Ngài bắt
đầu vận chuyển luồng Sóng sinh hoạt của nhân loại trên dăy Hành Tinh chúng
ta hiện nay. Chúng tôi nghe nói rằng cây Gậy Phép này thể hiện cho sự tập
trung thần thức của đức Chơn Quân, và nó được thuyên chuyển từ bầu hành tinh
này sang bầu hành tinh khác mỗi khi Ngài di chuyển thần thức của Ngài vào
một bầu thế giới nhất định. Nói một cách khác, hễ cây Gậy Phép này ở nơi
nào, th́ nơi đó đương thời là trung tâm điểm sân trường tiến hóa của vạn
vật, và khi nó rời khỏi bầu hành tinh của chúng ta để chuyển qua bầu thế
giới khác, th́ quả Địa Cầu này sẽ đắm ch́m trong giấc ngủ triền miên, không
c̣n sinh hoạt nữa.
Về việc nó có được thuyên chuyển qua những bầu
thế giới vô h́nh (2)[vii]
hay không, th́ chúng tôi không được biết. Chúng tôi cũng không biết rơ về
cách sử dụng cây Gậy Phép này ra sao và vai tṛ của nó trong việc giữ ǵn
kho thần lực của thế giới. Lúc b́nh thường, nó được giao cho đức Ngọc Đế ǵn
giữ tại Shamballa và theo chỗ chúng tôi được biết th́ cuộc Lễ Wesak là cơ
hội duy nhứt mà nó rời khỏi tay Ngài. Cây gậy h́nh dáng giống cây đoản côn,
làm bằng chất kim khí rất hiếm gọi là “Orichalcun)
bề dài độ chừng bảy tấc và bề tṛn đường kính độ chừng bẩy phân; ở hai đầu,
mỗi đầu đều có một kim cương h́nh tṛn như trái cam và một cái mũi nhọn chụp
lên trên. Cây Gậy Phép này luôn luôn tỏa ra một hào quang sáng rực như ánh
lửa. Điều đáng ghi nhận là chỉ có một ḿnh đức Di-Lặc-Bồ-Tát sử dụng cây Gậy
Phép trong mọi giai đoạn của cuộc Lễ.
Khi Ngài vừa hiện ra ở chính giữa ba ṿng tṛn,
th́ tất cả các vị Chân Sư và Đạo Đồ đều kính cẩn nghiêng ḿnh để chào Ngài,
và một đoạn kinh khác lại được ngâm lên. Sau đó, trong khi giọng ngâm vẫn
vang rền, th́ hai ṿng tṛn cử động và dời chỗ để sắp hàng thành một h́nh
chữ Thập và đức Di-Lặc vẫn đứng ở ngay trung tâm. Trong giai đoạn thuyên
chuyển kế đó, h́nh chữ Thập đổi lại h́nh Tam Giác, và đức Bồ Tát cũng dời
chỗ để đứng ở ngay góc trên đầu, gần kế bên bàn thờ bằng đá. Trên bàn thờ, ở
chỗ khoảng trống phía trước cái chén bằng vàng, đức Bồ Tát kính cẩn đặt cây
Gậy Phép, trong khi đó ở phía sau lưng Ngài, những vị Đạo Đồ đứng ở ṿng
ngoài bèn đổi chỗ để biến cái ṿng thành h́nh cái hoa có ba cánh, và tất cả
đều day mặt về phía bàn thờ. Trong giai đoạn kế đó, h́nh cái hoa đổi thành
h́nh tam giác lộn đầu, làm thành ra hai h́nh tam giác tréo góc, y như biểu
tượng của Hội Thông Thiên Học, nhưng không có con rắn khoanh tṛn. Sau cùng,
đến lượt hai tam giác này đổi thành h́nh ngôi sao năm góc, đức Bồ Tát vẫn
đứng nguyên chỗ cũ gần bàn thờ và những vị Đế Quân th́ đứng ở năm điểm cách
khoảng nhau trên Ngôi Sao.
Đến giai đoạn thứ bảy, tức là giai đoạn cuối
cùng, th́ giọng ngâm dứt hẳn. Sau một lúc im lặng, đức Di-Lặc cấm cây Gậy
Phép trong tay và đưa lên khỏi đầu, Ngài nói một câu gịn giă bằng tiếng
Pali: “Bạch Thế Tôn, tất cả đều sẵn sàng. Xin mời Ngài hạ giáng!”
Kế đó, Ngài vừa đặt cây Gậy Phép xuống bàn thờ,
th́ vừa đúng lúc trăng tṛn, Đức Phật liền xuất hiện như một nhân vật khổng
lồ lơ lửng trong không gian, ngay ở trên những ngọn đồi phía Nam. Những nhân
viên Quần Tiên Hội chắp tay vái chào Ngài, c̣n đám đông những người hành
hương ở phía sau th́ cúi lạy rạp ḿnh xuống đất, trong khi đó những người
khác ngâm lên ba câu kệ tam Quy, tức Quy phật, Quy Pháp, Quy Tăng.
ÂN HUỆ LỚN NHẤT
Kế đó, đám đông người đứng dậy và chiêm ngưỡng
dung nhan Đức Phật trong khi những nhân viên Quần Tiên Hội ngâm bài kinh
Mahamangala Sutra để ban phước
lành cho họ:
I
“Cả Thiên Thần và người
Đều mong được phước lành
Bạch Phật dạy chúng con
Phước nào phước lớn nhứt?
II
Không phụng sự kẻ ngu
Mà phụng sự người hiền
Trọng vọng người xứng đáng
Đó là phước lớn nhứt.
III
“Cư ngụ nơi đất lành
Đă làm lành kiếp trước
Ḷng suy tưởng việc lành
Đó ân huệ lớn nhứt.
IV
“Học rộng hiểu biết nhiều
Tự chủ và luyện trí
Miệng nói những điều lành
Đó là phước lớn nhứt.
V
“Nuôi dưỡng cha cùng mẹ
Yêu thương vợ với con
Theo đuổi nghề nghiệp lành
Đó ân huệ lớn nhứt.
VI
“Ham làm việc bố thí
Giúp đỡ kẻ bần hàn
Chỉ mong làm việc phải
Đó là phước lớn nhứt.
VII
“Không làm điều tội lỗi
Không dùng chất rượu mạnh
Làm lành không tiếc thân
Đó ân huệ lớn nhứt.
VIII
“Kính cẩn và khiêm tốn
An phận và biết ơn
Bốn mùa nghe chánh Pháp
Đó là phước lớn nhứt.
IX
“Chịu cực và kiên nhẫn
Giao du với bạn hiền
Luận đàm việc Đạo Lư
Đó ân huệ lớn nhứt.
X
“Tiết độ và trong sạch
Hiểu biết Tứ Diệu Đế
Tâm hướng Niết Bàn cảnh
Đó là phước lớn nhứt.
XI
“Giữa cuộc đời ch́m nổi
Ḷng vẫn không xao động
Yên tịnh, không phiền năo
Đó ân huệ lớn nhứt.
XII
“Ai làm được như thế
Dù gặp hoàn cảnh nào
Trong ḷng vẫn thanh tịnh
Người ấy phước lớn nhứt.
H́nh ảnh Đức Phật hiện trên đỉnh đồi tuy là rất
lớn, nhưng nó giống y như tướng mạo của Ngài hồi thuở sanh tiền. Ngài ngồi
kiết dà, hai bàn tay giao nhau, ḿnh mặc áo cà sa vàng theo lối tăng lữ,
cánh tay mặt để trần. Gương mặt Ngài thật khôn tả, v́ nó biểu lộ sự trầm
tĩnh, quyền lực, minh triết và bác ái đến một mực tuyệt đối thiêng liêng
ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Ngài có một nước da màu ngà, và những
nét mặt rất rơ rệt, một vầng trán rộng cặp mắt lớn và sáng màu xanh đậm, mũi
cao, cặp môi đỏ, nhưng đó chỉ là tạm phác họa thô sơ h́nh dáng bề ngoài mà
thôi, chớ không dủ diễn tả cái phong độ uy nghi và cái thần sắc siêu việt
của Ngài một cách đầy đủ trọn vẹn. Tóc Ngài màu đen và dợn sóng, không phải
để dài như phong tục Ấn Độ cũng không phải hoàn toàn xuống tóc như các vị sư
tăng, mà là cắt ngắn chí cổ, chưa chấm xuống vai, chẻ ra ở giữa và chải
ngược ra phía sau. Chuyện tích nói rằng khi Thái Tử Sĩ Đạt Ta rời khỏi cung
điện quyết chí đi t́m Đạo, Ngài rút gươm cắt tóc ngay vừa khỏi đầu, và từ đó
đến sau tóc Ngài vẫn để ngắn như thế.
Một khía cạnh đặc biệt nhứt của h́nh Đức Phật
hiện là cái hào quang tốt đẹp vô cùng bao bọc chung quanh. Hào quang đó gồm
nhiều từng lớp đồng một trung tâm, cũng như những hào quang của các bậc đă
tiến hóa cao, và chiếu những màu sắc thật là đặc biệt. H́nh ảnh Đức Phật
được bao bọc trong một vừng ánh sáng vừa chói ḷa vừa trong vắt, chói ḷa
đến nỗi mắt phàm không thể nh́n lâu, nhưng đồng thời lại trong suốt, làm cho
gương mặt Ngài và màu áo hiện rơ hoàn toàn. Phía ngoài là, một ṿng màu xanh
dương, và nối tiếp theo đó là những ṿng màu vàng chói, màu hường, màu trắng
bạc và màu đỏ rất đẹp, tất cả những màu sắc này thật ra là những khối tṛn,
nhưng hiện ra trên nền trời xanh như là những ṿng tṛn cùng một trung tâm.
Phía ngoài tất cả, từ những ṿng hào quang này bắn ra những tia chớp đủ màu
sắc lẫn lộn có cả màu lục và màu tím.
Trong những sách khác, chúng tôi có nói rằng
màu đỏ trong hào quang biểu lộ sự nóng giận. Điều này đúng trong Thể Vía của
người thường; thuộc về bốn cảnh thấp của cơi Trung Giới. Nhưng ngoài ra,
chúng tôi c̣n nhận thấy rằng trên những cơi cao siêu, một màu đỏ trong sáng
và đẹp lộng lẫy, giống như tinh hoa của ngọn lửa, là biểu hiệu của một ḷng
dũng cảm và cương quyết mạnh mẽ phi thường. Màu đỏ này trong hào quang của
Đức Phật tự nhiên là biểu lộ những đức tính kể trên đến một mực tuyệt đích
vậy.
Khi đoạn kinh
Mahamangala Sutra ngâm vừa dứt,
đức Di-Lặc cầm lấy cái chén bằng vàng đựng nước trên bàn thờ, và nâng lên
khỏi đầu Ngài trong một lúc. Trong khi đó, đám đông ở phía sau cũng đă chuẩn
bị sẵn và đem theo những b́nh đựng nước, liền làm theo Ngài. Khi Ngài đặt
cái chén lại chỗ cũ trên bàn thờ, th́ một đoạn kinh khác lại được ngâm lên,
lời lẽ ca tụng đức Thích Ca Như Lai.
Tiếng ngâm vừa dứt, một nụ cười đầy bác ái nở
trên gương mặt đức Như Lai. Ngài đưa bàn tay mặt lên để ban ân huệ, trong
khi đó hằng ngàn cánh hoa rơi xuống như mưa giữa đám dân chúng. Một lần nữa
những nhân viên Quần Tiên Hội lại vái chào, đám đông lại cúi lạy rạp xuống
đất, h́nh ảnh Đức Phật trở nên lu mờ và từ từ biến mất, trong khi đó những
người hành hương thốt ra những tiếng kêu vui mừng và ca tụng. Những nhân
viên Quần Tiên Hội liền theo thứ tự tiến đến bàn thờ, và thay phiên nhau
uống hớp nước trong cái chén vàng. C̣n dân chúng cũng uống một hớp nước
trong b́nh riêng của họ, và phần c̣n lại th́ họ đem về nhà để dùng làm “nước
Thánh”, có công dụng trừ tà hoặc để chữa bịnh. Kế đó, đám người hành hương
phân chia tứ tán sau khi đă trao đổi những lời khen tặng lẫn nhau, và họ trở
về nhà, mang theo cái kỷ niệm khó quên của cuộc Lễ thiêng liêng mà họ vừa
tham dự.
ĐỨC DI-LẶC-BỒ-TÁT
Đức Di-Lặc đảm nhiệm chức vụ Bồ Tát từ khi đức
Thích Ca thành Phật, và từ đó đến nay, Ngài đă từng giúp đỡ nhiều về mặt
phát triển tôn giáo. Một trong những công việc đầu tiên của Ngài khi vừa
nhậm chức là thừa dịp thế gian c̣n đang được thấm nhuần luồng từ điển dồi
dào mạnh mẽ do sự hiện diện của Đức Phật tỏa ra, Ngài bèn sắp đặt cho những
bậc Giáo Chủ xuất hiện cùng một lúc ở nhiều vùng khác nhau trên địa cầu. Bởi
đó, trong một khoảng thời gian ngắn, chúng ta thấy không những đức Phật
Thích Ca, đức Giáo Chủ Shankaracharya
và Mahavira xuất hiện ở Ấn
Độ, mà c̣n có đức Mithra xuất
hiện ở Ba Tư, đức Lăo Tử và
khổng Tử ở Trung Hoa và đức
Pythagore ở xứ cổ Hy Lạp. Chính
Đức Di-Lặc đă xuất hiện hai lần, một lần làm Đức
Krishna ở vùng đồng bằng Ấn Độ và
một lần làm Đấng Christ ở xứ
Palestine. Trong kiếp thai sinh làm
Krishna, đặc điểm lớn nhứt của Ngài vẫn là Bác Ái; và trong lần chuyển
kiếp ở xứ Palestine, ḷng Bác Ái cũng vẫn là điểm cốt yếu trong Giáo lư của
Ngài. Ngài nói: “Điều răn mới mà Ta đem đến cho các ngươi, đó là: các ngươi
hăy thương yêu lẫn nhau, cũng như Ta thương yêu các ngươi vậy”. Ngài muốn
cho tất cả các đệ tử đều có thể hợp nhứt với Ngài, cũng như Ngài đă hợp nhứt
với Đấng Cha Lành. Vị Tông Đồ thân tín nhứt của Ngài, là Thánh Jean, cũng
đặc biệt nhấn mạnh về một ư nghĩa tương tự: “Kẻ nào không thương yêu đồng
loại th́ không biết được Thượng Đế, v́ Thượng Đế tức là Bác Ái vậy”.
Những người nào đă đọc kinh
Bhagavad Gita cũng đều nhớ những
giáo điều về ḷng Bác Ái và Sùng Tín trong quyển kinh đó. Đức Bồ Tát thỉnh
thoảng cũng nhập xác đức Tsong-ka-Pa, nhà cải tạo tôn giáo danh tiếng của xứ
Tây Tạng, và trải qua nhiều thế kỷ Ngài đă từng gởi các vị đệ tử của Ngài
như Nagarjuna, Aryasanga, Ramanuja, Madhva,v.v..., xuống thế gian để thành
lập những môn phái mới, hoặc để làm sáng tỏ những chỗ huyền bí trong tôn
giáo. Trong số những đệ tử của Ngài, có một vị được gởi xuống thế gian để
lập nên đạo Hồi Giáo.
Việc phái các bậc Giáo Chủ xuống thế gian như
tôi đă kể trên chỉ là một phần công việc của Ngài, công việc này không phải
chỉ giới hạn trong ṿng nhân loại mà thôi, mà c̣n gồm tất cả mọi chúng sinh,
và luôn cả hàng Thiên Thần. Như thế, Ngài là vị Trưởng Thượng của tất cả
những tôn giáo hiện hữu trên thế giới, và của nhiều tôn giáo khác đă từng
mai một với thời gian, nay đă biến mất không c̣n nữa. Lẽ tất nhiên, Ngài chỉ
có trách nhiệm vễ những tôn giáo đó trong cái h́nh thức ban sơ của nó mà
thôi, chớ không có liên hệ ǵ đến những sự biến thiên dời đổi do con người
tạo ra trong những tôn giáo đó trải qua thời gian. Ngài thay đổi h́nh thức
mỗi tôn giáo để cho phù hợp với nhân loại ở mỗi thời kỳ lịch sử mà nó được
đưa ra; và mặc dầu cái phần h́nh thức có thể thay đổi cho phù hợp với trào
lưu tiến hóa, nhưng phần giáo lư vẫn giống nhau.
Trong thời kỳ tiến hóa của một Giống Dân, Ngài
sẽ c̣n trở lại thế gian nhiều lần nữa để thành lập nhiều tôn giáo khác. Mỗi
lần như thế, Ngài sẽ quy tựu chung quanh những người nào sẵn sàng theo Ngài,
trong số đó Ngài sẽ chọn lấy vài người mà Ngài có thể liên lạc mật thiết
hơn, tức là những vị đệ tử, hiểu theo ư nghĩa của Huyền Môn. Đến giai đoạn
cuối cùng của Giống Dân, khi nó đă vượt qua thời kỳ cực thịnh của nó từ lâu,
và một Giống dân mới bắt đầu ngự trị trên Địa Cầu, Ngài sẽ sắp đặt cho tất
cả những vị đệ tử thân tín đă từng theo Ngài trong những kiếp trước, sẽ đầu
thai cùng một thời trong dịp Ngài chuyển kiếp lần cuối cùng xuống thế gian.
Trong kiếp cuối cùng này, Ngài sẽ đạt tới quả
vị Phật và hoàn toàn Giác Ngộ. Khi đó những vị đệ tử của Ngài trước kia, tuy
không biết và không nhận ra Ngài về phương diện Thể xác, nhưng sẽ bị hấp dẫn
một cách rất mănh liệt đến gần Ngài. Nhờ ảnh hưởng của Ngài, một số rất đông
các vị đó sẽ bước vào cửa Đạo, và nhiều vị c̣n tiến lên những cấp đẳng cao
hơn, v́ họ đă từng tiến hóa nhiều trong những kiếp trước. Trong các kinh
sách Phật có nói rằng khi Đức Thích Ca thành Đạo và đắc quả vị Phật, th́ tức
thời có một số rất đông người cũng đắc quả La Hán. Khi mới nghe qua, chúng
tôi nghĩ rằng điều ấy không thể có được, nhưng xét kỹ chúng tôi thấy rằng
câu chuyện ấy có phần đúng sự thật. Có thể nói rằng số đông người th́ hơi
quá đáng, nhưng sự thật th́ có rất nhiều vị đệ tử đột nhiên đắc quả vị La
Hán nhờ bởi ảnh hưởng tốt đẹp của luồng từ điển và Thần lực vô cùng mạnh mẽ
và huyền diệu của Đức Phật tạo nên.
LỄ ASALA
Ngoài ra Lễ Wesak, c̣n có một Lễ long trọng
khác, trong dịp này các nhân viên Quần Tiên Hội nhóm họp chánh thức mỗi năm
một lần. Cuộc hội họp này thường nhóm tại nhà riêng của đức Di-Lặc, cũng ở
trên dăy Hy Mă Lạp Sơn, nhưng ở sườn núi phía Namthay v́ ở trên sườn núi
phía Bắc. Trong dịp này, không có sự tham dự của những người hành hương ở
cơi thế gian, nhưng tất cả những người nào biết có cuộc Lễ, và đến dự bằng
Thể Vía, đều được hoan nghinh. Cuộc Lễ này được cử hành vào ngày rằm tháng
Alasa, thường đúng nhằm tháng bảy dương lịch, để kỷ niệm ngày Đức Phật
thuyết pháp lần đầu tiên cho năm vị đệ tử Kiều-Trần-Như, mà các kinh sách
Phật Giáo gọi là ngày Phật “Chuyển Pháp Luân” (tức quay bánh xe Pháp).
Trong lần thuyết pháp đầu tiên này, Đức Phật
nói về Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo. Ngài nêu ra con đường xử thế bậc trung,
tức con đường Trung Đạo, gồm có một đời sống hoàn toàn ngay chánh ở thế
gian, giữ mực trung b́nh ở giữa hai điểm cực đoan, một bên là con đường khổ
hạnh quá đáng, và một bên là sự ham mê thú vui vật chất của đời sống trần
tục.
Để tưởng niệm đấng Cao Cả mà Ngài nối nghiệp ở
chức vụ Bồ Tát, đức Di-Lặc truyền lịnh rằng trong cuộc Lễ kỷ niệm này, bài
kinh Chuyển Pháp Luân sẽ được lập lại một lần nữa trước sự hiện diện của tất
cả nhân viên Quần Tiên Hội tựu họp tại đó; và Ngài thường thêm vào đó một
bài thuyết pháp ngắn, để giảng giải và áp dụng lời dạy của Phật.
Việc đọc kinh bắt đầu từ lúc trăng tṛn, cộng
chung với bài thuyết pháp nữa th́ tất cả kết thúc trong ṿng độ nửa giờ. Đức
Di-Lặc thường an tọa trên chiếc ghế cẩm thạch đặt tại chỗ bao lơn trong vườn
trước nhà Ngài. Những đấng Cao Cả nhất trong Quần Tiên Hội ngồi chung quanh
Ngài, c̣n những vị Đạo Đồ th́ ngồi chung một nhóm trong vườn ở dưới bao lơn
độ một thước. Trong dịp này, cũng như trong cuộc Lễ Wesak, thường có những
cơ hội tṛ chuyện vui vẻ, cùng những lời chào mừng và những dịp ban ân huệ,
do các Chân Sư ban cho những vị đệ tử và những người có nguyện vọng làm đệ
tử các Ngài.
Thiết tưởng cũng là một điều hữu ích mà tường
thuật cuộc Lễ, và những lời vàng ngọc của những đấng Cao Cả thốt ra trong
dịp đó, mặc dầu chúng ta không thể nào diễn tả được sự huyền diệu, tốt đẹp
và hùng hồn của những lời mà đức Di-Lặc đă nói trong cuộc Lễ. Câu chuyện sau
đây không phải là để tường thuật lại một bài thuyết pháp nhứt định nào. Nó
gom góp nhiều đoạn rời rạc, nhớ không được rơ, mà vài đoạn đă được mô tả ở
những sách khác; nhưng nó có thể giúp cho những người chưa được nghe qua câu
chuyện này một vài ư niệm về cuộc Lễ là như thế nào.
Bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật rất là
giản dị, và nhiều điểm được lập đi lập lại nhiều lần. Hồi đó chưa có tốc kư
để có thể chép lại đúng nguyên văn, và những vị đệ tử phải dùng trí nhớ để
ghi lại những lời Ngài nói. Bởi đó, Ngài chỉ dùng những lời giản dị, và lập
đi lập lại nhiều lần như một bài hát, để cho những người nghe có thể nhớ rơ.
Trải qua thời gian, bài “Chuyển Pháp Luân” của
Đức Phật đă được nói đi nói lại nhiều lần, tuy nhiên với sự hùng biện tuyệt
luân và với phương pháp giáo huấn đặc biệt của Ngài, Đức Di-Lặc mỗi năm mỗi
làm cho nó dường như được mới mẻ luôn luôn, và mỗi người nghe đều cảm thấy
rằng lời dạy trong Kinh dường như chỉ đặc biệt nhắn nhủ riêng với một ḿnh
họ mà thôi. Ngài nói bằng tiếng Nam Phạn (Pali), nhưng mỗi người có mặt đều
nghe Ngài nói bằng tiếng nói riêng của xứ sở họ.
TỨ DIỆU ĐẾ
Bài thuyết pháp đầu tiên bắt đầu bằng lời dạy
rằng con đường Trung Đạo là con đường an toàn nhứt, và là con đường Chân
chính thật sự. Nó ở ngay chính giữa hai thói cực đoan: một bên, lao ḿnh vào
những thú vui nhục thể, khoái lạc vật chất của cuộc đời trần tục, là một
điều thấp hèn và không đưa con người đến đâu cả; và một bên, con đường khổ
hạnh quá đáng cũng là lầm lạc và vô ích. Có một số rất ít, thuộc về một hạng
người đặc biệt, có khuynh hướng sống cuộc đời khổ hạnh và cô độc, hạng người
này có thể sống một cuộc đời như thế một cách đúng đắn, nhưng cũng khonf6
nên khổ hạnh thái quá. C̣n đối với những người thường, th́ con đường Trung
Đạo, tức là sống một cuộc đời ngay thật, chân chính ở thế gian là con đường
tốt nhứt và an toàn nhứt. Bước đầu tiên để sống một cuộc đời như thế là phải
hiểu rơ t́nh trạng của nó; điều này Đức Phật đă tŕnh bày cho chúng ta trong
Tứ Diệu Đế, tức là Bốn điều Chân Lư:
1.-Đời là khổ.
2.-Nguyên nhân sự khổ.
3.-Vấn đề diệt khổ.
4.-Đạo giải thoát khỏi sự khổ.
1.-Chân lư thứ nhứt cho rằng
Đời là khổ,trừ phi con người biết
cách sống cuộc đời của ḿnh cho đúng theo lẽ Đạo. B́nh luận về điều này, đức
Bồ Tát nói rằng câu nói “Đời là khổ”
có hai nghĩa. Theo một nghĩa, th́ sự khổ có phần không thể tránh khỏi;
c̣n theo nghĩa thứ hai th́ câu ấy hoàn toàn sai lầm, và sự đau khổ có thể
tránh khỏi được một cách rất dễ dàng.
Đối với điểm Chơn Thần (Monad), tức là phần
Tinh Thần của con người, th́ đời là khổ, v́ sự sống biểu lộ ra ở thế gian là
một sự hạn chế, mà trí óc vật chất của chúng ta không thể quan niệm được bởi
v́ chúng ta không có một ư niệm về sự tự do khoáng đạt của đời sống siêu
linh. Chính trong nghĩa này mà có chỗ nói rằng Đấng Christ tự hiến dâng như
một cuộc Hy Sinh lớn, khi Ngài giáng xuống cơi vật chất. Lẽ tất nhiên, đó là
một sự hy sinh bởi v́ đó là một sự hạn chế rất lớn, nó giới hạn những quyền
năng cao cả của rộng lớn của Ngài trên cơi giới siêu linh. Chơn Thần con
người cũng vậy; nó cũng thực hiện một sự hy sinh lớn khi nó tiếp xúc với cơi
vật chất hồng trần, khi nó lửng lơ ở phía trên cơi giới này trải qua một
gịng thời gian tiến hóa rất dài cho đến tŕnh độ làm người, đến khi đó nó
mới phân thân ra một mảnh rất nhỏ của nó để làm một Chơn Nhơn hay linh hồn
con người.
Mặc dầu chúng ta chỉ là
một mảnh rất nhỏ- thật vậy, một
mảnh nhỏ của một mảnh- chúng ta cũng là một sự thật rất huyền diệu. Bởi v́
chúng ta là một phần của cái ǵ cao cả hơn, cho nên sau cùng chúng ta có thể
vượt lên cao và hợp nhứt với cái cao cả đó. Đó là cái cứu cánh và mục đích
của sự tiến hóa của chúng ta. Và dẫu cho đến khi chúng ta đạt tới cái mục
đích đó, ta nên nhớ rằng đó không phải để cho chúng ta tự hào về sự tiến bộ
của ḿnh, mà là để cho chúng ta có thể trợ giúp Thiên Cơ. Tất cả những sự hy
sinh và hạn chế đó có thể được miêu tả rất đúng như là bao hàm sự đau khổ;
nhưng khi nào Chơn Nhơn hay linh hồn có được sự hiểu biết hoàn toàn, th́ nó
sẽ vui ḷng chấp nhận những sự hy sinh đó. Một Chơn Nhơn không phải là toàn
thiện như Chơn Thần; bởi v́ nó không được hoàn toàn hiểu biết ngay từ lúc
đầu; mà nó phải học hỏi như mọi người khác. Sự giới hạn lớn lao
mỗi lần nó càng đi sâu vào cơi vật chất, là một
điều không thể tránh khỏi, và bởi đó sự đau khổ luôn luôn đi kèm với sự biểu
lộ ở các cơi Hạ giới. Chúng ta phải chấp nhận sự giới hạn đó như một phương
tiện để đi đến mục đích, như một sự kiện cần thiết trong Thiên Cơ.
C̣n một ư nghĩa nữa theo đó
Đời là khổ, nhưng là một thứ khổ
có thể hoàn toàn tránh khỏi. Người sống trên trần thế thường hay bị những
chuyện rối rắm đủ mọi thứ. Nói rằng y luôn luôn bị đau khổ th́ không đúng sự
thật, nhưng y thường bị băn khoăn, thắc mắc và bất cứ lúc nào y cũng có thể
bị rơi vào một t́nh trạng đau khổ, rối rắm và phiền năo. Lư do là v́ y có đủ
thứ dục vọng thấp hèn, nó không hẳn là sa đọa hay bỉ ổi, nhưng là sự ham
muốn những điều thấp thỏi; và bởi có những dục vọng đó nên y bị trói buộc và
giam hăm. Y luôn luôn tranh đấu để chiếm đoạt một vật ǵ mà y chưa có, y lấy
làm băn khoăn thắc mắc vô cùng không biết rằng y sẽ chiếm hữu đặng vật đó
hay không, và khi y đă chiếm được rồi, th́ y băn khoăn sợ hăi rằng y sẽ mất
vật ấy. Điều nầy đúng không những về tiền bạc, mà cũng đúng về quyền hành,
tước lộc, danh vọng và địa vị xă hội, v.v... Tất cả những sự ham muốn này
gây nên những điều rối rắm bằng nhiều cách khác nhau. Không phài chỉ có sự
băn khoăn lo ngại cá nhân của người đang có điều ham muốn trong ḷng mà
thôi, mà ta c̣n phải kể luôn tất cả những sự ganh tị, ghen tuông, oán hờn,
thù hận gây ra trong ḷng những người khác, họ cùng tranh đấu để chiếm đoạt
lấy những thứ ấy.
Có những điều ham muốn khác, dường như có vẻ
cao thượng hơn những điều kể trên nhưng vẫn không phải là những điều cao
thượng nhứt. Thí dụ như một thanh niên kia đă có bao lần mong muốn được t́nh
thương của một người, mà người này không thể đem t́nh thương cho y. Do ḷng
ham muốn đó, mà thường xảy ra bao nhiêu sự buồn thảm, ghen tuông cùng nhiều
ác ư khác. Ta có thể nói rằng sự ham muốn đó là tự nhiên; đúng vậy, t́nh
thương mà được đền đáp là một nguồn hạnh phúc rất lớn. Tuy nhiên, nếu nó
không được đền đáp th́ ta phải có nghị lực để chấp nhận lấy hoàn cảnh, chớ
không nên để cho bị đau khổ v́ dục vọng không được thỏa măn. Khi chúng ta
nói rằng điều nọ điều kia là tự nhiên, th́ hẳn là ta muốn nói rằng nó vốn là
thường t́nh đồi với mọi người. Những người sinh viên Huyền Môn phải cố gắng
vượt lên khỏi tŕnh độ của người thường, chớ nếu không, làm sao y có thể
giúp đỡ người ấy? Chúng ta phải vượt lên khỏi tŕnh độ thông thường đó, để
có thể buông xuống một cánh tay trợ lực, phụ giúp. Mục đích của chúng ta
nhắm, không phải là những điều tự nhiên, thông thường, mà ta phải nhắm cái
mục đích siêu nhiên.
Người có thần nhăn sẽ nh́n nhận điều Chân Lư
của Phật dạy rằng: nói chung, th́ Đời
là khổ. Nếu y nh́n vào những Thể Vía và Thể Trí của những người chung
quanh, y sẽ thấy có rất nhiều những ṿng xoáy như h́nh trôn ốc, xoáy rất
mănh liệt và rất nhanh. Những ṿng xoáy đó là gây nên bởi đủ thứ những tư
tưởng nhỏ nhen, những sự lo âu, phiền muộn, thắc mắc, băn khoăn v́ chuyện
này hay chuyện khác. Tất cả những thứ đó gây nên những sự xáo trộn và đau
khổ, trong khi điều cần thiết nhứt cho sự tiến bộ là sự yên tịnh của tâm
hồn. Phương pháp duy nhứt để có được sự bằng an, là loại trừ tất cả những
thứ phiền năo đó, và điều này đưa chúng ta đền điều Chân lư thứ hai, là
Nguyên
nhân sự khổ.
2.-Chúng ta đă thấy rằng
Nguyên nhân sự khổ, tức là ḷng
ham muốn. Nếu một người không có ḷng ham muốn, nếu y không tranh đoạt địa
vị, quyền hành, hay giàu sang, của cải, th́ chừng đó, y vẫn b́nh an và thản
nhiên như thường, dầu cho sự sang giàu và địa vị có đến với y, hay là không.
Y vẫn ung dung tự toại, ḷng không nao núng, bởi v́ y không cần. V́ y vẫn
c̣n là người, tự nhiên là y sẽ c̣n mong muốn điều nọ điều kia, nhưng sự muốn
đó luôn luôn nhẹ nhàng êm dịu, và bởi đó y không bao giờ để cho tâm hồn bị
xáo trộn. Thí dụ, chúng ta thấy có nhiều người bị cơn buồn thảm bi ai vật
ngă khi người thân yêu của họ từ trần. Nhưng nếu t́nh thương của họ được đặt
trên một b́nh diện cao hơn, nếu họ thương yêu người thân của họ v́ linh hồn
chớ không phải v́ xác thể, th́ không bao giờ họ cảm thấy bị chia ly và đau
khổ. Nếu họ chỉ ham muốn gần người thân yêu của họ bằng Thể Xác trên cơi
phàm trần, th́ tự nhiên là ḷng ham muốn đó sẽ gây nên sự sầu khổ khi cái
thể xác kia không c̣n. Nhưng nếu họ dẹp bỏ sự ham muốn đó và sống ḥa hợp
với đời sống tinh thần, th́ cơn sầu thảm kia sẽ dứt tuyệt.
Đôi khi có người lấy làm phiền muộn khi họ thấy
tuổi già đă đến với họ, khi họ cảm thấy lưng mỏi gối đùn, và không c̣n tráng
kiện như hồi thanh xuân. Họ muốn có đầy đủ sức khỏe và tinh thần sáng suốt
như hồi c̣n niên thiếu. Tốt hơn là họ nên dẹp bỏ sự ham muốn đó; họ nên nhận
định rằng cái Thể Xác đă làm tṛn bổn phận và công việc của nó, và nếu nó
không c̣n làm được nhiều việc như hồi thanh xuân, th́ họ nên làm bất cứ việc
ǵ mà họ có thể làm một cách êm ái nhẹ nhàng chớ không nên âu lo phiền muộn
v́ sự biến đổi vô thường của nó. Không bao lâu, họ sẽ có những Thể mới; và
phương pháp chắc chắn để có được một Thể mới tốt lành là hăy sử dụng cái Thể
cũ của ḿnh một cách khôn ngoan, nhưng trong mọi trường hợp, hăy giữ một
thái độ ung dung b́nh tĩnh, và không có sự thắc mắc, ưu phiền. Phương pháp
duy nhứt để được thái độ đó, là hăy tự quên ḿnh, dứt bỏ những điều ham muốn
ích kỷ, và hướng tư tưởng ra ngoài để nghĩ đến việc giúp đỡ kẻ khác tùy theo
khả năng của ḿnh.
3.-Vấn đề diệt
khổ.- Chúng ta đă thấy bằng cách nào con người có thể chấm dứt phiền năo
và đạt được sự bằng an; đó là bằng cách luôn luon6nang6 tư tưởng lên những
điều cao thượng nhứt. Chúng ta vẫn c̣n phải sống cuộc đời ở thế gian, mà ta
thường gọi là “biển khổ”. Thật
vậy, nó là “biển khổ” đối với một
số đông người, nhưng chúng ta có thể sống trong hạnh phúc, yên vui nếu chúng
ta không để cho những dục vọng trói buộc chúng ta với cơi đời trần thế. Tuy
sống ở thế gian, nhưng chúng ta phải đừng lệ thuộc với thế gian, ít nhứt
cũng đừng lệ thuộc đến cái mức để nó gây cho ta những điều âu lo, phiền năo.
Lẽ tự nhiên, bổn phận của chúng ta là giúp đỡ kẻ khác trong cơn phiền muộn
đau khổ của họ; nhưng muốn giúp đỡ kẻ khác một cách hữu hiệu, th́ chúng ta
không nên có những điều phiền năo riêng của ḿnh. Chúng ta phải thản nhiên
để cho những điều phiền năo tự nó đi trôi qua mà không làm cho ta động ḷng,
và ta vẫn ung dung tự toại. Nếu chúng ta sống cuộc đời thế gian với một tinh
thần triết lư, b́nh thản tự nhiên, chúng ta sẽ thấy ḿnh hầu như đă hoàn
toàn rũ sạch mọi điều phiền năo, nghiệp chướng.
Có người cho rằng một thái độ b́nh thản vô tư
như thế, thật không thể nào đạt tới được. Không phải như thế, v́ nếu như
vậy, th́ Đức Phật không khi nào khuyên dạy chúng ta hăy tập lấy thái độ đó.
Chúng ta có thể đạt tới được, bởi v́ chỉ khi nào ta có được sự bằng an, ta
mới có thể thật sự giúp đỡ kẻ khác một cách có hiệu quả.
4.-Đạo mầu
thoát khổ.- Chơn lư thứ tư, tức con đường đưa đến sự diệt khổ và giải
thoát, chính là Đạo Bát Chánh vậy.
BÁT CHÁNH ĐẠO
Bát Chánh Đạo của Phật dạy là một Đạo sử thế
rất quư, v́ nó có thể áp dụng cho tất cả mọi người thuộc mọi tŕnh độ. Người
sống ngoài thế gian, thậm chí đến người thất học, có thể áp dụng nó trên
những khía cạnh thấp thỏi tầm thường nhứt, và t́m thấy con đường đưa đến sự
b́nh an, hạnh phúc. Đồng thời bậc triết gia lỗi lạc nhất cũng có thể áp dụng
và diễn đạt Đạo Bát Chánh tùy theo tŕnh độ của ḿnh, và thu thập được nhiều
điều bổ ích.
Điều thứ nhứt trong Bát Chánh Đạo là
Chánh Tín, tức là
Tin Tưởng chân chính. Có người
phản đối điều này, v́ họ cho rằng nó đ̣i hỏi ở họ một cái ǵ hầu như là đức
tin mù quáng. Không phải như vậy, mà trái lại nó đ̣i hỏi chúng ta phải có
một sự hiểu biết nhất định về những yếu tố căn bản của đời sống con người.
Nó đ̣i hỏi chúng ta phải hiểu biết ít nhiều về Cơ Trời, và nếu chúng ta chưa
có thể tự ḿnh thấy được cái Thiên Cơ huyền diệu đó, th́ chúng ta phải nên
chấp nhận nó, như nó vẫn luôn luôn được tŕnh bày cho chúng ta. Có vài điều
Chân lư căn bản vẫn luôn luôn được đưa ra cho người đời dưới h́nh thức này
hoặc h́nh thức khác. Những Chân lư đó cũng được giải thích cho những bộ lạc
dă man, do những thầy phù thủy chữa bịnh của họ, và được phổ biến trong nhân
loại do những bậc Giáo Chủ và những loại Thánh Kinh. Những Thánh Kinh và tôn
giáo tuy rằng khác nhau về h́nh thức, nhưng cũng có những điểm tương đồng mà
người ta phải chấp nhận, trước khi họ muốn hiểu biết cuộc đời một cách đầy
đủ để có thể sống trong yên vui và hạnh phúc.
Một trong những Chơn lư đó là
Luật Nhân quả bất diệt. Nếu một
người kia sống trong sự lầm lạc rằng y có thể làm bất cứ điều ǵ tùy theo ư
muốn của ḿnh, và những hành động không bao giờ đem đến cho y một hậu quả
nào, th́ chắc chắn rằng y sẽ thấy rằng một vài hành động đó rốt cuộc sẽ đem
đến cho y những điều tai họa và đau khổ. Một mặt khác, nếu y không hiểu rằng
mục đích cuộc đời y là tiến hóa, rằng theo Luật Trời, y phải tiến bộ và càng
ngày càng phát triển cho được tốt lành và thanh cao hơn, th́ y cũng sẽ tự
chuốc lấy sự bất hạnh và đau khổ vào ḿnh, bởi v́ y chỉ biết sống với khía
cạnh thấp hèn của cuộc đời mà thôi, và cái khía cạnh thấp hèn đó rốt cuộc
không bao giờ làm thỏa măn được phần linh hồn bên trong. Và bởi đó, ít nhất
y cũng phải biết một phần nào về những Luật lớn trong Trời Đất, và nếu y
chưa có thể tự ḿnh hiểu biết được những Luật đó, th́ y nên tin theo là tốt.
Về sau, ở một tŕnh độ cao hơn, trước khi được hai lần Điểm Đạo, chúng ta
được biết rằng ta phải diệt trừ mọi sự nghi ngờ.
Có người hỏi Đức Phật phải chăng điều đó có
nghĩa là chúng ta phải tin tưởng
một cách mù quáng, th́ Ngài đáp:
“Không, nhưng các người phải tự ḿnh hiểu biết
ba điều này. Một là:Người ta chỉ
có thể đạt tới sự Toàn Thiện bằng cách sống cuộc đời tốt lành chân chính, và
tiến bước trên đường Thánh Đạo mà thôi.
Hai là: Muốn đạt tới mức Toàn
Thiện, con người phải trải qua nhiều kiếp luân hồi sanh tử, và mỗi kiếp y
càng tiến lên cao lần lần. Ba là:
Có một luật Công B́nh bất di dịch cai quản mọi sự trên thế gian”.
Đến giai đoạn này, người học Đạo phải loại bỏ
mọi sự nghi ngờ, và phải hoàn toàn tin tưởng nơi những luật kể trên một cách
tuyệt đối. C̣n đối với người thường ở thế gian, th́ ít nhứt y nên tin theo
bấy nhiêu đó, bởi v́ nếu y không lấy những định luật đó làm phương châm để
hướng dẫn cuộc đời y th́ y không thể nào tiến xa hơn nữa.
Điều thứ nh́ là
Chánh Tư Duy, tức là
Tư tưởng chân chính. Chánh Tư Duy
có hai ư nghĩa khác nhau:
Một là chúng ta phải tư tưởng những điều tốt
lành, chớ không nên tư tưởng những điều quấy. Chúng ta có thể dành sẵn trong
trí luôn luôn những tư tưởng thanh cao và tốt lành, nếu ta không bận rộn với
những vấn đề sinh hoạt thông thường hằng ngày. Ta chớ nên có sự hiểu lầm về
điều này. Bất cứ công việc ǵ, ta cũng phải làm một cách sốt sắng và chu
đáo, và với sự chú ư cần thiết để hoàn thành công việc ấy một cách mỹ măn.
Nhưng phần nhiều người dầu rằng đang làm việc, hoặc trong khi tạm ngưng một
lúc, họ vẫn để tư tưởng chạy quanh những vấn đề nhỏ nhặt tầm thường và thấp
hèn. Những người học Đạo luôn luôn để dành sẵn những tư tưởng Chân Sư trong
trí của họ, để những lúc rảnh rang không bận rộn công việc trần thế, th́ lập
tức tư tưởng Chân Sư liền hiện ra, và trong trí họ chỉ có một tư tưởng đó mà
thôi. Khi ấy, người hành giả liền nghĩ rằng: “Tôi có thể làm ǵ để sống cuộc
đời tôi cho giống như đức Thầy? Tôi sẽ tự cải thiện bắng cách nào để
tôi có thể biểu dương sự tốt lành của Chân Sư
cho những người chung quanh? Tôi có thể làm ǵ để thi hành công việc mà
chúng ta có thể làm là gởi những tư tưởng giúp đỡ và thiện cảm cho người
chung quanh.
Chúng ta cũng nên nhớ rằng Tư tưởng chân chính
phải được rơ ràng nhứt định, chớ không phải là phân chia nhiều ngă. Những tư
tưởng trụ nơi một việc trong một lúc, rồi lại nhảy qua việc khác đều là vô
ích, và sẽ không giúp được ǵ cho chúng ta để kiểm soát tư tưởng của ḿnh.
Tư tưởng chân chính không bao giờ nên có một mảy may ác ư nào, và không được
có chút ǵ gọi là khả nghi. Có nhiều người không hề cố t́nh nghĩ đến điều
xấu xa hay nhơ bợn, nhưng họ lại có những tư tưởng gần gần như thế,- không
thật hẳn là quấy, nhưng có chút ít khả nghi! Trong tư tưởng chân chánh,
không nên có những chuyện như thế. Nếu ta lỡ có một ư nghĩ nào hơi khả nghi
hoặc không tốt, ta phải dẹp bỏ ư nghĩ đó ngay tức khắc. Chúng ta phải giữ
cho mọi tư tưởng đều được hoàn toàn khả ái và tốt lành.
Tư tưởng chân chính c̣n có một ư nghĩa khác
nữa, là Nghĩ đúng, tức là chúng
ta chỉ nên
nghĩ đến sự thật mà thôi. Đă bao lần chúng ta
thường hay nghĩ lầm, và hiểu lầm những người khác v́ thành kiến hoặc v́ vô
minh. Chúng ta có ư nghĩ rằng người kia là một người xấu, và bởi đó, tất cả
mọi hành động của y đều là không tốt. Chúng ta gán cho y những ư nghĩ thường
là hoàn toàn vô căn cứ; như thế chúng ta nghĩ quấy cho y, và bởi đó tư tưởng
của chúng ta không phải tư tưởng chân chính. Tất cả những người chưa được
đắc quả Chơn Tiên đều hăy c̣n là bất toàn, và có tốt có xấu lẫn lộn, nhưng
bất hạnh thay, chúng ta chỉ dùng hết trí lực để nghĩ đến khía cạnh xấu của
người khác, và quên tất cả- thậm chí không hề nh́n thấy- cái khía cạnh tốt
của họ. Bởi đó, tư tưởng của ta về những người ấy không phải là tư tưởng
chân chính, không những là nó không được nhân từ, mà nó lại c̣n không đúng.
Chúng ta chỉ nh́n thấy có một khía cạnh của người ấy, và không nh́n thấy
khía cạnh khác. Hơn nữa, v́ chúng ta chỉ chú ư đến điểm xấu của người kia
thay v́ nghĩ đến điều tốt, nên chúng ta tăng cường và khuyến khích cho cái
điểm xấu đó càng bành trướng thêm lên. Trái lại, với Tư Tưởng chân chính,
chúng ta có thể tăng cường và khuyến khích cái khía cạnh tốt lành của người
kia.
Điều thứ ba là
Chánh ngữ, tức là
Lời nói chân chính. Điều này cũng
chia làm hai phần. Trước hết, chúng ta nên luôn luôn nói đến những điều tốt
lành. Chúng ta không có bổn phận nói đến những điều xấu của người khác. Phần
nhiều, những câu chuyện mà chúng ta nghe thuật lại về người khác đều là
không đúng, như thế, nếu ta lập lại những chuyện đó, th́ lời nói của ta cũng
là không đúng, và chúng ta tự làm hại cho ḿnh cũng như ta làm hại cho người
mà ta nói quấy. Dầu cho câu chuyện ấy có thật đi nữa, người lập lại cũng vẫn
quấy, bởi v́ chúng ta không giúp ích được ǵ cả cho người kia bằng cách lặp
đi lặp lại những việc làm quấy của y. Vậy th́ điều tốt nhứt mà ta có thể làm
là đừng nói ǵ cả về chuyện đó. Tự nhiên là ta giữ im lặng, nếu việc quấy đó
là do chồng, con, hay anh em ta làm, v́ ta nghĩ rằng không nên đồn đăi ra
ngoài những việc làm quấy của người mà ḿnh thân yêu. Nhưng nếu ta tin tưởng
nơi t́nh huynh đệ đại đồng, th́ ta nên biết chúng ta không có quyền đồn đăi
chuyện xấu của bất cứ một người
nào và ta nên nói điều lành về kẻ khác cũng như ta muốn cho họ nói điều lành
đối với chúng ta vậy.
Một mặt khác, có nhiều người nói không đúng sự
thật bởi v́ họ nói hay quá lố. Một chuyện nhỏ nhặt, tầm thường, có thể do họ
phóng đại ra thành chuyện lớn. Tự nhiên đó không phải là lời nói chân chính.
Lời nói phải dịu dàng và khả ái; đồng thời nó
cũng phải cho thẳng thắn và ngay thật, chớ không nên dại dột, hồ đồ. Ở nhiều
xứ trên thế giới hiện nay, người ta có cái quan niệm sai lầm rằng người lịch
sự phải biết nói chuyện nhiều; nếu không nói năng luôn miệng th́ bị coi như
quê mùa, hoặc thiếu xă giao. Khi gặp gỡ một người bạn, người ta phải nói
huyên thuyên không dứt, nếu không, người bạn kia sẽ bị mất ḷng. Ta nên nhớ
Đấng Christ ngày xưa có nói rằng với mỗi lời nói vô ích mà con người thốt
ra, y sẽ phải trả lời về cái tội đó về sau này.
Lời nói vô ích thường là một lời nói có ác ư,
nhưng dầu cho không phải như vậy đi nữa, những lời nói vô vị dầu rằng vô
tội, cũng là làm mất th́ giờ. Nếu cần phải nói, ít nhứt ta nên nói những
điều hữu ích và có thể giúp đỡ kẻ khác. Có người muốn làm ra vẻ thông minh
và thạo đời, thường hay nói đùa hoặc nói lối luôn miệng không dứt. Họ luôn
luôn nói dậm thêm bất cứ chuyện ǵ của một người khác vừa nói. Họ luôn luôn
đưa ra khía cạnh lố bịch hoặc hài hước của mọi chuyện. Lẽ tất nhiên, những
điều đó đều là những lời nói vô ích, và chúng ta cần phải cẩn thận giữ ǵn
luôn để cho lúc nào chúng ta cũng có được lời nói chân chính.
Diều thứ tư là
Chánh nghiệp tức là
Hành động chân chính.Chúng ta
thấy ngay rằng ba điều kể trên nối tiếp theo nhau một cách chặt chẽ. Nếu
chúng ta luôn luôn tưởng nghĩ điều lành, chúng ta sẽ không bao giờ nói điều
dữ bởi v́ chúng ta chỉ nói những ǵ ta đă nghĩ trước mà thôi: và nếu tư
tưởng và lời nói của ta đều tốt lành, th́ hành động tiếp theo sau cũng sẽ
tốt. Hành động phải cho mau lẹ, nhưng phải được cân nhắc cẩn thận. Chúng ta
thường thấy có nhiều người, gặp lúc biến động khẩn cấp, th́ họ đành chịu bó
tay, vô toan kế sách; chẳng những thế, họ lại c̣n là một chướng ngại cho
những người khác có bộ óc sáng suốt b́nh tĩnh hơn. Có người lại làm càn,
không chịu suy nghĩ kỹ. Chúng ta hăy tập suy nghĩ mau chóng và hành động mau
chóng, nhưng luôn luôn với một bộ óc sáng suốt và cân nhắc cẩn thận. Trên
hết mọi sự những hành động của ta phải luôn luôn vô tư kỷ, không vụ lợi:
đừng bao giờ để cho nó có một mảy may lư do ích kỷ nào, để vụ lợi riêng cho
ḿnh. Điều này rất khó làm đối với phần đông, nhưng nó là một cái quyền năng
mà chúng ta phải tập lấy cho được. Là những người phụng sự các đấng Chân Sư,
chúng ta có nhiều cơ hội để thực hành cái lư tưởng đó trong công việc làm
hằng ngày. Chúng ta chỉ nên nghĩ đến công việc phụng sự và những ǵ chúng ta
có thể làm để giúp đỡ người khác, với một tinh thần hoàn toàn vị tha...
Chúng ta không nên nghĩ đến những việc ǵ chúng ta thích làm, mà chỉ cố gắng
làm hết sức ḿnh để thi hành trọn vẹn phần công việc được giao phó cho ta.
Trong thời đại này, ít người sống ẩn dật cô đơn
như những nhà tu sĩ thời xưa. Chúng ta sống trong xă hôi tập đoàn, bởi đó
những tư tưởng, lời nói hay việc làm của chúng ta đều có ảnh hưởng đến rất
nhiều người khác. Ta nên nhớ rằng tư tưởng, lời nói hay hành động của chúng
ta không phải chỉ là những khả năng mà nó là những quyền năng- những quyền
năng được giao phó cho ta được sử dụng, mà chúng ta phải trực tiếp chịu
trách nhiệm. Những quyền năng đó là để cho ta dùng trong việc Phụng Sự, nếu
ta dùng vào mục tiêu khác, tức là ta không làm tṛn bổn phận ḿnh.
Điều thứ năm là
Chánh Mạng, tức là
Nghề Nghiệp chân chính. Điều này
là một vấn đề có liên hệ đến rất nhiều người. Nghề nghiệp chân chính tức là
những phương tiện sinh hoạt làm ăn, nghề nghiệp nào không làm tổn nhơn hại
vật, không gây thiệt hại cho bất cứ một sinh vật nào. Chúng ta thấy rằng
nghề này ngăn cấm những nghề như là làm đồ tể, làm hàng thịt hay làm nghề
chài lưới; nhưng ngoài ra, nó c̣n đi xa hơn nữa. Chúng ta không nên làm
những nghề tổn nhân hại vật, như vậy nghề bán rượu cũng không phải là một
nghề nghiệp chân chính. Người bán rượu tuy không phải là giết người, nhưng
chắc chắn là y làm thương tổn và y sống trên sự thương tổn gây ra cho kẻ
khác.
Điều răn này c̣n đi xa hơn. Ta hăy lấy thí dụ
một người lái buôn kia hành nghề một cách bất lương. Đó không phải là làm
nghề nghiệp chân chính, v́ y lường gạt thiên hạ để kiếm nhiều lời. Nếu người
lái buôn hành nghề một cách lương thiện, y mua hàng sỉ và bán lẻ với một số
tiền lời vừa phải, th́ đó là phương tiện làm ăn chân chính. Nhưng nếu y
lường gạt thiên hạ, y bán thứ hàng xấu mà quảng cáo là hàng tốt, th́ y là kẻ
bất lương. Như thế, một nghề chân chính có thể trở thành bất chính nếu người
ta hành nghề ấy với một tinh thần bất lương. Chúng ta phải xử thế một cách
lương thiện với kẻ khác cũng như ta muốn cho họ xử thế lương thiện với chính
ḿnh.
Người đi buôn biết những chỗ hay cũng như chỗ
dở về món hàng của họ bán mà người mua thường không biết. V́ không biết món
hàng hay dở thế nào, nên người mua hoàn toàn đặt tín nhiệm nơi người bán
hàng. Khi người ta đặt tín nhiệm vào một vị bác sĩ hay một luật sư, th́
người ta có quyền sở cậy nơi sự làm việc tận tâm của các vị ấy. Trong trường
hợp người mua đặt tín nhiệm nơi người bán hàng th́ cũng giống y như vậy, bởi
đó người bán hàng cũng phải có lương tâm phục vụ người mua, cũng như vị bác
sĩ hay luật sư tận tâm phục vụ thân chủ của họ. Khi người ta đặt tín nhiệm
nơi ḿnh, th́ đó là cả một vấn đề danh dự mà ḿnh phải đền đáp lại một cách
xứng đáng. Người làm nghề buôn bán thương mại, có quyền thu lợi một cách vừa
phải, nhưng đồng thời cũng phải hiểu rơ và làm tṛn cái thiên chức của ḿnh
đối với nhân quần xă hội vậy.
Điều thứ sáu là
Chánh Tinh Tấn, tức là
Cố gắng, công phu chân chính. Đây là một điều rất quan trọng. Chúng ta
không nên tự hài ḷng với một sự tốt lành tiêu cực của ḿnh mà thôi. Không
làm điều ác cũng chưa đủ, mà c̣n phải tích cực làm điều thiện. Khi Đức Phật
tóm tắt giáo lư của Ngài trong một bài thi ngắn, Ngài bắt đầu bằng câu: “Chư
ác mạc tát” (Tránh mọi điều ác), nhưng câu sau liền tiếp theo “Chúng
thiện phụng hành” (Nguyện làm mọi việc lành). Như thế, làm người tốt một
cách thụ động vẫn chưa đủ. Có bao nhiêu người có ư tưởng tốt, nhưng không
làm được điều ǵ có ích lợi cho ai cả!
Mỗi người đều có ít nhiều năng lực, chẳng những
là về thể chất mà c̣n có sức mạnh về tinh thần. Khi chúng ta phải làm một
công việc ǵ trong một ngày, chúng ta biết rằng ḿnh phải tiết kiệm sinh lức
và trước khi bắt đầu, chúng ta không phí sức với những việc ǵ khác, ngoài
ra công việc mà ta sắp phải làm. Cũng như thế, chúng ta có ít nhiều mănh lực
về ư chí và cân năo mà chúng ta chỉ có thể dùng làm một phần công việc nào
đó mà thôi, bởi vậy chúng ta phải giữ ǵn và liệu xem chúng ta sẽ sử dụng
quyền năng ấy như thế nào. Ngoài ra, chúng ta c̣n có những quyền năng khác
nữa, mỗi người đều có ít nhiều ảnh hưởng đối với bạn bè hay thân quyến của
họ. Cái ảnh hưởng đó cũng là một cái quyền năng, và chúng ta có trách nhiệm
phải sử dụng đúng phép cái quyền năng đó. Chung quanh ta có những vợ con bạn
bè, thân bằng quyến thuộc, lao công, tôi tớ v.v... và đối với họ, ta có ít
nhiều quyền lực và ảnh hưởng; chúng ta phải thận trọng từng lời nói và cử
chỉ, v́ ta sẽ là cái gương cho họ bắt chước.
Chánh Tinh Tấn nghĩa là biết làm việc một cách
có hiệu quả chớ không phí phạm sức lực và thời gời. . Có nhiều việc mà ta có
thể làm, nhưng có việc cần phải làm ngay và khẩn cấp hơn những việc khác.
Chúng ta phải nh́n nhận thấy ở chỗ nào sự công phu cố gắng của ta là cần
thiết và hữu ích nhất. Không phải tất cả mọi người đều phải làm một việc y
như nhau, mà phải chia đều công việc để cho nó được thành tựu một cách mỹ
măn và trọn vẹn, chứ không nên chú trọng ở một mặt mà thôi. Trong những vấn
đề này, ta cần sử dụng lư trí và sự khôn khéo của ḿnh.
Điều thứ bảy là
Chánh Niệm, tức là
Tưởng nhớ chân chính. Người Phật
tử thường cho rằng điều này có nghĩa là sự nhớ lại những kiếp trước, cũng
như những Đức Phật có thể hoàn toàn nhớ lại hết tất cả những tiền kiếp của
Ngài. Trong Kinh Jataka có thuật chuyện Đức Phật bị một người khác nói hành.
Ngài bèn day lại các đệ tử và nói: “Trong một tiền kiếp, Ta có chửi mắng
người này, nên bây giờ Ta bị y nói hành trở lại. Vậy Ta không có quyền giận
y”. Lẽ tất nhiên, nếu nhớ lại tất cả những ǵ đả xảy đến với Ta trong những
tiền kiếp, th́ chúng ta có thể sắp đặt cuộc đời hiện tại của ḿnh một cách
chu đáo hơn. Tuy nhiên, phần đông chúng ta không có cái quyền năng nhớ lại
những kiếp trước, nhưng chúng ta không nên v́ thế mà nghĩ rằng điều răn
Chánh Niệm không áp dụng cho chúng ta.
Trước hết, điều này có nghĩa là
tự kiểm thảo lấy ḿnh. Chúng ta
phải nhớ rằng ta là ai, ta có bổn phận ǵ, phải đóng vai tṛ ǵ, và ta phải
làm ǵ cho đức Chân Sư. Chánh Niệm lại c̣n có nghĩa là phải biết chọn lựa
một cách hợp lư điều ǵ ta cần phải nhớ. Trong cuộc đời của chúng ta, ai
cũng có khi ch́m khi nổi, lúc vui lúc buồn. Người khôn ngoan chỉ nhớ những
điều vui tươi, tốt lành, và quên đi những điều buồn rầu, đau khổ. Thí dụ có
người nói với ta những điều nặng nề, thô bỉ, người dại dột sẽ nhớ điều đó
hằng tuần, hằng tháng, hằng năm, và lúc nào cũng nói rằng người kia nói nặng
lời với y. Điều đó sẽ đè nặng trong trí của y. Nhưng thử hỏi có ích ǵ? Dĩ
nhiên là không ích ǵ cả. Điều đó chỉ làm cho y bực tức và y lúc nào cũng
nuôi trong trí một tư tưởng ác. Điều ấy chắc chắn không phải là Chánh Niệm
vậy.
Chúng ta hăy nên quên và tha thứ cho kẻ khác
những điều chẳng lành mà họ làm cho chúng ta, nhưng phải luôn luôn ghi nhớ
những điều tốt lành mà ta đă thọ lănh, để cho tâm hồn ta tràn đầy t́nh
thương và ḷng biết ơn. Một mặt khác, chúng ta ai cũng có làm nhiều điều lầm
lỗi; vậy chúng ta nên nhớ những điều đó để giữ ḿnh cho khỏi tái phạm. Trái
lại, chúng ta không nên tự kiểm thảo một cách quá đáng, lúc nào cũng nhồi đi
nhồi lại trong trí những điều lầm lỗi đó, rồi đâm ra hối tiếc và buồn rầu
quá lẽ. Làm như vậy cũng không phải là Tưởng nhớ chân chính.
Điều thứ tám là
Chánh Định tức là
Thiền Định chân chính. Điều này
không những nói về cách tham thiền hằng ngày của chúng ta mà cũng có nghĩa
là trong mỗi kiếp sống ở thế gian, chúng ta nên chuyên tâm vào mục đích làm
lành và phụng sự giúp đỡ kẻ khác. Trong sự sinh hoạt hằng ngày, chúng ta
không thể luôn luôn ngồi thiền, v́ chúng ta c̣n phải bận rộn làm công kia
việc nọ; nhưng tôi không chắc rằng nói như thế là hoàn toàn đúng. Chúng ta
không thể luôn luôn tách rời tâm thức của ḿnh ra khỏi cảnh giới phàm trần
để trụ vào những cơi giới cao siêu. Nhưng chúng ta có thể sống một đời sống
thiền định theo ư nghĩa này, là những tư tưởng cao siêu phải luôn luôn được
để dành sẵn làm bối cảnh trong trí của ta, như tôi đă nói ở nơi đề mục “Chánh
Tư Duy”, để cho khi nào trí ta không bị bận rộn việc ǵ khác, th́ lập
tức chúng ta liền nghĩ đến những điều cao thượng và tốt lành. Chừng đó cuộc
đời của chúng ta là một cuộc đời luôn luôn định trí với những vấn đề thanh
cao tốt lành nhứt, chỉ thỉnh thoảng gián đoạn một đôi lần để nghĩ đến sinh
hoạt hằng ngày.
Khi ta đă tập cho tư tưởng trở thành thói quen
được như thế nó sẽ ảnh hưởng đến chúng ta bằng nhiều cách mà ta không thể
biết được. Theo luật Đồng khí tương
cầu, hai người sẽ cùng áp dụng một đường lối tư tưởng như thế sẽ kết hợp
lại với nhau, và sẽ cảm thấy có sự hấp dẫn lại gần với nhau. Như vậy, một
trung tâm gồm những người cùng có thói quen nghĩ đến những điều cao thượng
sẽ tập hợp lại với nhau và có lẽ sẽ phát triển lần lần thành một Chi Bộ
Thông Thiên Học. Dầu sao, họ sẽ kết hợp lại với nhau, những tư tưởng của họ
sẽ ảnh hưởng lẫn nhau, và như thế mỗi người sẽ giúp đỡ rất nhiều cho sự tiến
bộ của toàn thể. Hơn nữa bất cứ nơi nào chúng ta đi đến, chúng ta cũng được
vây phủ chung quanh bởi những vị khuất mặt, những vị Thiên Thần, Tinh linh,
và những người đă rời khỏi xác phàm. Sự Thiền Định chân chính sẽ hấp dẫn lại
gần ta những phần tử tiến hóa nhứt của các cơi giới vô h́nh, và dầu cho
chúng ta đi đến nơi nào, chúng ta cũng được bao phủ trong những luồng ảnh
hưởng tốt lành và thánh thiện.
Đó là lời dạy của Đức Phật trong bài thuyết
pháp đầu tiên khi Ngài
“chuyển Pháp Luân” để truyền bá chánh pháp của
Ngài cho thế gianđă trên 25 thế kỷ nay.
Trong một tương lai xa xăm, khi thời giờ xuất
hiện của một vị Phật tương lai sẽ đến, và vị đương kim Bồ Tát chuyển kiếp
lần cuối cùng để đạt tới cái quả vị cao cả đó, th́ Ngài sẽ giảng Chánh Pháp
cho thế gian dưới một h́nh thức nào mà Ngài cho là thích hợp nhứt cho sự nhu
cầu của thế hệ. Chừng đó, vị kế nghiệp cho Ngài ở chức vụ cao cả của đức
Chưởng Giáo sẽ là Chân Sư Kuthumi, vị này đă tự Ngài chuyển qua Cung 2 để
đảm lấy chức vụ Bồ Tát của Giống Dân thứ sáu trong tương lai.
CHƯƠNG XV
QUYỀN NĂNG TRONG BA NGÔI
ĐỨC NGỌC ĐẾ
Về phương diện tâm linh, quả Địa cầu của chúng
ta được đặt dưới sự cai quản của đức Ngọc Đế, là một trong những vị Kim Tinh
Chơn Quân, từ bầu Kim Tinh đến kể từ bao nhiêu triệu năm nay. Người Ấn Độ
gọi Ngài là Sanat Kumara; có chỗ gọi Ngài là Đấng Điểm Đạo Độc Tôn, đấng Độc
Nhứt Vô Nhị, đấng Thanh Niên Mười Sáu Xuân Xanh; và chúng ta gọi Ngài là đức
Ngọc Đế. Ngài là đấng Chủ Tể, hào quang của Ngài bao trùm hết tất cả bầu
hành tinh của chúng ta. Ngài đại diện cho Đức Thượng Đế trên thế gian,
và chỉ huy toàn diện cuộc Tiến Hóa trên quả Địa
Cầu, không những của nhân loại mà thôi, mà củng gồm luôn sự tiến hóa của các
Thiên Thần, các Tinh Linh Ngũ Hành, và tất cả mọi chúng sinh trên mặt đất.
Lẽ tất nhiên, Ngài hoàn toàn khác hẳn với đấng Cao Cả gọi là Tinh Hoa của
Trái Đất, đấng này dùng quả Địa Cầu làm một thể xác hồng trần.
Đức Ngọc Đế ǵn giữ trong Trí của Ngài toàn
diện Cơ Tiến Hóa, ở một mực độ rất cao mà chúng ta không biết ǵ cả. Ngài là
cái Động Lực thúc đẩy mọi sự tiến hóa trên mặt đất, là sự biểu hiện của
Thiên ư trên quả địa cầu. Tất cả những đức tính biểu lộ trong đời sống của
người thế gian, như sức mạnh, can đảm, cương quyết, kiên nhẫn, cùng những
đức tính khác, v,v... đều là phản ảnh của Ngài. Tâm thức của Ngài rộng răi
bao la, tâm hiểu biết của Ngài có thể thấu đáo trong khoảnh khắc tất cả mọi
sự sinh hoạt trên mặt địa cầu. Ngài nắm giữ trong tay những quyền năng tiêu
diệt các lục địa ở mỗi chu kỳ, v́ Ngài sử dụng Điển Lực (fohat) trên những
mực độ rất cao và có thể trực tiếp sử dụng những mănh lực Vũ Trụ ngoài dăy
Hành Tinh của chúng ta. Công việc của Ngài thường là liên hệ đến
toàn thể nhân loại hơn là liên hệ
đến từng cá nhân, nhưng khi Ngài ảnh hưởng đến bất cứ một người nào, chúng
tôi được biết rằng đó là ảnh hưởng trực tiếp xuyên qua Chơn Thần của người
ấy, chớ không phải xuyên qua Chơn Nhơn.
Người thí sinh trên đường Đạo sẽ có lúc tiến
đến một giai đoạn mà y được chánh thức tŕnh diện với đức Ngọc Đế. Những
người nào có diễm phúc gặp Ngài tận mặt đều nói rằng Ngài có cái h́nh dáng
của một người thanh niên tuấn tú, nghiêm chỉnh, và từ bi khôn tả. Tuy nhiên,
Ngài cũng có một phong độ oai nghi, biểu lộ một sự Toàn Năng không thể đo
lường, và một uy quyền mănh liệt đến nỗi có vài người không thể chịu đựng
nổi cái nh́n của Ngài, và phải che mặt v́ sợ hăi. Đó là trường hợp của bà
Blavatsky, nhà Sáng Lập Hội Thông Thiên Học chúng ta. Người nào đă có cái
kinh nghiệm đó rồi th́ không thể nào quên, và cũng không bao giờ có thể nghi
ngờ rằng, dầu cho thế gian có những tội lỗi và đau khổ lớn lao đến thế nào,
rốt cuộc tất cả mọi sự đều đua con người đến chỗ tốt lành, và nhân loại luôn
luôn được d́u dắt, hướng dẫn đi đến mục đích cuối cùng.
Chúng tôi được biết rằng trong mỗi thời kỳ của
một bầu thế giới, có ba vị Ngọc Đế nối nghiệp lẫn nhau, và đức Ngọc Đế hiện
thời giữ chức vụ đó là vị thứ ba. Ngài cùng với ba vị đệ tử hiện nay ở tại
một nơi hẻo lánh trong vùng sa mạc Gobi, gọi là
Shamballa
thường
được gọi là Đảo Thiêng, để nhắc lại hồi thuở vùng này hăy c̣n là một ḥn đảo
ỡ giữa biển thuộc Trung Bộ Á Châu. Bốn đấng Cao Cả này thuộc hệ thống tiến
hóa khác hẳn của chúng ta. Những Thể Xác của các Ngài, mặc dầu bề ngoài
giống như h́nh người,
nhưng khác hẳn với xác phàm của chúng ta về
cách cấu tạo, v́ đó là những Thể Xác giả tạo, và những tế bào của nó không
có thay đổi như xác phàm con người. Những Thể Xác đó không cần ăn uống vật
thực, và trải qua hằng ngàn năm vẫn không hề thay đổi.
Ba vị đệ tử nói trên là ba vị Độc Giác Phật (Pratyeka
Buddha) cấp đẳng ngang hàng với quả vị Phật, trợ giúp đức Ngọc Đế trong
công việc của Ngài, và sẽ là ba vị Ngọc Đế tương lai khi nhân loại chuyển
qua bầu Thủy Tinh (Mercury).
Bảy năm một lần, đức Ngọc Đế cử hành tại
Shamballa một cuộc lễ lớn cũng đại khái giống như Lễ Wesak, nhưng trên một
quy mô rộng lớn hơn và thuộc loại khác hơn. Trong cuộc Lễ này tất cả các vị
Chơn Tiên và vài vị Đạo Đồ ở cấp đẳng thấp hơn đều được mời tham dự, và như
thế các Ngài có dịp tiếp xúc với đấng Chủ Tể của Quần Tiên Hội. Trong những
dịp khác, đức Ngọc Đế chỉ tiếp xúc với những vị Trưởng Thượng trong Quần
Tiên Hội trừ khi nào v́ những lư do đặc biệt, Ngài kêu gọi những vị khác đến
trước mặt Ngài.
Địa vị cao cả của đức Ngọc Đế đă được diễn tả
trong bộ sách “Giáo Lư Nhiệm Mầu”.
Trong đó có nói rằng trải qua gịng thời gian, những quả vị lớn lao đưa đến
mức Toàn Thiện vẫn sẽ không thay đổi, mặc dầu toàn thể chúng sinh đều tiến
lên măi. Như thế những điều sở đắc của người hành giả để đạt tới một quả vị
nhứt định trong cái tương lai xa xăm về sau, sẽ đầy đủ viên măn hơn là so
với thời buổi bây giờ. Sách ấy nói: “Người Toàn Thiện của cuộc Tuần Hườn thứ
Bảy của Dăy Hành Tinh hiện tại sẽ c̣n thấp hơn có một bực so với quả vị cao
tột trên Địa Cầu hiện nay”. Nghĩa là: quả vị đức Ngọc Đế hiện thời ở trên
một cấp đẳng cao hơn quả vị mà người Toàn Thiện của nhân loại chúng ta sẽ
đạt tới trong Cuộc Tuần Hoàn thứ Bảy, tức là sau những thế hệ tiến hóa phải
trải qua hằng triệu năm và đưa chúng ta đi xuyên qua hai Cuộc Tuần Hườn rưỡi
gồm bao nhiêu kiếp sinh tử luân hồi với những kinh nghiệm đủ mọi thứ. Đấng
Cao Cả nói trên xuất hiện trong thời kỳ Giống Dân thứ Ba để đảm nhiệm lấy
cuộc Tiến Hóa trên quả Địa Cầu. Điều này được diễn tả trong quyển “Con
người, từ đâu đến và sẽ đi về đâu”.
“Ngôi Bắc Đẩu lớn vẫn hoàn toàn chói rạng. Châu
Lemuria nằm vắt ngang trái Đất dọc theo đường Xích Đạo, gồm luôn cả đảo
Madagascar hiện nay. Vùng biển cả ngày nay đă biến thành sa mạc Gobi, hồi đó
vẫn c̣n đập sóng vào những ghềnh đá ở sường núi phía Bắc dăy Hy Mă Lạp Sơn.
Tất cả đều được chuẩn bị để chờ đón một sự kiện vĩ đại nhứt trong lịch sử
quả Địa Cầu: đó tức là sự xuất hiện của những đấng Thần Hỏa Chơn Quân (1)[viii]
từ bầu Kim Tinh đến.
“Những vị Thái Âm Tinh Quân (2)[ix]
và đức Bàn Cổ của Giống Dân thứ Ba đă làm đủ hết mọi cách để d́u dắt sự tiến
hóa của con người đến một giai đoạn làm cho cái mầm Trí tuệ của họ được nảy
nở mau chóng, và Chơn Nhơn có thể xuất hiện. Tất cả những kẻ chậm tiến đều
được thúc đẩy cho mau tiến lên; trong hàng ngũ loài cầm thú, không c̣n con
thú nào có thể tiến lên thành người nữa.
“Sự tiến hóa của loài thú thành loài người chỉ
bị ngăn chận lại khi nào thấy không c̣n con thú nào có triển vọng tiến lên
nữa. Hoặc không c̣n con thú nào có thể tiến lên thành người mà không có sự
trợ giúp một cái đà mănh liệt, chỉ được ban cho chúng có một lần ở vào
khoảng giữa mỗi Hệ Thống Tiến Hóa.
“Thời giờ được chọn cho sự việc quan trọng này
là nhằm lúc mà ảnh hưởng của các vị tinh tú được đặc biệt tốt lành, và trạng
thái từ điển của trái Đất được thuận tiện nhứt. Đó là vào khoảng độ sáu
triệu rưỡi năm về trước.
“Khi đó, với những tiếng gầm rung trời chuyển
đất giáng xuống rất mau từ những đỉnh cao tột không thể đo lường, bao phủ
chung quanh bằng những khối lửa khổng lồ với những lửa đỏ xẹt ra tràn khắp
mọi nơi trên nền trời, chiếc xe của các đấng Thần Hỏa Chơn Quân từ bầu Kim
Tinh
vượt qua không gian giáng xuống Địa Cầu, và ngừng lại
ở phía trên “Đảo Thiêng” nằm giữa Biển Gobi. Đảo ấy cây cỏ xanh tươi, và
tràn đầy những khóm hoa thơm muôn màu tươi thắm, dường như là địa điểm tốt
lành và đẹp đẽ nhứt của quả Địa Cầu để nghinh đón đức Ngọc Đế. Ngài đă xuất
hiện, vị Thanh Niên Mưới Sáu cái Xuân Xanh, đức Sanat Kumara, vị Chủ Tể mới
của quả Địa Cầu, đă đến chỗ nhiệm sở mới của Ngài cùng với những vị Đệ Tử là
ba vị Độc Giác Phật (Kumaras), và những vị Phụ tá khác ở chung quanh Ngài.
Tất cả có đến ba mươi đấng Cao Cả đă xuất hiện, cao cả hơn những ǵ mà thế
gian có thể hiểu biết, với nhiều đẳng cấp khác nhau. Các Ngài đều có những
Thể tinh anh, do các Ngài tự tạo lấy bằng sức mạnh của Ư Chí (Kriya Shakti).
Các Ngài gồm thành phần đầu tiên của nhóm Quần Tiên Hội, là Cơ quan đào tạo
nên các vị Chân Sư tương lai, và trung tâm huyền bí của tất cả mọi sinh hoạt
tâm linh trên thế gian. Ḥn Đảo Thiêng này là một nơi Đất Lành bất diệt,
trên đó luôn luôn chói rạng Ngôi Sao Sáng, hiểu hiện của đức Ngọc Đế, Chủ tể
quả Địa Cầu”
Về vấn đề này, bà Blavatsky viết trong quyển “Giáo
Lư Nhiệm Mầu” như sau:
“Đấng Cao Cả vừa được đề cập đến ở đoạn trên,
vốn vô danh tánh, là cái Gốc do đó phát sinh trong những thế hệ tương lai,
tất cả những bậc Hiền Minh Thánh Triết nổi danh trong lịch sử, như các đấng
Giáo Chủ Kapila, Hermes, Enoch, Orpheus,v.v...
“Ngài là Nhân Vật Huyền Bí mà những giai thoại
được truyền thuyết khắp nơi ở các xứ phương Đông, nhứt là trong giới Huyền
Môn và những người học Đạo pháp bí truyền. Ngài có khi thay đổi sắc tướng,
nhưng tựu trung vẫn là một đấng duy nhứt mà thôi. Chính Ngài là vị Chủ Tể,
về phương diện tâm linh, của tất cả các đấng Tiên Thánh đă Điểm Đạo trên
toàn cơi thế giới. Như đă nói ở trên, Ngài là “Đấng Vô Danh”, tuy có rất
nhiều tên gọi, nhưng không ai biết rơ về những tên hiệu thật cùng bản chất
của Ngài.
“Ngài là đấng cầm quyền Điểm Đạo, gọi là bậc
“Đại Hy Sinh”. Đó là bởi v́, ngồi bên ngưỡng cửa Ánh Sáng, Ngài nh́n vào đó
từ bên trong cái Ṿng Vô Minh hắc ám, mà Ngài sẽ không vượt qua; và Ngài
cũng sẽ không rời khỏi nhiệm sở của Ngài cho đến giờ phút cuối cùng của Chu
kỳ sinh hoạt hiện tại.
“Tại sao đấng Trông Nom vô h́nh ấy vẫn ở lại
nhiệm sở do Ngài chọn lựa? Tại sao Ngài vẫn ngồi một bên Gịng Suối Minh
Triết, mà Ngài không c̣n uống nữa, v́ không c̣n điều ǵ mà Ngài không biết
và phải học nữa ở cơi Hạ Giới hay ở cơi Trời? Bởi v́ những người Hành Hương
lẽ bạn cô đơn với bàn chân rướm máu trên con đường thiên lư gian nan trở về
Gốc cũ, không bao giờ dám chắc cho đến giờ phút cùng cuối rằng họ sẽ không
bị lạc đườngtrong băi sa mạc minh mông của Ảo Vọng và vật chất phù du mà
người ta gọi là Cuộc đời thế tục;
“Bởi v́ Ngài phải đưa đường chỉ lối đến nơi tự
do, sáng sủa, cho những người nào đă giải thoát ra khỏi sự trói buộc của
nhục thể và ảo tưởng. Nói tóm lại, bởi v́ Ngài đă tự hy sinh v́ hạnh phúc
của Nhân Loại, mặc dầu chỉ có một thiểu số những người hữu phước được thừa
hưởng ân huệ của cuộc Đại Hy Sinh ấy.
“Chính nhờ sự d́u dắt trực tiếp và im lặng của
đấng Cao Cả ấy mà tất cả những vị Chân Sư, Chưởng Giáo của thế gian trở nên
những vị hướng dẫn của nhân loại lúc sơ khai, kể từ thuở tâm thức con người
mới bắt đầu khai mở.
“Chính nhờ những vị ấy mà Nhân Loại ấu trĩ học
được những nguyên tắc đầu tiên của tất cả các ngành nghệ thuật, khoa học và
triết học tâm linh. Chính các Ngài đă xây nền móng căn bản cho những nền văn
minh cổ đă từng làm cho thế hệ học giả và sinh viên của thời đại này phải
lấy làm vô cùng ngạc nhiên”.
NHỮNG CUỘC ĐIỂM ĐẠO TỐI CAO
Sự tiến hóa của con người đến quả vị cao tột
trong Quần Tiên Hội của quả Địa Cầu chỉ có thể thực hiện trên Cung số 1, v́
trên Cung này c̣n hai cuộc Điểm Đạo tối cao, ở trên quả vị đức Bàn Cổ. Ở
trên đức Bàn Cổ một đẳng cấp, c̣n có những vị Độc Giác Phật (Pratyeka
Buddha). Các Ngài không có nhiệm vụ dạy dỗ chúng sinh, v́ các Ngài c̣n có
công việc phải làm thuộc về Cung số 1 là Cung của các Ngài. Sẽ có lúc, các
Ngài sẽ rời khỏi bầu thế giới hiện tại, để tiếp tục công việc cao cả của các
Ngài ở những bầu hành tinh khác.
Trên quả vị ấy một bực, là cuộc Điểm Đạo mà
không ai có thể ban cho ḿnh, nhưng mỗi Vị phải tự Điểm Đạo lấy: đó là quả
vị của đức Ngọc Đế. Chức vụ này chỉ được thừa hành trong một thời gian ngắn,
nói về trường hợp hai vị Ngọc Đế đầu tiên của một bầu thế giới, và khi giai
đoạn ấy đă qua, th́ vị Ngọc Đế thứ ba sẽ đảm nhiệm Chức Vụ này trong một
thời kỳ lâu dài hơn.
Trách nhiệm của đức Ngọc Đế thứ Ba lớn lao hơn
nhiều, so với công việc của hai vị Ngọc Đế đầu tiên, v́ Ngài có bổn phận kết
thúc chu kỳ tiến hóa vừa qua một cách mỹ măn, và giao hằng triệu chúng sinh
đang tiến hóa vào tay đức Bàn Cổ. Đức Bàn Cổ sẽ có trách nhiệm coi sóc chúng
sinh ấy trong thời kỳ nghỉ ngơi ở vào khoảng giữa hai bầu hành tinh, và sẽ
giao chúng sinh ấy lại cho vị Bàn Cổ tương lai của bầu hành tinh kế tiếp.
Đức Ngọc Đế thứ Ba sau khi đă hoàn thành sứ
mạng của Ngài, đạt tới một quả vị hoàn toàn ngoài ṿng thế gian và ngoài
ṿng Quần Tiên Hội, đó là Quả Vị của đấng Trông Nom Yên Lặng. Với chức vụ
này, Ngài coi sóc toàn thể chu kỳ tiến hóa của một cuộc Tuần Hườn. Chỉ khi
nào luồng sống Sinh Hoạt lại tái diễn trên bầu hành tinh của chúng ta, và
lại sắp sửa rời khỏi trái Đất, th́ chứng đó Ngài mới chấm dứt chức vụ lạ
lùng của Ngài, và giao lại cho đấng Cao Cả kế nghiệp chức vụ ấy.
MỤC ĐÍCH CUỐI CÙNG
Những Quả vị cao tột huy hoàng đó tuy hiện thời hăy c̣n ở trên chúng ta rất
xa, nhưng chúng ta cũng nên nâng cao tư tưởng lên đến các Ngài và thử nhận
định tầm quan trọng của các quả vị trên Thiên Đ́nh. Điều này chỉ cho ta thấy
cài mục đích đặt trước mặt mỗi người trong chúng ta. Chúng ta càng nh́n thấy
rơ cái mục đích ấy bao nhiêu, th́ sự tiến bộ của chúng ta trên đường Đạo
càng mau chóng và vững vàng hơn bấy nhiêu, mặc dầu không phải tất cả mọi
người đều có thể hy vọng thực hiện cái lư tưởng cổ truyền về vấn đề này, là
bay như mũi tên thẳng tới đích.
Trên đường tiến hóa vĩ đại đó, mỗi người sẽ có
ngày đạt tới sự toàn giác trên cơi cao nhứt trong Thiên Nhiên, là cơi Tối
Đại Niết Bàn. Ở trạng thái đó, Bậc Toàn Giác sẽ ư thức được tất cả mọi tŕnh
độ sinh hoạt ở các cơi trong Vũ Trụ, và bởi v́ Người đă có cái quyền năng
hoạt động trên cơi cao nhứt, nên Người sẽ có thể hiểu biết và hoạt động trên
cơi giới thấp nhứt và giúp đỡ ở nơi nào cần đến sự giúp đỡ. Những quyền lực:
Toàn Năng, Toàn Giác và Toàn Thông chắc chắn là sẽ chờ đợi mỗi người trong
chúng ta, và mặc dầu đời sống ở cơi phàm trần hạ giới này không đáng cho
chúng ta sống để thụ hưởng hoặc thu thập những ǵ riêng cho ḿnh, nhưng nó
cũng đáng để cho chúng ta chịu đựng và rèn luyện ḿnh, như một giai đoạn cần
thiết để chuẩn bị cho chúng ta bước vào một đời sống chân thật huyền diệu,
và huy hoàng trong tương lai.
“Mắt phàm không hề thấy, tai phàm không hề nghe,
và tâm phàm của con người không hề cảm biết và quan niệm được những ǵ mà
Thượng Đế đă dành sẵn cho những người nào biết kính yêu Ngài”, bởi v́ ḷng
Bác Ái, sự Minh Triết, và quyền năng của Thượng Đế rộng lớn vô biên, vượt
quá mọi tầm hiểu biết của con người cũng như sự Bằng An của Ngài vậy.
VẠN VẬT THÁI B̀NH
(Dịch xong tại Adyar Madras
(Ấn Độ), tháng 4 năm 1967)
[i] Khi đề tựa quyển sách này, bà Annie Besant là Chánh Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học thế giới (lời Dịch giả).
[ii]
-đại chủng: Giống Dân
Chính (race mère)
[iii]
-chi chủng: Chi nhánh
của một Giống Dân (sous race)
[iv]
Đạo đồ: vị đệ tử đă được
Điểm Đạo (Initié)
[v] Chủng Chi: Chi nhánh của một Giống Dân.
[vi]
Planetary, vị Chủ Tể của Dăy
Hành Tinh hiện tại.
[vii]
Những thế giới cấu tạo không
bằng những chất thanh khí, nhẹ hơn vật chất hồng trần.
[viii]
(Lords of the flame) hay là
Kim Tinh Chơn Quân (Lords of Venus) cũng vậy.
[ix]
Lords of the Moon.
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES