Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  QUEST  MAGAZINES 

 

Các “Huynh Trưởng” của Thông Thiên Học

(“The Brothers” of Theosophy)

Tác giả A. P. Sinnett

Bản dịch: Chơn Như - 2011

 

Các “Huynh Trưởng” của Thông Thiên Học

 

Nguyên bản được xuất bản thành hai bài báo đăng trong Tạp chí Ánh Sáng (Luân Đôn) :

 số 22 tháng 12 năm 1883 từ trang 557 – 559.

số 29 tháng 12 năm 1883 từ trang 568 – 569

Tài liệu sau đây được ông Sinnett diễn thuyết trong một cuộc hội họp riêng tư mới đây của các nhà Thông Thiên Học và nhóm thân hữu.

Tôi đă viết trên giấy trắng mực đen một vài nhận xét mà tôi muốn tŕnh bày chiều nay để có thể đệ tŕnh cho các bạn cứu xét một cách có hệ thống một số quan điểm liên quan tới Hội Thông Thiên Học.

Mọi người đă quan tâm tới bất kỳ giáo huấn nào t́m cách xuất hiện trên thế gian qua trung gian Hội Thông Thiên Học chẳng bao lâu sau sẽ quay sang phê chuẩn nền tảng của các giáo huấn này.

Thế mà lời giải đáp huyền bí chính thống cho đến nay được dành cho kẻ điều tra  về tính chân thực của bất kỳ phát biểu nhỏ nhặt nào về khoa học huyền bí đă từng được tŕnh bày cho đến nay đều chỉ đơn giản như sau: “Các con hăy tự ḿnh nhận biết nó”. Điều này có nghĩa là phải sinh hoạt tâm linh thuần túy, trau dồi các năng lực nội giới rồi từng bước năng lực này sẽ được khơi hoạt và phát triển đến mức giúp cho các bạn tự ḿnh thám hiểm được Thiên nhiên. Nhưng lời khuyến cáo ấy không thuộc loại mà đại đa số mọi người sẵn ḷng nghe theo, v́ thế cho nên việc hiểu biết những sự thật của khoa học huyền bí vẫn c̣n nằm trong tay một số ít người.

Giờ đây đă có một sự phát khởi mới. Một vài bậc lăo thành về khoa học huyền bí đă phá vỡ những hạn chế cổ xưa trong ḍng tu của ḿnh và đột ngột tiết lộ một loạt những phát biểu đưa ra cho thế gian cùng với một số thông tin nào đấy liên quan đến những thuộc tính và năng lực mà bản thân các ngài thủ đắc được và nhờ vậy các ngài học được những điều để nói cho ta biết bây giờ.

Người ta đă công nhận rộng răi rằng giáo huấn thật thú vị và mạch lạc, thậm chí c̣n được hậu thuẫn bởi những điều tương tự, nhưng đến lượt mọi người mới t́m hiểu đều phải thắc mắc liệu ta có thể tin tưởng đến đâu những vị ban ra giáo huấn này và liệu ta ở vị thế nào để t́m biết được nhiều điều như thế. Tôi thiết tưởng rằng hầu hết mọi người đều sẵn sàng công nhận rằng những vị - chẳng hạn như các bậc Huynh Trưởng Thông Thiên Học nghe đâu có được những quyền năng phi thường và khác thường đối với Thiên nhiên ngay cả trong những bộ môn Thiên nhiên mà chúng ta quen thuộc – được trang bị rất có thể là những năng lực khiến cho các ngài thâm nhập và giác ngộ được nhiều sự thật nói chung c̣n ẩn tàng trong Thiên nhiên. Nhưng thế rồi lại có một thắc mắc căn bản: làm sao ta tin chắc được rằng đằng sau một vài người xuất hiện dưới dạng đại biểu hữu h́nh của Thông Thiên Học lại thật sự có các vị như các bậc Huynh Trưởng Thánh sư? Đây là một thắc mắc xưa cũ cứ trở đi trở lại và cứ phải tiếp tục làm trăn trở những kẻ sơ cơ khi họ đến gần ngưỡng cửa Hội Thông Thiên Học. Đối với nhiều người trong chúng ta th́ nó đă được giải quyết từ lâu rồi, c̣n đối với một số kẻ sơ cơ th́ sự tồn tại của các Thánh sư có khả năng tâm linh dường như có xác suất cao đến nỗi người ta sẵn ḷng chấp nhận lời đoan chắc của các vị đại biểu lănh đạo Hội ở Ấn Độ; nhưng đối với những người khác, sự tồn tại của các Huynh Trưởng trước hết lại phải được xác lập qua bằng chứng rành rành và dứt khoát trước khi người ta bỏ công để quan tâm tới lời tường tŕnh của một số người trong chúng ta về giáo lư chuyên biệt mà các ngài đă giảng dạy.

V́ vậy tôi đề nghị sẽ lướt qua bằng chứng về đề tài chủ yếu này mà chắc chắn là bất cứ ai dấn thân vào Hội Thông Thiên Học đều quan tâm đến nó trong chừng mực nó là nền tảng của giáo huấn Ấn Độ. Dĩ nhiên tôi sẽ chẳng làm cho các bạn mất công khi lập lại những diễn biến đặc thù được miêu tả trong những tác phẩm đă từng được xuất bản. Tôi đề nghị là duyệt lại một cách ngắn gọn toàn thể vụ việc này ở mức như hiện nay sau khi đă được mở rộng và củng cố rất nhiều trong ṿng hai năm vừa qua. Để bắt đầu ta chia bằng chứng ra làm hai loại. Một là ta có một tập hợp niềm tin đang thịnh hành mà chính ở Ấn Độ cũng cho thấy rằng các bậc Thánh sư hoặc Cao đồ đều tồn tại ở đâu đó. Hai là bằng chứng chuyên biệt cho thấy các vị lănh đạo Hội Thông Thiên Học có quan hệ và tâm giao với các bậc Thánh sư ấy.

Xét về tập hợp đức tin nói chung th́ cũng chẳng có ǵ là ngoa ngoắc khi bảo rằng toàn khối kho tài liệu linh thiêng ở Ấn Độ đều dựa vào niềm tin tồn tại của các Thánh sư và một niềm tin rất phổ biến bao trùm những địa hạt không gian và thời gian rộng lớn hiếm khi nào có thể được coi là bắt nguồn từ chuyện chẳng có ǵ, nghĩa là chẳng có cơ sở thật nào. Nhưng khi duyệt qua bộ Mahabharata và kinh Puranas th́ mọi thứ cho ta biết về các đấng “Rishis” hoặc Thánh sư thời xưa th́ tôi có thể xin các bạn lưu ư một tài liệu trong Tạp chí Nhà Thông Thiên Học số tháng 5 năm 1882 bàn về một số sách vở tương đối hiện đại và phổ thông ở Ấn Độ tường thuật lại cuộc đời của đủ thứ “Sadhus” là một cách gọi khác về bậc Thánh, đạo sĩ Yoga hoặc thánh sư đă từng sinh hoạt trong hàng ngàn năm vừa qua. Trong bài báo này có liệt kê danh sách hơn 70 vị như vậy mà hồi ức được gói ghém trong một số quyển sách của Marathi có ghi chép lại “những phép lạ” mà nghe đâu các ngài đă hiển lộng. Dĩ nhiên ta có thể tranh căi về giá trị lịch sử của những câu chuyện kể này. Tôi đề cập tới chúng chỉ để minh họa cho sự thật là niềm tin vào những người có những huyền năng mà giờ đây ta gán cho các Huynh Trưởng cũng chẳng có ǵ là mới mẻ ở Ấn Độ. Kế đến ta lại có những bằng chứng của nhiều tác giả hiện đại liên quan tới những thành tích huyền bí rất đáng chú ư của các đạo sĩ Yoga và Fakir Ấn Độ. Dĩ nhiên những người như thế xếp hạng vô cùng dưới so với các bậc cao đồ có khả năng tâm linh mà ta gọi là Huynh Trưởng; nhưng các năng lực mà họ có được đôi khi cũng đủ thuyết phục bất cứ ai nghiên cứu bằng chứng về chúng cho thấy rằng người sống có thể thành tựu được những huyền năng và năng lực thường được gọi là siêu nhân.

Trong tác phẩm của Jaccolliot về những trải nghiệm của ông ở Benares và ở đâu đó th́ đề tài này đă được bàn luận rốt ráo và một số sự kiện liên quan tới nó thậm chí đă được ghi chép vào sử liệu chính thức của Anh Ấn. Tường tŕnh của một người Anh cư ngụ ở ṭa án Runjeet Singh miêu tả cách thức mà ông có mặt dịp lễ chôn vùi một đạo sĩ Yoga nhốt ḿnh trong một mái ṿm tự nguyện một thời kỳ đáng kể mà tôi thiết tưởng là 6 tuần lễ nhưng tôi không có sẵn trong tay bài tường tŕnh này ngay bây giờ để trích dẫn nó tỉ mỉ; vào lúc kết thúc thời kỳ ấy trong khi ông đă trải qua trạng thái Samadhi tức xuất thần th́ vị đạo sĩ lại xuất hiện sống nhăn. Cố nhiên một người như thế chỉ là một “cao đồ” thuộc loại rất thấp, nhưng việc ghi chép lại thành tích của ông cũng có ưu điểm là được kiểm chứng rất thỏa đáng. Lại nữa, măi chỉ trong ṿng vài năm vừa qua cũng đă có một vị tu sĩ khổ hạnh rất cao đạo và một nhà thấu thị tài ba sống ở Agra; ở đó ông dạy dỗ cho một nhóm môn đồ và theo lời tường thuật của chính họ th́ ông thường xuyên xuất hiện trở lại trong đám họ từ khi ông từ trần. Bản thân diễn biến này là một sự tinh tấn được thực hiện vào một thời kỳ đă được ấn định sẵn. Tôi đă nghe nhiều điều về ông qua lời kể của một trong những môn đồ chính của ông, một viên chức chính quyền bản xứ có giáo dục và rất khả kính hiện nay đang sống ở Allahabad. Thật không c̣n nghi ngờ ǵ nữa về sự tồn tại của bậc cao đồ này và sự thật là ngài có nhiều khả năng tâm linh.

Vậy là ở Ấn Độ ta khó ḷng tranh căi về sự thật có nhiều người trên thế gian được coi là Thánh sư. Dĩ nhiên hầu hết những vị nào liên quan tới ngài mà ta có được thông tin dứt khoát th́ khi điều tra thêm té ra chỉ là các đạo sĩ Yoga cấp thấp, những người đă rèn luyện năng lực nội giới tới mức có được đủ thứ quyền năng phi thường thậm chí giác ngộ được các sự thật tâm linh. Song le mọi kẻ điều tra về các bậc Thánh sư cao cấp hơn nữa về mặt thành tựu đều có được lời giải đáp rằng chắc chắn có những đấng như vậy mặc dù các ngài sống hoàn toàn ẩn dật. Thật vậy, niềm tin mơ hồ không xác định nói chung ắt dọn đường cho việc điều tra liên quan trực tiếp tới chúng tôi. Liệu các nhà lănh đạo Hội Thông Thiên Học có thật sự quan hệ hay chăng với một số Thánh sư cao cấp không sống trong cộng đồng nói chung mà cũng không cho biết quả vị Thánh sư của ḿnh đối với bất cứ ai ngoại trừ các đệ tử thực thụ chính qui của ḿnh. Thế là bằng chứng về vấn đề này được phân chia như sau:

Một là, chúng tôi có bằng chứng trực tiếp của những nhân chứng đích thân đă nh́n thấy một vài Thánh sư này cả khi đang nhập xác lẫn khi đang không nhập xác. Họ đă chứng kiến các ngài hiển lộng thần thông và chắc chắn là biết được các ngài tồn tại với những thuộc tính nào đấy.

Hai là, bằng chứng của những người đă nh́n thấy các ngài ở trong thể tinh vi, nhận diện được ngài theo nhiều cách khác nhau giống hệt như những người c̣n sống mà những người khác đă từng chứng kiến.

Ba là, bằng chứng của những người có chứng cớ gián tiếp về sự tồn tại của các ngài.

Đứng đầu trong nhóm nhân chứng thuộc loại một là bà Blavatsky và chính Đại tá Olcott. Đối với những kẻ nào có lư do để tin tưởng vào bà Blavatsky th́ chứng nhận của bà dĩ nhiên thật hoan hỉ, chính xác và hoàn toàn thỏa đáng. Bà đă sinh hoạt với các Thánh sư trong nhiều năm. Từ đó trở đi hầu như ngày nào bà cũng giao tiếp với các ngài. Bà đă trở lại với các ngài và các ngài cũng viếng thăm bà trong thể xác tự nhiên vào nhiều dịp từ khi bà xuất đầu lộ diện ra khỏi Tây Tạng sau khi bản thân đă được điểm đạo. Không có một phương án trung gian nào để chọn lựa giữa lời kết luận rằng phát biểu của bà về các Huynh Trưởng cơ bản là đúng với lời kết luận bà chính là cái mà một số kẻ thù người Mỹ mệnh danh là “kẻ bịp bợm vô địch trong thời đại này”. Tôi có biết tới một thuyết mà một số nhà Thần linh học theo đuổi với nội dung cho rằng bà có thể là một đồng tử được một số vong linh tiếp dẫn mà bà nhầm lẫn là người c̣n sống; nhưng những kẻ nào hoàn toàn không màng ǵ tới 9/10 phát biểu của bà (chứ đừng nói tới chứng cớ của người khác) mới có thể chấp nhận thuyết này. Làm thế nào mà bà có thể sống trong nhà một vài người ở Tây Tạng trong ít nhất 7 năm, tận mắt nh́n thấy họ, bạn bè, thân bằng quyến thuộc tíu tít làm việc hằng ngày, dạy dỗ bà từng bước về một khoa học bao la mà bà tận tụy theo đuổi lại có thể nghi ngờ xem liệu các vị ấy là người c̣n sống hay là vong linh? Lời phỏng đoán thật là phi lư. Hoặc là bà nói láo khi bà bảo rằng ḿnh đă sinh hoạt trong nhóm các ngài, hoặc là các Thánh sư dạy dỗ bà đúng là người c̣n sống. Giả thuyết của các nhà Thần linh học về các vong linh giả định “tiếp dẫn” bà vốn dựa trên phát biểu bà tuyên bố rằng các Thánh sư xuất hiện với bà trong thể tinh vi khi bà ở xa các ngài. Nếu các ngài chưa bao giờ xuất hiện trước mắt bà trong một h́nh dạng nào khác th́ c̣n có thể lập luận theo quan điểm của nhà Thần linh học hoặc có thể c̣n có những t́nh huống khác. Nhưng những vị đến viếng thăm bà bằng thể tinh vi đều đồng nhất về mọi mặt với những người mà bà đă sinh hoạt và theo học trong số các ngài. Như tôi có nói, thỉnh thoảng bà lại có thể trở về nh́n thấy các ngài bằng xương bằng thịt. Sự giao tiếp qua thể tinh vi với các ngài chỉ lấp đầy khoảng trống trong giao tiếp cá nhân của bà với các ngài vốn đă trải dài qua nhiều năm dài đằng đẵng. Cố nhiên người ta có thể thách đố sự chân thực của bà mặc dù tôi thiết tưởng rằng có thể chứng minh việc thách đố ấy là phi lư nhất, nhưng chúng ta cũng có thể nghi ngờ một cách hợp lư về sự thật sống động trong thân bằng quyến thuộc gần gũi nhất của ḿnh về những người mà ta đă giao tiếp mật thiết nhất khi giả định rằng bản thân bà Blavatsky có thể nhầm lẫn qua việc miêu tả các Huynh Trưởng là người c̣n sống. Hoặc là bà ắt đúng hoặc là bà đă cố t́nh thêu dệt nên một mạng lưới bao la gồm những điều trá ngụy trong những tác phẩm của ḿnh, trong những hành vi và đối thoại trong ṿng 8 – 9 năm vừa qua. Việc lấy cớ bà có thể là người không kín miệng, thậm chí ngoa ngoắc cũng gặp khó khăn không kém ǵ giả thuyết của các nhà Thần linh học. Cho dù bạn có xén bỏ chi tiết trong phát biểu của bà Blavatsky lấy cớ rằng nó có thể ngoa ngoắc th́ phần c̣n lại vẫn là một khối phát biểu vững chắc khổng lồ vốn hoặc phải là đúng sự thật hoặc chỉ là một cấu trúc cố t́nh lừa dối. Và tạm dẹp chứng cớ của bà Blavatsky sang một bên th́ ta cũng có một sự kiện kỳ diệu là bà hoàn toàn xả thân v́ chính nghĩa của Thông Thiên Học để đưa ra giả thuyết bà là một kẻ cố t́nh bịp bợm th́ giả thuyết ấy liệu có thể được chấp nhận là quá trớn hay chăng. Thoạt tiên khi chúng tôi ở Ấn Độ rồi đặc biệt trở thành bạn của bà, khi tôi nêu điều này ra th́ thiên hạ bảo rằng: “Nhưng làm sao tôi biết được bà có hi sinh ǵ chăng? Biết đâu ngay từ đầu bà đă là một kẻ phiêu lưu. Chúng tôi xin chứng tỏ phỏng đoán này theo như tôi giải thích rốt ráo trong lời nói đầu cho ấn bản kỳ hai của quyển “Thế Giới Huyền Bí” và theo một số những người có uy tín hàng đầu ở Nga vốn là thân bằng quyến thuộc của bà th́ họ đă sẵn ḷng đoan chắc về lư lịch cá nhân của bà. Nếu bà không hiến thân cho Huyền bí học th́ có lẽ bà đă sống cuộc đời xa hoa giữa dân tộc của ḿnh v́ sự thật là bà thuộc giai cấp thượng lưu.

Cho dù giả thuyết về sự bịp bợm của bà có tỏ ra khó chấp nhận th́ kế đó ta lại thấy nó rành rành tương kỵ với mọi sự kiện trong cuộc đời Đại tá Olcott. Trường hợp bà Blavatsky không thể chối căi được th́ trường hợp Đại tá Olcott đă từ bỏ một cuộc đời thịnh vượng trong trần thế để sinh hoạt theo Thông Thiên Học trong những hoàn cảnh xả thân rất nhiều về thể chất ở Ấn Độ. Ông cũng từng bảo chúng tôi rằng ông đă nh́n thấy các Huynh Trưởng cả bằng xương bằng thịt lẫn trong thể tinh vi qua hàng loạt những sự thi thố mầu nhiệm nhất về thuật thông thần khi lần đầu tiên ông được giới thiệu về đề tài này ở Mỹ th́ ông đă làm quen với quyền năng của các ngài. Ở Bombay, người tới viếng thăm ông là một người c̣n sống, là vị thầy đặc biệt của chính ông mà lần đầu tiên ông đă làm quen khi thấy ngài dưới dạng tinh vi ở Mỹ. Trong nhiều năm, cuộc đời ông đầy dẫy những diễn biến khác thường mà các nhà Thần linh học đôi khi lại phỏng đoán hoang tưởng là thuộc về Thần linh học, nhưng mọi điều ấy đều gắn liền với một chuỗi quan hệ liên lạc với các Huynh Trưởng mà đối với Đại tá Olcott, đây một phần là hiện tượng huyền bí và một phần là vấn đề giao tiếp tỉnh táo giữa người và người. Lại nữa, khi nói tới Đại tá Olcott cũng như khi nói tới bà Blavatsky, tôi xin quả quyết một cách vô e sợ rằng không thể có sự thỏa hiệp nào giữa điều giả định ngoa ngoắc cho rằng ông cố t́nh nói dối về mọi thứ liên quan tới các Huynh Trưởng và điều giả định là những ǵ ông nói đă xác lập sự thật rằng các Huynh Trưởng tồn tại; đó là v́ ta nên nhớ rằng bây giờ Đại tá Olcott đă là một cộng sự của bà Blavatsky và thường xuyên giao tiếp thân thiết với bà trong 8 năm. Ư kiến cho rằng bà đă lừa gạt ông suốt thời gian ấy qua những thủ đoạn bịp bợm chứ đừng nói tới quái gở, thật là quá phi lư đến nỗi không thể chấp nhận được. Dù sao đi nữa Đại tá Olcott cũng biết liệu bà Blavatsky có lừa gạt hay chăng hoặc là bà chân chính. Ông đă dành trọn cuộc đời để phục vụ cho chính nghĩa mà bà đại diện cho nên bằng chứng về sự tin chắc của ông cho thấy bà chân chính. Lại nữa, ta thử xét thêm giả thuyết của phái Thần linh học. Bà Blavatsky có thể là một đồng tử vây bũa những hiện tượng lạ xung quanh Đại tá Olcott; nhưng thế th́ bản thân bà cũng bị lừa gạt bởi những ảnh hưởng tinh vi về bản chất chân thực của các Huynh Trưởng vốn chỉ đạo toàn thể sự hiển lộng hiện tượng lạ này và thiết tưởng ta đă có đủ lư do để bác bỏ giả thuyết ấy là phi lư. Ta không thể tránh né được kết luận hợp lư rằng sự thật nói chung đúng như bà Blavatsky và Đại tá Olcott phát biểu hoặc cả hai đều cố t́nh bịp bợm đua nhau tranh chức vô địch trong thời đại này về lănh vực ấy, cả hai đều hi sinh tất cả mọi thứ mà những kẻ có đầu óc thế tục đắm say trong đấy, suốt đời miệt mài bịp bợm để rốt cuộc chẳng được ǵ ngoài cuộc sống lầm than và những lời miệt thị.

Nhưng sự kiện phát biểu của họ có đúng thực hay chăng đâu đă chỉ kết thúc ở đây mà theo một ư nghĩa nào đấy mới chỉ bắt đầu nơi đây. Bây giờ ta sẽ xét tới các nhân chứng người bản xứ Ấn Độ. Trước hết là Damodar, tác giả trứ danh của quyển Những lời bóng gió về Thông Thiên Học Bí truyền đă nói như sau về ông trong tập sách nhỏ ấy.

“Trong một bức thư trước kia đề cập tới Damodar bạn có đặc biệt thắc mắc chẳng biết có nên tin hay chăng việc các Huynh Trưởng lại phí thời giờ với một đứa trẻ thuộc ḍng dơi thất học như y, thế mà lại dứt khoát từ chối không viếng thăm và thuyết phục những người Âu Tây có năng lực lỗi lạc và học thức cao nhất chẳng hạn như . . . và . . . Nhưng bạn có biết đâu rằng cái đứa trẻ thuộc ḍng dơi hạ lưu ấy có dứt khoát từ bỏ giai cấp cao tột, gia đ́nh và bằng hữu cùng với một tài sản kếch xù để hết ḷng theo đuổi sự thật chăng? Trong nhiều năm y đă sống một cuộc đời xả thân thanh khiết phi thế tục như vậy mà chúng tôi được biết rằng đó là điều kiện cốt yếu để được giao tiếp trực tiếp với các Huynh Trưởng? Bạn bảo rằng ôi đó chỉ là một kẻ thiên chấp biên kiến; dĩ nhiên y nh́n thấy hết mọi chuyện và chẳng nh́n thấy điều ǵ. Nhưng bạn có thấy chăng liệu điều này dẫn bạn đến đâu? Nếu người ta không dám sống cuộc đời xả thân như vậy th́ đừng ḥng có bằng chứng trực tiếp về sự tồn tại của các Huynh Trưởng. Bạn dám cả gan gọi y là một kẻ thiên chấp biên kiến và bác bỏ chứng nhận của y. Một người đă dám sống cuộc đời như vậy và khẳng định rằng ḿnh có bằng chứng như thế . . . th́ đúng là bạn đang đi theo lập trường dù sấp hay ngửa th́ tôi vẫn thắng ván bài này”.

Damodar đă nh́n thấy một vài Huynh Trưởng tới viếng thăm Tổng hành dinh của Hội bằng xương bằng thịt. Các ngài đă tới viếng thăm đi viếng thăm lại Damodar trong thể tinh vi. Bản thân y đă trải qua một vài cuộc điểm đạo, y đă có được những quyền năng rất đáng kể v́ y đă nhanh chóng phát triển chúng rơ ràng là để y có thể trở thành một mối liên lạc thêm nữa – độc lập với bà Blavatsky – giữa Sư phụ của y là các Huynh Trưởng và Hội Thông Thiên Học. Toàn thể cuộc đời mà y sinh hoạt là bằng chứng hùng hồn cho sự thật y cũng biết các Huynh Trưởng thật sự tồn tại. Dựa trên bất kỳ giả thuyết nào khác th́ ta ắt phải bao gồm Damodar vào việc cố t́nh bịp bợm mà ta đă giả định là chính bà Blavtsky thuộc về nghi án ấy, bởi v́ Damodar là cộng sự viên thân tín của bà, là người tận tụy phụ giúp bà, ăn cùng mâm làm cùng việc với bà, sinh hoạt trong nhà bà ở Bombay ṛng ră nhiều năm trời.

Thế th́ liệu ta có thể tin vào các Huynh Trưởng rồi lại chấp nhận giả thuyết cho rằng bà Blavatsky, Đại tá Olcott và Damodar đều là một băng đảng cố t́nh bịp bợm? Trong trường hợp ấy ta lại c̣n phải xét tới Ramswamy. Ramswamy là một người bản xứ biết nói tiếng Anh, ở vùng Nam Ấn Độ, có giáo dục, rất khả kính, phục vụ chính quyền trên cương vị lục sự ở ṭa án Tinnevelly. Tôi tin như vậy v́ tôi đă gặp y nhiều lần. Trước hết xin nêu rơ lộ tŕnh trải nghiệm của y qua một vài lời vắn tắt: Y nh́n thấy thể tinh vi của Sư phụ bà Blavatsky ở Bombay; sau đó y mới liên lạc bằng thần nhĩ với ngài trong khi cách xa mọi Thông Thiên Học giả nhiều trăm dặm ở nhà riêng của y tại miền Nam Ấn Độ. Thế rồi tuân theo lời dẫn dắt, y đă du hành tới Darjeeling rồi điên rồ đi sâu vào rừng rậm Sikkim để t́m Sư phụ, người mà y có lư do để tin rằng ở loanh quanh chỗ ấy; sau nhiều cuộc phiêu lưu y đă gặp được ngài; đó cũng chính là người mà y đă nh́n thấy trước kia ở dưới dạng tinh vi, cũng chính là người mà Đại tá Olcott có chân dung, chính là người mà y đă nh́n thấy, là con người c̣n sống phát ra tiếng nói dẫn dắt y rời khỏi miền Nam Ấn Độ để muôn dặm t́m thầy. Y đă có một cuộc tiếp kiến lâu dài với ngài, một cuộc tiếp kiến tỉnh táo ngay giữa ngoài trời, giữa thanh thiên bạch nhật với một người c̣n sống, y đă trở về với tư cách đệ tử tận tụy với ngài mà y đạt được vào lúc ấy và chắc chắn là đời đời sẽ như vậy. Thế mà vị Sư phụ đă hiệu triệu y xuất phát từ Tinnevelly rồi lại tiếp kiến y ở Sikkim, theo những kẻ chấp nhận giả thuyết của Thần linh học, lại chính là vong linh tiếp dẫn bà Blavatsky.

C̣n hai nhân chứng nữa đích thân biết được các Huynh Trưởng kế đó đến với tôi ở Simla, qua nhân vật là hai đệ tử chính qui đă được biệt phái băng núi rừng để đi công tác và nhân tiện được lệnh viếng thăm tôi và cho tôi biết về thầy của họ là vị Thánh sư liên lạc thư tín với tôi. Những người này đă tới ngay khi tôi lần đầu tiên nh́n thấy họ sinh hoạt với các Thánh sư. Một trong những người đó là Dhabagiri Nath đă đến thăm viếng tôi nhiều ngày ṛng ră, nói chuyện với tôi hằng giờ về Chơn sư Koot Hoomi mà y đă sống với ngài trong 10 năm, y gây cho tôi ấn tượng cùng với 1 – 2 người khác đă từng tiếp kiến y, thấy y là một người rất tha thiết, tận tụy và đáng tin cậy. Về sau này khi đến viếng thăm Ấn Độ, y c̣n dính dáng tới nhiều hiện tượng lạ nổi bật về huyền bí học được thi thố để thỏa măn những người điều tra bản xứ. Dĩ nhiên ắt phải là một nhân chứng giả được bịa ra để hậu thuẫn cho sự bịp bợm rộng khắp của bà Blavatsky, nếu y chẳng phải ǵ khác hơn là đệ tử Chơn sư Koot Hoomi theo lời tuyên bố của y.

C̣n một người bản xứ nữa là Mohini ngay sau khi bắt đầu việc này đă liên lạc trực tiếp với Chơn sư Koot Hoomi hoàn toàn độc lập với bà Blavatsky và khi đang cách xa bà cả trăm dặm Anh. Y cũng trở thành một người tận tụy gắn bó với chính nghĩa Thông Thiên Học, nhưng theo chỗ tôi biết th́ Mohini phải được xếp vào nhóm nhân chứng thứ nh́ vốn có liên lạc riêng trong cơi vô h́nh với các Huynh Trưởng nhưng chưa thấy các ngài bằng xương bằng thịt.

Bhanavi Rao, một thanh niên bản xứ rắp ranh làm đệ tử đă có lần đi với Đại tá Olcott đến viếng thăm tôi ở Allahabad vào lúc mà bà Blavatsky ở chỗ khác nơi Ấn Độ; y đă ngủ hai đêm trong nhà chúng tôi, y là một nhân chứng khác có giao tiếp độc lập với Chơn sư Koot Hoomi, hơn nữa bản thân y có thể đóng vai tṛ liên lạc giữa Chơn sư Koot Hoomi với ngoại giới. Đó là v́ trong chuyến viếng thăm mà tôi có nhắc đến y được phép chuyển một bức thư của tôi cho Sư phụ rồi tiếp nhận trở lại thư phúc đáp của ngài, và thêm một thông điệp thứ nh́ của tôi rồi nhận lại một thông điệp ngắn khác chỉ gồm vài từ để phúc đáp. Tôi không ngụ ư y làm được hết mọi chuyện ấy do quyền năng của chính ḿnh mà ư tôi muốn nói y có luồng từ khí sao cho Chơn sư Koot Hoomi có thể thực hiện điều ấy thông qua y. Kinh nghiệm này thật là vô giá bởi v́ nó cung ứng một sự minh họa nổi bật về sự kiện bà Blavatsky không phải là một trung gian cốt yếu để cho tôi liên lạc thư tín với người bạn kính mến của ḿnh. Những minh họa khác được cung ứng qua việc thường xuyên chuyển giao thư tín giữa Chơn sư Koot Hoomi và chính tôi qua trung gian của Damodar ở Bombay vào lúc cả bà Blavatsky lẫn Đại tá Olcott đều vắng mặt ở Madras v́ đi du hành trong chuyến du khảo Thông Thiên Học mà trên lộ tŕnh ấy có có mặt ở nhiều nơi khác nhau và thường được báo chí địa phương nhắc đến. Tôi ở Allahabad và trong thời kỳ ấy, tôi thường gửi thư cho Chơn sư Koot Hoomi qua trung gian của Damodar ở Bombay và đôi khi tôi nhận được phúc đáp nhanh đến nỗi chúng không thể do bà Blavatsky cung cấp v́ lúc bấy giờ bà ở cách xa tôi ít nhất là 4 ngày đường đi trên lộ tŕnh bưu điện so với Bombay.

Bằng cách này việc liên lạc thư tín rất đồ sộ của tôi đă tỏ ra là một phần của sự việc và v́ vậy suy ra đối với toàn thể th́ tất nhiên đó không phải là công tŕnh của bà Blavatsky hoặc của Đại tá Olcott, cho nên nếu các Huynh Trưởng không phải là một thực tại th́ sự việc ắt phải như thế. Việc liên lạc thư tín rành rành trên giấy trắng mực đen với một khối lượng đáng kể. Làm thế nào mà nó tốn tại được, đến với tôi ở nhiều chỗ khác nhau và nhiều lúc khác nhau, ở những xứ khác nhau, qua trung gian những người khác nhau? Tôi chẳng hiểu nổi có giả thuyết nào mà những người không tin tưởng vào các Huynh Trưởng đề ra được để giải thích việc liên lạc thư tín của tôi. Tôi chẳng thể nghĩ tới điều ǵ ngay tức khắc phủ định được một số sự thật về việc này.

Thật hoài công mà sao chép lại những phát biểu thỉnh thoảng vẫn được công bố trong tờ Nhà Thông Thiên Học, danh tính những người bản xứ chứng nhận đă nh́n thấy những h́nh dáng tinh vi của các Huynh Trưởng – những h́nh mờ mờ nhân ảnh mà họ được thông tin như thế - xuất hiện xung quanh Tổng hành dinh Hội ở Bombay. Có vô số nhân chứng ắt chứng nhận cho những trải nghiệm như thế và bản thân tôi cũng có thể nói thêm rằng tôi đă thấy một sự xuất hiện như vậy vào một dịp ở Tổng hành dinh hiện nay của Hội tại Madras. Nhưng cố nhiên người ta có thể gợi ư rằng những sự xuất hiện như vậy thuộc về Thần linh học. Mặt khác, trong trường hợp ấy lập luận lại trở ngược về việc nhận định đă nêu trước đây cho thấy rằng các hiện tượng lạ huyền bí xung quanh bà Blavatsky không thể là Thần linh học. Thật vậy, chúng chẳng thể nào khác hơn điều mà chúng tôi – vốn biết bà thân thiết và hiện nay đang gắn bó mật thiết với Hội – tin chúng hết sức ḿnh đó là những biểu hiện của các thần thông phi thường của các đấng mà chúng tôi gọi là HUYNH TRƯỞNG.

----------------------

Các “Huynh Trưởng” của Thông Thiên Học

 (Bài thứ nh́)

Tác giả A. P. Sinnett

 

Tiếp theo bài báo về đề tài này mà ông Sinnett mới đọc gần đây, sau đây là bài thuyết tŕnh cũng của tác giả ấy được trao cho chúng tôi xuất bản: -

 

Nhiều người khảo cứu về triết lư huyền bí đều có khuynh hướng chú trọng tới sự khác nhau giữa việc tin vào sự tồn tại của các đấng mà chúng tôi gọi là “Huynh Trưởng” khác hẳn việc tin vào một loạt những giáo huấn bao la và phức tạp giờ đây đă được các đệ tử cận đại tích lũy. Tôi thiết tưởng thật ra có thể chứng tỏ rằng không có một chỗ ngập ngừng nào để cho kẻ bắt đầu điều tra mà lại có thể ngừng lại một cách hợp lư để tự nhủ rằng: “Tôi chỉ đi đến đây thôi chứ không đi thêm nữa”. Chuỗi lư luận dẫn dắt bất cứ ai đă từng một lần ngộ ra được sự tồn tại của các Thánh sư ắt cảm thấy chắc mẫm rằng chẳng có ǵ sai lầm lớn lao khi quan niệm về việc được các ngài trợ giúp, bao gồm nhiều mắt xích, nhưng thật sự không gián đoạn mà liên tục và cũng có thể chịu đựng được sự căng kéo ở bất cứ chỗ nào.

Nó bao gồm nhiều mắt xích, một phần v́ không ai hiện nay trong đám người ở vị  thế học viên như chúng tôi – vốn đang c̣n sống nghĩa là lúc nào cũng sinh hoạt b́nh thường theo thế tục và chỉ nghiên cứu Huyền bí học về mặt trí thức – có thể tự ḿnh đạt được sự hiểu biết hoàn chỉnh về các Thánh sư. Điều này nghĩa là y không thể biết được bằng kiến thức riêng của ḿnh mọi chuyện ngay cả chỉ có một Thánh sư. Việc giải thích đầy đủ về khó khăn này dẫn tới việc ta phải hiểu rơ nguyên tắc là các Thánh sư đều ẩn cư phần nào, sự ẩn cư này chỉ phần nào nội trong thời gian rất gần đây và việc ẩn cư sẽ hoàn chỉnh cho đến khi thế giới nói chung khó ḷng biết được sự tồn tại về bất kỳ tri thức bí truyền nào không muốn được tiết lộ ra ngoài. Đây là một vấn đề cực kỳ quan trọng v́ kinh nghiệm đă cho thấy rằng thế giới nói chung ưa vội vă đả kích cái cung cách ngập ngừng và bất toàn mà các Thánh sư cho đến nay đă dùng để đối xử với những kẻ mưu cầu được các ngài giáo huấn về tâm linh. Xét v́ chính sách huyền bí được đeo đuổi khi so sánh với những việc điều tra trên b́nh diện tri thức vật lư th́ sự nôn nóng của người điều tra là dĩ nhiên thôi; tuy nhiên ngay cả việc làm quen chút ít với điều kiện khảo cứu thần bí cũng cho thấy chính sách huyền bí ấy là hợp lư.

Dĩ nhiên ai nấy cũng đều công nhận rằng các Thánh sư hoàn toàn có lư khi rất thận trọng trong việc trao truyền bất kỳ tri thức khoa học đặc thù nào vốn sẽ đưa cái thường gọi là thần thông vào trong tầm tay của những kẻ không xứng đáng về mặt đạo đức để vận dụng thần thông ấy. Nhưng việc cần nhắc để qui định sự thận trọng nêu trên dường như không có tác dụng đối với việc trao truyền tri thức về sự tiến bộ tâm linh của con người hoặc các quá tŕnh rộng lớn hơn trong cơ tiến hóa. Và thật vậy, các Thánh sư đă đi đến chính kết luận đó, các ngài đă đảm đương việc trao truyền kiến thức lư thuyết an toàn của ḿnh cho công chúng và nỗ lực các ngài đang thực hiện chỉ gây nổ chậm hoặc có vẻ dường như vậy đối với một số quan sát viên do bởi tầm rộng lớn của nhiệm vụ cần thực thi, khía cạnh mới mẻ mà nó khoác lấy cũng như các bậc huấn sư đối với học viên đều bỡ ngỡ như nhau. Đó là v́ ta nên nhớ rằng nếu các Thánh sư có thay đổi chính sách như tôi vừa nêu th́ sự thay đổi ấy mới bắt nguồn gần đây đến nỗi hầu như ta có thể miêu tả nó chỉ vừa mới xảy ra. Và nếu người ta thắc mắc tại sao chỉ mới gần đây kiến thức lư thuyết an toàn ấy mới được trao truyền th́ dường như cũng có lư khi ta thấy lời giải đáp cho vấn đề này vốn ở nơi t́nh h́nh thực tế của thế giới trí thức xung quanh ta vào lúc này. Sự tự do tư tưởng mà các tác giả người Anh thường khoe khoang cho đến nay vẫn chưa được phổ biến rộng khắp trên thế giới và dù sao đi nữa hầu như chẳng có thế hệ nào trước thế hệ này mà lại có thể tự do truyền bá những giáo điều hoàn toàn mang tính cách mạng về những vấn đề tôn giáo vốn đă từng được đảm đương một cách an toàn ở bất cứ xứ sở nào. Những cộng đồng có được công tŕnh ấy vẫn c̣n đầy dẫy nguy cơ, thậm chí hiện nay các cộng đồng ấy c̣n nhiều hơn những cộng đồng mà người ta có thể phát khởi công tŕnh ấy với bất kỳ lợi ích thực tiễn nào. Vậy là ta cũng dễ dàng hiểu được tại sao trong thế giới huyền bí đă từng có những tranh luận măi tới gần đây liệu có nên truyền bá triết lư bí truyền cho thế giới nói chung hay chăng với nguy cơ sẽ kích động những cuộc tranh căi gay gắt, thậm chí những xáo trộn nghiêm trọng hơn có thể xuất hiện do tiết lộ quá sớm những sự thật mà chỉ một thiểu số mới thật sự sẵn sàng chấp nhận. Khi nhớ kỹ quan điểm này th́ măi cho tới gần đây ta khó ḷng có thể coi việc các Thánh sư dè dặt về những điều bí mật là đáng ngạc nhiên v́ nó có thể khiến cho ta phải chấp nhận những giả thuyết với phương án mạnh bạo đối nghịch với mọi bằng chứng rành rành liên quan tới mọi tác động hiện nay của chúng. Có lư do minh bạch tại sao các ngài lại thận trọng trong việc đưa một đoàn thể các môn đồ tân ṭng lănh đạo ḍng tiến hóa nói chung của nhân loại; vả lại việc rèn luyện đệ tử như vậy khiến cho họ thường thận trọng ở mức độ lớn lao hơn sự cẩn thận cực kỳ trong sinh hoạt đời thường đối với kẻ phàm phu. Người ta ắt lập luận rằng: “Nhưng cứ cho là như vậy đi, cứ giả định rằng rốt cuộc dù sao đi nữa một số Thánh sư cũng đi tới kết luận là một số tri thức của ḿnh đă chín muồi để tŕnh bày cho thế gian, tại sao các ngài không tŕnh bày hết mức để bảo đảm có được một tác dụng nổi bật hơn, vô địch hơn và thuyết phục hơn so với những ǵ đă thật sự được cung ứng”. Tôi thiết tưởng ta có thể dễ dàng rút ra lời giải đáp khi xét tới cách thức mà dĩ nhiên ta trông mong rằng một sự thay đổi chính sách của các Thánh sư ắt dần dần được du nhập vào một vấn đề thuộc loại này. Theo giả thuyết mà chúng tôi quan niệm khi đi đến kết luận nên dạy cho nhân loại nói chung một phần khoa học tâm linh cho đến nay chỉ độc quyền truyền thụ cho những kẻ đă phát đại nguyện mới đủ tư cách để được truyền thụ. Khi xét tới thế giới nói chung, dĩ nhiên kiến thức ấy phải được trao truyền theo những đường lối đáng tin cậy như khi được trao truyền cho những kẻ mưu cầu điểm đạo chính qui. Chưa bao giờ trong lịch sử thế giới mà các ngài lại phải đi t́m người tầm đạo, ve văn họ hoặc quảng cáo với họ theo bất cứ cách nào. Người ta đă t́m thấy một định luật bất di bất dịch trong sự tiến bộ của loài người mới xuất hiện trên thế gian được thiên nhiên phú cho một số thuộc tính dành riêng cho bậc Thánh sư, có những tâm trí đă được cấu tạo để tin chắc vào khả năng có đời sống huyền bí chỉ bắt nguồn từ một chút bằng chứng cỏn con về đề tài thường được đồn đăi này. Trong số những người được thiên phú như vậy bao giờ cũng có một số dấn bước vào hàng ngũ đệ tử nghĩa là để mưu cầu bất cứ cơ hội hoặc phương tiện nào mà hoàn cảnh cho phép ḿnh đào sâu thêm tri thứ huyền bí. Khi bị người tầm đạo bũa vây như thế, sớm muộn ǵ th́ bậc Thánh sư cũng lộ nguyên h́nh. Việc thay đổi chính sách mà ta giới thiệu hiện nay qui định rằng bậc Thánh sư sẽ tiến một bước trước tiên để bộc lộ bản thân đối với nhu cầu của người tầm đạo, nhưng ta có thể dễ dàng hiểu được khi thay đổi trước tiên như thế bậc Thánh sư ắt lập luận rằng nếu cho đến nay đă có nhiều đệ tử dấn bước khi chưa có đáp ứng hồn nhiên nào về phía ngài th́ có thể có việc những người tầm đạo kém phẩm chất hầu như có nguy cơ ùa tới do bị chiêu dụ bởi bất kỳ biểu lộ nào của ngài vốn hơn mức chỉ là việc nhá ra sự thật. Dù sao đi nữa bậc Thánh sư ắt tự nhủ rằng vẫn c̣n quá sớm khi bắt đầu bằng việc hiển lộng thần thông một cách giật gân do tri thức tâm linh cao cấp cho đến nay c̣n chưa quen thuộc với thế giới nói chung. Tốt hơn là thoạt tiên đưa ra một lời đề nghị vốn chỉ được tính toán để thổi bùng lên óc tưởng tượng của những kẻ nào đă dấn bước thêm một chút vượt quá mức những bản năng tự nhiên sẽ dẫn dắt họ bước vào đời sống huyền bí. Đây dường như thật sự là lập luận mà các Thánh sư đă xúc tiến cho đến nay, điều này cũng giúp ta hiểu được như tôi đă nói lúc khởi đầu là v́ sao không ai trong số các học viên ngoại môn – cái gọi là các đệ tử tại gia – đă từng nói rằng ḿnh có sự hiểu biết riêng về bất kỳ Thánh sư nào.

Mặt khác khi kết nối đủ thứ sự tiết lộ rải rác liên quan đến các Huynh Trưởng tản mạn trong vô số người khác nhau ở Ấn Độ thuộc về Hội Thông Thiên Học th́ ta học được biết bao nhiêu điều về các Thánh sư đến nỗi ta có đủ tư cách để thẩm định được tŕnh độ của các ngài đến mức ta có thể nói một cách tin tưởng rằng các ngài đă tạo ra những thành tích thật sự trong thiên nhiên đối với cơi siêu vật lư. Những điều tiết lộ rải rác này – nếu người ta chấp nhận được lư luận của tôi về những điều nêu trên – đă được cố t́nh chia nhỏ ra và vung vải khắp nơi để cho đến nay ta chỉ có thể đạt tới mức tin chắc vào quả vị Thánh sư sau khi đă mất một số công phu lắp ghép lại những bằng chứng rời rạc. Thế nhưng khi đă hoàn tất quá tŕnh này th́ ta ắt có một khối lượng tri thức nào đấy liên quan đến các Thánh sư, từ đó tất nhiên ta rút ra được nhiều điều suy diễn. Trước hết ta thấy rằng các ngài dứt khoát có được khả năng nhận biết các diễn biến và các sự kiện trên cơi hồng trần mà ta vẫn quen thuộc nhờ vào những phương tiện khác hơn năm giác quan b́nh thường. Ta cũng thấy rằng các ngài dứt khoát có được khả năng xuất lộ từ cơ thể của riêng ḿnh và xuất hiện ở những nơi xa xăm qua những đối thể ít nhiều tinh vi hơn, chúng chẳng những là các tác nhân để gây ấn tượng lên người khác mà c̣n là trụ xứ tạm thời của nguyên khí suy tư của chính Thánh sư; vậy là nếu không có bằng chứng nào thêm nữa th́ bản thân các ngài cũng chứng minh được sự thật hồn người là một điều ǵ đấy hoàn toàn độc lập với chất liệu của bộ óc và các trung khu thần kinh. Bây giờ tôi không dừng lại để nêu ra các ví dụ nữa. Việc ghi nhận bằng chứng phải tách rời khỏi việc các lập luận như hiện nay, nhưng có rất nhiều tài liệu ghi chép khả dụng cho bất cứ người nào mất công khảo sát chúng. Thế mà nếu ta biết rằng linh hồn của các Thánh sư có thể tùy ư chuyển sang trạng thái có những năng lực nhận thức độc lập với guồng máy cơ thể th́ chẳng có ǵ đáng ngạc nhiên khi các ngài có thể dùng kiến thức của chính ḿnh để đưa ra nhiều phát biểu liên quan đến các quá tŕnh trong thiên nhiên vượt xa bất cứ tri thức nào mà ta có thể đạt được chỉ bằng cách quan sát trên cơi trần. Chẳng hạn như ta hăy xét phát biểu của Thánh sư cho rằng có một vài hành tinh khác với trái đất có dính dáng tới sự tăng trưởng của đại khối nhân loại mà ta chỉ là một phần. Điều này không hề được đưa ra dưới dạng một phỏng đoán hoặc suy diễn. Các Thánh sư cho ta biết rằng một khi thoát xác, các ngài thấy ḿnh có thể nhận biết được diễn biến trên một số hành tinh khác cũng như ở những nơi xa xăm trên hành tinh của chúng ta. Đây không phải là tín ngưỡng ngoại lệ của một cá nhân có tổ chức cơ thể ngoại lệ mà những kẻ đa nghi có thể coi là người bị ảo giác; chẳng có lư do ǵ để nghi ngờ sự thật về bằng chứng hội tụ của một đoàn thể người đáng kể đă dấn thân vào việc thường xuyên thực nghiệm những năng khiếu tương tự. Bằng cách này, sự thật ấy cũng giống như sự thật của khoa học chân chính, chẳng hạn giống như sự thật đại tinh vân ở Orion phô bày một phổ chất khí và do đó là một tinh vân thật sự. Tất cả chúng ta ai có cái phổ kư tinh tú đều có thể tự ḿnh nhận biết được sự thật này nếu ta lợi dụng một đêm trời trong sáng khi có thể quan sát thiên văn được. Việc nghi ngờ nó ắt không tỏ ra thận trọng hơn việc tin tưởng nó mà chỉ là việc thẩm định chưa hoàn chỉnh về bằng chứng. Quả thật là xét về t́nh h́nh trên các hành tinh khác th́ việc ta chấp nhận phát biểu của Thánh sư ắt tùy thuận vào cảm tưởng của ta liên quan tới sự thành ư của các ngài khi cho ta biết các ngài đă quan sát như thế. Cho đến nay ta có quyền suy luận liệu các Thánh sư có nói điều các ngài tin là đúng – khi các ngài nói đến một dăy hành tinh gồm 7 hành tinh bao gồm cả trái đất – hay các ngài cố t́nh lừa gạt chúng ta với một chuyện lăng nhăng những phát biểu mà các ngài biết là không đúng sự thật. Tôi thiết tưởng có nhiều cách khác nhau chứng tỏ được rằng giả định cố t́nh lừa gạt là phi lư. Nhưng bản thân việc khảo sát rốt ráo tính phi lư của nó cũng là một nhiệm vụ gian nan. Trong lúc này, lập trường mà tôi cố gắng xác lập là không tùy thuộc vào vấn đề đối với các hành tinh th́ liệu các Thánh sư đang nói cho ta biết điều mà các ngài biết rằng đúng hay là điều ǵ đó mà các ngài biết là không đúng. Lập trường hiện nay của tôi là dù sao đi nữa bản thân các Thánh sư cũng biết đâu là sự thật về vấn đề này và ta ắt nhận xét rằng lập trường ấy không bị hoen ố bởi sự thật là cho đến nay các đệ tử cận đại nhất của các ngài như chúng ta vẫn chưa thể nối gót các ngài để lập lại những thí nghiệm mà giáo huấn của các ngài dựa vào đấy.

Ta cũng có thể áp dụng chuỗi lập luận ấy cho toàn thể các giáo huấn mà Hội Thông Thiên Học giờ đây đang quan tâm ra sức đồng hóa. Khi được đưa ra như hiện nay cho thế giới c̣n chưa được khai tâm th́ nó chỉ có thể ở dưới dạng một tập hợp các phát biểu dựa trên thẩm quyền. Và các loại phát biểu như thế đâu phải là điều dễ chịu nhất đối với phương pháp của ta hoặc đối với tập quán giáo huấn của các Thánh sư. Đó là v́ không có một pḥng hóa học nào ở Anh nơi mà hệ thống giáo huấn lại bị hạn chế nghiêm ngặt theo lệnh thí nghiệm của học viên hơn là cái hệ thống mà các đệ tử huyền bí đang chọn theo khóa học khai tâm chính qui. Từng bước một, khi đệ tử chính qui được cho biết đâu là sự thật liên quan tới các điều bí nhiệm nội giới của thiên nhiên th́ y cũng được chỉ có cách ứng dụng những năng lực đang phát triển của chính ḿnh để trực tiếp quan sát những sự thật ấy. Thế nhưng các năng lực đang phát triển ấy – như ta đă từng nêu rơ trước đây – có kèm theo những quyền năng mới mẻ đối với thiên nhiên chỉ có thể được phó thác cho những kẻ mà các Thánh sư đă thọ kư làm đệ tử thực thụ. Khi dạy dỗ cho những kẻ ngoại lai để cố gắng làm như bây giờ, các Thánh sư phải từ bỏ những phương pháp quen thuộc của ḿnh cũng như nếu ta muốn t́m hiểu điều mà các ngài sẵn ḷng giảng dạy th́ ta cũng phải từ bỏ các phương pháp điều tra quen thuộc của ḿnh. Ta phải tạm ngưng cái thói quen đ̣i hỏi bằng chứng về mỗi phát biểu được đưa ra mỗi khi nó được đề cập đến. Ta phải tạm thời tin vào mỗi phát biểu ấy dựa trên niềm tin chắc chắn nói chung của ta vốn có thể được thỏa măn theo những đường lối chứng minh quen thuộc, đó là: những người như các Thánh sư chắc chắn có tồn tại mặc dù ta không thể tùy ư yết kiến các ngài, các ngài phải thấu hiểu được rất nhiều định luật trong Thiên nhiên nằm ngoài tầm những định luật mà các giác quan thể chất nhận biết được khi đưa ra bất kỳ phát biểu nào, các ngài phải hoàn toàn biết rơ liệu phát biểu ấy là đúng hay chăng.

Nếu ta đă nhận thức rơ như vậy th́ sự thật là đến lượt mỗi người điều tra phải  thỏa măn song hành với việc thực chứng được trường hợp ấy sao cho lư trí sẽ phải nổi loạn chống đối ư niệm các Thánh sư có thể dấn thân vào toan tính hiện nay nhằm truyền đạt một số tri thức của riêng ḿnh cho thế giới nói chung khác hơn là với ḷng thành tâm thành ư thuần túy nhất. Ta có thể kết thúc rằng chúng ta vốn đi đến kết luận giáo huấn của các ngài hoàn toàn chấp nhận được th́ chúng ta đang dựng một kim tự tháp lớn lộn ngược trên cái đáy nhỏ của ḿnh. Nhưng sức mạnh lư luận trong lập trường của ta không hề bị tổn thương do lời phản bác ấy. Trong mọi ngành tri thức của nhân loại th́ những sự suy diễn đều vượt xa các sự kiện quan sát được dùng làm căn cứ để suy diễn. Và ngay cả trong khoa học chính xác hơn hết th́ ta coi như một định lư là đă được chứng minh nếu bằng phép phản chứng ta thấy bất kỳ giả thuyết khác đi nào cũng đều phi lư. Hơn nữa học thuyết thậm chí về bằng chứng hợp pháp cũng công nhận giá trị của chứng cớ thứ cấp khi xét theo bản chất sự việc th́ ta không thể có được bằng chứng sơ cấp. Đây chính là t́nh huống liên quan đến toan tính hiện nay nhằm bắc cầu nối liền vực thẳm ngăn cách trường phái nghiên cứu vật lư với trường phái tri thức tâm linh. Chừng nào chúng ta ở bên phía này c̣n được biện minh khi nghi ngờ liệu đâu đó trên trần thế có một điều ǵ đáng gọi là trường phái tri thức tâm linh hay chăng th́ ta cũng chẳng hoài công mà bận tâm với những mảnh tản mạn trong giáo huấn thỉnh thoảng lại x́ ra dưới một dạng hầu như chẳng ai hiểu nổi. Nhưng nghi ngờ về sự tồn tại của một trường phài như thế th́ quả thật hiện nay cũng tương đương với việc nghi ngờ về phát biểu nhắc tới tinh vân ở Orion theo ví dụ minh họa mà tôi vừa dẫn chứng. Nó chỉ có thể bắt nguồn từ việc thiếu quan tâm tới những sự kiện của toàn bộ vấn đề xét chung hiện nay do sốt sắng chịu mất công khảo cứu rốt ráo, đó vẫn c̣n là một loại chướng ngại ngăn cách Hội Thông Thiên Học với cộng đồng nói chung mà Hội đang được gieo trồng vào đấy. Khi xét tới vấn đề theo sự minh giải về một hàng rào huyền bí – đó là một chướng ngại trong trường hợp đệ tử tại gia tương ứng với những thử thách thật sự nghiêm trọng mà đệ tử chính qui phải vượt qua – th́ việc cần mất công như thế khó ḷng có thể coi là một chướng ngại mà ta khó vượt qua được. Ở phía bên kia có hằng hà sa số thông tin liên quan đến những điều bí nhiệm trong thiên nhiên rơ ràng là soi sáng cho những vùng rộng lớn trong quá khứ và vị lai mà đến nay vẫn c̣n đắm ch́m trong vô minh tột độ đối với những kẻ phê phán ḍ t́m và chỉ làm mồi cho những kẻ khác phỏng đoán một cách không đáng tin cậy. Đối với những người nào đă từng một lần đi rốt ráo vào vấn đề này để có được sự quán triệt đầy đủ đối với mọi nhận xét mà tôi đă nêu ra – nhờ vậy họ tin chắc rằng các Huynh Trưởng thật sự tồn tại th́ họ ắt phải quen thuộc với những sự thật về thiên nhiên ẩn đằng sau và vượt ngoài tầm kiếp sống này, giờ đây họ sẵn sàng truyền thụ một khối lượng tri thức đáng kể cho chúng ta th́ thật là lố bịch khi không tin vào thành tâm thành ư của các ngài – tất cả những nhà Thông Thiên Học chân chính như thế thuộc Hội Thông Thiên Học hiện nay đều thấy chẳng có ǵ liên quan tới sự thành công về tâm linh mà có tầm quan trọng so sánh được với việc nghiên cứu giáo lư bao la hiện nay đang được phó thác cho chúng ta.

 

-------------------------------

 

HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  QUEST  MAGAZINES