|
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES
|
BÁI
HỎA GIÁO
(ZOROASTRIANISM)
Tác giả ANNIE
BESANT
|
|
Lời
Tựa
Nói về tự
do, tự
do tư
tưởng
có thể
nói là dự
phần
quan trọng
trong sự
tiến
hóa của
nhân loại
và sự
đau khổ
của
nhân loại
tỉ
lệ
nghịch
với
sự
tiến
hóa. Khi một
cá nhân sinh ra và lớn
lên trong một
gia đ́nh nào đó th́ hầu
như
họ
thường
theo tôn giáo mà cha mẹ
họ
đang theo. Họ
ít có dịp
khảo
sát tôn giáo
ấy
cặn
kẽ
và mặc
nhiên, mọi
quan niệm
về
nhân sinh quan, về
cuộc
đời,
cũng như những nhận định của họ
thường
được nh́n qua màu sắc
tôn giáo của
họ.
Nói cách khác là theo định
kiến
tôn giáo của
họ.
Mỗi
tôn giáo đều
có màu sắc
óng ánh của
nó toát ra từ
một
Thực
Tại
Nhất
Như.
Thế
giới
mà nhân loại
đang sống
là thế
giới
vật
chất
hồng
trần,
thuộc
tính của
nó là giới
hạn,
là thế
giới
của
nhị
nguyên. Do đó tôn giáo cũng không ngoại
lệ,
cũng phải
mang tính giới
hạn
này, nên mỗi
tôn giáo chỉ
thể
hiện
được
một
sắc
thái nào đó mà thôi hay nói một
cách khác đi, bị
những
giới
hạn
riêng của
nó.
Hơn
nữa,
qua thời
gian, mỗi
tôn giáo đều
có nhiều
sự
biến
đổi
làm che khuất
đi chân lư khởi
thủy.
V́ thế
chúng ta cần
có một
sự
khảo
sát kỹ
lưỡng
tôn giáo mà ḿnh theo đuổi.
Qua những
bài phát biểu
của
bà Annie Besant, chúng ta có dịp
khảo
sát các tôn giáo để
t́m thấy
những
ánh sáng linh diệu
của
các tôn giáo và nhận
ra được
chân lư đích thực
ẩn
trong từng
màu sắc
của
mỗi
tôn giáo. Tuy nhiên, sự
khảo
sát này phải
dựa
trên tinh thần
khoa học
và chúng ta hăy nghe Ali, một
bậc
trưởng
lăo trong Hồi
giáo định
nghĩa về
Khoa học:
"Tinh hoa của
khoa học
là việc
soi sáng cho tâm hồn,
mục
tiêu chính của
khoa học
là sự
thật,
điều
dẫn
dắt
của
khoa học
là cảm
hứng,
khoa học
chỉ
chấp
nhận
lư trí. Đấng
mang lại
linh hứng
cho khoa học
là Thượng
Đế
và lời
lẽ
của
con người
giúp xiển
dương
khoa học."
(Hồi
giáo, Annie Besant) Trong
tinh thần
khoa học
ấy,
chúng ta bước
vào Tuyển
Tập
Tôn Giáo này.
Như Hải
--------------------------------------------------------------------------------------------------
BÁI HỎA GIÁO
(Một bài thuyết tŕnh trước
Đại hội)
Một trong những sự khác nhau triền miên xuất hiện giữa
tri thức huyền bí và Đông phương học (gần đây chúng đă nở rộ ở phương Tây)
đó là vấn đề niên đại của các tôn giáo lớn. Khi xét tới Phật giáo và Ki Tô
giáo th́ sự khác nhau chỉ giới hạn vào một hoặc hai thế kỷ thôi. Nhưng xét
về cả Ấn giáo lẫn Bái Hỏa giáo th́ khoa Đông phương học và huyền bí học hoàn
toàn xung đột với nhau: một sự xung đột dường như không dễ ǵ ngưng được v́
chắc chắn là các nhà huyền bí học sẽ không thay đổi lập trường; mặt khác các
nhà Đông phương học chỉ từng bước bị đẩy lùi khi các đô thị thời xưa đă được
khai quật, khi người ta đă phát hiện ra những dinh thự thời xưa. Đây là một
quá tŕnh chậm chạp. Ấn giáo và Bái Hỏa giáo có nguồn gốc từ thời mà lịch sử
gọi là “đêm đen của thời gian”. Ấn giáo có nguồn gốc xưa hơn, c̣n Bái Hỏa
giáo là tôn giáo thứ nh́ trong cơ tiến hóa của giống dân Aryen.
Tôi đề nghị ta nên xem xét những sự thay đổi ư kiến mà
các Đông phương học giả đă trải qua để cho các bạn thấy rằng họ đă dần dần
bắt buộc phải lùi bước; chúng ta có thể nói rằng hết thế kỷ này qua thế kỷ
khác họ phải buông bỏ từng tấc đất một khi có thêm bằng chứng nêu ra một
nguồn gốc xa xưa càng ngày càng lớn hơn. Thế rồi tôi sẽ xem xét bằng chứng
của huyền bí học để xem huyền bí học định vị tôn giáo của bậc Đạo sư Ba Tư
như thế nào.
Khi
lướt mắt qua một số tác phẩm của một số tác giả, ta thấy họ định vị bậc Đạo
sư – đôi khi gọi là Zoroaster, và gần đây hơn gọi là Zarathushtra (xin các
bạn theo Bái Hỏa giáo thứ lỗi v́ tôi có thể phát âm sai hoàn toàn do tôi mù
tịt ngôn ngữ Avestar) – măi tới 610 năm trước Công nguyên. Điều này khiến
cho ngài cùng thời với Đức Phật và Plato; đây là lập trường theo thẩm quyền
của Hồi giáo, và nếu các nhà Đông phương học Âu Tây đă từng duy tŕ nó một
cách nghiêm túc th́ hiện nay ít ra nó đă bị bác bỏ hoàn toàn. Tiến sĩ L. H.
Mills – được coi là một trong những người có thẩm quyền nhất ở Âu Tây, ông
đă thực hiện bản dịch tiêu chuẩn các Gāthās và xuất bản đủ thứ bản dịch đầy
thẩm quyền khác nữa – khi bàn về vấn đề nguồn gốc xa xưa này, vốn dựa trên
bằng chứng về ngôn ngữ; đây là một điều mà chút nữa tôi sẽ nói thêm một điều
khác. Ông bảo rằng các Gāthās được viết bằng một ngôn ngữ hiển nhiên có liên
quan tới Bắc phạn trong kinh Phệ đà, các Gāthās “có rất lâu sau khi có kinh
Rig xưa nhất”
[[1]]
. Thế mà ông đă ước định
rất phi lư kinh Rig Phệ đà chỉ mới 4.000 năm trước Công nguyên; và dựa trên
ngày tháng ấy, ông ước định kinh Gāthās vào 1.000 năm trước Công nguyên và
có lẽ tới tận 1.500 trước Công nguyên. Nhưng Tiến sĩ Mills bảo rằng chúng có
thể xa xưa hơn nhiều và quả thật chúng xưa cũ hơn. Trong tác phẩm sau này
viết ra vào năm 1890 ông có bảo rằng: “Tôi không c̣n chống lại niềm xác tín
theo đó ta có thể đẩy lùi giới hạn [1.500 năm trước Công nguyên] lên mức xưa
cũ hơn nữa. Nếu chúng có trước khi có tục thờ cúng Mithra th́ chẳng thể nói
chúng xa xưa đến mức nào. Quyết định phê phán là phải đừng phỏng đoán một
giới hạn quá chặt chẻ về niên đại của chúng” [[2]].
Thế
rồi ta xét tới quan điểm của nhà bác học người Đức, Tiến sĩ Haug, th́ thấy
ông tranh căi là c̣n xa xưa hơn nhiều v́ dựa vào việc Đại đế Alexander, hủy
diệt thư viện ở Persepolis năm 329 trước Công nguyên. Ông lập luận rằng muốn
thu thập một khối tài liệu cho thư viện rộng lớn như thế th́ ta phải giả
định một thời kỳ xa xưa hơn nhiều mới đủ thời giờ cần thiết để viết lách và
thu thập sách vở. Theo ông nghĩ th́ tác phẩm này được hoàn tất vào năm 400
trước Công nguyên. Ông bảo rằng sớm nhất cũng không thể cho rằng Zoroaster
sống sau 1.000 năm trước Công nguyên và ông gọi ngày tháng thuộc năm 2.800
trước Công nguyên là có thể nhiều hơn trong khi nó c̣n có thể xưa cũ hơn rất
nhiều [[3]].
Tiến sĩ Haug c̣n nhận xét
thêm: “Trong bất kỳ trường hợp nào, ta cũng không thể gán cho giáo chủ ngày
tháng trễ hơn 1.000 năm trước Công nguyên và ta thậm chí có đủ lư do để qui
định thời kỳ của ngài sớm hơn nhiều khiến cho ngài đồng thời với thánh
Moses. Pliny – ông đối chiếu cả với thánh Moses lẫn Zoroaster mà ông gọi là
những vị phát minh ra hai loại nghi thức pháp thuật khác nhau – c̣n đi xa
hơn nữa và nêu rơ rằng Zoroaster sống nhiều ngàn năm trước thời thánh Moses”
[[4]].
Như
vậy, ta dần dần lùi từ 610 năm trước Công nguyên tới 1.000 năm trước Công
nguyên, rồi từ 1.500 năm trước Công nguyên tới 2.800 năm trước Công nguyên
và có lẽ bậc Đạo sư lần đầu tiên tuyên cáo những sự thật nổi tiếng c̣n sớm
hơn thế nhiều. Tuy nhiên, cũng có bằng chứng của người Hi Lạp – nó có giá
trị là xưa cũ hơn nhiều so với quan điểm của các nhà Đông phương học hiện
đại – một lần nữa lại đẩy lùi niên đại xa hơn thế rất nhiều. Chẳng hạn như
Aristote ấn định nhật kỳ của bậc Đạo sư là 9.600 trước Công nguyên tức 6.000
năm trước thời Plato, và nói chung chúng ta có thể bảo rằng đây là quan điểm
của các sử gia Hi Lạp. Họ gán ngày tháng cho việc bậc Đạo sư thuyết pháp là
vào khoảng 9.000 năm trước Công nguyên
[[5]].
Những khám phá mà các nhà
khảo cổ học Âu Tây thực hiện được hiện nay đă giúp ích rất nhiều cho sự
tranh căi muốn đẩy lùi sự khởi thủy của tôn giáo này xa hơn nữa, bởi v́ ta
phải liên kết truyền thuyết Zarathushtra này với truyền thuyết Chaldea,
truyền thuyết Nineveh và Babylon, những cuộc khảo cứu mới đây ở các địa phận
này đă phần nào soi sáng cho vấn đề ấy. Các bạn có thể nhớ lại rằng, chỉ mới
cách đây một hai tháng, trong Tạp chí Lucifer ở phần b́nh luận về một bài
viết của H. P. Blavastky, tôi có đề cập tới một số phát hiện mới nhất được
thực hiện ở xứ sở mà tôn giáo này đă từng một lần khống chế mà không bị
thách đố. Trong đó ta thấy lịch sử của xứ sở này được bảo tồn qua dạng chữ
viết h́nh nêm được truy nguyên tới tận ít ra là 7.000 năm trước Công nguyên
và người khám phá bảo rằng có lẽ tới 8.000 năm trước Công nguyên. Loại chữ
viết h́nh nêm này đang được dịch ra và có thể là khi bản dịch được công bố
th́ ta có thể có bằng chứng mà ngay cả khoa học Âu Tây cũng chấp nhận bổ
chứng cho tính cổ xưa của tôn giáo Zoroaster.
Trong bất kỳ trường hợp nào th́ huyền bí học cũng đẩy lùi
việc ngài bắt đầu thuyết pháp, hết thời đại này tới thời đại kia trước cả
mọi ngày tháng nêu trên. Các huyền bí gia có hai loại sử liệu để dựa vào
đấy. Một là Quần Tiên Hội đă bảo tồn được các tài liệu cổ truyền – bản thân
các tài liệu này được lưu chiểu vào thời chúng được viết ra, các tài liệu
này được tồn trữ trong các đền thờ dưới mặt đất, trong những thư viện dưới
mặt đất nơi mà không một kẻ thù nào có thể t́m thấy và không một sự tổn hại
nào có thể đụng chạm tới chúng. Tri thức của thế giới được thu thập lại dưới
dạng chữ viết, ở đó hết thiên niên kỷ này sang thiên niên kỷ khác, và con
người ngày nay dù nam hay nữ cũng có thể được phép đọc nhiều tài liệu cổ
truyền này – những tài liệu mà chính tri thức về chúng đă bị thất truyền đối
với thế giới lịch sử phàm tục, những tài liệu bằng ngôn ngữ tu sĩ thời xưa
khác hẳn bất cứ thứ ǵ mà dân tộc xưa cũ nhất thời nay biết được. Đó không
phải là sử liệu duy nhất mà Huyền bí gia trông cậy vào đấy. Huyền bí gia c̣n
trông cậy vào những sử liệu bất diệt được viết ra trong chính chất Tiên
Thiên Khí (đôi khi chúng ta bảo như vậy); điều này có nghĩa là có một môi
trường tinh vi (tạm dùng một phép tương tự trên cơi trần) ghi lại giống như
một kính ảnh nhạy mọi diễn biến xảy ra ngay cả với những chi tiết tỉ mỉ nhất
– có thể nói là chụp h́nh sự tiến hóa của con người chính xác tới tận những
diễn biến lặt vặt nhất và bất cứ lúc nào cũng có thể được tham chiếu, có thể
được giải mă bởi những người đă tự rèn luyện ḿnh để nghiên cứu nó, họ sẵn
ḷng nghiêm tŕ giới luật cần thiết để được khảo cứu như thế. Do vậy, mỗi
người điều tra kế tiếp nhau đều có thể kiểm chứng lại tài liệu ghi chép;
chúng tôi có chứng cớ của hết chuyên gia này tới chuyên gia khác nghiên cứu
những tài liệu xưa cũ nhất, họ thấy chẳng những là các chữ viết mà c̣n là
những diễn biến trong quá khứ sinh động chính xác trước mắt ḿnh, linh động
như thể đang xảy ra tràn đầy nhựa sống. Vậy là những diễn biến trong lịch sử
mà ta trải qua trong quá khứ vẫn c̣n sống măi khi thời gian trôi qua.
Theo
những sử liệu này th́ tôn giáo mà ngày nay gọi là Bái Hỏa giáo, th́ theo như
tôi nói, là tôn giáo thứ nh́ trong các tôn giáo thuộc ḍng dơi Aryen. Người
Ba Tư – họ xuất phát cũng từ nơi chôn nhau cắt rún là gia tộc đầu tiên rồi
tản mác về phương Tây qua vùng lănh thổ rộng lớn bao gồm chẳng những xứ Ba
Tư thời hiện đại mà c̣n là vùng cổ Ba Tư nữa – trong cuộc di dân đầu tiên đă
được đại Đạo sư Zoroaster dẫn tới đó, Zoroaster đối với họ có địa vị giống
như Đức Bàn Cổ đối với toàn thể giống Aryen nguyên thủy. Ngài cũng thuộc về
Hội đoàn Huynh đệ hùng mạnh ấy và là một Điểm đạo đồ cao cấp của Quần Tiên
Hội được sự giáo huấn của các Đạo sư là Con của Lửa. Nhiều người trong các
bạn ắt đă đọc được trong những sử liệu cổ truyền nhất thuộc Thiền Thư được
tŕnh bày trong bộ Giáo Lư Bí Truyền
[[6]]
có nói tới các Con của Lửa, các Ngài là Huấn sư của mọi Điểm đạo đồ cao cấp,
đến lượt các Ngài được gọi là Hỏa Đức Tinh Quân. Ngài nguyên là một huấn sư
vào lúc bắt đầu giống dân phụ Ba Tư này, Ngài ban cho giống dân này những sự
thật cổ truyền dưới dạng thích hợp cho một nền văn minh phải tăng trưởng
trong đám dân ấy, dưới dạng thích hợp cho loại h́nh tâm trí phải được phát
triển trong đám dân ấy, thích hợp để rèn luyện, giúp cho họ tiến hóa, phát
triển cũng giống như các tín ngưỡng khác được ban cho những dân tộc khác với
cùng một mục tiêu và theo cùng một đường lối. Từ bậc Đạo sư dũng mănh này –
niên đại của Ngài lùi xa tới tận thời kỳ mà mọi nhà Đông phương học ắt ph́
cười khinh bỉ - mới phát sinh ra một ḍng dơi các đạo sư giám sát sự phát
triển buổi ban sơ của dân tộc Ba Tư. Và ở đây, tôi xin nhắc các bạn nhớ cho
rằng khi ta nói tới một ḍng dơi các đạo sư như thế, nó tuyệt nhiên không
được suy ra rằng mỗi đạo sư là một cá thể riêng rẽ, v́ cùng một linh hồn
thường tái sinh luân hồi hết thời này sang thời khác, giữ cùng một chức vụ
mà bạn thừa biết theo những tài liệu cổ truyền của chính ḿnh. Chẳng hạn như
những người ấy là Vyāsa của phái Phệ đà, không hề chỉ sinh một lần trên trần
thế mà sinh ra nhiều lần v́ những người ấy luôn luôn tiếp xúc với trần thế.
Họ luôn luôn giám sát cơ tiến hóa tâm linh của nhân loại và Họ xuất hiện hết
thời này sang thời khác, biểu lộ qua một cơ thể vào lúc mà Ngài xuất hiện,
cũng là một bậc đại Đạo sư, cũng là một linh hồn đă giải thoát, cũng là một
Huấn sư dũng mănh, cũng vẫn mang tên ấy dường như thể để gợi ư về lai lịch
tâm linh của ḿnh vốn giống như đàn găy tai trâu của đám người vô minh. Và
cứ truy nguyên ḍng dơi của các đạo sư này hoặc bậc Đạo sư này th́ ta thấy
truyền thuyết của Hi Lạp ở vị trí nào và ta hiểu ra được rằng đấng Zoroaster
mà Aristote nói là có 9.600 năm trước Công nguyên (dĩ nhiên Aristote đề cập
tới ngày tháng tính từ Plato chứ không phải tính từ Chúa Ki Tô) là người thứ
bảy mang tên của đấng Zoroaster nguyên thủy chứ không phải là đấng Zoroaster
bản sơ như người Hi Lạp giả định, và tôi cũng tưởng tượng rằng có nhiều tín
đồ Bái Hỏa giáo thời nay thường sẵn ḷng tin như vậy. Thế th́ ngài là vị thứ
bảy trong ḍng dơi các huấn sư quang lâm để làm hồi sinh và củng cố cái giáo
huấn này khi nó bị thất truyền và có nguy cơ bị lật đổ. Măi về sau này c̣n
có một vị Zoroaster khác vào khoảng 4.000 năm trước Công nguyên, lại làm hồi
sinh giáo huấn xưa cũ, lập lại những sự thật cốt tủy, tuyên cáo chúng trở
lại với thẩm quyền của Thượng Đế và nhờ vào cái lửa thiêng vốn là biểu tượng
của Đấng Thiêng Liêng, vốn quả thật là tiếng nói của Đấng Thiêng Liêng. Khi
ta nghiên cứu các bậc đạo sư liên tiếp này th́ ta thấy từ tôn giáo cổ truyền
ấy phát sinh ra cái gọi là “khoa học lớn”, “Pháp Thuật” của người
Thế rồi ta hăy trở lại quan sát giáo huấn theo sự minh
giải của h́nh thức thời sơ khai cho dẫu ta chỉ có bảng hiệu đính sau này.
Xét về công tŕnh học giả và ta ắt thấy rằng ta vẫn nhận ra được các sự thật
cổ truyền (mặc dù dưới dạng ẩn tàng) trong những bảng hiệu đính sau này. Và
mặc dù nhiều sự thật này đă bị xuyên tạc dưới dạng hiện đại, đă bị duy vật
hóa, đă bị thoái hóa th́ huyền bí gia có thể nhận ra được chúng; huyền bí
gia vẫn có thể nêu chúng ra cho những người theo tôn giáo cổ truyền này và
có thể khẩn cầu các tín đồ Bái Hỏa giáo hiện đại, nhân danh bậc Đạo sư thời
xưa, Điểm đạo đồ thiêng liêng đă sáng lập ra tín ngưỡng này, mong sao các
tín đồ hăy vượt lên trên thuyết duy vật hiện đại, vượt lên những hạn chế quá
nhỏ nhặt của Đông phương học hiện đại để đ̣i quyền với đầy đủ tư cách tôn
giáo của ḿnh là tôn giáo cổ truyền nhất trong các tôn giáo trên thế giới.
Mong sao họ hăy liên kết với truyền thống huyền bí học xa xưa chứ đừng bị
thoái hóa khi chấp nhận mọi lời gợi ư thoáng qua của giới học giả Âu Tây.
Ta nên nhớ lại rằng ta sẽ t́m ra bằng chứng qua ngôn ngữ
hiện nay là người Ba Tư cổ truyền thuộc giống dân Aryen chứ không thuộc ḍng
giống Semite. Đây là một trong những điều đang bị tranh căi và chút nữa tôi
sẽ chứng minh cho các bạn thấy ngôn ngữ đă hậu thuẫn cho lập trường huyền bí
học ra sao. Dĩ nhiên chúng tôi công nhận rằng măi về sau này th́ dân Ba Tư
đă lai giống với dân Semite. Nhưng dân Ba Tư thuộc ḍng dơi giống dân Aryen
và thật sự là chị em với dân Aryen ở miền Nam Hi mă lạp sơn.
Đấng Zoroaster bản sơ khi dạy trở lại những nguyên lư cốt
tủy vốn là nền tảng của mọi tín ngưỡng và thường bị che khuất đi bởi những
điều thêm mắm dậm muối sau này, ngài đă trộn lẫn triết học với tôn giáo một
cách rất đáng hâm mộ. V́ giáng lâm để lập nên một nền văn minh có những đặc
điểm đặc thù với đặc trưng cốt tủy là nông nghiệp xuyên suốt với ư tưởng về
một khía cạnh thực tiễn của cuộc đời được dự trù để rèn luyện con người thực
tế có được một tín ngưỡng cao cả và một đạo đức cao thượng, cho nên ngài
không đưa ra một triết lư siêu h́nh và một tôn giáo công truyền mà nối kết
cả hai lại với nhau. Nhưng ngài ḥa lẫn cả hai lại sao cho ta không thể
tŕnh bày riêng rẽ về mỗi thứ. Ta ắt hiểu được nhiều hơn về tổng thể khi
theo phương pháp của ngài mà nghiên cứu triết lư và tôn giáo dưới dạng một
hệ thống đơn thuần. V́ đă dự đoán được nền văn minh đặc biệt phải phát triển
cho nên ngài đưa ra một khối lượng bao la về khoa học thiên văn đan bện vào
triết lư và giáo huấn tôn giáo, ngài tŕnh bày khoa học thiên văn ấy – vốn
cần thiết xiết bao cho một dân tộc dấn thân vào nghề nông – dưới dạng huyền
bí học chứ không phải theo cách tŕnh bày tồi tàn hẹp ḥi của người hiện
đại. Đối với ngài, các ngôi sao không chỉ là các khối vật chất bị các định
luật mù quáng vô ư thức khiến cho xoay ṿng xung quanh mặt trời vô ư thức,
chết cứng. Đối với ngài các hành tinh xung quanh mặt trời và các ngôi sao
hùng vĩ trên trời cao chẳng qua chỉ là cơ thể của các Đấng Thông Tuệ tâm
linh, ư chí của các Đấng này là định luật dẫn dắt chúng và biết được định
luật ấy th́ bảo đảm vũ trụ sẽ được ổn định. Ngài dạy thiên văn học không
phải là một năng lượng vô hồn và vật chất vô tri vô giác mà là các Đấng
Thông Tuệ sinh động, di chuyển theo thứ tự bất di bất dịch v́ được dẫn dắt
bởi sự minh triết toàn bích và ư chí sắt đá. Ngài dạy thiên văn học là khoa
học huyền bí sống động về minh triết tâm linh biểu hiện ra trong vũ trụ vật
chất, cái dạng biểu lô thấp nhất của ḿnh. Xuất phát từ giáo huấn về khoa
học và triết lư tôn giáo ấy mới nảy sinh ra nền luân lư mà măi tới tận ngày
nay vẫn là sự vinh quang của tín điều Bái Hỏa giáo. Chủ điểm của khoa đạo
đức ấy là một sự thanh khiết hầu như toàn bích, trong sạch trong mọi hành
động thuộc sinh hoạt cá nhân, trong sạch trong mọi quan hệ với thiên nhiên
ngoại giới, tôn trọng những yếu tố ngoại lai là những biểu lộ của sự trong
sạch thiêng liêng, có thể nói là giữ ǵn cho chúng sạch bóng không t́ vết để
tôn vinh Sự Sống bản thể mà tổng thể thoát thai từ đấy. Khi tiếp tục, ta ắt
thấy rằng đây là những nét nổi bật trong giáo huấn của ngài, nhưng trước khi
tôi xét tới từng điểm một th́ tôi phải liếc mắt qua vấn đề ngôn ngữ, v́ ta
cần hiểu vấn đề này trong một chừng mực nào đó nếu ta muốn truy nguyên giáo
huấn qua những kinh sách khác nhau mà hiện nay ta có trong tay.
Tôi đă
bảo rằng ngôn ngữ dưới dạng xưa nhất tức ngôn ngữ trong kinh
Avesta, biện minh cho phát biểu
huyền bí học là tín ngưỡng Bái Hỏa giáo rất xưa cũ; đó là v́ do chứng cớ -
và tôi sẵn sàng chấp nhận nó khi nó hậu thuẫn cho quan điểm huyền bí học –
của các nhà Đông phương học Âu Tây, ngôn ngữ trong kinh
Avesta này cho dẫu dưới dạng hiệu
đính mới đây nhất vẫn là một thổ ngữ của dân Aryen và có liên kết với tiếng
Bắc phạn trong kinh Phệ đà. Đây không phải là lúc mà cũng hơi lạc đề một
chút khi nói một điều ǵ đó về sự thay đổi mà ta biết đă xảy ra trong sự
phát triển của tiếng Bắc phạn ở xứ sở này, những sự thay đổi đáng chú ư giữa
tiếng Bắc phạn trong kinh Phệ đà và tiếng Bắc phạn cổ điển thời sau này.
Nhưng kinh Avesta có liên kết với
tiếng Bắc phạn thời sơ khai tức tiếng Bắc phạn trong kinh Phệ đà
[[7]]
; và như vị Tiến sĩ người
Đức có nói th́ tiếng Bắc phạn ấy là chị cả của ngôn ngữ trong kinh
Avesta. [[8]]
. Chẳng
những sự tương tự này nổi bật rơ rệt trong những ngôn từ được sử dụng, mà sự
tương tự ấy c̣n vượt xa khỏi phạm vi của chính ngôn từ. Các Gāthās (thánh
ca) cổ truyền này được viết theo những thi tiết liên kết chặt chẻ với các
thi tiết trong Sāma Veda. Nhịp điệu vần cuối (cước vận), phương pháp hiển
nhiên để ngâm vịnh chúng tương cận rất mật thiết với nhịp điệu, cước vận và
cách ngâm vịnh vẫn c̣n tồn tại trong dân tộc Ấn Độ. Điều này khiến cho khi
quan sát, chúng ta thấy rằng chúng vẫn c̣n vết tích xưa cũ ấy và bất chấp
các nhà Đông phương học khi ta đẩy lùi thời kỳ xa xưa của Ấn Độ giáo th́ ta
cũng mang theo thời kỳ xa xưa của tín ngưỡng Bái Hỏa giáo, liên kết cả hai
lại với nhau trong việc ta bênh vực cho chúng gắn bó với nhau vào thời sơ
khai trong quá khứ xa xưa của hai dân tộc lớn. Như vậy, nếu ta lại tạm thời
xét tới sử liệu huyền bí th́ các bài hát cũng giống như nhau. Những bài hát
mầu nhiệm này của thế giới cổ đại vốn có kết quả trong cơi vô h́nh, những
bài hát này kiểm soát được những thông linh hạ đẳng thông tuệ và vươn lên
tới các sinh linh thông tuệ thượng đẳng qua ngôn ngữ màu sắc và âm nhạc: các
thánh ca này (Gāthās) được hát lên theo cùng một âm luật cổ đại và mặc dù đă
thất truyền đối với các lễ sư của Bái Hỏa giáo thời nay, nhưng âm hưởng của
chúng vẫn c̣n vang vọng lại từ Tiên Thiên kư ảnh. Bây giờ ta hăy chuyển từ
ngôn ngữ Avesta – v́ việc khảo
sát tất nhiên là vội vả - sang từ ngữ bị chối căi nhiều nhất là “Zend” mà
một số người bảo đó là một ngôn ngữ, c̣n những người khác bảo rằng đó là một
thiên b́nh luận: liệu các học giả Âu Tây soi sáng cho vấn đề này được đến
đâu? Một số học giả bảo rằng – và ở đây tôi e rằng các tín đồ Bái Hỏa giáo
thời nay có khuynh hướng đồng ư với họ - Zend chẳng qua chỉ là một bản dịch
hiện đại bằng tiếng Pahlavi và thiên b́nh luận về các tác phẩm xưa. Từ ngữ
này chắc chắn thường áp dụng chỉ cho bản dịch ấy được thực hiện dưới triều
Sasan trong thời tương đối hiện đại. Nhưng tôi thật hân hạnh khi thấy rằng
một số học giả Âu Tây lại bác bỏ luận điệu ấy và tuyên bố rằng Zend là thiên
b́nh luận nguyên thủy được viết bằng ngôn ngữ trong kinh
Avesta, v́ vậy nó được truy
nguyên tới thời xưa, thời ngôn ngữ liên kết với tiếng Bắc phạn trong kinh
Phệ đà. Tiến sĩ Haug bảo rằng do việc “định danh Avesta và Zend của các dịch
giả qua tiếng Pahlavi, cho nên ta hoàn toàn có quyền kết luận rằng Zend mà
họ đề cập tới chính là một thiên b́nh luận về kinh Avesta đă tồn tại rồi
trước khi họ đem ra dịch và v́ họ coi nó là linh thiêng cho nên Zend này có
lẽ cũng viết bằng ngôn ngữ giống như kinh Avesta nguyên thủy . . . Theo
nguyên nghĩa th́ Zend có nghĩa là thiên b́nh luận do những người kế nghiệp
Zarathushtra viết về các tác phẩm linh thiêng của bậc đạo sư và các môn đồ
trực hệ của ngài. Phần b́nh luận này ắt phải được viết bằng ngôn ngữ gần
giống như nguyên văn và v́ ngôn ngữ ấy dần dần chẳng ai hiểu nổi ngoại trừ
các lễ sư cho nên phần b́nh luận được coi là một phần của nguyên văn và cần
có một lời giải thích mới tức là Zend. Zend mới này là sản phẩm của các lễ
sư bác học nhất trong thời Sasan dưới dạng bản dịch tiếng Pahlavi vốn là thổ
ngữ của Ba Tư thời ấy và đến thời sau này th́ thuật ngữ Zend đă bị hạn chế
vào bản dịch này” [[9]]
. Luận điệu
cho rằng Zend là một thiên b́nh luận phần lớn tỏ ra là chính xác nên một lần
nữa ta quay sang chứng cớ của huyền bí học thay v́ là chứng cớ của các học
giả thời nay. Đó là v́ ta thấy - ở đây ta có thể xem xét bằng chứng của H.
P. Blavatsky, bà viết về điều mà chính bà hiểu biết do nghiên cứu theo sự
dạy dỗ của Sư phụ - rằng thiên b́nh luận này tức Zend nguyên thủy của người
Ba Tư là một thiên b́nh luận được viết bằng một ngôn ngữ thoát thai từ ngôn
ngữ tăng lữ cổ truyền mà tôi có ám chỉ ở phần đầu của bài thuyết tŕnh này.
Đó là v́ có một ngôn ngữ mà mọi huyền bí gia đều biết, không phải là ngôn
ngữ bằng chữ cái theo như ta hiểu trong ngôn ngữ hiện đại, mà là ngôn ngữ
dấu hiệu, biểu tượng, màu sắc, âm thanh, nó vang vọng thành âm nhạc cũng như
chiếu sáng thành màu sắc và có dạng thức riêng của ḿnh để cho mọi Điểm đạo
đồ đều có thể nhận ra và dịch nó bằng ngôn ngữ hạ đẳng thuộc thế giới trí
thức. Có khi nó được gọi là tiếng
Zenzar. Có khi nó được gọi là Deva-bhāsā. Bà H. P. Blavatsky có nói về
Zend như sau: “Nó có nghĩa là ‘một thiên b́nh luận hoặc giải thích’ đúng như
một ư nghĩa chính xác, nhưng nó c̣n một ư nghĩa mà các nhà Đông phương học
dường như chẳng có ư niệm ǵ, nghĩa là nó để dịch các câu bí truyền, nó là
bức màn che được dùng để giấu đi ư nghĩa chính xác của văn bản Zend-zar,
ngôn ngữ tăng lữ được dùng trong nội bộ các Điểm đạo đồ của Ấn Độ thời cổ
đại. Hiện nay ta thấy nó trong nhiều ḍng chữ khắc không thể giải mă được và
nó c̣n được sử dụng, nghiên cứu măi tận đến ngày nay trong các cộng đồng bí
mật của các thánh sư Đông phương được họ gọi là
Zend-zar và
Brahma tức
Deva-bhāsā tùy theo địa phương. .
. Văn bản Zend chỉ là một mật mă gồm vài từ ngữ và thành ngữ đă được các nhà
biên soạn nguyên thủy thỏa thuận với nhau mà chỉ có các Điểm đạo đồ mới giải
mă được” [[10]]
. Ngôn ngữ
này đă được gọi bằng nhiều danh xưng; tên gọi không quan trọng v́ chúng biến
thiên theo từng tiếng nói, nhưng điều cốt lơi là có tồn tại một ngôn ngữ như
thế, ngày nay ta biết nó cũng giống hệt như cách đây một triệu năm, bây giờ
thiên hạ cũng học nó giống như đă học vào thời ấy; giáo huấn huyền bí được
tŕnh bày bằng ngôn ngữ ấy, không phải qua những âm thanh vụng về do một cái
lưỡi bằng xương bằng thịt phát âm ra và từ ngôn ngữ ấy chân lư được chuyển
dịch thành ra những tiếng nói trí thức xưa cũ nhất thoát thai từ đấy. Tiếng
Bắc phạn trong kinh Phệ đà là âm hưởng xưa cũ nhất của ngôn ngữ thời cổ đại
ấy và Zend của người Ba Tư có cùng một gốc, xuất phát từ cùng một cội nguồn.
Măi về sau này, khi ta xét tới bản dịch bằng tiếng Pahlavi th́ ta thấy ḿnh
đang ở trong phạm vi cái thường được gọi là thời kỳ hữu sử. Hiện nay người
ta chỉ dùng thuật ngữ “Pahlavi” để chỉ “ngôn ngữ chữ viết của Ba Tư trong
triều đại Sasan cũng như kho tài liệu thời kỳ ấy và một thời gian ngắn sau
đấy” [[11]],
nhưng thời xưa người ta thường dùng tiếng Pahlavi để chỉ tiếng Ba Tư cổ
truyền. Ở đây ta có những từ ngữ của dân Semite được truy nguyên tới tận ảnh
hưởng của Semite và người ta tranh căi rằng những thứ này được truy nguyên
tới tận 600 năm trước Công nguyên [[12]].
Điều đó không quan trọng v́ 600 năm trước Công nguyên là thời kỳ hiện đại
đối với nhà huyền bí học. Huyền bí gia bàn về thiên niên kỷ chứ không phải
thế kỷ, và dấu hiệu chịu ảnh hưởng Semite sau này tuyệt nhiên không ảnh
hưởng ǵ tới phán đoán của y về nguồn gốc của tín ngưỡng cổ truyền. Ta phải
chuyển từ vấn đề ngôn ngữ này – nó có thể được triển khai rất dông dài và
đưa tới nhiều vấn đề thú vị khác – sang một điều quan trọng khác c̣n bị
tranh căi và bị rất nhiều người lờ đi. Truyền thuyết người
Bây giờ ta quay sang chính kho tài liệu và xét tới tài
liệu của ḿnh. Trước hết là Yasna
mà phần xưa cũ nhất bao gồm các Gāthās tức các thánh ca cổ đại, giáo huấn
truyền khẩu của Chính bậc Đạo sư. Hiện nay chúng chỉ có năm bộ và theo h́nh
thức được chấp nhận thời nay th́ đó chỉ là những mảnh vụn, nhưng chúng minh
chứng cho tính cao cả của giáo huấn cổ truyền vốn thật là đàng hoàng, cao
thượng và cao siêu. Những thứ này tạo thành phần đầu của
Yasna c̣n phần thứ nh́ bao gồm
những lời cầu nguyện và nghi lễ: những lời cầu nguyện dâng lên Đấng Tối Cao,
những lời cầu nguyện cũng dâng lên các Đấng đại hùng dưới quyền Ngài, hợp
thành Quần Tiên Hội. Đó là v́ Bái Hỏa giáo cổ truyền chẳng hề biết tới
thuyết duy vật hiện đại vốn ra sức đặt Thượng Đế vào một cực của vũ trụ, c̣n
con người và thế gian ở cực bên kia, giữa đôi bên là một khoảng trống hăi
hùng không gian trống rỗng trần trụi. Trong Bái Hỏa giáo cũng như mọi tín
ngưỡng cổ truyền khác, không có khoảng trống trong vũ trụ, không có không
gian trống rỗng, chẳng có nơi nào mà không có các Đấng Thông Tuệ sinh động,
chẳng có nơi mà không có các thực thể tâm linh đang hoạt động; từ con người
ở gần đáy chiếc thang lên tới Thượng Đế ở đỉnh chiếc thang, có xếp hàng các
Đấng Thông Tuệ càng ngày càng vươn cao hơn, càng ngày càng thiêng liêng hơn
và tất cả đều là đối tượng được tôn thờ - một sự kiện mà trọn cả kho tài
liệu của Bái Hỏa giáo đều minh chứng. Sau
Yasna gồm hai phần, ta có
Visparad là một tập hợp các lời
khấn nguyện, những lời khấn nguyện sơ bộ được dùng để chuẩn bị trước các lời
cầu nguyện và hiến tế khác. Ta có thể coi hai tài liệu
Yasna và
Visparad giữ địa vị trong Bái Hỏa
giáo giống như kinh Phệ đà trong Ấn Độ giáo. Bên dưới hai bộ này ta có cái
đă từng một thời là một kho tài liệu bao la mà tiếc thay phần lớn chỉ c̣n
lưu lại tên gọi. Có một quyển sách hoàn chỉnh và một vài mảnh vụn của phần
c̣n lại từ một danh sách 21 bộ đại luận, trong đó người ta gọi là 21 Nasks
mà nội dung được phác họa đại khái c̣n ghi chép lại được. Các đại luận này
bàn về đủ thứ khoa học, về y học, thiên văn học, nông học, thực vật học,
triết học và toàn thể thực ra bao gồm các khoa học và định luật; chúng giữ
địa vị Vedānga trong Ấn Độ giáo. Tôi nhấn mạnh tới những điều tương tự này
v́ chúng củng cố xiết bao lập trường chúng ta là tín ngưỡng cổ truyền này
rất xưa cũ và đàng hoàng. Trong số đó chỉ c̣n sót lại một quyển sách hoàn
chỉnh là Vendidad, sách về các
qui luật ảnh hưởng tới sự bảo tồn tính thuần khiết nơi thiên nhiên ngoại
giới cũng như nơi con người. Kế đó ta có
Khordah Avesta tức tiểu
Avesta, bao gồm các Yashts (lời
khấn nguyện) và lời cầu nguyện dành cho kẻ phàm phu hơn là dành cho các lễ
sư, các tín đồ Bái Hỏa giáo thời nay hằng ngày vẫn sử dụng nhiều lời cầu
nguyện ấy. Đó là một tuyển tập hỗn hợp: một số mảnh vụn rất xưa cũ, một số
có nguồn gốc tương đối gần đây. Sau khi thư viện Persopolis bị thiêu hủy th́
có một thời kỳ 550 năm vô chính quyền và loạn lạc; chỉ đến hết thời kỳ ấy
dưới triều vua Sasan th́ người ta mới kết tập lại những mảnh vụn c̣n sót
trong kho tài liệu Bái Hỏa giáo. Các mảnh vụn c̣n sót lại thật là một phép
lạ nho nhỏ, là mảnh vụn của tổng thể đă từng một thời oanh liệt, giống như
những mảnh chạm trổ bị xé toạc ra khỏi nền nơi mà chúng tạo thành một phần
của bức tranh vĩ đại ai cũng hiểu được. Chỉ những người nào khôi phục được
bức tranh th́ mới có thể thấy mỗi mảnh vụn ăn khớp vào đâu và do đó có thể
xét đoán về vẻ đẹp nguyên thủy của tổng thể.
Xét theo thời gian khả dụng th́ tôi đă giải thích khá dài
ḍng mặc dù thật ra rất ngắn gọn về những chi tiết sơ bộ này, bởi v́ hầu hết
mọi người đều mù tịt về chúng. Thế nhưng nếu không biết được chúng th́ ta
không thể thẩm định được trọng lượng của bằng chứng hậu thuẫn cho tính xưa
xũ của triết lư và tôn giáo này. Và ta cũng có thể bảo rằng cần xem có những
bằng chứng hụt hẫng ở đâu để thẩm định đă bị thất truyền bao nhiêu. Kinh
điển c̣n sót lại trong tay ta manh mún đến đâu và v́ vậy bất cứ phát biểu
nào về triết lư và tôn giáo chỉ rút ra từ đấy ắt phải bất toàn chừng nào.
Song le vẫn c̣n sót lại đủ mức để bổ chứng cho luận đề theo đấy Bái Hỏa giáo
nhất trí với giáo huấn huyền bí về mọi điều quan trọng ngoại trừ chỉ một
điều mà thôi. Trong kinh điển mà tín đồ chính thống Bái Hỏa giáo chấp nhận
ta không thấy có sự tái sinh luân hồi; tái sinh luân hồi được giải dạy trong
những mảnh vụn mà người Hi Lạp c̣n bảo tồn và trong
Desatir, một quyển sách chứa đựng
nhiều sự thật huyền bí, nhưng không sự thật nào được coi là có thẩm quyền.
Bây giờ ta quay sang chính triết lư và tôn giáo ấy và v́
tiếc thay có một phản ứng duy vật do chịu ảnh hưởng Âu Tây cho nên ta cần
trích dẫn từ câu thơ một từ các kinh điển mà ta tiếp nhận được để xác lập
giáo huấn huyền bí cổ truyền.
Đứng
đầu vũ trụ biểu lộ là Ahurā Mazdāo, đôi khi được dịch là Minh triết Tinh
quân. Những ḍng chữ khắc h́nh nêm có Aūramazdā dưới thời Sasan ta có
Aūharmazda, c̣n trong tiếng Ba Tư hiện đại th́ đó là Hōrmazd hoặc Ormazd
[[13]]
.
Ngài
là Đấng Tối Cao, Đại Đồng Vũ Trụ, Thấm Nhuần Vạn Vật, là Cội Nguồn và Suối
Nguồn của Sự Sống. Trong Bái Hỏa giáo, ngài giữ địa vị giống như Brahman
biểu lộ trong Áo Nghĩa Thư, ngài xuất hiện ngay từ đầu là Đấng Nhất Như, là
nguồn sống của con người. Ngài được miêu tả đi miêu tả lại trong các kinh
điển khác nhau, trong các Gāthās, ngài không được miêu tả đầy đủ (mặc dù
cũng có phần nào) như trong một số lời cầu nguyện và khấn nguyện. Ta hăy xét
hai ví dụ mẫu để xem lời miêu tả về Đấng đại hùng này ra sao ngỏ hầu có thể
nhận thức được quan niệm này cao siêu đến đâu, ư niệm về Thượng Đế ban sơ
cao cả ra sao. Trong Ormazd Yasht,
ngài tuyên cáo các phẩm tính của chính ḿnh là một điều ǵ đó cũng giống
như đấng Shri
V́ huyền bí gia biết rằng Zarathushtra là một thành viên
của Quần Tiên Hội cho nên dĩ nhiên y không thể nghi ngờ ǵ giáo huấn của
ngài bàn về sự thật căn bản này; nhưng đối với những người khác th́ chứng cớ
ngoại lai cũng đủ rồi và sự kiện có quan điểm đối lập chỉ là những ư niệm
của người Âu Tây v́ chưa biết tới kho tài liệu cổ truyền.
Bây
giờ ta hăy quay sang Ahura Mazdāo tam bội và việc ngài phát triển để có thể
sáng tạo được; ta học biết rằng nhị nguyên xuất phát từ ngài, Spentō
Mainyush và Angrā Mainyush là hai nguyên thể có gốc rễ nơi ngài, nhưng được
triển khai ra để cho một vũ trụ được biểu lộ có thể bước vào tồn tại. Người
ta dùng hai từ ngữ “thiện” và “ác” để miêu tả hai nguyên thể này, nhưng
chúng không phải là những h́nh dung từ hay nhất; mấu chốt được tŕnh bày
trong những Gāthās xưa cũ nhất. Ta có thể nói thiện và ác chỉ bắt đầu tồn
tại khi con người đă phát triển được quan năng tri thức và chọn lựa trên
bước đường tiến hóa; nhị nguyên nguyên thủy không phải thiện và ác mà là
tinh thần và vật chất, thực tại và phi thực, ánh sáng và bóng tối, xây dựng
và hủy diệt, hai đối cực mà vũ trụ được đan bện bên giữa chúng, nếu không có
chúng th́ không thể có vũ trụ. Cụm từ thứ nh́ “thực tại” và “phi thực” do
chính Zarathushtra sử dụng khi tuyên cáo sự thật căn bản này v́ ta đọc thấy
trong Gāthā Ahunavatī rằng bậc
Đạo sư khi đứng bên Lửa thiêng - : “Thoạt đầu có một cặp song sinh gồm hai
chơn linh, mỗi chơn linh có một hoạt động đặc thù”. Ngài tiếp tục dạy rằng:
“Và hai chơn linh này hiệp nhất lại để tạo ra (những sự vật vật chất) đầu
tiên, một chơn linh là thực tại c̣n chơn linh kia là phi thực”
[[23]].
Ta có cái nhị nguyên ban sơ ấy là Sat và Asat giống hệt như giáo huấn huyền
bí, do đó nhị nguyên được triển khai từ Đấng Nhất Nguyên để cho vạn thù có
thể tiến triển. Đấng Nhất Như tạo ra thực tại c̣n nhị nguyên tạo ra phi
thực. Bậc Đạo sư tiếp tục dạy rằng thứ này hoặc thứ kia phải nối tiếp nhau;
bạn phải chọn một trong hai “chơn linh này cũng giống như trong mọi giáo
huấn cổ truyền người ta có dạy rằng chúng ta có thể chọn lựa hoặc là tinh
thần hoặc là vật chất; nếu muốn ta có thể gọi chúng là thiện và ác, nhưng
thiện và ác không phải là tên gọi căn bản v́ sự chọn lựa của con người là sự
chọn lựa giữa cái mang tính chất tinh thần hoặc cái mang tính chất vật chất.
Người ta gọi hai thứ bằng đủ thứ tên gọi khác nhau cho thấy rằng thời xưa
người ta đă hiểu rơ chúng biết dường nào. Trong
Gāthā Ushatavaitī, (Yasna xlv)
người ta có dạy: “Tất cả các con đến đây từ xa cũng như gần, bây giờ phải
lắng nghe để nghe rơ điều ta tuyên cáo. Giờ đây đấng minh triết đă biểu lộ
vũ trụ này thành ra một cặp nhị nguyên . . . Ta sẽ tuyên cáo về hai chơn
linh bản sơ của thế giới, trong đó đấng làm tăng trưởng đàm đạo với đấng làm
suy vong” [[24]]
. Lại có hai
danh xưng khác cung cấp cho ta manh mối về điều bí nhiệm này: “đấng làm tăng
trưởng” và “đấng làm suy vong”, một đấng từ đó sự sống bao giờ cũng tuôn ra
c̣n đấng kia là khía cạnh vật chất vốn thuộc về h́nh hài, bao giờ cũng bị
phân ly để cho sự sống có thể tiếp nối biểu hiện cao hơn. Dường như thể để
cho mọi người nhớ kỹ điều này, kinh có dạy rằng cái gọi là ác thần chính là
thần chết chạm vào cơ thể của con người, việc hủy diệt h́nh tướng có nghĩa
là sự sống chuyển sang t́nh huống cao siêu hơn không phải là tác động của
bất kỳ quyền năng gian tà nào mà là sự giải thoát linh hồn, v́ vậy là một
phần trong biểu lộ thiêng liêng của vũ trụ. Các ngài cũng được gọi là “hai
sư phụ”, “hai đấng sáng tạo” và ta thấy kinh tuyên bố rằng Đấng Thông Tuệ
đại hùng Srosh tôn thờ “hai đấng sáng tạo đă từng tạo ra vạn hữu”[[25]].
Chắc chắn Đấng Cao Cả này không tôn thờ điều ác, mặc dù ngài có thể tôn
trọng tính nhị nguyên trong bản thể thiêng liêng. Dường như thể để ổn định
thắc mắc này th́ chính Ahura Mazdāo có nói tới đó là “hai chơn linh của
chính ta”[[26]].
Tiến sĩ Haug đă lĩnh hội thấu đáo được ư niệm này và nhận xét: “Đó là hai
nguyên nhân biến động trong vũ trụ, hiệp nhất ngay từ đầu và v́ vậy được gọi
là ‘các cặp song sinh’ (Yēmā,
tiếng Bắc phạn là Yaman). Chúng
hiện diện khắp mọi nơi ở cả Ahura Mazda cũng như nơi con người.
. . . Ta chưa bao giờ thấy Angro Mainyush được gọi là đối thủ không
đội trời chung của Ahura Mazda trong các Gāthās như trong trường hợp các tác
phẩm sau này . . . Đó là ư niệm nguyên thủy của Bái Hỏa giáo về hai chơn
linh sáng tạo vốn chỉ tạo thành hai bộ phận của Đấng Thiêng Liêng”
[[27]]
.
Có lẽ
sẽ khó truy nguyên hơn một chút v́ bị che giấu thêm nữa bởi một sự thay đổi
diễn ra sau này là có một ngôi ba Tam vị Nhất thể bản sơ này: Ahura Mazdāo
là ngôi một từ đó phát sinh ra vạn hữu, ngôi hai với cặp nhị nguyên bao giờ
cũng là dấu ấn của ngôi thứ nh́ trong Tam vị Nhất thể
biểu lộ; ngôi ba là Minh Triết, Minh Triết tức Trí Tuệ bản sơ vốn tạo ra thế
giới. Đây là Armaiti, kinh điển viết về nó như sau: “Để hỗ trợ cho sự sống
này (để khiến cho nó tăng trưởng) Armaiti quang lâm với của cải, cái trí
chân thực và lương hảo, bà là phụ nữ vĩnh hằng sáng tạo ra thế giới vật
chất” [[28]]
. Về sau này, Armaiti
được đồng nhất hóa với tạo vật của ḿnh và được tôn thờ là Nữ thần trần thế
nhưng trước kia bà đă hoàn tất Tam vị Nhất thể.
Theo
thứ tự kế tiếp ta có huyền giai các Đấng Thông Tuệ thiên giới đứng đầu là
bảy đại Chơn linh Ameshaspentas, bảy Đấng Thiên Đế chủ tŕ; đôi khi người ta
đặt Ahura Mazdāo đứng đầu bảy vị này và là một trong bảy vị; đôi khi bảy vị
tạo thành bộ bảy thấp hơn và bên trên bộ bảy này là bộ ba cao hơn – đây là
một quan niệm quen thuộc với mọi Thông Thiên Học giả vốn biết rằng vũ trụ là
một bộ mười được biểu diễn bởi bộ bảy thấp hơn và bộ ba cao hơn giống như
các Sephiroth trong kinh Kabalah của Do Thái giáo. Nếu ta bỏ Ahura Mazdāo
th́ bảy Ameshaspentas là Vohūman, cái Trí Lương hảo; Asha Vahishta, sự Thánh
thiện Tốt nhất; Kshatraver, Huyền năng; Spendarmad, T́nh thương; Haurvatāt,
Sức khỏe; Ameretād, sự Bất tử; và Lửa, “đấng hữu ích nhất trong các
Ameshaspentas”
[[29]].
Người ta thường liên tục cầu nguyện với các đấng này, liên tục ngâm vịnh các
bài thánh ca dâng lên các ngài, toàn thể việc phụng tự đều thấm nhuần việc
tôn thờ các ngài; thế nhưng một số các Đông phương học giả - tôi lấy làm hân
hạnh mà bảo rằng chỉ một tuyệt đại thiểu số tín đồ Bái Hỏa giáo thời nay
nghe theo các học giả này – đă duy vật hóa các ngài thành ra chỉ là các
thuộc tính của Thượng Đế, thay v́ là các Đấng Thông Tuệ sống động mà trong
các Gāthās có nói các ngài tạo ra thế giới và bảo dưỡng thế giới.
Tiến sĩ Mills đă thoái hóa các ngài thành ra chỉ là các
thuộc tính và trong bản dịch của ḿnh ông luôn luôn coi các ngài như vậy mặc
dù đôi khi ông bị bắt buộc phải chọn một lập trường vô căn cứ nhất qua việc
hiện nay đă co rút lại không công nhận có những Đấng Thông Tuệ vô h́nh ở
khắp mọi nơi. Ta hăy thử liệu có thể coi các ngài chỉ là các thuộc tính hay
chăng:
“Thế nhưng Mazda Ahura rộng lượng nhất và cũng Sùng đạo
nhất.
C̣n Asha th́ lại ổn định thêm nữa, ngài chính là Cái Trí
Lương hảo và ngài chính là Quản Thần (Đấng Quyền Uy Tối Cao).
Hỡi
tất cả hăy lắng nghe ta và hăy có ḷng từ bi”
[[30]].
Các “phẩm tính” ở đây được viết bằng chữ hoa, là một số
Ameshaspentas tức Spendarmad, Vohūman và Kshatraver, c̣n từ ngữ số nhiều
“ngài” cũng như cụm từ “hỡi tất cả hăy lắng nghe ta” là một cách kỳ diệu
nhằm nói tới Thượng Đế và các phẩm tính của ngài.
“Hỡi Ahura, hỡi Mazda, xin cho con biết các giáo lư nào
và hành động nào là tốt nhất.
Và lời cầu nguyện của kẻ mắc nợ đối với những đấng khen
thưởng; xin nói cho con biết điều này về Sự Thật và Cái Trí Lương Hảo.
Mang lại sự toàn bích của thế giới này nhờ hồng ân và
Huyền năng Tối thượng”.
Bản
tiếng Pahlavi chép rằng: “Do đó hỡi đấng Aūharmazd xin ngài hăy tuyên cáo
cho con biết đâu là lời lẽ và hành vi tốt đẹp nhất, và xin ngài hăy ban ra
điều vốn là món nợ, hỡi đấng Vohūman và ngài nữa, hỡi đấng Ashavahisht, nhờ
có lời khen tặng này, nhờ vào quyền năng tối thượng này, hỡi đấng Aūharmazd,
việc hoàn tất sự Tiến bộ đă trở nên hiện thực rơ ràng trên thế gian theo ư
muốn” [[31]]
“Thế là con quan niệm ra ngài, hỡi đấng Ahura Mazda quăng
đại.
Khi được Cái Trí Lương Hảo trợ giúp th́ con gần đạt được
sự tuân phục”.
Và tự
nhủ: “Ngươi là ai? Ngươi từ đâu mà ra?”
[[32]]
-
đây là một diễn tiến kỳ
diệu để có được một phẩm tính.
“Trước hết con xin ngài hăy ban các đặc ân của ḿnh, hỡi
đấng Ahura!
Hỡi
đấng Asha và xin đấng Āramaiti cũng ban hồng ân của ḿnh”.[[33]]
Nếu có
chỗ th́ ta có thể trích dẫn thêm nhiều đoạn nữa từ các Gāthās. Thế rồi ta
rút ra điều này từ Yasna Haptanhaiti
vốn được công nhận là một trong những
phần xưa cũ nhất của các Yasna
sau các Gāthās: “Chúng con tôn thờ Ahura Mazda, đấng công chính, bậc thầy
của sự công chính. Chúng con tôn thờ các Ameshaspentas (các tổng thiên thần)
vốn là các đấng sở hữu điều thiện, đấng ban cấp điều thiện. Chúng con tôn
thờ toàn thể việc sáng tạo ra Chơn linh công chính”
[[34]]
Kinh
Visparad bắt đầu như sau: “Con
khấn nguyện và tuyên cáo với các Tinh quân trên Trời, các Tinh quân dưới
Đất” [[35]]
v.v. . . qua
suốt một danh sách dài các Thần linh. Lại nữa: “Chúng con khiến cho chúng
được biết rơ: đối với Ahura Mazda, đối với Sraōsha thánh thiện, đối với đấng
Rashnu công chính nhất, đối với Mithra với những đồng cỏ mênh mông. Đối với
các Ameshaspentas, các Fravarshis của kẻ thanh khiết, đối với linh hồn của
kẻ thanh khiết, đối với Lửa, con trai của Ahura Mazda và đối với đấng Chúa
tể cao cả” [[36]]
.
Yasna chứng nhận như sau: “Con
khấn nguyện và tuyên cáo với đấng sáng tạo Ahura Mazda, đấng Huy hoàng,
Hoành tráng, Cao cả nhất, Tốt đẹp nhất, Mỹ lệ nhất, Mạnh mẽ nhất, Trí thức
nhất, có cơ thể đẹp đẽ nhất, thánh thiện nhất; ngài rất minh triết, hoan hỉ,
sáng tạo ra chúng ta, đào tạo chúng ta, duy tŕ chúng ta, ngài là Đấng Thánh
Thiện nhất trên trời. Con khấn nguyện và tuyên cáo với: Vohūman,
Ashavahista, Kshathra Vairya, Spenta- ārmaiti, Haurvat và Ameritāt, phần xác
của con ḅ cái, phần hồn của con ḅ cái, lửa (con trai) của Ahura Mazda,
đấng hữu ích nhất trong các Ameshaspentas” [[37]]
.
Nhưng
các Yasnas đều đầy dẫy sự tôn
thờ, tôn thờ các Thần linh cao siêu nhất, tôn thờ Mithra
[[38]]
, tôn thờ Nữ thần nước
[[39]],
tôn thờ Srosh [[40]]
– là một
trong các Đấng Thông Tuệ cao cả dũng mănh nhất – tôn thờ mặt trời, mặt trăng
và các ngôi sao [[41]].
Thật vậy, toàn thể cấu trúc của Bái Hỏa giáo ắt bị sụp đổ nếu ta bứt ra khỏi
nó tục thờ cúng chư Thần linh theo cái cách vặn vẹo của thuyết duy vật Âu
Tây. Trong Bái Hỏa giáo cũng như Ấn Độ giáo, chư Thần linh có ở khắp mọi nơi
và khi tín đồ thăng lên th́ y tôn thờ các Đấng Thông Tuệ càng ngày càng cao
siêu cho đến khi y đạt tới Ahura Mazdāo mà các Đấng Thông Tuệ này chỉ là tác
nhân của ngài, sự sống của các ngài mà các Đấng Thông Tuệ được bảo dưỡng.
Bây
giờ ta xét tới Lửa, là biểu tượng tối cao của Thượng Đế, là biểu tượng của
sự sống thiêng liêng vốn được gọi là Con trai của Ahura Mazdāo, là biểu
tượng linh thiêng mà các tín đồ Bái Hỏa giáo thời nay hết ḷng sùng kính. Ta
có thể trông mong rằng ḿnh sẽ t́m thấy hết lời cầu nguyện này đến lời cầu
nguyện khác được dâng lên cho Lửa, Lửa được sùng bái bằng những lời lẽ mộc
mạc nhất, minh bạch nhất và bộc trực nhất, Lửa được tuyên bố là đấng hữu
dụng nhất trong mọi Đấng Thông Tuệ tâm linh, Lửa vốn thân thiện nhất v́ từ
Ahura Mazdāo giáng xuống và quen thuộc với mọi bí mật của cơi trời. “Hạnh
phúc thay cho kẻ nào được Lửa, con trai của Ahura Mazda giáng xuống mạnh mẽ.
Ngài vốn thân thiện hơn kẻ thân thiện nhất, đáng được tôn thờ hơn kẻ xứng
đáng được vinh danh nhất. Mong sao ngài đến giúp đỡ chúng ta trong những
chuyện lớn lao nhất. Lửa vốn quen thuộc với Ahura Mazda, quen thuộc với cơi
trời. Ngài là đấng thánh thiện nhất trong số Lửa mang tên Vāzista. Hỡi Lửa,
con trai của Ahura Mazda, chúng con xin tiếp với ngài”
[[42]].
Lửa là ǵ? Trong mọi tôn giáo Lửa bao giờ cũng là biểu
tượng của Thượng Đế; Brahman là Lửa, Ahura Mazdāo là Lửa, tín đồ Do Thái
giáo thờ Đức Chúa Trời là trụ Lửa, c̣n tín đồ Ki Tô giáo tuyên bố “Đức Chúa
Trời là Lửa thiêu rụi”. Đâu đâu Lửa cũng đă và đang là biểu tượng tối cao v́
đấng vinh danh được khải huyền thành Lửa, nó cháy rực từ Cái Đó vốn “tối đen
do có quá nhiều ánh sáng” và toàn thể vũ trụ chẳng qua chỉ là hệ quả của Lửa
sống động. Ôi, nếu ta có thể cho con thấy đấng Zarathushtra đại hùng khi
ngài lần đầu tiên ngỏ lời với dân chúng và dạy cho họ những sự thật mà Lửa
đă khải huyền cho ngài, các Con của Lửa biệt phái ngài xuống trần thế để dạy
những sự thật này cho dân chúng. Ta hăy h́nh dung ngài đứng bên cạnh bàn
thờ, nói về điều mà Lửa đă khải huyền cho ngài. Nên nhớ điều được nói tới ở
một trong các “Sấm truyền” vốn mô phỏng lại truyền thuyết buổi sơ khai: “Khi
các con chứng kiến Lửa thiêng vô h́nh tướng, chớp lóe chói ḷa mắt qua khắp
thế gian th́ các con nghe được tiếng nói của Lửa”. Theo lời Zarathushtra th́
thoạt tiên không có lửa trên bàn thờ bên cạnh ngài, có gỗ trầm hương chất
đống thơm ngát, có hương thơm nhưng không có lửa. Khi bậc Đạo sư đứng đó,
ngài cầm một Cây gậy – mọi huyền bí gia đều biết Cây gậy này có một bản sao
được sử dụng trong các Bí pháp, chứa đầy lửa sống động của các cơi cao với
hỏa xà quấn xung quanh nó. Khi ngài nhấc gậy lên, chỉ nó lên trời, qua không
gian vô tận, qua ṿm trời xanh ngát, th́ bầu trời bùng lên ngọn lửa và các
ngọn lửa mờ dịu tỏa khắp mọi phía; một số ngọn lửa này rẽ không khí lao
xuống châm lửa cho bàn thờ bên cạnh ngài và lửa sống động vây quanh ngài,
biến ngài thành một khối lửa, khi ngài thuyết pháp nói lên những “linh từ về
Lửa” và tuyên cáo sự thật đời đời. Zarathushtra đă giảng dạy như vậy thời
xưa. Và ngài hát những bài thánh ca về lửa, có thể triệu thỉnh lửa từ trên
cao xuống – đây là những thần chú cưỡng chế, những quyền lực từ ngữ - hết
thế kỷ này sang thế kỷ khác, hết thiên niên kỷ này sang thiên niên kỷ khác,
lửa bốc cháy trên bàn thờ Bái Hỏa giáo, trong đền thờ lửa chỉ là sự trộn lẫn
các ngọn lửa vật chất. Lửa thiêng bao giờ cũng được triệu thỉnh từ trên cao,
từ cơi trời, từ Ākāsa bốc lửa xuống; theo lời khấn nguyện của vị lễ sư, nó
sa xuống bàn thờ rồi bốc cháy ở đó thành biểu tượng sống động của Thượng Đế.
Khi vị lễ sư cấp thấp phải hành động, khi không có sẵn vị thượng tế để phụng
tự th́ bậc hạ tế được cung cấp Cây gậy lửa mà lửa điện bao giờ cũng lóe lên
trong đó thành ngọn lửa sống động, và khi bậc hạ tế tức phó tế dùng cây gậy
chạm vào bàn thờ dưới dạng nhiên liệu th́ lửa trên trời bốc cháy.
Ngay cả bây giờ ta hăy xem truyền thuyết đă được truyền
thừa như thế nào trong chính nghi lễ để lửa được thắp sáng trên bàn thờ mới.
Ngày nay vẫn c̣n có một âm hưởng yếu ớt của sự thật đời xưa, mặc dù quyền
năng đă đi mất rồi và không một lễ sư Bái Hỏa giáo nào có thể triệu thỉnh
lửa từ trên cao xuống. Lửa được thu thập từ đủ mọi nguồn trong thị trấn mà
lửa thiêng phải được thắp sáng, nhưng lửa không được sử dụng khi nó được thu
thập từ nhiên liệu trần tục; đó là v́ vị chủ lễ đặt bên trên lửa được thu
thập lại một cái khay bằng sắt chất đống gỗ trầm hương và giữ nó trên cao
sao cho vật liệu không tiếp xúc với thứ ǵ, lửa bên dưới đốt nhiên liệu và
lửa thứ nh́ bốc lên; nghi lễ này được lập lại chín lần cho đến khi có thể
nói là chính tinh hoa của lửa được thu thập lại, nó thật thanh khiết và xứng
đáng là biểu tượng của đấng thiêng liêng. Hơn nữa, ngườ ta t́m cách có được
lửa điện tức lửa chớp, chớp lóe từ trên trời xuống, và v́ ngày nay người ta
không thể tự ḿnh triệu thỉnh nó xuống, cho nên đôi khi họ phải chờ đợi hằng
năm trời trước khi thu thập được lửa cuối cùng. Đôi khi phải kiên nhẫn hằng
năm trời trước khi lửa có thể ḥa lẫn với nhau để đốt cháy trên bàn thờ linh
thiêng. Mọi tín đồ Bái Hỏa giáo đều khấu đầu trước Lửa thiêng này và trong
nhà tín đồ Bái Hỏa giáo khi mặt trời lặn th́ một mảnh lửa được đưa đi qua
khắp mọi pḥng lúc màn đêm buông xuống, nó là biểu hiệu của quyền năng tẩy
trược và hộ tŕ của Đấng Tối Cao.
Bây giờ ta phải vội vả liếc nh́n qua cách thức xem xét
con người th́ ta mới hiểu được vị thế của y trong huyền giai các Sinh linh
Thông tuệ. Nơi y có hai nguyên thể - tinh thần và vật chất – cũng như mọi
sinh linh khác và y có thể đứng về một trong hai nguyên thể này. Mọi khoa
luân lư đều dựa vào ư niệm cho rằng y sẽ về phe với điều thanh khiết, chiến
đấu v́ sự thanh khiết, duy tŕ sự thanh khiết. Có thể đây chính là quan niệm
về sau này của Angrō Mainyush coi kẻ thù là một toan tính để kích động con
người chủ động phấn đấu chống lại điều ác, khiến y cảm thấy ḿnh đang chiến
đấu cho “thiện thần” chống lại “ác thần”. Bổn phận của cá nhân là phải đứng
về phe điều thanh khiết để chủ động trong mọi việc. Tín đồ Bái Hỏa giáo phải
giữ cho đất được trong sạch, phải cày bừa nó, coi đó là một bổn phận tôn
giáo; y phải thực thi mọi chức năng của nông nghiệp để phụng sự cho chư Thần
linh v́ đất là tạo vật trong sạch của Ahura Mazdāo cho nên y phải giữ ǵn nó
khỏi mọi sự ô nhiễm. Không khí phải được giữ cho trong sạch. Nước phải được
giữ cho trong sạch, nếu bất cứ thứ ǵ không trong sạch chẳng hạn như một xác
chết rớt xuống nước th́ tín đồ Bái Hỏa giáo thuần thành phải vớt xác lên để
cho nguyên tố trong sạch ấy không bị ô nhiễm. Cũng v́ thế mà người ta phản
đối việc thiêu xác chết v́ làm cho lửa ô uế khi tiếp xúc với điều không
trong sạch. Chính v́ vậy mà xác chết được kính cẩn khiên lên Tháp Tịch Lặng
ở nơi dành riêng cho nó chỉ mở cửa ra về phía bầu trời, nó được đặt ở đấy
cho đám kên kên nhanh chóng nuốt ngấu nghiến nó, v́ vậy không làm ô uế
nguyên tố trong sạch.
Khi
chuyển từ sự trong sạch nơi thiên nhiên ngoại lai – mà một tín đồ Bái Hỏa
giáo phải liên kết với nó chẳng những một cách thụ động mà c̣n là một cách
chủ động – ta quay sang công lư nổi tiếng trong tôn giáo của họ: “Ư nghiệp,
thân nghiệp và khẩu nghiệp thanh khiết”. Đó là qui tắc được thường xuyên lập
lại trong sinh hoạt của Bái Hỏa giáo và ta nhận thấy rằng cả ba được sắp xếp
theo thứ tự huyền bí, được lập lại trong những lời cầu nguyện thường nhật,
mỗi biến đều được nhấn mạnh. Những lời đầu tiên trong
Khordah Avesta tạo thành Ashem
Vohū, là công thức linh thiêng nhất được lập đi lập lại thành điệp ngữ: “Sự
thanh khiết là điều thiện tốt nhất. Hạnh phúc thay cho kẻ nào đạt được sự
thanh khiết nhất”
[[43]].
Khi Ahura Mazdāo hỏi Zarathushtra về việc ngâm vịnh Ashem Vohū th́ ngài
tuyên bố rằng việc tụng niệm Ashem Vohū – nó xứng đáng với mọi điều tốt đẹp
do chính ngài tạo ra – là “khi người ta từ bỏ ư nghiệp ác, khẩu nghiệp ác và
thân nghiệp ác” [[44]]
.
Trẻ
con phải được nhập môn, khai tâm từ khi lên bảy tới năm 15 tuổi, bấy giờ
người ta mặc cho nó lần đầu tiên là kusti, tức sợi chỉ linh thiêng và sūdrā
tức áo trắng bằng vải lanh, cả hai đều là biểu hiệu của sự thanh khiết.
Kusti được làm bằng 72 sợi lông cừu và được quấn ba ṿng xung quanh thắt
lưng với ư nghĩa người đeo Kusti có bổn phận giữ ư nghiệp thiện, khẩu nghiệp
thiện và thân nghiệp thiện; nó được thắt nút hai lần ở phía trước và hai lần
ở phía sau. Sự trung thực, trinh khiết, vâng lời cha mẹ, hiếu khách, cần cù,
ngay thẳng, tử tế với gia súc hữu ích, là những đức tính được đặc biệt nhấn
mạnh, c̣n ḷng từ thiện là bộ phận cốt lơi của tôn giáo. Đó là ḷng từ thiện
minh triết được dành cho kẻ xứng đáng, người ta đặc biệt khuyên nên giúp đỡ
người nghèo, giúp những người nào muốn kết hôn mà không có khả năng, giúp
vào việc giáo dục trẻ con cho những người không thể thực thi bổn phận ấy đối
với bản thân. Ervad Sheriarji Dadabhai Barrucha có dạy: “Cũng giống như ta
bảo một vài đức tính là thuộc tính đặc thù của bốn giai cấp trong thiên hạ
và rất ăn khớp với họ, cũng vậy họ nên tránh đặc biệt một vài thói xấu. Đối
với giai cấp tăng lữ th́ tính đạo đức giả, tham dục, cẩu thả, lười biếng,
chỉ chú ư tới những chuyện nhỏ mọn và không tin vào tôn giáo là đặc biệt
khiếm nhă. Giai cấp chiến sĩ phải không được áp bức, dùng bạo lực, thất hứa,
khuyến khích điều ác, khoe khoang, ngạo mạn và xấc xược. Người trồng trọt
không được dốt nát, ganh tị, thiếu thiện chí và đầy ác ư; thợ thủ công phải
tránh tính cả tin, vong ân bội nghĩa, thô lỗ và ưa nói xấu” (Mainyo-I Khart,
lix) [[45]]
. Thật thú vị khi nhận
thấy rằng Ahura Mazdāo tuyên cáo “sự công chính (Ahuna Vairya) cả về mặt tâm
linh lẫn trần tục”. Ahuna Vairya có ba ḍng: bốn giai cấp, năm vị thủ lĩnh
và một kết luận. Các giai cấp cũng theo thứ tự tứ bội là giai cấp tăng lữ,
chiến sĩ, nông gia và thợ thủ công [[46]],
c̣n một nhận xét nữa về sự tương cận khắn khít giữa người Ba Tư với phân
chủng thứ nhất của giống dân Aryen.
Có
những nhận xét khác nữa cũng thú vị: Sự hiến tế Homa được tôn
sùng nhiệt thành và tán dương cao độ trong
Homa Yasht
[[47]]
giống
như trong Sama Veda; tên của các
lễ sư - ātharva (atharvan), Zaota (Hotā) và lai lịch theo chức năng của
Rathavi với Adhvarya; sữa, bơ sữa trâu, nước thánh, cành cây thánh đều được
dùng trong một vài nghi lễ; cũng giống như tín đồ Ấn giáo, tín đồ Bái Hỏa
giáo có những lời cầu nguyện dành cho người chết vào những lúc được qui
định. Thật vậy, cả hai tín ngưỡng đều là tín ngưỡng chị em với nhau, chỉ có
điều sự xâm lược, áp bức và lưu đày đă làm tan nát tín ngưỡng non trẻ hơn
đến mức nó mất hết quyền trưởng thượng đời xưa.
Trong
Yasna, liv, 1, có nêu rơ bảy
nguyên khí cấu tạo thành con người: “cơ thể cùng với xương cốt, năng lượng
sống động và h́nh tướng, sức khỏe và tâm thức, linh hồn và Fravarshi”
[[48]]
. Ba thứ đầu tiên là xác
phàm và thể phách cùng với Prāna; sức mạnh là
Sau
khi chết, linh hồn chuyển sang cơi trung ấm, “những con đường xưa như trái
đất dành cho kẻ ác cũng như kẻ công chính”
[[50]];
Ahura Mazdāo gọi nó là Kāmaloka tức “con đường hủy diệt dễ sợ, chết người
khiến cho hồn chia ĺa khỏi
xác [[51]]
. Hồn của kẻ
công chính gặp một trinh nữ đẹp đẽ, là hiện thân của các ư nghiệp, khẩu
nghiệp và thân nghiệp thiện của ḿnh; y an toàn vượt qua “cầu nại hà phân xử
và đến cơi thiên đường. Nhưng hồn của kẻ ác gặp một mụ già xấu xí, là hiện
thân của ư nghiệp, khẩu nghiệp và thân nghiệp ác của ḿnh, y không băng qua
được cầu nại hà và rớt xuống lửa.
Lại nữa, nhiều điều không được nói tới, nhiều điều chỉ
được mô tả quá ngắn ngủi, quá trơ trụi; thế nhưng ta cũng đă nói đầy đủ để
biện minh cho huyền bí gia khi y làm chứng cho tôn giáo cổ truyền này là tôn
giáo thứ nh́ của Giống dân thứ năm vốn bắt nguồn từ nguồn cội ban sơ có bậc
Đạo sư là một trong các Điểm đạo đồ Thiêng liêng; nó được truyền thừa từ quá
khứ, hết thiên niên kỷ này đến thiên niên kỷ khác và chỉ được biểu diễn
nghèo nàn qua Bái Hỏa giáo thời nay vốn tương đối đă bị duy vật hóa. Việc
nghiên cứu kinh điển của nó có thể làm cho nó được hồi sinh; tri thức xưa cũ
có thể lại được phà vào nó; những điều nhượng bộ trước sự phê phán và chủ
nghĩa duy vật của Âu Tây có thể bị mọi tín đồ Bái Hỏa giáo bác bỏ coi như
không phải là bộ phận của tín ngưỡng cổ truyền vinh quang của ḿnh. Hỡi các
huynh đệ Bái Hỏa giáo! Bậc Đạo sư của các bạn chưa chết. Ngài vốn bất tử,
ngài đang giám sát tôn giáo mà ngài là giáo chủ, ngài bao giờ cũng t́m cách
khôi phục nó khỏi t́nh trạng thoái hóa ngày nay, cung cấp trở lại cho nó tri
thức đă thất truyền, huyền năng đă thất truyền. C̣n công tŕnh nào cao quí
hơn dành cho tín đồ Bái Hỏa giáo thời nay hơn là làm cho huynh đệ của ḿnh
thấm nhuần ngọn lửa thời xưa, thắp sáng trở lại ánh lửa của nó trên bàn thờ
tâm linh trong linh hồn họ? C̣n công tŕnh nào cao quí hơn nghiên cứu kinh
điển của chính họ, đi rao giảng kiến thức cổ truyền với thẩm quyền và huyền
năng mà chỉ có kẻ nào cùng tín ngưỡng với họ mới vận dụng được. Lửa không
chết đâu, nó chỉ âm ỉ trên bàn thờ cổ truyền, lớp tro tàn vẫn đang nóng hừng
hực sẵn sàng bốc cháy trở lại thành ngọn lửa. Và tôi mơ sao có một ngày thần
khí của bậc đại Đạo sư Zarathushtra sẽ quét trở lại qua các đền thờ của ngài.
Quật cháy đám tro tàn trên những bàn thờ của các đền thờ cổ truyền và
mọi bàn thờ sẽ lóe lên ngọn lửa và ngọn lửa đáp ứng sẽ từ trên trời giáng
xuống trở lại khiến cho Ba Tư giáo một lần nữa xứng danh là một ngọn hải
đăng soi chiếu cho linh hồn con người, là một trong những tôn giáo lớn nhất
trên thế giới.
-----------------------------
[[2]] Nghiên cứu về 5 Gāthās của Zarathushtra, bản dịch bằng tiếng Pahlavi. Văn bản bằng tiếng Bắc phạn và văn bản dịch từ tiếng Ba Tư của Naryosangh cùng với phần b́nh luận. Dẫn nhập trang XIX, XX.
[[3]]
Tiểu luận
về các tín đồ Bái Hỏa giáo
của Martin Haug, Tiến sĩ chuyên khoa, Tủ
sách Đông phương của Trub, trang 136.
[[5]]Tiểu
luận về các tín đồ Bái Hỏa giáo
của Martin Haug, Tiến sĩ chuyên khoa, Tủ
sách Đông phương của Trub, trang 298.
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES