|
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES
|
Á CHÂU HUYỀN BÍ
(diễn tả cuộc đời của các Chân Sư)
Nguyên tác La Vie
des Maitres của Baird T. Spalding
Do Nguyễn Hữu
Kiệt dịch |
|
TỰA
Tác giả quyển sách này, ông Baird T. Spalding, sinh trưởng tại Anh
Quốc trong một gia đ́nh đă từng giao thương với xứ Ấn Độ từ ba thế kỷ. Ông
được đem qua Ấn Độ từ năm lên bốn tuổi và từ thuở ấu thơ, ông đă từng thích
thú với những vấn đề Đạo Giáo vốn rất thịnh hành ở xứ này.
Chính vào năm 1894, khi ông được 37 tuổi là thời kỳ ông tham gia cuộc
hành tŕnh lư thú đến tận trung tâm của Á Châu Huyền Bí, tại đây ông đă có
duyên lành hội ngộ với các bậc Siêu Nhân và sống chung với các Ngài trong
một thời gian mà ông tường thuật trong quyển sách này.
Việc này chứng tỏ rằng các đấng Chân Sư đang sống lẫn lộn với người
thế gian và đang hoạt động không ngừng để giúp đỡ Nhân Loại.
Sau đó ông định cư tại Hoa Kỳ, và trong một thời gian rất lâu ông vẫn
do dự không dám đem phổ biến câu chuyện huyền bí này. Đến khi ông quyết định
xuất bản th́ quyển sách này lại được tái bản liên tiếp, hàng mấy trăm ngàn
quyển đă được phát hành và đem đến một sự trợ giúp tâm linh rất lớn cho
nhiều độc giả trên thế giới.
Nhà xuất bản.
CHƯƠNG MỘT
Cuộc gặp gỡ đầu tiên với vị
Chân Sư- Ư nghĩa ngày lễ Giáng Sinh- Người có quyền năng xuất quỷ nhập thần-
Thuật phân thân- Ngôi đền Im Lặng.
*
Trên thế giới ngày nay, những sách vở nói về các vấn đề huyền linh có
rất nhiều, và việc sưu tầm thật sự về những bậc làm cho tôi cảm thấy khích
lệ tinh thần để tŕnh bày kinh nghiệm riêng của tôi về những đấng Chân Sư
của phương Đông. Trong những chương sách này, tôi không có ư định diễn tả
một tín ngưỡng hay một tôn giáo nào. Tôi chỉ đưa ra một tóm lược những kinh
nghiệm cá nhân của ḿnh về các đấng Chân Sư, để tŕnh bày những chân lư căn
bản trọng đại trong giáo lư của Ngài.
Để kiểm điểm lại tập du kư này, tôi đă dùng mất nhiều thời giờ cũng
dài bằng cái thời gian dành cho cuộc hành tŕnh khảo cứu. Thật vậy, các Chân
Sư ở rải rác trên một vùng lục địa rộng lớn, và những cuộc sưu tầm về đạo lư
của chúng tôi diễn ra trên một phần lớn các xứ Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa và
Ba Tư.
Phái bộ sưu tầm của chúng tôi gồm có mười một nhà khoa học lỗi lạc,
đă từng dành một phần lớn cuộc đời ḿnh cho những công tŕnh sưu khảo. Chúng
tôi đă tập lấy thói quen không chấp nhận bất cứ việc ǵ mà không có sự phối
kiểm lại chặt chẽ trước khi nh́n nhận việc ấy là đúng với sự thật. Khi đến
tận nơi, chúng tôi hoàn toàn là những kẻ hoài nghi. Nhưng bận về, chúng tôi
hoàn toàn bị thuyết phục và tin tưởng đến nỗi ba người trong nhóm chúng tôi
đă trở lại chỗ cũ, quyết định ở lại cho đến khi họ có thể sống cuộc đời của
các Chân Sư và thực hiện những công tŕnh giống như của các Ngài.
Những vị Cao Cả đă đem đến một sự giúp đỡ lớn lao cho công việc sưu
tầm của chúng tôi, luôn luôn yêu cầu chúng tôi chỉ nhắc đến các Ngài bằng
những tên giả tạm, trong trường hợp chúng tôi viết hồi kư. Tôi sẵn ḷng tuân
theo ư muốn của các Ngài. Tôi chỉ tường thuật lại những việc đă phối kiểm,
và dùng những danh từ hay những thành ngữ của chính những nhân vật mà chúng
tôi đă gặp gỡ và sống chung hằng ngày trong cuộc hành tŕnh này.
Trong số những điều kiện tiên quyết được đặt ra cho sự hợp tác giữa
chúng tôi với các Ngài, có điều này bắt buộc chúng tôi phải tuân theo: Chúng
tôi phải chấp nhận như một sự thật mọi việc ǵ xảy ra mà chúng tôi đă chứng
kiến tận mắt. Chúng tôi không được đ̣i hỏi một sự giải thích nào trước khi
đă đi sâu vào bên trong của một vấn đề, đă nhận được những lời chỉ giáo của
các Ngài, đă sống quan sát cuộc đời hằng ngày của các Ngài. Chúng tôi phải
đi theo các Chân Sư, sống với các Ngài, và tự ḿnh quan sát mọi sự. Chúng
tôi có quyền ở lại với các Ngài bao lâu tùy ư, hỏi bất cứ điều ǵ, và đi sâu
vào mọi vấn đề tùy ư muốn, rồi tự ḿnh rút lấy những kết quả đă thu lượm
được. Sau đó, chúng tôi được tự do quyết định rằng những điều mà chúng tôi
đă nh́n thấy là sự thật hay ảo ảnh.
Các Ngài không bao giờ t́m cách ảnh hưởng đến sự xét đoán của chúng
tôi bất cứ về vấn đề ǵ. Các Ngài luôn luôn nghĩ rằng nếu chúng tôi quan sát
chưa đúng mức để có được sự tin tưởng hoàn toàn, th́ các Ngài không mong ước
chúng tôi phải tin. Tôi cũng hành động y như vậy đối với quư vị độc giả, và
để cho độc giả có quyền tự do tin hay không tin những chuyện kể lại sau đây,
tùy sở thích của mỗi người.
Chúng tôi đă sang Ấn Độ được chừng hai năm, và hằng ngày theo dơi
những công việc sưu tầm, th́ một ngày nọ tôi gặp vị Chân Sư mà tôi xin mệnh
danh là “Tuệ Minh”. Ngày ấy tôi
đang đi dạo chơi qua các đường trong thành phố, th́ thấy có một đám đông làm
cho tôi chú ư. Một đám quần chúng đang vây chung quanh một người thuật sĩ,
thuộc loại các nhà đạo sĩ đi ta bà tṛ ảo thuật mà bên xứ này có rất nhiều.
Tôi bước đến gần và ngay lúc đó tôi nhận thấy ở bên tôi một người đă trọng
tuổi, với một phong độ khác thường, hẳn là không giống như những người khác
trong đám đông.
Người ấy nh́n tôi và hỏi tôi sang Ấn Độ đă được bao lâu. Tôi đáp:
-Độ chừng hai năm.
Người ấy hỏi tiếp:
-Ông là người Anh?
Tôi đáp:
-Không, tôi là người Mỹ.
Ngạc nhiên và thích thú mà gặp một người nói được tiếng mẹ đẻ của
ḿnh, tôi mới hỏi Người nghĩ sao về cuộc biểu diễn của người thuật sĩ. Người
ấy đáp:
-À! Ở xứ này thường vẫn có những cuộc biểu diễn như thế. Người ta gọi
họ là thuật sĩ, đạo sĩ hay pháp sư, cái đó tùy. Nhưng ở đằng sau những tṛ
ảo thuật đó, có ẩn dấu một thiểu số người biết được mà thôi. Có ngày người
ta sẽ nhận thấy cái hay của các tṛ ảo thuật đó. Nhưng điều mà ông nh́n thấy
chỉ là cái ảo ảnh của sự thật nguyên thủy. Việc đó đă từng gây nên nhiều
tranh luận, nhưng các nhà tranh luận dường như chưa bao giờ nắm vững sự thật.
Tuy nhiên, hẳn là phải có một sự thật ở đằng sau những cuộc biểu diễn đó.
Đến đây, chúng tôi chia tay từ biệt nhau và chỉ thỉnh thoảng mới gặp
nhau trở lại trong bốn tháng sau đó. Kế đó, nhóm khoa học gia chúng tôi gặp
phải một vấn đề khó khăn nó gây cho chúng tôi nhiều nỗi lo âu quan trọng.
Vài ngày sau đó, tôi gặp lại Tuệ Minh.Người hỏi lư do những sự lo âu của tôi
và nói với tôi về cái vấn đề khó khăn mà chúng tôi đang gặp phải. Tôi lấy
làm ngạc nhiên, v́ tôi chắc rằng không ai có thể biết ǵ về vấn đề này ngoài
ra nhóm thiểu số chúng tôi. Người có vẻ thông thạo về t́nh h́nh của chúng
tôi đến nỗi tôi có cảm rằng Người biết rơ tất cả vấn đề. V́ lẽ vấn đề ấy đă
không c̣n là một điều bí mật nữa, nên tôi thấy không có hại ǵ mà nói ra một
cách tự nhiên, và đó là điều mà tôi đă làm. Khi đó, Tuệ Minh mới nói với tôi
rằng Người cũng biết ít nhiều về việc ấy và sẽ cố gắng giúp đỡ chúng tôi.
Một hai ngày sau đó, mọi việc đều được giải quyết thỏa đáng, và mọi
sự lo âu cũng tiêu tan. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên, nhưng không bao lâu
việc ấy đă lui dần vào trong quên lăng và chúng tôi không c̣n nghĩ đến nữa.
Những vấn đề khó khăn khác lại xuất hiện, và tôi thường có thói quen đem ra
bàn luận một cách thân mật với Tuệ Minh. Dường như mọi nỗi khó khăn của
chúng tôi liền biến mất khi tôi vừa đem ra giải quyết với người khách lạ.
Tôi bèn giới thiệu các bạn tôi cho Tuệ Minh, nhưng tôi không hề nói
ǵ với họ về nhân vật lạ lùng này. Vào thời kỳ đó, tôi đă đọc nhiều sách do
Ngài chọn lựa, nói về những truyền thống của nền văn minh Ấn Độ, và tôi đă
hoàn toàn tin tưởng rằng là một vị Chân Sư. Sự ṭ ṃ của tôi đă bị kích
thích, và sự thích thú của tôi càng ngày càng tăng thêm.
Một buổi trưa Chúa Nhật, tôi cùng đi dạo với đức Tuệ Minh trên một
cánh đồng, th́nh ĺnh Ngài chỉ cho thấy một con bồ câu đang bay lượn trên
đầu chúng tôi. Tuệ Minh nói rằng con bồ câu đang t́m kiếm Ngài. Ngài bèn
đứng yên một chỗ không cử động, và con bồ câu liền đáp xuống đậu trên một
cánh tay của Ngài đưa ra. Đức Tuệ Minh nói rằng con chim này đem đến cho
Ngài một thông điệp của người em trai hiện đang sống ở miền Bắc Ấn. Người
này cũng là một vị cao sĩ cùng phái, nhưng chưa đạt tới tŕnh độ tâm thức
siêu đẳng để có thể tiếp xúc với Ngài bằng thần giao cách cảm. Bởi vậy,
Người mới phải dùng đến phương tiện giao thông này. Về sau, chúng tôi mới
biết rằng các đấng Chân Sư có quyền năng giao cảm trực tiếp với nhau cấp
thời bằng phương pháp di chuyển di tư tưởng; các Ngài c̣n cho biết rằng
phương pháp này sử dụng một năng lực c̣n tế nhị tinh anh hơn là điện khí hay
vô tuyến điện.
Tôi bắt đầu đưa ra những câu hỏi. Đức Tuệ Minh chứng minh cho tôi
thấy rằng Ngài có thể kêu gọi loài chim đến với Ngài và điều khiển hướng bay
của chúng, rằng các loài bông hoa, thảo mộc nghiêng về phía Ngài khi Ngài đi
qua, và các loài thú dữ đến gần Ngài mà không sợ sệt. Có lần Ngài phân rẽ
hai con sơn cẩu đang tranh mồi và cấu xé lẫn nhau. Khi Ngài bước đến gần,
chúng nó bèn thôi không cắn nhau nữa, nằm đặt xuống cái đầu chúng một cách
đầy tin tưởng trên hai bàn tay Ngài đưa ra, rồi mỗi con lại tiếp tục ăn phần
thịt của ḿnh một cách ôn ḥa. Ngài lại c̣n bắt lấy một con đưa cho tôi cầm
trên hai tay.
Sau đó Ngài nói:
-Cái Phàm Ngă hữu h́nh hữu hoại không thể làm được những việc này, mà
đó là cái Chân Ngă thâm diệu hơn, cái mà anh gọi là Thượng Đế. Đó chính là
Thượng Đế toàn năng ngự trong tôi, và trong tất cả muôn loài, chính Ngài
biểu hiện xuyên qua tôi để làm những việc ấy. Do tôi, do cái Phàm Ngă hữu
hoại của tôi, tôi không thể làm ǵ được. Tôi phải hoàn toàn gạt
bỏ
cái Phàm Ngă bên ngoài, để cho cái Chân Ngă bên trong tự biểu lộ và hành
động. Bằng cách phát biểu toàn vẹn t́nh Bác Ái của Thượng Đế, tôi có thể làm
những điều mà anh đă thấy. Bằng cách để cho t́nh Bác Ái biểu lộ xuyên qua
ḿnh và ban rải cho tất cả chúng sinh muôn loài, ta sẽ cảm hóa được thú dữ
và không một tai họa nào có thể đến với ta nữa.
Vào thời kỳ đó, tôi thụ huấn hằng ngày về đạo lư với đức Tuệ Minh, có
khi Ngài th́nh ĺnh xuất hiện trong pḥng tôi, dẫu rằng tôi đă khóa cửa lại
cẩn thận. Lúc đầu, việc này làm cho tôi hoang mang bỡ ngỡ, nhưng không bao
lâu tôi thấy rằng Ngài coi sự thông cảm của tôi về đó như là một chuyện
đương nhiên. Tôi đă quen với những cách xử sự của Ngài và tôi mở cửa để cho
Ngài ra vào tự do. Sự tin cậy của tôi có vẻ làm cho Ngài hài ḷng. Tôi không
thể hiểu tất cả những lời dạy của Ngài và cũng không thể hoàn toàn chấp nhận
những lời dạy đó, dẫu rằng tôi đă chứng kiến nhiều sự việc lạ lùng ở phương
Đông, tôi cũng không bao giờ có thể chấp nhận mọi việc ngay lập tức. Tôi
phải trải qua nhiều năm suy tư thiền định để nhận thức được ư nghĩa tâm linh
sâu xa về cuộc đời của các đấng Chân Sư.
Các Chân Sư thực hiện những kỳ công của các Ngài mà không chút tự
hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các Ngài biết
rằng năng lực của t́nh thương che chở các Ngài. Các Ngài nuôi dưỡng t́nh Bác
Ái đến mức độ làm cho muôn loài trong cơi thiên nhiên đều cảm mến và trở nên
thân thiện với các Ngài. Loài rắn và thú dữ
giết
chết hằng ngàn người mỗi năm ở Ấn Độ. Nhưng các Chân Sư biểu lộ t́nh Bác Ái
bao la từ trong nội tâm các Ngài đến mức làm cho loài rắn và thú dữ đều trở
nên vô hại.
Đôi khi các Ngài sống trong những vùng rừng thiêng nước độc, hoang vu
hẻo lánh nhất. Đôi khi các Ngài cũng nằm phơi ḿnh trước cổng một làng để
che chở làng ấy khỏi những tàn phá của làng ấy khỏi những tàn phá của thú
dữ. Sau đó các Ngài đứng dậy đi an toàn và làng ấy được b́nh yên vô sự.
Trong trường hợp cần thiết, các Ngài đi trên mặt nước, đi trên lửa đỏ, đi
ngao du trên cơi vô h́nh, và làm nhiều việc lạ lùng khác mà chúng ta cho là
nhiệm mầu, và chỉ có những người có quyền phép thần thông mới có thể làm
được.
Có một sự giống nhau lạ lùng giữa cuộc đời và giáo lư của Đức Jesus
với cuộc đời và giáo lư mà đấng Chân Sư từng nêu gương cho chúng ta hằng
ngày. Người ta cho là con người không thể nào lấy bánh ḿ trực tiếp từ kho
Tiên Thiên Khí tự nhiên của Trời Đất, thắng đoạt Tử Thần, và làm những phép
lạ như Đức Jesus đă làm trong kiếp hóa thân của Ngài. Các đấng Chân Sư vẫn
thường làm những việc ấy. Tất cả các Ngài cần dùng hằng ngày,như đồ thực vật,
áo quần và tiền bạc, các Ngài đều rút lấy từ trong kho Tiên Thiên Khí tự
nhiên. Các Ngài đă thắng đoạt sự chết và có nhiều vị trong các Ngài sống đă
trên năm trăm năm. Chúng tôi có đủ bằng chứng quyết định do những tài liệu
riêng của các Ngài cung cấp. Vài môn phái ở Ấn Độ dường như xuất xứ giáo lư
Huyền Môn của các Ngài. Các Chân Sư chỉ gồm có một thiểu số rất ít ở Ấn Độ.
Bởi đó, số đệ tử của các Ngài lẽ tất nhiên là rất có giới hạn. Nhưng các
Ngài có thể tiếp xúc với một số rất nhiều đệ tử trong cơi vô h́nh. Dường như
phần lớn công việc của các Ngài là hoạt động trong cơi vô h́nh để giúp đỡ
tất cả các linh hồn thụ cảm đối với giáo lư Huyền Môn.
Giáo lư của Chân Sư Tuệ Minh là nền tảng của công việc mà chúng tôi
sẽ thực hiện nhiều năm về sau, trong cuộc hành tŕnh lần thứ ba của chúng
tôi sang các xứ ấy. Cuộc hành tŕnh này kéo dài đến ba năm rưỡi, trong thời
gian đó chúng tôi luôn luôn sống chung với các đấng Chân Sư, cùng di chuyển
khắp nơi với các Ngài, cùng quan sát cuộc đời và công việc hằng ngày của các
Ngài ở Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa và Ba Tư.
*
Cuộc hành tŕnh lần thứ ba của chúng tôi có mục đích sưu tầm về đạo
lư. Trước ngày lên đường, các đoàn viên chúng tôi họp tại Potal, một làng
nhỏ Ấn Độ ở một nơi hẻo lánh. Tôi đă viết thư báo tin trước cho đức Tuệ Minh
rằng chúng tôi sắp đến, nhưng không nói ǵ về mục đích cuộc hành tŕnh có
bao nhiêu người đi. Khi đến nơi, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy đức
Tuệ Minh và các cộng sự viên đă chuẩn bị sẵn chỗ ăn ở cho toàn thể phái đoàn
và biết rơ các kế hoạch của chúng tôi từng chi tiết. Đức Tuệ Minh đă từng
giúp đỡ chúng tôi rất nhiều ở miền Nam Ấn, nhưng từ giờ phút này trở đi th́
sự trợ giúp của Ngài không sao kể hết. Tất cả sự thành công của cuộc hành
tŕnh đều do nơi Ngài mà có, và
cũng nhờ các linh hồn cao quư mà chúng tôi gặp gỡ dọc đường.
Chúng tôi đến Potal, khởi điểm của cuộc hành tŕnh, chiều ngày 22
tháng 12 năm 1894. Ngày lên đường, cũng là ngày đáng ghi nhớ nhất trong đời
chúng tôi, là sáng ngày lễ Giáng Sinh. Tôi không bao giờ quên những lời mà
đức Tuệ Minh nói với chúng tôi sáng ngày hôm ấy. Tuy rằng Ngài không tự hào
có một nền học vấn của người Anh và không hề rời khỏi phương Đông, Ngài vẫn
nói trôi chảy tiếng Anh. Ngài nói:
-Hôm nay là ngày lễ Giáng Sinh. Ngày này nhắc nhở với các bạn sự
Giáng Sinh của Đức Jesus ở Nazareth, tức đấng Christ. Chắc hẳn các bạn nghĩ
rằng Ngài giáng thế để chuộc tội cho nhân loại và Ngài là vị Trung Gian cao
cả giữa các bạn và Chúa Trời. Các bạn cầu nguyện Đức Jesus như một vị cứu
rỗi để xin tội giùm với một đấng Chúa Trời nghiêm khắc, đôi khi thịnh nộ,
ngồi chễm chệ ở một nơi nào đó trên cơi Trời. Tôi không biết cơi Trời đó ở
nơi nào, nếu không phải là ở trong lương tri của các bạn. Dường như các bạn
chỉ có thể đạt tới Chúa Trời do sự trung gian của đức Con Ngài, một vị ít
nghiêm khắc và dễ cảm mến hơn, đấng Cao Cả mà tất cả chúng ta gọi là đấng
Trọn Lành, mà ngày hôm nay là ngày kỷ niệm sự Giáng Sinh của Ngài xuống thế
gian.
Đối với chúng ta, ngày nay c̣n có ư nghĩa sâu xa hơn nhiều. Nó không
những chỉ nhắc nhở ngày giáng trần của Đức Jesus, mà c̣n tượng trưng sự xuất
hiện của Đấng Christ trong lương tri của mỗi người. Ngày lễ Giáng Sinh có
nghĩa là ngày nhập thế của đức Chưởng Giáo đă giải thoát nhân loại khỏi mọi
sự hệ lụy và giới hạn của vật chất. Đấng Cao Cả ấy giáng trần để chỉ cho
chúng ta con đường đưa đến Thượng Đế toàn năng, toàn thông và toàn trí...
Khi một người đă tiếp xúc được với nguồn cảm hứng thiêng liêng và đă phổ
biến những ư nghĩ thiêng liêng ấy bằng lời nói, phải chăng những người khác
cũng có thể tiếp xúc với cái nguồn cảm hứng đó, nó vẫn hằng có trong Vũ Trụ
càn khôn? Khi một người đă nhận được sự cảm hứng thiêng liêng, nó không phải
là vật sở hữu riêng của y. Nếu y bắt được cái nguồn ân huệ đó rồi giữ lấy
cho riêng ḿnh, y đâu c̣n chỗ trống để tiếp nhận thêm những ân huệ trước nữa?
Muốn thọ lănh thêm nhiều hơn nữa, ta phải cho đi những ǵ ḿnh đă nhận được.
Nếu ta giữ lấy để làm của riêng, th́ sẽ có sự bế tắc, ứ đọng ngay. Điều này
giống như cái bánh xe vận chuyển bằng sức nước trong một nhà máy thủy điện.
Nếu th́nh ĺnh cái bánh xe giữ lại cái gịng nước đă làm cho nó vận chuyển
và xoay ṿng, th́ nó sẽ bị ngưng trệ ngay lập tức. Nó phải để cho nước chảy
lưu thông tự do th́ nó mới trở nên hữu dụng và tạo nên điện lực. Con người
cũng vậy. Khi y tiếp nhận được nguồn cảm hứng thiêng liêng của Thượng Đế ban
cho, y phải phổ biến những tư tưởng tốt lành ấy mới có thể hưởng thụ được
điều lợi ích của nó. Y phải để cho mỗi người có dịp hưởng thụ và phổ biến
những tư tưởng thiêng liêng để tiến triển tâm linh cũng y như vậy.
Theo ư tôi, tất cả những ǵ đến với Đức Jesus đều là một sự ban ân
trực tiếp của Thượng Đế, cũng như đó là trường hợp của tất cả các bậc đại
giáo chủ. Thật ra, phải chăng tất cả đại sự đều xuất xứ từ Thượng Đế, và
điều ǵ mà một người đă làm th́
những người khác cũng có thể làm được? Các bạn hăy tin rằng Thượng Đế luôn
luôn muốn tự biểu lộ và sẵn sàng làm như vậy, như Ngài đă làm đối với Đức
Jesus và những vị khác. Chúng ta chỉ cần có sự mong muốn để cho Ngài hành
động. Thật ra, chúng ta tin rằng tất cả đều b́nh đẳng. Tất cả mọi người đều
là một. Mỗi người đều có thể thực hiện những công tŕnh giống như của Đức
Jesus và sẽ thực hiện những công tŕnh ấy khi thời giờ đă điểm. Không có ǵ
là bí mật hay huyền diệu trong những công tŕnh đó. Sự bí mật chỉ có trong
cái ư niệm vật chất mà loài người đă gán cho các sự việc ấy.
Các bạn đến với chúng tôi với ít nhiều sự hoài nghi. Chúng tôi tin
rằng các bạn sẽ ở lại đây để nh́n xem tận mắt chúng tôi là như thế nào. C̣n
những công việc làm của chúng tôi và kết quả của những việc ấy ra sao, th́
các bạn có trọn quyền tự do chấp nhận hay bác bỏ tùy ư...
*
Chúng tôi từ giă Potal đi Asmah, một làng nhỏ hơn ở cách đó độ 150
cây số. Đức Tuệ Minh chỉ định hai người thanh niên để dẫn đường cho chúng
tôi. Cả hai người này đều là người Ấn Độ tốt tướng và khỏe mạnh. Họ đảm
trách việc hướng dẫn cuộc hành tŕnh một cách thông thạo và hoàn toàn chu
đáo mà chúng tôi chưa từng thấy bao giờ. Để tiện việc, tôi xin gọi họ bằng
những tên tạm là Dật Sĩ và Nê Bưu. Chân Sư Tuệ Minh cao tuổi hơn họ rất
nhiều. Dật Sĩ là người đứng ra chỉ huy cuộc hành tŕnh, c̣n Nê Bưu, phụ tá
của y, coi sóc việc thừa hành mọi mệnh lệnh. Đức Tuệ Minh kiếu từ chúng tôi
và nói:
-Các bạn hăy đi trước, đă có Dật Sĩ và Nê Bưu dẫn đường. Tôi sẽ ở lại
đây thêm vài ngày, v́ với phương tiện di chuyển hiện tại, các bạn phải mất
ít nhất là năm ngày mới đến trạm sắp tới ở cách đây 150 cây số. Tôi không
cần mất nhiều thời giờ như vậy để vượt qua chặn đường ấy, nhưng tôi sẽ có
mặt tại đó để đón các bạn. Các bạn hăy để lại đây một người đoàn viên để
quan sát và kiểm điểm mọi việc có thể xảy ra. Các bạn sẽ có rộng thời giờ,
và người đoàn viên ở lại sẽ theo kịp các bạn trong mười ngày là cùng. Chúng
tôi chỉ yêu cầu y quan sát mà thôi, và tường thuật lại cho các bạn những ǵ
y đă thấy.
Chúng tôi bèn lên đường. Dật Sĩ và Nê Bưu lănh trách nhiệm điều khiển
mọi việc một cách hoàn toàn chu đáo. Mọi việc đều được giải quyết êm đẹp vào
đúng lúc với một tiết điệu và một sự đúng đắn toàn hảo. T́nh trạng đó vẫn
tiếp tục trong ba năm rưỡi suốt thời gian của cuộc hành tŕnh.
Dật Sĩ có một bản tính thanh cao thiên phú, dễ thương, làm việc hữu
hiệu, không khoe khoang , khoác lác. Y ra tất cả mọi chỉ thị với một giọng
ḥa nhă, và được tuân theo một cách đúng đắn và kịp thời nó làm cho chúng
tôi ngạc nhiên. Từ lúc đầu, chúng tôi đă nhận thấy tính hạnh tốt đẹp của y
và chúng tôi vẫn thường khen ngợi.
Nê Bưu cũng có một đức hạnh tốt đẹp không kém, và dường như c̣n có
khả năng hiện diện ở khắp nơi. Luôn luôn b́nh tĩnh, y có một năng xuất lạ
lùng, với một khả năng suy gẫm và hành động rất vững vàng, chắc chắn. Mỗi
người đều đă nhận thấy khả năng đó của y, và chúng tôi vẫn luôn luôn nhắc
nhở đến.
Qua ngày thứ năm của chuyến đi này, vào độ bốn giờ chiều, chúng tôi
đến làng Asmah. Như đă hẹn trước, đức Tuệ Minh đă có mặt tại đó để đón chúng
tôi. Quư vị độc giả
có thể tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng tôi như thế nào. Chúng tôi đến
đây do một con đường duy nhất có thể đi được và bằng những phương tiện di
chuyển mau chóng nhất. Chỉ có những bưu tín viên thiện nghệ người bổn xứ, đi
luân phiên nhau từng chặng đường và đi suốt ngày đêm mới có thể đi mau hơn.
C̣n đây là một người mà chúng tôi cho là đă có tuổi và tuyệt đối không thể
nào đi mau hơn
chúng tôi trên một quăng đường dài một trăm năm chục cây số, nhưng lạ thay,
người ấy lại đến trước chúng tôi và có mặt ở tại chỗ. Trong cơn thắc mắc, lẽ
tự nhiên chúng tôi hỏi đức Tuệ Minh rất nhiều điều, và Ngài trả lời như sau:
-Khi các bạn sắp sửa lên đường, tôi có nói rằng tôi sẽ có mặt tại đây
để đón các bạn, và tôi đă đến đây. Tôi xin đặc biệt lưu ư các bạn về điểm
này là con người vốn toàn năng khi y tiến hóa trong cái chân lănh vực của
ḿnh. Y không c̣n bị giới hạn trong thời gian và không gian. Khi y tự biết
ḿnh, không cần phải lê gót chân chậm chạp dọc đường trong năm ngày để vượt
qua một trăm năm chục cây số. Trong cái địa hạt chân thật của y, trong
khoảng khắc con người có thể vượt qua mọi quăng đường dầu xa bao nhiêu. Chỉ
mới lúc năy đây, tôi c̣n ở tại làng Potal mà các bạn đă từ giă ra đi cách
đây năm ngày. Thể xác tôi hăy c̣n nằm yên tại đó. Người đoàn viên mà các bạn
đă để lại Potal sẽ nói cho các bạn biết rằng tôi đă nói chuyện với y cho đến
gần bốn giờ chiều, khi ấy tôi nói rằng tôi đi đón các bạn, v́ chắc các bạn
đă gần đến nơi. Người đoàn viên ấy hăy c̣n nh́n thấy thể xác bất động của
tôi tại đó. Tôi chỉ làm như vậy để cho các bạn thấy rằng chúng tôi có thể
rời khỏi Thể Xác để gặp lại các bạn bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào. Dật Sĩ
và Nê Bưu cũng có thể di chuyển bằng cách đó như tôi. Nhưng nhờ vậy các bạn
sẽ hiểu rơ hơn rằng chúng tôi cũng vẫn là những người thường, cũng xuất xứ
từ một nguồn gốc như các bạn. Không có ǵ bí mật cả. Chúng tôi chỉ có phát
triển những năng lực mà Thượng Đế toàn năng đă ban cho tất cả chúng ta. Thể
xác tôi sẽ nằm tại chỗ cũ cho đến chiều tối. Kế đó, tôi sẽ đem nó về đây, và
người đoàn viên nọ cũng sẽ ra đi cùng một con đường của các bạn. Y sẽ đến
đây vào đúng lúc. Chúng ta sẽ nghỉ một ngày, rồi đi đến một làng nhỏ cách
đây chừng một ngày đường. Chúng ta sẽ trở lại đây để đón người đoàn viên nọ
và để nghe y tường thuật lại mọi việc. Chúng ta sẽ tụ họp lúc chiều nay tại
nhà trọ và tạm thời chúng ta hăy chia tay.
Chiều đến, chúng tôi tề tựu đông đủ tại nhà trọ. V́ thời tiết lạnh
trên miền núi nên chúng tôi để cửa pḥng khép kín. Th́nh ĺnh đức Tuệ Minh
xuất hiện trong pḥng họp mà không cần mở cửa, và nói:
-Các bạn vừa thấy tôi xuất hiện trong gian pḥng này bằng một cách mà
người ta gọi là nhiệm mầu. Nhưng sự thật, không có ǵ là mầu nhiệm cả. Để
tôi làm một cuộc thí nghiệm nhỏ mà các bạn sẽ tin bởi v́ các bạn có thể nh́n
thấy tận mắt. Mời các bạn hăy bước lại gần. Đây là một cái ly nhỏ đựng nước
mà các bạn vừa múc ở dưới suối lên. Một cục nước đá nhỏ li ti đang tượng
h́nh ở giữa ly nước. Các bạn hăy nh́n xem nó càng lớn dần do sự kết nạp thêm
nhiều cục nước đá khác. Và bây giờ th́ tất cả ly nước đều đông đặc. Tại sao
vậy? Đó là v́ tôi duy tŕ trong chất Tiên Thiên Khí những phân tử trung ương
của chất nước cho đến khi chúng đông đặc lại. Nói một cách khác, tôi đă hạ
thấp những rung động của chúng đến mức làm cho chúng trở thành nước đá, và
những phân tử chung quanh cũng đều đông đặc lại cho đến khi tất cả đều trở
thành một khối nước đá. Nguyên tắc ấy cũng áp dụng cho một ly nước uống, một
bồn nước tắm, một cái ao, hồ, biển, và toàn thể các đại dương trên quả địa
cầu. Nhưng việc ǵ sẽ xẩy ra? Phải chăng tất cả sẽ đông đặc lại, nhưng v́
mục đích ǵ? Không v́ mục đích ǵ cả. Bởi nguyên động lực nào? Đó là sự vận
chuyển một định luật thiên nhiên, nhưng nhằm sự ích lợi ǵ? không có lợi ích
ǵ cả.
Nếu tôi vẫn cứ tiếp tục cho đến cùng, việc ǵ sẽ xẩy đến? Sự phản
ứng. Phản ứng vào ai? Vào tôi. Tôi biết rơ luật Trời. Điều mà tôi gây ra sẽ
dội ngược trở lại vào tôi cũng chắc chắn như là khi tôi gây nó ra vậy. Bởi
đó, tôi chỉ gây những điều lành, và điều lành sẽ trở lại với tôi. Các bạn
thấy rằng nếu tôi cứ tiếp tục gây sự giá lạnh chung quanh tôi, sự đông giá
sẽ phản ứng vào ḿnh tôi trước khi tôi kết thúc, và tôi sẽ bị chết cóng, đó
là cái kết quả mà tôi gặt hái được do việc làm của ḿnh. Trái lại nếu tôi
chỉ làm việc lành, tôi sẽ gặt hái kết quả của việc lành ấy một cách trường
cửu.
Sự xuất hiện của tôi chiều nay trong gian pḥng này có thể giải thích
một cách tương tự. Trong gian pḥng nhỏ của tôi ở, tôi đă nâng cao những
rung động của thể xác tôi cho đến khi nó trở về chất Tiên Thiên Khí và tôi
giữ nó ở đó. Đó tức là tôi trả cái Thể Xác tôi lại cho thiên nhiên, là cái
kho chứa đựng mọi tinh lực vật chất. Kế đó, do bởi ư chí thiêng liêng (Atma)
tôi giữ cái Thể Xác tôi trong tư tưởng cho đến khi tôi hạ thấp những rung
động của nó và để cho nó tượng h́nh trở lại ngay trong gian pḥng này mà bây
giờ các bạn có thể nh́n thấy. Có ǵ là bí mật đâu? Phải chăng tôi đă xử dụng
cái quyền năng, hay cái định luật mà Thượng Đế đă ban cho tôi xuyên qua cái
Chân Ngă linh diệu? Cái Chân Ngă đó phải chăng là anh, là tôi, là tất cả
nhân loại? Có sự mầu nhiệm nào đâu? Quả thật là không có.
Các bạn vừa thấy những ǵ đă được thực hiện ở đây, và các bạn c̣n
đang ngờ vực chính đôi mắt của ḿnh, tôi không trách các bạn điều đó. Tôi
nh́n thấy trong tư tưởng các bạn có vài người đang nghĩ rằng đây chắc là một
cuộc thôi miên. Như vậy là trong số các bạn có người không tin rằng họ có
thể sử dụng tất cả những khả năng thiên phú của Thượng Đế ban cho mà họ vừa
thấy biểu lộ lúc chiều nay. Phải chăng họ tin rằng tôi đă chế ngự tư tưởng
hay thị giác của họ? Phải chăng các bạn tin rằng tôi đă làm một cuộc thôi
miên tập thể v́ tất cả các bạn đều thấy những ǵ xảy ra? Các bạn có nhớ
chăng trong Thánh Kinh có thuật lại rằng Đức Jesus đă từng xuất hiện trong
một gian pḥng mà các cửa đều đóng kín? Tôi đă làm y như Ngài. Các bạn có
thể nghĩ rằng Đức Jesus, bậc đại giáo chủ, lại cần phải dùng đến phép thôi
miên hay sao? Ngài đă dùng các quyền năng mà Thượng Đế ban cho Ngài, như tôi
đă làm chiều nay. Tôi không có làm ǵ mà mỗi người trong các bạn đều không
thể làm được. Và không phải chỉ có các bạn mà thôi đâu. Mỗi người sinh ra
trên thế gian này đều có những quyền năng tương tự. Tôi ước mong sao tất cả
đều rơ ràng minh bạch trong tư tưởng của các bạn. Các bạn là những nhân vật
có cá tính, chứ không phải là những người thụ động, vô tri giác. Các bạn có
quyền tự do ư chí của ḿnh. Đức Jesus không cần phải thôi miên ai cả và
chúng tôi cũng thế. Các bạn hăy cứ nghi ngờ chúng tôi bao nhiêu tùy ư, cho
đến khi nào các bạn đă dứt khoát tư tưởng. Nhưng bây giờ, th́ các bạn hăy
gạt bỏ ư nghĩ về sự thôi miên, hoặc ít nhất hăy để yên nó một chỗ cho đến
khi các bạn đă đi sâu vào vấn đề. Chúng tôi chỉ yêu cầu các bạn hăy giữ một
tinh thần cởi mở...
*
Cuộc di chuyển sắp tới của chúng tôi là một chuyến khứ hồi theo chiều
ngang (chúng tôi c̣n trở về chỗ cũ trước khi tiến xa hơn nữa). Bởi đó chúng
tôi để lại tại chỗ các đồ hành lư và sáng ngày hôm sau chúng tôi lên đường
đi đến một làng nhỏ ở cách đó chừng ba mươi lăm cây số. Chỉ có Dật Sĩ đi
theo chúng tôi. Con đường ṃn rất quanh co, khúc khuỷu, và đôi khi rất khó
theo dơi xuyên qua rừng rậm. Vùng này là một vùng núi non cheo leo hiểm trở,
và con đường ṃn này dường như không có người đi.
Đôi khi chúng tôi phải mở đường đi xuyên qua những đám nho rừng. Mỗi
lần chậm trễ, Dật Sĩ tỏ vẻ bực bội. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên về điều đó
v́ y thường là người rất b́nh tĩnh trong mọi việc. Đó là lần đầu tiên và
cũng là lần chót trong khoảng thời gian ba năm rưỡi sống chung giữa chúng
tôi, mà y đă mất sự b́nh tĩnh. Về sau chúng tôi mới hiểu lư do.
Chúng tôi đi đến mục tiêu ngay chiều hôm ấy, vừa mệt vừa đói, v́
chúng tôi đă đi suốt ngày, chỉ nghỉ có một lúc ngắn để ăn buổi trưa.
Nửa giờ trước khi mặt trời lặn, chúng tôi bước vào làng nhỏ, làng này
có độ hai trăm dân cư. Khi họ nghe nói có Dật Sĩ đi theo trong đoàn du
khách, tất cả dân làng già trẻ bé lớn, đem theo cả thú vật nhà, đều ra tiếp
đón chúng tôi.
Tuy rằng chúng tôi là mục tiêu sự ṭ ṃ của dân làng, nhưng sau đó
chúng tôi nhận thấy rằng sự chú ư của họ tập trung vào Dật Sĩ. Mỗi dân làng
đều chào Dật Sĩ một cách tôn kính. Sau khi y đă nói vài lời, phần nhiều dân
làng đều trở về với công việc hằng ngày của họ. Dật Sĩ hỏi xem chúng tôi có
muốn đi theo y chăng, trong khi người ta dựng lều cắm trại để nghỉ ban đêm.
Năm người trong chúng tôi trả lời rằng họ muốn ở lại để nghỉ ngơi sau một
ngày mệt nhọc. Những người khác và vài dân làng đi theo Dật Sĩ đến tận ven
rừng ở chung quanh làng.
Chúng tôi đi sâu vào rừng, và không bao lâu, chúng tôi thấy có một
người nằm sóng sượt dưới đất. Thoạt tiên chúng tôi tưởng rằng đó là một xác
chết, nhưng nh́n kỹ chúng tôi nhận thấy đó là tư thế nằm của một người đang
ngủ chứ không phải là một tử thi. Gương mặt người ấy lại là Dật Sĩ, điều này
làm cho chúng tôi lặng người v́ kinh hoàng! Th́nh ĺnh, trong khi Dật Sĩ
bước đến gần, th́ Thể Xác ấy cử động và đứng dậy. Thể Xác ấy và Dật Sĩ đứng
đối diện với nhau trong một lúc. Không thể nào có sự lầm lẫn được nữa: cả
hai người đều là Dật Sĩ! Rồi bỗng nhiên, chàng Dật Sĩ đi theo chúng tôi biến
mất, và chỉ c̣n có một người đứng trước mặt chúng tôi. Sự việc ấy diễn ra
rất mau chóng,
và điều lạ lùng là không ai hỏi điều ǵ cả.
Lúc ấy, năm người c̣n ở lại sau cũng vừa chạy đến nơi, mà không ai
kêu họ đến. Về sau, chúng tôi hỏi tại sao họ đến nơi, th́ họ trả lời:
-Chúng tôi không biết. Chúng tôi chỉ nhớ lại rằng chúng tôi đang chạy
đến đây với các anh. Chúng tôi không nhớ rằng có ai kêu gọi chúng tôi đến.
Chúng tôi chỉ thấy rằng ḿnh đang chạy, và chúng tôi chỉ thấy rằng ḿnh đang
chạy, và chúng tôi đă chạy xa trước khi biết rằng ḿnh đang làm ǵ.
Một người trong chúng tôi kêu lên:
-Đôi mắt tôi mở lớn đến nỗi tôi nh́n thấy cơi giới bên kia cửa Tử.
Biết bao nhiêu điều mầu nhiệm lạ lùng được tiết lộ cho tôi, làm cho tôi
không kịp suy nghĩ ǵ cả.
Một người khác nói:
-Tôi thấy toàn thể thế giới đă thắng đoạt được Tử Thần. Khi đó một
câu trong sách hiện ra trong trí tôi một cách rơ ràng và sáng chói: "Kẻ
thù cuối cùng của loài người, Sự Chết, sẽ bị loại trừ". Phải chăng những
lời này đă được thực hiện? Chúng ta có một trí khôn rất tầm thường nhỏ nhen
so với cái quan niệm lớn lao vĩ đại đó, tuy vậy nó thật là giản dị biết bao.
Và chúng ta đă dám tự cho ḿnh là những khối óc thông minh tuyệt vời. Chúng
ta chỉ là những phường trẻ con. Tôi bắt đầu hiểu những lời này: "Các
ngươi phải tái
sinh trở lại".
Những lời này thiệt là chí lư biết bao!
Độc giả có thể tưởng tượng sự ngạc nhiên và ngơ ngác của chúng tôi.
Đây là một người đă đi cùng với chúng tôi và giúp đỡ chúng tôi hằng ngày,
người ấy lại có thể nằm phơi ḿnh trên mặt đất để bảo vệ cho một thôn ấp và
đồng thời tiếp tục công việc phụng sự một cách chu đáo và toàn hảo ở một nơi
khác. Chúng tôi bị bắt buộc phải nhớ lại
câu nói trong Thánh Kinh: "Người
cao cả nhất trong các ngươi, là người nào dốc ḷng phụng sự kẻ khác". Kể
từ khi đó, tất cả chúng tôi không ai c̣n sợ chết nữa.
Dân bổn xứ có thói quen đặt một xác người nằm trong rừng rậm trước
một thôn ấp, khi mà trong vùng có nạn xâm lăng quấy nhiễu bởi những phần tử
bất hảo đi hai chân hoặc bốn chân. Nhờ đó, làng mạc khỏi bị trộm cướp hay
thú dữ khuấy phá, và được an toàn như ở giữa nơi đô thị. Thể Xác của Dật Sĩ
hiển nhiên là đă nằm tại đó trong một trong một thời gian rất lâu.
Đầu
tóc của y đă mọc loạn xạ và có chứa những ổ chim, đó là một loại chim nhỏ
đặc biệt của vùng này. Giống chim này đă làm tổ trên đầu y, nuôi những chim
non cho đến khi chúng lớn lên và bay đi mất; đó là cái bằng chứng tuyệt đối
về thời gian mà xác thân của Dật Sĩ đă nằm yên bất
động tại đó. Giống chim này rất nhát gan, mỗi cử động nhẹ cũng làm cho chúng
sợ sệt và dọn ổ đi nơi khác. Điều này chứng tỏ rằng chúng đă đặt sự mến yêu
và tin cậy vào nơi chúng đă làm ổ.
Giống cọp núi ăn thịt người gieo tai họa khủng khiếp trong đám dân
làng đến nỗi đôi khi họ bỏ hết mọi sự chống cự và tin rằng định mệnh của họ
là bị cọp ăn. Giống cọp này đột nhập vào làng xóm và chọn mồi để ăn thịt.
Chính ở trước một thôn ấp này, ở giữa chốn rừng sâu hoang vắng, mà chúng tôi
nh́n thấy Thể Xác của một người
khác cũng nằm dưới đất v́ mục đích bảo vệ xóm làng. Dân làng này đă bị cọp
ăn thịt mất gần hai trăm người. Chúng tôi thấy một trong những con cọp này
bước đi một cách vô cùng thận trọng ngang qua chân của Thể Xác nằm dưới đất.
Hai người trong chúng tôi quan sát
cái Thể Xác này trong gần ba tháng. Khi họ rời khỏi làng, Thể Xác ấy vẫn c̣n
nằm yên tại chỗ và không có một tai nạn ǵ xảy đến cho dân làng. Chính người
này về sau đă tháp tùng với phái đoàn chúng tôi trong chuyến hành tŕnh sang
Tây Tạng.
Đêm đó, trong trại chúng tôi có một sự xúc động mănh liệt
đến nỗi không ai nhắm mắt ngủ được, trừ ra Dật Sĩ. Y ngủ thẳng giấc như một
đứa trẻ nhỏ. Thỉnh thoảng, một người trong chúng tôi ngồi dậy nh́n xem y ngủ,
rồi lại nằm xuống và nói với người nằm bên cạnh.
-Anh hăy véo tôi một cái để xem có phải thật là tôi đang tỉnh giấc
hay không!
*
V́ chúng tôi có rất nhiều công việc phải hoàn thành trước khi vượt
qua dăy Tuyết Sơn, nên làng Asmah là nơi căn cứ tốt nhất của chúng tôi.
Người bạn mà chúng tôi đă để lại ở Potal để quan sát đức Tuệ Minh cũng đă về
đến nơi. Y thuật lại rằng y đă nói chuyện với đức Tuệ Minh cho đến gần bốn
giờ chiều ngày mà Ngài hẹn có mặt tại chỗ đến tiếp đón chúng tôi ở Asmah.
Vào lúc đó đức Tuệ Minh nói rằng Ngài phải đi ngay đến chỗ hẹn. Thể Xác Ngài
bèn trở nên cứng đơ, nằm yên như người ngủ trên nệm. Ngài nằm trên tư thế đó
độ chừng ba tiếng đồng hồ, cái Thể Xác trở nên lu mờ dần và biến mất. Đó là
giờ phút mà đức Tuệ Minh tiếp đón chúng tôi vào buổi chiều tại quán trọ làng
Asmah.
Mùa này chưa thuận tiện để cho chúng tôi vượt qua các truông núi.
Ba
người bạn cao cả của chúng tôi có thể vượt qua các đoạn đường núi một cách
dễ dàng và mau chóng hơn chúng tôi nhiều, nhưng không có vị nào phàn nàn về
sự chậm trễ này. Tôi gọi các vị ấy là cao cả, bởi v́ họ thật sự xứng đáng
với danh từ ấy do đức hạnh của họ.
Tại Asmah, chúng tôi đă xuất hành nhiều lần đi ra các vùng chung
quanh, có khi th́ đi với Dật Sĩ, có khi đi với Nê Bưu. Mỗi lần như vậy, họ
đều chứng tỏ những đức tính quư báu. Một trong những chuyến ngao du này nhằm
mục đích viếng thăm một làng trong đó có một ngôi đền gọi là Đền Im Lặng.
Làng này gồm có ngôi đền và nhà cửa của những người giúp việc công quả trong
đền. Trước kia, vùng này là nơi tọa lạc của một làng khác đă hầu như hoàn
toàn bị tàn phá bởi các bịnh truyền nhiễm và loài thú dữ. Đức Tuệ Minh, dật
Sĩ, Nê Bưu cùng đi với chúng tôi và nói cho chúng tôi biết rằng thuở xưa kia
khi các Chân Sư đến viếng nơi này, các Ngài chỉ thấy có một thiểu số lưa
thưa những người c̣n sống sót trong số ba ngàn dân cư trong làng. Các Ngài
săn sóc họ, và sau đó những thú dữ và bịnh tật đều biến mất. Những kẻ sống
sót mới cầu nguyện rằng trong trường hợp họ được b́nh yên, họ sẽ xin lập
công quả suốt đời và phụng sự trong bất cứ công việc nào do Thượng Đế sắp
đặt. Các Chân Sư bèn ra đi, và về sau khi các Ngài trở lại, các Ngài thấy
ngôi đền này được dựng lên và những dân làng sống sót trước kia chăm lo việc
công quả thờ phượng trong đền.
Đó là một ngôi đền rất đẹp, xây trên một ngọn đồi cao, ngự trị khắp
vùng chung quanh. Đền xây bằng đá trắng và đă có từ sáu ngàn năm nay. Nó
không bao giờ cần có một sự tu bổ nào.
Đức Tuệ Minh nói:
-Đây là ngôi Đền Im Lặng, tức là nơi chỗ của Quyền Năng, khi chúng ta
đạt tới
chỗ im lặng trong tư tưởng, chúng ta đến tại chỗ của quyền năng, nơi đó tất
cả đều là sự hợp nhất, một quyền năng duy nhất, tức là Thượng Đế vậy. Quyền
năng hao tán là động, quyền năng tập trung là tĩnh. Khi ta tập trung mọi sức
mạnh vào một trung tâm tinh lực duy nhất, chúng ta tiếp xúc với Thượng Đế
trong im lặng. Chúng ta hợp nhất với Ngài và do đó hợp nhất với mọi quyền
năng. Đó là cái gia tài thừa kế của con người: "Thượng
Đế và tôi chỉ là một".
Phương pháp duy nhất để hợp nhất với quyền năng của Thượng Đế là tiếp
xúc một cách ư thức với Thượng Đế.
Điều này không thể thực hiện được từ bên ngoài, v́ Thượng Đế xuất
phát từ bên trong nội tâm.
Chúng ta hăy từ bỏ ngoại cảnh để quay về sự yên tĩnh của nội tâm. Nếu
không như vậy, chúng ta không thể hy vọng hợp nhất
một cách ư thức với Thượng Đế. Chúng ta sẽ hiểu rằng quyền năng của
Ngài cũng ở trong tầm tay chúng
ta, và chúng ta sẽ luôn luôn sử dụng quyền năng ấy. Chừng đó, chúng ta sẽ
biết rằng chúng ta hợp nhất với quyền năng của Ngài và chúng ta sẽ cảm thông
với nhân loại. Con người sẽ từ bỏ những ảo giác của ḷng tự ái, sẽ nhận thức
được sự vô minh và hèn kém của ḿnh, và sau cùng sẽ sẵn sàng chịu học hỏi. Y
sẽ thấy rằng người ta không thể truyền dạy điều ǵ cho những kẻ kiêu căng tự
phụ, và chỉ có những người có ḷng khiêm tốn nhỏ nhoi mới có thể hiểu được
Chân Lư.
Hai
chân y sẽ đứng vững trên một nền tảng cứng rắn, y sẽ không c̣n hoang mang
bấp bênh nữa, y sẽ có ư thức về sự quân b́nh và ḷng cương nghị...
Thượng Đế không nghe những lời cầu xin tuôn tràn như suối của chúng
ta, cũng không nghe những lời kêu gọi thiết tha ầm ĩ lập đi lập lại nhiều
lần một cách vô ích. Chúng ta phải t́m kiếm Ngài bằng cái Chân Ngă trong nội
tâm, đó là sự liên lạc vô h́nh giữa ta với Ngài mà ta vốn có sẵn ở tự nơi
ḿnh. Ngài nghe lời kêu gọi của linh hồn chân thành cởi mở để tiếp đón Ngài,
nếu người cầu xin biết sùng kính Ngài bằng tâm hồn và trong im lặng. Người
nào tiếp xúc với Thượng Đế trong âm thầm sẽ nhận biết được quyền năng của
Ngài do sự thực hiện được tất cả những điều mong ước của họ. V́ Thượng Đế
công khai ban thưởng cho kẻ nào t́m kiếm Ngài trong chỗ thâm sâu kín đáo của
tâm hồn.
Trong một cơn linh ảnh hiện ra trước mắt Đức Jesus trong băi sa mạc,
Ngài thấy "các cơi Trời rộng mở"
và thấu hiểu cái định luật "biểu lộ",
theo đó những ư niệm có sẵn trong Tư Tưởng Thiêng Liêng sẽ xuất hiện ra
để biểu lộ trong những h́nh thể sắc tướng. Luật này được tiết lộ cho Ngài
một cách hoàn toàn, đến nỗi Ngài thấy rằng Ngài có thể biến đổi tất cả mọi
h́nh thể bằng cách điều chỉnh những trạng thái tâm thức của ḿnh đối với
chúng.
Trước hết Ngài có ư muốn biến đổi những ḥn đá tảng thành bánh ḿ để
ăn cho dịu bớt cơn đói ḷng. Nhưng trong khi đó, Ngài cũng tiếp nhận được sự
diễn đạt đúng đắn về "luật biểu lộ".
Các viên đá tảng, cũng như tất cả mọi vật hữu h́nh, đều xuất xứ từ cái
Chất Liệu của Tư Tưởng Thiêng Liêng, tức là Thượng Đế. Chúng nó là những
biểu lộ thật sự của Tư Tưởng của Ngài. Mọi vật mà ta mong muốn, nhưng chưa
h́nh thành, vẫn có sẵn trong chất Tiên Thiên Khí, nó sẵn sàng
cung cấp vật liệu cho cơ Sáng Tạo, sẵn sàng tự biểu hiện ra ngoài để thỏa
măn mọi điều ước vọng của con người. Sự cần dùng bánh ḿ để chứng minh rằng
cái chất liệu để làm bánh ḿ dùng để chứng minh rằng cái chất liệu để làm
bánh ḿ vốn ở trong tầm tay của ta và có sẵn với những số lượng vô biên bất
tận. Cái chất liệu đó, nó vốn là tinh hoa của mọi vật, có thể tự biến đổi
thành đá tảng hay thành bánh ḿ.
Khi con người mong ước điều lành, sự mong ước của y cùng là một với
sự mong ước của Thượng Đế. Kho Chất Liệu Thiên Nhiên, hay Tiên Thiên Khí bao
bọc chung quanh chúng ta, có chứa đựng một nguồn tài nguyên vô tận để làm
thỏa măn tất cả mọi sự mong ước tốt lành. Chúng ta chỉ cần tập sử dụng lấy
những ǵ mà Thượng Đế sáng tạo ra trước cho chúng ta. Ngài muốn rằng chúng
ta hăy sử dụng cái kho thiên nhiên đó để vượt qua mọi giới hạn vật chất của
ḿnh và trở nên "tự do trong sự sung
măn..."
CHƯƠNG HAI
Quyền năng Sáng Tạo và tâm thức Bồ Đề- Thuật đi trên mặt nước- Ngôi
Đền Chữa Bịnh- Phép chuyển di tư tưởng- Những sơn nhân "Người Tuyết"
I
Bận về, chúng tôi thấy có một số đông những người lạ tề tựu tại làng Asmah.
Họ đến từ những vùng
chung quanh. Một số các vị Chân Sư đă tựu họp lại để sắp sửa đi hành hương
đến một làng hẻo lánh cách đó gần 400 cây số. Điều này làm chúng tôi ngạc
nhiên, v́ chúng tôi đă đi xuất hành một chuyến về hướng ấy và nhận thấy rằng
cách đấy 120 cây số, con đường ṃn đi ngay vào một băi sa mạc hoang vu. Băi
sa mạc này thật ra là một vùng cao nguyên bao phủ bởi những cồn
cát di động luôn luôn dưới những cơn gió lớn, và ở đó cỏ cây rất thưa thớt.
Bên kia đồng cát, con đường ṃn vượt lên một dăy núi nhỏ trong dăy Tuyết
Sơn. Chiều hôm đó, chúng tôi được mời cùng đi trong chuyến hành hương, và sẽ
lên đường vào ngày thứ hai kế đó. Chúng tôi được cho hay trước rằng không
cần đem theo những đồ hành lư nặng v́ chúng tôi sẽ c̣n trở về Asmah trước
khi vượt qua dăy Tuyết Sơn.
Dật Sĩ và Nê Bưu dĩ nhiên là đă chuẩn bị tất cả mọi việc, và ngày thứ
hai lúc trời c̣n chưa sáng, chúng tôi đă nhập bọn với ba trăm đoàn viên của
nhóm người hành hương. Phần nhiều những người này bị đau v́ những bịnh tật
mà họ hy vọng sẽ được chữa khỏi trong chuyến đi này. Mọi việc đều trôi chảy
êm đẹp cho đến ngày thứ bảy, trời th́nh ĺnh nổi lên một cơn giông băo dữ
dội nhất mà chúng tôi chưa từng thấy bao giờ. Trong ba ngày và ba đêm, những
cơn mưa lũ rơi xuống không dứt, báo hiệu sắp đến mùa hè. Chúng tôi cắm trại
ở một nơi cao ráo sạch sẽ, và cơn giông không gây cho chúng tôi một sự trở
ngại nào. Chúng tôi lo ngại nhất là vấn đề tiếp liệu, v́ chúng tôi biết rằng
một sự tŕ hoăn kéo dài sẽ rất bất tiện cho tất cả mọi người.
Thật vậy, những người này chỉ đem theo một số lương thực tối thiểu,
vừa đủ dùng cho chuyến hành hương, và không có pḥng bị những trường hợp tŕ
hoăn có thể xảy đến. Sự tŕ hoăn này lại càng nghiêm trọng gấp đôi, v́ chúng
tôi không thấy có giải pháp nào khác hơn là quay trở về Asmah để tiếp tế
lương thực. Trong trường hợp này, chúng tôi phải vượt qua hai trăm cây số
đường trường, mà phần lớn đi xuyên qua băi sa mạc như đă nói ở trên.
Sáng ngày thứ năm, mặt trời chói rạng trên một bầu trời quang đăng,
và chúng tôi quyết định lên đường. Nhưng người ta cho hay là tốt hơn chúng
tôi nên đợi cho đường khô ráo và mực nước sông giựt xuống thấp, để chuyến đi
được dễ dàng hơn. Một người trong chúng tôi bày tỏ nỗi lo ngại chung của tất
cả mọi người là lương thực sẽ cạn. Đức Tuệ Minh là vị đảm trách việc tiếp
liệu, bèn nói với chúng tôi:
-Không cần phải lo ngại chi cả. Thượng Đế há chẳng săn sóc tất cả
chúng sinh, lớn cũng như bé, và chúng ta há chẳng phải là chúng sinh của
Ngài hay sao? Các bạn hăy nh́n xem những hột giống lúa ḿ này. Tôi trồng nó
xuống đất. Cử chỉ đó xác nhận rằng tôi cần dùng lúa ḿ, tôi đă tạo lúa ḿ
trong trí tôi. Tôi đă làm đúng theo định luật tự nhiên và lúa ḿ sẽ mọc đúng
vào thời kỳ của nó. Phương pháp trồng lúa ḿ theo luật tự nhiên rất lâu dài
và khó nhọc. Chúng ta cần phải chịu khó chờ đợi lâu lắc như vậy chăng?
Tại sao không kêu gọi đến một định luật cao siêu và toàn vẹn hơn để
làm cho lúa ḿ mọc lên mau lẹ? Người ta chỉ cần định thần một lát trong sự
yên tĩnh, quan niệm rơ lúa ḿ trong tư tưởng, và đây là những hột lúa ḿ sẵn
sàng để đem xay giă. Nếu các bạn nghi ngờ, các bạn hăy lượm lấy nó, xay nó
ra thành bột, và nướng lên thành bánh. Thật vậy, trước mặt chúng ta có lúa
ḿ đă đập xong, chúng ta chỉ cần đem xay ra bột và làm bánh ḿ.
Đức Tuệ Minh nói tiếp:
-Các bạn đă thấy và đă tin. Nhưng tại sao chúng ta không kêu gọi đến
một định luật c̣n toàn vẹn hơn nữa và sản xuất một vật c̣n toàn vẹn hơn,
nghĩa là đúng cái món ăn mà ta cần dùng, tức là bánh ḿ! Các bạn sẽ
thấy rằng cái định luật toàn vẹn hơn, tế nhị hơn ấy, sẽ giúp cho tôi làm ra
đúng cái món ăn mà tôi cần: đó là bánh ḿ.
Trong khi chúng tôi ngồi nghe một cách thích thú, th́ một ổ bánh ḿ
lớn xuất hiện trên tay đức Tuệ Minh, rồi nhiều ổ nữa mà Ngài đặt lên bàn cho
đến khi chúng tôi đếm tất cả bốn chục ổ. Đức Tuệ Minh nói:
-Các bạn thấy rằng có đủ bánh ḿ cho tất cả mọi người. Nếu ăn không
đủ, th́ sẽ có những ổ khác nữa cho đến khi chúng ta ăn c̣n dư thừa.
Tất cả chúng tôi đều ăn bánh ḿ đó và thấy nó rất ngon. Đức Tuệ Minh
lại nói tiếp:
-Khi Đức Jesus hỏi Thánh Philips ở thành Galilée: "Chúng
ta sẽ mua bánh ḿ ở đâu?" Th́ đó là để thử thách vị môn đồ. Đức Jesus
biết rơ rằng bánh ḿ mà đám quần chúng đang cần dùng không cần phải mua ở
ngoài chợ hay ở các thị trường thương măi. Ngài mượn dịp đó để chỉ các môn
đồ thấy rằng người ta có thể tạo ra bánh ḿ bằng sức mạnh của Tinh Thần.
Người đời thường có cái quan niệm vật chất như Philips! Vị môn đồ này cũng
tính như mọi người: "Ta có bấy nhiêu
bánh ḿ, bấy nhiêu lương thực, hay bấy nhiêu tiền bạc..."
Đức Jesus biết rằng khi người ta sống với tâm thức Bồ Đề hay sống với tâm
thức của Chân Ngă, th́ người ta
không c̣n bị thiếu thốn hay g̣ bó trong một sự giới hạn nào cả. Ngài nh́n về
Thượng Đế là Nguồn Gốc và đấng Sáng Tạo ra muôn loài và tạ ơn Ngài đă luôn
luôn đặt trong tầm tay của loài người cái quyền năng và chất liệu cần thiết
để thỏa măn tất cả những nhu cầu của họ. Ngài bèn bẻ bánh ḿ và bảo các môn
đồ hăy phân phát cho tất cả mọi người. Khi tất cả mọi người đều đă ăn no,
th́ hăy c̣n thừa tới mười hai rổ bánh. Đức Jesus dạy rằng trong Tiên
Thiên Khí có chứa đựng chất liệu để làm đủ mọi vật, và người ta có thể t́m
ra lương thực của ḿnh từ trong đó. Chúng ta chỉ cần rút cái chất liệu ấy ra
để tạo nên mọi thứ cần dùng.
Cũng bằng cách đó mà Elisée làm cho người quả phụ thành Jérusalem có
dầu để ăn thừa thăi không bao giờ hết. Ngài không hỏi đến kẻ có thừa dầu ăn
trong nhà, v́ như thế số dầu chỉ có giới hạn. Ngài tiếp xúc với cơi Thiên
Nhiên, và số dầu tạo ra không có giới hạn nào khác hơn là dung lượng của
những b́nh chứa. Nếu người ta có đủ số lu, b́nh, vại để chứa, th́ có lẽ đến
bây giờ, dầu ấy vẫn c̣n chảy chưa hết!
Đức Tuệ Minh nói tiếp:
-Đây không phải là một cuộc thôi miên. Không có người nào trong các
bạn đă có cảm giác rằng ḿnh bị thôi miên. Nhưng các bạn đă tự thôi miên lấy
ḿnh từ lúc đầu bằng cách tin tưởng rằng người ta không thể nào thực hiện
công việc toàn vẹn của Thượng Đế, hay tạo nên những đồ vật mà ḿnh mong ước.
Sự nhu cầu phải chăng cũng là ư muốn sáng tạo? Thay v́ vươn ḿnh lên để sáng
tạo theo như ư muốn của Thượng Đế, người ta tự thu ḿnh trong một cái ṿng
chật hẹp và nói: "Tôi không thể".
Do sự tự kỷ ám thị đó, rốt cuộc người ta tin rằng ḿnh là một thực thể cách
biệt với Thượng Đế. Họ đă đi lệch ra ngoài con đường toàn vẹn, họ đă bỏ lỡ
mất cái mục đích sáng tạo. Họ không để cho Thượng Đế để tự biểu lộ xuyên qua
họ như Ngài muốn.
Đức Jesus, bậc đại giáo chủ, há chẳng nói rằng:
"Những việc ǵ mà ta đă làm,
các ngươi cũng sẽ làm được, và các ngươi c̣n sẽ làm được những việc lớn lao
hơn nữa".
Con người trong cương vị chân thật của họ, là con của Thượng Đế, sứ
mạng của Đức Jesus trên thế
gian phải chăng là để chứng tỏ rằng trong cương vị đó, con người cũng có thể
sáng tạo một cách toàn hảo và tốt đẹp như Thượng Đế? Khi Đức Jesus ra lịnh
cho người mù hăy đứng dậy rửa mắt y trong nước ao Siloé, phải chăng là để
cho đám quần chúng thấy rằng Ngài được Chúa Trời gửi xuống thế gian để sáng
tạo cũng y như Chúa Trời vậy? Đức Jesus muốn rằng mỗi người trong chúng ta
cũng làm y như vậy bằng cách thực hiện Chân Ngă nơi ḿnh và nơi kẻ khác.
Tôi có thể tiến thêm một bước xa hơn nữa. Cái ổ bánh mà tôi nhận được
và cầm trên tay đă tiêu hủy dường như bị lửa đốt cháy. Tại sao? Tôi đă lạm
dụng cái định luật huyền bí nó đă giúp tôi thể hiện ư muốn. Tôi đă đốt cháy
món đồ vật mà tôi vừa sáng tạo nên. Làm như vậy, tôi đă lạm dụng cái định
luật toàn vẹn đó, định luật này cũng đúng đắn như những luật của âm nhạc
chẳng hạn. Nếu tôi cứ tiếp tục lạm dụng hoài, th́ không những luật ấy sẽ đốt
cháy những vật tôi đă tạo nên, mà c̣n đốt cháy thiêu luôn cả người sáng tạo,
là chính tôi nữa.
Mới đây, các bạn đă thấy một cục nước đá tượng h́nh trong ly nước mà
không có nguyên nhân rơ rệt. Tuy vậy, vẫn có một nguyên nhân đă tạo nên ổ
bánh ḿ. Tôi có thể sử dụng cái định luật huyền bí đó khi mà tôi dùng ổ bánh
ḿ hay khối nước đá để làm việc lợi ích cho nhân loại, hay là khi mà tôi
hành động với t́nh thương,phù
hợp với luật ấy, hoặc là khi mà tôi biểu lộ sự hành động của tôi theo ư muốn
của Thượng Đế. Làm ra bánh ḿ, nước đá hay một vật mà ḿnh mong ước, là điều
tốt. Mỗi người nên đi mau đến nơi chỗ mà người ta có thể làm những vật ấy.
Các bạn có thấy là các bạn nên sử dụng cái định luật cao cả nhất, tức là
luật tuyệt đối của Thượng Đế chăng? Các bạn sẽ tạo nên những ǵ mà các bạn
cần dùng và thực hiện được những ǵ mà các bạn đă quan niệm sẵn trong trí
như là cái lư tưởng cao đẹp nhất của ḿnh. Các bạn sẽ được đẹp ḷng Thượng
Đế hơn bằng cách tự biểu lộ toàn vẹn hơn với điều kiện là phải biết, cũng
như Đức Jesus, rằng ḿnh là những người con toàn hảo của Thượng Đế.
II
Sau tám ngày dừng chân một chỗ, một buổi sáng chúng tôi dỡ trại và
tiếp tục lộ tŕnh. Vào lúc xế trưa ngày thứ ba, chúng tôi đến bờ một con
sông lớn chừng sáu hay bảy trăm thước bề rộng, nước chảy tràn bờ với một tốc
lực
rất mau chóng. Chúng tôi được cho biết rằng là lúc b́nh thường, v́ ḷng sông
cạn đáy nên người ta có thể đi bộ qua sông dễ dàng. Chúng tôi bèn quyết định
cắm trại cho đến sáng ngày hôm sau để chờ xem nước sẽ c̣n dâng lên hay giựt
xuống.
Chúng tôi được biết rằng người ta có thể đi qua một chiếc cầu ở phía
thượng lưu gịng nước để vượt qua sông, nhưng phải đi ṿng quanh mất bốn
ngày trên những con đường ṃn rất cheo leo hiểm trở. Chúng tôi nghĩ rằng nếu
phải chờ nước giựt xuống, th́ tốt hơn nên đợi vài ngày ở tại chỗ. Như đă
được đức Tuệ Minh chứng tỏ cho thấy, chúng tôi không cần phải lo ngại về vấn
đề tiếp tế. Thật vậy, từ ngày chúng tôi bị cạn lương thực cho đến ngày trở
về căn cứ điểm ở Asmah, tức là trong sáu mươi bốn ngày, tất cả đoàn gồm trên
ba trăm người hành hương
đều được tiếp tế đầy đủ với những đồ vật thực sự xuất xứ từ "cơi
vô h́nh".
Cho đến khi đó, không một ai trong nhóm chúng tôi đă hiểu ư nghĩa
thật sự của những sự việc đă xảy ra. Chúng tôi không thể hiểu rằng tất cả đă
được thực hiện do bởi một định luật huyền bí mà mỗi người đều có thể sử
dụng.
Sáng ngày hôm sau, lúc ăn điểm tâm, có năm người lạ ở trong trại
chúng tôi như là thuộc về một nhóm người cắm trại ở bờ bên kia sông và vừa
về đến nơi từ một làng mà chúng tôi định sẽ đến viếng. Chúng tôi không để ư
ǵ đến chi tiết này, v́ lẽ tự nhiên chúng tôi nghĩ rằng chắc là họ đă t́m
thấy một chiếc đ̣ để vượt qua sông. Khi đó một người trong bọn chúng tôi mới
nói:
-Nếu những người này có đ̣ qua sông, th́ tại sao chúng ta không mượn
dùng để tạm qua sông như họ vậy?
Chúng tôi tưởng là đă thấy có lối thoát cho vấn đề khó khăn này,
nhưng người ta nói cho chúng tôi biết rằng không có đ̣ v́ chỗ này ít có hành
khách qua sông nên không ai nghĩ đến việc đưa đ̣.
Sau bữa ăn điểm tâm, tất cả chúng tôi đều tựu họp trên bờ sông. Chúng
tôi nhận thấy rằng đức Tuệ Minh, Dật Sĩ, Nê Bưu và bốn người trong nhóm
chúng tôi đang nói chuyện với năm người khách lạ. Dật Sĩ bước đến gần chúng
tôi và nói rằng tất cả bọn họ đều muốn qua sông cùng với năm người khách lạ
để ở lại chơi giây lát trong trại ở bên kia sông. Họ c̣n nhiều thời giờ v́
họ đă quyết định ở lại đến ngày hôm sau để đợi cho mực nước sông hạ xuống
thấp. Lẽ tự nhiên, sự ṭ ṃ của chúng tôi bị kích thích. Chúng tôi cho rằng
thật là một việc táo bạo mà muốn lội qua sông giữa gịng nước cuốn mau như
vậy, chỉ v́ mục đích thăm viếng xă giao một trại láng giềng! Chúng tôi không
nghĩ rằng chuyến đi qua sông lại có thể thực hiện bằng một cách khác hẳn.
Khi Dật Sĩ đă trở lại nhóm bạn của y, mười hai người trong nhóm có
mặc áo quần đầy đủ, liền đi ngay xuống sông, và bước chân lên trên mặt nước
(tôi không nói xuống nước). Tôi không bao giờ quên những cảm giác của tôi
khi tôi thấy mười hai người ấy nối tiếp nhau đi hàng một từ đất liền xuống
sông và đi trên mặt nước một cách tự nhiên! Tôi nín hơi thở, v́ tôi lo ngại
rằng họ sẽ ch́m đắm và bị gịng nước cuốn trôi đi mất. Về sau tôi được biết
rằng tất cả các bạn tôi cũng đều cảm nghĩ giống như tôi lúc ấy. Nhưng khi
đó, mỗi người trong nhóm chúng tôi đều lặng người nín thở cho đến khi tất cả
mười hai người kia đă đi qua khỏi giữa sông, v́ chúng tôi ngạc nhiên xiết
bao mà thấy họ đi b́nh yên trên mặt nước, không hề sợ sệt, và nước không
ngập quá gót giầy của họ. Khi họ đă qua sông và lên đến bờ bên kia, tôi có
cảm giác như trút được một gánh nặng ngàn cân. Tôi tin rằng các bạn tôi cũng
có cảm giác như vậy, cứ xét về nụ cười thoải mái của họ khi tất cả mười hai
người kia đều đă qua sông. Đó hẳn là một kinh nghiệm chưa từng có đối với
chúng tôi.
Bảy người trong nhóm của chúng tôi đă vượt qua sông trở lại để dùng
bữa ăn trưa. Tuy rằng bận về của họ không gây nên một sự xúc động mănh liệt
như khi họ ra đi lần đầu tiên, mỗi người chúng tôi đều thở dài nhẹ nhơm khi
tất cả đều đă bước chân lên bờ. Không có người nào trong nhóm chúng tôi đă
rời khỏi bờ sông sang ngày hôm đó. Chúng tôi không b́nh phẩm ǵ nhiều về sự
việc nói trên v́ chúng tôi đă quá đắm ch́m trong những cơn suy tư trầm lặng.
Đến xế trưa, v́ thấy mực nước sông không giựt xuống nên chúng tôi
đành phải đi theo đường rừng, đánh một ṿng lớn trước khi qua cầu để sang
sông. Chúng tôi thức dậy sớm vào sáng ngày hôm sau và chuẩn bị lên đường.
Trước khi chúng tôi ra đi, năm mươi hai người trong trại chúng tôi lẳng lặng
tiến về phía bờ sông và đi trên mặt nước để vượt qua sông và đi trên mặt
nước để vượt qua sông như mười hai người ngày hôm trước. Người ta nói cho
chúng tôi biết rằng chúng tôi có thể cùng đi qua sông với họ, nhưng không
một người nào trong nhóm chúng tôi có đủ đức tin để làm thử. Dật Sĩ và Nê
Bưu đ̣i đi ṿng lớn theo đường rừng cùng với chúng tôi. Chúng tôi cố gắng
thuyết phục họ đừng làm vậy, viện lẽ rằng chúng tôi có thể t́m đường đi, để
tránh cho hai vị khỏi phải tốn công nhọc sức. Hai vị không nghe, nhất định
đ̣i đi cùng với chúng tôi, và nói rằng điều ấy không có ǵ là khó nhọc đối
với họ cả.
Trong bốn ngày đi bộ ṿng quanh đường núi cheo leo để theo kịp những
người đă qua sông bằng cách đi trên mặt nước, chúng tôi không có đề tài nói
chuyện hay suy gẫm nào khác hơn là những diễn biến ly kỳ mà chúng tôi đă
chứng kiến trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà chúng tôi đă trải qua cùng
với những nhân vật lạ lùng này. Qua ngày thứ nh́, chúng tôi đang vất vả khó
nhọc để trèo lên một con đường dốc đứng, dưới ánh mặt trời nóng gắt, th́ vị
trưởng nhóm của chúng tôi, vẫn im lặng từ suốt hai ngày qua không nói một
câu nào, th́nh ĺnh nói lớn:
-Này các bạn, tại sao con người lại bị bắt buộc phải ḅ lết trên mặt
đất?
Chúng tôi đồng thanh đáp lại rằng ông ta đă nói lên đúng cái ư nghĩ
của chúng tôi lúc ấy. Vị trưởng nhóm nói tiếp:
-Nếu có những người có thể làm được những ǵ mà chúng ta vừa thấy,
th́ tại sao tất cả lại không thể làm được như vậy? Tại sao con người lại
bằng ḷng chịu ḅ lết trên đất, và không những bằng ḷng thôi, mà bị bắt
buộc phải ḅ và lết? Nếu con người có cái quyền năng chế ngự mọi loài, th́
chắc hẳn là y phải có thể bay cao hơn loài chim. Nếu như vậy, tại sao y
không chứng tỏ quyền năng của ḿnh từ lâu? Đó chắc hẳn là do tư tưởng của
con người. Tất cả đều do cái quan niệm duy vật của con người về bản chất của
ḿnh. Trong tư tưởng của y, con người chỉ có nghĩ rằng y đang ḅ và lết trên
mặt đất thôi. Bởi đó nên y chỉ có thể ḅ và lết!
Dật Sĩ liền chụp ngay lấy cơ hội và nói:
-Ông bạn hoàn toàn có lư, tất cả đều do tâm trạng của con người. Tùy
theo sự cảm nghĩ của con người, mà y bị giới hạn hay toàn năng, tự do hay nô
lệ. Các bạn tưởng rằng những người mà ngày hôm qua các bạn đă thấy đi trên
mặt nước để vượt qua sông và để tránh khỏi con đường đi ṿng quanh vất vả
này, là những người đặc biệt và có được ân huệ thiêng liêng chăng? Không? họ
không khác ǵ các bạn cả. Họ không có được một mảy may quyền năng nào hơn
các bạn cả. Họ không có được một mảy may quyền năng nào hơn các bạn. Họ chỉ
có phát triển quyền năng thiêng liêng của họ bằng cách sử dụng đúng đắn cái
sức mạnh của tư tưởng. Những ǵ các bạn đă thấy chúng tôi làm, các bạn cũng
có thể làm được một cách tự do và hoàn hảo như vậy, bởi v́ tất cả những hành
động của chúng tôi đều ḥa hợp với một định luật thiên nhiên mà mỗi người
đều có thể sử dụng tùy theo ư muốn.
Tới đây câu chuyện chấm dứt. Chúng tôi gặp lại năm mươi hai người đă
vượt qua sông, và cùng nhau đi đến nơi thôn ấp, mục tiêu của chuyến hành
hương.
III
Ngôi Đền Chữa Bịnh nằm ở trong thôn ấp nói trên. Tục truyền rằng từ ngày
dựng lên ngôi đền này, tại đó người ta chỉ có thốt ra những lời nói biểu lộ
ḷng hiếu sinh, t́nh bác ái, và sự bằng an. Những làn âm ba rung động tại
đây có một mănh lực phi thường làm cho phần nhiều khách hành hương được khỏi
bịnh ngay trong khoảnh khắc. Người ta cũng đồn rằng những lời nói biểu lộ
đức hiếu sinh, bác ái và bằng an tại đây được lập đi lập lại nhiều lần và
toát ra từ ngôi đền này từ lâu đến nỗi những âm ba rung động có đủ mănh lực
để phá tan ảnh hưởng của mọi lời nói xung khắc và bất hảo mà người ta thốt
ra tại đây. Điều này cũng tiêu biểu cho sự tác động trong con người. Nếu
người ta lập được thói quen chỉ thốt ra những lời nói có tính cách hiếu sinh,
bác ái, điều ḥa và chí thiện, th́ không bao lâu người ta sẽ không c̣n có
thể thốt ra một lời nói chướng tai nghịch nhĩ nào nữa. Chúng tôi đă thử dùng
những danh từ xấu xa và mỗi lần như vậy đều nhận thấy rằng chúng tôi không
thể nào thốt ra nên lời.
Ngôi đền này là mục tiêu hành hương của những người muốn được chữa
khỏi các chứng bịnh tật. Các vị Chân Sư ở vùng kế cận thường có những cuộc
tựu họp định kỳ tại làng này để tiếp xúc với họ và với những người muốn thừa
cơ hội đó để học Đạo. Ngôi đền được hoàn toàn cống hiến cho việc chữa bịnh
và luôn luôn mở cửa cho công chúng. V́ công chúng không phải lúc nào cũng
được gặp các Chân Sư nên các Ngài khuyên họ hăy lại ngôi đền này mỗi khi có
dịp thuận tiện v́ mục đích chữa bịnh. Bởi đó, các Chân Sư không có chữa bịnh
cho những người hành hương này từ lúc đầu. Các Ngài đă cùng đi một lượt với
họ để chỉ cho họ thấy rằng các Ngài không khác biệt chi với họ cả, và mỗi
người đều có tự nơi ḿnh những quyền năng thiên phú mà Thượng Đế đă ban cho.
Khi các Ngài nêu gương vượt qua sông bằng cách đi trên mặt nước, tôi nghĩ
rằng các Ngài muốn chứng minh cho những người hành hương và chúng tôi thấy
khả năng thắng đoạt mọi chướng ngại khó khăn của các Ngài và khuyến khích
chúng tôi hăy bắt chước làm theo các Ngài.
Ở những nơi cheo leo cách trở mà từ đó người ta không thể nào đi tới
ngôi đền này, người nào đến cầu xin sự cứu giúp của các Chân Sư đều được
những kết quả tốt lành. Luôn luôn cũng có những kẻ ṭ ṃ và những kẻ vô tín
ngưỡng, nhưng dường như họ không nhận được một sự giúp đỡ nào rơ rệt. Chúng
tôi tham dự nhiều cuộc hội họp từ hai trăm đến hai ngh́n người, trong đó tất
cả những người có bịnh tất nan y đều được khỏi bịnh chỉ bằng cách âm thầm
bày tỏ ư muốn được chữa khỏi. Chúng tôi có dịp quan sát một số rất lớn những
người được chữa khỏi bịnh như vậy trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Trong
chín mươi phần trăm các trường hợp, sự khỏi bịnh được lâu bền, và đối với
những người được chữa khỏi bịnh trong ngôi đền th́ tỷ lệ đó lên đến một trăm
phần trăm. Ngôi đền này luôn luôn mở rộng cửa cho những ai muốn t́m đến.
Người ta có thể đến đó bao nhiêu lần và ở lại đó bao lâu tùy ư. Một lư tưởng
được h́nh thành bằng cách đó trong tư tưởng của những khách đến viếng và in
sâu trong trí họ.
Đức Tuệ Minh nói:
-Chính ở đây là nơi xuất phát cái mầm móng tư tưởng đưa đến việc tôn
sùng thần tượng của thời quá khứ. Con người t́m cách tạc trong gỗ, đá, vàng,
bạc hay đồng, h́nh ảnh cái lư tưởng của họ. Khi cái h́nh tượng vừa thành
h́nh xong, th́ cái lư tưởng đă vượt lên cao hơn cái h́nh tượng ấy rồi. Bởi
vậy, người ta phải nh́n thấy cái diệu ảnh, yêu và lư tưởng hóa những ǵ đến
với ta từ chỗ kín đáo trong linh hồn chứ không phải đưa ra một vật thể làm
thần tượng để tiêu biểu cho cái lư tưởng mà chúng ta muốn nêu cao. Một trạng
thái gần đây hơn của sự mê tín là suy tôn như một thần tượng người nào phát
biểu cái lư tưởng của ḿnh. Trái lại, người ta chỉ nên sùng kính cái lư
tưởng được nêu lên, chứ không phải cái cá nhân đă biểu lộ cái lư tưởng đó.
Đức Jesus quyết định bỏ ra đi bởi v́ Ngài thấy rằng dân chúng bắt đầu suy
tôn cá nhân Ngài, thay v́ yêu cái lư tưởng mà Ngài là tiêu biểu. Người ta
muốn tôn Ngài lên làm vua. Dân chúng chỉ nh́n thấy có một điều, họ chỉ thấy
Đức Jesus là người cung cấp đầy đủ mọi thứ để thỏa măn những nhu cầu vật
chất của họ.
Không ai là người nh́n nhận rằng họ vốn có tự nơi ḿnh cái khả năng
thỏa măn lấy mọi thứ nhu cầu của chính ḿnh. Không ai nhận thấy rằng họ phải
sử dụng cái quyền năng đó như Đức Jesus vậy. V́ lẽ đó, Ngài nói:
-Tốt hơn là ta phải ra đi, v́ nếu ta không bỏ đi, th́ Đấng hằng An Ủi
sẽ không bao giờ đến với các ngươi.
Nói cách khác, khi mà người ta ỷ lại vào cá nhân Đức Jesus, người ta
sẽ không nhận thức được cái quyền năng mà họ vốn có tự nơi ḿnh. Người ta
phải tuyệt đối tự tin ở nơi ḿnh. Nếu người ta trông cậy nơi kẻ khác, họ suy
tôn kẻ khác ấy làm thần tượng thay v́ tự ḿnh biểu lộ cái lư tưởng của ḿnh.
Chúng tôi đă chứng kiến tận mắt những trường hợp khỏi bịnh thật lạ
lùng. Vài người bịnh chỉ cần đi ngang qua đền cũng được chữa khỏi. Những
người khác phải ở lại đó trong một thời gian rất lâu. Không bao giờ có ai
đứng ra làm bất cứ một cuộc hành lễ nào. Dường như không cần phải hành lễ
bởi v́ những âm ba rung động toát ra từ trong đền có hiệu lực đến nỗi bất cứ
người nào bước vào trong ṿng ảnh hưởng của nó cũng đều cảm nhận được những
ảnh hưởng tốt lành. Chúng tôi thấy người ta chở đến một người bị bịnh cứng
khớp xương. Những khớp xương đă cứng đơ của y được hoàn toàn chữa khỏi trong
ṿng một tiếng đồng hồ và y đă có thể đi đứng lại được. Sau đó y đă làm công
tác trong bốn tháng để giúp đỡ trong cuộc hành tŕnh của chúng tôi. Một
người khác bị cụt mất hết năm ngón tay và được thấy cả năm ngón đều mọc lại.
Một đứa trẻ nhỏ bị tàn phế và tứ chi liệt bại được chữa khỏi ngay tức khắc
và chạy ra khỏi đền. Những người bị các chứng phong cùi, đui mù, câm điếc,
và nhiều chứng bịnh nan y khác cũng được chữa khỏi ngay lập tức. Sự thật,
tất cả những người đến hành hương tại đây đều được chữa khỏi bịnh. Chúng tôi
có dịp quan sát một số lớn những người được khỏi bịnh hai hay ba năm về sau
bịnh tật đă khỏi hẳn không c̣n tái phát. Người ta nói rằng những trường hợp
bịnh tái phát trở lại là bởi v́ người bịnh thiếu đức tin và không có một
nhăn quang tâm linh thật sự.
IV
Khi chúng tôi về tới căn cứ điểm ở làng Asmah, th́ mọi việc đă chuẩn
bị sẵn sàng để vượt qua truông núi. Sau một ngày nghỉ ngơi, chúng tôi thay
đổi toán phu khuân vác và lừa ngựa, và khởi đầu giai đoạn thứ nh́ của cuộc
hành tŕnh, tức là vượt qua dăy núi Tuyết Sơn.
Trong hai mươi ngày kế đó, sự việc diễn biến một cách b́nh thường,
không có ǵ đáng kể. Đức Tuệ Minh nói với chúng tôi về tâm thức Bồ Đề. Ngài
nói:
-Chính do bởi sự tác động quyền năng của tư tưởng mà chúng ta có thể
biểu lộ tâm thức Bồ Đề hay tâm thức của Đấng Christ. Bằng quyền năng của tư
tưởng, chúng ta có thể phát triển thể xác của chúng ta đến mức độ làm cho nó
trở thành bất tử, ở mức độ mà chúng ta không c̣n chịu sự biến đổi gọi là sự
chết. Do sự tác động của tư tưởng, do sự tác động của tâm thức Bồ Đề, chúng
ta có thể hoán cải những người chung quanh và thay đổi hoàn cảnh sinh hoạt
của ḿnh. Tất cả những điều đó đều do cái quyền năng mà Thượng Đế ban cho
con người để quan niệm một lư tưởng và thực hiện mục đích. Trước hết, phải
biết cảm nhận và tin tưởng bằng đức tin rằng Đấng Christ, tức Bồ Đề tâm, vốn
ngự trị bên trong chúng ta. Kế đó, phải hiểu ư nghĩa thật sự của giáo lư
Jesus, hợp nhất cái linh thể của ḿnh với Thượng Đế, cái linh thể đó vốn
được tạo nên theo h́nh ảnh của Ngài và giống như Ngài. Phải chan ḥa, hỗn
hợp nó với cái linh thể toàn vẹn của Thượng Đế, v́ chính trong trạng thái
chan ḥa, hỗn hợp đó mà Thượng Đế nh́n thấy chúng ta...
Nói đến đây, đức Tuệ Minh ngừng lại và cho biết rằng ngài sẽ từ giă
chúng tôi trong vài ngày để đến gặp vài người bạn đang hội họp trong một
làng cách đó độ bốn trăm cây số. Ngài hứa sẽ gặp lại chúng
tôi ở cách đây độ một trăm cây số, trong một làng nhỏ ở biên giới mà
chúng tôi sẽ đi đến trong bốn ngày. Kế đó ngài biến mất và vài ngày sau ngài
đă đến chỗ hẹn vào đúng lúc, cùng với bốn người bạn.
*
Khi chúng tôi đến làng biên giới nói trên, trời mưa tầm tă không ngớt
và tất cả chúng tôi đều bị ướt loi ngoi. Người ta dành cho chúng tôi một
quán trọ đầy đủ tiện nghi, gồm có một gian pḥng lớn có đủ bàn ghế, có sưởi
ấm và trang hoàng lịch sự, dùng làm pḥng khách và pḥng ăn. Một người trong
chúng tôi hỏi nhiệt lực làm sưởi ấm gian pḥng này do đâu mà có? Quan sát kỹ,
chúng tôi không thấy có ḷ sưởi hay củi lửa ǵ cả. Chúng tôi hơi ngạc nhiên,
nhưng không b́nh phẩm ǵ v́ chúng tôi đă bắt đầu quen với những sự việc lạ
lùng và chúng tôi chắc rằng sau này mọi sự sẽ được giải thích rơ.
Chúng tôi vừa ngồi vào bàn ăn để dùng cơm tối th́ đức Tuệ Minh và bốn
người bạn của ngài bước vào pḥng mà chúng tôi không biết các ngài vào bằng
cách nào. Tất cả năm vị đều xuất hiện ở một góc pḥng, mà gần đó không có
cửa nẻo chi cả. Việc ấy xảy ra một cách giản dị, âm thầm và không có một
tiếng động. Đức Tuệ Minh giới thiệu với chúng tôi bốn người khách lạ, và các
Ngài
ngồi vào bàn ăn với chúng tôi một cách tự nhiên như ở nhà. Chúng tôi chưa
kịp để ư nh́n thấy ǵ, th́ bàn ăn đă có đầy những thức ăn ngon lành, nhưng
không có thịt, v́ các vị toàn dùng chay.
Sau bữa ăn, một người trong chúng tôi hỏi gian pḥng được sưởi ấm
bằng cách nào. Đức Tuệ Minh nói:
-Hơi ấm mà các bạn cảm thấy trong gian pḥng này là do một sức mạnh
cụ thể mà mỗi người đều có thể sử dụng. Người ta có thể tiếp xúc với mănh
lực ấy, và sử dụng nó dưới h́nh thức ánh sáng, nhiệt điện, hay tinh lực để
vận chuyển máy móc, cơ khí. Đó là điều mà chúng ta gọi là vũ trụ lực, một
mănh lực thiên nhiên mà Thượng Đế ban cho loài người. Sức mạnh ấy có thể vận
chuyển mọi loại cơ khí, thực hiện những cuộc chuyên chở mà không tốn nhiên
liệu, và cung cấp ánh sáng và nhiệt lực. Mănh lực ấy có ở khắp nơi để cho
con người sử dụng, không bao giờ cạn và không cần phải mua.
Một người trong chúng tôi hỏi phải chăng các món ăn vừa rồi là xuất
xứ từ chất Tiên Thiên Khí trong vũ trụ và đến một cách trực tiếp dưới h́nh
thức các món vật thực mà chúng tôi đă ăn, cũng như bánh ḿ và các món phẩm
vật khác vẫn được cung cấp cho chúng tôi từ trước.
Đức Tuệ Minh mời chúng tôi đi theo ngài đến nhà của một trong bốn
người bạn, ở cách đó độ ba trăm năm chục cây số. Chúng tôi cũng gặp thân mẫu
ngài tại đó. Ngài nói:
-Thân mẫu tôi là một trong những người đă tinh luyện thể xác đến mức
có thể phân thân đi khắp mọi nơi và để học Đạo trên những cơi cao. Bởi đó,
bà sống thường xuyên trong cơi vô h́nh. Điều này là một việc t́nh nguyện, v́
nhờ học Đạo thượng đẳng, bà có thể giúp đỡ chúng tôi rất nhiều. Nói rơ hơn
cho các bạn dễ hiểu, bà đă tiến hóa đến mức đạt tới cơi Trời là nơi hiện
diện của Đức Jesus, tức là nơi mà đôi khi người ta gọi là cảnh giới thứ bảy
của cơi Thiên Đường. Đối với các bạn, cảnh giới đó có lẽ là điều bí mật lớn
nhất trong mọi điều bí mật, nhưng thật ra không có ǵ bí mật cả. Đó là một
trạng thái tâm thức mà tất cả mọi điều huyền bí đều được tiết lộ. Người hành
giả đạt tới đó rồi, th́ sẽ trở nên vô h́nh vô ảnh đối với kẻ phế nhân phàm
tục, nhưng họ có thể trở lại thế gian để dạy Đạo cho những người thụ cảm và
có căn duyên. Họ trở lại trong thể xác của họ, v́ thể xác ấy đă được tinh
luyện đến mức toàn hảo để có thể được di chuyển khắp nơi tùy ư. Những vị đạo
đồ ở cấp đẳng có thể trở lại thế gian mà không cần phải đầu thai chuyển
kiếp. Những người nào đă bước qua cửa Tử bị bắt buộc phải đầu thai trở lại
để khoác lấy một thể xác mới. C̣n thể xác của chúng tôi là những thể xác tâm
linh toàn hảo và có thể được ǵn giữ rất lâu. Người nào đă từ bỏ thể xác để
thăng lên các cơi giới tinh thần sẽ nhận thấy rằng họ phải tái sinh trong
một thể xác mới để tiếp tục tiến hóa nữa...
Tối hôm đó, trước khi rời khỏi bàn ăn, chúng tôi quyết định chia cuộc
hành tŕnh ra làm năm toán, mỗi toán đặt dưới sự trông nom của một trong
những người khách lạ đă th́nh ĺnh xuất hiện trong pḥng để dùng bữa với
chúng tôi. Cách sắp đặt này sẽ giúp cho chúng tôi có thể thám hiểm nhiều
vùng rộng lớn. Nó sẽ làm cho công việc của chúng tôi được dễ dàng và giúp
chúng tôi có thể kiểm chứng những hiện tượng huyền linh như là đi ngao du
trong cơi vô h́nh và giao thông với nhau bằng phép chuyển di, tư tưởng. Mỗi
toán sẽ gồm ít nhất hai đoàn viên và do một trong năm vị Chân Sư lănh đạo.
Mỗi toán sẽ ở cách biệt rất xa với những toán khác, nhưng sự liên lạc sẽ
được thực hiện bởi các vị Chân Sư, các ngài đă tỏ ra rất nhiều cảm t́nh ưu
ái đối với chúng tôi và không bỏ qua một dịp nào để cho chúng tôi kiểm chứng
lại công việc của các ngài.
V
Qua ngày hôm sau, tất cả mọi việc đều được chuẩn bị sẵn sàng từng chi
tiết. Toán của tôi gồm có tôi và hai đoàn viên, có đức Tuệ Minh và Dật Sĩ đi
dẫn đường. Sáng ngày kế đó, mỗi toán đều sẵn sàng ra đi theo những chiều
hướng khác nhau. Chúng tôi đồng ư rằng mỗi toán sẽ quan sát cẩn thận những
ǵ xảy đến và ghi chép làm tài liệu. Chúng tôi hẹn sẽ gặp nhau trở lại trong
hai tháng ở quê hương của đức Tuệ Minh, một làng nhỏ cách đó ba trăm năm
chục cây số. Sự liên lạc giữa các toán khác nhau sẽ do các vị Chân Sư đảm
nhiệm. Thật vậy, các ngài đảm nhiệm việc đó mỗi buổi chiều, nói chuyện với
nhau bằng tư tưởng và di chuyển từ toán nọ đến toán kia.
Khi chúng tôi muốn tiếp xúc với vị trưởng toán hay với một đoàn viên,
chúng tôi chỉ cần giao bức thông điệp của ḿnh cho các Chân Sư. Sự trả lời
đến với chúng tôi trong một thời hạn rất ngắn không thể tưởng tượng. Khi
chúng tôi đưa ra những bản thông điệp như thế, chúng tôi viết tay và có ghi
ngày giờ cẩn thận. Chúng tôi cũng ghi chép trong bức thơ trả lời ngày giờ mà
chúng tôi nhận được. Khi chúng tôi tựu họp với nhau trở lại, chúng tôi đem
đối chiếu những tài liệu đă ghi chép và nhận thấy mọi việc đều ăn khớp với
nhau một cách hoàn toàn. Ngoài ra, các Chân Sư di chuyển từ trại này sang
trại khác và nói chuyện với các đoàn viên của mỗi toán khác nhau. Chúng tôi
ghi chép cẩn thận những địa điểm và ngày giờ khi các ngài xuất hiện và biến
mất, cùng những đề tài đă đề cập tới. Về sau, khi chúng tôi đem đối chiếu
những tài liệu ghi nhận, th́ mọi sự cũng đều hoàn toàn ăn khớp với nhau.
Những toán của chúng tôi ở cách nhau rất xa, một toán ở Ba Tư, một
toán ở Trung Hoa lục địa, toán thứ ba ở Tây Tạng, toán thứ tư ở Mông Cổ và
toán thứ năm ở Ấn Độ. Các Chân Sư đă vượt qua những đoạn đường dài đến hai
ngh́n cây số trong cơi vô h́nh để thông tin tức cho chúng tôi biết những ǵ
xảy ra ở mỗi trại.
Mục tiêu di chuyển của toán chúng tôi là một làng nhỏ
ở trên một vùng cao nguyên trong dăy Tuyết Sơn, cách chỗ khởi điểm của chúng
tôi một trăm năm chục cây số. Chúng tôi không có đem theo lương thực cho
cuộc hành tŕnh. Tuy nhiên chúng tôi không bao giờ thiếu thốn điều ǵ, và
chúng tôi luôn luôn có thể t́m nơi cư trú có đủ tiện nghi để ngủ đêm. Chúng
tôi đến mục tiêu vào lúc xế trưa ngày thứ năm.
Một nhóm dân làng đến chào đón và đưa chúng tôi đến một nhà trọ sạch
sẽ tươm tất. Chúng tôi nhận thấy rằng dân làng tỏ ra rất kính trọng đức Tuệ
Minh và Dật Sĩ. Đức Tuệ Minh chưa bao giờ đến làng này, c̣n Dật Sĩ chỉ đến
có một lần sau khi có lời kêu gọi cứu giúp trong một trường hợp khẩn cấp. Đó
là trong dịp cứu cấp ba người dân làng bị bắt cóc đem đi bởi những "Người
Tuyết", một loại sơn nhân rất hung dữ cư ngụ ở vài vùng hoang vu hẻo
lánh nhất trên dăy Tuyết Sơn.
Cuộc thăm viếng hiện thời cũng để đáp ứng một lời kêu gọi tương tự và
cũng nhằm mục đích cứu giúp những người bịnh không thể di tản ra khỏi làng.
Dường như những "Người Tuyết" này
là những kẻ ngoài ṿng luật pháp đă từng ở những vùng sơn cước đầy tuyết
lạnh trong nhiều thế hệ, và sau cùng đă thành lập nên những bộ lạc du mục có
thể sống tự túc trong những vùng núi non hoang vắng, hoàn toàn khác biệt với
thế giới văn minh của loài người. Tuy dân số của chúng không bao nhiêu,
chúng rất hung dữ và hiếu chiến. Đôi khi chúng bắt cóc những người nào không
may lọt vào tay chúng và hành hạ những người ấy. V́ có bốn người dân làng đă
bị bắt đi trong những hoàn cảnh đó, những người khác không biết phải làm
sao, mới gửi một người đi cầu cứu với Dật Sĩ. Dật Sĩ bèn ra đi với đức Tuệ
Minh và đem cả chúng tôi theo.
Lẽ tự nhiên là chúng tôi rất mong mỏi được thấy những người sơn nhân
đó, mà chúng tôi có nghe nói đến nhưng vẫn chưa tin. Lúc đầu, chúng tôi nghĩ
rằng người ta nên thành lập một đoàn nghĩa binh cấp cứu mà chúng tôi có thể
gia nhập. Nhưng hy vọng đó đă tiêu tan khi đức Tuệ Minh và Dật Sĩ cho chúng
tôi biết rằng hai vị sẽ đi một ḿnh và cùng đi ngay tức khắc. Trong chốc
lát, hai vị đă biến mất dạng và chỉ trở về vào lúc chiều ngày hôm sau, cùng
với bốn người dân làng vừa được giải thoát. Những người này thuật lại nhiều
câu chuyện quái đản về cuộc phiêu lưu của ḿnh và về những người sơn nhân đă
bắt cóc họ. Dường như những "Người
Tuyết" lạ lùng này sống hoàn toàn khỏa thân. Chúng mọc lông khắp ḿnh
như những loài thú và chịu đựng nổi thời tiết lạnh kinh khủng trên miền sơn
cước. Chúng di chuyển rất mau lẹ. Người ta c̣n nói rằng chúng có thể rượt
bắt những loại thú rừng ở vùng của chúng ở. Chúng gọi các Chân Sư là những "Người
của Mặt Trời", và khi các
Ngài
đến giải thoát cho những kẻ bị bắt, th́ chúng không chống cự.
Chúng tôi được biết rằng các Chân Sư đă nhiều lần thử mở một cuộc
tiếp xúc với những "Người Tuyết",
nhưng vô hiệu, v́ chúng rất sợ sệt các
Ngài.
Khi các Chân Sư đến gần những "Người
Tuyết", th́ chúng bỏ ăn, bỏ ngủ, và chạy trốn trong những chỗ núi rừng
hoang vu v́ quá sợ sệt. Chúng đă mất mọi sự liên lạc với đời sống văn minh
và thậm chí cũng quên rằng trước kia chúng đă có những mối tương quan với
những chủng tộc loài người và tổ tiên của chúng đă xuất xứ từ đó mà ra. Quả
thật
là chúng đă hoàn toàn biệt lập với xă hội loài người.
Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ không muốn nói nhiều với chúng tôi về những "Người
Tuyết". Chúng tôi cũng không thể xin hai vị cho chúng tôi đi theo tận
nơi để nh́n xem chúng. Đáp lại những câu hỏi của chúng tôi, hai vị chỉ nói
như sau:
-Chúng cũng là con của Thượng Đế như chúng ta, nhưng từ lâu chúng đă
nuôi ḷng sợ hăi và thù ghét kẻ đồng loại, và những tật đố này càng ngày
càng tăng trưởng. Như vậy, chúng đă tự ly khai với xă hội loài người đến mức
quên mất đi sự liên hệ của ḿnh trong đại gia đ́nh nhân loại và tưởng rằng
chúng là những loại thú rừng. Đi lần đến chỗ cực đoan, thậm chí chúng cũng
mất cả bản năng của loại thú rừng, v́ loại thú rừng do bản năng d́u dắt c̣n
nhận biết được những người thương yêu chúng và đáp lại cái t́nh thương đó.
Khi con người tự ly khai với Thượng Đế và với nhân loại đến mức đó, y có thể
rớt xuống thấp hơn loài vật. Không có ích ǵ mà đưa các bạn đến gặp những "Người
Tuyết", vả lại điều ấy c̣n làm hại cho chúng. Chúng tôi hy vọng rằng một
đứa trong chúng nó có ngày sẽ trở nên thụ cảm đối với sự dạy dỗ của chúng
tôi, và do người tuyết ấy làm trung gian, chúng tôi sẽ độ cho tất cả chúng
nó...
Chúng tôi được cho biết rằng chúng tôi được tự do t́m cách nào tùy
sáng kiến riêng của ḿnh để nh́n thấy những "Người
Tuyết" lạ lùng đó; các Chân Sư chắc chắn sẽ che chở chúng tôi khỏi mọi
tai nạn và có thể ra tay giải cứu nếu chúng tôi bị bắt. Theo chương tŕnh
được thiết lập cho ngày hôm sau, chúng tôi phải đi viếng một ngôi đền rất cổ
xưa, ở cách làng này độ sáu chục cây số. Hai người đoàn viên trong toán của
tôi quyết định không tham dự cuộc viếng thăm này để đi thu thập tài liệu về
những "Người Tuyết". Họ khẩn
khoản yêu cầu hai người dân làng cùng đi theo họ, nhưng hai người này quyết
liệt từ chối. Không một người nào chịu rời khỏi làng, khi mà có nguy cơ gặp
phải "Người Tuyết" ở vùng chung
quanh. Hai đoàn viên này bèn ra đi một ḿnh. Họ được đức Tuệ Minh và Dật Sĩ
cho chỉ thị về lộ tŕnh và những ǵ phải làm. Họ giắt súng ngắn vào lưng và
chuẩn bị lên đường. Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ đă bắt họ phải hứa rằng chỉ bắn
chết người trong trường hợp chẳng đặng đừng. Họ có thể bắn súng trơn, không
lắp đạn, hay bắn chỉ thiên tùy ư muốn để thị oai với bọn sơn nhân, nhưng họ
phải hứa trên danh dự rằng họ chỉ bắn chết trong trường hợp không thể nào
làm khác hơn.
Tôi ngạc nhiên mà thấy có một khẩu súng ngắn trong hành lư của chúng
tôi, v́ chúng tôi không bao giờ cần phải sử dụng khí giới. Tôi đă bỏ những
khẩu súng của tôi từ lâu, thậm chí cũng không nhớ rơ là bỏ ở đâu. Nhưng sau
mới biết là một trong những người lao công giúp chúng tôi sửa soạn hành lư,
đă xếp vào đó hai khẩu súng ngắn mà không ai hay biết.
CHƯƠNG BA
Một ngôi đền cổ một trăm hai mươi thế kỷ _ Vượt qua khu rừng cháy _ Những di
tích của Thánh Jean Baptiste _ Những cuộc chữa bịnh nhiệm mầu _ Tuổi tác và
h́nh dáng của các Chân Sư _ Ngôi đền trên chóp núi.
I
Trưa hôm đó, đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và tôi cùng đi đến ngôi đền,
và đến nơi vào lúc năm giờ chiều ngày hôm sau. Tại đây, chúng tôi được hai
người coi đền tiếp rước và dọn chỗ cho chúng tôi nghỉ lại ban đêm. Đền này
được xây cất bằng đá trên một ngọn núi cao, tục truyền rằng đă có từ mười
hai ngàn năm. Đền vẫn c̣n trong trạng thái nguyên vẹn, toàn hảo. Có lẽ đó là
một trong những ngôi đền đầu tiên được dựng lên bởi các vị Đại Sư của môn
phái tu luyện trường sinh hồi thời cổ. Các vị xây đền này với mục đích tạo
dựng nên một nơi tu tịnh hoàn toàn yên tĩnh, và có lẽ không có một cuộc đất
nào khéo chọn hơn là chỗ này. Đó là một đỉnh núi cao nhất trong vùng, chiều
cao ba ngàn năm trăm thước. Con đường núi đưa lên tới đây hầu như dốc đứng
trong đoạn cuối cùng dài mười hai cây số. Có chỗ nó vượt qua những chiếc cầu
treo bằng dây thừng. Một đầu những dây thừng này buộc chặt với những tảng đá
lớn ở tận trên cao, và đầu kia buông tḥng xuống trong khoảng không, cột
những thân cây ghép lại làm cầu treo lủng lẳng ở một chiều cao hai trăm
thước. Ở những chỗ khác, chúng tôi bắt buộc phải trèo lên những nấc thang
buộc vào những sợi dây thừng từ trên cao tḥng xuống. Đoạn đường dài một
trăm thước cuối cùng là một đường hoàn toàn dốc đứng. Chúng tôi trèo lên con
đường này toàn là bằng những cái thang dây thuộc loại kể trên. Khi đến nơi,
tôi có cảm giác như ở trên tột đỉnh của thế giới.
Ngày hôm sau, chúng tôi thức dậy vào lúc mặt trời mọc. Sau một đêm
ngủ ngon giấc, tôi hoàn toàn quên mất sự leo núi vất vả nhọc mệt của ngày
hôm trước. Từ trên đỉnh núi nh́n xuống dưới, người ta không nh́n thấy ǵ
trong khoảng một ngàn thước, thành thử nơi này có vẻ như treo lủng lẳng trên
không trung. Thật là khó mà xóa bỏ cái cảm giác đó. Ba ngọn núi khác nhô lên
ở tận đằng xa. Người ta nói rằng trên đỉnh mỗi ngọn núi ấy đều có một ngôi
đền giống như ngôi đền này, nhưng các ngọn núi ấy
ở cách xa
đến nỗi tôi nh́n qua ống ḍm cũng không trông thấy ǵ.
Đức Tuệ Minh cho tôi biết rằng nhóm đoàn viên của Tô Mặc, vị trưởng
nhóm của chúng tôi, có lẽ đă đến ngôi đền ở trên đỉnh ngọn núi xa nhất cùng
một lượt với chúng tôi tại đây. Ngài nói rằng nếu tôi muốn tiếp xúc với Tô
Mặc, tôi có thể nói chuyện được, v́ y cùng với các đoàn viên cũng đang đứng
trên nóc đền như chúng tôi vậy. Tôi lấy bút ra viết một bức thông điệp gởi
cho Tô Mặc:
“Tôi đang đứng ở trên nóc đền,
ba ngàn năm trăm thước cao hơn mặt biển. Đền cho tôi cái cảm giác bị treo
lủng lẳng trên không gian. Đồng hồ tôi chỉ đúng 4:55 sáng ngày thứ bảy 2
tháng 8”.
Đức Tuệ Minh đọc
bức thông điệp và đắm ch́m một lúc trong im lặng. Kế đó, tôi được sự trả lời
của Tô Mặc: “Đồng hồ tôi chỉ 5:01
sáng ngày thứ bảy 2 tháng 8. Chỗ này hai ngàn tám trăm thước cao hơn mặt
biển. Cảnh rất đẹp, vị trí này thật là độc đáo”.
Đức Tuệ Minh nói:
-Nếu các bạn muốn nói ǵ thêm, tôi sẽ đem đi bức thông điệp và đem về
câu trả lời. Nếu các bạn không thấy ǵ trở ngại, tôi sẽ đi nói chuyện với
những người đang ở ngôi đền đằng ấy.
Tôi bèn đưa thông điệp cho Ngài và Ngài liền biến mất. Một giờ ba
khắc sau đó, Ngài trở về với một thông điệp của Tô Mặc nói rằng đức Tuệ Minh
đă đến 5:16 giờ và nhóm của y đang sung sướng nghĩ đến những ǵ sắp thực
hiện trong cuộc hành tŕnh của chúng tôi. Sự sai biệt về giờ khắc trên đồng
hồ của chúng tôi là do sự khác biệt của đường kinh tuyến trên Trái Đất.
Chúng tôi ở lại đền này trong ba ngày, trong khi đó đức Tuệ Minh đi
viếng thăm tất cả những toán đoàn viên trong cuộc hành tŕnh, có đem đi
những thông điệp của tôi và đem về những thông điệp của tất cả những toán
khác. Sáng ngày thứ tư, chúng tôi sửa soạn trở về làng, nơi mà chúng tôi đă
để lại những người bạn đi t́m những
“Người Tuyết”.Đức Tuệ Minh
và Dật Sĩ c̣n muốn đến một làng nhỏ ở trong thung lũng, cách chỗ lộ tẻ trên
con đường ṃn của chúng tôi độ năm chục cây số. Tôi tán đồng việc đó và đề
nghị để cho tôi đi theo hai vị. Đêm đó chúng tôi nghỉ trong một túp lều
tranh của bọn mục đồng, và ra đi từ lúc sáng sớm để kịp đến nơi vào sáng
ngày hôm sau, v́ chúng tôi đi bộ. V́ không thể đến ngôi đền bằng ngựa, nên
chúng tôi đă để ngựa ở lại với các bạn tôi trong làng nhỏ nói trên.
Sáng ngày hôm đó, khoảng mười giờ, đột nhiên có một cơn giông băo dữ
dội sấm chớp không ngừng, hăm dọa sẽ có cơn mưa lũ tầm tă đêm ngày. Nhưng
trời vẫn tạnh ráo không rơi một giọt mưa. Chúng tôi đi qua một khu rừng cây
rất rậm rạp. Mặt đất bao phủ bằng một loại cỏ rất khô và cứng. Trọn vùng
chung quanh dường như khí hậu khô ráo một cách đặc biệt khác thường. Sét
đánh làm cho cỏ khô bắt lửa cháy lan tràn ở nhiều nơi, và trước khi chúng
tôi nhận biết được việc ǵ xảy ra, chúng tôi đă bị vây phủ chung quanh bởi
một đám cháy rừng. Không bao lâu, cơn hỏa hoạn đă bộc phát dữ dội và đồng
loạt tiến đến gần chúng tôi từ ba phía với một tốc lực nhanh chóng kinh
khủng. Khói bốc lên từng đám dày đặc làm cho tôi hoang mang kinh sợ. Đức Tuệ
Minh và Dật Sĩ có vẻ b́nh tĩnh ung dung, điều này cũng làm cho tôi trấn tĩnh
được ít nhiều. Hai vị nói:
-Có hai cách đi thoát khỏi nơi đây. Cách thứ nhất là đi đến một gịng
suối chảy dưới đáy một vực sâu ở gần đây. Muốn vậy, chúng ta phải vượt qua
tám cây số đường rừng. Đến đó chúng ta có thể trú ẩn an toàn cho đến khi đám
cháy tự nó tàn lụi dần v́ không có chỗ bắt cháy thêm được nữa. Cách thứ nh́
là vượt qua đám cháy, nhưng bạn phải tin tưởng nơi khả năng của chúng tôi là
có thể độ cho bạn đi an toàn qua vùng khói lửa.
Tôi nhận thấy rằng các vị luôn luôn tỏ ra có đủ bản lĩnh tháo vát
trong tất cả mọi trường hợp, và tôi liền hết sợ ngay lập tức. Tôi bèn đặt cả
thể xác lẫn linh hồn tôi dưới sự che chở của hai vị, tôi đi giữa, hai vị
quàng vai tôi đi kèm hai bên. Chúng tôi thẳng tiến về hướng mà đám cháy đang
hoành hành với một cường độ mănh liệt nhất. Ngay lúc đó dường như có một cái
ṿm mở rộng trước mặt chúng tôi. Chúng tôi đi xuyên qua đám cháy mà không
một mảy may bị khó chịu v́ khói, hơi nóng hay những đống lửa cháy đỏ rực
trên đường đi của chúng tôi. Chúng tôi đi như vậy trên mười cây số một cách
yên ổn và an toàn dường như không có hỏa hoạn ở chung quanh. Sau cùng chúng
tôi vượt qua một con rạch nhỏ, và sau đó chúng tôi đă ra khỏi vùng hỏa hoạn.
Bận về, tôi đă có nhiều thời giờ để quan sát con đường mà chúng tôi đi qua
trong lúc đó. Trong khi chúng tôi vượt qua khỏi đám cháy, đức Tuệ Minh nói
với tôi:
-Bạn có thấy chăng, trong trường hợp tuyệt đối khẩn cấp, thật rất dễ
mà kêu gọi đến những định luật thượng đẳng huyền bí của Trời để thay thế vào
những định luật hạ đẳng của trần gian? Vừa rồi, chúng tôi đă nâng những rung
động của thể xác chúng tôi lên một nhịp độ cao hơn nhịp độ của lửa, và bởi
đó, lửa không c̣n làm hại chúng tôi được nữa. Nếu một người thường có thể
nh́n thấy chúng tôi lúc đó, họ sẽ tưởng rằng chúng tôi biến mất, nhưng sự
thật chúng tôi vẫn có mặt tại chỗ. Thật ra chúng tôi không thấy có sự khác
biệt. Trong trạng thái đó, chúng tôi không c̣n ư thức về những giác quan của
thể xác. Một người thường có lẽ cho rằng chúng tôi đă dùng thuật thăng thiên,
và điều đó có lẽ cũng đúng như vậy. Chúng tôi đă vượt lên một tŕnh độ tâm
thức siêu đẳng mà người thường không với lên tới được. Mỗi người có thể bắt
chước chúng tôi. Chúng tôi đă sử dụng một định luật mà Thượng Đế ban cho để
cho chúng ta sử dụng. Chúng tôi có thể sử dụng định luật ấy để di chuyển thể
xác của ḿnh đến tận bất cứ nơi nào dù xa đến đâu trong không gian. Chính đó
là cái định luật mà chúng tôi đă sử dụng để xuất hiện và biến mất trước mắt
người đời, để thắng đoạt không gian, như người ta thường nói. Chúng tôi chỉ
thắng đoạt mọi khó khăn chướng ngại bằng cách nâng cao tâm thức của ḿnh cho
nó vượt lên trên những khó khăn đó. Điều đó giúp chúng tôi thắng đoạt tất cả
những giới hạn mà con người thường tự đặt ra cho ḿnh trong cái tâm thức
phàm trần của họ…
Tôi có cảm giác dường như chúng tôi chỉ đi lướt trên mặt đất. Khi
chúng tôi ra khỏi vùng hỏa hoạn và được an toàn ở bên kia bờ rạch, trước hết
tôi có cảm giác như vừa thức dậy sau một cơn ngủ mê và đó chỉ là một giấc
mộng. Nhưng sự hiểu biết những ǵ đă xảy ra lần lần tăng trưởng ở nơi tôi,
và ư nghĩa thật sự của những diễn biến đó bắt đầu hiện rơ từ từ và soi sáng
tâm hồn tôi. Chúng tôi t́m một nơi có bóng mát trên bờ rạch, và ăn một bữa
lót dạ, kế đó chúng tôi nghỉ ngơi trong một vài giờ và trở về làng.
II
Làng này tỏ ra là một nơi đầy thú vị, v́ ở tại đây có những tài liệu
lịch sử được giữ ǵn rất kỹ lưỡng. Những tài liệu này khi được phiên dịch
ra, đă đem đến một bằng chứng không thể chối căi rằng Thánh Jean Baptiste đă
từng sống ở tại đây năm năm. Sau đó, chúng tôi đă có dịp xem và dịch những
tài liệu khác nữa chứng tỏ rằng Ngài đă ở lại trong vùng này độ mười hai
năm. Măi về sau, người ta đă đưa cho chúng tôi xem những tài liệu dường như
chứng tỏ rằng Ngài đă cùng với người địa phương đi du lịch trong hai mươi
năm xuyên qua các xứ Tây Tạng, Trung Hoa, Ba Tư và Ấn Độ. Chúng tôi có cảm
tưởng rằng có thể theo dơi bước chân của Ngài trên lộ tŕnh mà các tài liệu
đă ghi rơ. Những văn kiện này làm chúng tôi thích thú đến nỗi chúng tôi đă
trở lại một vài làng để sưu tầm sâu rộng thêm. Bằng cách soạn lại những dữ
kiện thâu thập được, chúng tôi có thể vẽ ra một bản đồ ghi rơ lộ tŕnh và
những sự di chuyển của Thánh Jean Baptiste. Vài sự việc được diễn tả cho
chúng tôi trong những câu chuyện tường thuật hấp dẫn và linh động đến nỗi
chúng tôi tưởng tượng rằng ḿnh đang đi cùng một con đường với Thánh Jean
Baptiste và theo những đường ṃn mà Ngài đă đi qua trong quá khứ xa xăm đó.
Chúng tôi ở lại làng này trong ba ngày, sau đó chúng tôi sẵn sàng trở
về làng mà nơi đó chúng tôi đă bỏ lại vài người bạn. Sứ mạng của đức Tuệ
Minh và Dật Sĩ ở làng này chỉ là để chữa bịnh cho những người đau yếu. Hai
vị có thể trở về làng trong một thời gian ngắn hơn tôi rất nhiều, nhưng v́
tôi không thể đi mau như hai vị, nên hai vị đă dùng cách di chuyển của tôi.
Các bạn tôi đợi chúng tôi tại làng. Họ đă hoàn toàn thất bại trong
việc đi t́m những “Người Tuyết”.
Sau năm ngày đi t́m, họ đă mệt mỏi và bỏ cuộc. trên đường về, họ chú ư đến
cái bóng đen của một người in rơ trên nền trời xanh trên một đỉnh núi cách
đó chừng hai ngàn thước. Trước khi họ có thể sử dụng ống ḍm, th́ người ấy
đă biến mất. Họ chỉ nh́n thấy cái bóng ấy trong một thời gian rất ngắn, và
chỉ có ấn tượng rằng người ấy có h́nh thù giống như khỉ có lông dài. Họ hối
hả đi đến nơi mà cái bóng đen đă xuất hiện, nhưng không thấy dấu vết ǵ cả.
Họ dùng th́ giờ c̣n lại trong ngày để thám hiểm vùng chung quanh nhưng không
kết quả, và sau cùng đành phải bỏ qua việc ấy.
Sau khi nghe lời tường thuật của tôi, các bạn tôi muốn trở lại viếng
ngôi đền, nhưng đức Tuệ Minh cho họ biết rằng chúng tôi sắp đến viếng một
ngôi đền tương tự nên họ bèn bỏ qua ư định trên. Một số lớn dân các vùng lân
cận đă tụ họp tại làng này để xin chữa bịnh, v́ những người biết chuyện đă
đồn đăi tin tức khắp nơi, và thuật chuyện bốn dân làng bị bọn “Người
Tuyết” bắt đi đă được cứu thoát. Ngày hôm sau, chúng tôi tham dự các
cuộc hội họp và đă chứng kiến vài trường hợp chữa bịnh thật lạ kỳ. Một thiếu
phụ độ chừng hai mươi tuổi bị cóng lạnh và tê liệt hai bàn chân trong mùa
đông năm trước, nay đă b́nh phục. Chúng tôi được nh́n thấy chỗ thịt bị hư
nát đă liền lại trước mắt chúng tôi cho đến khi hai bàn chân trở lại b́nh
thường và cô ấy có thể đi đứng một cách hoàn toàn tự nhiên. Hai người mù đă
thấy lại được ánh sáng trong số đó h́nh như có một người bị mù từ thuở mới
sinh ra. Nhiều chứng bịnh khác cũng được chữa khỏi. Tất cả những người bịnh
đều có vẻ rất xúc động bởi những lời nói của các Chân Sư.
Sau buổi hội họp, chúng tôi hỏi đức Tuệ Minh rằng việc chữa khỏi bịnh
này có lôi cuốn được nhiều người hay chăng? Ngài đáp:
-Nhiều người thật sự đă được giúp đỡ nên điều ấy đă khêu gợi sự chú ư
của họ. Vài người bắt đầu làm việc công quả trong một thời gian. Nhưng phần
nhiều th́ không bao lâu sẽ quay về đường cũ với những thói quen cố hữu của
họ. Họ đo lường sự cố gắng mà họ phải làm và thấy nó quá lớn. Hầu hết đều
sống một cuộc đời dễ dăi và không lo lắng. Trong số những người tự cho ḿnh
là có đức tin, chỉ có độ một phần trăm là bắt tay vào việc một cách nghiêm
chỉnh. Kỳ dư đều hoàn toàn sở cậy nơi kẻ khác để được giúp đỡ khi họ gặp khó
khăn. Đó là cái nguyên nhân chính của những phiền lụy của họ. Họ cả quyết có
thể giúp đỡ bất cứ ai muốn họ giúp đỡ nhưng tỏ ra bất lực không giúp đỡ được
ai. Họ có thể nói về cái kho ân huệ thiêng liêng mà họ sử dụng để giúp đỡ
những người bịnh của họ. Nhưng muốn thật sự tắm gội trong cái kho ân huệ đó,
người ta phải chấp nhận nó và chứng minh sự hiện hữu của nó bắng cách thật
sự lập công bồi đức và làm những công quả của một đời sống thánh thiện.
III
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi rời khỏi làng cùng với hai người dân
làng dường như đă có làm việc công quả tâm linh. Chiều ngày thứ ba, chúng
tôi đến một làng ở cách làng của Thánh Jean Baptiste hai mươi cây số. Tôi
rất mong ước các bạn tôi có thể được xem những tài liệu mà tôi đă thấy.
Chúng tôi bèn quyết định ở lại làng thứ hai này và Dật Sĩ cùng đi với chúng
tôi. Những bản văn kiện làm cho các bạn tôi vô cùng thích thú và giúp chúng
tôi vẽ một bản đồ với những lộ tŕnh di chuyển của Thánh Jean Baptiste.
Chiều hôm đó, vị Chân Sư đi cùng với toán thứ tư đến và nghỉ lại đêm
với chúng tôi. Ngài đem đến cho chúng tôi những thông điệp của toán thứ nhất
và toán thứ ba. Ngài sinh ra ở làng này và đă sống ở đó từ nhỏ đến lớn.
Chính những vị tổ tiên của ngài đă soạn thảo những văn kiện này và những tài
liệu đă được gia tộc luôn luôn giữ ǵn cẩn thận. Ngài thuộc gịng dơi nhiều
đời của vị tác giả các văn kiện trên, và không có người nào trong gia tộc đă
từng kinh nghiệm về sự chết. Các vị nhân viên trong gia tộc đă từng kinh
nghiệm về sự chết. Các vị nhân viên trong gia tộc đều có khả năng di chuyển
thể xác đi ngao du trong cơi vô h́nh và trở về tùy ư muốn. Chúng tôi hỏi
rằng có điều chi trở ngại chăng, nếu chúng tôi mời vị tác giả các văn kiện
vui ḷng đến nói chuyện với chúng tôi. Vị Chân Sư đáp rằng không có ǵ trở
ngại và định rằng cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra vào ngay tối hôm đó.
Chúng tôi đang ngồi đợi trong ít lâu, th́ một người trạc độ ba mươi
lăm tuổi th́nh ĺnh xuất hiện trong gian pḥng. Người ấy được giới thiệu cho
chúng tôi, và chúng tôi bắt tay nhau. Diện mạo người ấy làm cho chúng tôi
ngạc nhiên đến mức câm lặng, v́ chúng tôi tưởng rằng sẽ gặp một người rất
cao tuổi. Người ấy có vóc dạc trung b́nh với những nét vạm vỡ, nhưng gương
mặt người đượm một vẻ hiền lành nhân hậu rơ rệt mà tôi chưa từng thấy bao
giờ. Mỗi cử chỉ của người biểu lộ một tâm hồn cương nghị và dũng mănh. Một
vầng hào quang lạ lùng toát ra từ toàn thân người.
Trước khi an tọa, đức Tuệ Minh, Dật Sĩ, vị Chân Sư, và người khách lạ
cùng nắm tay nhau một lúc trong một cơn im lặng hoàn toàn. Kế đó, tất cả
chúng tôi đều ngồi xuống, và người lạ mặt vừa xuất hiện trong gian pḥng bèn
cất tiếng nói:
-Các bạn yêu cầu sự gặp gỡ tối nay để hiểu rơ hơn những bản văn kiện
đă được đọc và diễn đạt cho các bạn. Chính tôi là người đă soạn thảo và giữ
ǵn những văn kiện đó. Những tài liệu nói về Thánh Jean Baptiste và đă làm
cho các bạn ngạc nhiên, tường thuật lại những sự việc có thật về thời gian
lưu trú của ngài ở tại đây với chúng tôi. Như người ta được biết, ngài là
một người có kiến thức sâu rộng, và một trí óc tuyệt vời. Ngài nhận thức cái
chân lư của giáo phái chúng tôi, nhưng dường như ngài không bao giờ có thể
đồng hóa nó một cách trọn vẹn, v́ nếu như vậy, th́ ngài đă không bao giờ
chết. Tôi vẫn thường hay ngồi trong gian pḥng này, và nghe Thánh Jean cùng
cha tôi đàm luận. Chính tại đây mà Thánh Jean đă được thụ huấn một phần lớn
giáo lư của cha tôi truyền lại. Chính là tại đây mà cha tôi qua đời và đem
cả thể xác của người đi luôn, điều này Thánh Jean đă chứng kiến tận mắt. Tất
cả những người trong gia đ́nh bên nội cũng như bên ngoại tôi đều đă đem thể
xác đi luôn khi họ qua đời. Sự qua đời đó, tức là một giai đoạn chuyển tiếp,
có nghĩa là thể xác của họ là một vật toàn hảo về mặt tâm linh. Người ta trở
nên ư thức được cái ư nghĩa tâm linh của cuộc đời, ư nghĩa của Thượng Đế,
đến mức độ nh́n cuộc đời bằng cái tầm nhăn quang của Thượng Đế. Khi đó,
người ta thụ hưởng cái đặc ân tiếp nhận được những giáo lư cao siêu nhất và
người ta có thể giúp đỡ tất cả mọi người.
Chúng tôi không bao giờ đi xuống từ cái trạng thái tâm thức đó, v́
những người nào đă đạt tới đó không có ư muốn rớt xuống thấp hơn. Họ biết
rằng đời người là một sự tiến hóa không ngừng. Không có thoái bộ hay thoái
hóa, và không ai muốn đi thụt lùi trở lại. Tất cả đều đưa tay ra để giúp đỡ
những người đi t́m ánh sáng. Họ gửi thường xuyên những thông điệp trong vũ
trụ càn khôn. Trong tất cả các vùng trên thế giới ngày nay đều có những
người thụ cảm đă diễn đạt những thông điệp đó. Chính là để làm cái việc
phụng sự đó mà chúng tôi muốn đạt tới cái cơi giới, hay cái trạng thái tâm
thức kể trên. Tất cả chúng ta đều có thể và đều muốn giúp đỡ, phụng sự, bằng
cách này hay cách khác. Chúng tôi có thể nói chuyện với những tâm hồn thụ
cảm, giáo dục họ, và nâng cao tâm thức họ hoặc trực tiếp, hoặc do một người
trung gian. Chúng tôi làm tất cả những việc đó. Nhưng một người trung gian
không thể làm công việc giùm cho kẻ khác hoặc huấn luyện họ măi măi. Người
ta phải quyết định tự ḿnh làm công việc đó và bắt tay vào việc. Chừng đó
người ta được tự do và chỉ trông cậy vào sức ḿnh.
Đức Jesus ư thức được rằng thể xác là một vật tâm linh và bất diệt.
Khi tất cả mọi người đều đạt tới trạng thái tâm thức đó, chúng ta có thể cảm
thông với tất cả và phổ biến trong quần chúng cái giáo lư mà chúng ta đă
nhận được. Chúng tôi hưởng thụ cái đặc ân được biết rằng mỗi người đều có
thể thực hiện những công tŕnh giống như của chúng tôi và giải quyết tất cả
mọi vấn đề khó khăn của cuộc đời. Tất cả những khó khăn và phiền toái sẽ trở
nên giản dị. Dung mạo bề ngoài của tôi không khác ǵ các bạn hay những người
mà các bạn vẫn gặp thường ngày. Và tôi không thấy một sự khác biệt nào giữa
các bạn với tôi.
Chúng tôi nói rằng chúng tôi nhận thấy nơi người một cái ǵ tốt đẹp
hơn chúng tôi vô cùng. Người đáp:
-Đó chỉ là sự so sánh giữa cái hữu diệt và cái bất tử. Các bạn hăy
nh́n thấy tính chất thiêng liêng của mỗi người mà không cần so sánh người ấy
với những người khác, rồi các bạn sẽ thấy họ cũng giống như tôi. Các bạn hăy
t́m kiếm Phật tánh trên gương mặt của mỗi người rồi các bạn sẽ thấy ngay
Phật tánh hiện trên mặt họ. Chúng tôi tránh mọi sự so sánh. Chúng tôi chỉ
nh́n thấy Phật tánh ở tất cả mọi người và bất cứ lúc nào. Làm như thế, chúng
tôi trở nên vô h́nh vô ảnh đối với các bạn. Nhờ có tầm nhăn quang toàn vẹn,
bao quát nên chúng tôi nh́n thấy sự toàn thiện toàn mỹ, trái lại, với một
nhăn quang thiếu sót, các bạn chỉ nh́n thấy có sự bất toàn. Các bạn có thể
cho rằng giáo lư của chúng tôi xuất xứ từ nguồn cảm hứng thiêng liêng cho
đến khi mà các bạn được thụ huấn với một vị Chân Sư và có thể nâng cao tâm
thức của ḿnh đến mức nh́n thấy và nói chuyện với chúng tôi như bây giờ.
Không có sự cảm hứng nào trong việc nói chuyện hay thử nói chuyện với một
người. Giáo lư của chúng tôi đưa người hành giả đến mức độ mà họ có thể nhận
được nguồn cảm hứng thiêng liêng thật sự. Nhưng nguồn cảm hứng đó chỉ có thể
đến trực tiếp từ Thượng Đế mà thôi. Bằng cách để cho Thượng Đế tự biểu lộ
xuyên qua các bạn, các bạn sẽ sống với chúng tôi…
IV
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi thức dậy sớm và sẵn sàng dùng điểm tâm
vào lúc sáu giờ rưỡi. Khi chúng tôi đi từ quán trọ ngang qua đường lộ để đến
tiệm ăn, chúng tôi gặp các Chân Sư cùng đi một đường. Các Ngài vừa đi vừa
nói chuyện với nhau như mọi người thường. Các Ngài lên tiếng chào chúng tôi
và chúng tôi bày tỏ sự ngạc nhiên mà thấy các Ngài sống b́nh dị như vậy. Các
Ngài đáp:
-Chúng tôi cũng chỉ là người như các bạn vậy. tại sao các bạn lại cứ
một mực coi chúng tôi là khác thường? Chúng tôi không khác các bạn ở một
điểm nào cả. Chúng tôi chỉ có phát triển nhiều hơn những quyền năng mà
Thượng Đế ban cho tất cả chúng ta.
Chúng tôi bèn hỏi:
-Vậy tại sao chúng tôi không thể thực hiện những công tŕnh giống như
của các Ngài?
-Tất cả những người mà chúng tôi tiếp xúc, tại sao họ không theo
chúng tôi và không bắt tay vào việc làm của chúng tôi? Chúng tôi không thể
và cũng không muốn bắt buộc ai theo chúng tôi. Mỗi người có quyền tự do sinh
hoạt và đi theo con đường mà họ chọn lựa tùy sở thích. Chúng tôi chỉ muốn
vạch cho họ thấy con đường dễ dàng và giản dị mà chúng tôi đă đi thử và nhận
thấy là rất mỹ măn.
Chúng tôi ngồi vào bàn ăn và câu chuyện xoay về những diễn biến của
đời sống hằng ngày. Tôi lấy làm say mê thích thú và vô cùng thán phục. Bốn
vị siêu nhân ngồi trước mặt chúng tôi. Một vị đă hoàn thành từ hai ngh́n năm
nay phép tinh luyện xác thân đến mức có thể di chuyển thể xác đi bất cứ nơi
nào tùy ư muốn. Ngài đă sống một ngh́n năm trên địa cầu và vẫn duy tŕ sự
hoạt động trẻ trung của một người ba mươi lăm tuổi.
Ngồi kế bên Ngài là một người trong thân quyến, nhưng trẻ hơn đến năm
thế hệ. Vị này tuy đă sống trên bảy trăm năm trên Trái Đất, nhưng bề ngoài
xem có vẻ chưa đến bốn mươi tuổi. Ngài và vị tổ tiên năm đời của Ngài có thể
nói chuyện với nhau một cách rất tự nhiên như hai người thường.
Kế đó là đức Tuệ Minh, ngài đă sống trên năm trăm năm và bề ngoài xem
như một người sáu mươi tuổi. Sau cùng là Dật Sĩ, bốn mươi tuổi và có cái
dung mạo tương đương với người ở tuổi ấy. Bốn vị nói chuyện với nhau như anh
em, không một mảy may lộ vẻ tự tôn. Tuy câu chuyện thật giản dị khả ái, mỗi
lời nói của các Ngài đều biểu lộ một sự hợp lư hoàn toàn và chỉ rằng các
Ngài biết rơ tận tường đề tài thảo luận. Các Ngài không có lộ vẻ ǵ là huyền
thoại hay bí mật. Các Ngài xử sự như những người thường trong công việc hằng
ngày. Tuy vậy, đôi khi tôi cũng cảm thấy khó tin rằng đó không phải là
chuyện xảy ra trong giấc mơ.
Sau bữa ăn sáng, một trong những người bạn tôi đứng dậy để trả tiền.
Đức Tuệ Minh nói:
-Ở đây các bạn là khách của tôi.
Nói xong, Ngài đưa tay về phía bà chủ quán, mà chúng tôi c̣n tưởng
rằng đó là một bàn tay không. Chừng xem lại, chúng tôi thấy bàn tay Ngài cầm
đúng số tiền ghi trên tờ hóa đơn tính tiền bữa ăn. Các vị Chân Sư không đem
tiền bạc theo trong ḿnh và không cần ai cung cấp tiền bạc. Khi cần dùng,
tiền bạc luôn luôn có sẵn trong tầm tay, mà các Ngài lấy trực tiếp từ chất
Tiên Thiên Khí trong vũ trụ.
Khi bước chân ra khỏi quán, vị Chân Sư đi cùng với toán thứ tư bắt
tay chúng tôi và nói rằng người phải trở về toán của Ngài, rồi biến mất
dạng. Chúng tôi ghi nhận giờ phút mà Ngài biến mất và về sau chúng tôi có
kiểm điểm lại th́ thấy Ngài đă trở về toán của Ngài không đầy mười phút sau
khi từ giă chúng tôi.
Suốt ngày hôm đó, chúng tôi cùng đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và vị Sư Tổ,
tác giả các văn kiện, đi dạo chơi trong làng và các vùng phụ cận. Vị Sư Tổ
thuật lại cho chúng tôi nghe với rất nhiều chi tiết, vài sự việc xảy ra
trong khoảng mười hai năm mà Thánh Jean Baptiste đă lưu trú trong làng này.
Những chuyện đó được kể lại một thời dĩ văng xa xăm bên cạnh Thánh Jean. Từ
trước đến giờ, chúng tôi vẫn coi Ngài như một nhân vật huyền thoại do thiên
hạ bày đặt ra để ḷe đời. Kể từ ngày đó, đối với tôi Ngài đă trở nên một
nhân vật lịch sử và có thật. Tôi tưởng tượng lúc đương thời Ngài cũng đă
từng đi dạo như chúng tôi trong làng này và ở các vùng chung quanh, và được
các Chân Sư cao cả truyền dạy những pháp môn mà Ngài không hoàn toàn hấp thụ
được những chân lư căn bản.
Trong ngày hôm đó, chúng tôi đi đó đi đây, vừa nghe kể lại những câu
chuyện lịch sử thú vị, vừa nghe giảng dạy và phiên dịch những văn kiện lịch
sử ở ngay tại chỗ mà những câu chuyện tường thuật ấy đă xảy ra hằng bao
nhiêu ngàn năm trở về trước. Kế đó, chúng tôi trở về làng trước khi trời
tối, ai nấy đều mệt mỏi.
Ba vị siêu nhân cũng đi bộ như chúng tôi, nhưng không lộ vẻ mệt mỏi
chút nào. Trong khi chúng tôi ḿnh mẩy lấm bùn lầy, cát bụi và mồ hôi, th́
các Ngài đều có vẻ tươi tỉnh, thư thái, và y phục của các Ngài mặc đều trắng
tinh như lúc mới bắt đầu ra đi. Chúng tôi đă nhận thấy, trong những chuyến
xuất hành đă qua, rằng y phục của các Chân Sư không hề bị hoen ố, và chúng
ta vẫn thường nói lên sự nhận xét đó, nhưng không được trả lời.
Chiều hôm đó, chúng tôi lại nêu câu hỏi về vấn đề ấy th́ vị Sư Tổ
đáp:
-Điều ấy làm các bạn ngạc nhiên, nhưng chúng tôi c̣n ngạc nhiên hơn
nhiều mà thấy rằng một mảy may bụi bậm vật chất của Thượng Đế tạo ra lại có
thể dính vào một nhân vật cũng do Thượng Đế sáng tạo mà nó không tùy thuộc
quyền sở hữu, ở một nơi mà người ta không muốn cho nó dính vào. Với một quan
niệm đúng đắn, điều ấy sẽ không thể xảy ra, v́ không một mảy may bụi bặm vật
chất nào của Thượng Đế có thể được đặt vào một chỗ mà người ta không muốn.
Một lát sau đó, chúng tôi nhận thấy rằng y phục và thân thể của chúng
tôi cũng sạch sẽ trơn tru như các Chân Sư, sự biến đổi này diễn ra trong
nháy mắt trên thân ḿnh tôi và các bạn của tôi. Mọi dấu vết của sự mệt nhọc
đều đă biến mất và chúng tôi cảm thấy khỏe khoắn nhẹ nhàng cũng như ḿnh vừa
mới ngủ thức dậy và đă tắm rửa xong. Đó là cách trả lời cho những sự thắc
mắc của chúng tôi. Đêm ấy, chúng tôi đi ngủ với một niềm yên tĩnh thâm trầm
sâu xa nhất trong tâm hồn mà chúng tôi chưa hề cảm thấy bao giờ kể từ khi
chúng tôi bắt đầu sống chung với các vị Chân Sư. Sự kính sợ của chúng tôi đă
biến đổi nhanh chóng thành một t́nh thương sâu xa đối với những tấm ḷng cao
quư hồn nhiên của các Ngài, là những đấng Cao Cả đă làm biết bao nhiêu việc
tốt lành cho nhân loại. Các Ngài gọi tất cả mọi người là bằng hữu, anh em,
và chúng tôi cũng bắt đầu coi các Ngài như những bậc Anh Cả. Các Ngài không
tự gán cho ḿnh một giá trị nào cả, và luôn luôn nói rằng chính Thượng Đế đă
biểu lộ xuyên qua các Ngài. Các Ngài nói:
-Riêng tôi, tôi không thể làm ǵ được. Chính Thượng Đế ngự nơi tôi,
Ngài đă làm tất cả mọi việc.
Sáng ngày hôm sau, lúc ăn điểm tâm, có người báo tin cho biết rằng
ngày ấy chúng tôi sẽ đi đến một làng ở tận trên cao trong vùng núi. Từ đó
chúng tôi sẽ đi đến ngôi đền trên đỉnh của một ngọn núi mà tôi đă nh́n thấy
ở đằng xa từ trên một đỉnh núi cao hơn mà tôi đă diễn tả trước đây. V́ đường
núi cheo leo, chúng tôi không thể đi ngựa trên một quăng đường dài hơn hai
mươi lăm cây số. Chúng tôi đem hai người dân làng đi theo trên quăng đường
này, rồi giao ngựa cho họ dắt đi đến một thôn ấp nhỏ ở gần bên và giữ ngựa
tại đó để chờ chúng tôi đi bận về. Mọi việc xảy ra như đă dự định. Chúng tôi
giao ngựa cho hai người dân làng và bắt đầu đi theo con đường núi nhỏ hẹp
đưa đến làng trên núi. Vài đoạn đường núi này là những nấc thang tam cấp đục
trong vách đá.
Chúng tôi đến nơi vào lúc bốn giờ chiều. Ngôi đền dựng trên một đỉnh
núi nh́n thẳng xuống xóm làng. Vách núi dốc đứng cheo leo đến nỗi muốn lên
tới đỉnh, người ta phải tḥng xuống một cái thúng đương bằng mây để du khách
ngồi vào đó và dùng dây kéo lên. Cái thúng dùng để
đưa khách lên tới đỉnh núi và cũng dùng để đưa khách từ trên đỉnh đi
xuống phía dưới.
Khi chúng tôi đă sẵn sàng, người ta tḥng cái thúng xuống và chúng
tôi được kéo lên từng người một cho đến nơi có một mơm đá nhô ra ngoài, chỗ
này bề cao đến một trăm ba chục thước khỏi mặt đất. Đến đây, chúng tôi bước
ra khỏi thúng và theo đường nhỏ lên tận ngôi đền ở trên đỉnh núi cách đó độ
một trăm bảy mươi lăm thước bề cao, vách của ngôi đền liền với vách của núi
đá. Chúng tôi được cho biết rằng c̣n phải lên một chuyến thứ nh́ cũng giống
y như chuyến thứ nhất. Thật vậy, chúng tôi thấy từ ngôi đền nhô ra một cây
đà bằng gỗ rất lớn giống như cây đà gie ra từ mơm đá lúc năy. Từ cái trục ở
phía trên người ta tḥng xuống một sợi dây cói để cột vào cái thúng bằng mây
lúc năy, và chúng tôi lại được kéo lên từng người một đến tận nóc bằng của
ngôi đền.
Lại một lần nữa, tôi có cảm tưởng như đang ở trên nóc tột đỉnh của
thế giới. Đỉnh núi này nhô lên ba trăm thước cao hơn các ngọn núi ở vùng
chung quanh. Làng mà từ đó chúng tôi bắt đầu ra đi, c̣n ở trên cao hơn nữa,
trên đỉnh một truông núi mà người ta dùng để vượt qua dăy Hy Mă Lạp Sơn. Đền
này c̣n ở ba trăm năm chục thước thấp hơn ngôi đền mà trước đây chúng tôi đă
cùng viếng chung với đức Tuệ Minh và Dật Sĩ, nhưng ở đây tầm nhăn quang có
thể nh́n bao quát hơn nhiều. Dường như chúng tôi có thể nh́n vào chỗ không
gian vô tận.
Người ta dọn cho chúng tôi một chỗ nghỉ đêm thật thoải mái tiện nghi.
Ba vị siêu nhân cho chúng tôi biết rằng các vị sắp đi viếng vài nhóm đoàn
viên ở rải rác khắp nơi và các vị sẵn ḷng chuyển thông điệp của chúng tôi
cho họ. Chúng tôi bèn viết thơ cho các bạn hữu và có ghi cẩn thận ngày giờ
và địa điểm. Chúng tôi giữ lại một bổn sao của những thông điệp, về sau
chúng tôi kiểm điểm lại th́ được biết rằng tất cả các thông điệp đều được
giao tận nơi không đầy hai mươi phút sau khi gởi đi. Khi chúng tôi đưa những
thông điệp cho các vị siêu nhân, các vị bắt tay từ giă chúng tôi và hẹn gặp
nhau lại vào sáng ngày hôm sau, rồi các vị biến mất.
Sau bữa ăn chiều ngon lành do những người coi đền dọn ra, chúng tôi
lui về pḥng yên nghỉ nhưng không ngủ được, v́ những kinh nghiệm vừa qua bắt
đầu gây cho chúng tôi những ấn tượng sâu xa. Chúng tôi đang ở trên một chiều
cao ba ngàn thước khỏi mặt đất, không một người nào ở kế cận trừ ra những
người coi đền, và không một tiếng động nào khác hơn là giọng nói của chúng
tôi. Bầu không khí chung quanh thật hoàn toàn yên lặng.
Chúng tôi có dặn một người coi đền hăy đánh thức chúng tôi dậy khi
trời vừa rạng sáng. Y gơ cửa trong khi tôi vừa chợp mắt ngủ chưa được bao
lâu. Chúng tôi sửa soạn mặc quần áo xong, hối hả chạy mau ra sân thượng để
ngắm nh́n mặt trời mọc ở vùng núi. Trong cơn vội vàng chúng tôi gây nhiều
tiếng động ầm ĩ đến nỗi những người gác đền hoảng kinh chạy ra xem có phải
là chúng tôi đă loạn trí chăng! Tôi nghĩ rằng chắc là không bao giờ ngôi đền
này đă trải qua một cơn náo động như thế từ ngày nó được dựng lên, nghĩa là
từ trên mười ngh́n năm nay. Thật vậy, ngôi đền này cổ xưa đến nỗi nó đồng
hóa làm một với cái đỉnh núi.
Khi ra đến sân thượng, không ai cần bảo ai nên giữ im lặng nữa, v́
mọi sự dặn ḍ đều là thừa. Vừa nh́n ra ngoài, hai bạn tôi đă đứng lặng
người, miệng há hốc, hai mắt dương lên thật lớn. Tôi tưởng chứng chắc là tôi
cũng đă làm như vậy. Tôi c̣n đợi xem họ nói ǵ, th́ họ đă đồng thanh la lớn:
-Chúng ta hẳn là bị treo lơ lửng trên không gian!
Sự xúc động và ngạc nhiên của họ thật giống y như của tôi khi tôi vừa
lên tới nóc đền ở đỉnh núi bên kia trước đây không lâu. Họ đă quên trong một
lúc rằng hai chân họ vẫn chấm đất và họ có cảm giác như đứng phất phơ trong
không gian. Một bạn tôi nói:
-Tôi không ngạc nhiên nếu các vị Chân Sư có thể bay nhẹ trên không
gian sau khi đă có cái cảm giác như chúng ta vừa rồi.
Một chuỗi cười ngắn kéo chúng tôi trở về thực tế. Chúng tôi quay lại
nh́n th́ thấy ngay sau lưng chúng tôi có đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và vị Sư Tổ,
tác giả các văn kiện. Một bạn tôi cao hứng muốn chạy lại bắt tay hết thảy
các vị cùng một lúc, và nói:
-Thật là kỳ diệu. Không ai lấy làm ngạc nhiên nếu các vị có thể bay
bổng lên trên không, sau khi đă lưu trú tại đây.
Các vị mỉm cười, và một vị
nói:
Các bạn cũng có thể bay bổng như chúng tôi. Các bạn chỉ cần biết từ
trong nội tâm rắng các bạn có cái quyền năng đó rồi các bạn hăy sử dụng nó.
Chúng tôi ngắm nh́n phong cảnh. Sương mù đă hạ thấp xuống và bay từng
đợt phất phơ theo chiều gió, nhưng cũng hăy c̣n khá cao nên người ta không
thể nh́n thấy dưới đất. Những đợt sương mù di chuyển làm cho chúng tôi có
cái cảm giác như được chở đi trên đôi cánh im lặng của một con chim khổng
lồ. Nh́n về phía xa, người ta mất cả ư thức về trọng lượng của ḿnh, và thật
là khó mà tưởng tượng rằng ḿnh đang bay lướt trong không gian. Riêng phần
tôi, tôi đă mất ư thức về trọng lượng của ḿnh đến nỗi tôi đă nhẹ ḿnh bay
lơ lửng trên nóc đền. Th́nh ĺnh một tiếng động làm cho tôi té nặng đến nỗi
tôi cảm thấy một sự xúc động mà hậu quả hăy c̣n tồn tại nhiều ngày mới hết.
Sáng hôm ấy, chúng tôi quyết định ở lại ngôi đền này trong ba ngày,
v́ chỉ c̣n một nơi thú vị để đi thăm viếng trước khi gặp lại những toán
khác. Đức Tuệ Minh đă đem tới những thông điệp. Một thông điệp cho biết rằng
toán của vị trưởng nhóm chúng tôi đă đến viếng ngôi đền này chỉ mới cách đây
ba ngày. Sau bữa ăn điểm tâm, chúng tôi bước ra ngoài để nh́n xem sa mù tan
dần. Chúng tôi ngắm nh́n cho đến khi sa mù biến tan đi mất và mặt trời ló
dạng. Người ta nh́n thấy thôn ấp nhỏ ẩn dưới triền núi và thung lũng diễn ra
tận đằng xa. V́ các vị siêu nhân đă quyết định đến viếng thôn ấp này, nên
chúng tôi xin phép đi theo các vị. Các vị vừa nhận lời vừa cười, và khuyên
chúng tôi nên sử dụng cái thúng bằng mây để tḥng xuống đất. Các vị nói rằng
đi bằng cách đó th́ khi đến nơi, chúng tôi sẽ có cái h́nh dáng bề ngoài dễ
coi hơn là nếu chúng tôi sử dụng phương pháp di chuyển của các vị. Người ta
bèn dùng cái thúng tḥng chúng tôi từng người một xuống tận chỗ mơm đá nhô
ra ở giữa chừng, và từ đó, xuống vùng cao nguyên nh́n xuống dưới làng, và ở
lại đây suốt ngày hôm đó.
Đó là một làng cổ có những nét dị kỳ, đặc biệt của vùng sơn cước này.
Nó gồm có độ hai mươi nhà đục trong triền núi, và cửa nẻo đều đóng kín bằng
những phiến đá lớn. Người ta xây cất nhà kiểu này để tránh cho nhà khỏi bị
đè bẹp dưới trọng lượng của tuyết mùa đông. Chúng tôi
được cho biết rằng Thánh Jean Baptiste và được thụ huấn về Đạo Lư trong đền.
Đền này vẫn c̣n nguyên vẹn như hồi xưa. Làng này và ngôi đền đă được lập nên
ít nhất sáu ngh́n năm trước khi Thánh Jean đến viếng nơi này. Vào lúc năm
giờ chiều, vị Sư Tổ, tác giả các văn kiện bắt tay từ giă chúng tôi và nói
Ngài
phải vắng mặt nhưng sẽ trở lại trong giây lát. Kế đó
Ngài
biến mất dạng.
Chiều hôm đó, từ trên nóc đền chúng tôi ngắm nh́n cảnh mặt trời lặn
lạ lùng nhất chưa từng thấy, tuy rằng tôi đă có dịp may nh́n thấy cảnh trời
chiều ở hầu hết khắp nơi trên thế giới.
Chúng tôi ngồi trên sân thượng đến nửa đêm, vừa nói chuyện vừa hỏi
đức Tuệ Minh và Dật Sĩ về nhiều vấn đề, nhất là về địa h́nh, địa vật và lịch
sử của vùng này. Đức Tuệ Minh đưa ra nhiều chú thích trong các văn kiện mà
các Chân Sư từng biết rơ. Những văn kiện ấy chứng tỏ rằng xứ này đă từng có
người ở từ nhiều ngàn năm trước thời kỳ có lịch sử của thế giới.
Chúng tôi đang ngắm vầng trăng rằm trong sáng xuất hiện trên dăy núi
đằng xa ở tận chân trời. Th́nh ĺnh, chúng tôi nghe có tiếng động ở phía sau
lưng. Chúng tôi quay lại nh́n th́ thấy một bà mệnh phụ trạc độ ngũ tuần đang
đứng đó và vừa mỉm cười vừa hỏi rằng sự xuất hiện th́nh ĺnh của bà có làm
cho chúng tôi sợ hăi không? Trước hết chúng tôi có cảm tưởng rằng bà ấy đă
nhảy từ trên bờ tường xuống sân thượng, nhưng sự thật th́ bà ấy chỉ có dậm
chân để làm cho chúng tôi chú ư, và sự im lặng thâm trầm của miền núi lúc
ban đêm đă làm vang dội âm thanh ấy lên gấp bội phần. Đức Tuệ Minh mau bước
tới chào mệnh phụ và giới thiệu chị ngài với chúng tôi. Bà mỉm cười và hỏi
bà có làm rộn chúng tôi không?
Chúng tôi an tọa, và câu chuyện xoay chung quanh những kỷ niệm cùng
những kinh nghiệm về công việc phụng sự trong cuộc đời tu hành của bà. Bà có
ba người con trai và một người con gái, tất cả đều được giáo dục trong cùng
một tinh thần như của bà. Chúng tôi hỏi có các con bà cùng đi không? Bà đáp
rằng hai người con nhỏ nhất không bao giờ rời bà. Chúng tôi yêu cầu được gặp
các con bà. Bà đáp rằng họ cũng đang rảnh việc, và ngay lúc đó xuất hiện hai
người, một người nam và một người nữ. Hai người này chào cậu và mẹ, rồi tiến
tới để được giới thiệu với tôi và hai bạn tôi. Người con trai cao lớn vạm vỡ,
có dáng hào hùng, đầy nam tính, trạc độ chừng ba mươi tuổi. Người con gái
vóc dạc hơi nhỏ, dáng điệu thanh tân, với những nét diễm kiều. Đó là một
thiếu nữ đẹp và trạc độ hai mươi tuổi. Về sau chúng tôi được biết rằng người
nam có đến một trăm mười lăm tuổi và người nữ đă một trăm hai mươi tám tuổi.
Chúng tôi c̣n ngồi đàm đạo đến quá nửa đêm mới chia tay nhau.
Qua ngày hôm sau, các vị siêu nhân tỏ ư muốn từ giă chúng tôi để ra
đi. Chỉ c̣n có Dật Sĩ ở lại với chúng tôi, và ngày kế đó đến lượt chúng tôi
cũng sửa soạn lên đường. Mặc dầu trời hăy c̣n chưa sáng, hầu hết tất cả dân
làng đều thức dậy rất sớm để tiễn đưa chúng tôi.
CHƯƠNG BỐN
Vị mẫu thân của Chân Sư Tuệ Minh – Một buổi dạ tiệc với các Chân Sư – Người
thiếu phụ đẹp tuyệt trần – T́nh Bác Ái thiêng liêng.
I
Trong năm ngày kế đó, con đường của chúng tôi đi xuyên qua vùng mà
ngày xưa Thánh Jean đă từng đi qua. Qua ngày thứ năm, chúng tôi đến nơi thôn
ấp mà những người giữ ngựa đă ở lại để chờ đợi chúng tôi. Đức Tuệ Minh đă có
mặt tại đây và kể từ lúc đó, cuộc hành tŕnh được tương đối dễ dàng cho đến
khi chúng tôi đến nơi làng của ngài sinh
trưởng. Khi gần đến làng, chúng tôi nhận thấy vùng này có khá đông dân cư,
những đường lộ và đường ṃn đều tốt hơn những đường mà chúng tôi đă đi qua
từ trước đến giờ. Nhưng trong những giờ kế đó, chúng tôi đi qua một vùng cao
nguyên lồi lơm với một địa thế vô cùng cheo leo hiểm trở. Làng có tường đá
bọc chung quanh như thành quách để làm hệ thống pḥng thủ.
Người ta nói rằng vùng này trước kia là nơi cư trú của một bộ lạc thổ
dân sống biệt lập với thế giới bên ngoài; về sau họ đă lần lần biệt tích và
không c̣n để lại dấu vết. Một thiểu số c̣n lại đă xáp nhập với những bộ lạc
khác ở quanh vùng. Đó là nơi quê hương của đức Tuệ Minh và là nơi mà các
đoàn viên của phái bộ chúng tôi hẹn gặp nhau trở lại. Những đoàn viên này đă
chia ra từng toán nhỏ để thi hành công tác trên một vùng lănh thổ rộng lớn.
Khi hỏi lại th́ được biết rằng chúng tôi là toán đến đây trước tiên,
và những toán khác cũng sẽ đến nơi nội trong ngày hôm sau. Chúng tôi được
chỉ định nơi trú ngụ trong một ngôi nhà ba tầng lầu dựa vách tường làng.
Người ta dọn cho chúng tôi một nơi tạm nghỉ khá tiện nghi và cho biết rằng
bữa cơm chiều sẽ được dọn ra ở từng dưới. Khi chúng tôi bước xuống từng dưới
th́ thấy ngồi quanh bàn ăn có bà chị của đức Tuệ Minh, chồng bà, và hai
người con mà chúng tôi đă gặp gỡ tại ngôi đền, cùng với đức Tuệ Minh cũng
hiện diện tại đó.
Chúng tôi vừa dùng cơm chiều xong, th́ nghe có tiếng động trước sân
nhà. Một dân làng đến cho hay rằng một trong các toán đoàn viên vừa mới đến.
Đó là toán của vị trưởng nhóm Tô Mặc. Người ta dọn bữa ăn chiều cho họ và
xếp đặt cho họ nghỉ lại ban đêm cùng với chúng tôi, kế đó tất cả chúng tôi
đều bước lên trên nóc bằng của ngôi nhà. Tuy mặt trời đă lặn, nhưng bóng
hoàng hôn hăy c̣n phảng phất, và trời chưa tối hẳn.
Trong khi chúng tôi đang b́nh luận về giá trị pḥng thủ của bức tường
rào chung quanh làng, th́ bà chị và cô cháu gái của đức Tuệ Minh đến với
chúng tôi. Một lát sau đó, người anh rể và người cháu trai của ngài cũng
đến. Chúng tôi nhận thấy các vị tỏ dấu băn khoăn mong đợi một sự ǵ, và bà
chị của đức Tuệ Minh bèn nói cho chúng tôi biết rằng chiều nay bà trông đợi
một cuộc viếng thăm của thân mẫu bà. Bà nói:
-Chúng tôi sung sướng đến nỗi cầm ḷng không đậu, v́ ḷng yêu mến của
chúng tôi đối với mẫu thân thật đậm đà dường nào. Chúng tôi yêu mến tất cả
những người sống đời sống tâm linh cao cả, v́ tất cả các vị ấy đều có tâm
hồn cao quư và thiêng liêng. Nhưng thân mẫu chúng tôi c̣n có ḷng từ bi,
nhân hậu, vị tha, cứu đời đến nỗi chúng tôi không thể nào yêu mến bà gấp
ngàn lần. Vả lại, chúng tôi đối với bà c̣n có t́nh mẫu tử, cốt nhục. Chúng
tôi biết rằng các ông cũng sẽ yêu mến bà như vậy.
Chúng tôi hỏi đức bà có thường đến đây không, th́ được đáp:
-Có chứ! Mẫu thân thường đến luôn luôn khi nào chúng tôi cần đến bà.
Nhưng bà mắc bận rộn công việc trong lănh vực hoạt động của bà nên bà chỉ
đến đây một năm có hai lần, và ngày hôm nay chính là ngày thăm viếng định kỳ
của bà. Lần này bà sẽ ở lại với chúng tôi một tuần. Chúng tôi sung sướng đến
nỗi không c̣n biết làm ǵ trong khi chờ đợi.
Câu chuyện xoay qua những kinh nghiệm của chúng tôi kể từ khi chúng
tôi chia nhau đi riêng từng toán, và cuộc thảo luận đang đến hồi sôi nổi th́
th́nh ĺnh một cơn im lặng xâm chiếm lấy chúng tôi. Trước khi nhận biết điều
đó, tất cả chúng tôi đều ngồi im không ai nói ǵ và cũng không ai nghĩ ngợi
điều ǵ. Bóng tối của ban đêm đă bao trùm khắp nơi, và dăy núi tuyết ở xa xa
coi giống như một con quái vật khổng lồ. Kế đó chúng tôi nghe một tiếng động
nhẹ, giống như tiếng con chim sẻ đậu dưới đất. Một đám sương mù dường như
đông đặc lại từ từ ở hướng đông của vách tường rào, rồi th́nh ĺnh tượng
h́nh một cách rơ rệt. Trước mặt chúng tôi lúc đó là một người đàn bà nhan
sắc diễm kiều bao phủ bởi một ṿng hào quang sáng chói đến nỗi chúng tôi
không thể nh́n thấy rơ tận mắt.
Cả gia quyến đều đổ xô về phía người đàn bà ấy, hai tay đưa thẳng ra
phía trước và đồng thanh kêu to:
-Mẫu thân!
Bà Mă Ly nhẹ nhàng từ bờ tường bước xuống sân thượng và ôm hôn mỗi
người trong thân quyến như mọi người hiền mẫu trong dịp tái ngộ với con cái.
Kế đó, chúng tôi được giới thiệu với bà. Bà nói:
-À! Các ông là những huynh đệ từ Mỹ quốc xa xôi đến đây để thăm viếng
chúng tôi ? Tôi rất sung sướng chúc mừng các ông. Chúng tôi ban rải t́nh
thương cho tất cả, và nếu những người đàn ông sẵn ḷng để cho chúng tôi tự
nhiên, th́ chắc hẳn là chúng tôi cũng ôm lấy họ trong ṿng tay như tôi vừa
đón mừng những người mà tôi gọi là thân bằng quyến thuộc của tôi. V́ thật ra
chúng ta chỉ là thành phần của một đại gia đ́nh, tức là gia đ́nh những người
con của Thượng Đế. Vậy tại sao chúng ta không thể sum họp tất cả với nhau
như anh em một nhà?
Chúng tôi vừa nhận thấy rằng thời tiết miền núi về đêm cũng khá lạnh.
Nhưng khi đức bà Mă Ly xuất hiện, th́ sự hiện diện của bà tỏa ra một mănh
lực nó biến đổi bầu không khí nơi đây trở thành bầu không khí của một đêm
mùa hè. Khí trời dường như đượm mùi hương của bông hoa. Một ánh sáng dịu
giống như ánh trăng rằm thấm nhuần mọi vật, và làm cho cảnh vật chung quanh
được bao phủ trong một sự ấm cúng lạ lùng khó tả. Tuy nhiên, các Chân Sư
không biểu lộ một cử chỉ nào gọi là kiểu cách. Các
Ngài
có một lối xử sự thật khả ái hồn nhiên và vô cùng giản dị.
Có người đề nghị đi xuống nhà dưới. Đức bà Mă Ly và các bà phu nhân
dẫn đường đi trước. Chúng tôi nối gót đi theo sau, và những người gia nhân
đi sau cùng. Trong khi chúng tôi đi xuống cầu thang như thường lệ, chúng tôi
nhận thấy rằng bước chân chúng tôi không gây nên một tiếng động nào. Tuy
nhiên, chúng tôi không hề cố gắng giữ im lặng. Một người trong chúng tôi c̣n
thú thật là y đă thử đi nặng bước nhưng cũng không gây tiếng vang. Dường như
bàn chân chúng tôi đi không chấm đất trên sân thượng hay trên những nấc cầu
thang.
Trên tầng lầu các buồng ngủ, chúng tôi bước vào một gian pḥng trang
hoàng rất đẹp và ngồi an tọa. Chúng tôi liền nhận thấy một sự ấm áp dễ chịu,
và một ánh sáng dịu tỏa khắp pḥng, mà chúng tôi không hiểu từ đâu đến. Gian
pḥng đắm ch́m một lúc trong một cơn im lặng thâm trầm, kế đó đức bà hỏi
thăm chúng tôi có chỗ nghỉ đàng hoàng tươm tất không, có được săn sóc tử tế
không, và cuộc hành tŕnh có làm chúng tôi được thỏa măn không?
Chúng tôi nói chuyện thường về cuộc đời hằng ngày, mà bà có vẻ rất
thành thạo. Kế đó câu chuyện xoay về vấn đề đời sống của chúng tôi trong gia
đ́nh. Đức bà kể tên họ của cha mẹ, và anh chị em trong gia đ́nh chúng tôi,
và làm chúng tôi ngạc nhiên bằng cách diễn tả cuộc đời chúng tôi từng chi
tiết mà không hỏi chúng tôi một câu nào. Đức bà kể những xứ mà chúng tôi đă
viếng thăm, những công tŕnh mà chúng tôi đă thực hiện, và những lỗi lầm mà
chúng tôi đă mắc phải. Đức bà không nói một cách mơ hồ nó bắt buộc chúng tôi
phải ráng nhớ lại những kỷ niệm cũ, mà trái lại mỗi chi tiết đều rơ ràng
dường như chúng tôi sống lại những giai đoạn đă qua.
Khi các vị quư khách kiếu từ để lui về pḥng riêng, chúng tôi đều bày
tỏ sự ngạc nhiên mà nghĩ rằng không có ai trong các vị đă sống ít hơn một
trăm tuổi, và đức bà đă có bảy trăm tuổi, trong số đó bà đă trải qua sáu
trăm năm trên địa cầu và sống trong thể xác vật chất. Tuy vậy, tất cả các vị
đều đầy nhiệt tính và vui tươi như ở tuổi hai mươi, điều đó thật là tự nhiên
và không kiểu cách hay gượng ép chút nào. Mọi việc đă xảy ra dường như chúng
tôi sống chung với những giới người trẻ.
Trước khi lui gót để về pḥng riêng, các vị đă cho chúng tôi biết
trước rằng sẽ có đông quan khách đến dự bữa ăn tại quán trọ chiều ngày hôm
sau, và chúng tôi cũng được mời tham dự.
II
Trưa hôm sau, tất cà các toán trong cuộc hành tŕnh của chúng tôi đều
về đến nơi. Chúng tôi trải qua suốt buổi chiều hôm đó để đối chiếu những bản
ghi nhận của chúng tôi và thấy mọi sự đều ăn khớp nhau một cách đúng đắn.
Khi mọi việc đă xong xuôi, chúng tôi được mời đi thẳng đến quán trọ để dùng
cơm chiều. Khi đến quán trọ, chúng tôi thấy có độ ba trăm người ngồi chung
quanh những bàn tiệc dài. Người ta dành cho chúng tôi những chỗ ngồi ở một
đầu của gian pḥng. Tất cả những bàn ăn đều có trải khăn bàn bằng vải trắng
mịn rất đẹp, trên có bày chén đĩa bằng bạc và bằng sứ như một bữa dạ tiệc
long trọng, tuy nhiên chỉ có một cái đèn nhỏ duy nhất để thắp sáng khắp
pḥng.
Sau khi chúng tôi đă ngồi an tọa được chừng hai mươi phút và tất cả
các chỗ ngồi đều đầy đủ những quan khách trừ ra một vài chỗ c̣n trống ở rải
rác đó đây, một cơn im lặng thâm trầm ngự trị khắp pḥng và trong khoảnh
khắc một ánh sáng nhạt mờ đă tỏa ra khắp chốn. Ánh sáng ấy mỗi lúc càng tỏ
rạng thêm dường như hằng ngh́n bóng đèn điện ẩn dấu một cách khéo léo ở đâu
đây đă từ từ được thắp lên. Gian pḥng trong giây lát đă trở nên sáng rực,
và tất cả các đồ vật đều chiếu rạng ngời. Về sau chúng tôi được biết rằng
làng này không hề có hệ thống cung cấp điện lực.
Sau đó, cơn im lặng kéo dài độ một khắc đồng hồ; h́nh như có một đám
sương mù từ từ đông đặc lại, chúng tôi nghe một tiếng động nhẹ giống như
ngày hôm trước, rồi th́nh ĺnh xuất hiện bà Mă Ly, thân mẫu của đức Tuệ
Minh. Đám sương mù tan dần, và chúng tôi thấy cùng đứng rải rác trong gian
pḥng, bà Mă Ly và mười một người khác, gồm có chín người nam và hai người
nữ. Tôi không biết dùng danh từ nào để diễn tả cái đẹp của cảnh tượng ấy.
Thật không phải là quá đáng nếu tôi nói rằng những nhân vật ấy đă xuất hiện
như một đoàn thiên thần, nhưng không có cánh. Các vị đứng yên trong một lúc,
đầu hơi nghiêng về phía trước, trong một cử chỉ chờ đợi. Kế đó, vang lên
những âm thanh của một ban hợp ca vô h́nh kèm theo một điệu nhạc thanh tao
huyền diệu nhất mà người ta có thể tưởng tượng. Tôi đă từng nghe nói về nhạc
điệu thần tiên, nhưng chưa hề được nghe bao giờ; cho đến ngày hôm ấy, tôi
mới biết thế nào là những âm thanh của cơi Trời. Có thể nói rằng chúng tôi
nghe nhạc điệu ấy mà có cảm giác như cất nhẹ ḿnh lên khỏi mặt ghế.
Sau bản hợp ca, mười hai vị đều bước đến chỗ ngồi của ḿnh. Chúng tôi
lại có dịp nhận thấy rằng các vị bước đi êm ru như không gây tiếng động, tuy
rằng các vị không có làm một cố gắng đặc biệt nào để giữ im lặng. Khi các vị
đă an tọa, một đám sương mù giống như lúc năy lại xuất hiện, và lại tan dần,
rồi mười hai vị khác nữa xuất hiện, gồm có một người nữ và mười một người
nam, trong số đó có vị sư tổ, tác giả các văn kiện.
Các vị đứng yên một lúc, và giọng hợp ca vô h́nh lại trổi lên một lần thứ
nh́. Sau bài hát, mười hai vị bước đến chỗ ngồi và cũng không gây một tiếng
động. Khi các vị vừa an tọa, đám sương mù lại xuất hiện một lần thứ ba, và
khi nó vừa tan th́ mười ba vị khác đứng xếp thành hàng, sáu người nam và bảy
người nữ, xuất hiện ở đầu kia của gian pḥng.
Ở chính giữa là một thiếu phụ trẻ dưới hai mươi tuổi, với ba người
nam và ba người nữ đứng ở hai bên. Tất cả những người nữ đă xuất hiện cho
đến khi đó đều rất đẹp, những người thiếu phụ này lại c̣n đẹp hơn tất cả các
vị khác. Mười ba vị đến sau cũng đứng yên một lúc, đầu hơi nghiêng và nhạc
điệu lại trổi lên lần nữa. Sau vài điệp khúc, tiếng hợp ca lại ḥa điệu với
âm nhạc. Chúng tôi đứng dậy, và trong khi nhạc khúc vẫn tiếp diễn, dường như
chúng tôi thấy hàng ngàn h́nh bóng thần tiên vừa múa lượn chung quanh vừa
hát theo một lượt. Không có giọng hát nào buồn, cũng không có một âm điệu bi
thương. Nhạc điệu trổi lên với những âm thanh vui tươi nhẹ nhàng, xuất phát
tự tâm hồn và truyền cảm đến người nghe, làm cho tâm hồn chúng tôi được nâng
cao lần lần cho đến khi chúng tôi có cảm giác như lâng lâng thoát tục.
Sau điệu hợp ca, mười ba vị mới đến sau bước tới chỗ ngồi và an tọa,
nhưng nhăn quang chúng tôi không thể tách rời khỏi nhân vật ở chính giữa,
người thiếu phụ đẹp tuyệt trần này tiến đến bàn của chúng tôi cùng với hai
người nữ khác đi kèm ở hai bên. Thiếu phụ ngồi an tọa cùng với hai vị đi kèm
ở đầu bàn của chúng tôi. Người ta mau đặt một chồng dĩa ở bên tay trái của
thiếu phụ. Ánh sáng trong pḥng lu mờ trong một lúc, và chúng tôi nhận thấy
chung quanh mỗi người trong ba mươi sáu vị đă xuất hiện, đều có một vầng ánh
sáng nó làm cho chúng tôi ngạc nhiên, và một vầng hào quang đẹp lộng lẫy
chói sáng trên đầu của vị nữ quư khách danh dự. Trong cử tọa, chúng tôi là
những người duy nhất bị xúc động sâu xa bởi cảnh tượng này, c̣n những vị
khác th́ không thấy ǵ là khác thường.
Khi tất cả mọi người đều an tọa, cơn im lặng kéo dài một lúc trong
gian pḥng, kế đó phần đông những người có mặt đều cất tiếng hợp ca một nhạc
khúc vui tươi dưới sự điều khiển của ba mươi sáu vị đă xuất hiện. Khi bài
hợp ca chấm dứt, vị nữ quư khách danh dự đứng dậy đưa hai bàn tay ra, th́
thấy xuất hiện trên tay bà một ổ bánh ḿ nhỏ dài độ ba tấc rưỡi, đường kính
độ năm phân tây. Mỗi người trong 36 vị đều đứng dậy, bước đến gần bà, và
nhận được một ổ bánh ḿ tương tự. Kế đó, các vị đi ṿng quanh tất cả các bàn
để phân phát cho mỗi người một mẩu bánh ḿ. Người thiếu phụ cũng làm y như
vậy ở tại bàn chúng tôi.
Vừa phân phát bánh ḿ cho chúng tôi, bà nói:
-Các bạn có biết chăng Đấng Christ ngự trong các bạn cũng như trong
mỗi người? Các bạn có biết chăng thân thể các bạn vốn trong sạch, hoàn hảo,
trẻ trung, luôn luôn tốt đẹp và thiêng liêng? Các bạn biết chăng Chúa Trời
đă tạo ra các bạn đúng theo h́nh ảnh của Ngài và giống y như Ngài, và đă ban
cho các bạn quyền năng đối với mọi vật? Trong bản chất, các bạn luôn luôn là
một Đấng Christ, Con của Chúa Trời. Các bạn vốn tinh khiết, toàn hảo, thánh
thiện, thiêng liêng, hợp nhất với Chúa Trời là Đấng Trọn Lành. Và mỗi người
Con của Ngài đều có quyền tuyên bố sự hợp nhất và sự thiêng liêng đó.
Sau khi đă ban cho chúng tôi mỗi người một mẩu bánh ḿ, thiếu phụ bèn
an tọa. Ổ bánh ḿ nhỏ của bà vẫn c̣n nguyên vẹn như trước khi chia cho chúng
tôi. Khi cuộc lễ khai mạc chấm dứt, th́ thức ăn bắt đầu được đem tới. Thức
ăn đến với mọi người trong những cái tộ lớn có đậy nắp, những tộ này xuất
hiện trước mặt các vị nữ khách dường như được đặt bởi những bàn tay vô h́nh.
Người thiếu phụ mở các nắp tộ để qua một bên, và bắt đầu múc thức ăn ra dĩa.
Mỗi khi múc đầy một dĩa, bà đưa luân phiên qua hai vị nữ khách ngồi hai bên,
hai vị này chuyền dĩa khắp các bàn, và tất cả các quan khách đều được cung
cấp thức ăn đầy đủ. Khi đó các quan khách bắt đầu ăn và nhận thấy thức ăn
rất ngon.
Khi bữa ăn vừa bắt đầu, Tô Mặc hỏi thiếu phụ rằng theo bà th́ đức
tính nào của Thượng Đế là cao quư nhất. Không chút do dự, bà đáp:
-T́nh Thương.- Kế đó bà nói tiếp- Cái “Cây
Sinh Hoạt” vốn ở giữa cơi Thiên Đàng của Chúa Trời, ở tận nơi thâm sâu
nhất trong tâm hồn con người. Trái cây phong phú tốt lành nó mọc và trở nên
chín mùi một cách toàn vẹn nhất, trái cây ngon lành và bổ dưỡng nhất, chính
là T́nh Thương. Những người nhận thức được chân tính của nó, đă định nghĩa
nó như là vật cao cả nhất trên thế gian. Tôi xin nói thêm rằng đó là cái
mănh lực hàn gắn cứu chữa lớn
nhất trên đời. T́nh thương không bao giờ làm ngơ trước sự đ̣i hỏi của ḷng
người. Người ta có thể sử dụng nguyên tắc thiêng liêng của T́nh Thương để
đáp ứng tất cả những nhu cầu của nhân loại và loại trừ mọi sự buồn thảm, tật
ách, và những sự lầm than thống khổ của người đời.
Nhờ hiểu biết và sử dụng T́nh Thương đúng chỗ, nhờ ảnh hưởng tế nhị
và vô biên của T́nh Thương, tất cả những vết thương của thế gian có thể được
chữa khỏi. T́nh bác ái thiêng liêng có thể sửa chữa, hàn gắn tất cả mọi sự
bất ḥa, vô minh và tội lỗi của nhân loại. Khi T́nh Thương chan ḥa khắp
chốn, nó thức động đến những nơi khô khan tẻ lạnh của ḷng người và những
nơi khốn khổ của cuộc đời. T́nh Thương có thể cứu chuộc được nhân loại và
biến cải thế gian như một phép mầu. T́nh Thương là Thượng Đế, nó vốn trường
cửu, vô biên, bất biến, rộng răi và bao la ngoài mọi sự tưởng tượng.
Bạn bị đè bẹp dưới áp lực nặng nề của cuộc đời hằng ngày chăng? Bạn
cần có ḷng can đảm và sức mạnh tinh thần để đối phó với những nỗi khó khăn
trắc trở của ḿnh chăng? Bạn bị đau ốm, sợ hăi chăng? Nếu vậy, bạn hăy nâng
cao tâm hồn và cầu nguyện Đấng Tối Cao chỉ đường cho bạn. T́nh Thương bất
diệt của Thượng Đế che chở cho bạn, bạn không cần phải sợ sệt ǵ cả. Đức
Chưởng Giáo há chẳng nói rằng: “Trước khi ngươi khấn nguyện, Ta đă đáp ứng,
trước khi ngươi nói dứt lời, Ta đă nghe”.
Bạn hăy can đảm tiến đến gần Ngài, bạn hăy từ bỏ thái độ cầu khẩn van
xin của ḿnh, hăy cầu nguyện với một đức tin minh mẫn, và biết rằng sự giúp
đỡ mà bạn cần, đă được ban bố cho bạn. Bạn đừng bao giờ nghi nan. Bạn hăy có
làm hơn thế nữa, hăy đ̣i hỏi. Bạn hăy tuyên bố như Đức Jesus cái quyền được
sinh trưởng làm con của Chúa Trời. Hăy biết rằng có một khí Hạo Nhiên vô
h́nh bao trùm khắp vũ trụ, trong đó chúng ta đang sống và tiến hóa. Trong
chất Tiên Thiên Khí đó, có tất cả những vật tốt lành và toàn hảo mà con
người có thể mong muốn. Những vật tốt lành đó chỉ đợi đến khi nào con người
biểu lộ đức tin của y, để xuất hiện dưới h́nh thức rơ ràng và cụ thể.
Bạn hăy nhớ chuyện vua Salomon trong đêm kinh nghiệm huyền linh của
ngài, khi ngài nâng cao tâm hồn lên tận cơi tâm thức vũ trụ, khi đó ngài cầu
xin cho cuộc đời ngài tránh khỏi thói ích kỷ và dành cho công việc phụng sự
nhân loại. Việc ấy đă đem đến cho ngài những kho tàng của cải vô tận, không
kể những danh vọng mà ngài không bao giờ dám nghĩ tới. Ngài đă nh́n nhận sự
minh triết của T́nh Thương, và T́nh Thương đă ban rải cho ngài những của cải
kho tàng phong phú vô tận. “Tiền bạc
không có giá trị ǵ dưới thời đại của vua Salomon”. Thậm chí, đồ chén
dĩa của vị vua đầy ḷng bác ái đó cũng được đúc bằng vàng khối. bạn rải T́nh
Thương, tức là mở rộng cửa kho vô tận chứa đầy những kho tàng vàng bạc của
Thượng Đế. Người nào đă biết thương yêu đồng loại, không thể không cho ra.
Nhưng cho, tức là được. Đó là cái tác động của luật Bác Ái. Khi ta đem cho,
chúng ta vận chuyển cái định luật bất di dịch này là “Cho
bao nhiêu, được bấy nhiêu”. Khi người ta cho ra mà không có hậu ư muốn
thu nhận, người ta không khỏi được nhận lănh, v́ những ǵ ta đem cho sẽ được
hoàn trả lại cho ta một cách dồi dào do sự tác động của luật Nhân Quả. “Bạn
hăy cho, rồi bạn sẽ nhận được với một dung lượng đầy tràn, dồi dào, phong
phú gấp bội…”
Nếu chúng ta
hành động với tinh thần Bác Ái, ta phải làm sao cho Thượng Đế hiện diện
trong lương tri của chúng ta. Đồng hóa với Sự Sống, T́nh Thương và Minh
Triết, tức là tiếp xúc một cách có ư thức với Thượng Đế, tức là nhận được
một cách sung măn, dồi dào giống như những thức ăn dồi dào mà chúng ta đă
thọ lănh hồi chiều nay. Các bạn thấy rằng sự sung túc được dành cho tất cả
mọi người và không ai là người bị thiếu thốn.
Luật Trời luôn luôn tác động một cách trường cửu, nó luôn luôn vẫn y
như thế, bây giờ cũng như bao giờ. Luôn luôn bất biến không hề dời đổi, Luật
Trời bao giờ cũng vẫn tốt lành. Nếu chúng ta sống thuận theo Thiên Ư, th́
Luật Trời sẽ trở nên những nền tảng vững chắc để cho chúng ta xây dựng sức
khỏe, hạnh phúc, sự bằng an, sự quân b́nh và sự thành công. Nếu chúng ta
hoàn toàn sống thuận theo Luật Trời th́ không một tai họa đau khổ nào có thể
xảy đến trong đời chúng ta. Chúng ta không cần được cứu chữa khỏi bệnh tật
nào cả, v́ chúng ta vốn lành mạnh từ sợi tóc chí đến đầu móng chân.
Chúng ta hiểu rơ niềm khát vọng sâu xa, nó ray rứt trong tâm hồn của
nhân loại! Không ǵ có thể chữa khỏi sự nhớ nhung ray rứt đó, trừ ra một sự
thông hiểu rơ ràng, một ư thức rơ rệt về đấng Cha Lành của chúng ta, là Chúa
Trời vậy. Không có một sự mong mỏi khát khao nào sống động trong linh hồn
con người cho bằng sự khát khao mong mỏi được biết Thượng Đế. “Và
được biết Thượng Đế, tức là đạt tới sự sống trường cửu”.
Chúng ta thấy những người luôn luôn lao chao, bôn tẩu, để hy vọng t́m
thấy sự yên tĩnh trong tâm hồn bằng cách thực hiện một vài công tŕnh nào
đó, hay t́m sự yên vui trong việc chiếm hữu một tài sản vật chất nào đó, mà
tài sản ấy hiển nhiên là một vật hữu h́nh hữu hoại. Chúng ta thấy họ theo
đuổi và cũng đạt được những mục đích đó, nhưng rốt cuộc họ vẫn không được
thỏa măn. Có người tưởng tượng rằng họ cần có nhà cửa, đất ruộng; có người
nghĩ rằng họ cần có một gia tài to lớn; những người khác cho rằng họ cần có
sự hiểu biết và kiến thức dồi dào. Chúng ta có cái vinh dự được biết rằng
con người vốn sở hữu tất cả những thứ ấy ở tự nơi ḿnh…
Thiếu phụ im lặng trong một lúc, kế đó một người trong chúng tôi đứng
dậy đưa câu hỏi về luật tương đối và được thiếu phụ giải đáp thỏa đáng.
Câu chuyện chấm dứt tại đó. Bữa ăn chiều đă xong, người ta dọn bàn
ghế ra khỏi pḥng. Khi đó bắt đầu một giai đoạn giải trí, có vũ và nhạc. Âm
nhạc do khúc hợp ca vô h́nh trổi lên, và tất cả chúng tôi đều cùng nhau trải
qua một giờ vui vẻ trước khi chia tay.
Chúng tôi ở lại làng này hết ba ngày, trong khi đó chúng tôi đă thấy
lại một số lớn những vị quư khách đă xuất hiện đến với chúng tôi trong đêm
trước. Chiều ngày thứ ba, các vị xin cáo biệt và hứa sẽ gặp lại nhau tại căn
cứ điểm mùa đông của chúng tôi, kế đó các vị biến mất dạng.
III
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi rời khỏi làng và đi trong ba ngày trên
một đường ṃn xuyên qua một vùng núi non gồ ghề hiểm trở, dân cư thưa thớt
đến nỗi chúng tôi phải cắm lều để ngủ lại ban đêm. Chúng tôi không có đem
theo lương thực, nhưng mỗi khi cần ăn uống, th́ luôn luôn có sẵn đồ vật thực
trong tầm tay. Khi chúng tôi vừa sửa soạn ngồi ăn, th́ những thức ăn liền
xuất hiện một cách đầy đủ. Không bao giờ chúng tôi thiếu ăn, và luôn luôn ăn
uống thừa thăi.
Chiều ngày thứ ba, chúng tôi đến một vùng cao nguyên rộng lớn mà
chúng tôi phải đi xuống lần lần để đến nơi thôn ấp mà chúng tôi muốn đến
viếng. Kể từ khi đó, con đường của chúng tôi vượt qua một vùng ph́ nhiêu và
đông dân cư. Chúng tôi chọn thôn ấp này làm căn cứ mùa đông v́ nó ở ngay
trung tâm của vùng mà chúng tôi đến viếng. Chúng tôi hy vọng rằng điều ấy sẽ
đem cho chúng tôi cái cơ hội hằng mong ước là có dịp kéo dài hơn sự tiếp xúc
hằng ngày với các vị Chân Sư. Một số lớn những vị siêu nhân mà chúng tôi đă
gặp ở rải rác nhiều nơi, hiện đang sống tại làng này và tất cả các vị đều
khẩn khoản mời chúng tôi đến viếng các ngài. Chúng tôi có cảm giác rằng
trong khi lưu trú tại làng này vào mùa đông, chúng tôi sẽ có nhiều cơ hội
tốt để quan sát cuộc đời hằng ngày của các ngài một cách gần gũi hơn.
Chúng tôi đến làng này ngày 20 tháng 11, và từ căn cứ đó chúng tôi mở
một loạt những cuộc xuất hành quanh vùng cho đến khi tuyết rơi làm cho mọi
sự di chuyển trở nên khó khăn. Chúng tôi được dọn chỗ ở tiện nghi, dân làng
niềm nở tiếp đón, và chúng tôi
chuẩn bị ḥa ḿnh với cuộc sống của dân làng. Tất cả các nhà đều mở rộng cửa
đón chúng tôi, chúng tôi được cho biết rằng ở đây nhà nhà đều không đóng
cửa, v́ dân làng coi tất cả mọi người như anh em.
Kế đó chúng tôi được mời đến ở tại nhà của một bà thiếu phụ có tiếng
tăm trong làng này, mà chúng tôi đă gặp ở vùng biên giới. V́ chúng tôi đă
yên nơi yên chỗ, chúng tôi không thấy cần thiết phải làm quấy rầy bà, nhưng
bà khẩn khoản mời mọc và nói rằng chúng tôi không có quấy rầy ǵ bà hết cả.
Bởi đó chúng tôi dọn đồ hành lư sang ở nhà bà và ở luôn tại đó cho đến măn
cuộc hành tŕnh.
Tôi không hề quên cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi với bà trong một
tỉnh thành nhỏ ở vùng biên giới.Khi bà được giới thiệu với chúng tôi, chúng
tôi nghĩ rằng bà trạc độ mười tám tuổi, và nhận thấy bà rất đẹp. Độc giả sẽ
tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng tôi như thế nào khi chúng tôi được biết
rằng thiếu phụ đă có trên bốn trăm tuổi và là một trong những nhà giáo mô
phạm được mến chuộng nhất vùng ấy. Bà đă dành trọn cuộc đời vào việc phụng
sự kẻ khác. Khi chúng tôi ở nhà bà và sống cạnh bà hằng ngày, chúng tôi đă
hiểu tại sao bà được mến chuộng dường ấy. Trong lần gặp gỡ đầu tiên, chúng
tôi thấy bà trong hai tuần liên tiếp nhưng cá tính của bà chỉ biểu lộ thật
sự khi chúng tôi sống tại nhà bà. Người ta không thể nào làm khác hơn là yêu
mến và kính trọng bà. Vả lại, chúng tôi càng biết rơ các vị Chân Sư, th́
chúng tôi lại càng yêu mến và kính trọng các ngài.
Chúng tôi đă có dịp đối chiếu những lời xác định về tuổi tác của các
ngài với những tài liệu xác thật cũng như tập du kư này. Chúng tôi ở tại nhà
thiếu phụ và dùng cơm chung một bàn với bà hằng ngày kể từ đầu tháng 12 năm
1895 đến tháng tư năm 1896. Chúng tôi đă có dịp quan sát tỉ mỉ đời sống của
bà và cuộc đời của nhiều vị Chân Sư khác cư ngụ tại làng này. Chúng tôi nhận
thấy tất cả đều là những cuộc đời lư tưởng.
IV
Thời gian trôi qua mau cho đến cuối tháng chạp. Năm đă hầu tàn. Chúng
tôi nhận thấy một số đông người kéo đến làng này v́ một cuộc lễ mà trên thực
tế chỉ có các Chân Sư mới tham dự.
Ngày nào người ta cũng giới thiệu với chúng tôi những người lạ mặt.
Tất cả đều nói tiếng Anh, và chúng tôi có cảm giác như ḿnh đă đồng hóa với
sự sinh hoạt của làng.
Một ngày nọ, chúng tôi được cho hay rằng cuộc lễ sẽ diễn ra trong đêm
Giáng Sinh và chúng tôi được mời đến dự. Người ta nói thêm rằng cuộc lễ
không dành cho người ngoại quốc. Tuy nhiên, cuộc hội họp không phải là riêng
tư. Vả lại, không có một cuộc họp nào của các Chân Sư là riêng tư. Cuộc họp
nhằm mục đích quy tựu những người đă bắt tay vào công việc tâm linh, những
người đă đặt cho công việc ấy một tầm quan trọng, nghiêm chỉnh, và đă tiến
bộ khả quan để xác nhận sự mong ước của họ là sống cuộc đời thánh thiện. Họ
đến một nơi mà họ đă chấp nhận một tâm thức cao cả hơn, và hiểu rơ cái vị
trí mà nó phải có trong cuộc đời của họ. Một cuộc hội họp quần chúng như thế
thường diễn ra vào mùa này trong năm ở một nơi đă định sẵn từ trước, để cho
họ tham dự cuộc lễ. Năm ấy, địa điểm hành lễ được chọn lựa lại là nơi thôn
ấp mà chúng tôi đang trú ngụ.
Sáng ngày được ấn định cho cuộc hội họp, ánh b́nh minh thật là trong
sáng, và hàn thử biểu chỉ trên 20 độ dưới số không. Tất cả chúng tôi đều bồn
chồn, với cảm giác rằng đêm ấy sẽ đem lại một kinh nghiệm mới nữa thêm vào
những sự việc lư thú đă xảy ra trong chuyến du hành của chúng tôi. Chúng tôi
đến nơi hội họp vào lúc tám giờ tối và thấy có độ hai trăm người tề tựu tại
đó. Gian pḥng được trang trí tốt đẹp và được thắp sáng bằng phương pháp
huyền diệu như đă diễn tả trước đây.
Chúng tôi được biết rằng bà chủ nhà của chúng tôi sẽ chủ tọa cuộc hội
họp. Bà đến sau chúng tôi ít lâu, và khi bà bước vào gian pḥng, tất cả
chúng tôi đều khen thầm sự trẻ trung và kiều diễm của bà. Bà mặc một áo dài
trắng rất đẹp, nhưng không chút nào se sua để làm cho người khác chú ư đến
ḿnh. Bà lẳng lặng bước lên một cái sàn gỗ và bắt đầu thuyết pháp. Bà nói:
-Chúng ta hội họp chiều nay với sự mong ước được hiểu rơ ư nghĩa của
sự chuyển tiếp từ một trạng thái tâm thức thấp kém lên một trạng thái siêu
việt hơn. Chúng tôi xin chúc mừng những người nào trong quư vị đă được chuẩn
bị cho sự chuyển tiếp đó. Trước tiên, quư vị đă theo chúng tôi do bởi sự ưa
thích công việc mà chúng tôi làm. Trước hết quư vị đă theo dơi những công
việc đó một cách ngạc nhiên và sợ hăi v́ quư vị cho rằng đó là những việc
nhiệm mầu. Bây giờ quư vị coi đó như là những điều tự nhiên của một cuộc đời
gương mẫu, như Thượng Đế vẫn mong ước chúng ta phải sống.
Vào giờ phút này, quư vị đă biết chắc rằng chúng tôi không có thực
hiện một phép lạ nào cả. Quư vị đă hiểu cái ư nghĩa tâm linh thật sự của
những ǵ mà quư vị đang làm.
Chuyển tiếp từ trạng thái tâm thức thấp kém lên một trạng thái cao
hơn có nghĩa là gạt bỏ cái thế giới vật chất dẫy đầy những xung đột và va
chạm để chấp nhận cái Tâm Thức Bồ Đề hay tâm thức của Đấng Christ. Khi đó,
th́ tất cả đều là mỹ lệ, điều ḥa, và toàn thiện. Đó tức là phép sinh hoạt
tự nhiên, đó là phép sống mà Thượng Đế đă chọn lựa cho chúng ta, và Đức
Jesus đă nêu một gương sáng huyền diệu thay trên thế gian. Cách sống ích kỷ
là phản tự nhiên. Đó là con đường chông gai, trắc trở. Con đường của Đấng
Christ thật là dễ dàng và tự nhiên nếu chúng ta hiểu rơ được nó! Người nào
theo con đường đó tức là sống trong Tâm Thức của Đấng Christ hay Tâm Thức Bồ
Đề.
Chúng ta đang ngồi chung quanh những bàn đă bày sẵn thức ăn. Đây là
cơ hội duy nhất mà chúng ta tựu họp trong một bữa tiệc. Đây không phải là
một bữa tiệc như những kẻ thế nhân phàm tục vẫn thường quan niệm. Nó là một
bữa tiệc thông đạt và thực hiện, biểu tượng cuộc Lễ Chuyển Tiếp như hồi thời
đại của Đức Jesus, cuộc Lễ Phục Sinh (Pâque), tức sự chuyển tiếp (thường
không được hiểu rơ vào thời đại này) của tâm thức phàm tục lên tâm thức Bồ
Đề. Chúng tôi tin rằng một ngày kia tất cả những người con của Thượng Đế sẽ
hội họp quanh một bữa tiệc tương tự và hiểu rơ cái ư nghĩa thật sự của nó.
Chiều hôm nay, trong số những vị thực khách ngồi quây quần nơi đây,
có vài vị đă hoàn toàn tinh luyện xác thân đến mức có thể di chuyển bằng thể
xác lên tận những cảnh giới cao siêu nhất của cơi Thượng Thiên để học Đạo
thượng đẳng. Tất cả các vị ấy đă từng sống một thời gian trong thể xác hữu
h́nh trên địa cầu, và khi viên tịch, các Ngài đă đem thể xác theo đến một
nơi địa hạt tâm thức làm cho các Ngài trở nên vô h́nh đối với người trần
gian. Chúng ta phải nâng cao tâm thức lên đến mức độ Tâm Thức Bồ Đề để có
thể tiếp xúc với các vị ấy. Nhưng các Ngài có thể trở lại với chúng ta và ra
đi tùy ư muốn. Các Ngài có thể trở lại thế gian để dạy Đạo cho những người
nào thụ cảm đối với giáo lư của Ngài, và xuất hiện hay biến mất tùy ư muốn.
Chính các Ngài đến dạy Đạo cho chúng ta khi chúng ta sẵn sàng thụ huấn các
Ngài, hoặc bằng trực giác, hoặc bằng cách tiếp xúc tự bản thân. Năm vị trong
các Ngài sẽ đến dùng bữa chung với chúng ta chiều nay. Trong số đó có một vị
nữ thánh mà chúng tôi đặc biệt yêu mến, v́ bà là mẹ của một vị trong chúng
tôi. (Đó là thân mẫu của đức Tuệ Minh) Bây giờ chúng ta hăy ngồi vào bàn ăn…
Ánh sáng trong gian pḥng hạ thấp xuống trong một lúc, và tất cả các
quan khách đều ngồi trong cơn im lặng hoàn toàn, đầu hơi nghiêng về phía
trước. Kế đó, ánh sáng lại tỏ rạng. Năm vị Chân Sư đă xuất hiện trong gian
pḥng, ba vị nam và hai vị nữ, tất cả đều mặc y phục trắng tinh, tất cả đều
có một vẻ đẹp lộng lẫy và bao phủ bởi một vầng hào quang sáng dịu. Các Ngài
âm thầm tiến bước, và mỗi vị đều an tọa nơi chỗ ngồi c̣n để trống của ḿnh ở
đầu một bàn trong năm bàn dài. Đức bà Mă Ly, thân mẫu đức Tuệ Minh, ngồi nơi
chỗ danh dự ở tại bàn của chúng tôi cùng với vị Trưởng nhóm chúng tôi ngồi
bên tay mặt và đức Tuệ Minh ngồi bên tay trái bà. Khi các Ngài đă an tọa,
th́ những thức ăn bắt đầu xuất hiện. Bữa ăn rất giản dị, nhưng rất ngon
lành, gồm có bánh ḿ, rau đậu và trái cây.
Những câu chuyện kế tiếp là những huấn thị dành cho những người tới
dự cuộc lễ. Đó là những huấn thị bằng tiếng bổn xứ, và Dật Sĩ dịch lại cho
chúng tôi nghe. Đức bà Mă Ly nói sau cùng. Bà nói tiếng Anh toàn hảo, bằng
một giọng trong suốt và rơ ràng. Dưới đây là những lời của bà:
-Hằng ngày chúng tôi thường sử dụng những mănh lực mà người đời chế
diễu và nhạo báng. Có đặc ân được tiếp nhận và sử dụng những mănh lực ấy,
chúng tôi cố gắng tận t́nh để chỉ dẫn cho người đời được biết. Bằng những tư
tưởng của họ, người thế gian gạt bỏ ra ngoài cuộc đời những sự việc toàn hảo
vốn nằm trong tầm tay họ và chỉ đợi họ đưa tay ra để nắm lấy. Khi nào người
ta thu đạt được những mănh lực ấy, th́ chúng nó sẽ trở nên vô cùng chân xác
và sống động hơn là những của cải vật chất mà họ bám víu lấy một cách tuyệt
vọng thay, bởi v́ họ có thể nh́n thấy, và cảm xúc được những thứ này bằng
những giác quan vật chất hữu hạn của họ.
Các bạn sẽ nhận thấy rằng tất cả những tiện nghi trong gian pḥng này
và những pḥng của các bạn cư ngụ, như ánh sáng, nhiệt lực, và thậm chí
những thức ăn mà các bạn dùng, đều do sự tác động của mănh lực ấy mà có. Các
bạn gọi nó là tia ánh sáng hay là ǵ, tùy ư. Chúng tôi tiếp nhận nó như một
quyền năng lớn của vũ trụ. Khi người ta tiếp xúc với mănh lực ấy, th́ nó tác
động một cách vô cùng hữu hiệu cho họ hơn là nhiệt lực, điện khí, dầu hỏa
hay than đá. Tuy nhiên, chúng tôi coi nó như một trong những nguồn lực thấp
kém nhất trong số những nguồn tinh lực thiên nhiên.
Mănh lực ấy không những chỉ cung cấp tất cả mọi vận động hữu ích cho
con người. Nó c̣n cung cấp nhiệt lực cần thiết cho mọi nhu cầu của họ, bất
cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, mà không tiêu thụ một mảy may nhiên liệu. Nó vốn
hoàn toàn im lặng, và khi người ta sử dụng nó, nó loại trừ một phần lớn
những tiếng ồn ào và sự loạn động mà hiện nay dường như không thể tránh
khỏi. Nó ở trong tầm tay bạn, ở chung quanh bạn; và chỉ đợi chờ bạn sử dụng.
Khi bạn dùng nó, bạn sẽ thấy nó vô cùng giản dị hơn hơi nước hay điện lực
rất nhiều.
Khi người đời đạt tới mức đó, họ sẽ thấy rằng tất cả những máy móc và
phương thức vận chuyển mà họ đă phát minh chỉ là những sản phẩm của những
quan niệm vật chất của họ. Họ tưởng rằng chính họ đă sản xuất ra những máy
móc ấy và bởi vậy họ chỉ có thể tạo nên những đồ vật hữu h́nh hữu hoại và
bất toàn.Nếu họ hiểu rằng tất cả đều phát xuất từ Thượng Đế, và ngài tự biểu
lộ qua con người, th́ họ chỉ có sản xuất nên những đồ vật toàn hảo. Tuy
nhiên trong viêc sử dụng tự do ư chí, họ đă chọn lựa con đường chông gai
trắc trở thay v́ hiểu rơ sự liên hệ của ḿnh với Thượng Đế và sử dụng tất cả
những khả năng thiên phú của Ngài ban cho. Họ sẽ tiếp tục con đường ấy cho
đến khi họ nhận thức rằng phải có một con đường khác tốt đẹp hơn, và con
đường này quả thật là có. Sau cùng, họ sẽ biết rằng con đường của Thượng Đế
là con đường tốt lành duy nhất. Chừng đó con người sẽ biểu lộ đức toàn mỹ
toàn thiện mà Thượng Đế muốn thấy y biểu lộ ngay từ bây giờ.
“Các bạn có thấy chăng là các
bạn phải tập trung vào đấng Thượng Đế vốn có ở tự nơi ḿnh, thu thập từ nơi
Ngài những ǵ là tốt lành, và do Chân Ngă thiêng liêng, vận chuyển tất cả
những mănh lực tự nhiên của ḿnh.”
Đến đây, một
người trong chúng tôi hỏi rằng những tư tưởng và lời nói có ảnh hưởng như
thế nào đến cuộc đời của chúng ta. Đức bà Mă Ly đưa tay ra, và một lúc sau
đó một vật nhỏ xuất hiện trong tay bà. Bà nói:
-Tôi bỏ một viên đá sỏi trong cái chén nước lạnh này. Viên sỏi rơi
xuống nước tạo thành một trung điểm từ đó phát ra những làn sóng gợn đồng
tâm. Những sóng gợn này càng lớn dần cho đến khi chúng đụng vào vành chén là
cái giới hạn bên ngoài của chén nước. Theo con mắt phàm nh́n thấy, th́ những
gợn sóng này dường như mất trớn và ngừng lại. Thật ra, khi các gợn sóng đụng
vào vành chén th́ nó dội ngược lại trở về điểm mà viên sỏi nhỏ rơi xuống
nước ở giữa chén và chúng không hề ngừng nghỉ trước khi đạt tới điểm đó. Đó
là cái h́nh ảnh đúng đắn của tất cả những tư tưởng và lời nói mà chúng ta
thốt ra. Tư tưởng và lời nói làm vận chuyên vài loại âm ba phóng ra xa theo
từng ṿng tṛn mỗi lúc càng lớn dần cho đến khi chúng bao trùm khắp vũ trụ.
Kế đó chúng dội ngược trở lại những người nào đă phát ra chúng. Tất cả những
tư tưởng và lời nói của chúng ta, dù tốt hay xấu, sẽ dội ngược trở lại chúng
ta một cách chắc chắn cũng như khi chúng ta đă phát ra những tư tưởng hay
lời nói ấy…
Chúng tôi là những người đă tinh luyện thể xác đến mức có thể di
chuyển đến nơi nào tùy ư, có cái đặc ân nh́n thấy cơi Thiên Giới và ở lại
đó. Nhiều người được biết cơi ấy dưới danh từ “Cơi
Trời thứ bảy,” và coi nó như điều bí mật nhất trong các điều bí mật. Ở
đây cũng vậy, người đời đă lầm. Không có điều ǵ là bí mật cả. Chúng tôi chỉ
có đạt tới một cơi giới tâm thức nhờ đó chúng tôi trở nên thụ cảm đối với
những giáo lư cao siêu nhất. Chính tại đó mà ngày nay Đức Jesus đang ở.
“Đó là một cơi tâm thức tại đó
chúng tôi biết rằng khi ta gạt bỏ sự chết, chúng ta có thể trở nên bất tử.
Tại cơi ấy, con người vốn bất tử, trong sạch không tội lỗi, trường cửu, bất
biến, giống như Thượng Đế. Đó là một nơi mà chúng ta biết ư nghĩa thật sự
của Biến H́nh (Transfiguration), mà chúng ta có thể cảm thông với Thượng Đế
và nh́n thấy Thượng Đế diện đối diện. Mỗi người có thể đến đó và trở nên
giống như chúng tôi. Không bao lâu, trạng thái tâm thức cộng đồng sẽ vượt
lên tới một cơi giới tại đó chúng tôi có thể nói chuyện một cách b́nh đẳng
với nhân loại và nh́n họ ngay vào tận mắt. Sự vô h́nh của chúng tôi chỉ là
sự nâng cao tâm thức chúng tôi vượt lên trên b́nh diện của thế tục. Chúng
tôi chỉ vô h́nh vô ảnh đối với những người trần gian mà thôi…”
Đức bà Mă Ly vừa
nói dứt lời, th́ khúc hợp ca vô h́nh lại bắt đầu trổi lên. Lúc ấy là đúng
nửa đêm cuối tháng mười hai và một năm mới đă bắt đầu. Như thế chấm dứt năm
đầu tiên trong thời gian mà chúng tôi có hân hạnh được tiếp xúc với các bậc
Chân Sư huyền diệu.
CHƯƠNG
NĂM
Một ngôi đền đục
trong hang núi – Những tài liệu cổ xưa đến bốn trăm năm mươi thế kỷ - Đức
Jesus xuất hiện – Tài liệu khắc trên những bia đá cổ - Bí quyết của sự cầu
nguyện linh ứng –Sự chết và phục sinh của Chander Sen – Đức Jesus nói chuyện
về địa ngục, ác quỷ và Chúa Trời.
I
Sáng ngày đầu năm dương lịch, chúng tôi thức dậy sớm, tinh thần khoan
khoái, dễ chịu. Mỗi người trong chúng tôi đều có cảm giác một sự ǵ sẽ đến,
làm cho chúng tôi nghĩ rằng những kinh nghiệm đă qua của ḿnh chỉ là những
bước đầu trên con đường ḿnh sẽ đi qua.
Trong khi chúng tôi ngồi tựu họp chung quanh bàn ăn điểm tâm, chúng
tôi thấy xuất hiện một người lạ mặt mà chúng tôi đă gặp một lần trong một
làng nhỏ trên đường đi đến đây. Sau khi chào hỏi xă giao thường lệ, người ấy
nói:
-Các bạn đă đến với chúng tôi trên một năm nay. Các bạn đă cùng đi
ngao du và sống chung với chúng tôi. V́ các bạn sẽ ở lại với chúng tôi đến
tháng tư hay tháng năm, tôi đến để mới các bạn đi viếng một ngôi đền đục
trong núi đá ở phía ngoài làng này.
Chúng tôi được cho biết rằng người ta đă phải dùng lối kiến trúc đặc
biệt đó để bảo vệ cho ngôi đền khỏi bị quấy nhiễu bởi những toán cường đạo
thường hay cướp phá vùng này. Những bọn cướp này đôi khi xuống tận làng mạc,
thôn ấp để “ ăn hàng”. Làng này
cũng đă bị hủy diệt nhiều lần, nhưng dân làng đă tránh khỏi tai họa nhờ họ
có thể trú ẩn trong ngôi đền.
Các vị Chân Sư đă sở hữu ngôi đền này do dân làng chuyển nhượng lại
để ǵn giữ nhiều tài liệu văn kiện mà các ngài coi như quư vô giá. Từ khi có
sự chuyển nhượng này, những vụ cướp bóc đă chấm dứt, dân làng không c̣n bị
tấn công bất ngờ, và mọi người đều sống b́nh yên. Người ta nói rằng vài pho
tài liệu kể trên đă có từ khi giống người văn minh đầu tiên xuất hiện trên
quả địa cầu. Đó có lẽ là những tài liệu cổ của giống người
Naacals,cũng gọi là các “Huynh
đệ Thánh Thiện”,đă xuất hiện ở Miến Điện để dạy dỗ d́u dắt những bộ lạc
thổ dân Nagas ở đó. Những tài liệu đó dường như chứng minh rằng tổ tiên của
giống người này là tác giả của bộ sách
Surya Siddhanta và các
Thánh Kinh Phệ Đà thời thái cổ.
Sách Surya Siddhanta là tác phẩm
cổ xưa nhất mà người ta được biết về khoa thiên văn. Những văn kiện cổ xưa
cho rằng sách ấy đă có từ ba mươi lăm ngàn năm về trước. Những Thánh Kinh
Phệ Đà thời thái cổ đă có từ 45.000 năm. Không phải tất cả những tài liệu
văn kiện của ngôi đền này đều là những bổn chánh, v́ nhiều tài liệu đă được
chép lại do cùng một nguyên bản với những tài liệu cổ của xứ Babylone và
được di chuyển đến đây để được ǵn giữ an toàn. C̣n những bản chính từ cổ
xưa là những nguyên bản đă có từ hồi thời đại của Osiris và của châu
Atlantide. Những khách đến thăm ngôi đền này chỉ là một thiểu số rất ít,
ngoài ra những vị chân tu đă có hiểu biết ít nhiều về sự giác ngộ tâm linh
thật sự.
Người khách lạ nói tiếp:
-Ngày hôm nay đối với các bạn là ngày bắt đầu một năm mới. Theo quan
điểm thông thường, năm cũ vừa qua đă thuộc về dĩ văng, không c̣n trở lại
cuộc đời chúng ta nữa, trừ phi là ở trong tư tưởng, do những kỷ niệm về mọi
sự sung sướng, đau buồn hay những công tŕnh đă thực hiện. Một trang trong
quyển lịch đời của chúng ta đă được xé bỏ. Trái lại, quan điểm của chúng tôi
khác hẳn. Chúng tôi coi năm vừa qua như một giai đoạn tiến bộ thêm vào những
thành quả đă thực hiện được. Nó là cái gạch nối đưa chúng tôi đến những công
tŕnh thực hiện và một sự phát triển tốt đẹp hơn, đến một thời kỳ giác ngộ
và hứa hẹn lớn lao hơn, một thời kỳ mà mỗi kinh nghiệm kế tiếp làm cho chúng
tôi trở nên trẻ trung hơn, khỏe mạnh hơn và bác ái hơn. Các bạn nghĩ rằng: “Làm
sao được như vậy?” Chúng tôi đáp: “Các
bạn hăy tự t́m ra những kết luận của ḿnh, các bạn hăy chọn lựa cách sống
riêng của ḿnh.”
Vị trưởng nhóm
của chúng tôi nói:
-Chúng tôi ước mong được thấy và biết.
Người lạ mặt nói tiếp:
-Kể từ bây giờ, có những bài học đứng đắn cho những kẻ không nh́n
thấy, không biết, không hiểu ư nghĩa về mục đích của một đời sống chân
chính. Đó không phải là một cuộc đời khổ hạnh, khắc khổ, cô lập hay buồn
thảm, mà là một cuộc đời hoạt động trong sự vui tươi, một cuộc đời mà mọi sự
buồn rầu, đau khổ đều bị vĩnh viễn loại trừ.
Kế đó, người lại nói với một giọng ít nghiêm cẩn hơn:
-Các bạn đă bày tỏ ư muốn được nh́n thấy và được biết. Nh́n thấy các
bạn tựu họp như vầy, tôi chợt nghĩ đến câu nói trong Kinh Thánh:
“ Khi nào hai hay ba người trong các
ngươi nhân danh Ta mà hội họp, th́ Ta luôn luôn có mặt một bên họ”.
Cuộc đời tu hành
khổ hạnh, xuất gia lánh đời, để ẩn ḿnh trong những tu viện Cơ Đốc hay Phật
Giáo, không phải là một điều cần thiết. Một cuộc đời như thế không giúp cho
hành giả đạt tới sự giác ngộ tâm linh thật sự và thực hiện sự minh triết
chân chính. Những pháp môn tu luyện đó đă từng có từ bao nhiêu ngàn năm về
trước. Tuy nhiên, những giáo lư của Đức Jesus, trong khoảng vài năm mà Ngài
xuất hiện ở thế gian, đă đóng góp một phần vô cùng lớn lao hơn nhiều trong
việc giáo dục tâm linh cho dân chúng.
Người ta biết rằng Đức Jesus đă từng thấu triệt mọi giáo lư, đă vượt
qua nhiều cấp bực Điểm Đạo, nghiên cứu những cấp đẳng Huyền Môn bí truyền,
cùng những nghi thức lễ bái, và sau cùng đă đạt tới giáo lư của Osiris.
Những giáo lư này được chỉ dẫn cho Ngài bởi một vị tư tế đă thoát ly ra khỏi
tất cả mọi nghi thức lễ bái, và quy luật, sắc tướng.
Vị tư tế này là một đệ tử của vị Thánh Vương Thoth, thuộc triều đại
thứ nhất của các v́ vua Ai Cập. Đế quốc Ai Cập đă từng được nâng lên một
tŕnh độ văn minh cao cả hùng cường nhờ ảnh hưởng của Osiris và những vị kế
nghiệp của ngài. Vị Thánh Vương Thoth trị nước trong sự minh triết và cố
gắng duy tŕ giáo lư của Osiris. Tuy vậy những quan niệm vật chất và hắc ám
đă xuất hiện khi những bộ lạc miền Nam là những giống người da đen đă đưa
Thoth lên cầm quyền, tăng gia ảnh hưởng của họ. Những triều đại sau đó đă đi
xa dần những giáo lư của Osiris. Họ lần lần chấp nhận những quan niệm hắc ám
của giống người da đen, và sau cùng đă tuyệt đối thực hành khoa bàn môn tả
đạo. Đế quốc Ai Cập đă suy vong rất mau chóng, và một đế quốc như thế lẽ tự
nhiên phải bị suy vong.
Sau khi Đức Jesus đă chăm chú nghe lời dẫn giải của vị tư tế này,
Ngài bèn thấu triệt được ư nghĩa thâm sâu huyền diệu của giáo lư Huyền Môn.
Những quan điểm sơ khởi của Đức Jesus về giáo lư nhà Phật mà Ngài đă thụ
huấn của những nhà hiền triết phương Đông đă giúp cho Ngài nhận thức được
những điểm tương đồng chính yếu của tất cả mọi giáo lư. Khi đó, Ngài bèn
quyết định đi sang Ấn Độ, đó là một dự tính hoàn toàn có thể thực hiện được
do bởi con đường bộ xuyên Á châu của những đoàn lạc đà thường di chuyển từng
kỳ hạn vào thời đó.
Sau khi đă nghiên cứu giáo lư Phật Giáo ở Ấn Độ, Đức Jesus nhận thấy
giữa các tôn giáo có những điểm tương đồng. Ngài hiểu mặc dầu có những sự
khác biệt về h́nh thức lễ bái và giáo điều do người đời đặt ra, nhưng tựu
trung các tôn giáo chỉ có một nguồn gốc duy nhất là Thượng Đế…
Cuộc nói chuyện chấm dứt và chúng tôi đi đến ngôi đền. Tại đây, chúng
tôi gặp bốn vị trong số các bậc siêu nhân đă đến đây trước chúng tôi. Sau
một lúc nói chuyện thông thường, chúng tôi tất cả đều ngồi xuống, và người
khách lạ lúc năy lại nói tiếp:
-Không một nhân vật lịch sử nào có thể b́ kịp với Đức Jesus. Phần
đông người Âu Mỹ tôn sùng Ngài như một thần tượng, và bởi đó họ đă lầm. Đáng
lư ra họ nên coi Ngài như hiện thân của một lư tưởng, thay v́ tôn thờ Ngài
như thần tượng. Thay v́ khắc những h́nh tượng để thờ Ngài, người ta nên coi
Ngài như một nhân vật đang sống, v́ hiện nay Ngài thật sự đang sống trong
chính cái thể xác đă từng bị đóng đinh trên Thập Tự Giá. Ngài vẫn c̣n sống
và có thể nói chuyện với các bạn như hồi trước khi Ngài bị đóng đinh. Sự lầm
lạc to lớn của đa số người, là nghĩ rằng Đức Jesus bị kết liễu cuộc đời
trong tai nạn đau khổ và chết trên cây Thánh Giá. Họ quên rằng phần lớn cuộc
đời của Ngài đă diễn ra trong thời gian sau khi Ngài Phục sinh. Ngày nay Đức
Jesus vẫn có thể dạy Đạo và chữa bịnh một cách linh nghiệm hơn bao giờ hết.
Các bạn có thể đến trước mặt Ngài bất cứ lúc nào, nếu các bạn muốn. Nếu các
bạn t́m Ngài, th́ các bạn sẽ gặp. Đức Jesus không phải là một vị vua có thể
bắt buộc các bạn chấp nhận sự hiện diện của Ngài, mà là một người Anh Cả
luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ các bạn và giúp đỡ thế gian. Khi Ngài c̣n sống
trên cơi thế gian phàm tục, Ngài chỉ có thể tiếp xúc với một thiểu số người
có hạn định. C̣n dưới h́nh thể mà Ngài khoác lấy hiện nay, Ngài có thể tiếp
xúc với tất cả những người nào hướng về Ngài. Phải chăng Ngài đă nói rằng: “Bất
cứ nơi nào có Ta, th́ các người cũng có thể có mặt ở đó?” Câu này phải
chăng có nghĩa là Ngài ở một nơi rất xa, tận trên Trời, và các bạn chỉ lên
tới đó sau khi đă chết? Không, Ngài vẫn ở tại cơi này, là nơi các bạn đang
ở, Ngài có thể di chuyển đó đây, và nói chuyện với bạn. Ta chỉ cần để cho
Ngài tự do hành động. hăy nâng tầm mắt bạn lên cao hơn một chút, hăy bao gồm
một chân trời rộng lớn hơn, và bạn sẽ thấy Ngài, miễn là tâm hồn và trí năo
bạn hướng đến Ngài một cách chân thành. Các bạn có thể cùng đi và nói chuyện
với Ngài. Nếu các bạn quan sát tỉ mỉ thân thể Ngài, các bạn sẽ thấy những
vết thẹo đóng đinh trên Thánh Giá, vết đâm của ngọn giáo và của chiếc măo
gai, nay đă hoàn toàn lành hẳn. T́nh thương và niềm phúc lạc từ toàn thân
Ngài toát ra sẽ chứng minh cho bạn thấy rằng Ngài quên tất cả, và tha thứ
tất cả…
Tới đây, người khách lạ ngừng nói, tất cả đều đắm ch́m một lúc trong
một cơn im lặng thâm trầm, kế đó một ánh sáng mà chúng tôi chưa nh́n thấy
bao giờ, chiếu khắp gian pḥng. Chúng tôi nghe một giọng nói, lúc đầu dường
như vọng lại từ đằng xa và không được rơ ràng. Sau khi giọng nói ấy làm cho
chúng tôi chú ư và tất cả những tư tưởng của chúng tôi đều hướng về nó, th́
giọng nói trở nên hoàn toàn rơ rệt và vang rền những âm thanh sáng sủa như
tiếng chuông ngân.
Một người trong chúng tôi hỏi:
-Ai nói đó?
Vị trưởng nhóm của chúng tôi đáp:
-Hăy im, đó là đức Chưởng Giáo của chúng ta, Đức Jesus đó.
Một người trong bọn lại nói:
-Đúng rồi, chính Đức Jesus nói đấy.
Khi đó giọng nói tiếp tục:
-Khi tôi nói “Ta là Con Đường,
là Chân Lư, là Sự Sống,” tôi không có ư đem đến cho nhân loại cái ư nghĩ
rằng chỉ có một ḿnh tôi mới là Ánh Sáng, chân thật và duy nhất. Khi tôi
nói: “Ta là người Con hoàn toàn,
người Con Duy Nhất do Chúa Trời sinh ra,” tôi muốn xác nhận với toàn thể
nhân loại rằng một trong những người
Con của Chúa Trời đă nh́n thấy, hiểu rơ và tuyên bố tính chất thiêng
liêng của ḿnh. Người Con ấy thấy rằng cuộc đời ḿnh và những hành động của
ḿnh vốn phát sinh ra tự nơi Chúa Trời, tức là cái nguyên lư Vô Cực của vạn
vật. Người tuyên bố ḿnh là Đấng Christ, người Con duy nhất do Chúa Trời
sinh ra. Rồi bằng cách sống cuộc đời thánh thiện của một tâm hồn chân thật
và kiên nhẫn, người trở nên nhân vật thiêng liêng mà người đă tuyên bố. Luôn
luôn giữ ǵn cái lư tưởng đó, người thấm nhuần nó khắp toàn thân của ḿnh,
và sau cùng đă đạt được cái mục đích mà người t́m kiếm.
Tại sao có biết bao nhiêu người không hề thấy tôi? Đó là bởi v́ họ
đặt tôi trên một cái ngai thần tượng và để tôi vào một chỗ cao xa không thể
đạt tới. Họ bao trùm tôi với bao nhiêu phép lạ nhiệm mầu và những điều huyền
bí, và đặt tôi ở một nơi xa xôi cách biệt với quần chúng mà tôi hằng thương
yêu với một t́nh bác ái vô biên khôn tả. Tôi không rút lui ra khỏi họ, mà
chính họ đă rút lui ra khỏi tôi. Họ đă dựng lên những bức màn, những vách
tường ngăn cách, đặt ra những người trung gian và khắc nên những h́nh tượng
của tôi cùng những người thân của tôi. Mỗi người trong chúng tôi đều được
bao phủ bằng những huyền thoại và những chuyện nhiệm mầu làm cho tôi bị ngăn
cách quá xa đến nỗi người đời không c̣n biết làm thế nào để đạt tới chúng
tôi được nữa. Người ta cầu nguyện và khẩn cầu Đức Mẹ mến yêu của tôi và
những người thân chung quanh tôi, và như vậy họ bao phủ chúng tôi với những
tư tưởng trần gian phàm tục. Thật ra nếu người đời muốn biết chúng tôi một
cách thật sự và mong ước được bắt tay chúng tôi như các bạn đă làm hôm nay
đây, th́ họ sẽ được như ư nguyện. Nếu người đời muốn từ bỏ mọi sự dị đoan mê
tín, họ sẽ nói chuyện với chúng tôi như các bạn đă làm. Các bạn nh́n thấy
chúng tôi không hề thay đổi. Chúng tôi muốn cho toàn thể thế gian cũng biết
như vậy xiết bao!
Các người đă bao trùm chúng tôi từ bao nhiêu lâu với những điều huyền
bí đến nỗi làm cho sự hoài nghi rốt cuộc phải thắng thế. Các người càng làm
nhiều h́nh tượng bao nhiêu, th́ các người lại càng làm cho chúng tôi trở nên
xa cách bấy nhiêu. Các người càng bao phủ chúng tôi trong sự nghi nan tăm
tối sâu đậm bao nhiêu, th́ cái vực thẳm mê tín dị đoan càng trở nên rộng lớn
và khó vượt qua bấy nhiêu. Nếu các người muốn bạo gan bước lại bắt tay chúng
tôi và nói: “Tôi biết ông,” th́
chừng đó mỗi người đều có thể nh́n thấy chúng tôi và biết chúng tôi như hiện
giờ. Không có sự mầu nhiệm nào chung quanh chúng tôi hay những người thân
của chúng tôi, v́ chúng tôi thương yêu tất cả nhân loại.
Phần đông chỉ nhận thấy có một phần cuộc đời của tôi nó kết liễu trên
cây Thánh Giá. Họ quên rằng phần lớn cuộc đời tôi đă sống trong h́nh thức
hiện tại. Họ quên rằng con người vẫn tiếp tục sống, dẫu rằng sau một cái
chết bất đắc kỳ tử. Người ta không thể hủy diệt sự sống. Sự sống vẫn tiếp
diễn luôn luôn, và một đời sống tốt lành không bao giờ mất. Dẫu cho cái xác
thể vật chất cũng có thể trở nên bất tử và không c̣n thay đổi.
Khi người anh em Phi Lát rửa tay và nói: “Các
người hăy đem y đi và hăy tự tay các người đóng đinh y trên cây Thánh Giá”
tôi không cho rằng Phi Lát đă lầm lỗi. Y không hề biết ǵ về cái diễn
biến lịch sử mà y đang sự phần trong đó, và điều tiên tri mà y đang thực
hiện. Y và những người chung quanh y đă đau khổ nhiều hơn tôi. Nhưng tất cả
những việc ấy đă qua, đă được quên lăng và được tha thứ, như các người sẽ
thấy trong cuộc hội họp hôm nay.
Kế đó, hai nhân vật xuất hiện, và Đức Jesus ôm hôn cả hai người. Đặt
bàn tay Ngài lên vai của một trong hai người, Ngài nói:
-Người anh em này đă cùng tôi đi suốt con đường Đạo. C̣n người kia, y
đă trải qua nhiều cuộc thử thách đắng cay trước khi y mở mắt tỉnh ngộ, nhưng
khi y tỉnh ngộ, y bèn đi theo chúng tôi. Y cũng hoàn toàn chân thật như
những người khác, và chúng tôi thương yêu y cũng bằng một t́nh thương không
kém.
Khi đó, nhân vật thứ hai từ từ tiến lên và đứng yên một lúc. Đức
Jesus day lại, mở rộng hai tay ôm lấy người ấy và nói: “Hỡi Phi Lát thân
mến.” Thật là không ai có thể lầm lẫn về những hảo ư của cả hai vị.
Kế đó, Phi Lát cất tiếng nói:
-Tôi đă đau khổ trong nhiều năm sau khi tuyên bố bản án vào cái ngày
mà tôi đă nhẹ dạ gạt bỏ cái trách nhiệm nặng nề của tôi. Trong đời sống hằng
ngày, rất ít người trong chúng ta nhận thức được những gánh nặng vô ích mà
họ chồng chất lên vai kẻ khác chỉ v́ họ muốn trốn tránh trách nhiệm của
ḿnh. Nhưng khi chúng ta đă thức tỉnh, chúng ta hiểu rằng khi ḿnh càng cố
gắng tránh né bổn phận và t́m cách đặt gánh nặng của ḿnh lên vai kẻ khác,
th́ cái gánh nặng ấy lại càng đè nặng trên vai ḿnh. Tôi đă phải mất nhiều
năm ray rứt đau khổ mới nh́n thấy rơ điều đó, nhưng thật cũng là một niềm
vui mừng lớn lao thay từ khi tôi đă tỉnh ngộ!
Khi đó, khúc hợp ca vô h́nh trổi lên với một âm điệu du dương khôn
tả. sau vài điệu nhạc, Đức Jesus tiến lên và nói:
-Các ngươi có lấy làm ngạc nhiên chăng, khi biết rằng tôi đă tha thứ
từ lâu cho những kẻ đă đóng đinh tôi trên Thánh Giá? Kể từ lúc đó, tại sao
người thế gian không tha thứ lẫn nhau như tôi vậy? Tại sao các người không
nh́n thấy tôi trong cái chân tướng bản thể, không phải bị đóng đinh trên
Thánh Giá, mà vượt lên cao hơn tất cả những ǵ là trần gian tục lụy?
Khúc ca vô h́nh lại tiếp tục với câu hát: “Xin
Ngài cứu rỗi và giải thoát cho tất cả, hỡi Ngài là Con của Chúa Trời. Các
người hăy nghiêng ḿnh suy tôn Ngài, nước Chúa đă được đặt ra cho nhân loại
trường cửu đến muôn đời. Thật vây, Ngài sẽ ở bên cạnh các người, măi măi…”
Đó không phải là
một cảnh tượng xa xôi, huyền ảo, hay lu mờ. Chúng tôi thật sự có mặt trong
gian pḥng lúc ấy và chúng tôi đă nói chuyện với những người đối thoại.
Chúng tôi đă bắt tay chào hỏi và đă chụp ảnh tất cả các vị. Các vị đă hiện
diện giữa nhóm chúng tôi, và chúng tôi đă vây quanh các vị. Sự khác biệt duy
nhất giữa các vị với chúng tôi là các vị được bao phủ quanh ḿnh bằng một
thứ hào quang đặc biệt. hào quang đó dường như là cái nguồn xuất phát ra ánh
sáng chiếu khắp pḥng. Các vị không có tỏa ra một cái bóng nào như chúng
tôi. Thể xác các vị dường như trong suốt một cách lạ thường, bàn tay sờ vào
th́ nó giống như chất bạch ngọc (
albâtre ). Tuy nhiên, thân thể các vị có những rung động ưu ái tốt lành
và tỏa ra chúng quanh sự nhiệt thành và ấm áp của t́nh thương. Sau khi các
vị đă ra đi, gian pḥng dường như vẫn c̣n giữ lại sự ấm áp và ánh sáng của
các Ngài. Sau đó, mỗi khi chúng tôi bước vào pḥng này, chúng tôi đều cảm
thấy như vậy. Một ngày nọ, vài người trong nhóm chúng tôi hội họp tại đó,
trao đổi cảm tưởng lẫn nhau và vị trưởng nhóm chúng tôi nói:
-Gian pḥng này thật là kỳ diệu.
Anh ta đă biểu lộ cái cảm tưởng chung của chúng tôi, chúng tôi không
ai nói thêm điều ǵ nữa. Khi chúng tôi trở lại đó vào mùa thu năm sau, gian
pḥng giống như một nơi linh điện và chúng tôi ngồi tĩnh tâm tại đó trong
nhiều giờ.
Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên đó, chúng tôi đợi cho các vị siêu nhân bước
ra khỏi pḥng. Trong khi Phi Lát sắp sửa ra đi, người yêu cầu vị trưởng nhóm
chúng tôi cùng đi theo người. Chúng tôi dùng các cầu thang đi xuống pḥng
dưới, và đi theo con đường hầm để ra ngoài đường. Chúng tôi đi về làng và
trở về nhà trọ, tại đây chúng tôi c̣n ngồi nói chuyện đến nửa đêm.
Sau khi các vị quan khách đă ra về, chúng tôi tựu họp chung quanh bà
chủ nhà, và mỗi người đều đến bắt tay bà để cám ơn bà về buổi tối đặc biệt
đó. Một người trong chúng tôi nói:
-Tôi chỉ có một cách duy nhất để phát biểu những tư tưởng và cảm nghĩ
của tôi, là nói rằng những quan niệm vật chất thiển cận của tôi đă hoàn toàn
tan vỡ đến nỗi tôi sẽ không bao giờ c̣n thấy lại một mảnh vụn nhỏ nhặt nào!
Dường như bạn tôi đă thức động đến những tư tưởng thầm kín của tất cả
mỗi người trong nhóm. Về phần tôi, tôi không nói ǵ về những cảm nghĩ của
ḿnh và cũng không hề nghĩ đến việc thuật chuyện lại cho ai nghe. Việc đó
tôi để tùy theo sự tưởng tượng của độc giả. Khi chúng tôi chào bà chủ nhà
trước khi đi ngủ, không ai thốt ra một lời nào nữa. Mỗi người đều có cảm
tưởng rằng một thế giới hoàn toàn mới lạ đă xuất hiện trước mắt chúng tôi.
Chúng tôi lui về pḥng riêng trong đêm đó với ư nghĩ rằng ḿnh đă trải qua
một ngày đầu năm tốt đẹp nhất trong đời.
II
Sáng ngày hôm
sau, vào lúc ăn điểm tâm, chúng tôi hỏi bà chủ nhà và được biết rằng không
phải là một điều bất thường mà thấy Đức Jesus xuất hiện như Ngài đă làm đêm
trước. Bà nói rằng Ngài vẫn thường tham dự với bà và các bạn hữu trong công
việc chữa bịnh.
Ngày đó, bà chủ nhà và hai bà khác quyết định đến ngôi đền với chúng
tôi. Khi chúng tôi vừa ra khỏi nhà, hai người đàn ông đi theo chúng tôi. Một
người nói với bà chủ nhà rằng có một đứa trẻ trong làng bị đau ốm và nhờ bà
đến chữa bịnh. Chúng tôi bỏ dở lộ tŕnh và đi theo hai người lạ mặt đến nhà
đứa trẻ, th́ thấy em bé ấy thật sự đang đau nặng. Bà chủ nhà chúng tôi liền
tiến tới và đưa hai tay ra. Mẹ em bé đặt đứa nhỏ trong ṿng tay của bà.
Gương mặt đứa bé liền sáng lên, rồi nhăn lại trong một lúc. Sau vài phút, nó
ngủ một giấc li b́. Bà chủ nhà mới trả em bé lại cho người mẹ nó và chúng
tôi ra đi để đến ngôi đền.
Người ta đưa chúng tôi đi qua nhiều pḥng trong ngôi đền. Trong lúc
nói chuyện, chúng tôi được biết rằng một trong hai người đă đi theo chúng
tôi hồi sớm mai là con cháu của một trong các bậc siêu nhân có gương mặt c̣n
trẻ mà chúng tôi đă gặp tại làng cũ của
Thánh Jean Baptiste ở ngày xưa.
Chúng tôi đă gọi vị siêu nhân ấy là vị sư tổ, tác giả các văn kiện cổ xưa.
Trái lại, người cháu chắt này già như một ông lăo, điều này làm chúng tôi
ngạc nhiên.
Trong khi chúng tôi trở lại gian pḥng thứ nhất, vị trưởng nhóm của
chúng tôi hỏi rằng một điều ước nguyện có thể nào thực hiện được chăng? Bà
chủ nhà đáp rằng mọi điều mong ước được bày tỏ dưới một h́nh thức toàn vẹn
sẽ được thực hiện. bà nói thêm rằng sự mong ước là một h́nh thức cầu nguyện,
rằng Đức Jesus vẫn dùng một h́nh thức cầu nguyện toàn vẹn v́ lời cầu nguyện
của Ngài luôn luôn được đáp ứng. Một lời cầu nguyện luôn luôn được đáp ứng
chỉ có thể là toàn vẹn, bởi đó nó rất khoa học, và nếu nó đúng tinh thần
khoa học, lẽ tất nhiên nó phải theo một định luật đúng đắn. bà chủ nhà nói
tiếp:
-Định luật ấy là như vầy: Lời cầu nguyện được đáp ứng là tùy theo đức
tin. Nói một cách khác, bất luận là bạn mong ước điều ǵ khi bạn cầu nguyện,
bạn hăy tin rằng bạn đă nhận được những điều mong ước đó, rồi bạn sẽ có.
Nếu chúng ta biết chắc rằng những ǵ ta cầu xin đă được ban cho ta,
chúng ta cũng biết rằng chúng ta đă hành động đúng luật. Và nếu điều mong
ước được thực hiện, chúng ta biết rằng luật đă ứng nghiệm. C̣n nếu điều ta
ước mong không được đáp ứng, th́ ta biết rằng chúng ta đă cầu nguyện trái
phép. Lỗi ấy không phải ở nơi Trời, mà ở nơi chúng ta. Trong trường hợp đó,
th́ đây là điều răn:
“Các bạn hăy kính yêu Thượng
Đế với tất cả tấm ḷng thành, với tất cả linh hồn, tất cả sức mạnh, tâm tư
và trí năo của bạn. Bây giờ, bạn hăy đi sâu vào tâm hồn bạn, không thành
kiến, không sợ hăi, và không nghi nan, với một tâm hồn vui vẻ, tự do và biết
ơn, và biết rằng những ǵ bạn cần dùng, những ǵ bạn cầu mong, bạn đă được
rồi đấy.”
Cái bí quyết là
hăy nâng tâm hồn lên cho ḥa nhịp với Thượng Đế. Kế đó, phải giữ nguyên
trạng thái đó không cho suy chuyển một li, dầu cho ta có gặp phải sự chống
đối của toàn thể thế giới. Đức Jesus nói:
-Riêng ta, ta không thể làm ǵ
được. Đức Chúa Cha ngự nơi ta đă làm tất cả mọi việc.
Các bạn hăy có
đức tin nơi Thượng Đế, đừng nghi ngại, đừng sợ sệt. Các bạn hăy nhớ rằng
quyền năng của Thượng Đế không giới hạn. Tất cả mọi việc, ta đều có thể làm
được.
III
Trong nhiều ngày liên tiếp, suốt hai tháng trường chúng tôi nghiên
cứu một loạt những tấm bia đá cổ xưa sắp thành hàng trong một gian pḥng kín
của ngôi đền. Những bia đá này có khắc những cổ tự và những h́nh biểu tượng
hàm xúc nhiều ư nghĩa thâm sâu. Ông lăo đi theo chúng tôi giảng giải cho
chúng tôi nghe những ư nghĩa của các bia đá cổ. Một ngày nọ vào đầu tháng
ba, như thường lệ chúng tôi đến gian pḥng nói trên và thấy ông lăo nằm im
bất động trên tấm nệm, dường như người ngủ. Một bạn tôi bước đến gần, đặt
nhẹ một bàn tay trên ḿnh ông lăo để đánh thức ông dậy, nhưng liền thụt lùi
lại và hoảng hốt kêu:
-Ông ta không c̣n thở, hay là ông ấy đă chết rồi!
Chúng tôi tựu lại quanh tấm nệm với ư nghĩ là ông lăo đă chết nên
không để ư đến việc ǵ xảy ra và có ai bước vào pḥng. Bỗng một tiếng “Chào
các bạn” kéo chúng tôi ra khỏi cơn mơ. Chúng tôi quay lại phía cửa vào
và thấy đức Tuệ Minh. Sự xuất hiện của ngài làm chúng tôi ngạc nhiên, ví
chúng tôi tưởng là ngài đang ở một nơi cách đây một ngàn năm trăm cây số.
Trước khi chúng tôi định tĩnh tinh thần, ngài bước tới gần và bắt tay chúng
tôi.
Sau một lúc, hai người trong nhóm chúng tôi lui ra sau và đức Tuệ
Minh bước đến gần tấm nệm. Đặt một bàn tay trên trán ông lăo, ngài nói:
-Đây là một huynh đệ thân mến của chúng ta vừa mới từ giă cơi đời và
bỏ dở công việc của y đang làm. Các bạn nghĩ rằng y đă chết. Ư tưởng đầu
tiên của các bạn là t́m một người đào huyệt, mua một cỗ quan tài, và xây cho
y một ngôi mộ để cho y yên giấc ngh́n thu. Hỡi các bạn, hăy suy nghĩ trong
một lúc. Ngày xưa Đức Jesus đă kêu gọi đến ai khi Ngài nói: “Hỡi
Chúa Cha, con xin tạ ơn Chúa đă nghe lời cầu nghuyện của con?” Ngài
không kêu gọi đến cái phàm ngă, cái lớp vỏ bên ngoài. Ngài nh́n nhận và kêu
gọi đến cái Chân Ngă, tức Đại Ngă vô biên, vốn toàn năng, vốn nghe, biết, và
nh́n thấy tất cả, tức là đức Thượng Đế toàn thông và hiện diện ở khắp mọi
nơi. Đức Jesus chủ ư đến điều ǵ khi Ngài đứng bên cạnh nấm mồ của Thánh
Lazare? Phải chăng người làm như các bạn là nh́n vào lỗ huyệt đào, và thấy
xác thể Thánh Lazare đang chương śnh và sắp tan ră? Không. Khi mà các bạn
chỉ nghĩ đến người chết, Ngài nghĩ đến người sống, là Con duy nhất của Chúa
Trời. Nhăn quang của Ngài trụ vào sự sống trường cửu, bất biến, hiện diện
khắp nơi và thấm nhuần tất cả mọi vật. Bây giờ, với tầm nhăn quang của chúng
ta cương quyết nhắm vào sự hiện diện hằng có của Thượng Đế, chúng ta có thể
nh́n thấy hoàn tất công việc của người huynh đệ thân yêu này, y đă không bao
giờ tuyệt đối trông cậy nơi Thượng Đế. Y đă trông cậy một phần vào sức ḿnh
và đă đi đến trạng thái hiện tại mà các bạn đă thấy. Y đă bỏ cuộc. Y đă phạm
vào điều lầm lạc mà nhiều người trong các bạn đang làm hiện thời, điều lầm
lạc mà các bạn gọi là sự chết. Người huynh đệ thân yêu này đă không có khả
năng từ bỏ sự nghi ngờ và sợ sệt. Y đă cậy nơi sức ḿnh và không thể hoàn
tất công việc mà mỗi người trong chúng ta đều phải làm. Nếu chúng ta cứ để y
nằm yên như thế, thể xác y sẽ tan ră. Y sẽ phải trở lại cơi trần để hoàn
thành công viêc thế gian mà y làm chưa xong. Thật ra, công việc ấy đă gần
xong đến nỗi chúng ta có thể giúp y hoàn tất chu đáo. Chúng ta cho rằng thật
là một vinh dự lớn lao mà có thể giúp đỡ y trong trường hợp này. Các bạn đă
tự hỏi rằng y có thể nào thức tỉnh dậy và sống lại như mọi người hay chăng?
Có, y có thể, và tất cả những người đă chết như y cũng đều có thể sống lại.
Mặc dầu các bạn cho rằng y đă chết, nhưng chúng tôi là những người đă từng
chia sẻ ít nhiều cuộc đời của y, chúng tôi có thể giúp đỡ y. Không bao lâu y
sẽ hiểu và sẽ có thể đem thể xác đi theo với y. Không cần phải bỏ xác cho
cái gọi là “Sự chết” và sự tan
ră, dẫu rằng sau khi đă làm cái điều lầm lạc lớn lao nói trên…
Đức Tuệ Minh ngừng nói trong một lúc và có vẻ đắm ch́m trong một cơn
thiền định thâm sâu. Một lúc ngắn ngủi sau đó, bốn người trong các vị quư
khách gặp trong làng đều bước vào gian pḥng. Các vị bước đến gần nhau, cũng
nhắm mắt định thần và đi vào cơn đại định thâm trầm. Kế đó, hai người trong
các vị đưa tay ra và mời chúng tôi cùng nhập cuộc. Chúng tôi bước đến gần và
khoác tay trên vai nhau, làm thành một ṿng tṛn chung quanh chỗ nằm của xác
chết.
Chúng tôi đứng im lặng trong một lúc, kế đó ánh sáng trở nên tỏ rạng
hơn trong gian pḥng. Chúng tôi quay lại nh́n th́ thấy Đức Jesus và Phi Lát
đang đứng cách chúng tôi có vài bước. Hai vị tiến tới và nhập đoàn cùng với
chúng tôi. Lại một cơn im lặng thâm trầm tiếp theo sau, kế đó Đức Jesus đến
gần xác chết, đưa hai tay lên và nói:
-Hỡi các bạn, tôi xin đề nghị với các bạn hăy cùng tôi vượt trong một
lúc qua cơi giới bên kia cửa Tử. Cơi ấy không phải là vùng cấm địa như các
bạn có thể tưởng. Nếu các bạn cùng tôi vượt qua cửa Tử và quan sát cơi ấy từ
phía bên kia, các bạn sẽ thấy rằng nó được thuần túy tạo nên bởi những tư
tưởng của con người. Ở cơi giới bên kia cũng có sự sống, giống như bên này
vậy.
Đức Jesus đứng yên một lúc, hai tay đưa thẳng về phía trước, và nói:
-Hỡi người anh em và bạn hữu, bạn hiện diện với chúng tôi, chúng tôi
cùng hiện diện với bạn, và tất cả chúng ta đều hiện diện chung nhau với Chúa
Trời. Sự tinh khiết tuyệt đối, sự bằng an và điều ḥa của Chúa Trời bao phủ
và thấm nhuần tất cả. Sự thực hiện những điều đó nay đă biểu lộ nơi bạn một
cách độc đáo và rơ rệt đến nỗi bạn có thể đứng dậy và được nhận ở một bên
đấng Cha Lành. Bạn thân mến, bây giờ bạn đă thấy và biết rằng thể xác của
bạn không phải là cát bụi trở về cát bụi, hay nhúm tro tàn hoàn lại đống tro
tàn. Sự sống vẫn ở đó, tinh anh và trường cửu.Không cần phải bỏ thể xác cho
nó tan ră trong sự chết. Bây giờ bạn đă nhận thức được sự huy hoàng của cơi
giới nguyên thủy của ḿnh. Bây giờ bạn có thể đứng dậy và đến với Chúa Trời…
Hỡi quư độc giả, nếu người ta thử diễn tả sự mỹ lệ và tinh anh của
ánh sáng tràn ngập gian pḥng này bằng ngôn ngữ của trần gian, th́ đó chỉ là
những danh từ trống rỗng. Khi xác chết bất động ngồi dậy, dường như ánh sáng
chiếu xuyên qua mọi vật, thành thử không có vật ǵ phát ra bóng đen, cả thể
xác của người chết cũng như của chúng tôi.
Kế đó, những vách tường dường như nới rộng ra và trở nên trong suốt,
và sau cùng dường như tầm nhăn quang của chúng tôi phóng vào khoảng không
gian vô tận. Không thể dùng danh từ nào để diễn tả sự huy hoàng của cảnh
tượng lúc ấy. Khi đó chúng tôi hiểu rằng
Thần Chết đă biến mất và chúng
tôi đang hiện diện trước Sự Sống
trường cửu, huy hoàng.
Người trần gian như chúng tôi chỉ có thể nh́n với đôi mắt kinh ngạc.
Trong những giây phút đó, chúng tôi vượt lên cao hơn nhiều những ǵ mà một
khối óc giàu tưởng tượng có thể nghĩ về sự mỹ lệ huy hoàng của cơi Trời. Đó
không phải là một cơn mơ, mà đó là sự thật. Sự thật ấy có thể vượt khỏi rất
xa tất cả những giấc mơ. Ngày hôm đó, ảnh hưởng kỳ diệu về sự mỹ lệ và sự
bằng an do cảnh tưởng ấy gây ra, cộng thêm với đức tin lớn lao mà các vị
Chân Sư đă gây cho chúng tôi, đă hoàn toàn đưa chúng tôi vượt qua bên kia
bức rào ngăn cách giữa sự Sinh và sự Tử. Ngày nay, bức rào ngăn cách đó đối
với chúng tôi chỉ c̣n là đồng bằng không chướng ngại. Tuy nhiên, dường như
chúng tôi thấy một cách rơ rệt rằng bằng cách này hay cách khác, mỗi người
phải tự ḿnh làm sự cố gắng cần thiết để vượt qua những chướng ngại nếu y
muốn nh́n thấy sự huy hoàng lộng lẫy của cơi giới vô h́nh.
Mọi di tích của sự già nua đă biến mất nơi
Chander Sen, mà chúng tôi coi như
đă phục sinh từ cơi chết. Y day lại các bạn hữu và liền cất tiếng nói. Giọng
nói của y hàm xúc một điểm chân thành và hùng dũng:
-Hỡi các bạn, các bạn không thể biết được nỗi vui mừng,sự bằng an và
niềm ân huệ lớn lao mà các bạn đă đem đến cho tôi bằng cách đánh thức tôi
dậy như các bạn đă làm. Một lúc trước đây, tất cả đều tăm tối. Tôi đang ở
đó, ngại ngùng sợ sệt không dám tiến tới và cũng không thể thụt lùi. Tôi chỉ
có một cách để bày tỏ những cảm tưởng của tôi. Tôi đang đắm ch́m trong sự
tối tăm u ám, th́ bỗng nhiên tôi thức tỉnh, và bây giờ tôi lại ở một bên các
bạn.
Kế đó, gương mặt y trở nên sáng lạn với một niềm hân hoan vui vẻ đến
nỗi người ta không thể nghi ngờ ḷng thành thật của y. Y day lại chúng tôi
và nói:
Hỡi các bạn, thật là hân hạnh thay khi tôi nghĩ đến sự kết hợp giữa
chúng ta. Các bạn không thể biết được niềm vui của tôi khi tôi bắt tay các
bạn. Thật là một niềm phúc lạc mà nh́n thấy và cảm xúc được sự chân thành
của các bạn khi các bạn chấp nhận dự can thiệp của những vị cứu trợ cao cả
thiêng liêng của tôi! Nếu các bạn có thể nh́n thấy bằng đôi mắt của tôi
trong lúc này, các bạn sẽ biết được cái ân huệ mà tôi vừa kinh nghiệm. Niềm
vui lớn nhất của tôi là biết được một cách chắc chắn rằng mỗi người trong
các bạn sẽ có ngày đạt tới một giai đoạn giống như của tôi và chừng đó sẽ
biết được một niềm vui tương tự. Tôi có thể nói rằng thật cũng đáng sống
trọn một cuộc đời để thụ hưởng được một lúc an lạc như thế…
Một lúc sau, Chander sen
đă biến mất. Phải chăng đó chỉ là một ảo ảnh? Các bạn tôi đều đồng thanh cho
là không, v́ có hai người đă đích thân đến bắt tay đương sự. Tôi để cho quư
độc giả quyền tự do phê phán việc ấy.
Khi đó một trong các vị quư khách ở làng ấy day lại chúng tôi và nói:
-Tôi biết các bạn đang có sự nghi nan. Nhưng các bạn nên hiểu rằng
tất cả những việc ấy không phải được dàn cảnh để làm vui mắt các bạn. Đó chỉ
là một sự việc thông thường và ngẫu nhiên xảy ra để làm vui mắt các bạn. Đó
chỉ là một sự việc thông thường và ngẫu nhiên xảy ra trong cuộc đời của
chúng tôi. Khi đến một lúc quyết định, chúng tôi có thể thắng đoạt thời cơ
và làm chủ t́nh h́nh. Nếu để riêng một ḿnh y, người anh em này không đủ sức
để tự ḿnh vượt qua bức rào chướng ngại. Quả thật, như các bạn đă thấy, y đă
chết và bỏ xác nằm trơ. Nhưng v́ y đă đạt tới một tŕnh độ tâm linh khá cao,
nên chúng tôi có thể giúp y vào lúc quyết định. Trong trường hợp đó, linh
hồn đă trở lại, thể xác hoàn thành sự tinh luyện của nó đến mức toàn hảo, và
hành giả có thể đem xác y đi theo bất cứ nơi đâu. Sự bất hạnh của người anh
em nay là do bởi y muốn chết quá! Y đă bỏ xác y lại đúng vào lúc mà chỉ thêm
vài bước nữa cũng đủ để cho y vượt qua bức rào ngăn cách và hoàn tất công
phu tu luyện đến mức toàn hảo. Thật là một hân hạnh rất lớn cho chúng tôi mà
có thể giúp y trong dịp đó…
Chúng tôi từ từ rút tay lại và đứng yên một phút trong một cơn im
lặng hoàn toàn. Một người trong chúng tôi gián đoạn phút im lặng đó bằng một
câu:
-Ôi! Thượng Đế toàn năng!
Riêng phần tôi, dường như không bao giờ tôi c̣n muốn nói ǵ nữa. Tôi
muốn suy gẫm. Trong một giờ đồng hồ, tôi đă sống trọn một đời người. Chúng
tôi tất cả đều ngồi xuống. Vài người trong chúng tôi đă định tĩnh tinh thần
trở lại, bèn nói chuyện th́ thầm với nhau.
Một khắc đồng hồ sau, trong khi chúng tôi đang ngồi nói chuyện, một
bạn tôi bước đến gần cửa sổ nh́n ra ngoài và nói h́nh như có nhiều người lạ
mặt đă vào làng. Ngạc nhiên, chúng tôi đi ra để nh́n xem. Thật vậy, thật là
một điều rất hiếm mà có những người khách lạ đi bộ đến làng vào mùa này, v́
lúc ấy là giữa mùa đông.
Khi đến làng, chúng tôi thấy một nhóm vài người đến từ một thôn nhỏ
cách đó chừng độ năm chục cây số. Họ có đem theo một người, đi lạc trước đó
ba người trong một cơn băo tuyết và hầu như đă hoàn toàn bị chết cóng. Các
bạn y chở y nằm trên một chiếc cáng và đă đi bộ vượt qua một quăng đường dài
đầy tuyết phủ. Đức Jesus bước đến gần, đặt bàn tay trên đầu người ấy và đứng
yên trong một lúc. Th́nh ĺnh, người ấy bỏ mền ra và liền đứng dậy. Các bạn
y trố mắt nh́n một cách vô cùng kinh ngạc và bỏ chạy trong cơn hoảng sợ.
Chúng tôi không thể nào thuyết phục họ quay trở lại. Người chết cóng vừa
được chữa khỏi có vẻ hoang mang ngơ ngác. Hai bạn trong nhóm chúng tôi mời y
về nhà họ để nghỉ ngơi ít lâu. Kỳ dư đều quay trở lại nhà trọ, và chúng tôi
thức đến nửa đêm để b́nh luận về những việc xảy ra trong ngày hôm đó.
IV
Câu chuyện xoay
chiều đến một điểm, khi đó một bạn tôi hỏi địa ngục ở tại nơi đâu, và ác quỷ
có nghĩa là ǵ? Đức Jesus phản ứng mau lẹ và đáp:
-Địa ngục và ác quỷ không có nơi chỗ nào nhất định ngoài ra trong tư
tưởng phàm tục của người đời. cả hai đều ở đúng vào nơi nào mà con người đặt
ra cho chúng. Các bạn là những người có học thức, các bạn có thể nào t́m
thấy chăng một vị trí địa dư nào cho địa ngục và ác quỷ trên quả địa cầu?
Nếu cơi Trời là tất cả và bao trùm tất cả, làm sao người ta có thể t́m thấy
trong chất dĩ thái bao la một nơi chốn nào nhất định cho địa ngục hay ác
quỷ? Nếu Chúa Trời là tất cả mọi nơi và cai quản tất cả mọi sự, th́ c̣n có
chỗ nào đâu nữa cho địa ngục hay ác quỷ trong cái thiên cơ toàn diện của
Ngài? Bây giờ chúng ta đă lục soát khắp cả vũ trụ và không t́m thấy chỗ nào
là nơi trú ẩn của ác quỷ. Như vậy, chúng ta bắt buộc phải nh́n nhận rằng ác
quỷ ở chỗ nào có người ta và nó chỉ có những quyền năng mà người đời đă gán
cho nó. Các bạn tưởng tượng rằng tôi có thể đuổi tà ra khỏi bất cứ một người
nào, rồi sau đó để cho nó nhập vào một bầy heo, rồi bầy heo này sẽ đâm đầu
xuống biển? Tôi không hề thấy tà ma quỷ quái nhập vào một người nào, trừ phi
người ấy đă tự ư đem nó vào ḿnh. Cái quyền năng duy nhất của tà ma mà tôi
nh́n nhận là cái quyền năng mà chính người đời đă gán cho nó.
Một lúc sau, câu chuyện xoay chiều đến vấn đề Thượng Đế, và một bạn
tôi hỏi:
-Con muốn biết Chúa Trời là ai và bản chất thật sự của Ngài là như
thế nào?
Đức Jesus đáp:
-Tôi hiểu tầm mức quan trọng của câu hỏi đó. Anh muốn xác định vấn đề
ấy cho rơ ràng. Ngày nay, thế giới đang bị xáo trộn bởi nhiều tư tưởng trái
ngược. Người ta không t́m đến nguồn gốc của các danh từ.
Thượng Đế hay
Chúa Trời là cái nguyên lư cai
quản mọi vật. Cái Nguyên Lư nó ngự trị trong một sinh vật là
Tinh Thần, và
Tinh Thần vốn
toàn năng, toàn trí và toàn thông.
Chúa Trời là tư tưởng duy nhất làm cái nguyên nhân trực tiếp và chỉ đạo
của tất cả mọi sự tốt lành ở chung quanh chúng ta. Chúa Trời là nguyên nhân
của mọi sự sống mà ta thấy ở chung quanh ta. Chúa Trời là nguồn gốc của t́nh
Bác Ái bao la nó duy tŕ và hợp nhất tất cả mọi h́nh thể sinh hoạt. Chúa
Trời hay Thượng Đế là một cái Nguyên Lư vi diệu, chớ không phải là một Đấng
có cá thể riêng biệt. Chúa Trời không bao giờ là một nhân vật riêng rẽ, trừ
phi khi nào Ngài trở nên một đấng Cha Lành, đầy t́nh thương và có cá tính
đối với quan niệm riêng của mỗi người. Thật vậy, đối với mỗi người, Chúa
Trời có thể trở nên một bậc Phụ Mẫu, đầy Bác Ái và ban rải tất cả. Chúa Trời
không bao giờ là một đấng Cao Cả ngự trị ở một nơi nào đó trên Trời, ở một
cơi giới gọi là Thiên Đàng, nơi đó Ngài ngồi trên một chiếc ngai vàng và xử
xét người đời sau khi họ chết. V́ Chúa Trời chính là Sự Sống vậy, và Sự Sống
không bao giờ mất. Cái h́nh ảnh nói trên chỉ là một quan niệm sai lầm nẩy
sinh ra trong trí của những kẻ ngu dốt.
Điều ấy cũng áp dụng cho nhiều sự sai lầm khác mà các bạn có thể nhận
thấy trên thế gian ở chung quanh ta. Chúa Trời không phải là một vị Quan
Ṭa, hay một ông vua, có thể áp đặt sự hiện diện của Ngài đối với con người,
và đem người đời ra xét xử trước một ṭa án công lư.Chúa Trời là một đấng
Cha Lành đầy Bác Ái và giàu ḷng quảng đại, mở rộng hai tay mừng đón khi các
bạn tiến đến gần Ngài. Ngài không cần biết đến bạn là ai trong hiện tại hay
trong quá khứ. Bạn luôn luôn là con của Ngài, nếu bạn t́m đến Ngài với tấm
ḷng thành và với những mục đích chân thật, dẫu rằng bạn đă có lúc bỏ nhà đi
hoang và đă mỏi mệt trên con đường lầm lạc sa ngă. Bạn luôn luôn có thể lại
quay trở về nhà của đấng Cha Lành với một niềm tin tưởng chắc chắn về một sự
tiếp đón đầy hảo ư. Bữa tiệc liên hoan luôn luôn chờ đón bạn ở đó, bàn tiệc
luôn luôn được sắp đặt sẵn sàng. Khi bạn trở về, bạn sẽ không nghe một lời
trách móc nào của một huynh đệ đă trở về nhà trước bạn.
Các bạn có thể nh́n thấy Chúa Trời và nói chuyện với Ngài bất cứ lúc
nào, cũng y như bạn nói chuyện với cha mẹ, bạn bè hay thân nhân của bạn.
Thật vậy, Ngài c̣n gần gũi bạn hơn bất cứ một người nào trên thế gian, Ngài
chăm sóc và ưu ái bạn c̣n hơn bất cứ một người bằng hữu thân tín nào. Ngài
không bao giờ giận dữ hay chán nản. Chúa Trời không hề huỷ diệt, sát phạt,
gây thương tổn hay làm buồn ḷng một người con nào hay một sinh vật nào của
Ngài sáng tạo ra. Nếu Ngài làm như vậy, Ngài đă không phải là Chúa Trời. Một
đấng Thượng Đế mà xét xử, sát phạt hay từ chối một sự tốt lành nào đối với
những sinh vật hay những đứa con của Ngài, chỉ là do sự tưởng tượng của
những triết gia ngu dốt. Các bạn không cần phải sợ sệt một đấng Thượng Đế
như thế, trừ phi các bạn cố ư muốn làm như vậy. Vị Chúa Trời chân chính luôn
luôn đưa tay ra và nói: “Tất cả những
ǵ Ta sở hữu, cũng là của con.” Một thi nhân há chẳng có nói rằng Thượng
Đế gần với ta c̣n hơn là hơi thở, hai tay chân của ta. Thi sĩ nói câu ấy hẳn
là do một nguồn cảm hứng thiêng liêng khi họ hướng về điều thánh thiện hay
công lư. Mỗi người đều có thể được sự cảm hứng thiêng liêng bất cứ lúc nào
nếu họ muốn.
Nhiều vị bạn hữu của tôi cùng đoàn kết với nhau để giúp đỡ thế gian.
Đó là công việc làm trong đời của chúng tôi. Có những thời kỳ phải cần huy
động tất cả nghị lực của chúng tôi lại với nhau để đánh tan những luồng sóng
tư tưởng xấu xa hắc ám, những tư tưởng nghi ngờ, dị đoan nó suưt nữa đă nhận
ch́m toàn thể nhân loại trong vực thẳm. Các bạn có thể gọi đó là những lực
lượng tà vay, bất hảo hay ǵ tùy ư. Theo chúng tôi, những sức mạnh đó chỉ
xấu xa hắc ám là trong phạm vi mà người đời đă tạo ra nó.
Nhưng ngày nay, chúng tôi thấy một ánh sáng ngày càng tỏ rạng hơn
lên, khi mà người đời từ bỏ những điều mê tín dị đoan trói buộc của họ. Sự
giải thoát đó có thể làm cho họ đắm ch́m một ít lâu trong chủ nghĩa duy vật.
Nhưng điều này giúp cho họ tiến lên gần mục đích, v́ chủ nghĩa duy vật không
gây chướng ngại cho tinh thần bằng sự mê tín dị đoan hay những huyền thoại
hoang đường. Cái ngày mà tôi đi trên mặt nước, chắc các bạn tưởng rằng tầm
nhăn quang của tôi hướng về chỗ nước sâu, vực thẳm chăng? Không. Tôi chỉ
nghĩ đến quyền năng của Chúa Trời, nó thắng đoạt tất cả mọi sự hiểm nguy của
vực thẳm. Khi tôi làm như vậy, mặt nước trở nên rắn chắc như đá, và tôi có
thể đi trên mặt biển một cách tuyệt đối an toàn.
Đức Jesus ngừng một lúc, và một bạn tôi hỏi:
-Thưa Ngài, buổi nói chuyện của Ngài với chúng tôi hôm nay có làm
phiền rộn Ngài và làm gián đoạn công việc cao cả của Ngài chăng?
-Các anh không thể làm phiền rộn một vị nào trong các bạn hữu của
tôi, dẫu rằng chỉ trong một lúc, và tôi nghĩ rằng tôi cũng là một người
trong nhóm đó.
Một bạn khác nói:
-Ngài là vị Anh Cả của chúng tôi.
Đức Jesus nở một nụ cười tươi sáng. Ngài nói:
-Cám ơn bạn, tôi vẫn luôn gọi các bạn là anh em.
Khi đó, một người trong chúng tôi day lại Đức Jesus và hỏi Ngài:
-Thưa Ngài, phải chăng mọi người đều có thể biểu lộ đấng
Christ tự trong ḿnh?
Ngài đáp:
-Phải, chỉ có một con đường đưa đến sự Toàn Thiện. Con người sinh ra
tự Chúa Trời và phải trở về với Chúa Trời. Những ǵ xuất xứ tự cơi Trời đều
phải quay lại cơi Trời. Lịch sử đấng Christ không phải đă bắt đầu từ lúc tôi
giáng sinh, cũng như không phải đă chấm dứt khi tôi bị đóng đinh trên Thập
Tự Giá. Đấng Christ vẫn hằng có, khi Chúa Trời sáng tạo nên người đầu tiên
theo h́nh ảnh của Ngài và giống như Ngài. Đấng Christ và người ấy chỉ là
một. Tất cả mọi người cùng với người ấy cũng chỉ là một. Cũng như Chúa Trời
là Cha của người ấy, th́ Ngài là Cha của tất cả mọi người. Trong thời gian
trên 50 năm sau ngày tôi bị pháp nạn trên cây Thánh Giá, tôi đă sống với
những đệ tử và với nhiều người thân yêu của tôi. Tôi đă truyền pháp cho họ.
Trong thời gian đó, chúng tôi tựu họp nhau trong một vùng hẻo lánh yên tịnh
ngoài xứ Judée, ở đó chúng tôi được ẩn trú an toàn khỏi bị quấy rầy bởi
những kẻ ṭ ṃ mê tín. Chính ở đó có nhiều người đă sở đắc được những quyền
năng lớn lao và thực hiện một công tŕnh vĩ đại. Khi đó tôi hiểu rằng bằng
cách rút lui một thời gian, tôi sẽ có thể tiếp xúc với toàn thể thế giới để
giúp đỡ nhân loại. Bởi đó, tôi bèn rút lui và sống ẩn dật. Vả lại, những đệ
tử tôi thường ỷ lại nơi tôi nhiều hơn là tự trông cậy nơi sức ḿnh. Để giải
thoát họ khỏi thói ỷ lại đó, tôi phải rút lui ra khỏi tập đoàn của họ. V́ có
sự liên hệ chặt chẽ giữa họ với tôi, nên phải chăng là họ có thể t́m lại tôi
tùy ư muốn…
Các bạn hăy tự coi ḿnh như một phần tử của sự sống vô biên. Các bạn
hăy chấp nhận tự hy sinh v́ lợi ích chung của toàn thể. Các bạn hăy tập làm
điều lành mà không cần nghĩ đến hậu quả. Các bạn hăy tập từ bỏ mọi đời sống
phàm tục và từ bỏ mọi thứ của cải vật chất của trần gian. Hăy làm như vậy
một cách thoải mái tự do, đó không phải là một sự quên ḿnh hay cam tâm sống
cuộc đời bần cùng khắc khổ. Bạn càng cho ra bao nhiêu những ǵ mà Chúa Trời
ban cho bạn, th́ bạn sẽ nhận thấy rằng bạn lại càng có nhiều hơn để cho ra,
dẫu rằng đôi khi dường như bổn phận đ̣i hỏi bạn phải cho tất cả, thậm chí
đến cả sự sống. Khi đó, bạn sẽ thấy rằng người nào muốn duy tŕ sự sống của
ḿnh sẽ mất nó. Bạn sẽ vui mừng mà nhận thấy rằng sự sống mà bạn đem cho kẻ
khác, lại chính là sự sống mà bạn đă thu hoạch được. Khi đó bạn sẽ biết rằng
nhận lănh, có nghĩa là cho ra một cách rộng răi, phóng khoáng. Nếu các bạn
hy sinh cái sự sống hữu h́nh hữu hoại này, một đời sống cao cả hơn sẽ xuất
hiện. Tôi bảo đảm với các bạn rằng một đời sống như thế là một sự thực hiện
lớn lao không phải cho riêng ḿnh, mà cho tất cả.
Có lúc bạn sẽ có ḷng ưu ái để cảm thông với những nhu cầu cấp bách
của thế gian. Khi bạn cảm thấy điều đó, bạn sẽ có thể giúp đỡ kẻ đồng loại
một cách vô tư mà không hề khoe khoang tự phụ. Bạn có thể ban rải nguồn ân
huệ thiêng liêng cho những linh hồn khát khao chân lư mà nguồn ân huệ ấy sẽ
không bao giờ cạn. Bạn hăy sử dụng khả năng dùng lời thuyết giảng đạo lư để
đem nguồn an ủi cho những kẻ t́m đến bạn, để đem sự bằng an và nguồn hy vọng
cho những kẻ bịnh tật, những kẻ mệt mỏi chán nản cuộc sống, tất cả những
người bị sự đau khổ của cuộc đời đè nặng lên vai. Bạn có thể thức tỉnh những
kẻ mù quáng vô t́nh hay cố ư. Dẫu cho một linh hồn bị sa đọa đến mực nào, y
cũng sẽ cảm thấy rằng có linh hồn đấng Christ đứng ở bên cạnh y…
Kế đó, Đức Jesus nói rằng Ngài phải đến nhà một huynh đệ khác trong
làng ngay chiều hôm đó. Tất cả cử tọa đều đứng dậy. Đức Jesus ban ân huệ cho
tất cả chúng tôi, và rời khỏi văn pḥng với hai người khác.
CHƯƠNG
SÁU
Một nền văn minh
cổ xưa đến hai trăm ngàn năm
năm –Cơn băo tuyết trên vùng Gobi –Những di tích các thành phố cổ -Bọn cướp
núi và đoàn kỵ mă cứu trợ vô h́nh – Một cuộc gặp gỡ huyền diệu.
I
Sáng ngày hôm
sau, chúng tôi bắt tay vào công việc phiên dịch chữ cổ tự dùng trong những
bản văn kiện và tài liệu cổ. Chúng tôi muốn có sự rơ ràng chân xác tối đa về
ư nghĩa của những chữ ấy. Nhờ sự giúp đỡ của bà chủ nhà, chúng tôi học được
nhiều về những Thánh Kinh cổ xưa ấy.
Chúng tôi lao ḿnh vào công việc ấy với tất cả tâm hồn. Một buổi
sáng, sau độ hai tuần làm việc, chúng tôi đi đến ngôi đền như thường lệ và
thấy ông bạn Chander Sen của
chúng tôi, là người dường như đă trải qua sự chết và được phục sinh trước
đây. Y vẫn mang thể xác bằng xương thịt như mọi người, nhưng những nét mặt
của y tuy rằng vẫn y nguyên như cũ, lại không mang dấu vết nào của sự già
nua.Không thể lầm được y với một người nào khác. Khi chúng tôi bước vào
pḥng, y đang ngồi ghế bèn đứng dậy và đến gần để bắt tay chúng tôi với
những lời chào hỏi mừng rỡ.
Người ta không thể tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng tôi khi chúng
tôi vây chung quanh y và chất vấn y tới tấp. Chúng tôi giống như một đám học
tṛ vô kỷ luật. Tất cả đều hỏi y cùng một lượt, không ai nghe được ai, và
không có trật tự trước sau ǵ cả! Chắc chắn rằng trong cặp mắt của y, chúng
tôi có vẻ như một đám trẻ con vừa chận được một đứa khác mang tin sốt dẻo,
và tất cả đều muốn biết xem đó là việc ǵ! Nhưng sự thật vẫn sờ sờ ra đó.
Chander Sen đang đứng trước mặt
chúng tôi, với giọng nói và những nét mặt đặc biệt của y, nhưng không già
chút nào! Thậm chí giọng nói của y cũng đă có được một âm thanh rắn rỏi của
người độ vào trung niên. Y có dáng điệu của một người linh hoạt, và khỏe
mạnh, sáng suốt. Gương mặt và đôi mắt y phản chiếu những nét linh động khôn
tả.
Lúc đầu, chúng tôi chỉ có thể so sánh cái thực trạng của y bây giờ
với t́nh trạng cũ của y. Trước kia, khi chúng tôi mới quen biết y, y là một
người già nua lọm khọm, lúc đi đứng phải chống một cây gậy lớn. Y có những
lọn tóc dài trắng phau, những bước đi chập choạng, và một gương mặt xanh xao
hốc hác. Một người trong bọn chúng tôi đă nhận thấy những điểm đó và đă nói:
-Trong số những nhân vật siêu việt kia, đây là một người đă già đến
nỗi có lẽ y gần bước qua bên kia cửa Tử.
Lẽ tất nhiên chúng tôi nhớ đến sự biến đổi ly kỳ mà chúng tôi đă
chứng kiến cách đây vài ngày. Nhưng sau khi
Chander Sen th́nh ĺnh biến mất,
tất cả những điều ấy đă lui dần vào trong quên lăng, v́ chúng tôi tưởng rằng
sẽ không c̣n gặp y trở lại. Những diễn biến kế tiếp theo sau đó một cách mau
chóng, đă đẩy thụt lùi việc này vào dĩ văng đến nỗi chúng tôi hầu như đă
quên đi mất. Nhưng nay, nó đă xuất hiện trở lại trong kư ức chúng tôi một
cách sống động đến nỗi làm cho chúng tôi ngạc nhiên vô hạn.
Chander Sen đă trẻ hẳn lại
một cách không thể tưởng tượng. Nói đúng hơn, y đă trải qua một sự Biến Thể
giống như Đấng Christ mà chúng tôi hằng kính yêu rất mực. Xét về sự tương
phản rơ rệt giữa h́nh dáng của y trước kia với t́nh trạng của y bây giờ,
chắc chắn rằng linh hồn y cũng đă tái sinh trở lại. Tuy rằng trước đây chúng
tôi không có sống chung với y được bao lâu, nhưng sự tiếp xúc hằng ngày giữa
chúng tôi với y đă kéo dài khá lâu để cho chúng tôi được biết y như một
người đă già. Kể từ ngày hôm ấy, y đă sống chung với tôi trên hai năm, vừa
làm người hướng dẫn vừa làm thông ngôn trong chuyến du hành của chúng tôi
vượt qua vùng sa mạc Gobi. Nhiều năm về sau, khi vài người trong phái đoàn
chúng tôi gặp lại nhau và hồi tưởng lại việc cũ, th́ việc xảy ra sáng ngày
hôm ấy là đề tài đầu tiên mà họ nhắc đến trong cuộc nói chuyện.
Khi tôi thuật lại chuyện này, tôi không có ư kể lại tường tận cuộc
đàm thoại của chúng tôi đúng từng chi tiết, v́ chúng tôi đă trải qua gần
trọn hết hai ngày chỉ để nói chuyện mà thôi. Tường thuật từng chi tiết sẽ
làm cho độc giả nhàm chán. Bởi vậy, tôi chỉ kể lại những điểm chính trong
câu chuyện này. Khi cơn xúc động đầu tiên đă qua, chúng tôi ngồi xuống và
Chander Sen bắt đầu nói:
-Người ta đă chỉ cho tôi thấy rằng trí tuệ của con người có thể được
chuyển biến thành trí tuệ thiêng liêng. Tôi không c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Trong
khi những điều đó được giải thích cho tôi, tôi phát hiện rằng tôi có thể
bước vào cơi Trời và cơi ấy vốn ở tại bên trong nội tâm. Bây giờ tôi biết
rằng Thượng Đế là sức mạnh duy nhất, vốn toàn năng, toàn trí và toàn thông.
Những tội lỗi, bất ḥa, bịnh tật, sự già nua, chết chóc, đều thuộc về những
kinh nghiệm của quá khứ. Bây giờ tôi đă nh́n thấy chân lư và tôi biết rằng
tôi đă đi lạc trong đám mây mù của ảo giác. Thời gian và không gian đă hoàn
toàn biến mất. Tôi biết rằng tôi sống trong thế giới chủ quan, c̣n cái thế
giới hiện tại chỉ là thuộc về một thế giới khách quan. Nếu tôi có thể nắm
giữ lấy những sự nhắn nhủ thầm kín và những tia sáng mà thỉnh thoảng tôi
nhận thức được nhờ bởi những giác quan tế nhị của tôi, th́ tôi đă có thể
tránh được bao nhiêu những giờ phút đau khổ, hoang mang và mệt mỏi!
Trong thời niên thiếu của tôi, tôi đă bắt chước phần lớn của nhân
loại. Tôi chỉ tin nơi một lối sống, đó là lối sống thụ hưởng khoái lạc trong
mọi lănh vực. Bởi đó, tôi quyết định sống cuộc đời sung măn, thụ hưởng đến
mức tối đa. Tôi lấy sự ích kỷ làm mục đích chính của đời tôi. Tôi sống buông
thả theo đủ mọi thứ nhục dục, thú tánh, và hoang phí nguồn sinh lực đến mức
làm cho thể xác tôi trở thành cái vỏ khô khan trống rỗng như các bạn đă thấy
trước đây. Bây giờ, tôi xin tŕnh bày một h́nh ảnh xác nhận việc đó.
Chander Sen ngồi im lặng
định thần trong một lúc. Không bao lâu, trên một vách tường của gian pḥng
hiện ra một h́nh ảnh giống như đă diễn tả trước đây. Đó là h́nh ảnh cái thể
xác của y vào thời kỳ mà chúng tôi mới quen biết y, h́nh ảnh của một ông già
lọm khọm, đi đứng phải chống gậy. Tiếp theo đó là h́nh ảnh con người của y
bây giờ.
Chander Sen nói tiếp:
-H́nh ảnh đầu tiên là của một người đă hoang phí sinh lực của thể xác
đến mức chỉ c̣n để lại có cái lớp vỏ khô kiệt. C̣n h́nh ảnh thứ nh́ là của
một người đă bảo tồn sinh lực c̣n nguyên vẹn trong thể xác ḿnh. Trong
trường hợp của tôi, các bạn nghĩ rằng đó là một sự phản lăo hoàn đồng toàn
vẹn và hầu như diễn ra trong khoảnh khắc, điều đó thật đúng. Nhưng tôi nh́n
vấn đề dưới một khía cạnh khác. Biết bao nhiêu người cũng có thể có cái dịp
may như tôi để nhận được sự giúp đỡ, ḷng ưu ái và sự cứu trợ của những đấng
Cao Cả mà chúng ta được biết?
Nếu người đời có thể hiểu rằng sinh lực của họ có hàm xúc một nguồn
sinh khí dồi dào mănh liệt như thế nào, họ sẽ cố gắng bảo tồn sinh lực thay
v́ hoang phí nó. Nhưng họ vẫn nhắm mắt làm ngơ đối với việc ấy. Họ tiếp tục
sống trong sự mù quáng, hay sự vô minh, cho đến khi Thần Chết đến đem họ đi
mất. Các bạn kính trọng tuổi già và coi mái tóc bạc như một cái măo danh dự,
điều đó tôi không hề chối căi. Nhưng các bạn hăy thử đi sâu hơn vào vấn đề,
để xem đằng nào là đáng được đặt trên đài danh dự hơn: một đàng là người có
những lọn tóc bạc phơ như tuyết, đă gây nên sự già nua lọm khọm cho chính
ḿnh do bởi sự vô minh, nếu không là do bởi sự trác táng trụy lạc của thời
niên thiếu; và một đàng là người đă bảo tồn sinh lực, càng ngày càng trở nên
mạnh khỏe hơn và dũng mănh hơn, đủ sức trang bị thể chất để có thể đối phó
với tuổi già, và nhờ đó làm tăng trưởng thêm sự hảo tâm và ḷng quảng đại
của ḿnh? Tôi thú thật là nên có ḷng trắc ẩn và tôi nghiệp cho người đă đi
đến cơi chết do sự vô minh. Nhưng ta có thể nghĩ ǵ đối với người cũng đi
đến một kết quả tương tự, nhưng có đầy đủ tinh thần sáng suốt minh mẫn để
thấu đạt chân lư?
II
Kể từ khi đó, chúng tôi chuyên cần chăm chỉ học chữ cổ tự dưới sự chĩ
dẫn của Chander Sen. Ngày tháng
trôi qua rất mau như thoi đưa. Đến cuối tháng tư, tức là sắp đến ngày chúng
tôi lên đường đi đến đồng sa mạc Gobi, phần lớn các tài liệu cổ vẫn c̣n chưa
dịch xong. Chúng tôi tự an ủi với ư nghĩ rằng chúng tôi sẽ có thể trở lại
một ngày nào đó để hoàn tất công việc phiên dịch. Các vị Chân Sư đă dịch
giúp chúng tôi một phần lớn các tài liệu, nhưng các Ngài đ̣i hỏi chúng tôi
phải học các chữ cổ tự để có thể tự ḿnh dịch lấy các tài liệu ấy.
Tháng chín năm trước, chúng tôi có hẹn tái ngộ với những nhân viên
khác trong phái đoàn tại vùng sa mạc Gobi. Kế đó, họ sẽ đưa chúng tôi đến
địa điểm tọa lạc của ba thành phố cổ xưa nay đă chôn vùi dưới ḷng đất. Vị
trí đúng đắn của những thành phố này có ghi trong vài tài liệu cổ mà chúng
tôi chưa được xem, nhưng đă được nghe nói đến. Chúng tôi chỉ có trong tay
những bổn sao chép lại các tài liệu đó, nó càng làm khích động sự ṭ ṃ của
chúng tôi. Những tài liệu cổ cho biết rằng thời đại phát triển của những
thành phố này được truy nguyên từ trên hai trăm ngàn năm trở về trước. Dân
cư ở đó đă từng có một nền văn minh rất tiến bộ, đă từng biết các môn nghệ
thuật cùng các nghề nghiệp thủ công như rèn đồ sắt và làm đồ vàng bạc. Thời
đó, vàng ở xứ này rất thông dụng đến nỗi người ta dùng vàng ṛng để làm đồ
chén đĩa và móng ngựa. Tục truyền rằng người thời ấy có quyền năng chế ngự
các sức mạnh thiên nhiên, biết sử dụng những năng lực thần bí của chính họ.
Thật vậy, những huyền thoại đó thật giống một cách lạ lùng với những chuyện
trong Thần Thoại Hy Lạp.
Theo các bản đồ chỉ dẫn th́ ngày xưa, đế quốc Uigour gồm một phần lớn
Châu Á và Châu Âu đến tận bờ biển Địa Trung Hải của Pháp, với một vùng đồng
bằng rộng lớn vô cùng ph́ nhiêu sung túc và rất đông dân cư. Sự khám phá di
tích những thành phố cổ của đế quốc ấy chắc chắn sẽ đóng góp một phần rất
lớn cho lịch sử nhân loại. Những tài liệu cổ diễn tả đế quốc Uigour dưới
triều đại của bảy vị hoàng đế có những nét huy hoàng lộng lẫy vượt hẳn rất
xa xứ Ai Cập thời cổ. Dẫu cho trước thời kỳ bảy vị hoàng đế, các bia đá cổ
diễn tả xứ ấy như một nước phồn thịnh hơn Ai Cập rất nhiều. Dân tộc xứ ấy đă
sống một thời thái b́nh thịnh trị, không hề có chiến tranh, không có các
nước chư hầu xưng hùng xưng bá, cũng không có chế độ nô lệ.
Thời gian vẫn tiếp tục qua mau và chúng tôi rất bận rộn lo chuẩn bị
cuộc hành tŕnh. Chúng tôi phải đến chỗ hẹn vào tháng năm, tại đó chúng tôi
sẽ cụ bị đầy đủ lương thực và đồ vật dụng trang bị để hoàn tất chuyến đi
cuối cùng.
Tôi không thể nào diễn tả những sự cảm nghĩ của tôi vào lúc gần đến
ngày lên đường. Những giờ phút trong thời gian chúng tôi ở lại đây là những
giờ phút thần tiên. Tuy rằng chúng tôi đă ở tại đây trên năm tháng và sống
gần các Chân Sư trong suốt thời gian đó, thời giờ đă trôi qua rất mau và năm
tháng đó đối với chúng tôi dường như chỉ có năm ngày. Một thế giới lạ lùng
đang chờ đón chúng tôi, dường như trước mắt chúng tôi là một cánh cửa mở
rộng để đưa chúng tôi vào một cơi giới huyền linh với những sự diễn biến
không có giới hạn. Mỗi người trong chúng tôi có cảm giác rằng ḿnh chỉ cần
vượt qua cái cửa đó, nhưng lại do dự, cũng như chúng tôi cảm thấy phân vân
lưỡng lự khi phải từ giă các bậc siêu nhân cao khiết mà chúng tôi tôn kính
như những bậc Anh Cả.
Tôi nghĩ rằng trong đời của mỗi người trần gian sẽ có lúc mà y có thể
nh́n thấy cái cửa mở rộng cũng như vào cái ngày đẹp trời tháng tư năm ấy
chúng tôi đă thấy rơ trước mắt những viễn ảnh vô biên mà người ta có thể đạt
tới. Tôi yêu cầu quư độc giả hăy tạm thời bỏ qua tất cả mọi thành kiến của
ḿnh, và nếu có thể, quư vị hăy nh́n xuyên qua cặp mắt của chúng tôi. Tôi
không ước mong quư vị tin tưởng điều ǵ cả. Tôi chỉ yêu cầu quư vị hiểu rơ
sự khác biệt giữa việc diễn tả cuộc đời của các Chân Sư với việc ngồi dưới
chân các Ngài để nghe các Ngài dạy bảo. Dường như nếu chúng ta dám táo bạo
tiến tới để vượt qua cái cửa mở rộng nói trên, chúng ta sẽ có thể thực hiện
mọi điều mong ước. Tuy thế, chúng ta lại do dự. Tại sao? Đó là bởi v́ chúng
ta không có một đức tin tuyệt đối. Chúng ta để cho những ư nghĩ truyền thống
thủ cựu kéo ta thụt lùi lại phía sau và đóng sầm cái cửa kia lại. Rồi sau đó
chúng ta nói rằng cái cửa kia bị đóng lại là do định mệnh, mặc dầu chúng ta
biết quá rơ rằng định mệnh của mỗi người chỉ tùy ở tự nơi ḿnh.
Đây là những người tốt lành, sống giản dị nhưng lại là những người
phi thường, trong số đó có nhiều người đă vượt qua cái cửa ngơ đó từ nhiều
thế hệ đă qua và có lẽ không biết từ bao giờ. Họ sống cuộc sống tâm linh. Họ
không tuân theo truyền thống hay quy luật nhất định nào, mà chỉ sống một
cuộc đời lương thiện và trong sạch, một cuộc đời toàn vẹn đáng sống, với hai
chân trồng vững trên mặt đất. Tôi để cho quư vị độc giả hăy tự do so sánh.
Chúng tôi do dự không muốn từ giă các vị siêu nhân quư mến mà chúng tôi đă
từng sát cánh một cách chặt chẽ trong những tháng vừa qua, tuy vậy chúng tôi
lại háo hức nh́n về tương lai, v́ biết rằng c̣n những kinh nghiệm khác đang
chờ đợi chúng tôi.
Bởi vậy, chúng tôi từ giă các vị siêu nhân vào một buổi sáng đẹp trời
của tháng tư. Các vị thân mật bắt tay chúng tôi và thành thật mời chúng tôi
trở lại khi nào có dịp. Chúng tôi vái chào các vị một lần cuối và đi về
hướng Bắc để vượt qua sa mạc Gobi. Những câu chuyện phiêu lưu nguy hiểm đáng
sợ mà chúng tôi nghe nói đă từng xảy ra ở vùng này luôn luôn ám ảnh chúng
tôi như những viễn ảnh đen tối. Tuy nhiên chúng tôi không sợ v́ có đức Tuệ
Minh và Dật Sĩ đi theo chúng tôi và
Chander Sen th́ thay chỗ của Nê Bưu.
Đối với chúng tôi là những người đă từng đi du lịch nhiều nơi, viêc
tháp tùng theo đoàn người đi trên sa mạc là một việc thông thường hằng ngày.
Tôi chắc là tất cả các đoàn viên trong nhóm chúng tôi đều sung sướng ra đi
trong cuộc phiêu lưu đầy hứa hẹn này. Tất cả đều biết rằng một thế giới mới
đă bắt đầu xuất hiện trước mắt chúng tôi. Mỗi người đều biết rơ sự xa xôi
hẻo lánh và cô lập của vùng sa mạc và biết rơ những nguy cơ có thể xảy đến
trong những chuyến du hành thuộc loại này. Tuy nhiên, một mănh lực huyền bí
không cưỡng lại được đă thúc đẩy chúng tôi tiến bước. Đức tin tuyệt đối nơi
các vị siêu nhân đă giúp chúng tôi dứt bỏ mọi ư nghĩ sợ sệt hay lo ngại
những sự khó khăn xảy đến, và chúng tôi lao ḿnh vào cuộc phiêu lưu với một
sự hứng khởi nhiệt thành của tuổi trẻ.
Chúng tôi đă từng quen thuộc với những vùng hẻo lánh nhất thế giới,
nhưng chưa bao giờ chúng tôi có kinh nghiệm về một xứ xa xôi và cô lập như
vùng này. Tuy nhiên, chúng tôi có thể du lịch nơi đây một cách tự do và dễ
dàng khác thường. Quư độc giả sẽ không ngạc nhiên về sự yêu thích của chúng
tôi đối với xứ này và đối với các vị ân nhân của chúng tôi. Chúng tôi có cảm
giác ḿnh có thể đi lên hướng Bắc đến khi vượt khỏi vùng Bắc Mỹ và chinh
phục luôn cả vùng ấy. Chúng tôi chưa đi được bao xa th́ một bạn nói:
-Ồ! Nếu chúng ta có thể đi như các vị siêu nhân, th́ chuyến đi này sẽ
dễ dàng xiết bao! Nhưng chúng ta lại bắt buộc các vị cũng đi bộ một cách
nặng nề chậm chạp như chúng ta chỉ v́ chúng ta không thể bắt chước các Ngài!
Mọi sự đều trôi chảy tốt đẹp cho đến cuối ngày thứ bảy của cuộc hành
tŕnh. Chiều hôm ấy, vào khoảng năm giờ, chúng tôi vừa ra khỏi một khe núi
sâu thẳm th́ một đoàn viên báo tin có nhiều người kỵ mă ở đàng xa. Chúng tôi
lấy ống ḍm ra xem và đếm tất cả hai mươi bảy người kỵ mă dường như có mang
đầy đủ khí giới. Chúng tôi liền báo cáo với Dật Sĩ. Anh ta đáp rằng có lẽ đó
là những đoàn người du mục thường có ở vùng này. Chúng tôi hỏi y phải chăng
đó là một bọn cướp. Y đáp rằng có thể như vậy, v́ bọn chúng không có dắt
theo một đoàn trừu hay dê nào.
Chúng tôi rời khỏi đường ṃn và tiến tới một cḥm cây rậm rạp, tại
đây chúng tôi cắm trại để nghỉ ban đêm. Trong khi đó, hai người trong nhóm
chúng tôi vượt qua một gịng suối gần nơi cắm trại và bước lên một ngọn đồi,
từ đó họ có thể nh́n thấy vùng đồng bằng ở chỗ chúng tôi đă khám phá ra đoàn
người kỵ mă. Khi lên tới đỉnh đồi, họ ngừng lại và soi ống ḍm rồi hối hả
trở về trại. Khi họ về gần tới, họ loan báo rằng đoàn kỵ mă ở cách đây không
xa hơn năm cây số và đang tiến về phía chúng tôi.
Ngay khi đó, một người trong nhóm chúng tôi nói rằng một cơn giông
băo sắp thổi đến. Chúng tôi nh́n lên trời, th́ quả thật thấy hai đám mây u
ám nặng nề đang kéo về phía Tây Bắc, đồng thời một đám sương mù từ bốn phía
áp lại gần chúng tôi. Chúng tôi cảm thấy rất băn khoăn lo ngại, v́ bây giờ
chúng tôi có thể nh́n thấy đoàn kỵ mă đang tiến thẳng về phía trại chúng tôi.
Tuy nhóm chúng tôi có tất cả ba mươi hai người, chúng tôi không có một khẩu
súng nào, và điều này làm chúng tôi rất lo lắng.
Không bao lâu, cơn băo tuyết thổi đến chúng tôi với một tốc độ mănh
liệt kinh khủng. Sự lo ngại của chúng tôi mỗi lúc càng tăng v́ chúng tôi đă
từng kinh nghiệm sức tàn phá của giông băo trong những vùng sa mạc hẻo lánh
như vậy. Trong một lúc, cơn giông với tốc độ 120 cây số giờ, chứa đầy những
mảnh tuyết vụn, quất vào chúng tôi và gầm thét ầm ĩ chung quanh tất cả mọi
người. Chúng tôi đang e ngại sẽ bị bắt buộc dời trại đi chỗ khác để tránh
những cành cây gẫy đổ rơi lên đầu ḿnh, th́ bầu không khí chung quanh trại
th́nh ĺnh lắng dịu và trở nên yên tĩnh. Trong một lúc chúng tôi nghĩ cơn
băo tuyết có lẽ chỉ có giới hạn trong một lúc ngắn ngủi, như thường xảy ra
trong vùng này.
V́ bầu trời chưa đến nỗi quá u ám, chúng tôi bèn lợi dụng lúc tranh
tối tranh sáng để lập lại trật tự trong các lều trại, và mất độ nửa giờ để
làm công việc này. Kư ức về cơn băo tuyết và bọn cướp, nó đă làm cho chúng
tôi sợ sệt, nay đă hoàn toàn biến mất ra khỏi đầu óc chúng tôi. Chúng tôi
ngừng tay trong một lúc, và vị trưởng nhóm bước ra chỗ cửa trại. Sau khi đă
nh́n ra ngoài, y day lại và nói:
-Cơn băo tuyết dường như đang hoành hành dữ dội ở gần đây, c̣n tại
chỗ chúng ta đang ở, th́ chỉ có một cơn gió thoảng nhẹ. Các bạn hăy nh́n xem;
lều vải và cây cối chung quanh đây không bị lay động ǵ. Khí trời ấm áp và
thoang thoảng mùi hương thơm của hoa cỏ.
Nhiều người trong bọn chúng tôi đi theo y ra ngoài và trong một lúc,
đứng lặng người v́ ngạc nhiên. Trong khi chúng tôi lo dọn dẹp đồ đạc bên
trong trại, chúng tôi không ư thức được cơn giông băo. Chúng tôi nghĩ rằng
nó đă qua và thổi về phía khe núi. Thật vậy, vài cơn băo thổi tạt ngang qua
vùng này như một cơn gió lốc. Chúng hoành hành dữ dội trên nhiều cây số
đường trường trước khi lắng dịu, và tiếp theo đó là một cơn yên tĩnh lạ
thường. Nhưng trường hợp này không giống như thế. Cơn băo đang thổi mạnh ở
cách chúng tôi độ ba chục thước, nhưng khí trời lại êm ả và ấm áp ở chung
quanh chúng tôi. Trái lại, chúng tôi đă từng kinh nghiệm rằng trong những
cơn băo tuyết tương tự, người ta thường bị lạnh buốt thấu xương, và có thể
bị nghẹt thở v́ trong cơn thịnh nộ gầm thét của vũ băo, những mảnh tuyết vụn
và bén nhọn bị lôi cuốn theo sức gió và quất mạnh vào mặt mũi người du khách
chẳng khác nào như kim đâm.
Th́nh ĺnh, vùng yên tĩnh chung quanh chúng tôi sáng lên dường như
bởi một phép lạ. Trong cơn kinh ngạc, dường như chúng tôi nghe có những
tiếng người xen lẫn với tiếng gầm thét của cơn giông. Người ta báo hiệu đến
giờ ăn chiều. Chúng tôi bước vào lều và ngồi xuống. Trong bữa ăn, một bạn
tôi băn khoăn về số phận của những người kỵ mă. Một bạn khác nói:
-Chúng tôi nghe dường như có tiếng người kêu gọi khi chúng tôi bước
ra ngoài trại. Chúng ta có thể nào cứu giúp những người kỵ mă hay chăng
trong trường hợp họ bị đi lạc trong cơn băo tố?
Dật Sĩ bèn lên tiếng và nói rằng những người ấy thuộc về một trong
những bọn cướp khét tiếng trong vùng. Họ chuyên môn cướp bóc xóm làng, và
chiếm đoạt những đoàn dê trừu của dân chúng.
Sau bữa ăn chiều, trong một lúc gió lặng, chúng tôi nghe có tiếng
người kêu ngựa hí, cùng với tiếng vó ngựa đạp lộn xộn dường như những người
kỵ mă không c̣n làm chủ chúng nó được nữa. Những tiếng động ấy có vẻ như rất
gần, nhưng chúng tôi không thể nh́n thấy ǵ cả v́ ban đêm tuyết xuống dầy
đặc. Chúng tôi không c̣n nh́n thấy một ánh sáng nào của những đèn đuốc và
lửa trại.
Sau đó một lát, đức Tuệ Minh đứng dậy và nói rằng Ngài phải đi mời
những kẻ cướp vào trại, v́ trừ những trường hợp phi thường, không một người
hay con vật nào có thể sống sót đến sáng ngày hôm sau trong cơn băo tuyết.
Thật vậy, không khí ở bên ngoài đă trở nên lạnh buốt vô cùng. Hai
người trong bọn chúng tôi t́nh nguyện xin đi theo đức Tuệ Minh, điều này có
vẻ làm cho Ngài vui ḷng. Ngài nhận lời, và cả ba người đều biến mất dạng
trong cơn giông băo. Độ hai mươi phút sau, ba người đă trở lại, cùng với hai
mươi tên cướp đi bộ, tay cầm cương dắt ngựa đi theo sau. Những tên cướp này
cho chúng tôi biết rằng bảy người đồng bọn của họ đă mất liên lạc với cả
đoàn và có lẽ đă đi lạc trong cơn băo tuyết.
Những tên cướp gồm một thành phần hỗn tạp với những gương mặt hung dữ
của bọn lục lâm cường đạo. Khi họ bước vào trại có đèn lửa ấm áp, họ có vẻ
nghi ngờ rằng chúng tôi gài bẫy để bắt họ. Sự lo âu của họ hiện rơ trên nét
mặt, nhưng đức Tuệ Minh bảo đảm rằng họ được tự do ra đi bất cứ lúc nào.
Ngài chỉ cho họ thấy rằng nếu họ muốn tấn công chúng tôi, chúng tôi không có
một khí giới nào để tự vệ. Tên đầu đảng bọn cướp thú thật rằng đó chính là ư
định đầu tiên của họ khi họ vừa nh́n thấy chúng tôi từ trong khe núi đi ra
trước cơn giông băo. Sau đó, họ trở nên do dự và đă đi lạc đến nỗi họ mất
phương hướng để trở về trại. Khi đức Tuệ Minh và hai người trong bọn chúng
tôi t́m thấy họ, th́ họ đang trú ẩn một bên vách núi ở cách trại chúng tôi
có độ một trăm thước.
Tên đầu đảng bọn cướp nói rằng nếu chúng tôi hất hủi họ, th́ chắc
chắn là họ sẽ phải chết v́ lạnh. Đức Tuệ Minh trấn an họ và nói rằng điều đó
sẽ không xảy ra. Bọn cướp bèn cột ngựa vào những gốc cây để nghỉ lại ban
đêm, rồi ngồi riêng với nhau ở một góc. Họ bắt đầu ăn thịt dê phơi khô và bơ
con yak (một loại ḅ rừng và có
sừng lớn dài ở xứ Tây Tạng) mà họ lấy ra từ những bọc da dấu dưới yên ngựa.
Trong khi ăn, họ để khí giới trong tầm tay và thỉnh thoảng ngừng lại để nghe
ngóng mỗi khi có một tiếng động nhỏ. Họ nói chuyện và bộ tịch rất tự nhiên.
Dật Sĩ nói với chúng tôi rằng họ lấy làm ngạc nhiên về những đồ trang bị của
chúng tôi và về ánh lửa trong trại. Họ tự hỏi tại sao ở đây không có gió
lớn, tại sao không khí trong trại rất ấm cúng, và tại sao mấy con ngựa có vẻ
ung dung thoải mái như thế?
Một đứa lúc nào cũng nói chuyện huyên thuyên và nói nhiều nhất trong
bọn cướp, đă từng nghe nói về các vị chân sư. Y nói với những kẻ đồng bọn
rằng các vị siêu nhân cũng như thánh thần và có thể tiêu diệt bọn họ tùy ư
muốn và mau lẹ trong khoảnh khắc. Nhiều tên khác tưởng chúng tôi âm mưu để
bắt sống họ, bèn t́m cách thuyết phục cả bọn đánh cướp tài sản chúng tôi rồi
tẩu thoát. Nhưng tên đầu đảng ra lịnh cho họ không được phá phách chúng tôi,
và nói rằng nếu họ làm hại chúng tôi, tất cả bọn sẽ bị tiêu diệt.
Sau một cơn thảo luận giông dài, tám tên cướp bèn đứng dậy, bước đến
gần chúng tôi, và nói với Dật Sĩ rằng bọn chúng không muốn ở lại thêm nữa.
Họ sợ có xảy ra những việc bất trắc và muốn trở về trại của họ ở cuối gịng
sông cách đó vài cây số. Họ đă t́m ra phương hướng nhờ căn cứ vào cái lùm
cây to chỗ chúng tôi cắm trại. Họ bèn lên ngựa và bắt đầu đi xuống thung
lũng. Sau đó hai mươi phút, tất cả bọn đều quay lại và nói rằng tuyết xuống
dầy đặc đến nỗi ngựa của họ không thể tiến tới được nữa. Chính họ cũng không
thể đương đầu với cơn băo tuyết này, là cơn băo mănh liệt nhất từ nhiều năm
nay. Kế đó, họ t́m chỗ ở ngoài trại để nghỉ lại ban đêm.
Một bạn tôi nói:
-Tuy bọn này làm tôi sợ, nhưng tôi cảm thấy an toàn hơn ở trong lều
so với ở bên ngoài, giữa cơn gió băo.
Dật Sĩ quay lại chúng tôi và nói:
-Các bạn ở đâu, là nhà của Thượng Đế ở đó. Nếu các bạn ở tại đây,
trong trại này, các bạn sống trong niềm vui của Thượng Đế. Sự ấm áp và tiện
nghi trong trại có nghĩa ǵ nếu các bạn không ở tại đây, hoặc nếu các bạn
không nhận thấy có sự ấm áp và tiện nghi đó? Các bạn có thể tự do mời những
người ngoài vào đây. Tuy nhiên, họ không chịu vào, v́ họ không biết tới chỗ
ở của các bạn. Mặc dầu họ cảm thấy sự ấm cúng nhưng những người anh em thân
mến này không muốn lại gần, bởi v́ họ vẫn luôn luôn sống bằng nghề cướp bóc.
Họ không thể hiểu rằng chính những người mà họ coi như những miếng mồi đương
nhiên của họ, lại có thể dành cho họ một sự tiếp đón thân hữu mà không có lư
do đặc biệt, và nhất là ḿnh không thuộc về giới lục lâm cường đạo. Họ không
biết rằng giữa cơn băo tuyết, lạnh lẽo, hay giữa cơn giày ṿ đau khổ nhất,
vẫn luôn luôn có sự hiện diện của Thượng Đế. Không một cơn giông to, gió
lớn, hay băo lụt nào có thể làm hại được những người đă đặt sự an toàn của
ḿnh trong tay của Thượng Đế. Người ta chỉ bị đắm đuối trong giông gió, băo
lụt, khi nào người ta đă mất liên lạc với Thượng Đế. Thượng Đế chỉ có thể
thực hiện được những ǵ các bạn hiện đang nh́n thấy, khi nào người ta hướng
tầm nhăn quang của ḿnh đến Ngài một cách vững chắc, không hề lay chuyển,
đến mức không c̣n biết ǵ và không nh́n thấy ǵ khác nữa ở bên ngoài…
Người ta có thể t́m thấy yên tĩnh thật sự giữa cơn băo tố, v́ sự yên
tĩnh chân thật vốn ngự trong tâm hồn của người nào đă t́m thấy Chân Ngă.
Trái lại, người ta có thể ngồi ở một nơi vắng vẻ tĩnh mịch, giữa chốn sa mạc
hẻo lánh hoang vu, một ḿnh đối diện với bóng hoàng hôn êm ả và giữa cảnh
yên lặng của thiên nhiên, nhưng lại bị dầy ṿ cấu xé bởi cơn băo ḷng của
những đắm mê, dục vọng, hoặc bị giao động rung chuyển tâm hồn bởi những sấm
sét của sự sợ hăi, kinh hoàng…
Những người này là tàn tích của một dân tộc xưa kia đă từng có một
nền văn minh cao cả và thịnh vượng. Tổ tiên của họ cư ngụ nơi xứ này vào
thời kỳ mà xứ ấy c̣n là một đế quốc kỹ nghệ phồn thịnh, hùng cường. Họ đă
từng biết thực hành các môn khoa học và mỹ thuật. Họ cũng đă biết rơ nguồn
gốc tinh thần và sức mạnh tâm linh của họ và đă biết tôn thờ sùng kính
Thiêng Liêng. Về sau đến một thời kỳ họ bắt đầu say mê những khoái lạc vật
chất và rơi vào t́nh trạng trụy lạc, sa đọa tâm linh. Khi đó một tiếng động
lớn, một cơn thiên tai địa chấn tàn phá và làm sụp đổ tất cả, chỉ c̣n để lại
có những bộ lạc sơn nhân miền thượng ở rải rác trên những vùng hẻo lánh.
Những bộ lạc sống sót này mới quy tựu lại thành những cộng đồng sinh hoạt,
từ đó mới xuất phát ra những chủng tộc lớn ở Âu Châu ngày nay.
Vùng này là vùng sa mạc Gobi bị cơn địa chấn tàn phá và đưa lên một
chiều cao mà không c̣n một loài thảo mộc nào có thể sống được. Dân cư vùng
ấy đă hầu như bị hoàn toàn tiêu diệt, đến nỗi chỉ c̣n lại có những cộng đồng
hiếm hoi cô lập, và có nơi chỉ c̣n lại có một hoặc hai gia đ́nh. Những cộng
đồng này mới tổ hợp lại thành từng đoàn. Đó là tổ tiên của những người dân
sống tại nơi đây, họ không thể phát triển để tiến bộ hơn nữa, v́ họ luôn
luôn bị lôi cuốn vào những cuộc chiến tương tàn giữa họ với nhau.
Lịch sử và nguồn gốc của họ đă bị lăng quên, nhưng người ta có thể
truy nguyên đến tận nguồn gốc duy nhất của nền tôn giáo và những huyền thoại
của họ. Những nền tảng của tôn giáo và huyền thoại này ở đâu cũng giống như
nhau, tuy rằng những h́nh thức sắc tướng rất là khác biệt, và có những điểm
dị đồng rất lớn…
Đến đây, Dật Sĩ nói y không muốn làm nhàm tai chúng tôi, v́ phần đông
các bạn tôi đă ngủ mê. Chúng tôi bèn nh́n về phía bọn cướp. Họ cũng đă ngủ
mê, và cũng như chúng tôi, họ đă quên mất cơn giông băo tuy rằng cơn giông
vẫn tiếp tục hoành hành dữ dội. Chúng tôi bước vào lều để nghỉ ngơi sau khi
đă một lần nữa, tỏ sự biết ơn của chúng tôi đối với các vị chân sư cao cả.
Sáng hôm sau, chúng tôi thức dậy, mặt trời chiếu tỏ rạng, cả trại đều
rộn rịp. Chúng tôi hối hả thay quần áo và thấy rằng tất cả mọi người, luôn
cả bọn cướp, đều sắp sửa chuẩn bị ăn sáng. Trong khi ăn, chúng tôi được
thông báo chương tŕnh ngày hôm ấy là lên đường hộ tống bọn cướp trở về trại
của họ. Thật vậy, người ta dễ t́m đường khi đi chung với nhau từng đoàn, hơn
là đi lẻ tẻ. Điều này làm cho bọn cướp hài ḷng, nhưng không làm cho chúng
tôi vui, v́ chúng tôi được biết rằng ở trại của họ, bọn cướp có đến 150
người. Khi chúng tôi điểm tâm xong, th́ mọi vết tích của cơn băo đă biến
mất. Chúng tôi bèn dỡ trại và cùng đi với bọn cướp, cả người lẫn ngựa, để
t́m đường về trại họ.
Trại của bọn cướp ở cách đó dưới hai mươi cây số. Tuy vậy, chúng tôi
chỉ đến nơi vào lúc xế chiều, và lấy làm sung sướng mà có thể nghỉ chân tại
đó. Chúng tôi nhận thấy trại ấy rất tiện nghi, có đủ chỗ rộng răi để chứa
tất cả phái đoàn. Sau bữa ăn chiều, chúng tôi nhận thấy rằng nên ở lại đó
một hai ngày để chờ cho tuyết ém chặt lại. Thật vậy, qua ngày hôm sau chúng
tôi phải vượt một truông núi cao gần năm ngh́n thước. V́ thời tiết không
tạnh ráo trở lại như chúng tôi mong, chúng tôi phải kéo dài thời gian lưu
trú tại đây trong bốn ngày. Dân làng đối xử với chúng tôi một cách tôn kính
và cố gắng làm cho chúng tôi được vui ḷng.
Khi chúng tôi lên đường, có hai người đến xin nhập bọn với phái đoàn.
Chúng tôi vui vẻ nhận lời, v́ dầu sao chúng tôi cũng phải tuyển mộ một số
lao công phụ giúp khi đến làng sắp tới, cách đó độ một trăm cây số. Hai
người này tháp tùng đi theo chúng tôi cho đến bận về, vào mùa thu.
Khi chúng tôi rời khỏi làng, gần hết phân nửa dân làng tiễn đưa chúng
tôi đến tận đỉnh của truông núi để giúp chúng tôi t́m ra con đường ṃn bị
tuyết dầy đặc lấp mất cả dấu vết. Chúng tôi rất cám ơn sự cố gắng khả ái của
họ, v́ công việc leo núi thật rất khó khăn. Lên đến đỉnh truông núi, chúng
tôi từ biệt các người anh em lục lâm cường đạo và trực chỉ đi đến chỗ hẹn.
Chúng tôi đến đây ngày 28 tháng 5, tức là ba ngày sau những toán đoàn viên
bạn, như họ đă hẹn gặp chúng tôi tại đây hồi mùa thu năm trước.
III
Sau một tuần lễ nghỉ ngơi, chúng tôi tom góp đồ hành trang và toàn
thể phái đoàn đều lên đường đi đến chỗ địa điểm tọa lạc của thủ đô đế quốc
Uigour thời tiền sử. Chúng tôi đến đây vào ngày 30 tháng 6, và bắt đầu ngay
công việc đào xới. Giếng đào đầu tiên của chúng tôi chưa sâu tới hai chục
thước, th́ chúng tôi gặp phải vách tường của một dinh thự cũ. Chúng tôi đào
sâu độ ba chục thước để có thể lọt vào một gian pḥng lớn, tại đây chúng tôi
t́m thấy những xác ướp c̣n nguyên vẹn ở tư thế ngồi xếp bằng, gương mặt bao
phủ bởi một cái mặt nạ bằng vàng. Tại đó có nhiều pho tượng bằng vàng, bạc,
đồng, và đất sét, tất cả đều chạm trổ rất đẹp. Chúng tôi đă chụp ảnh tất cả.
Khi công việc đào xới đă tiến hành đến một mức độ đủ chứng minh một cách
thỏa đáng rằng đó thật là những di tích cổ xưa của một thành phố rất lớn,
chúng tôi bèn đi đến địa điểm thứ nh́, mà chúng tôi t́m thấy ngay nhờ bởi
những bút tích diễn tả trên những tấm bia đá cổ đă nói ở trên. Tại đây chúng
tôi đào sâu chừng mười hai thước trước khi t́m thấy những di tích chắc chắn
của một nền văn minh cổ. Chúng tôi đă làm một công việc khá đầy đủ để chứng
minh lại một lần nữa và một cách chắc chắn rằng đó thật là những di tích
điêu tàn của một thành phố cổ. Kế đó chúng tôi đi đến địa điểm thứ ba, tại
đây chúng tôi định khám phá những tàn tích chứng minh sự hiện diện của một
thành phố c̣n cổ xưa hơn và rộng lớn hơn nữa.
Để tiết kiệm thời giờ và tài nguyên, chúng tôi tổ chức thành bốn
toán, trong số đó có ba toán gồm một trưởng toán và sáu người phụ tá, tức là
mỗi toán có bảy người. Công việc đào xới và bảo tồn các giống đào được giao
phó cho ba toán đó, mỗi toán thay phiên nhau làm việc tám giờ mỗi ngày. C̣n
toán thứ tư gồm hết tất cả số người c̣n lại. Toán này có phận sự canh chừng
chung quanh trại và lo việc chu cấp lương thực cho cả phái đoàn. Tôi thuộc
về toán đặt dưới sự chỉ huy của vị trưởng nhóm Tô Mặc. Toán của tôi làm việc
từ nửa đêm đến tám giờ sáng.
Sau khi đă đào xong giếng đầu tiên, chúng tôi lọt vào bốn gian pḥng
dưới ḷng đất, mà chúng tôi lo quét dọn lại. Sau đó, chúng tôi đă có thể
chứng minh rằng đó là di tích của thành phố lớn nhất trong ba thành phố, và
nó chứa đựng rất nhiều kho tàng.
Một buổi sáng, toán công nhân đến thay phiên toán của tôi báo động
rằng có nhiều người kỵ mă đang tiến đến
gần trại từ hướng bắc. Chúng tôi ngoi lên mặt đất và thấy họ đang
tiến về phía chúng tôi. Đó chắc lại là một đoàn lục lâm cường đạo, v́ rơ
ràng là họ noi theo con đường ṃn đă đưa chúng tôi đến đây. Trong khi chúng
tôi c̣n đang nh́n, th́ Dật Sĩ bước tới và nói:
-Đó là một bọn cướp định đến đánh phá trại chúng ta, nhưng chúng ta
không cần phải sợ hăi.
Chúng tôi để cho bọn cướp đến gần. Khi họ đến gần trại c̣n cách chừng
năm trăm thước th́ họ ngừng lại. Sau đó một lát, có hai tên cướp tế ngựa lại
trại chúng tôi, cất tiếng chào xong rồi liền hỏi chúng tôi đang làm ǵ ở
đây. Chúng tôi nói rằng chúng tôi đang thử t́m kiếm những tàn tích của một
thành phố cổ. Họ đáp rằng họ không tin như vậy, và nghi rằng chúng tôi là
những kẻ đi t́m vàng. Họ toan tính với nhau để đánh cướp những đồ khí cụ
trang bị và lương thực của chúng tôi.
Chúng tôi hỏi họ có phải là binh lính của chính phủ không? Họ đáp
rằng họ không thừa nhận một chính phủ nào cả v́ ở xứ này chỉ có sức mạnh là
đáng kể. Nh́n thấy chúng tôi không có vẻ ǵ lo sợ và cũng không có khí giới,
có lẽ họ cho rằng chắc là chúng tôi c̣n đông người hơn chứ không phải chỉ có
bấy nhiêu. Họ bèn quay trở về bọn cướp để thảo luận kế hoạch. Được một lát,
hai tên ấy đă trở lại và nói rằng nếu chúng tôi chịu khuất phục một cách êm
thấm, th́ họ sẽ không làm hại ai cả. Nếu không, họ sẽ tiến đến và giết chết
tất cả những người nào dám chống cự họ. Họ cho chúng tôi mười phút để quyết
định, sau mười phút đó họ sẽ tấn công mà không cần báo trước. Dật Sĩ đáp
rằng chúng tôi không chống cự mà cũng không đầu hàng ai cả; điều này có vẻ
làm cho họ nổi nóng. Họ quày ngựa trở về với bọn cướp, và rút súng ra sẵn
sàng. Tất cả bọn cướp bèn cho ngựa phóng nước đại tấn công vào trại chúng
tôi.
Tôi thú thật là đă sợ hoảng vía. Nhưng ngay khi đó, bỗng thấy xuất
hiện nhiều h́nh bóng giống như những người kỵ mă tế ngựa xung quanh chúng
tôi. Những h́nh bóng này càng hiện rơ, trở nên linh động và đông đảo hơn.
Bọn cướp cũng đă nh́n thấy điều ấy. Vài tên cướp mau tay giật giây cương
quay đầu trở lại. Những con ngựa của vài tên khác sợ hoảng nhảy chồm lên,
ngă quỵ xuống đất và thoát ra khỏi sự điều khiển của chủ chúng nó. Chỉ trong
khoảnh khắc, một cơn náo loạn kinh khủng đă diễn ra trong hàng ngũ của bọn
cướp gồm độ 75 người. Bầy ngựa bắt đầu hí vang và ngă quỵ, quăng bọn cướp té
ngă lổng chổng. Cơn náo loạn kết thúc bằng một cuộc chạy trốn xiểng liểng,
trong khi đó những người kỵ mă vừa xuất hiện phi ngựa đuổi theo bén gót.
Khi cơn loạn động đă êm, vị trưởng nhóm, một đoàn viên và tôi, cùng
đi tới chỗ mà bọn cướp bị chận lại để nh́n xem nhưng không thấy có dấu vết
nào ngoài ra những dấu chân ngựa lộn xộn của bọn cướp. Điều này có vẻ là một
điều bí hiểm, v́ những người cứu trợ chúng tôi đă xuất hiện rơ ràng thật sự
cũng như bọn cướp, và chúng tôi đă nh́n thấy họ đến từ bốn phía. Bởi vậy
chúng tôi chắc sẽ t́m thấy trên băi cát những dấu chân ngựa của họ xen lẫn
với những dấu vết của bọn cướp.
Khi chúng tôi quay trở lại, Dật Sĩ nói:
-Những người kỵ mă ấy chỉ là những h́nh bóng mà chúng tôi đă làm cho
y xuất hiện y như thật đến nỗi các bạn và cả bọn cướp đă có thể nh́n thấy.
Đó là những h́nh ảnh của quá khứ mà chúng tôi có thể phóng ra một cách linh
động đến nỗi nh́n thấy không khác ǵ sự thật. Chúng tôi có thể phóng những
h́nh ảnh đó để tự vệ và để bảo vệ kẻ khác, mà kết quả là không làm hại ai
cả. Khi một mục đích nhất định đă được đặt ra, th́ kết quả là không gây
thương tổn. Một sự nghi ngờ đă nẩy sinh ra trong óc của bọn cướp. Họ nghĩ
rằng không có lư nào một phái bộ như chúng ta lại mạo hiểm đi đến chỗ xa xôi
như vậy mà không có pḥng vệ. Chúng tôi lợi dụng sự nghi ngờ đó để nhát họ.
Họ rất mê tín và luôn luôn nghi ngờ những cạm bẫy. Bọn cướp là một bọn người
rất nhát gan. Họ sợ thứ ǵ th́ họ sẽ gặp thứ đó. Nếu chúng tôi không dùng
phương pháp đó, th́ có lẽ chúng tôi bắt buộc phải tiêu diệt một số đông bọn
cướp trước khi kẻ sống sót chịu để cho chúng ta yên. Nhưng bây giờ th́ chúng
ta sẽ không c̣n nghe ai nói đến bọn cướp ấy nữa. Thật vậy, chúng ta không
c̣n sợ bị họ quấy phá.
Khi những cuộc đào xới đă có những bằng chứng để làm cho chúng tôi
tin tưởng sự hiện hữu của ba thành phố cổ, chúng tôi có ư nghĩ lấp những
giếng đào để che mắt những đoàn người du mục v́ họ có thể t́m ra dấu vết của
những cuộc khảo cổ này. Thật vậy, sự khám phá ra các giếng này chắc sẽ gây
nên một sự cướp bóc toàn diện do bởi sự hấp dẫn của các kho tàng, v́ những
huyền thoại được lưu truyền khắp nơi về sự hiện hữu của những thành phố cổ
và những kho vàng bạc châu báu chôn dấu trong đó. Bởi vậy, sau khi hoàn tất
công việc khảo cổ, chúng tôi lấp giếng và cố gắng che đậy các dấu vết chỉ
c̣n để lại đến mức tối thiểu, và trông cậy nơi cơn băo đầu tiên để xóa bỏ
mọi di tích c̣n sót lại về sự có mặt của chúng tôi. Những cồn cát ở xứ này
luôn luôn di chuyển, cũng đủ làm một chướng ngại cho việc truy tầm các tàn
tích cổ. Nếu không có sự giúp đỡ của các bậc siêu nhân, chúng tôi không bao
giờ có thể t́m ra những nơi cổ tích này.
Chúng tôi được cho biết rằng những di tích cổ xưa tương tự c̣n ở rải
rác trong vùng sa mạc đến tận phía nam xứ Tây Bá Lợi Á. Hiển nhiên là có một
số dân cư đông đảo xưa kia đă từng sống thịnh vượng ở vùng này và đă đạt tới
một tŕnh độ văn minh rất cao. Có những bằng chứng xác thực không thể phủ
nhận rằng giống dân này đă từng thực hành khoa nông nghiệp, canh tác, cùng
những khoa kỹ nghệ hầm mỏ, dệt cửi và những ngành sinh hoạt liên hệ. Họ đă
từng biết đọc, viết chữ và biết cả những ngành khoa học khác. Thật rơ ràng
là lịch sử của giống dân Aryen (tức giống dân thứ năm, thủy tổ của các dân
tộc văn minh Âu Mỹ hiện nay).
Trước ngày chúng tôi lên đường, trong bữa ăn có một bạn tôi hỏi đức
Tuệ Minh rằng lịch sử của giống dân vĩ đại này có thể nào viết lại được
chăng? Đức Tuệ Minh đáp rằng có thể được, v́ thành phố cổ chôn vùi ở phía
dưới chỗ chúng tôi đang cắm trại, có chứa đựng những tài liệu bút tự hoàn
toàn xác đáng. Người ta chỉ cần t́m lại và phiên dịch những tài liệu đó để
có một sự xác nhận trực tiếp về lịch sử của giống dân này.
Câu chuyện bị gián đoạn khi có người vừa xuất hiện ở ngoài cửa trại.
Người ấy xin phép bước vào lều. Đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và Chander Sen liền vội
vàng bước ra để gặp người ấy. Xét về việc các vị mừng rỡ tiếp đón chào hỏi
nhau, chúng tôi hiểu rằng các vị đă từng quen biết nhau nhiều. Tô Mặc liền
đứng dậy đi theo các vị. Khi y ra đến cửa, y đứng sựng lại một lúc trong cơn
ngạc nhiên, rồi bước ra ngoài lều đưa thẳng hai tay ra trước và nói:
-Đây mới thật là một sự bất ngờ!
Những tiếng kêu ngạc nhiên thốt lên cùng một lượt như một cuộc ḥa
tấu, trong khi những vị quư khách mới đến, cả nam lẫn nữ, trao đổi những lời
chào hỏi với y và với ba vị siêu nhân. Khi đó, những người ngồi trong lều
bèn đứng dậy, hối hả bước ra ngoài và thấy một nhóm gồm tất cả mười bốn
người khách vừa mới đến. Trong nhóm ấy, có bà Mă Ly, thân mẫu đức Tuệ Minh,
bà chủ nhà của chúng tôi ở tại căn cứ mùa đông, vị thiếu phụ đẹp tuyệt trần
đă chủ tọa buổi dạ tiệc tại nhà đức Tuệ Minh, cùng với người con trai và
người con gái của đức Tuệ Minh và một số người khác. Tất cả mọi người đều
vui vẻ, và chúng tôi hồi tưởng lại những cuộc hội họp trong những ngày đă
qua.
Chúng tôi thật là hoàn toàn ngạc nhiên, và chúng tôi không dấu diếm
điều đó. Nhưng sự ngạc nhiên ấy lại c̣n lớn hơn nữa trong những bạn đoàn
viên thuộc các toán khác của phái đoàn. Nh́n vào gương mặt họ, chúng tôi
hiểu rằng họ ngạc nhiên đến mức vô hạn không thể nào diễn tả nổi, v́ họ chưa
từng chứng kiến như chúng tôi về những cơn xuất hiện và biến mất một cách
bất ngờ kiểu đó. Công việc khảo cổ đă làm chúng tôi quá bận rộn đến nỗi
chúng tôi đă bỏ qua không kể lại cho họ nghe đầy đủ những kinh nghiệm đă qua
của chúng tôi, ngoài những câu chuyện vắn tắt đứt đoạn. Sự xuất hiện của các
vị quư khách dường như từ ṿm trời trong sáng mà đến, đă làm cho họ hoàn
toàn khựng lại và đứng trơ như tượng đá, điều này là một đầu đề để chúng tôi
bỡn cợt họ một cách nhẹ nhàng.
Sau khi việc giới thiệu đă xong xuôi, người phụ trách việc nấu ăn
bước tới nói riêng với đức Tuệ Minh và Tô Mặc với một vẻ mặt thất vọng:
-Làm sao đăi ăn tất cả bấy nhiêu người? lương thực của chúng ta đă
cạn, và đồ tiếp tế c̣n chưa đến kịp. Chúng ta chỉ c̣n vừa tạm đủ để ăn bữa
chiều nay và bữa điểm tâm sáng ngày mai. Vả lại, mọi sự đă được chuẩn bị sẵn
sàng cho chúng ta lên đường.
Lê Mông, vị trưởng phái đoàn, đă lắng tai nghe rơ câu chuyện. Y bèn
bước tới, và tôi nghe y hỏi:
-Trời đất! tất cả những người này từ đâu đến đây?
Tô Mặc vừa nh́n y vừa cười và đáp:
-Lê Mông, anh có vẻ ngớ ngẩn. Các vị đến trực tiếp từ trên trời. Hăy
nh́n xem, các vị không có một phương tiện di chuyển nào cả.
Lê Mông nói:
-Điều làm tôi ngạc nhiên nhất, là h́nh như họ không có cánh. Khi họ
đáp xuống băi cát, đáng lẽ chúng ta phải nghe tiếng động, v́ họ đi rất đông.
Nhưng chúng ta chẳng nghe thấy ǵ cả. Như vậy, tôi tạm kết luận rằng giả
thuyết hoàn toàn hợp lư của anh là đúng.
Lúc ấy, đức Tuệ Minh day lại và nói rằng để trấn an tinh thần của
người đầu bếp, có lẽ ngài bắt buộc sẽ phải trách các vị khách đă không chịu
đem theo lương thực để tự túc v́ lương thực của chúng ta xét ra không đủ.
Người đầu bếp có vẻ rất lúng túng và giải thích rằng y không có ư muốn nói
một cách thô lỗ như vậy, nhưng dù sao th́ sự thật cũng vẫn c̣n đó, là không
đủ thức ăn cho tất cả mọi người. Các vị quư khách bèn đồng thinh cười vang
lên một cách vui vẻ, điều này có vẻ làm cho y càng lúng túng hơn.
Bà Mă Ly nói rằng không cần phải sợ có sự bất tiện hay thiếu sót. Bà
chủ nhà của chúng tôi và vị giai nhân trong buổi dạ tiệc hôm trước nói rằng
hai bà vui ḷng đảm đương lấy trách nhiệm về bữa ăn, v́ các vị quư khách đến
viếng chúng tôi với ư định rơ rệt là sẽ cùng chia sẻ bữa ăn đó với chúng
tôi. Người đầu bếp có vẻ yên ḷng và liền chấp nhận ngay lời đề nghị đó.
Lúc ấy trời đă xế chiều. Đó là một trong những ngày mà ngọn gió mát
thổi nhẹ dường như vuốt ve đồng cát Gobi, dẫu rằng có khi chỉ một lát sau nó
có thể biến thành một cơn băo tố gầm thét thịnh nộ với một tốc lực kinh
khủng. Chúng tôi lấy tất cả thứ ǵ có thể dùng làm khăn trải bàn và trải lên
băi cát, ngay ở phía ngoài trại. Đối với người ngoài đó có vẻ giống như một
cuộc đi chơi cắm trại.
Những người đoàn viên thuộc các toán đến sau chúng tôi vẫn c̣n tỏ vẻ
ngạc nhiên và do dự. Lê Mông nh́n vào các nồi đựng thức ăn và nói:
-Nếu tôi nh́n thấy rơ, và nếu người ta có thể chia sớt có bấy nhiêu
thức ăn cho tất cả số người đông đảo như vậy th́ tôi xin mở lớn đôi mắt để
nh́n xem một phép lạ được thực hiện!
Một người trong nhóm chúng tôi nói:
-Thật vậy, anh hăy chống mắt cho thật lớn; v́ anh sắp sửa nh́n thấy
điều mà anh vừa nói.
Tô Mặc nói:
-Anh Lê Mông, đây là lần thứ nh́ trong ngày hôm nay mà anh đă đoán
đúng!
Kế đó, hai bà nữ khách bắt đầu múc thức ăn trong nồi để chia cho tất
cả mọi người. Khi một dĩa đă được múc đầy, nó được chuyền qua tay người khác
và lại được thay thế bằng một cái dĩa mới, và cứ tiếp tục như thế cho đến
khi tất cả mọi người đều được cung cấp thức ăn một cách dồi dào thừa thăi.
Khi những đĩa được múc đầy thức ăn mỗi lúc càng tiếp tục thêm, chúng
tôi thấy gương mặt Lê Mông càng tỏ vẻ lo ngại. Khi người ta đưa một đĩa cho
y, y chuyền qua người bên cạnh rồi nói rằng y có thể bằng ḷng với một đĩa
ít hơn như thế nhiều. Bà chủ nhà chúng tôi nói rằng không phải lo ngại ǵ
cả, v́ có đủ thức ăn cho tất cả mọi người.
Sau khi mỗi người đă được cung cấp thức ăn một cách rộng răi, Lê Mông
lại nh́n vào các nồi niêu một lần nữa và thấy rằng thức ăn vẫn c̣n đầy,
không giảm bớt chút nào. Y bèn đứng dậy và nói:
-Nếu quư bà không cho tôi là một kẻ vô phép, mất dạy và thô bỉ, th́
tôi xin phép được đến ngồi gần các bà. Tôi xin nh́n nhận rằng sự ṭ ṃ ngự
trị trong mọi tư tưởng của tôi đến mức làm cho tôi không thể nuốt trôi một
miếng nào.
Các bà nữ khách đáp rằng nếu y muốn đến ngồi gần các bà, th́ các bà
sẽ coi đó như một cử chỉ lịch sự. Khi đó, y bèn đi ṿng quanh sau lưng nhóm
thực khách và đến ngồi cạnh chiếc khăn trải dưới đất, giữa bà Mă Ly và vị
giai nhân tuyệt sắc.
Khi y đă ngồi xuống, có người xin bánh ḿ. Trong giỏ bánh ḿ chỉ c̣n
có một miếng. Vị giai nhân đưa hai bàn tay ra, th́ ngay đó một ổ bánh lớn
liền xuất hiện trên tay bà. Bà đưa ổ bánh cho bà chủ nhà chúng tôi, bà này
sửa soạn đem cắt ra từng khoanh trước khi chia cho mỗi người thực khách. Lê
Mông bèn đứng dậy và xin phép quan sát ổ bánh ḿ c̣n nguyên vẹn. Người ta
đưa ổ bánh cho y, y quan sát trong một lúc với cặp mắt ḍ xét rồi đưa trả
lại với sự băn khoăn hiện rơ trên nét mặt. Y bước đi vài bước, rồi quay trở
lại và nói thẳng với người thiếu phụ:
-Thưa bà, tôi không muốn có vẻ xấc láo, nhưng đầu óc tôi bị đảo lộn
đến mức làm cho tôi không khỏi đưa ra vài câu hỏi.
Vị giai nhân khẽ nghiêng ḿnh, và nói rằng y được tự do hỏi bất cứ
điều ǵ y muốn. Y nói:
-Phải chăng bà có ư muốn nói rằng bà có thể bất chấp tất cả mọi định
luật thiên nhiên, ít nhất là những định luật mà chúng ta đă biết, và không
cần làm một cố gắng nào? Rằng bà có thể làm cho bánh ḿ xuất hiện từ một kho
dự trữ vô h́nh?
Người thiếu phụ đáp:
-Đối với chúng tôi, kho dự trữ không phải là vô h́nh, mà nó lúc nào
cũng hữu h́nh.
Khi bà chủ nhà chúng tôi cắt ổ bánh ḿ và phân phát các khoanh bánh
ḿ, chúng tôi nhận thấy rằng ổ bánh không hề giảm bớt. Lê Mông đă b́nh tĩnh
lại, trở về chỗ ngồi, và vị giai nhân nói tiếp:
-Ước ǵ các bạn có thể hiểu rằng tấn thảm kịch về cuộc đời của Đức
Jesus đă chấm dứt trên cây Thánh Giá, c̣n niềm phúc lạc của cuộc sống nơi
Đấng Christ đă bắt đầu với sự phục sinh của Ngài! Mọi đời sống phải nhắm mục
đích phục sinh thay v́ mục đích tử Đạo trên Thánh Giá. Bằng cách đó, mỗi
người có thể theo gương Đức Jesus trong cuộc đời tràn đầy tâm thức Bồ Đề,
tức tràn đầy sức sống của Chân Ngă. Người ta có thể nào tưởng tượng một cuộc
đời phúc lạc hơn và phong phú hơn sự ḥa đồng với quyền năng của Chân Ngă
trong nội tâm? Với cuộc sống tâm linh đó, các bạn có thể biết rằng ḿnh được
sáng tạo để chế ngự mọi h́nh thể, mọi tư tưởng, mọi lời nói, và mọi hoàn
cảnh.
Bằng cách sống cuộc đời thỏa măn mọi nhu cầu, các bạn sẽ nhận thấy
rằng đó là một cuộc đời đúng đắn và khoa học. Đức Jesus đă làm cho vài ổ
bánh ḿ và vài con cá của đứa trẻ nhỏ tăng lên gấp bội để cho đám quần chúng
được ăn uống thừa thăi. Các bạn nhớ rằng Ngài yêu cầu đám quần chúng hăy
ngồi trong ṿng trật tự, trong một thái độ trông chờ, sẵn sàng nhận lănh
thức ăn được tăng thêm do bởi định luật sáng tạo. Muốn t́m thấy sự an vui và
thỏa măn trong đời sống của Đức Jesus, người ta phải thực hiện định luật của
đời Ngài bằng cách hành động thuận theo những lư tưởng của Ngài. Người ta
không nên ngồi yên bất động và tự hỏi rằng làm sao có đủ thức ăn để sống.
Nếu Đức Jesus làm như vậy, th́ đám quần chúng đă không bao giờ được ăn uống
no đủ. Thay v́ làm như thế, Ngài ban ân huệ trong âm thầm, Ngài cám ơn Chúa
về những ǵ mà Ngài đang có, và những phần ăn được tăng thêm đủ cung cấp cho
tất cả mọi người.
Cuộc đời chỉ trở nên một bài toán khó khăn khi con người bắt đầu từ
chối không chịu nghe theo tiếng nói của nội tâm. Khi nào y biết hối hận và
tập nghe tiếng nói ấy, y sẽ không c̣n làm việc để mưu sinh. Y chỉ làm việc
v́ niềm vui sáng tạo mà thôi. Y sẽ bước vào niềm phúc lạc sáng tạo, một lănh
vực được cai quản bởi luật Trời hay tiếng nói của Thượng Đế…
Kế đó, vị giai nhân day qua Lê Mông và nói:
-Đức Jesus đă dạy những luật Đạo nhằm mục đích thiết lập cơi Trời ở
dưới thế gian. Bạn đă nh́n thấy những luật đó được áp dụng trong một phạm vi
khiêm tốn. Những luật đó vốn đúng đắn và rất khoa học. Con người, vốn là con
của Chúa Trời, và thật sự cùng một bản chất như Ngài, nên y vốn chứa đựng ở
tự nơi ḿnh cái tinh thần bất diệt của Chúa Trời. Y có thể phân biệt những
định luật của đấng đă sinh ra y, sử dụng những luật ấy, để đem lại một năng
xuất dồi dào toàn vẹn trong lănh vực sinh hoạt hằng ngày của y. Y chỉ cần
muốn là được.
Kế đó, giai nhân nói rằng bà sẽ rất vui ḷng trả lời tất cả mọi câu
hỏi của Lê Mông. Vị trưởng phái đoàn đáp rằng y đă quá xúc động để có thể
hỏi bất cứ một câu nào nữa. Y cần phải có một lúc yên lặng để suy nghĩ. Y có
nhiều điều muốn nói và hy vọng rằng y sẽ không làm phật ư một người nào, v́
y không hề có ư muốn chỉ trích ai cả. Y c̣n nói:
Khi đi đến xứ này, chúng tôi tưởng rằng ḿnh sẽ t́m thấy những tàn
tích của những thổ dân đă suy vong và biệt tích từ lâu. Trái lại, chúng tôi
lại thấy những người mà chúng tôi không thể tưởng tượng rằng họ có cuộc đời
hoạt động một cách cao quư vô cùng. Nếu những điều mà chúng tôi vừa thấy có
thể được công bố bên các nước Âu Mỹ, th́ toàn thể thế giới sẽ nằm mọp dưới
chân quư vị!
Ba vị phu nhân đáp rằng các bà không hề có ư muốn thấy toàn thể thế
giới nằm mọp dưới chân các bà. Các bà giải thích rằng nhân loại đă có quá
nhiều thần tượng, nhưng thiếu lư tưởng.
Khi đó, tất cả các vị quư khách, trừ ra người đầu tiên đă đến trước
cửa lều, đều đứng dậy và nói rằng đă đến lúc các vị phải ra đi. Các vị bắt
tay từ giă chúng tôi và mời chúng tôi đến viếng các vị khi nào có dịp thuận
tiện. Kế đó các vị biến mất một cách đột ngột cũng như khi mới đến, làm cho
Lê Mông và toán đoàn viên của y trố mắt thật lớn và đứng sững ngay trước chỗ
mà các vị vừa hội họp lúc năy.
Sau một lúc, Lê Mông day lại nói chuyện với người khách c̣n ở lại, và
yêu cầu người ấy cho biết danh tánh. Người này đáp rằng y tên Bạch Lăng. Khi
đó Lê Mông nói:
-Phải chăng quư vị có thể đi lại tự do đó đây tùy ư muốn mà không cần
dùng một phương tiện di chuyển hữu h́nh nào như chúng tôi vừa thấy, và khinh
miệt tất cả những định luật vật lư học mà người ta được biết từ trước đến
nay?
Bạch Lăng đáp:
-Chúng tôi không khinh miệt một định luật nào, chúng tôi cũng không
vi phạm một định luật nào dù là luật Trời hay luật thế gian. Chúng tôi chỉ
hợp tác. Chúng tôi hành động theo những định luật thiên nhiên và luật Trời.
Những phương tiện di chuyển mà chúng tôi sử dụng thật là vô h́nh đối với các
bạn, nhưng hoàn toàn hữu h́nh đối với chúng tôi. Điều khó khăn, chính là bởi
v́ không nh́n thấy những phương tiện đó nên các bạn không tin. Chúng tôi
nh́n thấy, tin tưởng, biết rơ, và có thể sử dụng những phương tiện đó. Các
bạn hăy làm như chúng tôi, hăy để tâm trí mở rộng, rồi các bạn sẽ nhận thấy
rằng những định luật đó vốn hoàn toàn đúng đắn và có thể vô cùng hữu ích cho
nhân loại hơn là những định luật có giới hạn mà người ta đă từng quen thuộc.
Từ trước đến giờ, người ta chỉ mới phớt qua chứ chưa tận dụng đúng mức những
tiềm năng của con người. Chúng tôi luôn luôn vui ḷng giúp đỡ các bạn với
tất cả mọi phương tiện sẵn có.
Chander Sen giải thích rằng Bạch Lăng đến đây để mời chúng tôi ghé
qua làng của y khi chúng tôi trở về địa điểm khởi hành. Chúng tôi sẵn ḷng
nhận lời mời và Bạch Lăng cho biết y sẽ cùng đi với chúng tôi. Về sau chúng
tôi được biết rằng y thuộc gịng giơi những dân tộc phú cường của đế quốc
Uigour thuở xưa, ngày nay đă biệt tích và biến thành vùng sa mạc Gobi.
CHƯƠNG
BẢY
Một cuộc cứu
chữa nhiệm mầu – Cái nhà huyền diệu – Phái đoàn trở về căn cứ mùa đông – Bọn
cướp hăm dọa tấn công –Cuộc điều đ́nh với bọn cướp bị thất bại.
I
Chúng tôi thức dậy thật sớm vào sáng ngày hôm sau, và lên đường trước
khi mặt trời mọc, để đi đến chỗ làng quê của Bạch Lăng. Chúng tôi đến làng
ấy mười hai ngày sau đó. Khi đến nơi chúng tôi được đón tiếp bởi những vị
siêu nhân đă đến viếng chúng tôi vào ngày cuối cùng trên sa mạc, và lấy làm
sung sướng nhận lời khi các vị mời chúng tôi hăy nghỉ ngơi tại nhà các vị
trong vài ngày.
Chúng tôi được đưa vào những gian pḥng rất sang trọng so với những
lều trại của chúng tôi trên sa mạc. Buổi cơm tối đă sẵn sàng nửa giờ sau đó.
Chúng tôi thay đổi y phục chỉnh tề và bước vào gian pḥng khách bên cạnh,
tại đây chúng tôi gặp nhiều vị chân sư mà chúng tôi đă từng được quen biết
trong những chuyến du hành đă qua xuống miền Nam. Các vị vui mừng tiếp đón,
nói rằng vùng này là chỗ đất lành của chúng tôi, và sẵn sàng mở rộng cửa để
tiếp đón tất cả mọi người.
Vị thống đốc của vùng này tiếp đón chúng tôi bằng một bài diễn từ khả
ái xuyên qua một thông dịch viên. Người c̣n cho biết rằng buổi cơm tối được
sắp đặt tại tư dinh và chúng tôi sẽ đến đó ngay lập tức. Chúng tôi rời khỏi
pḥng khách, do vị thống đốc đi trước dẫn đường, có hai người vệ sĩ đi kèm
hai bên theo lễ nghi bổn xứ. Kế đó là Lê Mông với bà chủ nhà trọ của chúng
tôi khi trước, rồi đến Tô Mặc với người thiếu phụ tuyệt sắc, và sau cùng là
đức Tuệ Minh, đức bà Mă Ly, mẫu thân của ngài, và tôi, kỳ dư đều tháp tùng
đi theo sau.
Chúng tôi vừa mới đi được một đoạn chưa được bao xa th́ một đứa bé
gái ăn mặc rách rưới tách ra từ trong đám đông người đang nh́n chúng tôi từ
bên lề đường, và hỏi bằng tiếng bổn xứ để xin nói chuyện với đức bà Mă Ly.
Bà Mă Ly nắm tay tôi và tay đức Tuệ Minh rồi cả ba chúng tôi đều bước ra
khỏi hàng ngũ để nghe xem em bé ấy muốn hỏi điều ǵ. Thấy vậy, bà chủ nhà
chúng tôi do dự một lúc, rồi nói rằng bà muốn ngừng lại. Trong khi bà bước
ra khỏi hàng ngũ quan khách, tất cà đoàn đều dừng chân lại. Bà Mă Ly giải
thích cho viên thống đốc biết rằng bà muốn tất cả mọi người hăy cứ tiếp tục
lộ tŕnh và ngồi vào bàn ăn trước, sau đó, bà sẽ đến sau để nhập tiệc chung
với tất cả.
Trong khi đó, bà nằm hai bàn tay của đứa bé gái trong ḷng bàn tay bà.
Sau khi viên thống đốc và đoàn tùy tùng đă đi qua, bà quỳ xuống thấp để áp
gương mặt bà vào g̣ má của đứa bé, choàng hai tay ṿng quanh cổ nó, và nói:
-Con hỡi, con muốn ta giúp con điều ǵ?
Sau đó, bà Mă Ly đước biết rằng em trai của đứa bé này đă bị té ngă
vào lúc xế trưa và có lẽ đă bị găy xương sống. Đứa bé khẩn cầu bà Mă Ly đi
theo nó để xem bà có thể cứu chữa cho em trai nó, v́ đứa em này đang đau đớn
rên xiết rất khổ sở.
Bà Mă Ly đứng dậy, giải thích t́nh h́nh cho chúng tôi nghe và yêu cầu
chúng tôi hăy đi về tư dinh viên thống đốc, c̣n bà đi theo đứa bé gái và sẽ
gặp lại chúng tôi sau. Lê Mông xin phép đi với bà. Bà nói rằng tất cả chúng
tôi có thể đi theo bà nếu chúng tôi muốn. Chúng tôi bèn đi theo bà. Bà vừa
đi vừa nắm tay đứa bé gái, em bé này nhảy nhót v́ vui mừng. Bà chủ nhà chúng
tôi thông dịch lại những lời em nói. Nó nói nó biết rằng đứa em trai của nó
sẽ được đức bà chữa khỏi.
Khi đi đến gần nhà, đứa bé gái chạy vọt tới trước để báo tin có chúng
tôi đến. Chúng tôi thấy em ở một cái cḥi lá vách đất nghèo nàn. Bà Mă Ly có
lẽ đọc được tư tưởng chúng tôi v́ bà nói:
-Căn nhà nghèo nàn này chứa đựng những quả tim ấm áp.
Khi đó, cánh cửa đột nhiên mở. Chúng tôi nghe một giọng đàn ông và
chúng tôi bước vào. Cḥi lá này bên trong rất nheo nhóc. Nó chỉ vừa đủ
khoảng trống để chứa tất cả chúng tôi, và trần nhà thấp đến nỗi chúng tôi
không thể đứng thẳng người. Một ngọn đèn dầu leo lét chiếu ánh sáng lập ḷe
lên gương mặt của cha mẹ đứa bé ngồi ở một góc, áo quần dơ bẩn. Trong góc ở
xa nhất, nằm trên một đống rơm rạ và giẻ rách cũ hôi hám ẩm thấp, là một đứa
bé trai độ chừng năm tuổi đang rên xiết, gương mặt tái ngắt như sáp và nhăn
nhó như có vẻ rất đau đớn.
Đứa bé gái ngồi xuống bên cạnh và đặt hai bàn tay lên hai g̣ má đứa
em trai. Em nói với đứa bé trai rằng nó sẽ được hoàn toàn chữa khỏi v́ đức
bà đă có mặt tại đó. Em rút hai bàn tay ra và xích qua một bên để cho em
trai ấy nh́n thấy đức bà. Đến khi đó em mới nh́n thấy lần đầu tiên những vị
khách lạ, và nét mặt em liền biến đổi ngay, dường như em đang trải qua một
cơn sợ hăi. Em lấy hai tay che mặt, và thân h́nh em run rẩy ḥa nhịp với
những tiếng khóc thổn thức:
-Ồ! Con tưởng rằng đức bà chỉ đến có một ḿnh.
Bà Mă Ly ngồi xuống bên cạnh em và ôm em vào ḷng trong một lúc. Khi
em đă b́nh tĩnh, bà nói rằng bà sẽ cho chúng tôi về nếu em muốn. Em đáp rằng
em chỉ ngạc nhiên và sợ hăi, thế thôi, v́ em chỉ nghĩ đến đứa em trai đang
đau ốm. Bà Mă Ly nói:
-Con thương yêu em con nhiều lắm phải không?
Đứa bé gái, tuy chưa chín tuổi, đáp:
-Dạ, nhưng con thương yêu tất cả mọi người.
Đức Tuệ Minh thông dịch lại cho chúng tôi, v́ chúng tôi không hiểu
một tiếng nào. Bà Mă Ly nói:
-Nếu con thương em con nhiều như vậy, con có thể giúp sức một phần
vào sự cứu chữa cho nó.
Kế đó, bà bảo em bé ấy ngồi trở lại tư thế lúc năy, với hai bàn tay
ôm lấy hai g̣ má của em nó, rồi bà xoay ḿnh lại để đặt một bàn tay bà trên
trán đứa bé. Ngay tức khắc, những tiếng rên xiết liền ngưng bặt, gương mặt
đứa trẻ sáng lên, thân ḿnh nó duỗi thẳng giữa một cơn yên tĩnh hoàn toàn
của bầu không khí chung quanh, và đứa trẻ ngủ yên trong một giấc ngủ tự
nhiên.
Bà Mă Ly và đứa bé gái ngồi yên trong tư thế đó trong một lúc, rồi bà
gạt nhẹ hai bàn tay đứa bé gái ra và nói:
-Em bé trai này thật khôi ngô, mạnh giỏi và tráng kiện thay.
Kế đó bà rút bàn tay ra một cách thật nhẹ nhàng.
Lúc đó t́nh cờ tôi lại đứng gần bên bà trong khi bà đưa cánh tay trái
ra trước. Tôi đưa bàn tay tôi ra để đỡ bà đứng dậy, nhưng khi bàn tay tôi
chạm vào bàn tay trái của bà th́ tôi cảm thấy bị va chạm như điện giật, nó
làm cho tay tôi bị tê liệt. Bà nhẹ nhàng đứng dậy và nói:
-Tôi đă quên đi mất. Đáng lẽ tôi không nên nắm lấy bạn như tôi đă làm,
v́ tôi cảm thấy trong một lúc sức mạnh kinh khủng của luồng từ điển chạy
xuyên qua thân ḿnh tôi.
Khi bà vừa nói dứt lời, th́ tay tôi đă lành mạnh trở lại như thường.
Tôi tin rằng không ai đă nhận thấy việc ấy xảy ra, v́ họ c̣n đang chú trọng
vào những ǵ diễn ra ở chung quanh.
Đứa bé gái đă thụp xuống chân bà Mă Ly, và hôn lấy hôn để gấu áo của
bà. Bà Mă Ly cúi xuống, lấy tay đỡ gương mặt ứa lệ của đứa bé, rồi quỳ xuống
ôm nó vào ḷng và hôn lên mắt và miệng nó. Đứa bé quàng tay ôm cổ bà Mă Ly,
và cả hai đều yên lặng như thế trong một lúc.
Kế đó, ánh sáng lạ lùng mà chúng tôi đă diễn tả trước đây bắt đầu
tràn vào gian pḥng. Ánh sáng ấy mỗi lúc càng trở nên sáng rỡ, và sau cùng
tất cả mọi vật đều có vẻ trong suốt, dạ quang. Không có vật ǵ phát ra một
cái bóng, và dường như gian pḥng mỗi lúc càng trở nên to lớn hơn.
Từ lúc đầu, cha mẹ những đứa bé vẫn ngồi yên trên nền đất, có vẻ im
lặng v́ sợ hăi. Nhưng đến lúc đó, th́ cả hai đều biến sắc, gương mặt họ trở
nên trắng bệch v́ kinh hoàng; người cha sợ hăi đến nỗi y chạy phóng ra cửa
và đụng vào ḿnh Lê Mông trong cơn hấp tấp vội vàng. Người mẹ th́ thụp xuống
chân bà Mă Ly, vừa cúi lạy vừa khóc mướt. Bà Mă Ly đặt một bàn tay lên trán
người đàn bà ấy và kề tai nói th́ thầm. Tức th́ người đàn bà kia hết khóc, y
bèn ngồi nhổm dậy và nh́n thấy sự biến dổi đang diễn ra trong gian nhà.
Gương mặt y lại lộ vẻ kinh hoàng, y bèn hối hả đứng dậy và toan chạy trốn.
Đức Tuệ Minh nắm lấy một tay y trong khi vị giai nhân tuyệt sắc nắm cánh tay
kia. Hai vị giữ y lại tư thế trong một lúc, rồi thay v́ là cái cḥi lá bẩn
thỉu khi chúng tôi mới bước vào, th́ lúc ấy chúng tôi đang ở trong một gian
pḥng đầy đủ tiện nghi với những giường ghế bàn tủ tươm tất.
Đức Tuệ Minh bước qua gian pḥng, ẵm lấy đứa nhỏ đang nằm ngủ trên
đống rạ mốc meo, và nhẹ nhàng đặt nó lên một cái giường có trải nệm trắng và
chăn mền sạch sẽ. Ngài cúi xuống đặt một chiếc hôn lên trán đứa bé một cách
âu yếm như một người hiền mẫu. Bà Mă Ly và đứa bé gái đă đứng dậy và bước
tới gần người mẹ các đứa nhỏ. Chúng tôi cũng tựu lại chung quanh y. Người mẹ
quỳ thụp xuống hôn lấy hai bàn chân của bà Mă Ly và khẩn cầu bà đừng tách
rời khỏi y.
Đức Tuệ Minh bước tới nắm hai bàn tay người đàn bà kia, đỡ y đứng dậy,
rồi nói chuyện với y bằng tiếng thổ ngữ bản xứ. Khi người mẹ đă đứng dậy,
những áo quần lấm lem nhơ nhuốc của y đă biến thành những áo quần mới. Y thị
im lặng trong một lúc dường như không c̣n hiểu biết chuyện ǵ nữa, và lao
ḿnh vào trong ṿng tay mở rộng của bà Mă Ly. Hai người đàn bà đó giữ tư thế
đó một lúc trong im lặng, rồi đức Tuệ Minh bước lại gỡ người ấy ra.
Kế đó, đứa bé gái chạy tới đưa hai tay ra trước và nói:
-Bà hăy nh́n xem quần áo mới của con.
Nó day lại bà Mă Ly, bà cúi xuống đỡ nó lên; trong khi đó nó choàng
tay ôm cổ và áp mặt vào vai bà. Lê Mông đang đứng phía sau, đứa bé gái liền
đưa hai tay ngang qua vai bà Mă Ly, ngẩng đầu lên và mỉm cười với y. Lê Mông
bước tới và đưa hai tay ra, đứa bé nắm lấy và nói rằng nó yêu thương tất cả
chúng tôi, nhưng nó yêu mến bà Mă Ly nhiều nhất.
Đức Tuệ Minh nói để Ngài đi t́m người cha các đứa bé. Một lúc sau
Ngài đưa y về nhà, với dáng điệu sợ sệt và c̣n lầm bầm. Bà Mă Ly bước tới và
đặt đứa bé gái xuống gần bên y. Dưới cái vẻ mặt khó chịu của người đàn ông
này, chúng tôi có thể nhận thấy ẩn tàng một ḷng biết ơn sâu xa. Chúng tôi
bèn bước ra khỏi căn nhà. Trước khi chúng tôi ra về, người mẹ các đứa bé yêu
cầu chúng tôi hăy trở lại khi có dịp. Chúng tôi cho biết là sẽ trở lại vào
ngày hôm sau.
Chúng tôi bèn hối hả đi đến tư dinh thống đốc v́ sợ rằng đi trễ làm
cho mọi người phải đợi chờ. Chúng tôi có cảm giác như đă trải qua nhiều giờ
trong cái cḥi lá, nhưng thật ra chỉ có nửa giờ đă trôi qua từ lúc chúng tôi
tách rời khỏi đoàn người đến khi chúng tôi gặp họ trở lại. Tất cả mọi sự đă
diễn ra trong một lúc c̣n ngắn ngủi hơn là cái thời giờ cần thiết để ghi
chép lại câu chuyện. Chúng tôi đến tư dinh viên thống đốc đúng vào lúc mọi
người đang ngồi vào bàn ăn. Lê Mông xin phép ngồi gần bên Tô Mặc. Y lộ vẻ vô
cùng khích động. Về sau Tô Mặc cho chúng tôi biết rằng Lê Mông bị xúc động
mạnh về những ǵ y đă nh́n thấy, đến nỗi y không thể nào giữ được sự b́nh
tĩnh.
Qua ngày hôm sau, Lê Mông thức dậy trước hết mọi người. Trong bữa ăn
sáng, y ngồi giữa đức Tuệ Minh và Dật Sĩ và luôn luôn đặt câu hỏi trong suốt
bữa ăn. Khi chúng tôi vừa ăn xong, y đă đứng dậy và muốn chạy ra ngoài để
nh́n xem cái nhà “đă mọc lên trong
một khắc đồng hồ”. Quàng một tay lên vai Dật Sĩ, y nói rằng nếu y có
được hai vị cứu trợ như đức Tuệ Minh và bà Mă Ly, y sẽ đi chu du khắp chốn
và làm cho nhà cửa mọc lên để giúp đỡ những kẻ nghèo khổ không nhà. Y nói
thêm:
-Nhưng tôi chắc là những tay chủ phố và nhà đất ở Nữu Ước sẽ nổi giận,
và họ sẽ không để tôi yên.
Về sau, Lê Mông cho chúng tôi biết rằng y bị xúc động và ngạc nhiên
đến nỗi y không thể nào ngồi yên mà không đặt câu hỏi. Y nói chuyến đi này
thật là chuyến xuất hành sôi nổi hào hứng nhất trong đời y, tuy rằng y đă
từng đi du lịch ở nhiều nơi xa lạ. Khi đó y có ư định giúp chúng tôi tổ chức
một chuyến hành tŕnh thứ nh́ để tiếp tục những cuộc đào xới khảo cổ theo
chỉ thị của các vị siêu nhân. Nhưng bất hạnh thay, dự án này không được thực
hiện v́ Lê Mông đă đột ngột từ trần vào năm sau.
Chúng tôi phải vất vả khó nhọc lắm mới ngăn cản được y đến ngay ngôi
nhà nhỏ mới dựng lên. Điều này được giải quyết ổn thỏa, theo đó y sẽ cùng
với Dật Sĩ và một người nữa đến một nơi mà từ đó y có thể nh́n thấy ngôi nhà
ấy từ đằng xa. Sau độ nửa giờ, họ đă trở về. Lê Mông mừng rỡ lộ ra mặt v́ y
đă nh́n thấy ngôi nhà nhỏ thật sự. Ngôi nhà ấy làm cho y hồi tưởng lại một
trong những giấc mơ hồi thơ ấu, trong khi đó y mơ thấy vừa đi dạo chơi với
các vị tiên nữ vừa xây nhà cho những kẻ nghèo và làm cho họ được sung sướng.
Đức Tuệ Minh cho chúng tôi biết rằng chiều hôm đó sẽ có một cuộc hội
họp giống như phiên họp hồi năm ngoái tại làng quê của Ngài. Ngài mời tất cả
chúng tôi cùng đến dự, chúng tôi sung sướng nhận lời.
Chúng tôi quá đông người để có thể cùng đi một lượt đến xem ngôi nhà
nhỏ. Bởi đó, chúng tôi chia ra để đi từng nhóm nhỏ độ năm hay sáu người.
Nhóm đầu tiên gồm có đức Tuệ Minh, Lê Mông, một hay hai vị phu nhân, và tôi.
Chúng tôi đi ngang qua nhà trọ của bà Mă Ly, bà cùng nhập bọn với chúng tôi.
Khi chúng tôi gần đến ngôi nhà nhỏ, đứa bé gái chạy ra đón, rồi nhảy vào nằm
gọn trong ṿng tay của bà Mă Ly, và nói rằng em trai nó nay đă khỏe mạnh.
Khi chúng tôi đến nhà, người mẹ các đứa bé chạy ra quỳ thụp xuống
chân bà Mă Ly và thốt vài lời tạ ân bà. Bà Mă Ly đưa tay ra đỡ người đàn bà
ấy và nói:
-Bà đừng quá khiêm cung. Tôi có thể làm cho bất cứ ai những ǵ tôi đă
làm cho bà Cái ân huệ thiêng liêng mà bà đă nhận được, không phải do tôi ban
ra, mà là do Trời.
Đứa bé trai ra mở cửa, và mẹ nó mời chúng tôi về nhà. Chúng tôi đi
theo sau các bà, và bà chủ nhà trọ t́nh nguyện làm thông ngôn. Không c̣n
nghi ngờ ǵ nữa, cái nhà vẫn c̣n đó, với bốn pḥng đầy đủ tiện nghi. Ba phía
chung quanh nhà là những cḥi tranh rất lụp xụp nghèo nàn. Chúng tôi được
biết rằng các chủ nhân của những cḥi tranh này đang lo chuẩn bị dọn đi nơi
khác v́ họ tin rằng ma quỷ đă dựng lên ngôi nhà mới này và sẽ làm cho họ
chết nếu họ tiếp tục sống ở chung quanh.
Chúng tôi vừa được tin của vị thống đốc. Sáng hôm ấy, ông ta gởi một
toán quân hầu và một viên đại úy đến mời chúng tôi đến dự bữa cơm trưa tại
tư dinh. Chúng tôi nhận lời, và đến giờ hẹn, một vệ sĩ đến để hộ tống chúng
tôi đến tư dinh viên thống đốc.
Đến tư dinh viên thống đốc, chúng tôi thấy một số đông những vị Lạt
Ma của tu viện Lạt Ma giáo gần bên đă có mặt tại đó cùng với vị Sư Trưởng
của họ. Chúng tôi được biết rằng tu viện này rất quan trọng và có độ 1,500
đến 1,800 sư săi. Viên thống đốc cũng có chân trong đại Hội Đồng sư săi của
tu viện này. Khi đó chúng tôi được biết bữa tiệc này có mục đích tạo nên một
dịp tiếp xúc giữa các vị Lạt Ma và các đoàn viên trong phái đoàn chúng tôi.
Các vị Chân Sư đă từng biết vị Sư Trưởng này từ lâu, v́ các ngài thường hay
gặp gỡ và đă từng làm việc chung với vị Sư Trưởng ấy. Cho đến sáng ngày hôm
ấy, viên thống đốc dường như vẫn chưa biết sự liên hệ trên. Thật vậy, vị Sư
Trưởng đă vắng mặt ở tu viện trong ba năm nay và mới trở về chỉ có một ngày
trước khi chúng tôi đến.
Trong bữa ăn, chúng tôi nhận thấy rằng các vị Lạt Ma là những người
có học thức, có những quan điểm rộng răi về cuộc đời, đă từng du lịch nhiều
và có hai vị trong số đó đă từng sống một năm bên Anh Quốc và bên Hoa Kỳ.
Trước khi chia tay, vị Sư Trưởng mời chúng tôi ngày hôm sau đến viếng
tu viện Lạt Ma giáo và làm thượng khách của các vị Lạt Ma trong một ngày.
Đức Tuệ Minh khuyên chúng tôi nên nhận lời, và chúng tôi đă trải qua một
ngày rất tốt đẹp và hữu ích tại tu viện. Vị Sư Trưởng là một người đạo hạnh
uyên thâm. Ngày đó, ông ta đă cùng với Tô Mặc kết t́nh thân hữu, t́nh thân
hữu này về sau đă trở nên một sự cảm thông đậm đà nồng hậu và kéo dài đến
suốt đời của hai người. Vị Sư Trưởng đă đem đến cho chúng tôi một sự trợ
giúp vô cùng quư báu trong những chuyến du hành về sau của chúng tôi ở tại
vùng này.
II
Theo chương tŕnh được sắp đặt, phái đoàn chúng tôi sẽ lên đường vào
trưa ngày hôm sau. Dật Sĩ và Chander Sen sẽ cùng đi với chúng tôi đến một
địa điểm trao đổi hàng hóa để chúng tôi mua sắm thêm lương thực dự trữ, và
đức Tuệ Minh cũng sẽ đến đó sau với chúng tôi. Kế đó, ba vị siêu nhân sẽ
cùng với chúng tôi trở lại địa điểm căn cứ mùa đông.
Khi chúng tôi đến căn cứ, phái đoàn thám hiểm giải tán, và mọi việc
được sắp đặt để cho những người nào muốn về nhà, có thể đi đến chỗ khởi điểm
của họ do con đường ṃn của khách thương buôn. Ngày hôm sau đức Tuệ Minh đến
với chúng tôi. Chúng tôi từ giă các bạn đoàn viên và cùng với Ngài đi về
hướng căn cứ mùa đông.
Chúng tôi nghỉ hai ngày tại trại bọn cướp. Hai người bổn xứ đi theo
chúng tôi từ trước bèn từ giă chúng tôi tại đây, và toán chúng tôi chỉ c̣n
lại có bảy người. Hai tên cướp thuật lại cho bọn chúng nghe về chuyến du
hành kỳ lạ vừa rồi và những điều nhiệm mầu mà chúng đă nh́n thấy. Chúng tôi
được đối xử một cách vô cùng chu đáo. Ba vị siêu nhân được chúng dành cho
những sự ưu đăi danh dự đặc biệt. Viên đầu đảng bọn cướp cho ba vị biết rằng
để đáp lại thịnh t́nh mà các vị Chân Sư đă tỏ ra đối với họ, họ sẽ coi địa
điểm chôn dấu của ba thành phố cổ như một vùng cấm địa tuyệt đối thiêng
liêng và bất khả xâm phạm. vả lại, cũng không có sự e sợ rằng bọn cướp rời
khỏi căn cứ họ để toan đánh cướp một nơi xa xôi như thế.
Thật vậy, những bọn cướp sa mạc không bao giờ xâm phạm vào miền núi,
và trái lại bọn cướp núi không hề xâm chiếm vùng đồng bằng, v́ họ luôn luôn
chiến tranh với nhau. Theo chỗ chúng tôi biết, th́ cho đến nay họ vẫn giữ
vẹn lời hứa phân chia khu vực hoạt động, và không lấn ranh lănh thổ của nhau.
Sáng ngày chúng tôi lên đường, viên đầu đảng đến tặng cho Tô Mặc một
huy chương bạc nhỏ bằng một đồng tiền Shilling, trên đó có khắc chữ rất lạ.
Y cho Tô Mặc biết rằng nếu chúng tôi bị bọn cướp đánh trong vùng này, chúng
tôi chỉ cần đưa ra cái huy chương này là chúng tôi sẽ được trả tự do lập tức.
Gia đ́nh y đă giữ chiếc huy chương ấy từ nhiều thế hệ và coi nó như một vật
quư vô giá, nhưng y muốn tặng cho Tô Mặc để chứng tỏ sự ngưỡng mộ của y đối
với chàng.
Sau khi xem xét kỹ lưỡng chiếc huy chương, đức Tuệ Minh nói cho chúng
tôi biết rằng đó là một bổn sao rất đúng đắn của một đồng tiền đă từng được
lưu hành ở phía Bắc vùng Gibi từ nhiều ngàn năm nay. Riêng chiếc huy chương
này đă có đến trên bảy trăm năm. Những đồng tiền loại này thường được các
thổ dân bản xứ dùng như những linh vật hộ phù, và họ cho rằng đồng tiền càng
cổ xưa th́ nó lại càng quư và càng có hiệu lực nhiều hơn. Viên đầu đảng và
cả bọn cướp hẳn là đánh giá món quà của họ một giá trị rất lớn.
Chúng tôi tiếp tục cuộc hành tŕnh một cách êm thấm và đến căn cứ mùa
đông vào thời giờ đă định trước. Tại đây chúng tôi được sự tiếp đón nồng
nhiệt của các vị siêu nhân đă đến viếng chúng tôi trên vùng sa mạc và đă từ
biệt chúng tôi tại nơi làng nọ khi chúng tôi gặp vị Sư Trưởng của tu viện
Lạt Ma giáo. Một lần nữa chúng tôi lại được mời đến ở nhà của bà chủ trọ hồi
năm trước, và chúng tôi liền vui vẻ nhận lời.
Lần này chúng tôi chỉ c̣n lại có bốn người, v́ bảy người đoàn viên đă
trở về Ấn Độ và Mông Cổ để thực hiện những cuộc sưu tầm khác nữa. Việc sắp
đặt ấy giúp cho chúng tôi có nhiều thời giờ hơn để phiên dịch các tài liệu
cổ. Làng nhỏ này rất êm tịnh. Chander Sen và chủ nhà luôn luôn sẵn sàng giúp
đỡ chúng tôi dịch các đoạn văn khó và bí hiểm.
Công việc này tiếp tục cho đến cuối tháng mười hai. Khi đó chúng tôi
nhận thấy một đám khá đông dân chúng lại tựu họp trở lại trong phiên hội
hằng năm. Phần đông đều là những người đă tham dự cuộc lễ năm ngoái, nhưng
địa điểm hội họp lại khác. Lần này cuộc lễ sẽ diễn ra tại ngôi đền đục trong
vách núi, trong gian pḥng trung ương dùng làm ṭa đại sảnh. Chiều ngày đầu
năm dương lịch, chúng tôi bước lên ṭa sảnh đường khi c̣n sớm để nói chuyện
với những người đă hội họp tại đó. Họ đến từ nhiều vùng khác nhau và cho
chúng tôi biết tin tức của thế giới bên ngoài, cái thế giới mà chúng tôi
thật sự cảm thấy rằng đă mất hẳn liên lạc từ lâu. Tuy nhiên công việc của
chúng tôi làm cho chúng tôi bận rộn quên mất cả ngoại cảnh, và thời gian đă
trôi qua rất mau.
Ngày hôm sau, Tô mặc đề nghị với cả bọn cùng xuống pḥng tài liệu để
tiếp tục công việc phiên dịch. Chúng tôi mảng lo chăm chú vào công việc đến
nỗi không ư thức được sự hiện diện của những người khác trong pḥng. Th́nh
ĺnh, Tô Mặc đứng dậy và bước tới đón chào những người mới đến. Chúng tôi
ngước mắt nh́n lên th́ thấy Đức Jesus, bà Mă Ly, bà chủ nhà trọ và Chander
Sen. Vị sau cùng này vốn là người mà trước kia chúng tôi vẫn gọi là “Ông
già giữ kho tài liệu,” nhưng bây giờ th́ chúng tôi gọi y là “người
thanh niên”. Ngoài ra c̣n có Bạch Lăng, và một người lạ mặt được giới
thiệu với chúng tôi dưới cái tên là Bút Già.
Lúc ấy đă quá trưa, chúng tôi dọn bàn và chuẩn bị bữa ăn. Xong rồi
chúng tôi ngồi vào bàn, và sau một lúc im lặng, Đức jesus cất tiếng nói:
-Chúng ta hăy chiêm ngưỡng đức Chúa Cha và toàn năng, Nguyên Lư đại
đồng thấm nhuần tất cả vạn vật, Ngài là ánh sáng, t́nh thương và mỹ lệ mà
chúng ta được ban những ảnh hưởng tốt lành. Chúng ta có thể vĩnh viễn được
thấm nhuần những ân huệ tốt lành ấy nếu chúng ta muốn. Chúng ta nghiêng ḿnh
trước bàn thờ trên đó chiếu diệu ngọn lửa thiêng liêng trường cửu của t́nh
bác ái đại đồng, sự điều ḥa, minh triết chân chính, sự sùng kính vô tận, và
sự khiêm tốn chân thật. Ngọn lửa thiêng ấy chiếu sáng không bao giờ lu mờ.
Nó xuất hiện từ đáy ḷng của những người đang tựu họp vào giờ phút này nhân
danh đấng Cha Lành và T́nh Bác Ái. Xuất xứ từ những người thân cận và mến
yêu của chúng ta, ngọn lửa thiêng ấy lan tràn trong không gian, soi sáng
những vùng xa xôi nhất trên Trái Đất để cho mỗi người có thể nh́n thấy ánh
sáng của nó và nhận được những ân huệ tốt lành do t́nh thương khiết bạch và
vô tận của nó ban rải ra.
Những tia sáng rung động của ánh sáng đó, của cái mỹ lệ đó và của sự
tinh khiết đó đi xuyên qua những tâm hồn thụ cảm của những người tựu họp
chung quanh bàn thờ của Ngài. Bây giờ chúng ta đă có ư thức về t́nh bác ái
mà sức ấm áp đang lan tràn khắp vũ trụ. Chúng ta gởi những tia bác ái đó đi
khắp nơi để biến đổi thế gian, cải tạo và ḥa hợp tất cả nhân loại. Chúng ta
nghiêng ḿnh trước Tinh Thần của Chúa Trời vốn sống động bên trong mỗi
người. Chúng ta đứng đối diện với Chúa Trời, ngang hàng với Ngài, hợp nhất
với Ngài. Một lần nữa, chúng ta kính cẩn chào đức Chúa Trời vốn sống động
nơi chỗ thâm sâu bí ẩn nhất trong ḷng chúng ta.
Khi Đức jesus nói xong, có người đề nghị rằng cả bọn trở lại gian
pḥng mà chúng tôi đă chứng kiến sự phục sinh của Chander Sen.
Khi chúng tôi đến nơi, gian pḥng được thắp sáng một cách lộng lẫy
cũng như khi chúng tôi ra đi. Gian pḥng này đối với chúng tôi là một linh
điện, một nơi mà chúng tôi có cái đặc ân thực hiện trên đường tâm linh một
giai đoạn mà trước đó người ta không thể nào quan niệm rằng nó có thể có
được đối với những người phàm tục như chúng tôi. Kể từ ngày đó cho đến ngày
15 tháng 4 là ngày chúng tôi lên đường,không có ngày nào hoặc đêm nào mà
chúng tôi không tựu họp tại đó với tất cà các Chân Sư trong khoảng ít nhất
là một tiếng đồng hồ. Trong những cuộc hội họp đó, gian pḥng không bao giờ
c̣n có cái h́nh dáng đục trong vách đá nữa. Dường như chúng tôi luôn luôn có
thể nh́n thấy xuyên qua các vách tường vào khoảng không gian vô tận. Chính
trong gian pḥng này mà những bức rào giới hạn tâm thức của chúng tôi đă bị
xóa bỏ. Chính ở đây là nơi đă mở rộng trước mắt chúng tôi một viễn ảnh rộng
lớn về tương lai.
Khi chúng tôi đứng dậy kiếu từ, các vị siêu nhân chúc chúng tôi yên
giấc và rút lui. Chúng tôi c̣n ở nán lại trong giây lát để b́nh luận về
những kinh nghiệm vừa qua trước khi trở về nhà trọ. Khi đứng dậy ra về,
chúng tôi liền tự đặt câu hỏi:
-Làm sao t́m thấy đường về mà không có đèn lửa chi cả?
Mỗi người trong chúng tôi đều nghĩ như vậy, chỉ có một ḿnh Tô Mặc
không đồng ư, v́ y nói:
-Các bạn thấy chăng chúng ta chỉ luôn luôn bám víu lấy những thói
quen cũ của ḿnh và luôn luôn bị trói buộc bởi những ư tưởng thủ cựu. Ở đây
chúng ta hoàn toàn được thấm nhuần trong một vầng ánh sáng không hề sút giảm
sau khi các vị siêu nhân quư mến của chúng ta đă ra đi. Phải chăng đây là
một dịp để chúng ta tiến tới và tỏ rằng chúng ta tự tin nơi sức ḿnh, tự tin
nơi quyền năng của ḿnh là có thể thực hiện những công tŕnh giống như các
ngài? Ít nhất chúng ta hăy thử làm xem sao và hăy có can đảm tiến một bước
đầu tiên đến chỗ thực hiện. Chúng ta quá nương tựa vào các vị Chân Sư đến
nỗi chúng ta cảm thấy như một vết thương khi cần phải xa cách các ngài trong
một lúc. Nếu chúng ta không thể tự lực tự cường trong sự thực hiện những
việc nhỏ, chúng ta sẽ không bao giờ thành công trong những việc lớn. Tôi
chắc rằng các vị đă từ giă chúng ta để cho chúng ta có một cơ hội chứng tỏ
khả năng của ḿnh. Vậy chúng ta hăy vượt qua sự khó khăn để thành công.
Trước khi ra đi, một bạn tôi đề nghị là tốt hơn hăy nên suy nghĩ
trước về cách hành động. Nhưng Tô Mặc đáp bằng một giọng cứng rắn:
-Không. Nếu chúng ta định đi, ta phải đi ngay tức khắc. Sau những dấu
hiệu mà chúng ta đă thấy và những diễn biến mà ta đă tham dự, chúng ta phải
hành động một cách quả quyết, nếu không, chúng ta không c̣n xứng đáng được
một sự trọng vọng nào cả!
Chúng tôi liền đi xuống các cầu thang, đi ngang qua nhiều gian pḥng,
vượt qua con đường hầm, đi xuống thung lũng và trở về làng. Trong khi chúng
tôi đi, th́ đường đi hoàn toàn được chiếu ánh sáng. Thân thể chúng tôi dường
như mất cả sức nặng, chúng tôi di chuyển một cách rất dễ dàng không hề mệt
nhọc, và trở về nhà trọ mà trong ḷng như điên lên v́ sung sướng do bởi sự
thành công này. Kể từ lúc đó cho đến khi chúng tôi rời khỏi làng, chúng tôi
có thể đi đêm ở khắp nơi tùy ư mà không cần có đèn đuốc chi cả. Những pḥng
ngủ của chúng tôi tự nhiên thắp sáng lên khi chúng tôi bước vào và tỏa ra
một sự ấm cúng và đẹp đẽ khó tả.
Chúng tôi ngủ yên giấc ngay sau đó và khi thức dậy rất trễ vào sáng
ngày hôm sau.
III
Ngày 1 tháng 4 đến rất mau chóng. Chúng tôi đă hoàn tất công việc
phiên dịch và các tài liệu và sắp sửa vẽ họa đồ những bức tượng cổ xưa tạc
trong núi đá. Công việc này được thực hiện một cách mau chóng v́ sự hứng thú
và hăng say của chúng tôi khi bắt tay vào việc.
Một buổi xế trưa, một người sứ giả đem tin đến làng. Nh́n thấy cách
mà các dân làng tựu họp chung quanh người ấy, chúng tôi hiểu rằng đó là một
biến cố khác thường. Chúng tôi bỏ dở công việc và đi xuống làng. Tại đó
chúng tôi gặp bà chủ nhà trọ cho chúng tôi biết rằng một toán quân cướp khá
đông đang có mặt ở dưới thung lũng cách đó không xa. Điều này gây cho dân
làng một sự lo ngại rất lớn, v́ từ nhiều năm nay, quân cướp thường đánh cướp
làng này. Người ta đồn rằng ngôi đền đục trong hang núi có chứa đựng một kho
tàng khổng lồ. Những mưu toan đánh cướp làng này từ trước đến nay vẫn thất
bại, và những toán quân cướp cho rằng phần lớn sự thất bại này là do bởi sức
chống cự mănh liệt của những nông dân sống ở miền thung lũng.
Hôm nay, nhiều toán quân cướp đă tập hợp nhau lại để tăng cường lực
lượng. Chẳng khác nào một đạo binh nhỏ, độ bốn ngàn quân khinh kỵ có vơ
trang khí giới đầy đủ đang tấn công miền thung lũng để đánh tan sự chống cự
của những người nông dân sống chung quanh làng. Bọn cướp hy vọng rằng chiến
lược tấn công lần này sẽ có hiệu quả hơn những lần trước.
Người sứ giả cũng kêu gọi cứu trợ giúp cho dân làng v́ nhiều người đă
bị giết, và những người khác đă sắp sửa từ bỏ mọi sự chống cự. Bà chủ nhà
chúng tôi đáp rằng trong làng không c̣n sẵn người nào để đi xuống thung
lũng. Bà nói y có thể trở về và sẽ không có ǵ xảy ra cho những người chung
quanh y. Chúng tôi lại tiếp tục làm việc mặc dầu cũng ư thức được sự lo ngại
của dân làng, và chia sẻ phần nào sự lo ngại của họ.
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi lại tiếp tục vẽ họa đồ và bổ túc công
việc thu góp tài liệu để có thể t́m thấy lịch sử của nền văn minh cổ xưa và
của một dân tộc đă từng sống trên phần đất bao la này của thế giới, nay đă
trở thành băi sa mạc hoang vu. Viễn ảnh bị mất đi những kết quả sưu tầm của
chúng tôi trong một trận đánh thư hùng với bọn cướp làm cho chúng tôi rất
đỗi lo âu. Chúng tôi bèn góp nhặt tất cả các giấy tờ đem vào trong pḥng dự
trữ tài liệu của ngôi đền, đền này đă từng thoát khỏi một loạt tấn công
tương tự của bọn cướp.
Tối hôm đó, chúng tôi cùng với bà chủ nhà mưu toan kế hoạch trợ giúp
dân làng. Chúng tôi bày tỏ sự ngạc nhiên mà không thấy các vị Chân Sư. Bà
chủ nhà nói rằng sau khi có sự cầu cứu của người đem tin, bọn cướp có lẽ sẽ
bị bắt buộc phải gián đoạn cuộc tấn công, nếu không họ sẽ tự diệt lấy họ.
Đêm đó, chúng tôi đi ngủ với ư niệm rơ rệt là nỗi lo ngại về sự an toàn của
chúng tôi thật là quá đáng.
Ngày hôm sau, chúng tôi thức dậy sớm và sắp sửa bắt tay vào việc, th́
người đem tin ngày hôm qua lại xuất hiện. Y báo tin rằng những cuộc tấn công
đám nông dân đă dứt và bọn cướp đă tập trung lực lượng ở cách đó độ ba mươi
lăm cây số, có lẽ để chuẩn bị đánh vào làng chúng ta.
Trong khi bà chủ nhà nói chuyện với người sứ giả đem tin, với một
nhóm dân làng tựu họp ở chung quanh, một người kỵ mă phóng ngựa vào làng và
chạy ngay đến chúng tôi. Trên đường y chạy vào làng, những nhóm dân làng có
vẻ nhận ra y và liền giải tán dường như v́ sợ hăi. Trong khi người kỵ mă sắp
đến gần, người sứ giả bất giác thốt ra tên y và liền chạy trốn cùng với
những dân làng khác, hiển nhiên là v́ sợ rằng bọn cướp sẽ đến nơi sau người
kỵ mă.
Chúng tôi c̣n ở lại với bà chủ nhà để đợi y đến. Y g̣ cương ngựa và
hất hàm nói với Tô Mặc một cách hiên ngang, rằng bọn cướp biết rơ chúng tôi
là người ngoại quốc và chúng tôi đến đây với mục đích ǵ. Y nói chuyện bằng
tiếng bổn xứ mà chúng tôi không hiểu ǵ cả. Nh́n thấy chúng tôi đang ngơ
ngác, y hỏi có ai thông ngôn được không. Bà chủ nhà trọ day lại đối diện với
người kỵ mă lúc ấy hăy c̣n ngồi trên lưng ngựa, và hỏi y rằng bà có thể làm
việc ấy giúp y được không? Khi y vừa thấy bà, y có vẻ như bị điện giật. Tuy
nhiên, y trấn tĩnh lại ngay để nhẩy xuống ngựa một cách gọn gàng và vừa chạy
lại vừa đưa hai tay ra trước, y kêu lên:
-Vậy ra bà ở đây?
Kế đó, y đưa hai bàn tay lên trán, quỳ xuống trước mặt bà và xin lỗi
bà.
Bà chủ nhà chúng tôi ra lệnh cho y hăy đứng dậy và bày tỏ ư muốn của
y. Chúng tôi nh́n thấy bà đứng thẳng người, và trong một lúc gương mặt bà
đổi sắc v́ nổi cơn thịnh nộ. Bà tỏ ra một cơn xúc động mănh liệt đến nỗi
người kỵ mă phải kinh hoảng. Chúng tôi cũng sợ hăi đến độ mất cả sự b́nh
tĩnh. Những danh từ “hèn nhát, đồ sát
nhân, hăy bước tới và nói rơ mi muốn ǵ “ xuất hiện trên môi của bà với
một sức mạnh kinh khủng đến nỗi người kia phải quỳ mọp sát đất. Một lần nữa,
bà lại mắng mỏ y thậm tệ:
-Đứng lên, mi quá hèn mạt đến nỗi không dám đứng dậy chăng?
Chúng tôi không ngạc nhiên v́ sự sợ hăi bi lụy của người kỵ mă, v́
cũng như y, chúng tôi hoàn toàn đứng sững như trời trồng, không dám cựa
quậy. Tôi chắc rằng nếu y có thể làm được với sức ḿnh, th́ y đă chạy vắt
gị lên cổ. Nhưng lúc ấy, cũng như chúng tôi, y không thể làm một cử động
hay thốt lên một lời. Y rơi ḿnh xuống đất như một cái xác không hồn, hai
mắt giương lên và miệng mồm há hốc.
Trong sự tiếp xúc với các vị Chân Sư có những quyền năng siêu phàm,
đây là lần đầu tiên mà chúng tôi có dịp nh́n thấy một vị bày tỏ một cơn xúc
động mạnh. Chúng tôi cũng hoảng sợ giống như tên cướp. Những rung động trong
giọng nói của bà chủ nhà làm cho chúng tôi bị chạm mạnh như sức va chạm của
một tiếng nổ dữ dội kèm theo với một cú điện giật, làm tê liệt không những
giọng nói mà luôn cả các bắp thịt của chúng tôi. Tôi không t́m thấy danh từ
nào khác để diễn tả những cảm giác của chúng tôi lúc ấy.
Có lẽ quư độc giả sẽ ngạc nhiên mà thấy những rung động xuất phát từ
một thân h́nh nhỏ thó, mảnh mai, nhẹ nhàng của bà chủ nhà lại có thể làm cho
chúng tôi bị đè bẹp và trở nên yếu đuối bất lực, nhưng sự thật là như vậy.
Tuy t́nh trạng đó chỉ kéo dài có một lúc, nhưng nó dường như lâu đến hằng
giờ trước khi trở lại b́nh thường. Chúng tôi đứng trân ḿnh như những pho
tượng và lấy làm động ḷng trắc ẩn đối với tên cướp. Chúng tôi cảm thấy sự
mong ước mănh liệt là muốn trợ giúp y bằng mọi cách. Đó là sự phản ứng chung
của tất cả chúng tôi, nhưng ngược lại chúng tôi chỉ có thể đứng sững nh́n bà
chủ nhà trân trối.
Th́nh ĺnh, mọi sự đều thay đổi. Gương mặt bà biểu lộ trước hết một
sự cứng rắn, kế đó nét mặt bà biến đổi và trở lại dịu dàng như lúc b́nh
thường. Chúng tôi cảm thấy có ḷng trắc ẩn sâu xa đến nỗi chúng tôi tất cả
đều chạy lại đỡ cái thân h́nh nằm mọp dưới đất. Bà chủ nhà cũng cúi xuống và
đưa một tay cho tên cướp. Người này giây lát đă tỉnh lại. Chúng tôi đỡ y
đứng dậy và đặt y ngồi thoải mái trên một chiếc ghế dài gần đó. Y nhất định
từ chối không bước vào bất cứ nhà nào. Bà chủ nhà khi đó mới nhận thấy cái
ảnh hưởng mà bà đă gây cho chúng tôi, bèn tỏ lời hối tiếc về cơn thịnh nộ
quyết liệt của bà. Chúng tôi vẫn c̣n run rẩy khắp thân ḿnh, và một chập sau
đó mới trấn tĩnh tinh thần lại được.
Bà giải thích rằng người kỵ mă là tên đầu đảng của một bọn cướp khét
tiếng trong vùng này của đồng sa mạc Gobi. Một vài người rất hiếm biết được
tên y, gọi là tên "Cướp Đen", chỉ
dám thốt ra tên ấy một cách sợ hăi v́ mọi người đều biết y là một kẻ cướp
rất bạo tàn, không biết thương xót ai cả.
Bà chủ nhà chúng tôi đă có dịp tiếp xúc với người này trong hai lần
tấn công bị thất bại của bọn cướp. Mỗi lần như vậy, y đă tỏ ra một sự thù
hận sâu xa đối với bà và đối với các vị Chân Sư nói chung. Thỉnh thoảng y đă
gởi đến các Ngài những bức thông điệp với lời lẽ đầy căm hờn mà các Ngài
không hề để ư đến. Sự xuất hiện th́nh ĺnh của y đă nhắc nhở cho bà chủ nhà
những hành động bất hảo trong quá khứ của y một cách rơ rệt đến nỗi bà đă
mất b́nh tĩnh trong một lúc. Nhưng bà liền trấn tĩnh lại và bước đến gần
người ấy.
Khi bà đến gần, y toan đứng dậy nhưng không thể làm ǵ khác hơn là
thu h́nh để ngồi ngay ngắn hơn một chút, với một vẻ mặt kinh khiếp sợ hăi
đến cực độ. Sự căm hận toát ra từ mọi cử chỉ của y, thân ḿnh y run rẩy lập
cập như người bị chứng liệt bại. Bà chủ nhà chúng tôi tỏ ra một dáng điệu
trái ngược hẳn với y, v́ bà đă lấy lại được sự b́nh tĩnh và không c̣n tỏ ra
một dấu hiệu xúc động nào.
Chúng tôi có ư nghĩ đem người kia đi. Trước khi chúng tôi có thể thốt
ra lời, bà chủ nhà đă đọc được tư tưởng chúng tôi và đưa tay lên để yêu cầu
chúng tôi giữ im lặng. Tô Mặc hiểu rằng bà đảm đương trách nhiệm của t́nh
h́nh lúc ấy, và những ǵ mà chúng tôi làm chỉ đưa đến việc đặt bà trong một
t́nh thế khó xử. Chúng tôi bèn rút lui cách đó một quăng xa. Bà nói chuyện
với người ấy bằng một giọng thấp nhỏ và êm đềm trong một lúc khá lâu trước
khi nhận được sự trả lời.
Khi người ấy bắt đầu trả lời, bà chủ nhà bèn ra dấu cho chúng tôi
bước lại gần. Chúng tôi ngồi xuống đất trước mặt hai người và lấy làm sung
sướng mà có thể làm một cử chỉ khả dĩ đưa đến sự bớt căng thẳng. Tên cướp
giải thích rằng y được các tên chúa đảng đề cử y đến với tư cách một sứ giả
ḥa b́nh để thương thuyết việc giao nạp kho tàng của cải mà họ nghi rằng
đang được chôn dấu trong ngôi đền khoét trong hang núi. Nếu dân làng chịu
đem nạp cái kho tàng ấy, bọn cướp hứa sẽ không đánh phá họ nữa và sẽ thả hết
các dân làng bị cầm tù mà theo y cho biết th́ có đến trên ba ngàn người. Họ
cũng hứa sẽ rời khỏi xứ này và không bao giờ c̣n làm hại những người dân
sống ở miền thung lũng.
Bà chủ nhà chúng tôi giải thích cho y biết rằng trong đền không có
một kho tàng nào có một giá trị ǵ đối với bọn cướp. Bà cho y biết nhiều chi
tiết và đề nghị đưa y đi xem tất cả các gian pḥng trong đền hoặc bất cứ nơi
nào y muốn. Y từ chối hẳn, v́ sợ rằng bị giữ lại làm con tin. Không một lời
đảm bảo nào của chúng tôi có thể thuyết phục được y. Bà chủ nhà xác nhận với
y sự thành thật của chúng tôi, và y liền tin ngay.
Nhưng khi đó y đang ở vào một t́nh thế khó xử v́ y là kẻ chủ mưu vụ
đánh cướp này. Chính y đă khêu gợi óc tưởng tượng của bọn cướp và làm cho
chúng có nhiệt hứng để đánh cướp kho tàng. Y đă diễn tả một cách linh động
và hấp dẫn những kho của cải dồi dào bất tận nó sẽ về tay chúng nếu chúng
thành công. Thật vậy, chính sự hứa hẹn kho tàng đă làm cho cha y và y có thể
duy tŕ sự đoàn kết trong bọn cướp. Y là tên đầu đảng của một trong năm toán
cướp đang tập trung lực lượng để phát động cuộc tấn công.
T́nh h́nh đă đi đến chỗ bí lối. Nếu y trở về toán cướp của y với cái
tin tức không có kho tàng, chúng sẽ lên án y ngay như một kẻ phản bội và sẽ
đối xử với y một cách tương xứng. Như vậy, y sẽ không thể ngăn cấm bọn cướp
mở cuộc tấn công, v́ sau tất cả những cố gắng mà y đă làm để đưa cuộc chuẩn
bị đến giai đoạn hiện tại, người ta sẽ không c̣n tin tưởng nơi y nữa. Y thật
là bị lâm vào một t́nh thế rất khó khăn.
Trước sự vô cùng ngạc nhiên của chúng tôi, bà chủ nhà t́nh nguyện đưa
y về trại. Bất chấp những lời can gián của chúng tôi, bà muốn đi ngay lập
tức. Bà trấn an chúng tôi rằng không có ǵ nguy hiểm nếu bà đi một ḿnh,
nhưng nếu có chúng tôi đi theo, th́ bọn cướp sẽ nghi kỵ và tất cả chúng tôi
sẽ bị lâm nguy. Chúng tôi bèn lẳng lặng tuân theo v́ không thể làm ǵ khác
hơn.
Tên tướng cướp bèn lên ngựa, và chúng tôi đỡ bà chủ nhà lên ngồi trên
yên ngựa phía sau tên cướp, trên một tấm yên thứ nh́ đă sắp đặt sẵn. Hai
người ra khỏi làng, bày trước mắt chúng tôi một cảnh tượng khó quên nó sẽ
luôn luôn sống động trong kư ức chúng tôi đến tận muôn đời: tên cướp với
những nét mặt tỏ vẻ nghi ngờ, c̣n bà chủ nhà quay lại mỉm cười và thản nhiên
nói với chúng tôi rằng bà sẽ trở về vào lúc chiều tối.
Suốt những giờ c̣n lại trong ngày hôm đó, chúng tôi không c̣n hứng
thú để làm việc, và đi thẩn thơ vô định chung quanh làng cho đến lúc xế
chiều. Sau đó chúng tôi trở về nhà trọ để đợi bà chủ nhà. Về đến nơi chúng
tôi thấy trên bàn đă có bày những thức ăn ngon lành. Quư vị độc giả thử
tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng tôi đến bực nào khi chúng tôi thấy bà
chủ nhà ngồi nơi đầu bàn với nét mặt tươi cười hồn nhiên như mọi ngày. Chúng
tôi đứng sững sờ trong im lặng. Bà lấy dáng trang trọng và nói với một giọng
hơi chế diễu:
-Các bạn hỡi, người ta thường chào hỏi nhau khi bước chân vào nhà.
Khi đó, chúng tôi mới nghiêng ḿnh và t́m thấy lại giọng nói để thốt
ra tiếng chào bà.
Bà nói tiếp:
-Tôi đă hoàn toàn thất bại trong mưu toan thuyết phục bọn cướp, nhưng
bọn họ đồng ư với nhau là hứa sẽ trả lời tôi trong ṿng ba ngày. Bây giờ tôi
biết rằng sự trả lời của họ sẽ là khởi một cuộc tấn công, v́ không ǵ có thể
ngăn cản bọn chúng được nữa.
Tôi nghĩ rằng mỗi người trong chúng ta chắc phải có lúc nghĩ đến sự
công b́nh thiêng liêng để t́m thấy đức tin vững chắc hầu có vượt qua những
lúc khó khăn nguy hiểm trong đời.
CHƯƠNG
TÁM
Một đêm yên tịnh
với Đức Jesus - Luồng bạch quang tinh anh - Bốn ngàn kỵ mă tấn công vào làng
_Bức tường rào mầu nhiệm _ Trung tâm huyền bí Shamballa -Yết kiến Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma
-Các Tu Sĩ Ta Bà - Vị Đệ Tử cười - Ngôi đền Pora-tat-Sanga - Chuyến đi trở
về.
I
Sau bữa cơm, chúng tôi đứng dậy và bà chủ nhà đưa chúng tôi ra vườn.
Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy Đức Jesus, đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và Bút
Già đă ngồi sẵn tại đó. Chúng tôi bèn ngồi xuống bên cạnh các vị và liền cảm
thấy một sự thoải mái bằng an khôn tả nó cho chúng tôi hiểu rằng từ đây cuộc
đời chúng tôi c̣n phải nương tựa vào các Chân Sư biết là bao nhiêu. Chúng
tôi đă ràng buộc chặt chẽ với các Ngài dường như bởi những sợi dây sắt. Tôi
nhận thấy rằng đó không phải là một điều tốt. Mỗi người trong chúng ta cần
phải thực hiện cái vai tṛ nhất định của ḿnh trên sân khấu lớn của cuộc
đời, để cho không ai trở nên một con người bù nh́n, thụ động. Tôi hiểu rằng
nếu chúng tôi không thể đứng vững mà không cần ai trợ giúp, hay không thể
trông cậy ở tự nơi ḿnh, th́ các Ngài sẽ bắt buộc phải cắt đứt mọi sự liên
lạc. Sau đó, Tô Mặc đă có dịp nêu ra vấn đề này một cách hoàn toàn thành
thực và cởi mở.
Mặt trời vừa khuất bóng, ánh tà dương c̣n tô màu lên cảnh vật lúc
trời chiều, bày ra một sự phong phú màu sắc và một vẻ đẹp khôn tả. Không một
ngọn gió thổi, không một tiếng động làm gián đoạn sự yên tĩnh chung quanh
chúng tôi. Sự sợ sệt về bọn cướp cho đến lúc ấy vẫn đè nặng trong ḷng chúng
tôi, cũng đă hoàn toàn biến mất. Cảnh vật chung quanh thật là yên tĩnh, và
chúng tôi ư thức một cảm giác hoàn toàn thoải mái lạ thường. Chúng tôi dường
như tự thả trôi theo gịng thời gian một cách vô tư, không màng ǵ đến ngày
mai.
Th́nh ĺnh, dường như chúng tôi cảm thấy ḿnh nghe giọng nói của Đức
Jesus, nhưng không thốt ra bằng lời. Một loại ảnh hưởng rung động nhịp nhàng
đến với chúng tôi thay v́ những lời nói. Tôi không biết dùng danh từ nào
khác để diễn tả điều ấy. Ảnh hưởng này c̣n sâu đậm và rơ rệt hơn nhiều so
với ảnh hưởng của lời nói. Nhịp độ của nó thật là không thể tả nổi. Đó thật
là một kinh nghiệm hoàn toàn mới lạ đối với chúng tôi. Những ư tưởng dường
như tràn ngập chung quanh và tồn tại trong trí chúng tôi. Khi những ư nghĩ
vừa đến, chúng tôi bèn chép ra bằng tốc kư, rồi sau đó diễn dịch ra thành
từng lời, từng câu. Sau cùng, chúng tôi đem tŕnh lên cho các vị Chân Sư
duyệt xét.
Những tư tưởng đó được ghi chép lại như sau:
-Khi tôi nói: "Đây là Đấng
Christ của Chúa Trời," tôi thấy xuất hiện ra Người của Chúa Trời. Tôi
thấy thể xác tôi như cái linh điện của Chúa Trời, cái khí cụ, cái vận hà
toàn hảo xuyên qua đó cái Nguyên Lư Sáng Tạo vĩ đại được biểu lộ tự do. Khi
tôi nhận định rằng tôi là trời,
trong trạng thái đó, tôi làm chủ của mọi t́nh h́nh và tôi biểu lộ điều mà
tôi sùng kính. Tôi không bao giờ có thể biểu lộ Chúa Trời nếu cái Chân Ngă
của tôi không thể hiện được Chúa Trời cho toàn thể nhân loại. Trong cái thái
độ tích cực đó, người ta chế ngự tất cả mọi hoàn cảnh. Chân Ngă đă toàn
thắng. Chúa Trời và con người cùng là
một.
Một bạn trong chúng tôi suy nghĩ một lúc rồi hỏi:
-Làm sao chúng tôi có thể biểu lộ cái Nguyên Lư đó và sử dụng nó trên
thực tế?
-Hăy để cho thể xác của bạn trở nên một cái động cơ xuyên qua đó luân
chuyển cái Nguyên Lư Sáng Tạo vĩ đại, nó là sự phát huy của mọi quyền năng.
Khi đó, thể xác của bạn sẽ tác động như một cái máy phát điện. Nó sẽ thu
thập và tăng trưởng luồng tinh lực, và bạn sẽ xuất phát nó ra dưới h́nh thức
những tia bạch quang tinh anh sáng suốt không ǵ có thể cưỡng lại nổi. Trong
t́nh trạng đó, không một hành động thù nghịch nào của đối phương có thể làm
hại bạn. Bạn cũng có thể phóng dọc theo những tia sáng đó những luồng điện
lực mănh liệt đến nỗi nó sẽ tiêu diệt cái thể xác của kẻ nào muốn làm hại
bạn. Kẻ nào cưỡng lại luồng tinh lực đó, càng làm tăng gia mănh lực của nó.
Người nào dùng ư muốn ích kỷ của ḿnh mà chống lại nó, sẽ tự diệt lấy họ.
Nếu không ai cưỡng lại cái sức mạnh đó, nó sẽ toát ra một ảnh hưởng tốt lành
xuyên qua người xuất phát và người thọ lănh lấy nó.
Đó là cái tia sáng tinh khiết của Thượng Đế. Sự rung động của nó diễn
ra trên một nhịp độ cao nhất, tất cả những người nào chấp nhận nó sẽ cùng có
một rung động điều ḥa và hoàn toàn đồng nhịp. Không một tai họa nào có thể
xảy đến cho họ, v́ họ rung động cùng một nhịp với Thượng Đế. Không có ǵ có
thể làm hại được người nào thọ lănh sự rung động của Thượng Đế. Rung động,
tức là sống. Bây giờ bạn thấy bằng cách nào bạn vẫn luôn luôn sống với
Thượng Đế chăng? Trong trạng thái đó, không c̣n có thể nào có sự chia rẽ
cách biệt. Sự cách biệt duy nhất là sự cưỡng nghịch lại, nguyên nhân của sự
bất điều ḥa.
Không có sự ǵ xấu xa có thể đến gần bạn khi bạn hợp nhất với Thượng
Đế. Đó không c̣n phải là một đặc ân cho một số ít người, mà là một triển
vọng cho tất cả. Chừng đó, tất cả đều sống theo Luật Trời, theo gịng tư
tưởng rung động với một nhịp độ cao nhất. Không một rung động xấu xa nào có
thể đạt tới nhịp độ đó, hoặc xâm nhập vào cái cơi giới mà tất cả mọi người
đều sống yên lành, đó tức là Cơi Trời của họ.
Người ta cũng có thể dùng cái quyền năng đó để xua đuổi những tư
tưởng xấu và những ác ư của thiên hạ nhắm vào ḿnh. Nếu bạn muốn, bạn cũng
có thể tăng cường cái tia bạch quang thiêng liêng đó, gán cho nó cái quyền
năng của Thượng Đế, nới rộng và biến đổi tinh lực của cái tư tưởng xấu nhắm
vào ḿnh bạn, rồi đặt nó trong tấm gương phản chiếu của bạn và gởi trả lại
cho đối phương với tốc lực của ánh sáng. Những tư tưởng nhắm vào ḿnh bạn
với một nhịp độ rung động hạ thấp, bị trả lại dưới h́nh thức một tia bạch
quang tinh anh. Mănh lực của các tia sáng này mạnh mẽ đến nỗi, khi nó trở về
nguyên quán, nó có thể tiêu diệt thể xác của người đă phóng ra cái tư tưởng
xấu xa nói trên. Dầu bạn có biết hay không biết cái nguồn gốc hay địa điểm
xuất phát luồng tư tưởng đó, nó vẫn quay trở về nguyên quán một cách chắc
chắn.
Người ta có thể biến đổi cái quyền năng của Thượng Đế và phóng nó ra
ngoài với một cường độ mănh liệt không thể cưỡng nổi. Đó là những tia bạch
quang mà các bạn thấy toát ra từ thân ḿnh tôi. Thân thể các bạn cũng toát
ra những tia sáng đó, ngưng không mạnh bằng. Khi các bạn tiếp tục sử dụng
cái quyền năng đó và kết hợp nó với cái Nguyên Lư Sáng Tạo, các bạn sẽ tăng
thêm cường độ ánh sáng của ḿnh và có thể dùng nó để thực hiện mọi điều ước
vọng, tốt lành tùy ư muốn.
Bây giờ, bạn hăy tăng cường tia bạch quang đó, và hăy gởi đến nó cái
sức mạnh của Thượng Đế. Hăy truyền vào nó một mănh lực mạnh gấp mười ngàn
lần hay mười triệu lần cái sức mạnh của tư tưởng mà người ta nhắm vào bạn.
Kế đó, hăy để cho tia bạch quang ấy quay trở về nguyên quán của nó. Khi
người muốn hại bạn nhận tia sáng ấy trở về và chấp nhận nó như một vật của
Thượng Đế, th́ mọi ác ư sẽ được xóa bỏ, tha thứ và quên lăng. Không ǵ có
thể làm hại bạn hay làm hại kẻ đă phóng ra luồng tư tưởng xấu. Bạn và người
ấy, cả hai đều b́nh đẳng trước Thượng Đế. Cả hai đều là một, và một sự điều
ḥa tuyệt đối đă thay thế cho sự bất ḥa.
Trái lại, nếu người phóng ra luồng tư tưởng xấu không nhận tia bạch
quang mà bạn đă gởi trả về nguyên quán với một cường độ tăng lên gấp bội
phần, th́ thể xác y sẽ bị tiêu diệt. Nếu người ta để cho tia bạch quang ấy
hoàn tất công việc của nó, nó sẽ hủy diệt tất cả mọi sự rung động trái
ngược. Nếu cưỡng lại nó, th́ đương sự chắc chắn sẽ bị tiêu diệt. Y tự chuốc
vào ḿnh sự chống đối của toàn thể sức mạnh sáng tạo.
Dưới khía cạnh đó, bạn tiêu biểu cho Thượng Đế bằng cách ban rải sức
mạnh thiêng liêng, theo định luật dĩ đức báo oán. Nhưng dẫu cho với thái độ
đó, bạn hăy thành thật, nhỏ nhoi, khiêm tốn, và
đừng xét đoán ai cả. Hăy đặt trọn
hết t́nh thương trên luồng bạch quang đó và coi nó như t́nh thương của
Thượng Đế. Khi bạn làm như thế, th́ hằng muôn ngh́n Thiên Thần sẽ tùng phục
theo ư muốn của bạn. Bạn cứ giữ một mực hiền lành, khiêm tốn, tuân theo Luật
Trời và ánh sáng của Thượng Đế, tức là sự sống, t́nh thương, sự tinh khiết
và mỹ lệ thiêng liêng trường cửu muôn đời.
Thể xác con người chứa đựng bảy trung tâm bí yếu (tiếng
Phạn gọi là Chakra =luân xa), có thể sử dụng như những tấm gương phản
chiếu. Người ta có thể làm cho chúng chiếu một ánh sáng rực rỡ hơn gấp bội
phần bất cứ một loại ánh sáng giả tạo nào. Khi người ta muốn phát ra ánh
sáng đó, nó sẽ chiếu sáng với một cường độ mạnh mẽ hơn và có tác dụng lớn
lao hơn cả những ngọn đèn điện 100 watts. Nếu người ta làm cho tất cả bảy
trung tâm đều chiếu sáng cùng một lượt, th́ người ta được hoàn toàn bao phủ
bởi một tấm giáp sắt không thể chọc thủng. Thể xác người ấy sẽ chiếu bằng
một thứ ánh sáng mạnh hơn gấp bội ánh sáng của ngôi mặt trời giữa trưa.
Người ấy đứng trước đấng Thiêng Liêng, Sáng Tạo ra muôn loài...
Trong khi những tư tưởng đó đến với chúng tôi bằng những âm ba rung
động, ánh hào quang toát ra từ Đức Jesus và các vị siêu nhân trở nên chói
ḷa. Những làn sóng tư tưởng ấy lại tiếp tục:
-Nếu bọn cướp này vẫn ngoan cố trong ư định đánh phá thôn ấp, rốt
cuộc chúng sẽ tự diệt lấy nhau. Cơ hội đă được đưa đến cho họ để rời khỏi
làng mà không làm hại đến dân chúng. Nếu họ không đón nhận cơ hội ấy, họ sẽ
quay trở lại để giết nhau. Người ta không thể mưu toan tiêu diệt kẻ đồng
loại mà không chuốc lấy điều tai họa tương tự vào ḿnh. Chúng ta chỉ gởi đến
cho bọn cướp ấy luồng bạch quang tinh khiết của t́nh bác ái thiêng liêng.
Nếu họ đáp lại t́nh thương bằng sự hận thù, sự phản bội, hay sự báo oán, th́
họ sẽ tự ḿnh biến đổi luồng bạch quang tinh anh đó thành một ngọn lửa nó sẽ
tiêu diệt lấy họ. Các bạn đừng sợ sệt ǵ cả. Chúng ta chỉ ban rải t́nh
thương, nhưng chúng ta không thể ép buộc họ chấp nhận. Nếu bọn cướp đến đây
với t́nh thương, th́ sẽ không có sự xung đột. Dầu sao, th́ chánh nghĩa của
chúng ta đă thắng.
Đến đây, chúng tôi được thông báo rằng một người đem tin đă đến gần
làng. Chúng tôi bước ra đón tiếp y và được cho biết rằng bọn cướp đă chấm
dứt cuộc đánh phá và cắm trại một cách yên ổn ở cách đó độ ba mươi lăm cây
số. Từ khi có sự kêu gọi cứu trợ của dân làng, họ đă ngưng mọi sự cướp bóc
và đánh phá, nhưng họ c̣n giữ các tù binh làm con tin trong trường hợp có sự
kháng cự bằng vơ lực. Theo người sứ giả đem tin tức, th́ có tin đồn rằng bọn
cướp sẽ tấn công vào làng ngày hôm sau hay hôm sau nữa, nếu của cải kho tàng
không được đem nạp cho họ. Y cũng chuyển đạt lời chào hỏi của các tù binh.
Tất cả dân làng đều t́nh nguyện hy sinh tánh mạng để bảo vệ làng, nhưng
người sứ giả được cho biết rằng sự hy sinh đó sẽ không cần thiết. Y được mời
hăy trở về nhà với những lời cám ơn và sự biết ơn sâu xa của dân làng về
những cố gắng của y v́ mục đích bảo vệ chung cho tất cả mọi người.
II
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi đă t́m thấy lại sự hứng khởi trong việc
làm, và mọi tư tưởng sợ sệt đều đă biến mất. Ngày kế đó, chúng tôi đang
nghiên cứu một vài h́nh tượng khắc trên những tảng đá của hang núi, th́
chúng tôi bèn lưu ư đến người canh tuần của làng. Người này đứng ở phía bên
kia hang núi trên một vị thế cao hơn chỗ chúng tôi đứng, và như vậy y có thể
quan sát cùng khắp trên một vùng rộng lớn hơn nhiều. Nh́n xuyên qua ống ḍm,
chúng tôi thấy người ấy đang làm dấu báo động cho làng. Không bao lâu, chúng
tôi thấy dân làng chạy náo động tứ phía và hiển nhiên là họ t́m nơi trú ẩn
trong những hang động sâu thẳm của vùng núi non hẻo lánh này. Tất cả đều tỏ
vẻ vô cùng xao xuyến và náo động.
Chúng tôi lắng tai và nghe thấy tiếng ồn ào như sấm động từ đằng xa
vọng lại của bọn cướp đang tiến tới. Một người trong chúng tôi trèo lên cao
hơn một chút nữa để quan sát t́nh h́nh. Y kêu gọi chúng tôi và nói y nh́n
thấy đám mây bụi bay lấp đầu dậy lên bởi đoàn kỵ mă đang phi nước đại tiến
về phía hang núi.
Chúng tôi đem cất dấu đồ dụng cụ của ḿnh trong một khe đá ở gần bên,
và t́m nơi trú ẩn trong những khe núi chớn chở, từ đó chúng tôi có thể quan
sát những động tịnh của bọn cướp. Đoàn kỵ mă ngừng lại ở chỗ cửa vào hang
núi. Năm chục tên cướp đi tiên phong phi ngựa tiến lên phía trước, kế đó tất
cả bọn đều quất ngựa phóng nước đại chạy vào hang. Tiếng vó ngựa chạy dồn
dập cùng với những tiếng ḥ hét vang rân hợp thành một khúc ḥa tấu rùng rợn
khôn tả.
Chúng tôi chiếm một vị thế rất thuận lợi, v́ những vách núi đều hầu
như dựng đứng như vách thành. Chúng tôi có thể nh́n xuống dưới hang núi và
xem thấy bọn cướp tiến tới như nước vỡ bờ, không có ǵ ngăn cản nổi. Đoàn
quân tiên phong đă vượt khỏi chỗ vị trí của chúng tôi, và những người kỵ mă
đi đầu của đoàn trung quân đă tiến lên rất mau. Chúng tôi lấy ống ḍm nh́n
trở về làng th́ thấy dân làng đă bị náo loạn trong cơn khủng khiếp.
Chúng tôi cũng thấy một đoàn viên trong bọn chúng tôi đứng trên bao
lơn của ngôi đền. Y ngưng làm việc để nh́n xem bọn cướp đang tiến tới. Kế đó
y quay lại và nh́n về phía cửa vào sảnh đường chính của ngôi đền. Đức jesus
xuất hiện từ trong cửa đó và bước ra. Ngài đi thẳng đến bao lơn và đứng yên
trong một lúc, trong một tư thế oai nghiêm như một pho tượng.
Tất cả những ống ḍm của chúng tôi lẽ tự nhiên là nhắm tập trung về
Ngài. Bao lơn cách xa chỗ chúng tôi trú ẩn đến năm cây số và ở độ ba trăm
thước cao hơn. Chúng tôi nhận thấy Ngài đang nói chuyện và lời nói của Ngài
vọng đến chúng tôi thật rơ ràng. Người đoàn viên đứng trên bao lơn bèn ngồi
xuống để ghi chép lời Ngài bằng tốc kư. Tôi cũng làm như vậy. Một sự phối
kiểm về sau đó cho chúng tôi biết rằng lời nói của Đức Jesus đă lấn át hẳn
tiếng động ồn ào của bọn cướp đang phi ngựa tiến tới. Tuy nhiên, chúng tôi
được biết rằng Ngài không hề nói lớn hơn lúc b́nh thường, cũng không hề thay
đổi âm điệu thường nhật của Ngài.
Khi Đức Jesus vừa cất tiếng nói, tất cả dân làng đều hoàn toàn im
lặng. Dưới đây là những lời Ngài nói mà về sau chúng tôi có đưa cho Ngài
duyệt xét lại. Tôi chỉ có một ước vọng sâu xa nhất, là đừng bao giờ quên
những lời nói ấy, dẫu cho tôi phải sống đến mười ngàn năm.
ÁNH SÁNG
"Trong khi tôi đứng một ḿnh trong cơn im lặng vĩ đại của Chúa Trời,
một ánh sáng tinh anh chiếu diệu trong ḷng tôi và thấm nhuần mỗi nguyên tử
của thân thể tôi. Sự Sống, T́nh Thương, Sức Mạnh, Sự Tinh Khiết, Sự Mỹ Lệ và
Toàn Thiện ngự trị nơi tôi một cách tuyệt đối. Trong khi tôi nh́n vào trung
tâm của ánh sáng đó, tôi thấy một ánh sáng khác, lỏng, dịu, trắng vàng, và
tinh anh sáng suốt một cách tuyệt diệu, nó nuôi dưỡng và phát huy ánh lửa
mơn trớn của luồng ánh sáng vĩ đại nói trên. Bây giờ tôi biết rằng tôi là
một với Chúa Trời, và hợp nhất với toàn thể vũ trụ của Ngài...
Khi đức Jesus
vừa nói xong, một tia bạch quang sáng rỡ chói ḷa từ nơi bí huyệt của quả
tim Ngài phóng ra xa đến tận hang núi và chấm dứt ở chỗ khúc quanh về bên
trái, ngay trước mặt đoàn quân tiên phong của bọn cướp. Một bức tường rào
lớn trong giây lát đă dựng lên như vách thành ở ngay chỗ ấy, với những mũi
nhọn chơm chởm túa ra như những mũi tên. Những con ngựa ở hàng đầu đang
phóng nước đại như bay tới trước, hốt nhiên nhảy dựng lại th́nh ĺnh làm cho
một số lớn những kỵ mă tiên phong bị hất văng xuống đất. Nhiều con ngựa nhảy
dựng và đứng sững trên hai chân sau trong một lúc, rồi quay đầu chạy trở lại
cửa hang, đi ngược chiều với toàn thể bọn cướp ở đạo trung quân. Khi chúng
đến gần đạo quân này, những kỵ mă c̣n chưa bị té ngựa cố gắng kềm hăm ngựa
của họ, nhưng vô ích. Cùng với những con ngựa vô chủ phóng tới như điên, họ
chạm trán với bọn cướp đi trung quân, làm cho những hàng đầu của đạo quân
này bị lỡ trớn và đứng khựng lại. Những hàng kế đó, không biết có sự hiểm
nguy, vẫn phóng nước đại tiến vào đám người hỗn độn nói trên, và trong hang
núi lúc ấy hiện ra cái cảnh tượng của một đám người ngựa lộn xộn và mất trật
tự, không c̣n hàng ngũ kỷ cương ǵ cả.
Trong một lúc, có một sự im lặng của nhà mồ, chỉ gián đoạn bởi những
tiếng thét rú lên của những người kỵ mă trong cơn khủng khiếp và tiếng ngựa
hí thất thanh. Kế đó diễn ra một cảnh tượng rùng rợn ở ngay tại chỗ khi mà
đoàn quân tiền phong hoảng kinh quay đầu trở lại, bị chạm trán với những
hàng quân đầu tiên của bọn cướp ở đạo trung quân. Những con ngựa không người
cỡi, trong cơn hoảng hốt, đă phóng vào đám rừng người, làm cho một số lớn
những người kỵ mă bị trật yên và hất văng xuống đất. Những con ngựa của họ
lại trở thành vô chủ, không người kềm chế, và càng làm tăng thêm sự hỗn loạn.
Chúng nó bắt đầu hí vang, nhảy vọt bên tả bên hữu, và thét rú lên từng hồi
trong cơn hăi hùng và khủng khiếp tột độ. Kế đó, cơn hỗn loạn lan tràn khắp
cả bọn cướp đang bị lúng túng và bế tắc lưu thông trong hang núi ở phía dưới
chúng tôi.
Th́nh ĺnh chúng tôi thấy những người kỵ mă tuốt gươm trần ra khỏi vỏ
và chém loạn xạ tứ phía. Những người khác rút súng bắn vào đám người ngựa
với ư định khai đàng huyết lộ để thoát thân. Không bao lâu, cảnh tượng đó đă
biến thành một trận giặc thư hùng, chỉ có những kẻ mạnh nhất được sống sót.
Trận giặc chấm dứt bằng sự đổ xô nhau để chiếm những khoảng trống, giữa
những kẻ có cái may mắn thoát khỏi cơn chém giết vừa qua. Họ rời khỏi hang
núi và để lại những đống xác người ngựa đă chết hoặc bị thương.
Chúng tôi hối hả đi xuống để t́m cách trợ giúp tối đa cho những kẻ bị
thương. Tất cả dân làng và các vị siêu nhân đều tiếp tay với chúng tôi.
Những sứ giả được gởi đi khắp bốn phía để cầu sự trợ giúp. Chúng tôi làm
việc ráo riết suốt đêm và cho đến sáng ngày hôm sau. Đức Jesus và các Chân
Sư bổn thân săn sóc những kẻ bị thương khi chúng tôi vừa đem họ ra khỏi đống
thịt người ngựa hỗn tạp, có kẻ sống lẫn người chết. Khi chúng tôi đă cứu trợ
tất cả cho đến người cuối cùng, chúng tôi trở về quán trọ để ăn sáng. Vừa
bước vào nhà trọ, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy tên Cướp Đen đang
ngồi nói chuyện với đức Tuệ Minh. Cho đến khi đó, chúng tôi không hề hay
biết ǵ về sự có mặt của đức Tuệ Minh. Ngài nhận thấy cái nh́n ngạc nhiên
của chúng tôi và nói:
-Chúng ta sẽ nói chuyện lại sau.
Sau bữa ăn sáng, chúng tôi bèn ra ngoài cùng với Tô Mặc. Tô Mặc cho
biết rằng đức Tuệ Minh và y đă t́m thấy tên Cướp Đen bị thương nặng và không
thể cử động được nữa, v́ tên cướp bị ngựa đè lên ḿnh. hai vị đă kéo tên
cướp ra và chở y đến một nơi tạm trú, tại đây y được dành cho tất cả mọi
tiện nghi có thể t́m được. Kế đó hai vị kêu gọi đến sự giúp đỡ của bà chủ
nhà trọ chúng tôi và giao tên cướp cho bà chăm sóc. Khi những vết thương của
y được băng bó xong, y yêu cầu bà chủ nhà cầu xin với đức Chúa Trời cho y
biết y phải làm ǵ để được cứu rỗi. Y cũng xin bà hăy dạy cho y biết đọc
kinh cầu nguyện.
Bà hỏi y có muốn b́nh phục sức khỏe chăng. Y đáp:
-Có, tôi muốn được hoàn toàn lành mạnh cũng như bà.
Bà chủ nhà nói:
-Bây giờ anh cầu xin được có sức khỏe, lời cầu xin của anh đă được
đáp ứng. Anh sẽ được hoàn toàn lành mạnh.
Kế đó, tên cướp nằm thiếp đi trong một cơn ngủ mê li b́. Đến nửa đêm,
những vết thương của y đă hoàn toàn khép kín và không để lại một cái thẹo
nhỏ nào. Tô Mặc đă nhận thấy điều này khi y đi canh tuần lúc ban đêm. Tên
cướp bèn đứng dậy, mặc y phục vào, và t́nh nguyện giúp một tay cứu trợ cho
những kẻ thoát nạn.
Chúng tôi cũng thấy một số đông bọn cướp được hoàn toàn b́nh phục mà
trước đó chúng tôi nghĩ rằng họ không sao qua khỏi. Khi công việc cứu trợ
kết thúc, tên Cướp Đen len lỏi trong đám đồng bọn bị thương và cố gắng hết
sức để an ủi và trấn tĩnh tinh thần họ. Nhiều người giống như những con thú
bị gài bẫy, họ lo sợ bị tra tấn đến chết, v́ đó là cách đàn áp những kẻ cướp
bị sa lưới theo phong tục bổn xứ. Ư nghĩ đó ăn sâu vào trí óc họ đến nỗi họ
không có một sự phản ứng tốt lành nào đối với những cách đối xử nhân đạo mà
người ta dành cho họ.Họ sợ rằng những cố gắng của chúng tôi để giúp họ mau
b́nh phục sức khỏe, chỉ có mục đích là để cho chúng tôi có thể tra tấn họ
lâu dài hơn. Sau cùng, tất cả đều đă khỏi bịnh, tuy rằng một số ít đă kéo
dài bịnh tật dây dưa trong nhiều tháng với niềm hy vọng rơ rệt không dấu
diếm rằng nhờ đó họ có thể đ́nh hoăn lại ngày tra tấn của họ.
Ít lâu sau đó, tên Cướp Đen quy tựu tất cả những tên "cựu
thương binh" nào t́nh nguyện theo y để thành lập một toán quân bảo vệ
làng mạc chống lại những cuộc tấn công của bọn cướp về sau này. Y cũng chiêu
mộ được nhiều dân làng gia nhập vào toán quân đó. Về sau chúng tôi được biết
rằng kể từ ngày đó, những bọn cướp không c̣n đánh phá vùng này nữa. Hai toán
đoàn viên của phái đoàn chúng tôi rốt cuộc đă vượt qua vùng lănh thổ này
trên lộ tŕnh của họ đi đến vùng sa mạc Gobi. Tên Cướp Đen và đồng bọn đă hộ
tống và bảo vệ an ninh cho phái đoàn trong vùng địa phận của họ và vùng lân
cận, ít nhất trên bảy trăm cây số đường trường, và không một người nào muốn
nhận tiền thù lao về công việc đó.
Chúng tôi c̣n thường nghe nói về tên Cướp Đen. Y đă phát triển nhiều
công việc từ thiện và cứu trợ trong toàn thể vùng này và dành trọn cuộc đời
để giúp đỡ cho dân chúng được sống yên lành hạnh phúc mà không hề nhận tiền
bạc của ai.
III
Ngày thứ hai sau khi bọn cướp đă bị tiêu diệt, vào lúc trưa, chúng
tôi đă săn sóc hết tất cả những kẻ bị thương và đă đi quan sát một lần cuối
cùng để biết chắc rằng không một người nào c̣n bị bỏ sót lại trong hang núi
giữa đống xác người ngựa nằm ngổn ngang la liệt như băi chiến trường. Trong
khi chúng tôi trở về quán trọ để ăn điểm tâm và nghỉ ngơi, một người trong
bọn cất tiếng nói lên cái ư nghĩ nó vẫn ám ảnh chúng tôi từ nhiều giờ:
-Tại sao có sự giết chóc rùng rợn và hủy hoại sinh mạng khủng khiếp
như thế?
Chúng tôi đă mệt đừ, và cơn xúc động đă làm cho chúng tôi bị hoàn
toàn kiệt sức. V́ bọn cướp gây cho dân làng một sự sợ hăi kinh hoàng tột độ,
nên tất cả mọi cố gắng cứu trợ đều đổ dồn lên vai chúng tôi, nhất là trong
những giờ phút đầu tiên. Dẫu cho sau khi chúng tôi đă lôi hết những kẻ bị
thương ra khỏi đống xác người ngựa nằm ngổn ngang chồng chất lên nhau, chúng
tôi cũng gặp nhiều khó khăn để thuyết phục dân làng ra tay trợ giúp những kẻ
bị thương. Họ tuyệt đối không thấy có lư do nào để giúp đỡ chúng tôi cứu
mạng những kẻ đă toan giết hại đến sinh mạng của họ. Nhiều người cảm thấy vô
cùng ghê tởm khi phải sờ mó vào một xác chết. Nếu họ không có một sự kính
trọng đặc biệt đối với các vị Chân Sư, th́ họ đă rời khỏi vùng này ngay lập
tức mà không hẹn ngày trở lại.
Dầu sao, chúng tôi đă quá mệt mỏi và rất đau ḷng, v́ đó là cái kinh
nghiệm khủng khiếp nhất trong đời chúng tôi. Khi cơn xúc động của những ngày
đầu tiên đă lắng dịu, chúng tôi lại bắt tay vào việc một cách hào hứng hăng
say. Mùa lễ Phục Sinh đă sắp đến và chúng tôi định kết thúc công việc sưu
tầm ở làng này trước khi trở về Ấn Độ. Công việc được hoàn thành rất mau
chóng. Cuộc chuẩn bị cuối cùng để trở về được hoàn tất trước ngày lễ Phục
Sinh, và chúng tôi định dành trọn ngày Chúa Nhật để nghỉ ngơi dưỡng sức.
Khi bước ra cửa để đi tới đền trước lúc b́nh minh, chúng tôi gặp
Chender Sen ngồi trong sân quán trọ. Y đứng dậy để đi theo chúng tôi, và nói
Tô Mặc sẽ gặp chúng tôi tại chánh điện. Y đề nghị rằng chúng tôi nên trở về
Ấn Độ qua ngă Lhassa, thủ đô Tây Tạng, kế đó qua Mouktinath do truông núi
Kandernath trên dăy Tuyết Sơn rồi từ đó, chúng tôi sẽ đi tới Darjeeling.
Về đến làng, chúng tôi thấy mọi việc đều chuẩn bị sẵn sàng chờ chúng
tôi lên đường. Một số khá đông dân làng đă đi trước để vạch đường trên các
truông núi bị bao phủ dưới một lớp tuyết dày đến ba bốn thước tây. Truông
núi mà chúng tôi sẽ vượt qua ở cách xa đến tám mươi cây số và trên một chiều
cao độ bốn ngàn thước. Phần lớn vùng này núi non chớn chở và rất khó vượt
qua. dân làng có thói quen vạch một con đường ṃn và nện tuyết ém xuống cho
chặt một ngày trước khi lên đường. Tuyết được ép chặt trên đường lộ sẽ đông
đặc lại khi ban đêm và người ngựa sẽ dễ đi hơn.
Chúng tôi thức dậy rất sớm trước khi trời sáng và nhận thấy rằng mọi
chi tiết đă được săn sóc chu đáo. Dật Sĩ và một người hướng đạo bổn xứ sẽ đi
theo chúng tôi. Tất cả dân làng đều tề tựu đông đủ để tiễn đưa chúng tôi lên
đường. Chúng tôi lấy làm tiếc mà phải rời khỏi làng, tại dây chúng tôi đă
trải qua hai mùa đông tốt đẹp. Dân làng là những người hồn nhiên chất phác
và dễ thương. Để tỏ ḷng ưu ái, nhiều người trong bọn họ đă tiễn đưa chúng
tôi trên bảy tám cây số rồi mới trở về. Khi đó chúng tôi mới từ giă họ một
lần cuối cùng và tiếp tục lộ tŕnh trên con đường trở về Ấn Độ. Nhưng chúng
tôi c̣n phải trải qua nhiều tháng trên đường về trước khi nh́n thấy lại
những ngọn núi đầu tiên của dăy Tuyết Sơn.
Theo lộ tŕnh đă định, chúng tôi đi xuống thung lũng Gia ma nu chu,
đi dọc theo một con sông đến truông Tonjnor Jung, rồi đi ṿng theo con sông
Brahmapoutre để đến Lhassa, thủ đô Tây Tạng.
Khi chúng tôi đến gần Lhassa, th́ đă thấy nóc điện Potala, tức cung
điện của vị Đạt Lai Lạt Ma, chúa tể xứ Tây Tạng, nhô lên từ đằng xa như một
viên ngọc quư duy nhất của thành phố này. Lhassa là thủ phủ chính trị của
Tây Tạng, nhưng c̣n vị lănh đạo tinh thần tối cao là vị Phật Sống, tức vị
chủ tể cầm quyền cai trị về mặt đạo đức tâm linh từ một trung tâm huyền bí
ẩn dấu gọi là Shamballa, hay Bạch Ngọc Cung. Chúng tôi rất mong ước được
viếng thăm trung tâm huyền bí và linh thiêng này, mà người ta nói rằng được
ẩn dấu rất sâu dưới ḷng đất ở vùng sa mạc Gobi.
Chúng tôi vào thành phố Lhassa cùng với đoàn người hộ tống. Người ta
đưa chúng tôi đến những nhà trọ có chuẩn bị sẵn đủ mọi thứ tiện nghi có thể
t́m được. Một đám đông kéo đến trước cửa nhà trọ, đứng hằng giờ để nh́n xem
chúng tôi, v́ sự hiện diện của người da trắng ở tại đây là một cảnh tượng lạ
và hiếm có. Chúng tôi được mời đến viếng tu viện Lạt Ma Giáo vào ngày hôm
sau lúc mười giờ. Chúng tôi được yêu cầu bày tỏ những điều ước muốn của
ḿnh, và mọi người sẽ vui ḷng giúp đỡ chúng tôi về mọi mặt.
Bất cứ chúng tôi đi đâu, đều có một nhóm người đi theo sau lưng. Một
lính canh được đặt trước cửa nhà trọ để đuổi những kẻ ṭ ṃ, v́ dân chúng
thủ đô Lhassa có thói quen bước vào nhà người lạ mà không báo trước. Sự có
mặt của chúng tôi là một điều mới lạ duy nhất trong đời họ,và chúng tôi
không thể trách họ về sự ṭ ṃ nói trên. Khi một người trong chúng tôi đi ra
ngoài một ḿnh, những kẻ ṭ ṃ bao vây chung quanh với ư định rơ ràng là để
nh́n xem cho tận mắt, sờ mó tận tay để biết chắc rằng y quả là một người
thật, và đôi khi sự quan sát ấy tỏ ra quá đỗi sỗ sàng đối với nạn nhân!
Ngày hôm sau chúng tôi thức dậy sớm và sửa soạn đi đến tu viện để gặp
vị sư trưởng. Khi chúng tôi đi gần đến tu viện, vị sư trưởng bước ra tiếp
đón chúng tôi. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên mà thấy: cùng đi với sư trưởng,
lại có cả đức Tuệ Minh và đức bà Mă Ly. Đó là một sự tao ngộ lư thú. Chúng
tôi bước vào tu viện và nghỉ tại đó.
Sau những cuộc đàm luận lư thú về Đạo Lư với vị sư trưởng, chúng tôi
bàn về việc lên đường đi Shamballa. Vị sư trưởng hỏi rằng người cùng đi với
chúng tôi được chăng. Một trong các vị siêu nhân đáp lại rằng người có thể
đi không khó nếu người có thể rời khỏi xác phàm và trở về nhập xác tùy ư
muốn. Dầu sao, nhóm các vị Chân Sư sẽ đi Shamballa ngay tối hôm ấy. Chúng
tôi đồng ư rằng các Ngài sẽ tựu họp tại nhà trọ của chúng tôi vào lúc xế
chiều và Tô Mặc sẽ cùng đi với các Ngài. Thật vậy, các Ngài đă tựu họp tại
đó sau khi chúng tôi trở về nhà trọ. Sau một cuộc nói chuyện ngắn, các Ngài
bước ra cửa và chúng tôi không c̣n gặp lại các Ngài trong nhiều ngày.
IV
Trưa ngày hôm sau, chúng tôi được thông báo cho biết rằng đức Đạt Lai
Lạt Ma sẽ tiếp kiến chúng tôi tại biệt điện.Vị sư trưởng đến nhà trọ ngay
chiều hôm đó để đưa cho chúng tôi những chỉ thị về cuộc yết kiến này. Chúng
tôi có cái hân hạnh được dành cho cuộc yết kiến này mà chúng tôi phải chờ
đợi một thời gian theo thủ tục thông thường. Chúng tôi được dành cho cái đặc
ân này ngay sau khi một sứ giả đem tin tức trở về cho đức
Thái Tuế (một danh hiệu của đức
Đạt Lai Lạt Ma) biết rằng cuộc thăm viếng tại
Bạch Ngọc Cung (Shamballa) đă
diễn ra một cách tốt đẹp. Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đă được thông báo về những
sự diễn biến đă xảy ra trước đây tại một làng, khi mà một ngôi nhà nhỏ tự
nhiên mọc lên một cách mầu nhiệm.
Chúng tôi cố gắng gây cho Ngài một ấn tượng tốt đẹp đến mức tối đa,
v́ chúng tôi đă có xin phép để theo dơi cuộc sưu tầm khắp nơi trong xứ.
Chúng tôi được cho biết rằng vị thống đốc của tỉnh sẽ đến trước giờ trưa và
đă thông báo cho biết, do một viên sứ giả đem tin, rằng ngài sẽ giúp đỡ
chúng tôi với tất cả quyền hạn của ngài. Đó thật là một sự ngạc nhiên bất
ngờ. Chúng tôi thức dậy sớm và đi cùng với một nhóm tùy tùng đến yết kiến xă
giao vị thống đốc. Người tỏ vẻ rất hài ḷng về cử chỉ này và mời chúng tôi
cùng đi với người. Khi chúng tôi và vị thống đốc đến nơi, chúng tôi được đưa
vào các gian pḥng dành cho quan khách tại biệt điện. Từ đó, chúng tôi đi
thẳng đến một pḥng riêng để làm những cuộc lễ đầu tiên chuẩn bị cho cuộc
yết kiến với đức Đạt Lai Lạt Ma.
Khi chúng tôi đến nơi, ba vị Lạt Ma cao cấp đă ngồi trên những chiếc
ghế cao có lót nệm dày, trong khi những vị Lạt Ma cấp dưới ngồi dưới đất
trong tư thế nhập thiền (Samadhi).
Hai vị Lạt Ma mặc áo đỏ đứng trên những chiếc ghế đẩu cao và điều khiển
những khúc thánh ca hợp tấu. Vị sư trưởng bạn chúng tôi th́ ngồi trên một
chiếc ngai có che lọng theo nghi lễ và chờ viên thống đốc đến.
Sân ngoài của tu viện được trang hoàng lịch sự trong dịp này. Những
bức tranh tuyệt đẹp tŕnh bày những cảnh tượng lịch sử diễn ra từ năm 1417
khi đức Tsong Kappa thành lập môn phái Phật Giáo Thống Nhứt ở Tây Tạng, mà
Lhassa là trung tâm chính yếu.
Vài lúc sau đó, vị thống đốc cùng đoàn tùy tùng bước vào và đi thẳng
đến chỗ ngồi của vị sư trưởng, vị này cũng đă từ trên ngai bước xuống. Cả
hai vị đều đứng chung một chỗ để tiếp đón chúng tôi và đưa chúng tôi đến
pḥng khách của đức Đạt Lai Lạt Ma. Ṭa sảnh đường được trang hoàng với
những tấm thảm bằng lụa treo trên vách rất lộng lẫy, và với những bàn ghế
bằng gỗ quư đánh bóng rất đẹp.
Sau khi được đưa vào pḥng khách, chúng tôi quỳ xuống một lúc trước
đức Thái Tuế rồi mới đứng dậy, và chúng tôi được mời ngồi. Vị sư trưởng thay
mặt chúng tôi để chúc mừng Thái Tuế và tŕnh bày mục đích cuộc viếng thăm
của chúng tôi. Đức Thái Tuế đứng dậy và mời chúng tôi bước lại gần. Một vị
Lạt Ma hầu cận đưa chúng tôi đến chỗ của mỗi người. Vị sư trưởng và viên
thống đốc ở hai góc cùng một hàng với chúng tôi. Khi đó, đức Đạt Lai Lạt Ma
bước xuống ngai vàng và đứng trước mặt chúng tôi. Ngài cầm lấy một cây quyền
trượng (sceptre) do vị quan hầu
cận đưa cho Ngài, rồi từ từ đi dọc theo hàng của chúng tôi đứng và điểm nhẹ
cây quyền trượng lên trán của mỗi người. Kế đó, do vị sư trưởng làm thông
ngôn, Ngài chúc mừng chúng tôi đến xứ Tây Tạng. Ngài nói rằng Ngài có hân
hạnh tiếp đón chúng tôi như những vị thượng khách trong thời gian chúng tôi
lưu lại thành phố này. Ngài yêu cầu chúng tôi hăy tự coi ḿnh như những vị
khách danh dự của quốc gia và dân chúng Tây Tạng trong thời gian lưu trú
hiện tại và bất cứ lúc nào trong tương lai nếu chúng tôi có ư định sẽ trở
lại xứ này.
Chúng tôi đưa cho Ngài nhiều câu hỏi và được cho biết rằng Ngài sẽ
trả lời vào ngày hôm sau. Ngài mời chúng tôi đến xem những tài liệu và bia
đá cổ được lưu trữ dưới hầm biệt điện. Ngài gọi một viên quan hầu cận và
truyền khẩu lịnh mà vị quan ấy thông dịch lại, nhưng chúng tôi hiểu rằng
chúng tôi được tự do đi lại khắp nơi trong biệt điện mà không có giới hạn.
Kế đó, đức Thái Tuế ban ân huệ cho chúng tôi, bắt tay chúng tôi một cách
thân mật, và cho người đưa chúng tôi cùng với vị sư trưởng và viên thống đốc
về nơi dịch xá an nghỉ. Hai vị này xin phép vào pḥng chúng tôi v́ họ muốn
duyệt xét lại nhiều vấn đề.
Vị sư trưởng nói:
-Có nhiều chuyện lư thú đă xảy ra kể từ khi các bạn đến lưu trú trong
làng nhỏ cùng với chúng tôi. Chúng tôi đă xem xét nhiều tấm bia đá cổ trong
tu viện và nhận thấy rằng tất cả đều có đề cập đến nền văn minh cổ của xứ
Gibi. Chúng tôi tin chắc chắn rằng tất cả các nền văn minh và tín ngưỡng tôn
giáo đều xuất xừ từ một nguồn gốc duy nhất. Chúng tôi không biết rơ căn
nguyên và thời đại nào đă sáng tạo nên các bia đá cổ, nhưng chúng tôi cả
quyết rằng những bia đá ấy đă ghi lại những tư tưởng của một dân tộc đă từng
sống cách đây nhiều ngàn năm. Chúng tôi đă có xem phần tóm lược của một bản
dịch do một vị Lạt Ma xứ Kisou-Abou dịch lại cho chúng tôi. Chính nhờ nó mà
tôi đă đạt tới khúc quanh quan trọng của đời tôi vậy.
Sáng ngày hôm sau, khi chúng tôi đang đợi vị sư trưởng, một sứ giả
đem tin đến cho hay rằng đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ tiếp kiến chúng tôi vào lúc
hai giờ trưa. Chúng tôi bèn đi t́m vị sư trưởng và gặp người ở ngoài cửa ṭa
sảnh đường, vẻ mặt hân hoan và cầm nơi tay một tờ công lệnh cho phép chúng
tôi được tự do lưu thông khắp nơi trong xứ. Sau khi đọc tờ thông điệp mà
người sứ giả đă đem đến cho chúng tôi, vị sư trưởng nói:
-Đây là một thư mời với mục đích chánh thức trao tặng tờ giấy thông
hành cho các ông.
Khi chúng tôi đă tựu họp lại, có người đề nghị với chúng tôi hăy nên
đi ngay lại pḥng lưu trữ các tài liệu văn khố. Chúng tôi liền đi tới đó
từng nhóm và khi đến nơi, một sự bất ngờ làm chúng tôi rất ngạc nhiên. Tại
đó chúng tôi thấy có hằng ngh́n những pho tài liệu cổ khắc trên những tấm
bảng bằng đồng và bằng gang, và trên những tấm bia bằng đá cẩm thạch trắng
chạm trổ rất đẹp. Đó là lần đầu tiên mà chúng tôi có dịp quan sát tận mắt
loại tài liệu cổ đó.
Vị sư trưởng cho chúng tôi biết rằng ông không được biết rơ về những
bia đá cổ đó, nhưng người ta có nói cho ông biết rằng nguồn gốc của chúng là
ở xứ Ba Tư. Ông mới t́nh nguyện đi t́m một vị Lạt Ma biết rơ tường tận về
những bia đá cổ này. Ông ta bèn bước ra ngoài, và chúng tôi bắt đầu cuộc
quan sát. Không một đoàn viên nào trong nhóm chúng tôi biết đọc những chữ cổ
tự khắc trên các bia đá. Chung quanh những bia đá này đều chừa một cái lề,
bề rộng chừng năm phân tây, trên lề có khắc h́nh nổi. Nhiều h́nh nổi này
được khắc bằng vàng ṛng cẩn trên đá cẩm thạch, c̣n những chữ cổ tự cũng cẩn
vàng nhưng không khắc cho nổi lên. Những bia đá đều sắp thành từng loạt rất
có ngăn nắp quy củ, và mỗi loạt đều có mang một số thứ tự.
Trong khi chúng tôi đang đắm ch́m trong cơn mơ tưởng mông lung, th́
vị sư trưởng đă về đến nơi cùng với một vị Lạt Ma cao niên, có phận sự coi
sóc các kho văn khố tài liệu. Vị Lạt ma thuật cho chúng tôi nghe lịch sử của
các bản văn và tài liệu cổ, và câu chuyện làm cho chúng tôi thích thú say
mê, đến nỗi vị sư trưởng phải nhắc nhở chúng tôi về cuộc hội kiến với đức
Đạt Lai Lạt Ma.
Giờ yết kiến đức Đạt Lai Lạt Ma đă đến gần và chúng tôi phải mặc áo
tràng dự lễ trong dịp này. Khi chúng tôi đến nơi sảnh đường, th́ thấy đức
Đạt Lai Lạt Ma vừa đi qua dăy hành lang cùng với toán ngự lâm quân theo hộ
vệ để bước vào sảnh đường do một cửa lớn. Cánh cửa hông vừa mở, chúng tôi
lại được đưa vào pḥng khách trang hoàng lộng lẫy như đă nói ở trên.
Ở giữa pḥng khách, đức Đạt Lai Lạt Ma ngồi trên một sàn cao có trải
nệm thêu chỉ vàng. Ngài mặc áo rộng thêu vàng, với một khăn choàng đỏ. Vị sư
trưởng đưa chúng tôi đến trước mặt Ngài và lại đứng cùng một hàng với chúng
tôi như trước. Sau vài lời chào hỏi chúc mừng, đức Đạt Lai Lạt Ma từ trên
sàn bước xuống và đứng trước mặt chúng tôi với hai bàn tay đưa lên. Chúng
tôi bèn quỳ xuống để cho Ngài ban ân huệ.
Khi chúng tôi đứng lên, Ngài bước tới trước vị trưởng đoàn của chúng
tôi, ghim một cái xiên (broche)
trên ngực y và nói những lời này do một viên thông ngôn dịch lại:
-Cái xiên này sẽ bảo đảm cho túc hạ và cả phái đoàn, quyền tự do lưu
thông khắp nơi trong xứ tùy ư muốn. Do tờ văn bằng này, quả nhân cũng ban
cho túc hạ tư cách công dân danh dự của xứ Tây Tạng, và tước hàm quận công
vùng sa mạc Gobi.
Kế đó Ngài từ từ đi dọc theo hàng ngũ chúng tôi và ghim một cái xiên
tương tự nhưng nhỏ hơn trên ngực của mỗi người và nói:
-Quư vị hăy đeo cái xiên này, nó tượng trung cho ḷng ái mộ của quả
nhân. Nó sẽ mở rộng cửa cho quư vị khắp nơi trong xứ Tây Tạng, và có giá trị
như một giấy thông hành ở bất cứ nơi nào quư vị muốn đi đến.
Kế đó, Ngài cầm lấy cái hộp ống dài đựng tờ văn bằng từ trên tay vị
sư trưởng và trao cho vị trưởng phái đoàn. Những cái xiên đều rất đẹp, làm
bằng vàng y có cẩn một viên ngọc bích ở giữa. Trên viên ngọc có khắc bằng
h́nh nổi bức chân dung vô cùng linh động và xem rất giống của đức Đạt Lai
Lạt Ma. Đức Thái Tuế và các vị Lạt ma cận thần đều là hiện thân của sự khả
ái và lịch sự, và chúng tôi không biết nói ǵ khác hơn là thốt ra hai tiếng
"cám ơn".
Kế đó, vị Lạt Ma hầu cận cho biết chúng tôi được mời dự dạ tiệc với
đức Đạt Lai Lạt Ma ngay tối hôm đó tại biệt điện.
Sau bữa dạ tiệc, câu chuyện lại xoay chiều về vấn đề những tấm bia đá
cổ lạ kỳ. Đức Đạt Lai Lạt Ma và viên lăo thần đảm trách kho tài liệu cổ, do
sự trung gian của một viên thông ngôn, thuật lại cho chúng tôi nghe lịch sử
của những bia đá cổ mà chúng tôi đă ghi chép lại cẩn thận và kể lại sau đây.
Những bia đá này là do một vị sư Phật Giáo t́m ra được trong một cái
hầm ở dưới nền đất của một ngôi đền cổ đă điêu tàn ở xứ Ba Tư. Vị sư thuật
lại rằng y được hướng dẫn đến nơi chôn dấu những bia đá cổ do bởi những
tiếng hát dịu dàng êm ái vọng ra từ ngôi đền cổ, mà y nghe văng vẳng bên tai
trong khi tọa thiền. Bài hát rất du dương và giọng hát rất trong trẻo đến
nỗi làm cho nhà sư phải chú ư và ṭ ṃ. Nhà sư bèn đi về hướng từ đó vọng ra
tiếng ca và bước vào bên trong các hầm đá của một ngôi đền cổ đă đổ nát.
Giọng hát dường như xuất phát ra từ phía dưới hầm. Sau khi xem xét kỹ lưỡng,
và không thấy có một lối nào đi xuống phía dưới hầm, nhà sư bèn quyết định
t́m ra nguồn gốc xuất phát ra giọng hát.
Nhà sư mới t́m những đồ khí cụ thô sơ và bắt đầu đào xới trong những
đống gạch ngói đổ nát. Không bao lâu, y t́m thấy một phiến đá lớn dường như
là để lót sàn đá dưới hầm. Y cảm thấy thất vọng v́ trong một lúc y tưởng
rằng đă đi lạc hướng v́ tiếng gió rít lên từng hồi trong những tường xiêu
vách đổ của ngôi đền.
Trước khi rời khỏi chỗ ấy, nhà sư bèn ngồi tọa thiền trong một lúc.
Trong khi y đang nhập định, th́ tiếng hát trở nên trong trẻo hơn và rơ ràng
hơn trước, và ra lịnh cho y phải tiếp tục cuộc thăm ḍ, t́m kiếm. Một sự cố
gắng hầu như phi phàm giúp cho y chuyển động tấm phiến đá lật qua một bên và
khám phá ra một con đường hầm. Khi y chui lọt qua cửa hầm này, th́ đường đi
được soi sáng dường như bởi một mănh lực vô h́nh. Trước mặt nhà sư, chiếu
một vầng ánh sáng rực rỡ chói ḷa. Nhà sư bèn đi theo, ánh sáng đó d́u dắt y
đến cửa vào một hang động lớn, khép chặt bằng những cánh cửa bằng đá rất
kiên cố. Trong khi y đang ngắm nh́n những cánh cửa đá này, th́ chốt cửa rít
lên, một phiến đá lớn từ từ chuyển động và xoay ngang, để lộ ra một cửa vào,
y chui xuyên qua đó. Trong khi y bước qua cửa này, th́ giọng hát lại xuất
hiện, trong trẻo và êm ái dường như người hát đang ngồi ở phía trong. Ánh
sáng dừng lại ở chỗ ngoài cửa từ lúc năy, bấy giờ lại di chuyển vào bên
trong động và chiếu sáng khắp nơi. Những tấm bia đá cổ đều dựng đứng nơi
đây, trong những khoảng trống đục khoét trên vách tường đá, phủ đầy cát bụi
đắp lên đó tự muôn đời.
Nhà sư bèn quan sát vài tấm bia cổ, và liền hiểu ngay sự mỹ lệ và giá
trị của các tấm bia này. Y bèn quyết định chờ dịp thổ lộ sự bí mật này với
vài ba người tâm phúc tin cậy, để cùng với họ t́m cách di chuyển những bia
đá ra ngoài và đem cất dấu ở một nơi an toàn. Y bèn rời khỏi hầm, đặt phiến
đá lớn lại nguyên chỗ cũ, lấy gạch ngói vụn nát phủ lên trên như trước, rồi
đi t́m những người bạn tâm phúc sẵn ḷng tin tưởng câu chuyện do y tường
thuật và có đủ can đảm cùng phương
tiện để cùng y thực hiện kế hoạch.
Sự t́m kiếm này kéo dài đến hơn ba năm. hầu hết những người mà y
thuật chuyện cho nghe đều tưởng rằng y đă loạn trí, hay điên khùng. Sau cùng,
trong một chuyến hành hương, y gặp ba vị tăng lữ mà y đă quen biết trong
cuộc đi hành hương tự trước đây, và thuật chuyện ḿnh cho họ nghe. Họ tỏ ra
rất hoài nghi.Nhưng một buổi tối đúng vào lúc chín giờ, trong khi họ đang
ngồi quây quần chung quanh một ánh lửa trại, th́ giọng hát lại bắt đầu một
bài ca nói về đề tài những bia đá cổ. Ngày hôm sau, họ chấm dứt cuộc hành
hương và bắt đầu cuộc hành tŕnh đi đến ngôi đền cổ. Kể từ khi đó, giọng kia
lại hát mỗi ngày đúng vào lúc chín giờ tối. Giọng hát ấy càng nhẹ khi bốn
người du khách đi đường mệt mỏi.
Họ đi gần đến ngôi đến cổ điêu tàn, và chuyến hành tŕnh đă sắp kết
thúc, th́ h́nh ảnh mảnh mai thanh tú của một đứa trẻ thiếu niên xuất hiện
vào lúc một giờ trước lúc giữa trưa và bắt đầu vừa hát vừa hướng dẫn họ đến
chỗ ngôi đền. Khi họ đến nơi, th́ phiến đá lớn đă bị cậy bật lên. Họ liền đi
theo đường hầm đưa đến chỗ động đá. Những cánh cửa tự nhiên mở rộng khi họ
đến gần, và họ bước vào động. Chỉ một lúc ngắn ngủi cũng đủ cho các vị tăng
lữ nhận biết giá trị của đồ bảo vật này. Họ bèn đi đến một làng cách đó độ
một trăm cây số để t́m mua lạc đà và đồ lương thực tiếp tế, để chuẩn bị đem
các bia đá cổ đến chỗ an toàn.
Họ mua được mười hai con lạc đà và trở lại ngôi đền cổ và gói ghém
cẩn thận các tấm bia đá cổ lại chắc chắn cho khỏi bị hư hỏng dọc đường. Kế
đó họ mua thêm ba con lạc đà nữa, và bắt đầu một cuộc hành tŕnh lâu dài đến
Peshawar, xuyên qua các nước Ba Tư và A Phú Hăn.
Gần đến Peshawar, các vị tăng lữ mới đem cất dấu đồ bảo vật quư giá
này trong một hang núi hẻo lánh; và để đồ bảo vật nằm yên tại đó trong năm
năm. Để giữ ǵn các bia đá cổ, một trong các vị tăng lữ luôn luôn thay phiên
nhau ngồi tọa thiền nhập định trước cửa hang núi. Từ Peshawar, họ chở các
bia đá đến Lahnda, trong tỉnh Punjab, và lưu trữ tại đó trong mười năm. Kế
đó, xuyên qua nhiều giai đoạn từ từ và chậm chạp, đồ bảo vật được chở đến
đây và lưu trữ trong biệt điện của đức Đạt Lai Lạt Ma. Như thế tất cả là bốn
chục năm đă trôi qua kể từ khi các bia đá được đem đi từ nơi chôn dấu đầu
tiên. Từ biệt điện, người ta c̣n phải chở đồ bảo vật này tới
Bạch Ngọc Cung (Shamballa), tức
là hiện thời nó vẫn c̣n đang di chuyển trên lộ tŕnh, chứ chưa thực sự đến
nơi chỗ an toàn chỉ định.
Đến chỗ này của câu chuyện lịch sử, một người trợ tá đem bốn tấm bia
đá cổ vào pḥng, và cẩn thận đặt lên một bàn gỗ giống như cái bàn mà chúng
tôi đang ngồi chung quanh, thành thử chúng tôi có thể nh́n thấy các bia đá
tận mắt. Khi kim đồng hồ chỉ đúng chín giờ, một giọng hát lại trổi lên với
những âm điệu nhịp nhàng du dương. Giọng hát vô cùng êm dịu, và trong lanh
lảnh như của một đứa trẻ thiếu niên, đại ư nói về Nguồn Gốc Thiêng Liêng của
muôn loài, sự tạo lập nên vũ trụ và các bầu thế giới do một Ư Chí Thiêng
Liêng thấm nhuần tất cả vạn vật, cái Nguyên Lư vô biên và vô cùng minh triết
cai quản tất cả mọi h́nh thức sinh hoạt trong Vũ Trụ càn khôn, và sự thực
hiện Chân Ngă để giúp cho con người có thể thấu đạt cái Nguyên Lư vô biên và
hỗn hợp với Thượng Đế.
Những cuộc sưu tầm ráo riết và công phu hơn có lẽ sẽ chứng minh rằng
những bia đá cổ này chỉ là những bổn sao được tạo nên để bảo tồn những tài
liệu cổ tren các bổn chánh nay đă bị thất lạc. Nếu giả thuyết này đúng, th́
các bia đá này có lẽ đă được khắc vào thời kỳ sơ khai của nến văn minh cổ Ấn
Độ. Dầu sao, theo chỗ chúng tôi biết, th́ thế giới văn minh hiện đại không
có một tài liệu cổ nào giống như thế. Những bia đá cổ với những tài liệu
khắc trên đó vốn xuất phát từ đâu mà ra, nếu không là từ cái Nguồn Gốc duy
nhất?
Bốn tấm bia đá cổ vẫn c̣n đó, đang được dựng lên ở trước mặt chúng
tôi, và mỗi tấm bia đáng giá cả một kho tàng của cải của một ông vua.
V
Câu chuyện tường
thuật trên đây có vẻ hơi đi ra ngoài đề mục chính yếu, nhưng chúng tôi thấy
cần phải tŕnh bày một cách vắn tắt tối đa, những chuyện xảy ra ở nhiều nơi
cách biệt nhau rất xa, mà người ta đă t́m thấy những tài liệu có liên hệ
trực tiếp đến những nến văn minh cổ xưa nhất thế giới. Chúng tôi cũng sẽ nói
sơ qua về những nền nghệ thuật và văn hóa của họ, cùng những tư tưởng và
động lức nào đă giúp cho những nền văn minh ấy duy tŕ được sự sinh tồn của
họ ở một tŕnh độ rất cao.
Vài nhóm người rất hiếm vẫn tiếp tục thực hành đời sống tâm linh cao
cả. Những nhóm người đó đă một phần nào trở nên những ngọn đuốc soi đường
cho nhân loại đang tiến hóa đến một cao điểm mới của lịch sử văn minh thế
giới. Hăy c̣n chờ xem phải chăng những thiếu sót lỗi lầm của một thiểu số,
được tăng cường bởi đa số nhân loại, có thể nào lại một lần nữa nhận ch́m
thế giới và lôi cuốn phần đông loài người vào trong quên lăng trong một thời
gian lâu dài.
Tầm mức quan sát của chúng tôi cho thấy rằng hiện tại có tiềm lực
chứa đựng tất cả tương lai. Chỉ có những công tŕnh của hiện tại mới tạo nên
tương lai. Nếu hiện tại được toàn hảo, th́ tương lai cũng không khỏi được
toàn hảo. Không phải là sự toàn hảo của hiện tại được nối tiếp theo trong
tương lai. Chính cái ư thức về sự toàn hảo hiện tại nó đưa đến cái ư thức
của một tương lai toàn vẹn.
Dù cho chúng tôi đi đến đâu, chúng tôi cũng khám phá những dấu tích
của một dân tộc, ở một thời kỳ nhất định nào đó, đă hoàn toàn sống trong
hiện tại. Trọn cái tương lai của dân tộc ấy hoàn toàn phù hợp đúng đắn với
những công tŕnh hiện tại của họ, đến nỗi tương lai của họ không thể nào
cách biệt xa con đường toàn hảo, toàn vẹn. Đó tức là cái nguồn gốc của lời
răn “Các ngươi chớ có băn khoăn lo
lắng ǵ về tương lai.” Họ áp dụng giáo điều này: “Hăy
sống với hiện tại một cách thành thật, rồi tương lai cũng sẽ được tốt đẹp,
an toàn.”
Tư tưởng ấy luôn
luôn tái xuất hiện trong những phong tục, tập quán, những bài dân ca, và
những kinh cầu nguyện của họ.
Chúng tôi cũng nghiên cứu những chuyện huyền thoại về những âm binh
của vùng “Biển Cát”, theo như
danh từ của người Trung Hoa thường gọi vùng sa mạc Gobi. Ở nhiều nơi trên sa
mạc, người ta nghe có những tiếng nói dị kỳ. Nhiều khi chúng tôi nghe trong
khoảng không, có tiếng người kêu gọi đúng tên họ chúng tôi. Có khi chúng tôi
nghe thấy tiếng động ồn ào huyên náo của một đám đông người dường như ở rất
gần. Chúng tôi cũng thường nhe tiếng đàn do nhiều loại nhạc khí khác nhau,
kèm theo với những giọng hát rất dịu dàng thánh thót. Chúng tôi đă từng nh́n
thấy nhiều ảo ảnh và nghe tiếng động của những cồn cát di chuyển.
Chúng tôi chắc rằng những tầng lớp không khí ớ một chiều cao nhất
định nào đó bên trên băi sa mạc đă trở nên trong suốt đến nỗi vào những lúc
mà tất cả những điều kiện bên ngoài đều hoàn toàn hợp với nhau đến mức tối
đa, th́ những lớp không khí ấy có tác dụng giống như những “pḥng
âm thanh”, nó phản chiếu lại những âm ba rung động đă được phát ra trong
thời quá khứ. Chúng tôi tin rằng những diễn biến xảy ra từ thời Trung Cổ đă
được tái diễn lại cũng bằng cách đó.
Chúng tôi mắc bận rộn về công việc đến nỗi mất cả ư thức về ngoại
cảnh, và thời gian trôi qua mau như bay. Dưới sự chỉ dẫn của vị Lạt Ma cao
niên, chúng tôi sao chép lại các tài liệu cổ trên các bia đá cùng những tài
liệu khác nữa.
Buổi sáng ngày chúng tôi lên đường, thời tiết rất sáng sủa, quang
đăng và mọi việc đă sắp đặt sẵn sàng cho chuyến đi bận về của chúng tôi đến
Shigatzé. Chúng tôi đă từ giă tất cả những nhân vật hầu cận đức Đạt Lai Lạt
Ma. Một đám đông dân chúng cũng tề tựu trên các đường phố để tiễn đưa chúng
tôi. Họ vẫy tay khắp nơi để ra dấu từ giă, hoặc chắp tay cầu nguyện cho
chúng tôi được an toàn vô sự. Một phái đoàn đại diện dân chúng đă đi trước
chúng tôi trên nhiều cây số đường trường, và năm chục người tiễn đưa chúng
tôi đến tận Shigatzé, trên vùng thượng lưu sông Brahmapoutre.
Trong khi chúng tôi đi gần đến thành phố này, tức là thành phố quan
trọng thứ nh́ của xứ Tây Tạng sau thủ đô Lhassa, chúng tôi nh́n thấy tu viện
Tashi Lumpo rất lớn, ở cách hai cây số ngoài thành phố. Một phái đoàn sư săi
của tu viện này đă đi bộ trên năm cây số để tiếp đón chúng tôi và mời chúng
tôi an nghỉ tại tu viện trong thời gian lưu trú tại đây.
Khi bước vào tu viện, chúng tôi cảm thấy một niềm an tĩnh thấm nhuần
các gian pḥng như một sự hiện diện cao cả và vô h́nh. Thật vậy, đó là một
nơi nghỉ ngơi lư tưởng trước khi bước chân lên đoạn đường sẽ đưa chúng tôi
đến hồ Dolma và đến thị trấn Sansrawar.
Sau khi dùng bữa cơm chiều với các vị Lạt Ma, chúng tôi bàn luận về
những ngôi đền rất đẹp và rải rác khắp nơi trong thành phố. Kế đó câu chuyện
xoay qua vấn đề khác biệt giữa các tín ngưỡng tôn giáo. Một vị Lạt Ma rất
cao niên nói:
Các vị Lạt Ma và đạo sĩ Yogi không cùng chia sẻ những tin tưởng giống
nhau. Người Yogi không thể chấp nhận rằng giáo lư của bất cứ một người nào
đề xướng ra là có giá trị quyết định độc đáo. Tất cả mọi người phải đạt tới
sự thông suốt tự trong nội tâm của họ. C̣n những tu sĩ Lạt Ma giáo th́ tuân
theo một cách chặt chẽ giáo lư của Đức Phật. Họ nhĩ rằng mỗi người đều đang
tiến hóa và cứu cánh sẽ đạt tới quả vị tối cao của Phật. Một người Gia tô sẽ
đạt tới tŕnh độ tâm thức của đấng Christ. Ngưới Phật tử sẽ đắc quả vị của
Phật Thích Ca…
Chúng tôi thấy sáu vị Lạt Ma cầm đầu một nhóm tu sĩ gọi là các Tu Sĩ
đi Ta Bà. Nhóm sư săi Ta Bà này đi châu du khắp nơi, không tiền bạc chi cả,
cũng không bao giờ khất thực. Họ không nhận lănh đồ vật thực hay tiền bạc
của ai cả. Họ luôn luôn giao tiếp với nhau và với sáu vị Lạt Ma trưởng ở tại
tu viện. Nhóm tu sĩ Ta bà này chia làm ba toán, mỗi toán có một vị Lạt Ma
cầm đầu, tức là gồm một cơ cấu chỉ huy có chín vị Lạt Ma. Ba vị toán trưởng
có thể ở ba xứ khác nhau. Mỗi vị sư săi đi ta bà luôn luôn tiếp xúc với với
vị trưởng toán của ḿnh, và vị trưởng toán này giao tiếp thường xuyên với
sáu vị Lạt Ma Trưởng ở tu viện. Các vị này giao tiếp với nhau bằng một
phương pháp mà chúng tôi tạm gọi là chuyển di tư tưởng v́ thiếu một danh từ
chính xác hơn, nhưng chúng tôi biết rằng đó là một thứ mănh lực tinh tế hơn
và chính xác hơn nhiều. Người ta gọi nó là atma, tức là sự giao cảm trực
tiếp giữa linh hồn với linh hồn mà không có một vật ǵ làm trung gian. Chúng
tôi đă gặp sáu vị Lạt Ma này và dùng buổi ăn sáng chung với các vị trong
ngày hôm sau.
Vị Lạt Ma già cho chúng tôi biết rằng người sẽ đi theo chúng tôi đến
tận đền Pora tat Sanga khi chúng tôi hoàn thành mọi công việc. Chúng tôi
nhận lời, v́ vị Lạt Ma này là bạn thiết của vị hướng đạo vừa dẫn đường vừa
làm thông ngôn cho chúng tôi. Cả hai người sẽ giúp đỡ chúng tôi rất nhiều
trong việc nghiên cứu các tài liệu cổ.
Trong khi nói chuyện, vị Lạt Ma già nói một cách tự nhiên:
-Hai người đoàn viên đă từ giă các ông ngày thứ hai vừa rồi, sẽ đến
Calcutta ngày hôm nay lúc 11 giờ 30. Nếu các ông muốn tiếp xúc với họ, th́
có thể được.
Vị trưởng phái đoàn chúng tôi viết một bức thông điệp giọ hai đoàn
viên ấy hăy đến thẳng Darjeeling để lo thu xếp về một công việc cần phải
làm, và đợi chúng tôi đến vào ngày 24 tháng 8. Y đề ngày trên bức thông
điệp, chép một bổn sao để lại, và đưa bổn chánh cho vị Lạt Ma. Vị này đọc
xong, xếp tờ giấy lại cẩn thận và để qua một bên. Sau đó, hai đoàn viên đă
gặp lại chúng tôi tại Darjeeling ngày 24 tháng 8. Họ đưa cho chúng tôi xem
một bức thông điệp viết tay được chuyển giao đến tận tay họ sau khi họ đến
Calcutta không đầy hai chục phút. Họ đă nghĩ rằng người đem thơ chắc là một
thư tín viên được gởi đi từ trước với những chỉ thị rơ rệt. Bây giờ chúng
tôi đă có bằng chứng cụ thể về những quyền năng thần giao cách cảm của các
vị Lạt Ma Tây Tạng. Nếu họ đă chứng tỏ quyền năng trên địa hạt này, chắc hẳn
là họ cũng có thể nới rộng quyền năng trên những lănh vực khác nữa?
Chúng tôi hối hả lên đường đến Pota tat Sanga, v́ một số đông khách
hành hương sẽ tựu họp tại đó vào mùa này là mùa thuận tiện cho một cuộc hội
họp như vậy. Chúng tôi đi ngang qua thị trấn Gyantzé, tại đây chúng tôi được
cho biết là sẽ gặp một vị đệ tử rất đặc biệt, mà người ta gọi là vị “đệ
tử cười”. Những giọng hát tiếng cười của y làm cho người nghe dứt hết
mọi cơn sầu khổ, và giúp đỡ khách hành hương vượt qua những đoạn đường gay
go khó khăn nhất trên lộ tŕnh của họ.
Khi chúng tôi bước vào sân tu viện, một người thanh niên lực lưỡng
bước đến gần chúng tôi với những lời chào mừng nghinh tiếp. Y cho chúng tôi
biết rằng các vị Lạt Ma muốn mời chúng tôi ở lại tu viện trong thời gian lưu
trú tại làng này. Chúng tôi nói rằng chúng tôi sẽ lên đường ngay ngày hôm
sau, v́ chúng tôi phải đi gấp lên truông Phari. Y đáp:
-Chúng tôi biết rằng các bạn đi tới Pora ta Sanga. Tôi cũng trở về đó
vào sáng ngày mai và rất sung sướng mà được cùng đi với các bạn nếu các bạn
cho phép!
Chúng tôi nhận lời. Với một chuỗi cười dài cởi mở, y đưa chúng tôi
đến chỗ ngủ, trong gian pḥng lớn của tu viện. Sau khi đă xếp đặt cho chúng
tôi được có đủ tiện nghi, y chúc chúng tôi nghỉ yên giấc, xin kiếu từ và nói
y sẽ gặp lại chúng tôi rất sớm vào sáng ngày hôm sau. Y vừa bước đi vừa hát
bằng một giọng rất trong. Đó là vị “Đệ
Tử Cười”. Sáng ngày hôm sau, y đánh thức chúng tôi dậy bằng một giọng
hát vang lừng và loan báo rằng bữa ăn điểm tâm đă sẵn sàng.
Chúng tôi từ biệt các vị Lạt Ma, được các vị ban ân huệ trước khi lên
đường, và thấy rằng mọi việc đă được chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến đi của
chúng tôi đến truông núi Phari. Truông này đưa du khách qua khỏi các đỉnh
núi Phari và Kang La. Nói chung, đường đi rất cheo leo, nhưng ở những đoạn
đường khó đi, th́ người đệ tử đi trước dẫn đường vừa hát và vừa cười. Trong
những đoạn đường gồ ghề lồi lơm nhất, giọng hát của y vang rền và dường như
đưa chúng tôi đi một cách dễ dàng êm ái.
Chúng tôi lên tới đỉnh truông núi vào lúc ba giờ chiều. Trạm nghỉ
chân sắp tới của chúng tôi là thị trấn Maha Muni với một ngôi đền rất to lớn
như một pháo đài. Cũng như ở các nơi khác, tại đây chúng tôi được tiếp đón
nồng hậu. Chúng tôi được cho biết rằng người ta không cần giữ chúng tôi ở
lại, v́ Chân Sư Pouridji đă đi trước chúng tôi đến đền Pora tat Sanga là nơi
có rất nhiều đạo sĩ Yogi và tu sĩ các môn phái khác đă tề tựu rất đông tại
đây. Ngày hôm sau, đám người hành hương tụ họp rất sớm v́ họ muốn đi sớm để
được gặp Chân Sư Pouridji. Họ cũng muốn chiêm ngưỡng ngôi đền Pora tat Sanga
là một ngôi đền cao nhất thế giới, một ṭa kiến trúc mỹ lệ dựng trên một
đỉnh núi cao. Tất cả đoàn người hành hương và chúng tôi đều lên đường. Ngọn
núi Everest hùng vĩ nhô lên trước mặt chúng tôi dưới lớp áo tuyết trắng như
pha lê và chiếu ánh sáng dịu của mặt trời lúc b́nh minh. Nó dường như mời
mọc chúng tôi hăy cố gắng tiến thêm vài bước, chỉ vài bước nữa thôi, rồi đưa
tay ra trước để nắm lấy manh áo tuyết của nó. Nhưng mỗi khi chúng tôi tiến
thêm vài bước, th́ khối đá khổng lồ vẫn lọt ra ngoài tầm tay của chúng tôi.
Chúng tôi đă vượt qua khỏi núi Chomolhari, một ngọn núi láng giềng cao đến
8,000 thước, nhưng ngọn núi này có vẻ như một chú lùn so với ngọn Everest
khổng lồ dựng đứng ở trước mặt. Trước đây, chúng tôi vẫn cho rằng con đường
ṃn dọc theo sườn núi Chomolhari thật là cheo leo hiểm trở, nhưng bây giờ
chúng tôi đi một cách vô cùng vất vả trên một con đường mà thường khi chúng
tôi phải ḅ trên bốn cẳng! Tuy nhiên, những giọng hát tiếng cười của người
đệ tử vẫn đưa chúng tôi đi nhẹ nhàng thoải mái như lướt trên hai cánh. Trong
cơn hứng khởi, chúng tôi quên cả sự hiểm nguy, và dường như chúng tôi vượt
qua những đoạn đường khó khăn một cách dễ dàng nhanh chóng. Chuyến đi ngày
hôm ấy không có vẻ ǵ là lâu lắc hay mệt nhọc đối với chúng tôi, mà dường
như chỉ kéo dài trong chốc lát. Những âm ba rung động của thần lực, của sự
an tĩnh và điều ḥa toát ra từ các ngôi đền luôn luôn hấp dẫn người du khách
đến những ngọn núi này. Thật không lạ ǵ mà thấy rằng dăy núi Tuyết Sơn vẫn
gây nguồn cảm hứng tâm linh cho khách lữ hành, và các thi nhân vẫn luôn luôn
ca tụng sự huy hoàng hùng vĩ của nó.
Sau cùng, đến chiều tối, chúng tôi đă vượt qua tất cả mọi nỗi khó
khăn trên đường ṃn và dừng chân trên một khoảnh đá bằng phẳng rộng lớn, ai
nấy mệt nhoài và thở dốc. Nhiều ngôi đền rải rác ở xa xa, nhưng đền Pora tat
Sanga đẹp như viên ngọc, nhô lên ở một chiều cao bảy trăm thước trên đầu
chúng tôi, và chiếu một vầng ánh sáng rực rỡ, soi sáng tất cả các núi đá và
đền miếu ở vùng chung quanh.
Đám người hành hương và chúng tôi cùng ngồi quây quần trong một hang
đá rộng lớn. Chúng tôi ngạc nhiên mà nhận thấy rằng có cả phụ nữ trong đám
hành hương. Không có sự kỳ thị hay phân biệt nam nữ trong các chuyến hành
hương, ai muốn đi đều có thể xin gia nhập. Các vị Chân Sư đă từng sống ở tại
đây. Chân Sư Niri cũng đă từng đi qua các con đường ṃn của chúng tôi vừa
đi. Hôm nay, nhà đạo sĩ Santi cao cả, khiết bạch và khiêm tốn, đă ngồi tọa
thiền tại hang đá này và đang đắm ch́m trong cơn đại định.
Chúng tôi hỏi làm sao t́m được nơi ăn chốn ở cho tất cả những người
hành hương này? Vị Đệ tử cười cất tiếng hát:
-Đừng lo chi vấn đề và ở. Tại đây có đầy đủ thức ăn, chỗ ngủ và áo
quần cho tất cả mọi người.
Kế đó, người đệ tử lại hát bằng một giọng du dương:
-Xin mời tất cả mọi người hăy an tọa.
Khi chúng tôi vừa ngồi xuống th́ những chén thức ăn nóng và bổ dưỡng
xuất hiện. Vị đạo sĩ Santi cũng đă xả thiền đứng dậy và bắt đầu chuyền thức
ăn cho các du khách, với sự trợ giúp của người đệ tử và các người hành hương
khác.
Khi ai nấy đều đă ăn uống no ḷng, tất cả khách hành hương đều đứng
dậy và người ta đưa họ đi từng nhóm nhỏ đến các ngôi đền kế cận để nghỉ lại
trong đêm đó.
Vị đệ tử đưa chúng tôi đến một ngôi đền tọa lạc trên một khối đá,
ngăn cách chỗ của chúng tôi bởi một vách đá dốc đứng chừng hai mươi lăm
thước bề cao. Khi đến gần, chúng tôi nhận thấy một cây cột trụ dài, chân trụ
chấm đất, c̣n ngọn th́ đỡ lấy cái mơm đá de ra phía dưới ngôi đền. V́ cây
cột trụ này dường như là phương tiện duy nhất để lên tới ngôi đền, nhóm
chúng tôi trụ lại dưới chân trụ để t́m cách trèo lên. Trong một lúc, cái hy
vọng duy nhất để có chỗ ngủ ban đêm dường như tùy thuộc nơi khả năng của
chúng tôi để trèo lên cây trụ ấy. Nhưng người đệ tử nói:
-Các bạn chớ nên hấp tấp vội vàng.
Kế đó, y cất giọng hát lớn:
-Hỡi Thượng Đế mến yêu, chúng con sở cậy nơi Ngài để có chỗ trú trong
đêm nay.
Ngay khi ấy, tất cả mọi người ở chung quanh chúng tôi đều giữ im lặng
trong một lúc, rồi bằng một giọng đồng thanh ḥa tấu rất mănh liệt, họ thốt
lên những lời này:
-Đó là quyền năng của Thượng Đế, AUM…
Trong khoảnh khắc, tất cả chúng tôi đă thấy ḿnh đứng trên mơm đá, và
cùng đi với những người hành hương khác đến các ngôi đền rải rác chung
quanh, được chỉ định cho từng nhóm. Khi đến nơi, chúng tôi không c̣n giữ lại
một dấu vết nào của sự mệt nhọc. Đêm đó chúng tôi ngủ yên giấc như trẻ con.
Chúng tôi thầm nghĩ rằng nều những rung động của thần lực toát ra từ nhóm
người đó được sử dụng để san bằng núi non thành b́nh địa, th́ ắt là điều ấy
vẫn có thể làm được!
VI
Sáng ngày hôm sau, lúc bốn giờ, giọng hát mạnh mẽ rơ ràng của người
đệ tử đánh thức chúng tôi dậy. Y hát:
-Cơi thiên nhiên đă thức dậy. Những người con của thiên nhiên cũng
phải thức giấc. B́nh minh của một ngày mới đă xuất hiện. Sự tự do của ngày
này đang chờ đón các bạn. AUM!
Chúng tôi bước đến gần chỗ mơm đá gie ra ngoài và gác lên đỉnh cột
trụ trong ngày hôm trước. Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy rằng cột trụ
đă được thay thế bằng một cầu thang rất chắc chắn. Khi xuống cầu thang,
chúng tôi tự hỏi không biết có phải là chúng tôi đă mơ hay chăng? Người đệ
tử đón chúng tôi tự hỏi không biết có phải là chúng tôi đă mơ hay chăng?
Người đệ tử đón chúng tôi dưới chân cầu thang và nói:
-Không, các bạn không mơ đâu. Chính Chân Sư Pouridji đă mơ thưởng cái
cầu thang trong đêm qua và đă đặt nó tại đây v́ sự ích lợi công cộng. Đó là
một giấc mơ trở thành sự thật đấy.
Trong khoảng mười lăm ngày mà chúng tôi đă trải qua trong vùng này,
mỗi ngày chúng tôi đều được ăn những thức ăn nóng và bổ dưỡng mà không hề
thấy có ai làm bếp hoặc nấu nướng ǵ, và được cung cấp thức ăn rất đầy đủ.
Người đệ tử và một bạn đồng hành bắt đấu trèo lên ngọn núi
Pora tat Sanga. Đường đi khởi đầu
bằng những nấc thang tam cấp đục trong khối đá. Kế đó, người ta phải đi trên
những tấm sàn gỗ bắc ngang để nối liền các khe hở giữa hai vách núi, tạo nên
những vực thẳm dưới chân người lữ hành. Có những chỗ khác, người ta phải leo
dây, mà một đầu dây được cột chặt với những mô đá đưa ra ở phía trên. Sau
hai giờ đồng hồ, những người leo núi vẫn chưa có thể vượt qua mơm đá thứ nh́
chiều cao ở một trăm bảy mươi lăm thước cao hơn điểm khởi hành. Khi đó, họ
mới nhận thấy rằng họ bắt buộc phải bỏ dở chuyến trèo núi này.
Nh́n thấy họ lưỡng lự và biết rơ vị trí khó khăn của họ, đạo sĩ Santi
kêu to:
-Tại sao các anh không xuống đi?
Người đệ tử đáp:
-Chúng tôi thử đi xuống, nhưng đá trơn lắm không xuống được.
Y đă trải qua cái kinh nghiệm thông thường là trèo lên một vách đá
hầu như trơn láng c̣n dễ hơn là xuống!
Khi đó, người đạo sĩ nói đùa:
-Nếu vậy, tại sao các anh không ở nguyên tại chỗ? Chúng tôi sẽ trở
lại sáng ngày mai với đồ lương thực, và chắc các anh sẽ có thể trèo lên tới
đỉnh!
Kế đó, đạo sĩ yêu cầu hai người leo núi hăy hoàn toàn b́nh tĩnh, và
hướng dẫn họ một cách cẩn thận trong ba tiếng đồng hồ để cho họ đi xuống
được an toàn. Khi họ đă xuống tới đất và gặp lại chúng tôi, người Yogi mỉm
cười và nói:
-Như thế là sự hứng khởi nhiệt thành của tuổi trẻ tàn lụi dần.
Hai người thanh niên bèn ngước nh́n lên đỉnh núi với những cặp mắt
đầy mong ước. Họ nói:
-Nếu Chân Sư Pouridji đang ở trên đó, chúng tôi thật là không may mà
không gặp được Ngài. Cuộc trèo núi này thật quá khó khăn đối với chúng tôi.
Người Yogi đáp:
-Các anh đừng lo ngại ǵ. Một vị cao cả hơn chúng tôi sẽ lo việc ấy.
Bây giờ các anh hăy nghỉ ngơi, các anh đă khởi sự một cách tốt đẹp đó.
Chúng tôi bèn tự hỏi trong sự ngạc nhiên, bằng cách nào người ta có
thể xây cất một ngôi đền trên chót núi như ngôi đền
Pora tat Sanga.
Nhiều giọng nói
thốt lên hỏi rằng bao giờ chúng tôi mới có thể gặp được Chân Sư. Người Yogi
đáp:
-Chiều nay.
Thật vậy, Chân Sư Pouridji đă đến gặp chúng tôi trong buổi cơm chiều.
Chúng tôi có nhắc đến việc trèo núi của hai người thanh niên bị thất bại.
Chân Sư nói rằng hai người ấy đă thành công trong việc trèo núi nhờ bởi mưu
toan lần thứ hai mà họ đă làm trong tư tưởng.
Bốn giờ chiều ngày hôm sau, tất cả chúng tôi đều tựu họp trong hang
đá ở phía dưới ngôi đền. Đạo sĩ Santi đang ngồi nhập định. Ba người trong
nhóm bèn đi tới một tảng đá bằng phẳng và ngồi lên đó trong tư thế tọa
thiền. Trong giây lát, tảng đá bay bổng lên trên không và chở ba
người lên tới ngôi đền trên đỉnh núi.
Khi đó đạo sĩ Santi nói với người đệ tử và hai người nữa:
-Các anh sẵn sàng chưa?
Họ đáp là sẵn sàng và liền ngồi xuống một bên đạo sĩ trên tảng
đá.Tảng đá này liền bắt đầu tự cất ḿnh nhẹ bổng lên và chở cả ba người đến
trước sân đền. Kế đó, người ta mời chúng tôi đứng chung lại thành một nhóm.
Tất cả mọi người đều đứng dậy. Những người đă lên tới đền từ trước bèn đứng
ra sân và bắt đầu hát thánh ngữ AUM. Trong khoảnh khắc, chúng tôi thấy ḿnh
không c̣n ở dưới đất nữa mà đă có mặt tại sân đền ở trên chót núi. Chỉ trong
giây lát, tất cả chúng tôi đă tề tựu đông đủ tại ngôi đền cao nhất thế giới.
Khi chúng tôi đă ngồi an tọa, Chân Sư Pouridji cất tiếng nói:
-Nhiều người trong các bạn chưa hề nh́n thấy hiện tượng khinh thân và
cho rằng đó là một phép lạ nhiệm mầu. Thật ra, đó không có ǵ là phép lạ cả.
Đó chỉ là kết quả của một quyền năng tự nhiên của con người. Chúng tôi được
truyền thụ phép ấy do bởi pháp môn Yoga cổ truyền. Trong quá khứ, nhiều
người đă từng sử dụng quyền năng đó mà không ai cho là nhiệm mầu hết cả. Đức
Phật cũng đă từng viếng thăm nhiều nơi xa xôi hẻo lánh bằng phương tiện
khinh thân. Tôi từng thấy hằng ngh́n người đă đạt tới kết quả tương tự.
Ngoài ra c̣n có những cách biểu lộ quyền năng cao hơn nhiều so với những ǵ
mà các bạn sẽ được nh́n thấy. Những sự biểu lộ đó chứng minh sự hiện hữu của
một sức mạnh vạn năng. Khi người ta hoàn toàn làm chủ được cái sức mạnh vạn
năng đó, người ta có thể sử dụng nó để lấp biển dời non.
Các bạn ca tụng sự tự do, các bạn tuyên dương đức vô úy. Nhưng thay
v́ các bạn quên mất sự nô lệ, và không c̣n nhắc đến nó nữa, các bạn vẫn c̣n
nhớ đến nó một cách quá rơ, và chính là sự tự do mà các bạn đă quên. Một
pháp môn Yoga thuần túy là một thông điệp tự do cho toàn thể thế giới.
Kế đó, Chân Sư Pouridji thuyết giảng về ư nghĩa thần bí của thánh ngữ
AUM. Sau khi dứt lời, Ngài mời chúng tôi cùng đi theo Ngài đến một động đá
rất lớn ở dưới ḷng đất, tại đây, nhiều vị đạo sĩ Yogi đang ngồi tọa thiền
nhập định. Chúng tôi ở lại ngôi đền và trong động đá này trong chín ngày.
Nhiều vị Yoga đă từng sống tại động đá trong nhiều năm, và khi họ rời khỏi
nơi vắng vẻ cô liêu ấy, họ thực hiện những công tŕnh tốt đẹp về đạo đức tâm
linh giữa những người của dân tộc họ.
Chúng tôi được cho biết rằng sau cuộc hội họp này, nhiều vị Chân Sư
sẽ trở về Ấn Độ do con đường đi đến hồ Sansrawar và Mouktinath. Từ
Mouktinath chúng tôi có thể đi dễ dàng đến Darjeeling. Đó là một tin lành,
và triển vọng được đi chung với các đấng cao cả làm cho chúng tôi rất hănh
diện.
Chúng tôi đi từ động này đến động khác và nói chuyện với nhiều tu sĩ
và đạo sĩ Yogi. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên mà thấy nhiều vị trong số đó
sống tại đây mùa đông cũng như mùa hè. Chúng tôi hỏi họ có bị lạnh v́ tuyết
xuống nhiều vào mùa đông hay không. Họ đáp rằng tuyết không rơi xuống vùng
chung quanh chỗ họ ở, và vùng này không hề có sương mù hay băo tố.
Thời gian qua mau như thoi đưa, và bây giờ chúng tôi đă sắp đến ngày
lên đường.
VII
Sáng ngày chúng
tôi lên đường, tất cả đoàn người đều thức dậy vào lúc ba giờ sáng do bởi
tiếng hát vang của người “Đệ tử
cười”. Chúng tôi nghĩ là chắc có xảy ra chuyện ǵ khác thường, v́ y mời
tất cả chúng tôi hội họp lại trong một lúc. Trong khi chúng tôi bước ra
ngoài, ánh sáng từ đền Pora tat Sanga toát ra với một ánh hào quang rực rỡ
đến nỗi tất cả vùng chung quanh đều chiếu sáng. Người đệ tử đứng ở một góc
đền và yêu cầu chúng tôi chiêm ngưỡng cảnh tượng ấy trong im lặng. Chúng tôi
thấy hằng trăm bóng người đứng yên, hai tay đưa lên. Cơn im lặng bị gián
đoạn bởi những lời kêu gọi:
-Xin chào tất cả các bạn, Chân Sư Pouridji sắp sửa ngâm thánh ca.
Hằng ngh́n giọng cất lên phụ họa với giọng ngâm của Ngài, và tiếng
vang dội lại gây cho người nghe cái cảm giác là c̣n có hằng ngh́n giọng hát
khác nữa. Mỗi chữ vang lên rơ ràng trong cơn im lặng của buổi b́nh minh.
Chân Sư nói:
-Có thể nào có một vị Thượng Đế cho người Ấn Độ, một Thượng Đế cho
người Trung Hoa, một Thượng Đế cho người Do Thái, và một Thượng Đế cho người
Gia Tô chăng? Chỉ có một Nguyên Lư duy nhất, đại đồng và thiêng liêng cai
quản tất cả muôn loại vạn vật. Cái ánh sáng trung ương của Nguyên Lư ấy gọi
là Thượng Đế. Thượng Đế phải là bao gồm hết tất cả. Tất cả đều thấm nhuần sự
sống của Thượng Đế. Điều ấy, chắc hẳn không có nghĩa là có một vị Thượng Đế
cá nhân, riêng biệt cho một nhóm người nào.
Khi chúng ta nói về Thượng Đế, chúng ta chỉ nói có một đấng Duy Nhất,
Ngài là của tất cả, cho tất cả, trong tất cả và xuyên qua tất cả. Nếu người
Ấn Độ đặt một tên cho Thượng Đế của họ, và nói rằng ngoài ra không có đấng
nào khác nữa, th́ tư tưởng của họ đă có sự phân cách. Nếu người Trung Hoa
đặt một tên cho Thượng Đế của họ và nói không có đấng nào khác nữa, tư tưởng
của họ đă bị phân chia. Nếu người Do Thái đặt một tên cho Thượng Đế của họ,
và nói không có đấng nào khác nữa, tư tưởng của họ đă có sự cách biệt. Nếu
người Gia Tô đặt một tên cho Thượng Đế của họ, và nói không có đấng nào khác
nữa, tư tưởng của họ cũng đă bị phân chia. Một cái nhà mà tự nó đă chia rẽ
cách biệt, th́ đă bị tiêu diệt ngay từ trước, và nó phải sụp đổ. Nếu nó hợp
nhất, nó sẽ sống trường cửu. Các bạn hăy chọn lựa xem nên theo đằng nào.
Chia rẽ, cách biệt có nghĩa là phá sản và diệt vong. Hợp nhất trong cái
Nguyên Lư Âm Dương có nghĩa là tiến bộ, danh dự và quyền năng. AUM, AUM,
AUM.
Tiếng thánh ngữ AUM này dường như vang dội đến chỗ tận cùng của thế
giới. Chúng tôi có thể nghe tiếng ngân của nó vang dội lại trong ít nhất là
mười phút, dường như tiếng cồng của ngôi đền điểm giờ khắc trôi qua. Có
những lúc, dường như các tảng đá cũng thốt ra tiếng ngân đó. Trong khi những
âm hưởng vang dội lại đă tan dần, tất cả những người hành hương đều tề tựu
trong hang đá ở phía dưới ngôi đền, và chúng tôi cũng đến họp chung với họ.
Khi nhóm chúng tôi đă ngồi xuống, đạo sĩ Santi đưa tay lên khỏi đầu,
và tất cả mọi người đều đồng thanh cất tiếng ngâm thánh ngữ AUM như trước.
Lại một lần nữa, những vách đá phản ảnh lại tiếng vang. Tiếng dội kéo dài
cho đến khi chúng tôi đứng dậy, và tất cả đều giữ một lúc im lặng. Kế đó,
người đệ tử cất tiếng hát:
-Chúng tôi sẽ từ giă các bạn. Chúng tôi gởi cho các bạn những lời
chúc lành sâu đậm nhất, khi chúng tôi phải cách biệt với sự hiện diện khả ái
của các bạn. Chúng tôi yêu cầu các bạn hăy dành cho chúng tôi cái danh dự
được tiếp đón các bạn một lần nữa. Chúng tôi rất do dự phải chia tay với các
bạn. Chúng tôi mong ước các bạn sẽ trở lại và có ngày sẽ tái ngộ với chúng
tôi. Cầu xin cho các bạn hăy nhận được những ân huệ tốt đẹp của các đấng
thiêng liêng.
Câu trả lời đến ngay dường như chỉ thốt ra bởi một người:
-Các bạn thân mến, chúng ta không bao giờ cách biệt nhau dầu các bạn
tưởng rằng không gian đào một vực thẳm giữa chúng ta. Không, không gian
không thể nào chia rẽ chúng ta, v́ Thượng Đế thấm nhuần tất cả không gian và
nối liền các bạn với chúng tôi. Chúng tôi cũng không cảm thấy cần thốt ra
lời từ giă các bạn, v́ chúng tôi luôn luôn vẫn nh́n thấy các bạn ở trước mặt.
Những sự di chuyển của các bạn không phải là những chuyến đi và đến. Các bạn
luôn luôn vẫn ở đây. Biệt ly, thời gian, quên lăng, không hề có. Hiện tại là
ở đây, và tương lai cũng là ở đây. Chúng ta có thể ở tại nơi đâu, nếu không
phải là tất cả cùng ở nơi Thượng Đế?
Chúng tôi đă đi được một quăng đường dài khi những lời sau này vọng
đến tai chúng tôi. Những bước chân dong ruổi trên đường lộ đưa chúng tôi đi
xa, nhưng ḷng chúng tôi vẫn c̣n ở
Pora tat Sanga. Thật quả là không có sự biệt ly, và chúng tôi không hề
cảm thấy rằng đă rời khỏi nơi thánh điện tôn nghiêm đó.
Trên đường về, người đệ tử đưa đường cho chúng tôi vẫn luôn luôn cất
tiếng hát vang và cười rất vui vẻ. Cũng như lần trước, giọng hát tiếng cười
của y dường như giúp chúng tôi vượt qua dễ dàng tất cả những đoạn đường khó
khăn gập ghềnh. Vào lúc hai giờ trưa, chúng tôi đi qua thị trấn Maha Muni,
nhưng thay v́ dừng chân tại đây để nghỉ ngơi, chúng tôi vẫn tiếp tục đi thêm
mười sáu giờ đồng hồ, và vượt qua trên một trăm hai chục cây số. Tuy vậy,
chúng tôi không hề cảm thấy mệt nhọc chút nào, và cuộc hành tŕnh vẫn tiếp
tục như thế cho đến bờ hồ Sansrawar.
Tại đây, người ta đưa chúng tôi đến nghỉ tại một ngôi đền rất mỹ lệ ở
gần bên bờ hồ. Chúng tôi nghỉ ngơi suốt hai ngày trước khi tiếp tục lộ tŕnh
đi qua truông núi trên dăy Tuyết Sơn. Địa điểm này phong cảnh u nhă và có vẻ
rất thần tiên. Hồ nước phẳng lặng và xanh biếc như viên ngọc nằm giữa một
khung cảnh núi non hùng vĩ bao bọc chung quanh. Các loài chim ca hát líu lo
trên các cây cổ thụ tỏa bóng mát quanh hồ. Nhiều vị Chân Sư cùng đi với
chúng tôi cư ngụ tại đây.
Chúng tôi tiếp tục lộ tŕnh đến Mouktinath cùng với đạo sĩ Santi.
Chúng tôi thường nghe nói về sự cheo leo hiểm trở của truông núi trên dăy
Tuyết Sơn. Chuyến du hành kéo dài suốt nhiều ngày, nhưng chúng tôi đi đường
một cách dễ dàng suông sẻ và đến Mouktinath đúng ngày giờ đă định. Tại đây,
chúng tôi được sự tiếp đón nồng nhiệt của đức Tuệ Minh và nhiều vị siêu nhân
khác. Những lời nói không thể nào diễn tả được sự vui mừng vô hạn của chúng
tôi trong dịp tái ngộ này. Chúng tôi đă từng đi đến tận những vùng xa xôi
cách trở, và đă được dành cho một sự tiếp đăi trọng hậu và khả ái nhất đời.
Tuy nhiên, chính tại đây mà chúng tôi mới cảm thấy ḿnh đă thật sự “trở
về nhà”.
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES