|
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES
|
(Occult Phenomena)
Tác giả A. P.
Sinnett
|
|
CÁC
HIỆN TƯỢNG HUYỀN BÍ
(Occult Phenomena)
Tác
giả A. P. Sinnett
[Xuất
bản lần đầu tiên trong Tạp chí Tiền
Phong (Allahabad, Ấn Độ) số ra ngày 27 tháng 10 năm 1880, trang 4.
Mặc dù
bài này được kư tên là “A.” song tác giả là A. P. Sinnett.
Đây là
bài báo đầu tiên trong đó ông Sinnett tường thuật lại việc ḿnh bắt đầu liên
lạc thư tín với Thánh sư K. H.]
Thưa
quí ngài, v́ có nhiều lời đùa cợt xuất hiện trên báo chí mới rồi về diễn
biến gần đây liên quan tới cái trâm, cho nên dường như ta nên cho công chúng
thấy rơ những người tin vào quyền năng và học thuyết của bà Blavatsky có
nhiều lập luận đáng tin cậy hơn mức thông thường. Những người viết ra lời
chỉ trích bồng bột về “sự điên rồ” của những kẻ chứng nhận cho diễn biến ấy
trong bất cứ trường hợp nào cũng tỏ ra rất tự tin, nhưng bức thư này có lẽ
góp phần giải thích được điều dường như chắc chắn là các bạn đọc thận trọng
hơn cũng cảm thấy kỳ lạ đến nỗi sự thật là nhiều người có tŕnh văn hóa lại
bị khuyến dụ phải xây dựng (điều dường như là) một niềm tin mới mẻ và bất
ngờ về (cái có vẻ là) một nền tảng bấp bênh.
Một là,
xin bạn đọc hăy hiểu cho
rằng những hiện tượng lạ thuộc loại mà tôi đang bàn không dính dáng ǵ tới
thần linh học. Cả một thế hệ đă dần dần tiếp thu những ư kiến mới, thế mà
vẫn cứ khăng khăng nói chuyện dường như thể huyền bí học và thần linh học
chỉ là một thứ. Thật ra chúng chẳng những khác nhau mà c̣n đối lập với nhau
nữa. Thuyết của các nhà Thông Thiên Học – tôi nói “thuyết” trong khuôn khổ
suy nghĩ mà hầu hết các bạn đọc sẽ tiếp cận bức thư này, mặc dù tôi cũng có
thể nói về cái thuyết mà Simla là nơi chốn ở ngay bên ŕa Hi mă lạp sơn –
cho rằng nhờ phát triển được các năng lực cao siêu, một số người đă có thể
hiểu được và thực hành một khoa học đă từng được truyền thừa từ bậc Thánh sư
này sang bậc Thánh sư khác trong những thời kỳ dài dằng dặc. Khoa học này
thể hiện đủ thứ khám phá liên quan tới những định luật về vật chất và lực,
nhất là những định luật về từ khí động vật cùng với Ư chí Con người khi được
rèn luyện không phải bằng sự hành xác vụng về mà bằng một giới luật hoàn hảo
tinh vi về trí thức và đạo đức. Nếu hiếm có các bậc Thánh sư th́ ta cũng có
thể coi điều này giải thích được đúng mức v́ những mục đích thực tiễn khi
nhớ rằng một Thánh sư ắt phải là một người, trong quá tŕnh dài nhiều năm
tháng, đă hoàn toàn trinh khiết, tiết dục, tẩy trược mọi mục đích và tham
vọng ích kỷ trong cuộc sống, ít chú ư tới thế giới đến nỗi bằng cách kéo dài
việc ly thế, ngài có thể tự tẩy trược ḿnh từng bước thoát khỏi “những từ
khí xấu xa” do việc tiếp xúc với đại chúng.
Thế mà các Thánh sư mặc dù không ḥa lẫn với Thế gian
nhiều hơn mức cần thiết – nhờ vậy các ngài có thể thực hiện điều ḿnh cần
phải làm trong khi hầu như hoàn toàn ly thế - vẫn quan tâm sâu sắc tới thế
gian xét về nhân loại đang ở trên đó. Thật mất rất nhiều thời giờ mới giải
thích được thậm chí là một chút điều tương đối mà xét theo biểu kiến th́ sớm
muộn ǵ ta cũng học được về điều mà tôi đă có thể học được về các ngài xét
cho đến nay; nhưng khi nói như vậy tôi đă dọn đường cho một lời giải thích
về lập trường của bà Blavatsky – một lập trường thường xuyên bị xuyên tạc
gây bất lợi cho bà. Bà Blavatsky đă leo dốc lên một số nấc thang trắc trở
dẫn tới quả vị Thánh sư, nhưng bà thường xuyên đoan chắc với chúng ta rằng
bản thân bà không phải là Thánh sư. Song le ngay từ khi tấm bé bà đă có thần
nhăn và cái mà các nhà thần linh học gọi là “năng khiếu đồng cốt”. Nói cách
khác bà có những đặc điểm tự nhiên giúp cho bà dễ phát triển những năng
khiếu cần thiết để đạt được cấp thấp trong quả vị Thánh sư. Những năng khiếu
mà tôi nói đă được trau dồi đến một tŕnh độ nào đấy với kết quả là hiện nay
bà Blavatsky đang có quan hệ với
các Thánh sư theo một cách thức mà người nào không có năng khiếu một cách
đặc biệt và không được rèn luyện đáng kể về huyền bí học ắt không thể giao
tiếp được. Dĩ nhiên lời giải thích sơ bộ này chỉ là lời khẳng định. Để cho
nó ngắn gọn tôi phải đưa nó ra một cách độc đoán mà không được một bằng
chứng nào hậu thuẫn. Bây giờ tôi xét tới phần câu chuyện của ḿnh. Bà
Blavatsky chắc chắn có khả năng tạo ra ở bất cứ vật thể cứng rắn nào mà bà
muốn – bất kỳ loại bàn ghế nào hoặc khung cửa sổ nào – tùy ư phát ra những
âm thanh mà ta gọi là “những tiếng gơ của vong linh”. Tôi đă chứng kiến bà
làm như vậy cả trăm lần khác nhau và hầu hết các bạn của bà cũng đă từng
chứng kiến như thế. Lực được sử dụng ba hồi th́ mạnh ba hồi th́ yếu. Tôi
chưa bao giờ biết nó hoàn toàn không tác dụng nhưng khi nó đủ mạnh th́ tôi
đă từng nh́n thấy đi nh́n thấy lại bà Blavatsky đứng hay ngồi hoàn toàn rơ
ràng trên cái bàn mà bà có thể đang thử nghiệm, và bất cứ ai khác ở bất cứ
nơi đâu không hề tiếp xúc với nó khi bà chỉ thực hiện một vài thủ pháp thôi
miên mesmer trên nó; cứ mỗi cử động bàn tay của bà th́ lại khiến cho nó phát
ra những âm thanh dường như thể bà lấy tay gơ vào đấy. Nhiều người khả kính
ở đây ắt sẵn ḷng tuyên thệ hay hứa danh dự đă từng nghe thấy điều ấy theo
cách thức mà tôi mô tả. Thế mà theo thời gian bất cứ người lành mạnh nào
nghiên cứu những hiện tượng lạ này cũng đều phải càng ngày càng tin chắc
rằng chúng được tạo ra thông qua một lực mà khoa học thông thường chưa hiểu
rơ. Tôi đă nghe những âm thanh ấy trong nhiều t́nh huống rất khác nhau đến
nỗi không thể áp dụng cho chúng bất kỳ một thuyết nào quan niệm được về sự
bịp bợm nếu chẳng phải nó dẫn tới điều vô lư. Kế đó ta xét tới một biểu lộ
khác. Bà Blavatsky có thể tùy ư – mặc dù giống như trong trường hợp tiếng
gơ, cường độ của nó biến thái –
khiến cho những tiếng chuông reo lên trong không khí khi mà không có bất kỳ
một vật thể rành rành nào tạo ra tiếng chuông ấy. Tôi xin nói rơ thêm rằng
tôi đă nghe những tiếng chuông ấy hàng chục lần với đủ mọi cách khác nhau và
đủ mọi chỗ khác nhau, trong pḥng cũng như ngoài trời, khi chẳng có ai khác
ngoại trừ một ḿnh tôi và khi có người khác đang hiện diện. Ngoài cá nhân
tôi ra th́ có nhiều người khác là nhân chứng.
Nếu bất cứ người nào có lư trí mà suy nghĩ về vấn đề này
th́ y ắt thấy rằng như tôi vừa mô tả khi đă tin chắc rằng bà Blavatsky tạo
ra nhiều hiệu ứng phi thường bằng cách vận dụng các lực và quyền năng đặc
biệt th́ người ta ắt khảo sát những diễn biến như hiện tượng lạ về cái trâm
trong khuôn khổ suy tư không thể khác đi được nữa. Người ta không khẳng định
rằng những thành tích sửng sốt nhất là do chỉ một ḿnh bà Blavatsky gây ra
thôi. Nghe đâu đó là công tŕnh của các Thánh sư cao cấp mà bà có giao tiếp
về mặt huyền bí. Nhưng dù sao đi nữa th́ việc quan sát khoa học mà bà
Blavatsky là một tác nhân hữu h́nh đă đưa chúng ta từ những sự khởi đầu
tương đối nhỏ nhặt như những tiếng gơ và tiếng chuông với việc làm tan ră
vật chất và liên lạc bằng thần giao cách cảm với những người ở xa. Bây giờ
tôi có thể mô tả một số những diễn biến mới đây làm củng cố lập trường của
những người tin vào diễn biến cái trâm.
Cách đây vào khoảng 10 ngày hoặc nửa tháng, vợ tôi có đi
theo các nhà Thông Thiên Học lên đỉnh đồi Prospect vào một buổi chiều. Khi ở
đó bà Blavatsky hỏi vợ tôi một cách giỡn cợt là thực tâm bà muốn cái ǵ.
Trong lúc ấy bà cao hứng bèn nói rằng ḿnh “muốn có một thông điệp của một
trong các Huynh trưởng”. Tôi xin giải thích các “Huynh trưởng” là các Thánh
sư cao cấp. Bà Blavatsky móc từ trong túi ra một mẩu giấy màu hồng chưa viết
chữ nào đă bị xé ra từ một thông điệp mà bà nhận được vào ngày hôm ấy. Bà
gấp nó lại thành một cái la bàn nhỏ, cầm nó ở giữa hai bàn tay trong một
lúc, đến đặt nó trên sườn đồi và rồi quay lại bảo rằng nó đă biến mất.
Sau khi liên lạc bằng trí với bậc “Huynh trưởng” ở nơi cách xa nhờ
vào những phương pháp huyền bí của riêng ḿnh, bấy giờ bà bảo rằng ngài hỏi
liệu vợ tôi muốn có được bức thư ở chỗ nào. Sau khi bàn bạc đôi chút, đôi
bên quyết định rằng vợ tôi sẽ t́m thấy bức thông điệp trên một cái cây đặc
biệt. Khi dấn thân thêm một chút về chuyện ấy, vợ tôi nh́n dáo dác xung
quanh một lúc mà không t́m thấy bất kỳ thông điệp nào. Nhưng bây giờ khi
quay mặt lại về phía cái cành cây ngay trước mắt ḿnh mà trước đó bà đă nh́n
trong một lúc th́ bà nhận thấy có một thông điệp màu hồng gấp lại làm ba
đính vào cái cọng của một chiếc lá nơi mà trước đó không hề có thông điệp
ấy. Chiếc lá ắt hẳn thuộc về cái cọng mới bị bứt ra bởi v́ cái cọng vẫn c̣n
xanh ngắt và rỉ nhựa chứ không khô queo như dĩ nhiên nó phải vậy nếu chiếc
lá đă bị bứt ra một lúc trước đó rồi. Nội dung của bức thông điệp gồm vài
ḍng như sau: “Ta đă được yêu cầu có một bức thông điệp ở đây cho con. Liệu
ta có thể làm được ǵ giúp con?”, kư tên là một số chữ cái tiếng Tây Tạng
nào đấy. Cả bà Blavatsky lẫn Đại tá Olcott đều không tới gần cái cây trong
khi vợ tôi t́m kiếm bức thông điệp. Tờ giấy màu hồng mà bức thông điệp được
viết trên ấy dường như giống hệt tờ giấy mà vợ tôi đă từng thấy chưa viết
ḍng chữ nào trong tay bà Blavatsky ngay trước đó ít lâu.
Vài ngày sau diễn biến này, một buổi sáng kia bà
Blavatsky theo một vài người bạn đi dă ngoại về hướng thác nước. Thoạt kỳ
thủy có 6 người hiện diện bao gồm cả chính tôi. Nhưng khi đoàn lên đường th́
có một người thứ 7 cũng tháp tùng theo. Khi người ta chọn một địa điểm ở
cánh rừng gần thác nước trên cao làm chỗ dùng bữa sáng th́ đồ đạc mang theo
được trải ra trên mặt đất. Té ra là chỉ có 6 cái tách và 6 cái đĩa đựng tách
phục vụ cho 7 người. Có thể do lời nói giỡn về sự khiếm khuyết này hoặc do
một người nào đấy quá khát nước và nghĩ rằng những cái tách quá nhỏ - tôi
không chắc ư tưởng nào là chính xác nhưng điều ấy không quan trọng – một
trong những người đi dă ngoại cười khúc khích yêu cầu bà Blavatsky tạo ra
thêm một cái tách nữa. Thoạt tiên th́ đề nghị ấy chẳng có vẻ ǵ là nghiêm
túc, nhưng khi bà Blavatsky bảo rằng chuyện này khó lắm song nếu chúng tôi
muốn th́ bà cũng rán thử xem, thế là ư kiến ấy được coi là tha thiết. Như
thông lê bà Blavatsky giao tiếp trong trí với các “Huynh trưởng” rồi đi lang
thang một chút quanh vùng chúng tôi đang ngồi và yêu cầu một trong những vị
khách quí trong chúng tôi đem tới một con dao. Địa điểm được chọn lựa là ŕa
một cái dốc thoai thoải trên phủ đầy cỏ hoang dại rễ um tùm. Trước hết người
bạn quí mang con dao ra cắt những thứ ấy một cách khá khó khăn v́ rễ cỏ rất
dai và xoắn xít chặt vào nhau. Thế rồi khi xắn vào vùng rễ đă bở ra xuống
dưới đất bằng con dao, dùng tay móc lên những thứ bị bỏ rơi lại th́ cuối
cùng ông ta sờ vào mép của một vật ǵ trăng trắng, đến khi nó được đào lên
hoàn toàn th́ đó là cái tách chúng tôi đang cần. Người ta cũng t́m thấy cái
đĩa đựng tách sau khi đào thêm chút nữa. Cả cái tách lẫn cái đĩa đựng tách
đều ăn khớp xét về kiểu mẫu với những thứ mang đi dă ngoại và tạo thành một
bộ tách và đĩa đựng tách thứ 7 khi được mang trở lại nơi mà chúng tôi phải
dùng bữa sáng. Thoạt tiên th́ cả nhóm đều tỏ ra hoàn toàn thỏa măn với
bằng chứng sống động về hiện
tượng lạ này và chịu ấn tượng sâu sắc về nó, nhưng đến hết buổi sáng th́ một
số người lại nghĩ rằng nó không hoàn toàn chính xác về khoa học v́ xét theo
lư thuyết th́ có thể là nhờ một sự đào sẵn nào đó bên dưới cái chỗ chúng tôi
khai quật được bộ tách đĩa. Người ta có thể đă dùng những phương tiện b́nh
thường thồn chúng vào cái nơi mà chúng tôi phát hiện được. Ai cũng biết rằng
mặt đất nơi chúng tôi đào xuống chắc chắn chưa bị xáo trộn và bất cứ nơi đâu
gần đấy cũng không phát hiện được dấu vết đào lên, nhưng người ta lập luận
rằng đất mà chúng tôi vứt vương văi trong khi đào cái tách có thể đă làm mờ
nhạt đi những dấu vết đào trước đó. Tôi đề cập tới lời phản đối này chẳng
phải v́ đó là một giả thuyết phi lư nực cười mà bởi v́ ba trong số những
người đi dă ngoại từ đó trở đi đă xét thấy rằng khuyết điểm nêu trên đă làm
hỏng cái hiện tượng lạ được đem ra trắc nghiệm ấy. Dù sao đi nữa cũng không
bơ công để bàn thêm về đề tài này v́ bây giờ tôi đang trải qua một kinh
nghiệm khác ngoài việc hoàn thiện nó là một cuộc thí nghiệm trắc nghiệm th́
hai điều vừa mô tả nêu trên chẳng qua chỉ có vẻ là không quan trọng (mặc dù
thật ra đối với một học viên về các điều bí nhiệm huyền bí th́ hiện tượng
cái tách cho đến nay quan trọng hơn). Số là tôi đă được phép bước vào
liên lạc thư tín trực tiếp với
một trong các Huynh trưởng. Căn cứ vào những bức thư mà tôi đă nhận được,
tôi chỉ có thể nói rằng chúng dứt khoát do một người có tŕnh độ văn hóa, tư
tưởng và trí thông minh xuất sắc viết ra, chỉ thỉnh thoảng mới có những dấu
vết thoáng qua nhất về việc không quen với các thành ngữ tiếng Anh, mặc dù
tôi có lư do để biết rằng người viết là dân bổn xứ và tôi không thể khuếch
đại quá mức ư tưởng của ḿnh là có đặc quyền được làm quen với một Huynh
trưởng tài ba như vậy. Chúng tôi có hẹn đi dă ngoại lên đỉnh đồi Prospect.
Ngay trước khi khởi hành tôi nhận được một thông điệp ngắn của người liên
lạc thư tín. Thông điệp cho tôi biết rằng một điều ǵ đó sẽ được ban cho vợ
tôi ở trên đồi coi như là dấu hiệu của ngài. Trong khi chúng tôi dùng bữa
cơm trưa th́ bà Blavatsky bảo rằng vị Huynh trưởng ra lệnh cho bà hỏi xem
chúng tôi nghĩ đâu là nơi chốn ít có khả năng nhất mà chúng tôi muốn t́m
thấy một thông điệp của ngài và tặng vật mà ngài đề nghị gửi cho chúng tôi.
Sau khi thảo luận đôi chút về đề tài này, tôi và vợ tôi chọn phần bên trong
cái gối dựa jampan mà lúc bấy giờ bà ngă người vào đấy. Đây là một gối dựa
bền chắc làm bằng nhung và len mà chúng tôi vừa tậu được vài năm nay. Chẳng
bao lâu sau người ta cho chúng tôi biết cái gối dựa sẽ có thông điệp. Vợ tôi
được lệnh mở toạc cái gối ra. Chúng tôi thấy đây là một nhiệm vụ khá khó
khăn v́ các mép gối đều được khâu rất kỹ lưỡng nhưng chỉ cần một lúc dùng
dao nhíp là gỡ được chúng ra. Tôi xin nói thêm rằng trong khi tôi đang xé
toạc cái gối dựa th́ bà Blavatsky lại bảo rằng chẳng cần phải vội v́ bức thư
chỉ vừa mới được viết cho nên chưa hoàn tất. Khi chúng tôi lột ra phần nhung
và len bao phủ bên ngoài th́ tôi thấy bên trong gối dựa có những lông vũ
được khâu lại theo kiểu riêng của nó. Đến lượt chúng tôi xé toạc lông vũ ra
th́ chôn sâu trong mớ lông vũ vợ tôi t́m thấy một thông điệp gửi cho tôi
cùng với một cái trâm. Một cái trâm cũ kỹ mà bà đă sắm nhiều năm nay và theo
lời bà kể th́ bà nhớ rằng bà đă lấy nó ra khỏi cái bàn trang điểm vào buổi
sáng hôm ấy trong khi chuẩn bị xuất hành, mặc dù sau đó bà lại đút nó vào
ngăn kéo rồi chọn một món khác thay vào đó. Thông điệp gửi cho tôi có nội
dung như sau: “Huynh đệ thân mến, cái trâm số 2 này được đặt vào một vị trí
rất kỳ lạ chỉ để chứng minh cho bạn thấy rằng một hiện tượng lạ thật sự đă
được tạo ra rất dễ dàng như thế nào và c̣n dễ hơn nữa khi nghi ngờ tính chân
thực của nó. Bạn muốn xử trí thế nào cũng được, ngay cả khi xếp tôi vào loại
người âm mưu đồng lơa. Khó khăn mà bạn nói tới tối hôm qua về việc trao đổi
thư từ th́ tôi sẽ cố gắng khắc phục . . . Tôi sẽ gửi cho bạn một địa chỉ để
cho bạn sử dụng măi trừ khi quả thật bạn muốn liên lạc thư tín qua những
chiếc gối. Xin bạn vui ḷng nhận xét rằng tặng vật không được ghi ngày tháng
từ Quần Tiên Hội mà từ một thung lũng ở
Các bạn ắt nhận thấy rằng bà Blavatsky không tự cho ḿnh
có liên quan tới hiện tượng này hơn là người sứ giả huyền bí giữa chúng tôi
và vị Huynh trưởng ở Kashmir, bạn ắt nhận thấy rằng ngài có vẻ đă viết bức
thư ở Kashmir chỉ trong một ít giây phút mà chúng tôi t́m thấy nó bên trong
cái gối dựa. Bạn tự nhiên lập luận rằng những người có khả năng phi thường
như thế ắt có thể tạo ra những tác dụng c̣n giật gân hơn nữa. Thế th́ tại
sao phải dùng mánh khóe cho dù nó mang tính thuyết phục đến đâu đi nữa đối
với một hai người được phép áp đặt điều kiện th́ nó cũng chẳng được những
người khác đánh giá cao bao nhiêu trong khi công chúng nói chung ắt có
khuynh hướng giả định rằng những người tường thuật là những kẻ nói láo hoặc
điên khùng hơn là tin vào bất cứ điều ǵ có thể xảy ra trong Thiên nhiên mà
không được Hội Hoàng Gia cho phép hoặc tán thành. Được thôi, tôi nghĩ rằng
ḿnh cũng nhận thấy rơ lư do tại sao họ không tin những lư do ấy nói ra th́
quá dài ḍng. C̣n dài ḍng hơn nữa khi phải trả lời bằng những lập luận
nghiêm túc về câu chuyện ngớ ngẩn mà việc công bố diễn biến cái trâm số 1 đă
gây ra dư luận trên khắp Ấn Độ. Cứ để cho những kẻ nói đùa hả hê đi. Họ
nghĩ rằng thiểu số huyền bí gia
chúng tôi sai lầm, chúng tôi lại biết rằng họ nhầm lẫn và nói đùa th́ có hại
ai đâu mặc dù họ đi quá xa một chút và đă vượt ra khỏi giới hạn của sự nhă
nhặn khi công khai thắc mắc bàn luận xem liệu bà Blavatsky và Đại tá Olcott
có bịp bợm và lừa gạt không. Dù sao đi nữa th́ đó cũng là những người đă xả
thân cho những công tŕnh mà cả thế giới nói chung đều quí trọng, họ đă có
được những điều tốt đẹp thoạt kỳ thủy ở một qui mô lớn lao nơi những xứ sở
mà hầu hết chúng ta dường như đều cho rằng hạnh phúc hơn xứ sở này. Họ đă
tới đây lao động vất vả suốt quăng đời c̣n lại v́ nhiệm vụ mà họ đă đặt ra
cho ḿnh là một bổn phận để truyền bá ư tưởng về “T́nh Huynh Đệ Đại Đồng”
của các bậc Huynh trưởng cũng như phát triển Hội Thông Thiên Học. Nếu bà
Blavatsky không thuyết phục được người này người nọ rằng bà đă học được bất
cứ điều ǵ đó nhiều hơn đại đa số quần chúng đă biết th́ cũng có những cách
thức mà những người lịch sự có thể biểu hiện sự thiếu tin tưởng của ḿnh và
có những cách thức khác để cho họ khi tha thiết muốn được vui đùa về chuyện
cái trâm của bà Hume th́ cũng có biết bao nhiêu kư giả trong báo chí Ấn Độ
thích t́m ra những cách ấy.
A.
Simla, ngày 23 tháng 10
[Khi
bài này in lại nhiều tháng sau đó trong
Tạp chí nhà Thông Thiên Học,
quyển II, số tháng giêng năm 1881, trang 70 đến 72 th́ nhận xét sau đây của
Ban biên tập được đính kèm vào đó:]
“Bài tường thuật nêu trên được ghi lại trong những trang
báo này không phải để gợi ra óc ṭ ṃ ngồi lê đôi mách của bạn đọc mà đó là
một chút bằng chứng song hành là có một số ngành định luật thiên nhiên có
thể được học hỏi rốt ráo hơn ở Ấn Độ so với Âu châu. Việc thi thố các thần
thông được thực hiện ở Simla chỉ thuyết phục những người có giáo dục theo
phương pháp Âu Tây, là những người am tường khá nhiều hiểu biết về các lực
huyền bí trong Thiên nhiên hơn hẳn so với ngay cả những người có thẩm quyền
lỗi lạc nhất về Khoa học Vật lư hiện đại. Ta ắt thấy rằng mục tiêu này đă
đạt được. Trong khi đó thật là khó chịu cho bà Blavatsky khi thấy động cơ
thúc đẩy và cá tính của ḿnh lại bị phỉ báng thô tục bởi những kẻ dốt nát,
thế nhưng khi gợi ra việc chú ư rộng răi và bàn luận về Khoa học Huyền bí
th́ ít ra nó cũng đă được bù trừ thỏa đáng phần nào. Nếu bà chịu đau khổ th́
chính nghĩa sự thật dứt khoát là đă thắng lợi”.
------------------------
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES