Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  BOOKS  MAGAZINES

 

ẤN ĐỘ GIÁO
(Bà La Môn)
(Một bài thuyết tŕnh trước Đại hội)
Tác giả ANNIE BESANT
Bản Dịch Chơn Như - 2008

 

THƯA CÁC HUYNH ĐỆ,

 

Từ khi tôi đứng trên bục giảng này để truyền bá các tư tưởng về tôn giáo và triết học, tôi chưa bao giờ cảm thấy nhiệm vụ mà ḿnh đảm đương lại khó khăn hơn mức tôi cảm thấy trong dịp này. Chỉ nội sự kiện bàn tới các tôn giáo lớn (mỗi tôn giáo chỉ được cô đọng trong một bài thuyết tŕnh duy nhất) tự thân nó cũng đủ làm hoảng sợ những diễn giả táo bạo nhất; và khi bạn xét thấy rằng những vấn đề tôn giáo này có liên quan mật thiết tới xúc cảm của thính giả, và người ta đang đi tới tận gốc rễ trong thâm tâm con người khi xét hết đức tin này tới đức tin khác th́ lẽ ra người ta đang bàn tới những vấn đề phải thống nhất được con người, mà thật ra lại chia rẽ con người rất nhiều, th́ bạn mới đánh giá được cái sự ngần ngại mà tôi cảm thấy khi cố gắng vật lộn (theo bất kỳ nghĩa đen hay nghĩa bóng) với một nhiệm vụ to lớn như thế. Ta chỉ có thể hiểu được tôn giáo qua sự đồng cảm, tôn giáo chỉ có thể được phô diễn qua một diễn giả đă biết tạm thời đặt ḿnh vào trong tâm của tôn giáo ấy để tŕnh bày nó đúng như nó xuất hiện với các tín đồ thuần thành và uyên bác nhất. Thế mà tôi đang cố gắng làm điều này đối với một trong những tôn giáo lớn vốn đă uốn nắn các nền văn minh của con người, đă tô điểm cho tư tưởng và đă an ủi tâm hồn của đại đa số nhân loại.

Tôn giáo lớn đầu tiên mà tôi đang bàn tới là tôn giáo đôi khi được gọi là Ấn Độ giáo, đôi khi được gọi là Bà la môn giáo; đây là tôn giáo của đa số người ở xứ sở này và nó bắt nguồn nơi miền Bắc xứ này. Tôi xin bắt đầu bằng cách nhắc cho các bạn nhớ rằng giống dân Aryen này là giống dân thứ 5 trong lộ tŕnh tiến hóa của loài người và trong trường hợp giống dân này cũng như trường hợp giống dân có trước nó, người ta đă tuân theo một kế hoạch nhất định để tạo lập và rèn luyện nó. Từ tinh hoa của giống dân thứ tư có trước nó vào một thời xa xưa đến nỗi nếu có ai đưa ra th́ khoa học hiện đại cũng chỉ biết chế nhạo, Đức Bàn Cổ đă chọn ra các gia đ́nh để tạo nên giống dân sắp tới. Các gia tộc ấy được cách ly khỏi loài người trước kia, được ly khai và tách riêng ra để rồi trong một thời gian rất lâu dài chúng đă được rèn luyện, dẫn dắt và giáo dục dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đức Bàn Cổ và các bậc đại Điểm đạo đồ tu tập quanh Ngài để trợ giúp Ngài trong nhiệm vụ hùng vĩ này. Thế là các đặc trưng của giống dân mới đă được ghi dấu lên giống dân cũ. Khi nhiệm vụ sơ khởi ấy đă hoàn tất th́ giống dân mới được cấy trồng ở nơi mà ta có thể gọi là nơi chôn nhau cắt rún của nó. Bằng cách này giống dân Aryen đă được tạo lập, rèn luyện và được ghi khắc các đặc trưng của riêng ḿnh; gia tộc đầu tiên thuộc ḍng dơi này (các gia tộc khác sau này đều bắt nguồn từ đó mà ngày nay ta gọi là người Ấn Độ, nhưng vào thời sơ khai bao giờ cũng được gọi là người Aryen) được định cư ở miền Bắc Ấn Độ tại một vùng tên là Āryāvarta. Ở đó, nó dần dần được tiến hóa theo những đường lối nhất định mà Đức Bàn Cổ và các Điểm đạo đồ trợ giúp Ngài đă đặt ra cho nó. Trong trường hợp này, ta thấy rằng mô h́nh cho trọn cả giống dân đă được ghi khắc nhất định lên gia tộc đầu tiên, điều phải được mô phỏng hoàn chỉnh đă biểu diễn toàn bích ở đây và sự toàn bích của việc biểu hiện đó là do những người đă nhận được cái ấn tượng ban sơ ấy. Đó là v́ khi nh́n lại quá khứ vào lúc ban sơ theo sự minh giải của tri thức huyền linh, chúng tôi thấy rằng các linh hồn nhập thế vào lúc bắt đầu giống dân Aryen đều là các linh hồn thuộc nhiều loại h́nh khác nhau. Đức Bàn Cổ đứng đầu tất cả, vừa là người Cai trị vừa là người lập pháp; rồi tới các bậc Điểm đạo đồ trợ giúp Ngài, các huấn sư dẫn dắt nhân dân – các vị Rishis thời xưa của Ấn Độ; bên dưới các Ngài là một số lớn linh hồn bước vào nhập thể, họ đă được một tŕnh độ cao về phát triển đạo đức, trí tuệ và tâm linh nơi những thế giới trước kia, bên dưới quí vị này là những linh hồn non trẻ hơn song cũng đă trải qua nhiều cuộc tiến hóa; và cuối cùng là một số linh hồn mới có một thời gian tiến hóa tương đối rất ngắn ngủi, họ đă trải qua giống dân thứ tư và là những thành viên thành công nhất của cái phân bộ lớn lao này thuộc loài người. Điều này khiến cho bạn có một dân chúng rất đa dạng, một dân chúng có thể tiếp theo ấn tượng của một tôn giáo, triết lư, khoa học và chính thể viên dung, được dùng làm một mô h́nh để trao truyền cho những người tiếp sau c̣n chưa được rèn luyện đúng mức, họ sẽ noi theo gương của các tiền bối để có được một quốc gia Aryen thuộc giống dân thứ năm gương mẫu. Quốc gia này thích hợp để nắm giữ chính thể, triết lư, khoa học, tôn giáo công truyền; thế là hoạch định được một lần cho dứt khoát điều ắt là sự phát triển tiêu biểu của giống dân Aryen.

Giờ đây khi ta nghiên cứu tôn giáo dành riêng cho dân tộc xưa cũ này, ta thấy nó bao hàm việc rèn luyện đối với trọn cả bản chất con người ở đủ thứ giai đoạn tiến hóa; nó dẫn dắt y chẳng những trong sinh hoạt tâm linh và trí thức mà c̣n trong cả mọi quan hệ với đồng loại xét về sinh hoạt của quốc gia cũng như gia đ́nh. Trọn cả nền văn minh này đều mang nặng tính tôn giáo và không có một điều ǵ trong sinh hoạt của con người mà bị coi là “thế tục” hoặc “phàm tục”. Những điều mà các dân tộc khác coi là nằm ngoài phạm vi của tôn giáo, th́ cũng chính là những điều mà Ấn Độ giáo luôn luôn đ̣i hỏi mang tính chính thống cứng nhắc nhất. Người ta khuyến khích tín đồ vận dụng trí năng thoải mái (bằng chứng được thấy qua mọi trường phái tư tưởng được bao hàm bên dưới “Ấn Độ giáo” viên dung); nhưng người ta luôn luôn cứng rắn áp đặt cách cư xử đúng đắn khi nó có ảnh hưởng tới cơ cấu tổ chức của xă hội. Tự do tư tưởng nhưng sinh hoạt chính thống, đây là những đặc trưng của Ấn Độ giáo xuyên suốt sự tiến hóa lâu dài của nó; v́ thế cho nên triết học của nó rất đa dạng và có phạm vi rộng mênh mông, nhưng cơ cấu tổ chức xă hội và sinh hoạt gia đ́nh của nó lại rất ổn định. Cũng v́ thế cho nên người ta mới coi nó là một tôn giáo cồng kềnh nhất bởi hầu hết mọi người đều quan tâm nhiều tới việc tự do hành động chứ ít quan tâm (ngoại trừ xét về mặt lư thuyết) tới tự do tư tưởng. Một người theo Ấn Độ giáo muốn nghĩ như thế nào về Thượng Đế cũng được – coi Ngài là hiệp nhất với vũ trụ, coi Ngài là tách rời khỏi vũ trụ hoặc thậm chí có thể loại trừ Ngài hoàn toàn – mà vẫn c̣n là chính thống; nhưng y không được kết hôn với người thuộc giai cấp khác, cũng không ăn thực phẩm ô uế.

Đề tài của chúng ta tự nhiên là sẽ được chia làm ba phần: (1) những sự thật tâm linh cùng với những cách tŕnh bày trí thức sau này; chúng được tŕnh bày trong kinh Phệ Đà và trong Áo Nghĩa thư vốn là một bộ phận bất khả phân ly của kinh Phệ Đà. Trong kinh Phệ Đà ta thấy có tŕnh bày hoàn chỉnh về chân lư tâm linh, không diễn giải đầy đủ nhưng được ngụ ư hàm tàng sao cho người ta có viết rằng Brahman được ẩn giấu trong Áo Nghĩa thư cũng như Áo Nghĩa thư được che giấu trong kinh Phệ Đà. Dần dần theo quá tŕnh tiến hóa điều này cũng được diễn giải minh bạch; người ta tŕnh bày một tổng thể toàn bích được triển khai ra theo thời gian. Đây là Vidyā [1] cao cấp, tri thức về Đấng Brahman, c̣n Vidyā sơ cấp được bao hàm trong các Vedāngas [2], sáu mươi bốn khoa điển chế hóa được kiến thức về thiên nhiên cùng với những phương pháp để đạt những kiến thức ấy; đây là một mỏ vàng mà bây giờ kho kiến thức khoa học có thể đào bới ra được từ đó những điều kỳ quan đối với thế giới hiện đại.

Rồi tới (2) tục thờ cúng công truyền được nêu tỉ mỉ và chi ly một cách kỳ diệu khi phác họa về thiên nhiên và mối quan hệ của con người với thiên nhiên, có kinh Purānas để diễn giải nó một cách b́nh dân cùng với các Nghi thức liên kết con người với cách ứng xử trong gia đ́nh và ngoài xă hội. Sau này ta thấy hết sách này tới sách kia chẳng hạn như Rāmāyanā và Mahābhārata; măi về sau này th́ mới có những cách diễn tả sự thật mới mẻ hơn qua một số vở tuồng chẳng hạn như Kālidāsa. Ở đây ta thấy dành cho dân chúng nói chung, dành cho đại chúng trong nhân dân có những giáo lư bề ngoài dần dần rèn luyện họ để hiểu được những sự thật tâm linh ẩn tàng.

Bạn ắt chẳng bao giờ hiểu được Ấn Độ giáo nếu bạn không nhận ra được đó là một hệ thống mà các huyền bí gia, các đấng Rishis đưa ra cho thế gian, đối với các bậc này th́ thế giới vô h́nh là vấn đề mà các Ngài có hiểu biết. Các Ngài dự tính rèn luyện thiên hạ dần dần biết được về thế giới vô h́nh qua việc tuân theo một hệ thống vốn dựa trên những sự kiện của thế giới vô h́nh. Bạn phải nhận ra được nền tảng này của tôn giáo ấy nhiên hậu bạn mới truy nguyên được nó về đủ mọi bộ phận thiên biến vạn hóa. Bấy giờ bạn mới hiểu được tại sao (như ta đă có nói) trí năng luôn luôn được thả lỏng cho tự do chỉ bị ràng buộc bởi kinh Phệ Đà thôi, tha hồ suy diễn từ kinh Phệ Đà bất cứ điều ǵ có thể được suy diễn hợp lư theo minh triết thâm thúy và đa diện trong khi người ta lại cứng nhắc duy tŕ cách ứng xử theo bề ngoài. Con người tiến hóa là thông qua tư tưởng và tư tưởng của người khác là những yếu tố đầy sức mạnh giúp cho sự tiến hóa của mỗi người; chúng càng đa diện bao nhiêu th́ chúng càng mở ra những cánh cửa bấy nhiêu để cho mặt trời chân lư có thể chiếu sáng qua đó. Đủ thứ ư kiến về Thượng Đế thật là có giá trị chứ không phải mang tính ác hại đâu v́ tự thân của mỗi ư kiến chỉ tŕnh bày được một mảnh cực nhỏ của sự thật đầy sức mạnh và toàn bộ ư kiến ắt tŕnh bày sự thật một cách trọn vẹn hơn mức người ta có thể đạt được bằng cách khác. Nhưng cách ứng xử lại bao trùm mọi mối quan hệ của con người với thiên nhiên ngoại giới hữu h́nh cũng như vô h́nh và tùy theo cách ứng xử của y th́ sự hài ḥa hoặc bất ḥa mới tích tụ lại. Tục thờ cúng công truyền được dự định để tạo ra một sự hài ḥa giữa con người và môi trường xung quanh cho nên bị áp đặt bằng uy quyền v́ dân chúng không đủ tŕnh độ đồng hóa kiến thức mà tục thờ cúng công truyền dựa vào đó. Về sau này, khi họ tiến hóa hơn th́ họ đạt được kiến thức thông qua Yoga, những nghĩa vụ bề ngoài ắt rơi rụng đi v́ lúc bấy giờ ta không cần uy quyền để tạo ra sự hài ḥa nữa, con người đă hiệp nhất với thiên luật th́ tự ḿnh tạo ra luật cho ḿnh. Ở đây ta mới xét tới (3) Khoa học về Yoga (sự hiệp nhất với Chơn ngă) chỉ bằng cách đó th́ ta mới nhận thức trọn vẹn được các sự thật tâm linh do dần dần khai mở những năng lực nội tại khiến cho con người có thể nghiên cứu trực tiếp được thế giới vô h́nh bằng cách bành trướng tâm thức để bao trùm các phạm vi hiện hữu rộng lớn và tinh vi vô hạn. Nhờ có Yoga ta mới thực chứng được những chân lư trong kinh Phệ Đà, nhưng phương pháp thực chứng th́ không hề nêu rơ ở bất cứ nơi đâu. Cũng v́ mục đích ấy bậc Đạo sư mới tiến hành điều sư phụ có thể dạy cho môn đồ xứng đáng bước trên con đường khó khăn mỏng như lưỡi dao cạo.

Chúng ta lần lượt xét tới ba phân bộ này. Trước hết ta hăy xem xét những chân lư tâm linh được diễn giải trong kinh Phệ Đà với những khía cạnh chân lư được phô diễn trong những hệ thống triết lư mang tính riêng phần v́ chỉ thuần là trí thức, bổ sung cho nhau mà không mâu thuẫn với nhau; không một hệ thống nào diễn tả được trọn cả sự thật mà mỗi hệ thống chỉ diễn tả được nhiều đến mức trí năng có thể tom góp chúng lại một cách hợp lư dưới dạng một hệ thống đơn thuần. Thế rồi ta sẽ nghiên cứu tục thờ cúng công truyền xét về các nguyên lư, xét về các chi tiết cho thấy tác dụng của tổng thể đối với sinh hoạt của gia đ́nh và xă hội. Cuối cùng chúng ta mới nhận ra rằng chỉ có thể thật sự biết được các chân lư tâm linh nhờ vào khoa Yoga, có một khoa học về linh hồn do Sư phụ giảng dạy, nó giúp cho con người từng bước vươn lên tới minh triết tâm linh tối thượng. Bạn ắt thấy ta phải bao quát một địa hạt rộng lớn xiết bao, bạn ắt thấy sáng nay với một thời gian ngắn ngủi như thế mà ta phải lướt qua cái lănh vực nghiên cứu mênh mông này và bạn ắt tha lỗi cho tôi nếu khi lướt nhanh từ vấn đề này sang vấn đề khác nên tôi bỏ qua nhiều chi tiết hoàn toàn không nhắc tới bởi v́ tôi đang nói bằng ngôn ngữ chứ không phải theo kiểu tâm truyền tâm, cho nên tôi bị hạn chế bởi cái ảo tưởng về thời gian mà mọi quá tŕnh trí thức của ta ở đây đều phải bị tiến hành theo đó.

Tôi bắt đầu với phần tŕnh bày ngắn ngủi về những sự thật tâm linh và triết học căn bản mà toàn bộ Ấn Độ giáo dựa trên đó, việc hiểu biết hoàn toàn điều đó nghĩa là con người đă đạt tới mục tiêu. Ta hăy liếc nh́n vào lúc khởi đầu vũ trụ, lúc bắt đầu biểu lộ khi Brahman (Toàn Ngă của vũ trụ) biểu hiện ra để cho vũ trụ có thể tồn tại. Trong kinh có viết: “Khi Ngài biểu hiện ra th́ tất cả đều biểu hiện theo Ngài; do Ngài biểu lộ th́ tất cả mới biểu lộ được” [3]. Ta cũng chẳng biết Ngài bước vào biểu lộ như thế nào nhưng ta được cho biết rằng việc này do một hành vi hi sinh: “Om! Buổi b́nh minh của sự thật là cái đầu của con ngựa hiến tế” [4]. Minh triết huyền bí dạy rằng hành vi hi sinh này là việc Brahman tự hạn chế ḿnh, Ngài bao bọc bản thân bằng Māyā [5] nghĩa là bằng Vô minh. Nếu không có điều này th́ vũ trụ không thể biểu hiện được v́ sự hạn chế vốn cần thiết cho tính biến thiên và mỗi sự vật bị bao bọc trong Vô minh, nghĩa là bị hạn chế, đều bị cách ly với mọi vật khác, đều không hiểu biết được hoàn toàn. Vũ trụ biểu lộ bắt đầu với đấng Brahman, Ngài là Cội nguồn, Suối nguồn, Tự ngă nhất như, Thần khí nhất như của vũ trụ; bên ngoài Ngài không có điều ǵ biểu lộ, bên ngoài Ngài không có sự sống, tư tưởng, tâm trí; Ngài biểu lộ qua thuộc tính Tam bội, Ngài là Sat, Chit, Ānanda và mọi phẩm tính đều bắt nguồn từ Ngài. Ngài bao trùm những thứ này thành một thứ, là Nguyên nhân Bản sơ của vạn vật. Đấng Brahman, đấng Nhất Như đại hùng, Toàn Ngă của vũ trụ, được mô tả trong một đoạn kinh hay ho và cao quí tuyệt vời của Svetāsvataropanisad, và tôi chọn đoạn kinh này v́ trong một câu kinh nối tiếp ngay sau sự miêu tả, người ta có tŕnh bày lời nói bóng gió về một điều ǵ đó thậm chí c̣n vượt quá cả đấng Brahman biểu lộ. Bạn có thể nhớ đoạn kinh này mà tôi cần phải dịch ra thành một ngôn ngữ kém thơ mộng hơn, ít hay ho hơn và bất toàn hơn do tôi bắt buộc phải sử dụng nó; nhưng ngay cả dưới dạng ngôn ngữ hiện đại th́ nguyên bản vẫn chói sáng sự hay ho tuyệt vời: “Khi không có bóng tối chẳng có ngày cũng chẳng có đêm, chẳng có hữu cũng chẳng có vô, th́ vẫn có Shiva cho dẫu chỉ một ḿnh Ngài bất diệt. Ngài được Sāvitrī tôn thờ. Minh triết cổ truyền chỉ bắt nguồn từ Ngài thôi. Người ta không thể hiểu được Ngài ở bên trên, ở nên dưới hoặc ở giữa, cũng chẳng có điều ǵ tương tự Ngài v́ hồng danh của Ngài là vô cùng vinh quang. Người ta không thể dùng mắt nh́n để xác lập h́nh tướng của Ngài v́ dùng mắt không thấy được Ngài. Những kẻ nào biết Ngài qua tâm hồn và tâm trí, an trụ trong tâm th́ ắt trở thành bất tử” [6]. Đây là sự mô tả đấng Brahman, đấng biểu lộ, Nguyên nhân của vũ trụ. Rồi tới hai câu kinh kế tiếp, rồi đến chương kế tiếp bắt đầu bằng lời tuyên bố là “Minh và Vô minh tồn tại một cách vô hiện” nơi đấng Brahman tối cao (Parabrahman) [7]. Hoặc là ta có thể dịch rằng: “Đấng Ishvara và Māyā tồn tại một cách vô hiện” [8]. Chúng ta cũng chẳng biết câu này nghĩa là ǵ, ta chẳng thể nói lên được ư nghĩa của nó. Không một quan năng nào của con người có thể biết được cái vô điều kiện; không một ngôn ngữ nhân loại nào có thể diễn tả được Cái Đó vốn vượt ngoài tất cả cái này. Chúng ta chỉ biết rằng vạn vật đều bắt nguồn từ Cái Đó; Cái Đó là vạn vật mặc dù không một từ ngữ nào hàm ư dị biệt (mọi từ ngữ đều hàm ư dị biệt) có thể mô tả được Cái Đó; Sat, Chit và Ānanda đều bắt nguồn nơi Cái Đó dưới dạng nhất nguyên, đấng Độc nhất Vô nhị, vạn vật đều ở nơi Cái Đó một cách không ai biết được và không thể biết được, nhưng vạn vật hiện tồn theo một kiểu mà ta không thể hiểu nổi. Đó là v́ đối với chúng ta th́ sự tồn tại có nghĩa là sự khác nhau và trong Cái Đó không có sự khác nhau.

Rồi tới vũ trụ biểu lộ khi ta có thể hiểu biết được chút ít th́ ta có học biết được rằng sự biểu lộ của đấng Brahman là dần dần chứ không đột ngột và vạn vật bắt nguồn từ Ngài không phải ngay tức khắc mà là từ từ; điều biểu hiện dần dần xuất hiện từ điều ẩn tàng, điều bộc lộ bắt nguồn từ điều được che giấu. Người ta dùng hết cụm từ này đến cụm từ khác để cho bạn thấy rằng vạn vật đều bắt nguồn từ và là chính Ngài, nhưng Ngài lại ẩn tàng bên dưới các hiện tượng, bên dưới Danh và Sắc. Cũng giống như muối trong nước mà nó bị ḥa tan trong đó [9], cũng như lửa trong gỗ trước khi những cây gỗ để mồi lửa được cạ vào nhau, cũng giống như bơ trong sữa vốn được chắc lọc bằng cách quậy lên [10], cũng giống như kem trong bơ được gạn lọc [11]; cũng vậy đấng Brahman ẩn khuất với vai tṛ là Tự Ngă của mọi tạo vật. Hết giai đoạn này tới giai đoạn khác đều có những phép lạ trong sự biểu lộ của Ngài; hết giai đoạn này sang giai đoạn khác đều có sức mạnh trong việc tiến triển của Ngài; phẩm tính Sat tức tự tại thuần túy của Ngài xuất hiện nơi tạo vật bất động mà ta gọi là giới khoáng vật v́ ta có thể nói rằng chỉ có sự tồn tại biểu lộ qua đó thôi; Chit và Ānanda ẩn tàng trong đó, chỉ có Sat là biểu hiện. Rồi tới trong thế giới thực vật, sự sống triển khai ra cho ta thấy bắt đầu có khoái lạc và đau khổ vốn là mầm mống sẽ phát triển thành Ānanda trong các giai đoạn tiến hóa sau này; nơi thế giới động vật ta cũng thấy bộc lộ ra mầm mống của Chit vốn phải được tiến hóa trọn vẹn hơn về sau; c̣n nơi con người các mầm mống phần nào biểu hiện được Sat, Chit và Ānanda măi cho tới khi hết tiến hóa th́ Sat, Chit và Ānanda đă được phát triển hoàn toàn nơi y. Bấy giờ y chính là đấng Brahman, y trở thành Đấng Nhất Như.

Tất cả mọi điều này được thể hiện qua lộ tŕnh tiến hóa chậm chạp, qua hết sự giáng sinh này tới sự giáng sinh khác, qua hết sự chết này tới sự chết khác, qua ṿng sinh tử luân hồi vốn không ngừng xoay chuyển trong ba cơi. Thế giới thấp nhất là thế giới của ư thức tỉnh táo, đó là Bhūr-loka; con người sinh ra nơi đây trong một thể xác, y thu thập kinh nghiệm ở đây bằng cách tiếp xúc với những vật thể vật chất để rồi qua cửa tử, y chuyển sang thế giới kế tiếp Bhuvar-loka, trong một thể xác thích hợp với thế giới ấy, y thanh toán được một bộ phận kinh nghiệm thực hiện trên cơi trần; thế rồi trong một thân thể thứ ba y thăng lên tới Svarga-loka, nơi mà y thanh toán những kết quả khác của các trải nghiệm trên trần thế [12]. Từ Svarga-loka y lại trở về xuyên qua Bhuvar-loka tới cửa sinh, ở Bhūr-loka, nơi đây y lại bắt đầu việc học hỏi mà những thành quả của nó được y đồng hóa ở những thế giới khác. Cuộc tiến hóa của nhân loại b́nh thường diễn ra trong ba cơi như thế theo như ta thường được cho biết.

Con người bị ràng buộc vào ṿng sinh tử này, do ham muốn, do khát khao có cuộc sống hữu t́nh mà v́ vô minh cho nên thoạt tiên y đồng nhất hóa nó với sự sống của thể xác. “Purusha (con người nội giới) này có bản chất là ham muốn. Y ham muốn ra sao th́ quyết tâm như vậy, y quyết tâm ra sao th́ làm việc như vậy; y làm việc ra sao th́ được tưởng thưởng như vậy . . . Y vốn bị dính mắc cho nên nhờ có làm việc y mới đạt được mục tiêu mà tâm trí y bị dính mắc vào đó, tâm trí là nguyên nhân của sự việc. Sau khi đă đạt tới hậu quả cuối cùng (nơi Svarga) của công tŕnh mà y thực hiện ở đây th́ y lại rời bỏ thế giới Svarga ấy để về thế giới này ngơ hầu làm việc. Do đó kẻ ham muốn cứ đi lang thang từ thế giới này sang thế giới kia . . . Khi mọi ham muốn chất chứa trong tâm hồn đều bị từ bỏ hết th́ kẻ phàm phu hữu hoại mới trở thành bậc bất tử” [13]. Khi không c̣n đồng nhất hóa ḿnh với thể xác th́ y lại đồng nhất hóa ḿnh với tâm trí và thế là y vẫn chỉ sống một thời gian lâu dài hơn ở thế giới Svarga v́ vẫn c̣n bị dục vọng ràng buộc. Y chỉ thoát được sự tái sinh khi không c̣n ham muốn bất cứ thứ ǵ mà ba cơi có thể cung ứng được.

Kế đó mọi cuộc tiến hóa này đều diễn tiến theo luật nhân quả; mọi nguyên nhân đều thể hiện ra thành hậu quả thích đáng. Đây là luật Nghiệp báo vốn trả lại cho mỗi người đúng cái kết quả mà y đă gieo trồng. Y gieo Nghiệp báo trong thế giới vật chất hồng trần th́ y gặt nó một phần nào trong hai thế giới kia và đồng hóa ở đó những kết quả suy nghĩ của ḿnh; thế rồi trở lại trần gian (tạo vật do chính y gây ra) để thanh toán Nghiệp báo thuộc về trần gian; y cứ tăng trưởng như vậy hết kiếp này sang kiếp khác v́ là “một tạo vật của sự suy gẫm; điều mà y suy đi gẫm lại trong cuộc đời này th́ y trở thành chính điều đó bên kia cửa tử” [14]. Bằng cách này y leo lên từ giai đoạn này sang giai đoạn khác với một tâm thức cứ bành trướng măi, hết lớp vỏ này tới lớp vỏ kia phát triển bên trong và mỗi lớp vỏ là một hiện thể của tâm thức. Khi y phát triển th́ y bành trướng tâm thức đó bao trùm hết thế giới này tới thế giới kia – các tŕnh độ tâm thức tương ứng với ba thế giới ấy là các tŕnh độ Jāgrat, Svapna và Suşupti [15].

Tâm thức bành trướng lần lượt bao trùm mỗi thế giới cho tới khi con người làm chủ và chế ngự được các cơi mà thoạt đầu y c̣n là đứa trẻ con ṃ mẫm học. Thế rồi y vươn cao nữa, thoát ṿng sinh tử luân hồi; y chuyển từ nguyệt thể [16] (nó được gọi theo chuyên môn như vậy) vào nhật thể [17] và khi y làm chủ hoàn toàn được quá tŕnh này th́ y không c̣n bắt buộc tái sinh nữa. Khi thăng lên đến trạng thái Turīya, y đạt tới Tự Ngă, chỉ khoác lấy Ānandamaya-kośa [18]. Sau khi đă dứt khoát thống nhất tâm thức tới mức đó th́ ngài đă vượt ra khỏi tam giới và ṿng sinh tử luân hồi. Ngài có thể chuyển vào, bành trướng vào tâm thức Niết bàn, tâm thức thiêng liêng bao trùm tất cả. Jivātma – thoạt đầu phát triển một cách hoàn toàn vô minh v́ bị bao bọc trong Vô minh với mọi quyền năng ở dạng mầm mống c̣n tiềm tàng chứ chưa hoạt động – bị bao bọc trong hết lớp vỏ vật chất này tới lớp vỏ vật chất khác để cho thông qua các lớp vỏ ấy nó có thể bước vào tiếp xúc với mọi cơi của vũ trụ để cho trong mỗi cơi ấy, do có những tiếp xúc ấy, nó có thể đưa vào biểu lộ những quyền năng thuộc về cơi ấy mà thoạt đầu mới chỉ tiềm tàng cho đến khi cuối cùng mọi quyền năng đều được triển khai, các lớp vỏ đă được tẩy trược. Vô minh đă được vượt qua th́ con người mới biết rằng Tự Ngă của chính ḿnh là một với Toàn Ngă của vũ trụ; y đă đạt được mục tiêu; y đă trở thành Đấng Brahman; điều mà y luôn luôn tiềm tàng th́ nay đă thực chứng được một cách chủ động.

Đó là phần phác họa đại khái về những điều cốt yếu của triết lư đại hùng thuộc Ấn Độ giáo, nó dạy cho con người một điều ǵ đó về những sự thật tâm linh vốn là nền tảng của cơ tiến hóa. Nhân loại sẽ thực hiện mọi điều này từ hết kiếp này sang kiếp khác. Nhưng điều mà mọi người phải thực hiện theo một lộ tŕnh vô số thời đại th́ nếu muốn, một người có thể thực hiện bằng nỗ lực lớn lao hơn, bằng sự tinh tấn dũng mănh hơn nhờ vào khoa học yoga vốn rèn luyện linh hồn nhanh hơn cách tiến hóa b́nh thường. Cơ tiến hóa chẳng qua chỉ là ư chí của đấng Ishvara bộc lộ ra nơi vũ trụ biểu hiện; v́ được sinh ra trong ḷng cơ tiến hóa cho nên nhân loại được lôi cuốn đi tới mục tiêu của ḿnh. Những kẻ bơi giỏi có thể đạt tới mục tiêu nhanh hơn một cọng rơm trôi nổi lềnh bềnh; nhờ có khoa học yoga một người có thể kết liễu cuộc hành hương của ḿnh trong khi đại khối nhân loại vẫn c̣n trôi dật dờ chậm chạp theo ḍng tiến hóa. Ta sẽ hiểu điều này ở phần thứ ba trong đề tài đang xét.

Việc toan tính hạ thấp tư tưởng tuyệt vời này xuống tới cơi trí năng đă làm nảy sinh ra sáu trường phái lớn của triết học Ấn Độ cùng với vô số biến thể. Chúng ta giáng từ cơi tâm linh xuống cơi trí thức, từ cái thế giới mà tất cả đều minh bạch trước tầm nh́n đă được tẩy trược giáng xuống cái thế giới có xảy ra những điều hạn chế - và ngôn từ là điều hạn chế tồi tệ nhất, thế nhưng mọi triết gia đều phải viết, phải diễn tả dưới dạng minh định. Thế nhưng làm sao ta thốt nên được Điều không thể nói nên lời, làm sao ta miêu tả được đấng Brahman bằng những thuật ngữ trí thức? Có một đặc điểm chung cho mọi trường phái và ta có thể nói là nó được viết bên trên các cổng chính: “Nếu con người chưa thể cuộn được chất khí Ākasha như cuộn tấm da lại th́ sự khốn khổ của y sẽ vô tận nếu y không hiểu biết về Thượng Đế” [19]. Mọi trường phái triết học Ấn Độ đều mưu cầu sự giải thoát, giải thoát khỏi hạn chế của kiếp sống đau khổ, giải thoát khỏi những nỗi khốn khổ của cơi sinh tử. Mọi trường phái đều công nhận tri thức thiêng liêng tức Brahma-Vidyā, mọi trường phái đều muốn giải thoát nhưng chúng khác nhau về cách thức diễn tả mục tiêu, khác nhau về những phương pháp mà nhiều trường phái dùng để đạt tới mục tiêu. Ta hăy dành ra một lúc để xét từng trường phái một – tôi chỉ có thể làm được như vậy thôi – để cho bạn có thể nhận ra được cái công tŕnh vĩ đại mà trí năng đă thực hiện được nhằm cố gắng xiển dương các sự thật tâm linh. Chúng thoải mái chia làm ba cặp được đặc trưng theo quan điểm cơ bản về vũ trụ và đường lối chứng minh quan điểm ấy. Trước hết ta có hai trường phái dựa trên thuyết nguyên tử, hai trường phái được gọi là Nyāya của Đức Phật Thích Ca và trường phái Vaiśeşika của Kanāda vốn có rất nhiều điểm chung về phương pháp khảo cứu. Hai trường phái này mưu t́m tri thức bằng cách suy diễn qua quá tŕnh luận lư, phân chia vạn vật ra thành các phạm trù, xem bản chất của cách chứng minh, bản chất của cách suy diễn, có thể nói là chính bản thể của tâm trí thể hiện ra từng chi tiết đầy đủ nhất dựa trên thuyết nguyên tử và phát triển theo những đường lối lư trí thuần túy. Chúng vẫn c̣n là những lâu đài trí thức thuần túy, chẳng những đáng chú ư v́ cách lư luận được tiến hành hoàn hảo mà c̣n v́ cách rèn luyện mà chúng dành cho tâm trí con người; người ta mưu t́m bản chất của các sự vật và để tránh sai lầm người ta đă phân tích sắc xảo nhất về những công cụ dùng để khảo cứu. Kế đó ta xét tới hai trường phái  dựa trên tính nhị nguyên của vũ trụ biểu lộ, dựa trên hai yếu tố cơ bản cùng tồn tại vĩnh hằng trong vũ trụ, không bao giờ cách ly với nhau, bao giờ cũng đan bện vào nhau; đây là một vũ trụ khởi nguyên luận với sự mạch lạc hợp lư nhất được triển khai ra theo từng mắt xích liên tiếp. Hai trường phái đó là Số luận Sāmkhya của Kapila, đôi khi được gọi là phái Số luận vô thần v́ nó không đi theo sự biểu lộ nhị nguyên, c̣n trường phái kia là Yoga của Patanjali, tức phái Số luận hữu thần. Trong trường phái thứ nhất, khởi điểm là tính nhị nguyên căn bản của vũ trụ biểu lộ. Tinh thần, Purusha (hoặc nói cho đúng hơn là vô số Purusha cá thể) được coi là vĩnh hằng và vật chất Prakriti được coi là cùng vĩnh hằng với Purusha. Prakriti có tính tam bội, phô ra ba gunas là Sattva, Rajas và Tamas [20]. Prakriti đầy hoạt động nhưng không có mục đích và không làm được tṛ trống ǵ ngoại trừ để cho Purusha khoác lấy. V́ thế cho nên mới có dụ ngôn được ưa thích theo đó Purusha giống như một người què nhưng mắt c̣n sáng cưỡi trên vai người mù nhưng chân c̣n khỏe; cả hai có thể cùng nhau bước đi để tránh vấp ngă vào những hố sâu. Rồi sau đó là việc triển khai toàn thể vũ trụ biểu lộ dưới đề mục là 25 tattvas tức nguyên thể (ta tạm gọi chúng như vậy) được suy luận một cách sáng suốt, sắc xảo, chính xác, hợp lư do quan sát sự kiện tỉ mỉ nhất sao cho khi được coi là một vũ trụ khởi nguyên luận chỉ hạn chế vào vũ trụ biểu lộ thôi th́ phái Số luận có thể nói là bao giờ cũng đứng vững. Trường phái Yoga của Patanjali chấp nhận vũ trụ khởi nguyên luận sơ khởi của phái Số luận nhưng lại thêm vào đó tattva nguyên thể thứ 26 tức Ishvara, đấng thiêng liêng cần được tôn thờ. Đó là v́ Patanjali quả thật có dạy rằng nếu không có h́nh tướng th́ cái trí không thể định trí được trong lúc tham thiền; và Patanjali mưu t́m tri thức không phải bằng cách khảo cứu vũ trụ theo đường lối của phái Số luận mà bằng cách ức chế các biến thái của nguyên thể tư duy; những biến thái này được coi là hàng rào ngăn cách giữa chủ thể tư duy và Đấng Nhất Như mà chủ thể này mưu t́m; chỉ khi cái trí đă nhất tâm th́ con người mới có thể vượt thoát ra khỏi sự hạn chế này.

Cuối cùng ta có hai trường phái lớn Mimāmsā là Pūrva Mimāmsā và Uttara Mimāmsā. Trường phái thứ nhất tức hệ thống Jaimini, ta thấy các nghi thức, nghi lễ, mọi thứ là bộ phận bên ngoài thuộc sinh hoạt tôn giáo của con người được bàn bạc và tŕnh bày một cách cực kỳ tỉ mỉ. C̣n trường phái Uttara Mimāmsā chính là Vedānta, có lẽ là trường phái được Tây phương biết nhiều nhất trong sáu trường phái triết học lớn của Ấn Độ. Vedānta được chia thành ba phân hiệu: Dvaita, Viśiştādvaita và Advaita. Chúng đều chấp nhận vũ trụ khởi nguyên luận của phái Số luận, coi đó là lộ tŕnh tiến hóa của vụ trụ biểu lộ nhưng chúng không chỉ bằng ḷng dừng lại nơi phái Số luận dừng lại. Vedānta (cứu cánh của Phệ đà) mưu t́m nguyên nhân của vũ trụ biểu lộ cho nên không thể vừa ḷng với một sự phân tích dừng ngay lại ở Purusha và Prakriti. Thật vậy, đó là biểu hiện rạng rỡ nhất về mặt triết học của cái ḷng khao khát khôn nguôi trong tâm hồn con người mưu cầu Thượng Đế, nó có thể bị chối bỏ, xuyên tạc, bóp nghẹt, nhưng bao giờ cũng vươn lên từ cái t́nh trạng dường như đă chết, măi măi là chứng nhân của một điều ǵ đó nơi con người vốn là Tự Ngă sâu thẳm nhất của y, là sự sống đời đời bất diệt và biểu lộ một cách cao cả nhất qua lời reo vang chiến thắng của môn đồ phái Bất Nhị: “Tôi chính là Ngài !”. Khi y đă t́m thấy cái được mưu t́m lâu dài bên dưới nhiều bức màn che và đấng Thiêng liêng được bộc lộ ra là chính Tự Ngă của con người.

Ta có thể coi ba phân hiệu của phái Vedānta là những bước liên tiếp chứ không phải là những thuyết đối nghịch nhau; tất cả đều khẳng định sự tồn tại của đấng Thiêng liêng là cội nguồn của vũ trụ, nhưng phái Nhị Nguyên luận giả định rằng có một sự phân chia vĩnh hằng giữa Thượng Đế và con người – hai bên măi măi tách rời khỏi nhau. Phái Viśiştādvaita tiến thêm một bước nữa, khẳng định tính nhị nguyên nhưng ḥa lẫn nó thành ra một nhất nguyên tối hậu. Phái Bất Nhị khăng khăng nhấn mạnh tới tính nhất nguyên căn bản và v́ có xu hướng như thế - bị lóa mắt do bóng đêm cũng chính là “ánh sáng quá độ” – cho nên suưt nữa quên mất vũ trụ, chỉ nh́n thấy Đấng Nhất Như bên dưới các h́nh tướng hăo huyền. Nhưng khi vươn lên từ luận văn dài ḍng trí thức để đạt tới ḷng sùng tín th́ môn đồ phái Bất Nhị của Vedānta cũng công nhận sự biểu lộ của Brahman thành ra chư Thần linh và liệu ta có thể t́m được ở đâu cái cường độ nhiệt thành áp đảo của ḷng sùng tín ngất ngây giống như trong các stotras dành cho Shiva và Durgā của bậc tổ sư phái Bất Nhị Vedānta là Sri Samkarācārya?

Trong phái Bất Nhị với giáo huấn quen thuộc về Māyā – khả năng gây ra hăo huyền của Tư Tưởng Thượng Đế - th́ vũ trụ chẳng qua chỉ là tư tưởng của đấng Độc Nhất Vô Nhị. Ngoại trừ Brahman ra th́ tất cả đều là hăo huyền v́ bị hạn chế, phù du, vô thường; chỉ có Thực Tại duy nhất mới là thường trụ, tất cả những ǵ biến đổi đều là hăo huyền, sự biểu lộ chẳng qua chỉ là một tư tưởng. Có lẽ cái ư tưởng khó hiểu này có thể được minh giải nếu ta nhớ rằng tâm trí con người cũng có thể dùng tư tưởng của ḿnh áp đặt những điều hăo huyền lên một tâm trí khác vốn đang bị ḿnh kiểm soát. Khi một con người bị thôi miên th́ người ta có thể khiến cho y cảm thấy sức cản của một vật thể, nh́n thấy nó, nghe thấy nó, sờ thấy nó và ngửi thấy nó; có được mọi ghi nhận của giác quan giúp ta chỉ đạo hoàn toàn sinh hoạt nơi ngoại giới; thế nhưng không có ǵ ở đó cả ngoại trừ tư tưởng của người thôi miên, y đang áp đặt mọi cảm giác này trực tiếp lên tâm trí. Khi con người được giải thôi miên th́ điều hăo huyền biến mất và y biết rằng ở đó chẳng có ǵ hết. Cũng vậy theo quan điểm này th́ cả vũ trụ chẳng qua chỉ là tư tưởng của Thượng Đế được biểu diễn ra và chế ngự toàn thể - mọi h́nh tướng chẳng qua chỉ là tư tưởng của Thượng Đế và khi ta nhận ra được điều đó chỉ một lần thôi th́ ta hiểu được Đấng Nhất Như, sự chia rẽ và sai khác bèn biến mất. Hết lớp vỏ này tới lớp vỏ kia của Vô minh bị lột bỏ khỏi Tự Ngă, con mắt minh triết nh́n xuyên suốt qua hết lớp vỏ này tới lớp vỏ khác cho đến khi chủ thể thấu thị tuyên bố rằng: “Brahman vô nhiễm bất khả phân ở nơi lớp vỏ hoàng kim cao nhất. Kẻ nào biết được Tự Ngă th́ kẻ ấy biết được CÁI ĐÓ, ánh sáng chân thực của mọi ánh sáng” [21]. Hoặc là nếu người đó đă biết nó rồi th́ y cứ đi lang thang khắp trong vũ trụ h́nh tướng mà điều thực sự thu hút y trong mọi h́nh tướng không c̣n là cái dáng vẻ bề ngoài hiện tượng mà là Tự Ngă chiếu sáng bên trong nó. Chúng ta yêu thích h́nh tướng v́ Tự Ngă có trong đó; chúng ta bị h́nh tướng hấp dẫn v́ một tia sáng khúc xạ của Tự Ngă chói rạng qua đó. Cũng như đứa trẻ con thấy viên sỏi chói sáng trên đường đi sau cơn mưa bèn nhặt viên đá chói sáng ấy lên; nó không bị hấp dẫn bởi một chút bụi đất mờ mà bị hấp dẫn bởi ánh sáng mặt trời phản chiếu từ viên đá; cũng như mọi người – thật vậy! ngay cả khi họ c̣n nhiều thói xấu – bị lừa gạt bởi dáng vẻ bên ngoài, nhưng chỉ đi theo ánh sáng bị khúc xạ của Tự Ngă thôi. Đó là điều mà họ đang lần ṃ đi theo và v́ mù quáng cho nên họ không hiểu, không nhận ra được. Người ta cũng yêu thương mọi người khác chỉ v́ Tự Ngă bên trong họ. “Người vợ không đáng quí v́ ích lợi của người vợ mà v́ ích lợi của Tự Ngă cho nên người vợ mới đáng quí; người chồng đáng quí không phải v́ ích lợi của người chồng mà người chồng đáng quí v́ ích lợi của Tự Ngă” v. v. . . đối với hết vật thể này đến vật thể khác trong vũ trụ biểu lộ cho tới khi cuối cùng ta bảo rằng: “Chư Thần linh đáng quí không phải v́ ích lợi của chư Thần linh mà chư Thần linh đáng quí v́ Tự Ngă” [22]. Thế là Con người vươn lên từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, càng ngày càng tiến gần hơn tới Tự Ngă; thế là lần đầu tiên y nhận ra được sự chia rẽ, “Tôi là Tôi c̣n Ngài là Ngài, Ngài được tôn thờ, Ngài được thờ phụng, c̣n tôi là người sùng bái Ngài”. Khi càng ngày càng tiến gần hơn tới Linh ảnh về ánh sáng th́ bắt đầu ló dạng một ư thức về sự giống nhau, chủ thể yêu thương và đối tượng yêu thương không thể thật sự là anh em sinh đôi; măi cho đến lúc cuối cùng khi t́nh thương đă được hoàn hảo và minh triết không c̣n bị vô minh làm ô nhiễm nữa th́ chủ thể yêu thương và đối tượng yêu thương ḥa lẫn làm một: “Tôi là Ngài !” và ta có nhất nguyên ở nơi mà nhị nguyên đă từng thống trị.

Do đó bạn có lẽ hiểu được tại sao thời xưa giáo huấn của phái Vedānta không được tŕnh bày cho thế giới nói chung. Đấng Sri Krishna có dạy con đường vô hiện “khó đạt được đối với kẻ đă hiện thể” [23]. Chúng ta vươn lên điều vô hiện thông qua điều đă hịên thể, vươn lên tới cơi vô sắc thông qua các h́nh tướng. Do đó Sri Samkarācārya đă qui định điều chuẩn bị cho việc học về Bất Nhị đó là con người phải tiến hóa triển khai được một vài phẩm tính và chừng nào chưa triển khai được những phẩm tính ấy th́ người ta không bao giờ dạy về thuyết Bất Nhị. Chúng tôi có thể đánh giá cao được việc hạn chế này cần thiết và minh triết đến mức nào v́ chúng tôi đă thấy ngày nay giáo huấn cao quí này bị lạm dụng vào điều ác do những người không kiểm soát được các giác quan và không rèn luyện được tâm trí.

Giờ đây, chúng ta chuyển từ các hệ thống triết lư lớn được bàn một cách thật thẳng thừng để chuyển sang tục thờ cúng công truyền; người ta dự tính dùng tục thờ cúng này để huấn luyện, giúp tiến hóa, giáo dục linh hồn cho đến khi nó thăng lên từng bước để sẵn sàng được chuyển vào tay vị Sư phụ, để nhận được sự khai tâm cuối  cùng.

Điều đầu tiên trong tôn giáo công truyền gây ấn tượng nhất cho chúng tôi là tính cách bao trùm tất cả của nó, việc nó thích ứng một cách biến thiên vô tận với mọi nhu cầu biến thiên vô hạn của con người. Và điều này xảy ra v́ nó tŕnh bày vũ trụ ngoại giới theo quan điểm huyền bí và v́ vũ trụ ấy ở mỗi nơi đều động chạm tới mọi linh hồn thuộc mọi giai đoạn tiến hóa liên tiếp dài dằng dặc. Trong tín ngưỡng có một điều ǵ đó dành cho những kẻ rất nghèo, hạ tiện nhất, thấp thỏi nhất và ngu dốt nhất; trong Ấn Độ giáo cũng c̣n có giáo huấn dành cho kẻ cao siêu nhất, trí thức nhất, tiến hóa tâm linh nhiều nhất. Đó là một trong những đặc trưng nổi bật của nó v́ nó có giáo huấn dành cho kẻ dốt nát nhất lẫn kẻ minh triết nhất, mở rộng ṿng tay ôm choàng họ trong cùng một phạm vi tôn giáo.

Tục thờ cúng công truyền vốn dựa vào kiến thức về thiên nhiên – tri thức huyền bí; đó không phải là kiến thức mà khoa học đạt được bằng cách nghiên cứu những hiện tượng, nghĩa là những dáng vẻ bên ngoài; mà đó là tri thức bắt nguồn từ việc nghiên cứu sự sống nội giới, nghĩa là tâm trí mà các hiện tượng ngoại giới chỉ là biểu hiện của nó. Nơi đây ta có sự khác nhau căn bản giữa khoa học huyền bí và khoa vật lư học. Một đằng xem xét dáng vẻ bên ngoài, một đằng xem xét sự sống vốn tự biểu lộ thông qua h́nh tướng. Vậy là v́ dựa vào những sự kiện của thế giới vô h́nh cho nên trọn cả giáo huấn của nó cũng diễn tả thiên nhiên vô h́nh, thiên nhiên ấy không phải với vai tṛ là vật chất và năng lượng mà là các sinh linh thông tuệ, không phải là vật chất “mù quáng” hoặc “chết cứng” và lực vô ư thức mà là tâm thức sống động biểu hiện thông qua vật chất và năng lượng. Sự sống thiên nhiên ấy quả thật là năng lượng, tâm thức của nó là bản thể của sự sống, các h́nh tướng là vật chất che khuất sự sống. Vật chất được định h́nh do tâm thức sống động bên trong nó. Tục thờ cúng công truyền của Ấn Độ giáo vốn dựa vào chân lư thâm thúy, theo đó trong vũ trụ không có ǵ là chẳng sống động và mọi h́nh tướng đều là biểu hiện của tư tưởng thuộc các sinh linh thông tuệ nơi vật chất thô trược hoặc tinh anh. Như ta có nói trước kia người ta dự tính khiến cho con người – cho dù y có thể vô minh đến đâu đi nữa – sống hài ḥa với môi trường xung quanh hữu h́nh và vô h́nh; nó dạy cho y biết dùng các nghi thức, nghi lễ, công thức (thần chú), mọi thứ ấy đều được thiết kế để tạo ra những kết quả nhất định trong thế giới vô h́nh; để bảo tồn không phá vỡ những mối liên kết tương thuộc của các đời sống Tinh linh Ngũ hành, khoáng vật, thực vật, động vật và nhân loại; để giữ cho ṿng sinh tử luân hồi trong ba cơi xoay chuyển nhịp nhàng hài ḥa, nâng đỡ bằng cách phục vụ lẫn nhau của giới khoáng vật, giới thực vật, động vật và nhân loại trên cơi trần, chư Thiên trên cơi trung giới, chư Thiên trên cơi trí tuệ; xác lập cái hệ thống hiến tế hỗ tương mà đấng Sri Krishna ám chỉ khi Ngài dạy: “Bạn hiến tế thứ này cho chư Thần và mong sao chư Thần cũng cấp dưỡng cho bạn; khi cấp dưỡng lẫn nhau như thế, quí vị sẽ gặt hái được điều thiện tối cao. Đó là v́ khi được cấp dưỡng bằng hiến tế, chư Thần linh sẽ ban cho bạn những điều vui hưởng mà bạn mong cầu” [24]. Điều mà nhà huyền bí học thực hiện một cách có hiểu biết và bằng quyền năng ư chí th́ kẻ vô minh được dạy làm như thế ở qui mô nhỏ qua những nghi thức và nghi lễ sao cho họ đóng góp được phần nhỏ bé của ḿnh vào công tŕnh hài ḥa tổng quát của tổng thể.

Sat, Chit, Ānanda của triết gia, của nhà thần bí tâm linh, được biểu diễn dưới dạng cụ thể là Trimūrti [25] - Brahmā, Vishnu và Shiva. Trong đó ta có đấng Brahman tam bội vốn là Nguyên nhân của vũ trụ được thích ứng để thờ phụng dưới dạng cụ thể; ba Ngôi của Ngài được tŕnh bày là biểu lộ riêng rẽ để cho trí thông minh hạn hẹp của con người có thể hiểu rơ được chúng hơn. Ngôi Sáng tạo được tŕnh bày qua Brahmā, Ngài tạo ra vạn vật nhờ vào tapas, tức tham thiền, Ngài biểu diễn trí tuệ vũ trụ tức Chit của Thượng Đế. Vishnu, đấng Thấm nhuần vạn vật, sự sống bảo dưỡng của Thượng Đế, chính là sự sống ở nơi vạn vật, sự sống thấm nhuần, bảo dưỡng, nâng đỡ vô hạn, là nền tảng của vũ trụ, không có nó th́ vũ trụ không thể trường tồn được, nó hiện diện trong vạn vật, trong mọi nguyên tử của vũ trụ, Ngài vốn lưỡng tính và là ngôi Ānanda, Toàn phúc. Thế rồi xét về nhiều mặt là ẩn tàng và bí nhiệm hơn có một đấng đôi khi gọi là đấng Hủy diệt, nhưng đúng hơn là đấng Tái tạo, Ngài là Lửa sống động, Chúa tể của vùng đất thanh luyện, nơi mà lửa tràn xuống để thiêu đốt mọi h́nh tướng khi nó không c̣n hữu dụng nữa để giải thoát sự sống bị giam hăm bên trong h́nh tướng, khiến cho nó có thể biểu hiện cao hơn và biểu lộ trọn vẹn hơn – Ngài là Māhādeva, Maheśvara, là Sat tức Tự Hữu. Đó là Tam vị nhất thể vĩ đại, các ngôi cụ thể của Thượng Đế biểu lộ. Rồi tới bên dưới Tam vị nhất thể ta có bảy “hành” lớn, mỗi hành lớn này là khía cạnh h́nh tướng của một đấng Thông tuệ đại hùng, một vị Thần linh mà hiện nay chỉ có năm đấng đang biểu lộ c̣n hai đấng ẩn tàng. Ngũ hành là Ākāsa, h́nh tướng do Indra làm linh hoạt; Agni (hỏa) h́nh tướng của Agni; Vāyu (phong) h́nh tướng của Pavana, Ap (thủy) h́nh tướng của Varuna, Prthivī (địa) h́nh tướng của Kşiti (Kubera).

Bạn sẽ chẳng bao giờ hiểu được sự toàn bích kỳ diệu của sự thờ cúng Ấn giáo nếu bạn không nhận ra một điều ǵ đó về khía cạnh sự sống của vũ trụ. Chư Thần linh của ngũ hành này – Indra, Agni, Pavana, Varuna và Kşiti – đều là các thực thể có thực, các đấng Thông tuệ tâm linh cao cả, mỗi đấng có cơi cao cả của riêng ḿnh, mỗi đấng đều là Chúa tể trị v́ cái hành đặc biệt vốn biểu hiện bản chất của ḿnh. Bên dưới Ngài có vô số đội ngũ các nam nữ Thiên thần ở cấp độ càng ngày càng xuống thấp măi cho đến khi bạn xuống tới những biểu lộ thấp nhất trên cơi trần. Chư Thiên thấp nhất của Ấn Độ giáo có liên quan tới việc hoàn toàn tạo lập và xây dựng các vật thể vật lư thuộc cơi trần. Bạn cũng nên hiểu rằng vũ trụ trong khi bao gồm bảy cơi (bảy cơi của nhà Thông Thiên Học) – trong số đó chúng ta chỉ dính dáng tới năm cơi thôi – th́ mỗi cơi lại bao gồm những biến thể của hành vốn là vật liệu gốc rễ của nó; mỗi cơi này cũng có bảy phân bộ (cảnh) và các phân bộ này bộc lộ phần lớn các đặc trưng của cơi. Khi mượn minh họa của một bậc huấn sư khả kính H. P. Blavatsky, tôi xin so sánh bảy cơi trong vũ trụ với bảy màu của quang phổ mặt trời. Ta hăy tưởng tượng rằng khi xét một màu, chẳng hạn như màu tím, th́ màu này lại được phân tích ra thành bảy màu khiến ta thấy nó bao gồm tím-đỏ, tím-cam, tím-vàng, tím-xanh lục, tím-xanh lơ, tím-chàm, tím-tím; trong đó có mọi màu của quang phổ nhưng sắc thái tím chiếm ưu thế. Ở đây ta có một bức tranh tuyệt vời về cách thức mà mỗi vị Thần linh cai quản cơi của riêng ḿnh; thế nhưng các vị Thần linh khác lại được biểu diễn nơi đó qua những biến thể của hành thuộc vị Thần linh chủ tŕ, mỗi phân bộ được đặc trưng bởi thuộc tính của một trong các Thần linh khác. Chẳng hạn như nếu ta xét Lửa, th́ Agni là Thần linh chủ tŕ và Lửa có trong mọi cơi của vũ trụ - lửa điện, mọi tia sáng chớp lóe, ánh sáng ở cơi trời cao nhất cũng như ở cơi trần thấp nhất. Tất cả những thứ này đều thuộc quyền cai trị của Ngài, đều là các phương thức hiện hữu của Ngài, và chế định lửa tùy theo cơi xảy ra sự biểu lộ xuống măi tới lửa trên cơi trần vốn cháy trong ḷ lửa mà các vị Thiên thần có được sự sống do Ngài làm linh hoạt. V́ vậy đấng Agni đại hùng, tự soi sáng ḿnh, trị v́ trong cơi lửa cháy, thế nhưng được Sāma Veda ca tụng là “Chúa tể của Gia trang” v́ lửa trong nhà cũng thuộc Ngài và Ngài hoạt động thông qua đó.

Thế rồi ta xét tới mối quan hệ của con người với các Ngài, quan hệ của con người với các huyền giai thăng lên, đi thẳng lên tới măi Tam vị nhất thể; chúng được tŕnh bày theo thứ tự với các nghi thức, nghi lễ và bổn phận tôn giáo liên quan với mỗi một ở mọi giai đoạn; tùy theo sự tiến hóa về tâm linh và trí thức của con người mà y thờ phụng một cấp đấng Thiêng liêng. Đó là v́ những người vừa mới được khơi hoạt ư thức của cái trí và đang cảm thấy những đợt xao xuyến mong manh đầu tiên của ḷng sùng tín th́ người ta chỉ dành cho họ một dạng Thượng Đế rất đơn giản, bằng không th́ họ chẳng hiểu ǵ về ư nghĩa của chính từ ngữ “Thượng Đế”. Ấn Độ giáo cung cấp cho họ một h́nh tướng cụ thể, một h́nh tướng cụ thể thoạt tiên cực kỳ hẹp ḥi kẻo nó ắt chỉ làm lóa mắt trí năng mới chớm nở và làm hỗn độn cái cảm xúc lờ mờ về ḷng sùng tín vốn chỉ có thể được phát triển dần dần bằng cách khác. Nếu bạn nói chuyện với người nông dân trên cánh đồng vốn chẳng biết ǵ ngoài hạt giống, mùa màng, trâu ḅ, những niềm hi vọng về nắng và mưa, vợ và con th́ liệu bạn có nên nói với y về đấng Brahman vô nhiễm bất khả phân mà chỉ kẻ nào biết được Tự Ngă th́ mới biết được Ngài hay chăng? Nếu bạn làm như thế th́ y sẽ nh́n chằm chằm vào bạn một cách vô hồn; bạn đưa cho y một đối tượng mà t́nh thương của y không thể vươn tới được, ḷng sùng tín của y không thể t́m đường hướng tới được và những ṿi râu tua tủa bé tí xíu trong tâm hồn y không thể quấn quanh đó được v́ hiện nay nó quá yếu ớt và chỉ có thể lĩnh hội được chút xíu thôi. Khi một cái cây non nớt đang đâm chồi nhú lên th́ bạn đâu có mang một tảng đá đồ sộ tới cái cây ấy để trông mong nó vươn những ṿi râu tua tủa ấu thơ của ḿnh quấn xung quanh tảng đá, mà bạn phải đem một cái cọc mỏng manh không quá lớn để cho ṿi râu quấn xung quanh được; nhờ thế mà cái cây mới leo lên, mới tăng trưởng vươn lên và trở nên mạnh mẽ có khả năng hơn khi tăng trưởng. Cũng vậy, trong tục thờ cúng công truyền của Ấn Độ giáo, ngôi biểu diễn Thượng Đế tỉ lệ với năng lực của người thờ phụng – nó luôn luôn vượt hơn y một chút, cao hơn y một chút, để có thể rút ra từ y một cảm xúc yêu thương, sùng tín và trân trọng nào đó; tất cả mọi điều ấy đều thật sự dâng lên Đấng Nhất Như cho dù y không thể hiểu được Đấng Nhất Như ấy theo ngôi nào. Bản thân Đấng Sri Krishna đều chấp nhận “một chiếc lá, một đóa hoa, nước hoặc trái cây” hiến tế với tâm hồn thanh khiết, với ḷng sùng tín chân thành dường như thể hiến tế cho Ngài [26]. Đó là v́ “hỡi con trai của Kunti, ngay cả khi các tín đồ của những Thần linh khác thờ phụng với đầy tín ngưỡng th́ họ cũng thờ phụng Ta, mặc dù điều đó trái với thông lệ cổ truyền” [27]; c̣n nhiều hơn mức họ thờ phụng chư Thần linh hạ đẳng đúng theo thông lệ cổ truyền. Và tại sao không, v́ chẳng có điều ǵ dù “chuyển động hoặc bất động mà lại có thể tồn tại không có Ta trong đó” [28]; v́ vậy Chúa vốn ở nơi tảng đá cũng như cái cây và người ta tôn thờ Ngài chứ không chỉ tôn thờ dáng vẻ bên ngoài.

Vậy là từng bước một, người thờ cúng đă được bàn tay yêu thương của mẹ dắt dẫn lên. Nếu bạn muốn có trong một hoạt cảnh duy nhất việc tất yếu phải có sự hạn chế này th́ bạn hăy đi thẳng tới chương XI trong Chí Tôn Ca; ở đây Arjuna không biết ḿnh hỏi điều ǵ, đă mong cầu thấy Đấng Krishna là Chúa tể của Vũ trụ chứ không chỉ thấy h́nh tướng hạn hẹp hơn của Ngài. Sri Krishna đáp ứng lời cầu nguyện của Arjuna, ban cho y thiên nhăn v́ nhục nhăn không thể thấy được Thượng Đế. Bấy giờ Ngài chói sáng huy hoàng giống như hàng ngàn mặt trời cùng một lúc chiếu sáng trên bầu trời, lấp đầy mọi khoảng cao và vực thẳm, trải dài từ đông sang tây, từ bắc xuống nam, mọi thứ bên trong h́nh tướng Ngài – chư Thần linh, con người và vạn vật bên trong một ảnh tượng thiêng liêng huy hoàng khôn tả. Arjuna chưng hửng, hoảng hốt, chấn động, bối rối, bị đè bẹp. Cuối cùng y gào lên khát vọng nhân bản: “Cái sự sống tuôn trào của Ngài làm cho con lúng túng . . . Con lại đành phải chấp nhận Ngài giống như trước kia. Xin Chúa hăy lại khoác lấy h́nh tướng bốn tay chân của Ngài” [29]. Kinh nghiệm của Arjuna là kinh nghiệm phổ biến trên khắp thế giới. Trong khi chúng ta c̣n tăng trưởng th́ Thượng Đế phải tự hạn chế ḿnh thích ứng với kiến thức hạn hẹp của ta, bằng không th́ ta chẳng bao giờ học được cách biết tới Ngài. Bạn không thể tuôn đổ vào trong một cái b́nh chứa nhiều hơn mức b́nh chứa này có thể đựng được; chất lỏng chỉ trào ra mọi phía thôi; và đại dương Brahman không thể tuôn chảy toàn bộ vào những b́nh chứa nhỏ xíu mà chúng ta dâng lên để tiếp nhận nó; chỉ khi b́nh chứa bành trướng ra th́ cái Tự Ngă vô hạn ấy mới có thể càng ngày càng tuôn đổ vào đó.

Thế là ta có trong Ấn Độ giáo những nghi thức, nghi lễ, phép tŕ giới, ảnh tượng, hằng hà sa số dạng thờ cúng thích ứng với vô số loại h́nh hiểu biết và dốt nát của con người. Nhưng chúng đều thích ứng để rút ra được t́nh thương, chúng đều thích ứng để kích thích sự sùng tín, chúng đều thích ứng để mang lại sự sùng bái v́ chính cái thái độ này của linh hồn mới quan trọng chứ không phải cái dạng trí thức mà sự sùng bái được che đậy trong đó. Nhờ vào những phương tiện này, con người dần dần vươn lên tới h́nh ảnh tối cao duy nhất của Đấng vốn là Chúa tể của vũ trụ, họ vươn lên tới quan niệm về Ishvara, đấng Chúa tể tối thượng nhất như. Cũng nhờ phương tiện ấy, người ta ngăn ngừa không cho họ lôi cái quan niệm cao cả về Thượng Đế nhất như xuống cái mức thấp kém ở thời buổi dốt nát sơ khai, biến đấng Chúa tể của vũ trụ thành ra h́nh ảnh của ḷng tham dục con người, vận hành bên trong những hạn chế của con người. Người ta thường nhắc họ nhớ rằng họ không biết được thực tướng của Thượng Đế đâu mà chỉ biết được một tia nho nhỏ của Ngài theo mức độ mà họ có khả năng tiếp nhận được. Khi họ tăng trưởng lên th́ họ mới thích thú nhận ra được rằng Ngài càng tuôn chảy nhiều vào cái quan nịêm mà họ tôn thờ Ngài, làm cho nó bành trướng sáng chói, cao cả lên cho đến khi nó dường như giúp cho họ thấy được sự vinh quang của Ngài. Khi vươn lên tới đấng Ishvara, họ có thể tôn thờ Ngài là Vishnu hoặc bất kỳ hóa thân nào của Vishnu. Họ có thể tôn thờ Ngài là Shiva, bậc đại đạo sĩ yoga, đấng Chủ tể Minh triết. Bấy giờ họ đă đạt được quan niệm về Đấng Nhất Như ẩn bên dưới vạn thù đang biểu lộ.

Bây giờ v́ thời giờ gấp rút cho nên ta phải xét xem mọi điều này thể hiện ra sao trong sinh hoạt cá thể của linh hồn khi xem xét nơi ngoại giới qua những giai đoạn tiến hóa trong ba cơi, tôi dùng cụm từ sinh hoạt cá thể theo nghĩa trọn cả sinh hoạt của linh hồn từ khi nó bắt đầu trải nghiệm làm một hồn người, nghĩa là tạo lập được Kārana Sharīra [30] cho đến khi nó đạt tới Brahman và là phản ánh toàn bích của đấng thiêng liêng. Ấn Độ giáo chia sinh hoạt cá thể ấy ra thành bốn giai đọan lớn được biểu diễn bởi trật tự tứ bội của các giai cấp. Nơi đây ta có sự tiến bộ của hồn cá thể hết giai đoạn này sang giai đoạn khác. Trong Ấn Độ giáo với vai tṛ là chính thể kiểu mẫu của giống dân Aryen, linh hồn đă biến thành một bộ phận của cơ cấu tổ chức xă hội trong quốc gia, nhưng bất cứ nơi đâu mà linh hồn có thể tiến hóa được th́ nó phải trải qua bốn giai đoạn xét về thực tại nội giới chứ không phải kiếp sống nơi ngoại giới. Người ta khiến cho Ấn Độ giáo biểu diễn sự tăng trưởng nội giới qua những h́nh tướng ngoại giới để cho con người có thể học được những sự thật tâm linh bằng cách nh́n thấy những bức tranh nơi ngoại giới. Ta hăy liếc nh́n chúng lần lượt để xem người ta dự tính cho linh hồn học điều ǵ trong mỗi giai đoạn, và môi trường xung quanh đă được thích ứng ra sao với cuộc tiến hóa thăng lên. Giai đoạn thấp nhất là Thủ đà la (Sūdra) khi có ít nghĩa vụ ngoại trừ bổn phận vâng lời và phục vụ. Giai đoạn kế tiếp là Thương nhân (Vaisya) trong đó người ta được phép có của cải, được khuyến khích thu gom của cải và linh hồn phải có tính vị tha trong việc sở hữu của cải; việc sử dụng của cải đúng đắn để phục vụ là bài học của giai cấp này. Rồi tới giai đoạn thứ ba Sát đế lị (Ksattriya) khi người ta coi chính mạng sống là sự hi sinh chứ không chỉ là của cải vật chất mới được hiến tế. Cuối cùng là tới giai cấp Bà la môn, trong đó không một điều ǵ mang tính phù du có khả năng thu hút y và linh hồn ngụ trong cơ thể cuối cùng trên trần thế. Vượt ngoài bốn giai cấp, khi người ta đă trải qua bốn giai cấp này và học hết bài học của chúng th́ ta có Samnyāsin, vốn không có giai cấp, không sử dụng nghi thức, nghi lễ, lửa thiêng, không sử dụng bất cứ điều ǵ thuộc về kiếp sống thoáng qua – đó là vị Samnyāsin trong tâm hồn chứ không nơi bộ quần áo khoác bên ngoài. Y thoát ly hoàn toàn khỏi phàm ngă đến nỗi khi người ta chào y th́ chỉ nói “Namo Nārāyanāya”, nghĩa là ca tụng Thượng Đế nơi y thay v́ chào mừng h́nh tướng bên ngoài.

Hệ thống giai cấp tạo nên cơ cấu tổ chức chính thể của quốc gia; khi được biểu diễn công truyền giáo lư tâm linh làm nảy sinh ra trật tự gồm bốn giai cấp.

Kế đó là phải liếc nh́n vào sinh hoạt phàm nhân nghĩa là sinh hoạt diễn ra trong ba cơi thông qua một chu kỳ sống của phàm nhân một thời kỳ trong mỗi cơi. Ta lại có sự sống biến thiên theo tŕnh độ mà cá thể đạt được nghĩa là theo tŕnh độ trong trọn cả sinh hoạt của linh hồn. Trong giai đoạn sơ khai, y chỉ có sinh hoạt đơn thuần bằng các giác quan với một chút hạ trí và y sẽ mất nhiều thời gian trong Bhuvar-loka, ít thời gian trong Svarga-loka. Khi y tiến bộ về mặt trí thức th́ việc ở lại Bhuvar-loka sẽ ngắn bớt đi, c̣n việc cư trú ở Svarga-loka sẽ dài hơn; các ham muốn của y có bản chất đơm hoa kết trái chủ yếu nơi cơi cao. Ta hăy xét một trường hợp c̣n cao cấp hơn nữa để chứng tỏ sinh hoạt trần thế trong giai đoạn cao nhất trước khi người ta thực hành yoga chân thực, sống sao cho làm giảm thiểu sinh hoạt nơi Bhuvar-loka và kéo dài sự cực lạc nơi Svarga-loka.

Sinh hoạt phàm nhân trên trần thế được chia thành bốn giai đoạn tức Āsramas. Trước hết là sinh hoạt của học viên khi có thể nói là y ôn luyện trong cơ thể mới đủ mọi đức tính mà y phải học tập trong cuộc tiến hóa vừa qua khi y thuộc về giai cấp Thủ đà la: vâng lời, giữ kỷ luật, kính cẩn, tinh khiết, siêng năng, làm tṛn bổn phận với thượng cấp, đây là những biểu hiện của sinh hoạt cần thiết đối với học viên Ấn Độ giáo, tức là giai đoạn đầu tiên trong sinh hoạt phàm ngă. Rồi tới giai đoạn thứ nh́ lập gia đ́nh, con người sống như một công dân, làm chồng làm cha trong một gia đ́nh, chu toàn bổn phận đối với quốc gia cũng như đối với gia đ́nh. Đây là giai đoạn thứ nh́, là trường học của đức tính vị tha được thấu suốt qua tôn giáo. Y phải thi hành mỗi ngày năm buổi hiến tế, hiến tế cho chư Thần linh, cho các Pitris, cho các Rhisis, cho loài người và cho loài thú – chu toàn bổn phận hằng ngày là vị tha, từ thiện. Vậy là người ta đă trả mọi món nợ cho giới vô h́nh cũng như giới hữu h́nh và chu toàn đủ thứ nghĩa vụ hằng ngày. Có thêm những nghi lễ đặc biệt đánh dấu mọi biến cố trong gia đ́nh, những nghi lễ liên quan tới sinh hoạt trước khi ra đời của một đứa trẻ, các nghi lễ lúc ra đời, nghi lễ kết hôn, nghi lễ lúc chết, nghi lễ sau khi chết tiếp dẫn linh hồn sang thế giới vô h́nh – tất cả những thứ này được đề ra là cơ cấu tổ chức tâm linh mà linh hồn phải phát triển bên trong đó. Lư tưởng cao quí nhất của sinh hoạt hôn nhân đă từng được ban cho thế gian thể hiện qua Ấn Độ giáo khi vợ chồng kết hợp với nhau do ái lực tâm linh hơn là do ham muốn xác thịt. Họ cùng nhau chịu ràng buộc trong một cuộc hôn nhân không thể bị xóa bỏ, kết hợp với nhau để phát triển tâm linh, để tăng trưởng tâm linh. Người chồng không thể thực hiện nhiều nghi lễ tôn giáo mà không có người vợ v́ người vợ là Sisyā, đệ tử của người chồng; chồng vừa là Sư phụ vừa là phối ngẫu. Ta hăy xem sinh hoạt diễn ra bên trong gia đ́nh, mối quan hệ hay ho giữa con  với cha, con với mẹ, anh chị em với nhau và v v . . .; tất cả đều được đề ra một cách cẩn thận và có phân biệt, luôn luôn nhắm tới một ư tưởng duy nhất, tức phát triển đức tính mới chớm nở là bác ái tâm linh nơi con người. Thế rồi người ta cứ khăng khăng nói tới những đức tính đạo đức thường xuyên đề cao trong kho tài liệu cao cả vốn quen thuộc với mọi gia đ́nh, đề cao những lư tưởng cao thượng nhất theo đó con người sống cuộc đời tầm thường như bao người khác nhưng vẫn là kịểu mẫu cho đức tính cao quí nhất v́ biểu diễn chính cái sự thanh khiết cao siêu nhất và sự công chính trong sinh hoạt. Có kho tài liệu nào cung cấp để rèn luyện cho những tâm hồn c̣n non trẻ những gương mẫu cao siêu hơn để người ta noi theo trong mọi bộ môn của sinh hoạt nhân loại hay chăng? Liệu con gái của bạn có những gương mẫu nào hay hơn (chẳng hạn như xét về t́nh yêu của người vợ) so với Sītā và Sāvitrī hay chăng? Liệu họ có thể đạt được sự hiểu biết nào mang tính linh hứng cao cả hơn các gương mẫu của Gārgī và Maitreyī ? Liệu bạn sẽ t́m thấy các loại h́nh nhân loại nào vĩ đại hơn, hoàn hảo hơn trong mọi t́nh cảnh sống khác nhau hay chăng? Nếu bạn xét tới những gương mẫu về đức hạnh th́ bạn liệu có kiếm ở đâu ra được một bộ ba nào cao quí hơn ba anh em Rāma, Laksmana và Bharata hay chăng?  Liệu bạn có t́m thấy ở nơi đâu phác họa tuyệt vời hơn về ḷng tận tụy anh em, t́nh thương đối với anh em và việc phục vụ cho anh em hay chăng? Liệu bạn có t́m thấy một t́nh thương nồng nhiệt nào giữa vợ chồng hơn mức giữa Rāma và Sītā hay chăng? Liệu bạn có t́m thấy gương mẫu cao cả của sự thăng bằng tuyệt vời về tâm trí, kiên nhẫn và thanh thản hơn nhà cai trị bị lưu đày Yudhisthira hay chăng? Liệu bạn có thể t́m thấy nơi đâu bổn phận được nhập thể hoàn hảo hơn Bhisma hay chăng khi ông nằm trên bàn chông và tuôn ra minh triết thiêng liêng nhất cho những sinh linh non trẻ hơn bu xung quanh ḿnh? Thế là huấn điều và gương mẫu đă rèn luyện linh hồn, thế là linh hồn đă được dẫn dắt từng giai đoạn một trong việc thực hành hằng ngày. Rồi tới hai giai đoạn cuối cùng trong cuộc  đời, khi người ta đă làm tṛn các bổn phận gia đ́nh – khi sống trong rừng, vợ chồng mang theo ḿnh ngọn lửa gia đạo vốn đă được thắp sáng vào lúc họ kết hôn và để sống ở đó một cuộc đời chiêm niệm an b́nh xa rời trần thế, bỏ mặc những đứa con đă trưởng thành thực thi bổn phận của quốc gia và gia đ́nh; rồi tới giai đoạn cuối cùng ẩn dật, tu khổ hạnh khi linh hồn bị bỏ mặc cho đối diện với đấng Brahman. Đó là sinh hoạt theo thứ tự và lũy tiến, tự chế và đầy đủ tư cách ngơ hầu rèn luyện và phát triển linh hồn cho tới khi mở ra trước mặt nó ba con đường tức Mārgas, việc thực hành yoga bắt đầu trong hai giai đoạn sau này của các kiếp sống trước đó.

Chúng ta đă đạt tới phần ba trong đề tài này là khoa học về yoga, đường lối giúp cho con người đẩy nhanh được cuộc tiến hóa, bành trướng tâm thức và vươn lên hiệp nhất với Đấng Tối Cao. Yoga là giai đoạn cuối cùng trong một cơ tiến hóa mà người ta kiên nhẫn bước trên đó khi càng ngày càng nhận ra được mục tiêu, bắt đầu từ việc thờ cùng các vị Thần linh hạ đẳng [31] thông qua bốn giai cấp, thông qua bốn āsramas măi cho tới khi trực tiếp rèn luyện để giải thoát linh hồn ra khỏi ṿng sinh tử luân hồi.

Như ta vừa mới nói, có ba con đường và mỗi con đường có khoa yoga riêng của ḿnh. Karma Mārga với giai đoạn cuối là Karma Yoga; Jnāna Mārga kết thúc bằng Jnāna Yoga; Bhakti Mārga tận cùng bằng Bhakti Yoga [32]. Đối với cả ba th́ điều kiện tiên quyết cốt yếu là phải chế ngự được các giác quan và kiểm soát được cái trí, nhưng những phương pháp hoàn thành những mục tiêu này lại khác nhau tùy theo con đường.

Trong Karma Mārga, người ta học cách thường xuyên thực hành sinh hoạt hằng ngày; ở nhà y thực hành việc kiềm chế các giác quan tức là xả thân, hi sinh bản thân; y kiểm soát được cái trí qua việc tham thiền hằng ngày, làm việc chính xác và cần cù, dùng những cơ hội thường xuyên để duy tŕ sự định trí và thăng bằng giữa những cơn đăng trí và trong cơn lốc sinh hoạt phàm tục của loài người. Khi trải qua bao nhiêu kiếp cố gắng như thế y đă dọn ḿnh được th́ y bắt đầu Karma Yoga trong đó y học cách hành động coi đó là bổn phận chứ không ham muốn kết quả (điều này gọi là “từ bỏ kết quả của hành động”). Y hoàn thành mọi bổn phận với ḷng trung kiên đầy lương tâm nhưng y không mưu cầu kết quả từ đó, y từ bỏ mọi kết quả. Cuối cùng y thực hiện mọi hành động đó hiến dâng lên Đấng Tối Cao, động cơ thúc đẩy duy nhất của y là thi hành ư chí của Đấng Ishvara. Nhờ đó mặc dù y sống trên thế giới y không bị dính mắc và v́ trong thâm tâm không dính mắc cho nên y là kẻ lang thang. Nhờ đó y mới xây dựng được “túp lều” của ḿnh để có một nơi cô tịch nhằm tham thiền. Nhờ đó y mới thực chứng được “Tự Ngă” thuần túy và việc nó hiệp nhất với mọi Tự Ngă khác, y mới trở thành một Hamsa. Nhờ đó y mới vươn lên khỏi Tự Ngă và trở thành Parama- hamsa [33]. Nhờ từ bỏ và hi sinh y đă diệt được Ahamkāra [34], khi Ahamkāra bị diệt th́ bức màn che khuất mắt y rớt xuống và y thành tựu được Jnāna và Bhakti v́ cứu cánh của ba con đường chỉ là một.

Đối với Jnāna Mārga th́ con người phát triển trí năng bằng cách đeo đuổi việc nghiên cứu trải qua nhiều kiếp cho đến khi y đạt tới mức bắt đầu nhàm chán kiến thức suông và mưu cầu chân lư thường trụ v́ mọi kiến thức chỉ là tia sáng khúc xạ yếu ớt của chân lư. Thế rồi y phải phát triển Viveka tức là sự phân biện giữa điều thực và điều không thực; Vairāgya tức là việc nhận chân điều không thực; Satsampatti tức là sáu đức tính của cái trí – Sama là kiểm soát cái trí, Dama là kiểm soát thân xác, Uparati là khoan dung rộng lượng, Titiksā là nhẫn nhục, Sraddhā là tin tưởng, Samādhāna là quân b́nh; y cũng phải có Mumuksā tức là ḷng khao khát giải thoát khỏi điều phù du và thế rồi với mọi đức tính này y mới là Adhikārin, kẻ xứng đáng được khai tâm vào khoa yoga [35]. Bây giờ y mới theo khoa Jnāna Yoga và v́ phân biệt được sự vô giá trị của điều vô thường cho nên y trở thành Parivrājaka, kẻ lang thang không bị dính mắc do ham muốn, kẻ xuất gia. Nhờ vào tầm nh́n sâu sắc hơn, y mới nhận thức ra điều thường trụ và dựa vào đó là nền tảng vững chắc của ḿnh để trở thành Kuticaka, tức là kẻ ở trong túp lều, ở nơi trú dưỡng an toàn duy nhất. Bấy giờ y mới cảm nhận rơ ràng được ngă thức, nhận thức được “Tư Ngă” và thấy được cũng Tự Ngă ấy ở nơi những người khác, tức là giai đoạn Hamsa. Khi vượt lên trên nó v́ linh nhăn đă được soi sáng và tâm thức đă được bành trướng th́ y trở thành Parama-hamsa, vượt ra ngoài Tự Ngă và nhận thức được “Tôi là Ngài”.

Bhakti Mārga là con đường dành cho linh hồn nào có ḷng luyến ái đối với một khía cạnh đă biểu lộ nào đó của Thượng Đế và những giai đoạn sơ khai của nó là tận tụy sùng tín, yêu thương sâu sắc và kính cẩn. Dần dần th́ linh hồn tiếp thu được những đức tính mà ḿnh tôn sùng, trở thành cái mà ḿnh thờ phụng. Việc không dính mắc đạt được qua sự từ bỏ trong Karma Mārga, đạt được do sự phân biện trong Jnāna Mārga th́ ở con đường này người ta đạt được nó bằng cách trục xuất mọi sự vướng mắc hạ đẳng qua việc chỉ duy nhất dính mắc vào với Chúa; nhờ có t́nh thương nó chinh phục được mọi ham muốn thấp hèn và những ham muốn ấy tàn lụi đi v́ thiếu cấp dưỡng. Sự hi sinh là một hành vi đầy hoan hỉ do ḷng sùng tín, người ta bước qua mỗi một trong bốn giai đoạn bằng t́nh thương; trong mỗi giai đoạn nó đều là phương tiện chủ động để thành tựu cho tới khi t́nh thương vốn tôn sùng t́m thấy được đối tượng để tôn sùng bèn ôm gh́ lấy đối tượng ấy và cảm thấy ḿnh ḥa lẫn vào sự đơn nhất hoàn toàn đối với đối tượng được ḿnh yêu thương.

Thật ra ba con đường ḥa lẫn vào nhau và trong các giai đoạn cao cấp th́ ta không tách rời con đường này ra khỏi con đường kia v́ đạo sĩ của Karma Yoga cũng đầy ḷng Bhakti, và cũng nhờ sự hi sinh y đă tiêu diệt được Ahamkāra, do đó trở nên hoàn toàn minh triết. Mỗi tu sĩ của Jnāna Yoga và Bhakti Yoga đều tiếp nhận các đức tính của khoa Yoga khác. Trong tâm hồn của tu sĩ Bhakti th́ minh triết nảy sinh hồn nhiên, c̣n trong tâm hồn của tu sĩ Jnāna th́ Bhakti đơm hoa kết trái là kết quả tất yếu của thấu thị.

Trong những giai đoạn sau này trên mỗi con đường, ngay khi cần tới sự giúp đỡ của Sư phụ th́ Sư phụ bèn xuất hiện để dẫn dắt linh hồn; con người trở thành một śişya, một chela [36]. Sư phụ không đến với kẻ chưa chuẩn bị, chưa sẵn sàng, mặc dù sự sốt ruột của con người thường kêu gào đ̣i hỏi Ngài có mặt, mà khi nếu Ngài có mặt th́ chẳng ai buồn đếm xỉa tới. Ngài dẫn dắt linh hồn qua những giai đoạn sau này, giúp đỡ điều chỉnh mỗi khi cần thiết, giúp nó khai mở những năng lực riêng, triển khai những tiềm năng thiêng liêng bên trong, vậy là đẩy nhanh quá tŕnh tiến hóa của nó cho đến khi đạt được sự thành tựu. Lúc bấy giờ đến lượt đệ tử trở thành linh hồn được giải thoát, sẵn ḷng và thích hợp để giúp đỡ cho những kẻ chậm tiến hơn tiến lên. Ngài trở thành Jivanmukta [37] vẫn c̣n sống trong thể xác, là cầu nối giữa loài người sinh hoạt trên cơi trần với loài người chú trọng tới tính linh, Ngài là một kênh dẫn t́nh thương và sức mạnh của Thượng Đế tới cho con người. Hoặc Ngài có thể trở thành Videhamukta [38] sống trong thế giới vô h́nh, vẫn c̣n phụng sự cho Đấng Nhất Như, vẫn c̣n thi hành chủ đích của Thượng Đế, phụng sự theo những đường lối khác như là kênh tiếp dẫn sự sống tâm linh đến cho con người. Những đấng đại hùng này trả nợ cho Sư phụ ḿnh  bằng cách phục vụ cho các đệ tử hiện tại và tương lai, cũng giống như các Ngài tiếp nhận sự giác ngộ của chính ḿnh từ các bậc Sư phụ đă được phát triển trong quá khứ. Thế là hết vũ trụ này nối tiếp vũ trụ kia, mỗi vũ trụ trợ giúp vũ trụ hậu bối của ḿnh cho đến khi tư tưởng của ta hết đường diễn tả và năng lực của con người ch́m xuống không thể bay vút lên được nữa.

Đó là cách diễn tả ngắn gọn và bất toàn nhất, đó là tôn giáo đă được lập nên từ thời xa xưa vô thủy và được các bậc Rishis trao truyền. Đó là tôn giáo của bạn, những người đang kế thừa quá khứ, ḍng dơi các Đấng đại hùng! Chừng nào bạn c̣n sống trong tôn giáo ấy th́ bạn c̣n thật sự là thừa kế của các Ngài. Chừng nào bạn c̣n thấy điều này quí báu và thực hành theo nó th́ bạn c̣n đang học bài học tiến hóa do các Ngài giảng dạy và do các Ngài giáo huấn cho mọi người; chừng đó bạn vẫn c̣n lợi dụng được những cơ hội lớn lao hơn các cơ hội được dành cho bất kỳ quốc gia nào khác; những cơ hội mà nếu bạn bỏ qua th́ bạn ắt nuối tiếc khi gặp phải những t́nh huống kém thuận lợi hơn trong nhiều kiếp vị lai.

 

-------------



[1] Tri thức

[2] Nghĩa đen là “các chi nhánh của kinh Phệ Đà”.

[3] Mundakopanisad, II. 2, 10.

[4] Brhadāranyakopanisad, I. 1.1.

[5] Māyā là điều hăo huyền, tất cả những ǵ biến đổi, phù du trái với Thực tại thường trụ, Sự Sống bản thể Nhất Như. V́ vậy nó là gốc rễ của vật chất, vật chất vốn là điều khoác lấy h́nh tướng và thích ứng với những xung lực của sự sống mà nó khoác lấy. Vô minh tức việc không hiểu biết là một tên gọi khác dành cho nó.

[6] Sách đă dẫn, IV, 18, 19, 20.

[7] Như trên, V, 1.

[8] Ishvara là Chúa, là Đấng Brahman trên cương vị cội nguồn của vũ trụ và quyền năng dẫn dắt vũ trụ. Māyā xem ở trên.

[9] Chāndogyopanisad, VI, 14.

[10] Svetāsvataropanisad, I, 14-19.

[11] Như trên, IV, 16.

[12] Đó là Trái đất, Kāma-loka tức Trung giới, Devachan.

[13] Brhadāranyakopanisad, IV, 4,5,7.

[14] Chāndogyopanisad,III, 14.1.

[15] Tâm thức là một đơn vị nhưng nó có thể hoạt động ở trạng thái Jāgrat nghĩa là ở trong thể xác trên cơi Bhūr-loka;hoạt động ở trạng thái Svapna nghĩa là ở trong thể vía trên cơi Bhuvar-loka hoặc hoạt động ở trạng thái Suşupti nghĩa là ở trong thể trí trên cơi Svarga-loka. V́ thế cho nên Jāgrat được gọi là tâm thức tỉnh táo, Svapna được gọi là tâm thức ngủ mê, c̣n Suşupti được gọi là tâm thức ngủ không mơ. Các tên gọi bằng tiếng Việt có thể gây hiểu lầm nếu ta không hiểu rơ sự kiện này.

[16] Thể Vía và thể Hạ trí.

[17] Thể Thượng trí tức thể Nguyên nhân.

[18] Thể Bồ đề tức thể Toàn phúc.

[19] Svetāsvataropanisad, 6, 20.

[20] Ba thuộc tính của vật chất là Hài ḥa (Thanh thản), Hiếu động (Náo động) và Ù ĺ (Quán tính).

[21] Mundakopanisad, II. 2,9.

[22] Brhadāranyakopanisad, IV, 5,6.

[23] Chí Tôn Ca, XII, 5.

[24] Chí Tôn Ca, III, 11.

[25] Ba ảnh tượng tức Tam vị nhất thể.

[26] Chí Tôn Ca,IX, 26.

[27] Như trên, IX, 23.

[28] Như trên, X, 39.

[29] Chí Tôn Ca, XI, 31, 46.

[30] Thể nguyên nhân (thượng trí) trường tồn trong suốt chu kỳ làm người.

[31] Các vị Thần linh hạ đẳng bao gồm các thực thể tinh anh bận rộn với những quá tŕnh của thiên nhiên trên hai cơi thấp nhất.

[32] Con đường hành động, con đường minh triết và con đường sùng tín. Bất cứ ai thuộc về ba con đường này đều có thể thực hành và đạt đến đích nhờ vào khoa yoga tức việc hiệp nhất với Tự Ngă.

[33] Những giai đoạn này được mô tả dưới đây trong Jnāna Mārga.

[34] Ngă chấp, tính chia rẽ.

[35] Đây là những đức tính mà Sri Samkarācārya đ̣i hỏi trước khi cho phép người ta được nghiên cứu về Vedānta, v́ nếu không có khoa yoga th́ người ta không thể nhận thức được Vedānta.

[36] Một đệ tử hoặc một môn đồ.

[37] Linh hồn đă giải thoát.

[38] Đấng đă giải thoát nhưng không mang thân xác.

 

 HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  BOOKS  MAGAZINES