|
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES
|
Bản Dịch Chơn Như 2010 |
|
CÁC NHÓM THÔNG THIÊN HỌC
NÊN NGHIÊN CỨU ĐIỀU G̀?
PHẦN
MỘT
Xuất bản trong Tạp chí Nhà Thông
Thiên Học số tháng 4 năm 2007
Có những thắc mắc
thường nảy sinh về việc các Chi bộ và nhóm Thông Thiên Học khác nên nghiên
cứu điều ǵ, nhất là liệu họ có bị phản đối khi nghiên cứu tác giả này hoặc
tác giả kia, đề tài này hoặc đề tài kia hay chăng v.v. . .
Có lẽ người ta thắc mắc như vậy v́ Hội là một tổ chức phi giáo điều
và bởi v́ thuật ngữ “Thông Thiên Học” không hề được đề cập tới trong ba Mục
tiêu của Hội. Tuy nhiên rơ ràng Thông Thiên Học lại là tên của Hội chúng ta,
v́ vậy ta khó ḷng mà ngờ vực được nó tồn tại một tập hợp giáo huấn ẩn dưới
thuật ngữ ấy. Bởi v́ không một người nào nói lên thẩm quyền thay cho Hội,
bất cứ ai cũng chỉ có thể tŕnh bày một quan điểm cá nhân về vấn đề này; thế
nhưng quan điểm sau đây vốn dựa trên óc phân biệt phải trái b́nh thường.
Đoàn thể quốc tế
quản trị Hội chính là Đại Hội Đồng bao gồm các Tổng Thư kư của mỗi Xứ bộ,
các chức sắc quốc tế và một số giới hạn những thành viên phụ trợ. Trải qua
nhiều năm, Đại Hội Đồng đă đưa ra nhiều phát biểu khác nhau, trong số đó có
hai phát biểu đặc biệt quan trọng. Hai phát biểu này được gọi là
“Tự Do Tư Tưởng” và “Quyền Tự Do của Hội” vốn
bổ sung cho nhau; khi kết hợp lại, chúng giải đáp được những thắc mắc thuộc
loại nêu trên. V́ tầm quan trọng của những nghị quyết này cho nên chúng đáng
để cho ta xem xét tỉ mỉ và quan tâm tới.
TỰ DO
TƯ TƯỞNG
V́
Hội Thông Thiên Học đă được truyền bá sâu rộng ở thế giới văn minh và tín đồ
của mọi tôn giáo đều trở thành hội viên Thông Thiên Học mà không từ bỏ những
giáo điều, giáo huấn và đức tin đặc biệt trong tín ngưỡng của riêng ḿnh,
cho nên thiết tưởng ta cũng nên nhấn mạnh tới sự kiện không một giáo lư,
không một ư kiến do bất kỳ ai giảng dạy hoặc chủ trương mà lại được ràng
buộc bất kỳ hội viên Thông Thiên Học nào; bất kỳ hội viên nào cũng được tự
do chấp nhận hoặc bác bỏ những điều nêu trên. Chỉ cần tán thành ba Mục tiêu
của Hội là đủ tư cách làm hội viên Thông Thiên Học.
Không một huấn sư hoặc tác giả nào từ H. P. Blavatsky trở xuống, lại có thẩm
quyền áp đặt giáo huấn hoặc ư kiến của ḿnh lên hội viên. Mọi hội viên đều
có quyền b́nh đẳng gắn bó với bất kỳ huấn sư hoặc trường phái tư tưởng nào
mà ḿnh thích, nhưng không có quyền áp đặt sự chọn lựa của ḿnh lên hội viên
khác.
Không một ứng viên của bất kỳ chức vụ nào, không một cử tri nào có thể bị
mất quyền ứng cử hoặc bầu cử chỉ v́ y đă chủ trương bất cứ ư kiến nào hoặc
v́ y thuộc về bất cứ trường phái tư tưởng nào. Các ư kiến hoặc niềm tin
không mang lại đặc quyền mà cũng chẳng khiến người ta bị trù ếm. Các Hội
viên thuộc Đại Hội Đồng tha thiết yêu cầu mọi hội viên Thông Thiên Học hăy
vững vàng bảo vệ và hành động theo những nguyên tắc căn bản của Hội, vận
dụng quyền tự do tư tưởng và phát biểu của chính ḿnh một cách vô úy, trong
giới hạn của phép lịch sự và tôn trọng lẫn nhau.
Phát biểu “Tự Do Tư Tưởng” nêu trên (do bà Annie Besant viết ra năm 1923 và
được Đại Hội Đồng thông qua năm 1924) là lời khẳng định minh bạch dứt khoát
về bản chất phi giáo điều của Hội Thông Thiên Học,
bảo đảm cho các cá nhân quyền chấp nhận hoặc bác bỏ bất cứ ư tưởng nào về
Thông Thiên Học (hoặc ư tưởng khác) mà họ thích và thuộc về bất cứ tổ chức
hoặc trường phái tư tưởng nào bên ngoài Hội mà họ mong muốn. Các tổ chức độc
quyền cũng như nhiều hệ thống tín ngưỡng đều đưa ra sức cấm thành viên của
ḿnh gia nhập bất kỳ nhóm nào khác hoặc bị tiêm nhiễm những ư tưởng khác;
Hội Thông Thiên Học không phải là một trong những thứ nêu trên. Ngược lại,
Hội Thông Thiên Học kiên định cam kết ủng hộ nguyên lư vĩ đại về tự do và
trách nhiệm cá nhân.
Trong một thế giới đang bị chủ nghĩa chính thống với đầu óc hẹp ḥi
đe dọa về nhiều mặt th́ nguyên lư này về “Tự Do Tư Tưởng” thật là quí báu.
Phát biểu Tư Do Tư
Tưởng này – vốn chủ yếu nhằm bảo đảm cho quyền lợi cá nhân – lại được bổ
sung bởi một phát biểu khác trước hết nhằm bảo đảm quyền lợi tập thể:
QUYỀN
TỰ DO CỦA HỘI
Trong khi cộng tác với mọi đoàn thể khác có mục đích và hoạt động khiến đôi
bên có thể hợp tác được, Hội Thông Thiên Học ắt là và vẫn c̣n là một tổ chức
hoàn toàn độc lập với những đoàn thể khác, không cam kết theo bất cứ mục
tiêu nào ngoại trừ theo mục tiêu của chính ḿnh và dự tính phát triển công
tŕnh của riêng ḿnh theo những đường lối bao quát và bao dung nhất sao cho
tiến tới mục tiêu của chính ḿnh được biểu thị theo việc đeo đuổi những mục
đích ấy cùng với Minh triết Thiêng liêng vốn đă được hàm ư một cách trừu
tượng trong tiêu đề của Hội Thông Thiên Học.
V́ T́nh Huynh Đệ Đại Đồng và Minh Triết vốn chẳng ai định nghĩa và giới hạn
được, v́ mỗi một và mọi hội viên đều được hoàn toàn tự do tư tưởng và hành
động cho nên Hội bao giờ cũng ra sức duy tŕ đặc trưng độc đáo và duy
nhất của riêng ḿnh bằng cách không gia nhập hoặc đồng nhất hóa với bất kỳ
tổ chức nào khác.
Phát biểu “Tự Do của
Hội” (được chọn theo năm 1949) có động cơ thúc đẩy là muốn khẳng định sự độc
lập của Hội đối với bất kỳ tổ chức nào khác kể cả những phong trào có liên
quan với Hội xét về mặt lịch sử chẳng hạn như Hội Tam Điểm Công đồng và Giáo
hội Công giáo Tự do vốn có một số lượng đáng kể hội viên, vừa là thuộc bên
này vừa là thuộc bên kia. Tuy nhiên việc nói rơ như vậy áp dụng cho mối liên
kết của Hội với bất kỳ tổ chức nào khác ít liên quan mật thiết hơn hoặc hệ
thống tư tưởng có tổ chức nào khác cho dù hệ thống này có giá trị đến đâu đi
nữa.
Trong quyển Ch́a Khóa Thông Thiên Học,
bà Blavatsky có bảo rằng “Hội Thông Thiên Học được thành lập để giúp việc
chỉ ra cho nhân loại rằng có tồn tại một điều ǵ đó tên là Thông Thiên Học
và giúp người ta thăng tiến hướng theo Thông Thiên Học bằng cách nghiên cứu
và đồng hóa những sự thật vĩnh hằng”.
Mặc dù Hội không bắt buộc hội viên có bổn phận chấp nhận các giáo điều,
nhưng nó là một kho chứa Truyền thống Minh triết cổ truyền mà bà Blavatsky
và những người kế nghiệp đă khổ công đào luyện cho thời đại chúng ta. Với
chức năng giáo huấn, Hội tồn tại để tiếp nhận, tái minh định và truyền bá
Truyền thống ấy.
Phát biểu về “Quyền Tự Do của Hội” khẳng định việc Hội không dính mắc với
bất kỳ tổ chức nào khác và khẳng định Hội trung thành với mục tiêu của riêng
ḿnh chứng tỏ rằng “Thông Thiên Học tồn tại”.
Hai phát biểu này về
“Quyền Tự Do Tư Tưởng” và “Quyền Tự Do của Hội” đề cập tới những vấn đề rất
nhạy cảm dai dẳng từ lâu này trong các nhóm Thông Thiên Học
xem họ nên nghiên cứu những điều ǵ. Với tư cách cá nhân, các nhà
Thông Thiên Học có quyền nghiên cứu và thực hành bất kỳ hệ thống tư tưởng
nào mà ḿnh thích. Các nhóm Thông Thiên Học cũng như các Chi bộ chính thức
của Hội đều có nghĩa vụ phải nghiên cứu và giảng dạy Thông Thiên Học.
Vậy
“nghiên cứu và giảng dạy Thông Thiên Học” là ǵ? Nó bao gồm một hoạt động
hai mặt.
Một mặt, chúng ta phải đào sâu kiến thức của chính ḿnh về truyền thống
Thông Thiên Học để cho những người khác cũng biết được nó.
Mặt khác, chúng ta nên vươn ra nghiên cứu và t́m hiểu đủ thứ nền văn hóa,
phong tục và khảo hướng sinh hoạt theo viễn cảnh Thông Thiên Học.
Một
khẩu hiệu xưa cũ chủ trương rằng “Thông
Thiên Học là tất cả, nhưng không phải thứ ǵ cũng là Thông Thiên Học”;
điều này ngụ ư rằng mọi thứ đều có thể xem xét theo quan điểm Thông Thiên
Học, mặc dù không phải quan điểm nào cũng đều là của Thông Thiên Học. Chúng
ta có thể xem xét bất kỳ ư tưởng hoặc hệ thống tư tưởng nào qua đôi mắt của
nhà Thông Thiên Học, và khi làm như vậy, chính ta đang nghiên cứu và giảng
dạy Thông Thiên Học. Nhưng nếu chúng ta quen thói tŕnh bày những hệ thống
tư tưởng phi Thông Thiên Học theo thuật ngữ chính tông của họ th́ chúng ta
không c̣n “nghiên cứu và giảng dạy Thông Thiên Học” nữa, mà lại đang tuyên
truyền một hệ thống tư tưởng nào khác trong môi trường Thông Thiên Học.
Một ví dụ đặc biệt
có thể giúp ta hiểu rơ. Chủ thuyết Mormon có những điều thú vị nào đó song
hành với tư tưởng Thông Thiên Học (dĩ nhiên cũng có một số sự dị biệt nổi
bật). Một nhóm Thông Thiên Học có thể muốn đặt chương tŕnh nghiên cứu đối
chiếu và so sánh chủ thuyết Mormon theo viễn cảnh Thông Thiên Học, có lẽ bao
gồm cả chương tŕnh khảo sát chủ thuyết Mormon theo những giả định của chính
nó trong nỗ lực t́m hiểu khảo hướng tôn giáo ấy.
Tuy
nhiên nếu thay vào đó nhóm này lại dồn hết thời giờ nghiên cứu
Thánh Thư Mormon, Viên Ngọc Trai Vô
cùng Quí báu, Các Giáo lư và Giao Ước cùng với những văn bản khác của
Mormon, rồi lại theo những nghi thức tôn giáo thuộc kiểu Mormon, th́
nhóm
này không c̣n đóng vai tṛ một nhóm Thông Thiên Học nữa mà đă trở thành một
đoàn thể tân ṭng của Chủ thuyết Mormon.
Nhóm này lúc bấy giờ đâu c̣n thỏa măn chủ đích của Thông Thiên Học nữa theo
như nó được tổ chức, mà thật ra đă vi phạm phát biểu về “Quyền Tự Do của
Hội”. Các hội viên cá nhân nào tin theo giá trị của Chủ thuyết Mormon được
tự do gia nhập Giáo hội Mormon hoặc tổ chức nhóm nghiên cứu Mormon của riêng
ḿnh,
nhưng
không được cải giáo một nhóm Thông Thiên Học trở thành một nhóm Mormon.
Cũng chính
điều ấy có thể được phát biểu đối với một số lớn hệ thống tư tưởng khác, một
số gần gũi với Thông Thiên Học theo ḍng lịch sử chẳng hạn như Nhân triết
học (Anthroposophy), Ḍng tu B́nh minh Hoàng kim (Order of the Golden Dawn),
Phong trào Chơn thần ta là Tự ngă (the I Am Movement), Giáo hội Đại đồng và
Khải hoàn (Church Universal and Triumphant), kho tài liệu Bailey (Bailey
literature), Astara, v.v. . .
Điều này không ngụ ư có điều ǵ trục trặc đối với bất kỳ hệ thống nào nêu
trên,
nhưng mặc dù chúng đều bắt nguồn từ
Thông Thiên Học, song không một phong trào nêu trên nào là Thông Thiên Học.
Các phong trào ấy đều có giáo huấn,
phép thực hành và tổ chức đặc thù riêng
mà bất cứ ai – theo đúng phát biểu về “Quyền Tự Do Tư Tưởng” – đều được tự
do gắn bó, nhưng không được lẫn lộn các phong trào ấy với truyền thống Thông
Thiên Học vốn có “đặc trưng độc đáo và độc nhất vô nhị của nó”.
Điều này cũng đúng với các hệ thống khác chẳng hạn như Kabalah, thuyết Sufi
v.v. . .
Vậy là việc
giải đáp thắc mắc xem nên nghiên cứu những ǵ – vốn là trọng tâm của mọi
nhóm Thông Thiên Học – đều được tập trung vào truyền thống Thông Thiên Học.
Bằng không th́ tại sao nhóm này lại tự xưng là Thông Thiên Học?
Một truyền thống Thông Thiên Học
rất trong sáng, bắt nguồn từ H. P. Blavatsky và H. S. Olcott, rồi lại được
biết bao người khác khổ công vun bồi, bao gồm cả bà Annie Besant với các
cộng sự và những người kế nghiệp xuống măi tới vị Hội Trưởng hiện nay của
chúng ta là Radha Burnier.
Không một người nào trong chư vị nêu trên đều không thể sai lầm hoặc là nhân
vật đầy thẩm quyền. Nhưng khi xét gộp lại th́ công tŕnh của họ hợp thành
một đoàn thể nhất quán xiển dương Minh triết Cổ truyền mà chúng ta gọi là
Thông Thiên Học.
Ngoài đoàn thể
giáo huấn nhất quán trên, ta có thể nghiên cứu nhiều điều khác nữa
miễn là ta tiếp cận chúng theo quan
điểm Thông Thiên Học, bởi v́ Thông Thiên Học là tất cả.
Nhưng nếu trọng tâm của
bất kỳ nhóm nào không c̣n chủ yếu là Thông Thiên Học nữa mà thay vào đó trở
thành một điều ǵ khác, th́ nó không c̣n phục vụ cho mục đích vốn nó đă được
h́nh thành,
bởi v́ đâu phải thứ ǵ cũng là
Thông Thiên Học.
Các Xứ bộ thuộc quốc gia và thuộc vùng cũng như các nhóm
địa phương đều hoàn toàn được thỏa đáng tự trị trong việc xác định ḿnh nên
nghiên cứu điều ǵ. Nhưng nếu bất kỳ nhóm nào muốn được gợi ư th́ họ có thể
tham khảo Xứ bộ quốc gia hoặc Hiệp hội Thông Thiên Học vùng. Nhiều đoàn thể
ở cấp quốc gia hoặc vùng đều có nhiều thông tin phong phú gợi ư về các đề
tài Thông Thiên Học và cách thức tŕnh bày. Họ thật là hạnh phúc khi chia xẻ
những tài nguyên này cho nhau. Ta có thể hữu ích đối với Tổng Hành Dinh quốc
tế khi vạch ra một danh sách để t́m kiếm thông tin như trên và nếu ai quan
tâm đến việc làm như thế th́ ta có thể xây dựng kế hoạch cho năm tới. Vốn có
sẵn nhiều tài nguyên phong phú và dồi dào để giúp cho ta qui hoạch các hoạt
động của nhóm dựa vào “những đường lối bao quát và bao dung nhất” theo như
phát biểu “Quyền Tự Do của Hội”.
Chủ đích của các nhóm Thông Thiên
Học là nghiên cứu Thông Thiên Học và giúp cho những người khác biết tới nó.
Ta có thể thực hiện chủ đích ấy bằng cách tập trung vào truyền thống ban đầu
của Thông Thiên Học, không phải theo bất kỳ ư nghĩa hẹp ḥi nào mà là theo
sự phong phú và đa dạng. Ta có thể thực hiện điều ấy bằng cách ứng dụng
truyền thống Thông Thiên Học, dùng nó làm một lăng kính thông qua đó để ngắm
nh́n một loạt những chủ đề thích đáng khác.
Chủ điểm mà ta cần tâm niệm là:
Thông Thiên Học là tất cả nhưng không
phải thứ ǵ cũng là Thông Thiên Học.
Tiến sĩ John Algeo,
là Phó Hội Trưởng Quốc tế của Hội
Thông Thiên Học và là Giáo sư Danh hàm ở Viện Đại Học Georgia, Mỹ, với nhiều
học vị đầy uy tín.
CÁC NHÓM THÔNG THIÊN HỌC
NÊN NGHIÊN CỨU ĐIỀU G̀?
PHẦN HAI
Trong số tháng 4 năm
2007 của Tạp chí Nhà Thông Thiên Học,
người ta có thắc mắc về việc các nhóm Thông Thiên Học nên nghiên cứu điều ǵ
và nói chung đă được giải đáp. Kể từ đó trở đi người ta đă nhận được thông
tin phản hồi cho thấy rằng những chỉ đạo nói chung này thật là hữu ích,
nhưng những người chịu trách nhiệm lên kế hoạch cho các Chi bộ và các trung
tâm nghiên cứu lại muốn có những
gợi ư chuyên biệt hơn, chính xác là giáo huấn nào mà họ nên truyền bá, v́
vậy có một danh sách th́ cũng tốt thôi.
Không một nhà Thông
Thiên Học nào có thể bảo người khác chính xác là họ “nên” truyền bá giáo
huấn nào. Nhưng chúng ta có thể nói về những khía cạnh Thông Thiên Học mà
chúng ta “có thể” nâng tầm hiểu biết ḿnh lên khi tự thân chúng ta điều tra
nghiên cứu.
Danh sách những đề
tài khả hữu như thế rất thường được vạch ra. Chẳng hạn như mới gần đây, Thư
kư quốc tế là Cô Mary Anderson đă đưa ra một danh sách như vậy trong một tài
liệu được xuất bản tháng 4 năm 2007 cũng trên
Tạp chí Nhà Thông Thiên Học nêu
trên với tựa đề “Nấc Thang Jacob”. Khi đọc bài ấy người ta ắt có một danh
sách hay ho về những đề tài căn bản của Thông Thiên Học. Danh sách ấy đưa ra
một số chủ đề chẳng hạn như “sự sáng tạo” hoặc nhất bổn tán vạn thù của vũ
trụ, sự tiến hóa, các giới trong Thiên nhiên, luân hồi, sự cấu tạo con
người, sự tiến bộ của con người, thánh đạo và sự toàn hiện (có mặt ở khắp
nơi của Thượng Đế).
Khi đọc đi đọc lại
các tựa đề của chương trong bất kỳ quyển sách dẫn nhập hay ho nào về Thông
Thiên Học, ta cũng được gợi ư về một loạt những đề tài này.
Trang web quốc tế của
Hội có một trang nói về Những điều
căn bản trong Minh triết Thiêng liêng
(http:/www.ts-adyar.org/theosophy.html). Nó liệt kê 6 giáo điều chính yếu:
tâm thức trong vũ trụ và tâm thức nơi cá thể, tính bất tử của con người,
luân hồi, nghiệp báo, t́nh huynh đệ đại đồng và cơ tiến hóa của Thượng Đế.
Mỗi chủ đề này có một phần tổng quan nêu bật những điều cốt lơi của nó bằng
ngôn ngữ dễ hiểu.
Có một cách khác để
hiểu được các giáo huấn chuyên biệt nhằm tŕnh bày trong một nhóm Thông
Thiên Học, đó là việc nh́n vào danh sách tác tác phẩm được xuất bản của Nhà
Xuất bản Thông Thiên Học. Dĩ nhiên, không phải mọi quyển sách do Nhà Xuất
bản Thông Thiên Học ấn hành đều thích hợp như nhau để dùng làm đề tài giới
thiệu cho một nhóm Thông Thiên Học bởi v́ một số có tính cách chuyên môn rất
cao. Nhưng khi nh́n vào các danh sách nói chung, ta có thể bao quát được một
phạm vi rộng răi các đề tài mà bất kỳ nhóm nào cũng có thể tập trung vào đó
nhằm khiến cho người ta biết rơ hơn về Thông Thiên Học.
Bởi v́ người ta có
yêu cầu một danh sách, cho nên dưới đây là một số ư tưởng căn bản mà ta có
thể t́m thấy trong kho tài liệu Thông Thiên Học và nhiều nhà Thông Thiên Học
ắt phải coi đó chẳng phải là mang tính xác định hoặc hạn chế mà chỉ mang
tính đại diện.
1.- Tính đơn nhất căn
bản của toàn thể nhân loại, và thật ra là của mọi sự sống và của toàn thể
chúng sinh.
2.- Giá trị của các
khảo hướng đa bội về Chân lư: mang tính khoa học, triết học và tôn giáo.
3.- Giá trị của đủ
thứ nền văn hóa xuyên suốt lịch sử loài người khi chúng biểu diễn những khảo
hướng khác nhau và bổ sung cho nhau về cuộc đời.
4.- Sự tồn tại các
điều bí nhiệm trong vũ trụ và nơi con người vốn vượt ngoài tầm bất kỳ hệ
thống tư tưởng nào mà ta phải hiểu đầy đủ.
5.- Khả năng của con
người sử dụng lư trí và óc tưởng tượng để đối phó với cả những bí pháp lẫn
những vấn đề của cuộc sống.
6.- Việc nhận ra
những sự tương ứng xuyên suốt càn khôn, nhờ đó ta có thể suy ra những sự
việc mà ta không trực tiếp trải nghiệm – đây là một sự thừa nhận được gọi là
Đại Công Lư Tiên Đề của Hermes.
7.- Quyền và trách
nhiệm của mọi cá nhân khám phá sự thật cho bản thân ḿnh.
8.- Thực tại về một
Chân lư tuyệt đối vốn chỉ có thể biểu diễn bằng những thuật ngữ tương đối
trong cái thế giới tương đối tức māyā này.
9.- Nghĩa vụ của mỗi
một người trong chúng ta phải tôn trọng những khảo hướng Chân lư khác hơn
khảo hướng của chính ḿnh.
10.- Sự siêu việt của
Thực tại tối hậu vượt ngoài tầm mọi quan niệm của con người, tuy nhiên nó có
khả năng được con người trải nghiệm trực tiếp.
11.- Tính tam bội của
Thực tại tối hậu xoắn xít vào nhau thành ra tâm thức vật chất và năng lượng.
12.- Sự hiện diện của
sự sống và tâm thức nơi mọi h́nh tướng vật chất trong khắp cả vũ trụ dưới
những dạng phân bậc tức là “các giới trong thiên nhiên”.
13.- Sự tiến hóa tuần
hoàn và tiệm tiến trải qua nhiều thời đại của tâm thức và trí tuệ đi kèm
thêm với những h́nh tướng thể chất.
14.- Sự phát triển
tiệm tiến trải qua thời gian của các thực thể riêng rẽ hướng về việc ngộ ra
được tính đơn nhất và tổng thể tâm linh của ḿnh.
15.- Nghĩa vụ của mỗi
người phải xúc tiến phúc lợi tổng thể của tất cả - của những con người khác
(không kể giống dân, giới tính hoặc dân tộc) cũng như các con thú và thế
giới tự nhiên.
16.- Sự luân hồi – sự
tái nhập thể lần lượt thuộc tâm thức cốt lơi của ta – sao cho sống và chết
là những trải nghiệm được lập lại trong sự phát triển của chúng ta.
17.- Nghiệp báo –
nguyên lư hài ḥa, cân bằng, quân b́nh – duy tŕ trật tự trong vũ trụ một
cách vô ngă.
18.- Tính vô hại và
ưa cứu giúp – cái nguyên lư mà ta nên đối xử với người khác giống như ta
muốn người khác đối xử với ḿnh.
19.- Sự tồn tại của
các thế giới hoặc “cơi” đa bội vượt ngoài tầm các chiều kích thuộc vật lư
khác hơn so với thời gian-không gian mà chúng ta đồng thời vận hành trong
tất cả những thứ đó.
20.- Tính phức hợp
thất bội của cấu tạo con người, những khía cạnh của chức năng hoạt động
trong các thế giới đa bội ấy tức là các chiều kích tồn tại.
21.- Sự hiện diện nơi
cốt lơi trong bản thể của ta một điểm linh quang về Thực tại tối hậu thiêng
liêng.
22.- Sự tồn tại của
các sinh linh vốn đă đạt được sự giác ngộ và đă phát nguyện giúp đỡ người
khác cũng thành tựu được như ḿnh, đó là các đại huấn sư của loài người.
23.- Sự tồn tại của
một đoàn thể cổ truyền các giáo huấn vượt ngoài ṿng thời gian, một thế giới
quan – Truyền thống Minh triết mà ta có thể thấy dưới nhiều dạng khác nhau
trong mọi nền văn hóa trên thế giới.
24.- Trách nhiệm của
mọi người về tác động và phản tác động của chính ḿnh và thế là khả năng
chiến thắng chứ không phải trở thành nạn nhân.
25.- Quyền năng tư
tưởng của chúng ta ảnh hưởng tới bản thân, môi trường xung quanh và những
người khác; do đó trách nhiệm của ta nhằm sử dụng quyền năng ấy được tốt
hơn.
26.- Sự tồn tại của
trật tự, chủ đích và ư nghĩa trên thế giới, sự phát triển của thế giới tuân
theo một thiên cơ có thể hiểu được.
27.- Thực tại về một
chủ đích và ư nghĩa trong cuộc đời của mỗi cá thể mà để phát triển ra nó mỗi
người trong chúng ta đều được hiệu triệu qua bản chất nội tâm của chính
ḿnh.
28.- Khả năng chúng
ta tích cực tham gia vào sự tiến hóa tiệm tiến của vũ trụ.
29.- Sự hoàn thiện
tối hậu trong bản chất con người, xă hội và môi trường xung quanh mà người
ta kêu gọi chúng ta phải phấn đấu hướng về nó.
30.- Bổn phận của mỗi
người là nhằm thực hành ḷng vị tha – quan tâm giúp đỡ người khác thành tựu
được sự toàn bích tối hậu cố hữu của chính ḿnh.
31.- Sự tồn tại của “Thánh
Đạo” hoặc đường lối đẩy nhanh cơ tiến hóa cá thể của chính ta vốn sẵn có đối
với mọi người nào mưu t́m nó.
32.- Tính t́nh của ta
là sản phẩm của quá khứ và sự vẫy gọi của tương lai – ta vừa đă là cái ấy
vừa sẽ trở thành cái ấy sao cho do chính tác động của ḿnh, ta sẽ tái tạo
bản thân.
33.- Năng lực của ta
nhằm vận dụng quyền tự do ư chí để tối ưu hóa các hậu quả của quá khứ và
chọn lựa con đường dẫn đến tương lai.
34.- Việc nhận ra
được các vấn đề xă hội về chiến tranh, dân số nheo nhóc, bốc lột, thành kiến,
áp bức, tham lam và thù ghét là những triệu chứng của một căn bệnh dựa vào
ảo tưởng cho rằng ḿnh có thể thăng tiến qua sự thiệt hại của người khác,
phương thuốc chữa trị nó là công nhận rằng chúng ta đồng nhất với nhau và
đồng nhất với mọi sự sống trong vũ trụ.
35.- Sự chắc chắn mà
Krishna dành cho Hoàng tử Arjuna cũng như Đấng Ki Tô dành cho bà Julian ở
36.- Việc cam kết
sống một cuộc đời có trách nhiệm tập thể trên cương vị là thành viên của một
nhóm hoạt động viên cốt lơi tận tụy với việc ngộ ra được cái chủ đích tối
hậu ấy.
Tiến sĩ John Algeo,
là Phó Hội Trưởng Quốc tế của Hội Thông Thiên Học và là Giáo sư Danh hàm ở
Viện Đại Học Georgia, Mỹ, với nhiều học vị đầy uy tín.
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES